ntm tháng 6-2016.pdf
Post on 28-Jan-2017
234 Views
Preview:
TRANSCRIPT
SOÁ 06/2016
Phát triển lúa gạo: Cần thay đổi tư duy
Nông thôn mới không phải là.... bảng hiệu
Một số biện pháp sản xuất rau màu vụ hè, hè thu năm 2016
Xã vùng cao biên giới có cả trăm tỷ phú đi lên từ nông nghiệp
THÖ VIEÄN TÆNH BAØ RÒA - VUÕNG TAØU
Ñòa chæ: Số 04 - Phạm Văn Đồng - P. Phước Trung - Tp. Bà Rịa
Ñieän thoaïi: 064.3742101; Fax: 064.3742105
Email: thuvienbrvt.vn@gmail.com
Website: http://thuvienbrvt.com.vn & http://thuvienbrvt.vn
BAÛN TIN
NOÂNG THOÂN ÑOÅI MÔÙI
Soá 06/2016
-----------------------------------
PHAÙT HAØNH HAØNG THAÙNG
Trưởng Ban biên tập
TRẦN MINH THẾ
Chịu trách nhiệm nội dung
NGUYỄN QUANG PHI
Biên tập - Trình bày
VŨ HÀ – QUANG SƠN
Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Số 04 - Phạm Văn Đồng - P. Phước Trung
Tp. Bà Rịa
Website:
Email:
MUÏC LUÏC
TIN NÔNG NGHIỆP – NÔNG THÔN
1. Xây dựng Nông thôn mới: Có biểu hiện huy
động quá sức dân……………………………01
2. Phát triển lúa gạo: Cần thay đổi tư duy..........02
3. Tp. Hồ Chí Minh phát triển nền nông nghiệp đô thị
gắn với phong trào nông dân thi đua..................05
VĂN HÓA NÔNG THÔN MỚI
4. Áp dụng KHCN hiệu quả trong xây dựng nông
thôn mới……………………………………..06
5. Vùng “đệ nhất chè” và giấc mơ nông nghiệp
công nghệ cao.................................................08
6. Xây dựng nông thôn mới tại huyện duyên hải
Thạch Hà........................................................10
7. Chư Sê (Gia Lai) xây dựng nông thôn mới…12
8. Nông thôn mới không là bảng hiệu.....……...16
KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP
9. Một số biện pháp sản xuất rau màu vụ hè, hè thu
năm 2016..............................................……..17
10. Rau sạch theo công nghệ Israel là cực kỳ an
toàn? Không hẳn……………………....…….20
11. Kỹ thuật trồng nấm rơm trong nhà……..………22
12. Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng………………25
13. Cải tiến nuôi tôm: Hiệu quả trong hạn mặn...29
14. Sản xuất tảo xoắn……………………...........30
15. Phải thay đổi quy trình kỹ thuật nuôi.………32
NHÀ NÔNG LÀM GIÀU
16. Chuyển trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt…...34
17. Rau hữu cơ trên đất nhiễm mặn...…………..35
18. An Giang: Thu nhập cao từ trồng cải.............36
19. Tỉ phú bưởi da xanh trên đất cà phê.....…………37
20. Xã vùng cao biên giới có cả trăm tỷ phú đi lên từ
nông nghiệp..........……………………………...38
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn
~ 1 ~
Xây dựng nông thôn mới:
Có biểu hiện huy động quá sức dân Ngày 25/05/2016
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho biết như vậy tại Phiên
họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi trình bày báo cáo giám sát việc thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010 - 2015) gắn với tái
cơ cấu ngành Nông nghiệp ngày 25/5.
Xây dựng nông thôn mới không đồng đều
Theo báo cáo giám sát do Chủ nhiệm Ủy ban
Kinh tế Nguyễn Văn Giàu trình bày nêu rõ, đến
ngày 31/12/2015, cả nước có 1.526 xã chiếm
17,1% tổng số xã đạt tiêu chí nông thôn mới và
đến tháng 3/2016, có 1.761 xã chiếm 19,7% đạt
tiêu chí nông thôn mới. Trong 5 năm, cả nước
đã huy động khoảng 851.380 tỷ đồng. Trong
đó, ngân sách Nhà nước bao gồm các chương
trình, dự án khác là 266.785 tỷ đồng chiếm
31,34%, vốn tín dụng là 434.950 tỷ đồng chiếm
51%, huy động từ doanh nghiệp là 42.198 tỷ
đồng chiếm 4,9%, người dân đóng góp là
107.447 tỷ đồng chiếm 12,62%.
Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế
Nguyễn Văn Giàu cho biết, ngân sách Nhà
nước và nguồn lực xã hội huy động cho
Chương trình còn thấp nhiều so với thực
tế. Nhất là, một số địa phương có biểu hiện chạy
theo thành tích nên huy động quá sức dân, nợ
đọng xây dựng cơ bản không có khả năng thanh
toán để lại hậu quả lớn và ảnh hưởng đến chủ
trương xây dựng nông thôn mới của Đảng và
Nhà nước. Theo báo cáo của Chính phủ, số nợ
đọng của 35/41 tỉnh, Tp khoảng 8.600 tỷ đồng.
“Kết quả xây dựng nông thôn mới không đồng
đều. Số xã đạt tiêu chí nông thôn mới ở Đông
Nam Bộ là 46,4%, Đồng bằng sông Hồng là
42,8%, miền núi phía Bắc chỉ đạt khoảng 8,2%,
Tây Nguyên đạt 13,2%, Đồng bằng sông Cửu
Long đạt 16,7%”, ông Nguyễn Văn Giàu nói.
Đề án tái Cơ cấu ngành Nông nghiệp đã
được phê duyệt từ ngày 10/6/2013 triển khai
đến các cấp quá chậm, thậm chí đến nay còn 9
địa phương chưa ban hành đề án, kế hoạch tái
cơ cấu trên địa bàn là Cao Bằng, Thái Nguyên,
Hà Nội, Hải Phòng, Thừa Thiên - Huế, Đắk
Lắk, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Kiên Giang.
Đề nghị xóa nợ đọng cho hợp tác xã
Phát biểu tại phiên họp, Phó Thủ tướng
Vương Đình Huệ cho biết, chủ trương thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp
là hết sức đúng đắn và cần đi sâu hơn trong vấn
đề tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, mở rộng mô
hình hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp.
Cho nên, cần nghiên cứu lí do tại sao hợp
tác xã kiểu cũ không thể chuyển sang mô hình
hợp tác xã kiểu mới được, có phải vì do nợ
đọng cũ tồn đọng, mặc dù đã được xử lý nhưng
vẫn còn tồn tại.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu cho biết,
một số địa phương có biểu hiện chạy theo thành tích nên
huy động quá sức dân, nợ đọng xây dựng cơ bản không
có khả năng thanh toán để lại hậu quả lớn. Ảnh: TN
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn
~ 2 ~
“Đề nghị Quốc hội ban hành nghị quyết cho
phép Chính phủ nghiên cứu xóa số nợ đọng này.
Chúng tôi chưa thống kê cụ thể nhưng số nợ nhỏ
thôi, bởi về pháp lý nếu không giải thể được thì
thành yếu kém”, Phó Thủ tướng đề xuất.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ
và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng
thì cho rằng, vừa rồi có một phong trào khá
lớn là các doanh nghiệp, nhà đầu tư Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài.
“Doanh nghiệp, nhà đầu tư báo cáo lại là
quá trình đầu tư rất hiệu quả, đầu tư sang nhiều
nước như Mỹ, Úc, Nga, Lào, ví dụ như đầu tư
sang Nga hay Mỹ sau 5 - 6 năm đã thu hồi vốn.
Do đó, trong báo cáo này cũng cần phân tích
lại chính sách của ta và bạn có gì khác nhau
để tính lại tác động chính sách”, Chủ nhiệm
Phan Xuân Dũng cho biết.
Chốt thảo luận nội dung này, Phó Chủ tịch
Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị đoàn giám
sát tiếp thu các ý kiến góp ý của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội và Phó Thủ tướng Vương Đình
Huệ, đặc biệt là chuẩn bị tốt một nghị quyết về
vấn đề này, trong đó chỉ rõ những giải pháp
khắc phục những tồn tại, đồng thời tiếp tục
hoàn chỉnh báo cáo để trình Ủy ban Thường vụ
Quốc hội cho ý kiến vào tháng 9 tới, sau đó sẽ
trình Quốc hội khóa 14 vào kỳ họp thứ 2 để tiến
hành giám sát tối cao.
Ngoài ra, trong hôm nay, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội nghe và cho ý kiến về báo cáo kết quả
giám sát bước đầu chuyên đề Hiệu quả thực hiện
chính sách, pháp luật về phát triển khoa học, công
nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, giai đoạn 2005 - 2015 và định hướng phát
triển giai đoạn tới, trong đó chú trọng đẩy mạnh
công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.
Ủy ban Thường vụ cũng cho ý kiến về 2 dự
thảo Nghị quyết về tiêu chuẩn và phân loại đơn
vị hành chính; Nghị quyết quy định về phân
loại đô thị và nghe Hội đồng bầu cử Quốc gia
báo cáo sơ bộ kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Thảo Nguyên
http://thanhtra.com.vn
Báo Thanh tra Việt Nam
Phát triển lúa gạo: Cần thay đổi tư duy Ngày 07/06/2016
Là nước nằm trong “top” đầu XK gạo
trên thế giới, song ngành lúa gạo phát triển
chưa thực sự bền vững, gạo Việt chưa đi
được “xa” khi chất lượng còn hạn chế, giá
bán không cao, đặc biệt người nông dân là
đối tượng trực tiếp sản xuất lúa gạo lại luôn
nằm ở vị trí yếu thế, thiệt thòi.
Nâng vai trò của nông dân
Theo Bộ NN&PTNT: Khối lượng XK gạo
5 tháng đầu năm ước đạt 2,35 triệu tấn, tương
đương giá trị 1,06 triệu USD, giảm 2,1% về
Ảnh minh họa
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn
~ 3 ~
khối lượng nhưng tăng 1,2% về giá trị so với
cùng kỳ năm 2015.
Giá gạo XK bình quân 4 tháng đầu năm đạt
445 USD/tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm
trước. Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ
nhất về thị trường NK gạo của Việt Nam trong
4 tháng đầu năm với trên 36% thị phần. Sau
Trung Quốc, Indonesia là thị trường NK gạo
lớn thứ hai của Việt Nam trong 4 tháng đầu
năm với gần 16% thị phần.
Tại thị trường trong nước, giá lúa gạo biến
động từ ổn định đến giảm nhẹ trong 20 ngày đầu
tháng 5. Tình trạng này xuất phát từ sức ép Thái
Lan tuyên bố xả kho gạo khổng lồ 11,4 triệu tấn.
Theo các thương lái tại khu vực ĐBSCL:
Giá lúa tại một số tỉnh liên tục sụt giảm, sức
tiêu thụ yếu. Cụ thể tại Tiền Giang, Long An,
giá lúa tươi IR50404 hiện chỉ còn khoảng
4.500 - 4.550 đồng/kg, giảm 250 - 300
đồng/kg. Giá gạo nguyên liệu tại thị trường
chợ đầu mối lương thực Bà Đắc, huyện Cái Bè,
tỉnh Tiền Giang cũng nhanh chóng rớt xuống
mức chỉ còn 6.500 - 6.700 đồng/kg so với mức
6.700 - 6.900 đồng/kg.
Đánh giá về việc phát triển ngành hàng lúa
gạo suốt nhiều năm qua, ông Đặng Quang
Vinh, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM) cho rằng, còn khá nhiều bất cập
tồn tại dai dẳng. Đi sâu phân tích chuỗi giá trị
lúa gạo dễ thấy, đối tượng sản xuất, trồng lúa
chủ yếu là nông dân với quy sản xuất mô nhỏ,
thậm chí rất nhỏ khi trung bình chỉ 0,4ha/hộ,
riêng tại ĐBSCL mới đạt mức 1,2ha/hộ. Nông
dân làm ra lúa, song lại thường xuyên bị thương
lái ép giá. Mặc dù vậy, thương lái lại phụ thuộc
các DN XK vì các DN này thường nắm các nhà
máy xay xát cũng như thị trường XK.
“XK hiện chiếm 65-70% sản lượng lúa gạo
tại vùng ĐBSCL. Ai nắm yếu tố XK, người đó
quyết định giá. Vì vậy, xét đến cùng, DN XK
chính là đối tượng có quyền quyết định giá.
Trong số đó, các DN Nhà nước như Tổng Công
ty Lương thực miền Bắc (Vinafood 1) và Tổng
Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) là
các DN chiếm vai trò thống lĩnh. Điều không
hề mới nhưng rất đáng đề cập là trong toàn
chuỗi giá trị lúa gạo, nông dân vất vả, chịu
nhiều rủi ro song hưởng lợi lại ít nhất và lợi
nhuận chủ yếu rơi vào tay DN XK. Vấn đề làm
thế nào để đảm bảo sự công bằng trong chuỗi
giá trị còn khá nan giải”, ông Vinh phân tích.
Liên quan tới vấn đề này, một số chuyên gia
cho rằng, để thực sự đảm bảo cho sự phát triển
bền vững của ngành hàng, cần thực sự nghiêm
túc nhìn nhận, nâng cao vai trò của người nông
dân trong chuỗi giá trị. Điều này có thể được
thực hiện thông qua việc Nhà nước có chính
sách hỗ trợ mở rộng quy mô sản xuất, bỏ hạn
điền, tăng cường trợ cấp và bảo lãnh vay vốn
cho nông dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần
hỗ trợ nông dân đủ khả năng hình thành hợp tác
xã, công ty cổ phần phục vụ hoạt động xát và
XK trực tiếp, giảm phụ thuộc vào DN XK.
Theo ông Vinh, một trong những giải pháp
cần thiết còn là thúc đẩy hình thành sàn giao
dịch lúa gạo và thị trường phái sinh trên sản
phẩm gạo (thị trường tương lai, thị trường
quyền chọn) để ổn định giá bán và tạo điều
kiện cho người trồng lúa bảo vệ quyền lợi của
mình khi có nhiều khách hàng.
Không cần giữ 3,8 triệu ha đất lúa
Theo quy hoạch sử dụng đất giai đoạn
2011-2020, diện tích đất trồng lúa trên toàn
quốc là 3,8 triệu ha. Diện tích này nhằm mục
tiêu luôn đảm bảo an ninh lương thực trong
nước cũng như góp phần đảm bảo an ninh
lương thực trên thế giới. Trong bối cảnh, XK
lúa gạo còn nhiều vấn đề, nhất là về chất lượng,
giá cả, đời sống người nông dân trồng lúa
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn
~ 4 ~
còn khá chật vật, nhiều quan điểm đánh giá, duy
trì 3,8 triệu ha trồng lúa là điều không cần thiết.
Ông Vinh phân tích, Việt Nam đã là nước
XK gạo hàng đầu thế giới, câu chuyện an ninh
lương thực không cần quá lo lắng, điều đáng
quan tâm là những lợi ích thiết thực cho người
nông dân nói riêng, cho phát triển ngành hàng
nói chung. Ở nhiều nơi nên để nông dân lựa
chọn sản xuất cái gì cho phù hợp, hiệu quả.
Yếu tố chất lượng cần được lựa chọn thay cho
số lượng, khuyến khích trồng và XK giống lúa
chất lượng cao dù sản lượng nhỏ.
Ông Tom Kompas, Trường Chính sách
công Crawford, Đại học Quốc gia Úc cũng cho
rằng: Trong điều kiện của Việt Nam, việc giữ
3,8 triệu ha đất trồng lúa là tương đối nhiều.
Nghiên cứu do ông Tom Kompas cùng một số
cộng sự triển khai cho thấy, chuyển đổi một số
diện tích đất lúa để trồng các cây phù hợp hơn sẽ
giúp tăng cường hiệu quả kinh tế và giảm chỉ số
bất bình đẳng giữa các đối tượng trong chuỗi giá
trị lúa gạo của Việt Nam. Cụ thể, nếu chuyển đổi
19% đất lúa trên toàn quốc, ước tính có thể làm
tăng GDP thêm 5,5 tỷ USD trong 20 năm.
Ông Tom Kompas còn đưa ra khuyến nghị
con số chuyển đổi chi tiết cho từng vùng. Theo
đó, tại Đồng bằng sông Hồng, diện tích chuyển
đổi là 6,35-9,71%. Tỷ lệ chuyển đổi ở ĐBSCL
là 8,58-11,75%. Trong các khu vực còn lại, tỷ
lệ chuyển đổi cao hơn nhưng quy mô chuyển
đổi thì nhỏ hơn.
Theo ông Nguyễn Trí Hoàn, Viện trưởng
Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm: Ở
Việt Nam, sản xuất lúa gạo hiệu quả kém
nguyên nhân quan trọng là do ruộng đất quá
manh mún. Để đảm bảo vấn đề an ninh lương
thực thì diện tích trồng lúa ở Việt Nam duy trì
3-3,2 triệu ha là đủ. Do đó, câu chuyện giảm
bớt diện tích trồng lúa là hợp lý. Tuy nhiên,
không cần giảm diện tích ở tất cả các vùng.
Ở vùng Đồng bằng sông Hồng có thể giảm
diện tích trồng lúa để chuyển sang trồng hoa
màu, rau. Ở miền Trung việc chuyển đổi một
phần diện tích trồng lúa sang cây trồng khác
cũng có thể tính toán. Tuy nhiên, riêng vùng
ĐBSCL, diện tích rộng lớn, có nhiều điều kiện
thuận lợi trồng lúa thì nên giữ nguyên.
Một số chuyên gia đánh giá thêm, xét tới
cùng giảm bớt diện tích trồng lúa có thể được,
song điều quan trọng nhất là cần xem xét cụ
thể đối với từng vùng, chuyển từ cây lúa sang
trồng cây gì hoặc làm khác để có lợi hơn thì
mới làm chứ không phải đặt ra bài toán, cứ
chuyển đổi theo phong trào.
Ông Phạm Quang Diệu, Công ty Phân tích và
Dự báo thị trường Việt Nam: Gia tăng XK gạo
tiểu ngạch sang Trung Quốc rất đáng lo ngại.
Từ năm 2010 đến 2015, Việt Nam có 4 thị
trường XK gạo lớn là Trung Quốc, Philippines,
Malaysia và Indonesia, trong đó thị trường
Trung Quốc đóng vai trò ngày càng quan
trọng. Nếu như trước năm 2012, Trung Quốc
chỉ NK chính ngạch khoảng 300 nghìn tấn gạo
từ Việt Nam thì suốt từ năm 2012 đến nay, con
số NK thường xuyên dao động ở mức 1,9-2
triệu tấn/năm.
Điểm đáng lưu ý trong XK gạo sang Trung
Quốc là số lượng gạo xuất theo đường tiểu
ngạch qua biên giới khá lớn. Một số năm gần
đây, trung bình Việt Nam XK tiểu ngạch qua
Trung Quốc 1,5-1,9 triệu tấn/năm, chiếm
khoảng 70-90% so với lượng gạo XK chính
ngạch. Điều đó cho thấy quy mô cũng như sức
ảnh hưởng của gạo tiểu ngạch rất lớn.
Việt Nam mong biến Trung Quốc trở thành
thị trường XK tương tự như Indonesia hoặc
Philippines, có thể ký kết những hợp đồng lớn
để đẩy mặt bằng giá lên cao, tuy nhiên điều
này khá khó khăn. Trung Quốc không bao giờ
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn
~ 5 ~
công bố số liệu NK lúa gạo một cách chính
xác. Thị trường này áp dụng lối NK vừa chính
ngạch vừa tiểu ngạch để có thể đạt mặt bằng
giá NK thấp nhất.
Về lâu dài, việc quy mô XK gạo tiểu
ngạch sang Trung Quốc lớn rất đáng lo ngại,
bởi tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về tồn kho, giá cả,
hình thức thanh toán…
Uyển Như
http://www.haiquan.vn
Báo Hải quan
Tp. Hồ Chí Minh
Phát triển nền nông nghiệp đô thị gắn với phong trào
nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi Ngày 31/05/2016
Để phát triển kinh tế phù hợp trong tiến
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra
nhanh chóng như hiện nay, phong trào nông
dân tham gia xây dựng và phát triển nền nông
nghiệp đô thị được các cấp Hội trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh tích cực triển khai Kế
hoạch số 30-KH/HNDT về tổ chức thực hiện
phong trào nông dân tham gia xây dựng và phát
triển nông nghiệp đô thị, thành Hội tăng cường
công tác phối hợp với Sở Khoa học và Công
nghệ, Cục Sở hữu trí tuệ khảo sát nhu cầu cơ sở
vật chất, ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ của 2.600 hộ nông dân sản xuất kinh
doanh giỏi để xây dựng kế hoạch hỗ trợ cho
nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp; cài
đặt dữ liệu nông nghiệp cho Hội Nông dân
huyện Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè, quận 12;
phối hợp thực hiện phim phóng sự tuyên truyền
vận động nông dân tham gia xây dựng Hợp tác
xã, chăn nuôi bò sữa theo tiêu chuẩn VietGAP;
phóng sự về tác hại của biến đổi khí hậu và
giảm nhẹ rủi ro thiên tai trong sản xuất nông
nghiệp. Ngoài ra, Hội còn phối hợp với Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố
kiểm tra tình hình thực hiện quy định
khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
đô thị tại 5 huyện quận.
Thành Hội phối hợp Hội làm vườn và trang
trại thành phố xây dựng thí điểm mô hình rau
dinh dưỡng tại các xã nông thôn mới trên địa
bàn thành phố nhằm giúp cho các hộ nông dân
có ít đất sản xuất tận dụng khoảng không gian
xung quanh nhà ở xây dựng vườn rau đảm bảo
dinh dưỡng hằng ngày. Hội ND thành phố phối
hợp Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ
cao xây dựng dự thảo Đề án đào tạo nguồn
nhân lực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2016 – 2020.
Bên cạnh đó, Hội hướng dẫn, hỗ trợ 02 mô
hình về xây dựng thương hiệu, nghiên cứu
chuyển giao thiết bị cải tiến quy trình sản xuất
bánh tráng của hội viên Phạm Minh Linh ở xã
Tân Hiệp (huyện Hóc Môn) với mức kinh phí
hỗ trợ gần 250 triệu đồng và hỗ trợ đăng ký
sở hữu trí tuệ và xây dựng thương hiệu cho
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 6 ~
mô hình tưới rau thông qua tin nhắn điện thoại
của hội viên Bùi Ngọc Minh Tâm phường An
Lạc, Quận Bình Tân.
Bên cạnh đó, các cấp Hội tiếp tục phối hợp
tập huấn Quyết định số 13/2113/QĐ-UBND
của Ủy ban nhân dân thành phố về khuyến
khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
đô thị trên địa bàn thành phố giúp nông dân
hiểu và tiếp cận với Quyết định này.
Đến nay đã có 815 quyết định phê duyệt
phương án, 2.026 lượt hộ vay với tổng số vốn
đầu tư 1.186,5 tỷ đồng, tổng vốn vay 726 tỷ
đồng. Hội Nông dân Quận 9 tổ chức tọa đàm
“Nông dân với nông nghiệp đô thị” nhằm định
hướng cho nông dân sản xuất các cây, con có
giá trị kinh tế cao phù hợp với nền nông nghiệp
đô thị trên địa bàn. Các cấp Hội tiếp tục duy
trì, nâng chất Website để định hướng giới thiệu
các sản phẩm mới của nông dân trên địa bàn.
Tính đến nay, trên địa bàn thành phố có
27.047/23.710 hộ đạt danh hiệu nông dân sản
xuất kinh doanh giỏi. Thông qua các câu lạc
bộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, bà con
có cơ hội để gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm trong
sản xuất để phát huy vai trò nòng cốt của nông
dân sản xuất kinh doanh giỏi tham gia xây
dựng nông thôn mới.
Bên cạnh đó, Hội phối hợp với Trung tâm
tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp tổ chức 06 lớp
tập huấn về quy trình thực hành nông nghiệp
tốt trong chăn nuôi, trồng trọt và thủy sản thu
hút gần 700 lượt nông dân tham dự. Hội Nông
dân huyện Cần Giờ tổ chức Hội nghị chuyên
đề “Vai trò của Hội Nông dân trong công tác
giảm nghèo tăng hộ khá”; Hội Nông dân quận
12 nâng cao hiệu quả hoạt động câu lạc bộ
khuyến nông, các tổ ngành nghề hợp tác xã
dịch vụ Nông nghiệp An Phú Đông điểm trưng
bày quảng bá sản phẩm, điểm cà phê khuyến
nông, giúp nông dân nắm được thông tin, thị
trường, giá cả, tạo điều kiện cho nông dân tiêu
thụ sản phẩm; Hội Nông dân 5 huyện ngoại
thành đã tổ chức họp các câu lạc bộ nông dân
sản xuất - kinh doanh giỏi, các hợp tác xã, tổ
hợp tác để lấy ý kiến góp ý cho dự thảo chính
sách hỗ trợ nhằm khuyến khích phát triển, hợp
tác, liên kết sản xuất gắn tiêu thụ nông sản.
Tới đây, thành Hội sẽ tập trung phát triển
nông nghiệp đô thị theo hướng công nghệ cao,
đẩy mạnh chương trình cây, con chủ lực,
từng bước hình thành trung tâm giống của khu
vực. Đồng thời, tăng cường quảng bá và xúc
tiến thương mại nhằm giới thiệu loại hình sản
xuất phù hợp để nông nghiệp đô thị trở thành
nông nghiệp công nghệ cao.
Hoàng Thiện
http://www.hoinongdan.org.vn
Hội nông dân Việt Nam
Áp dụng KHCN hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới Ngày 12/06/2016
Trong giai đoạn 2010-2015, việc ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) đã mang lại hiệu
quả, đóng góp vào thành công trong “Chương trình xây dựng NTM tại BR-VT”. Đây là
đánh giá của các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh tại hội thảo “Phát huy vai trò của KH-
CN trong xây dựng NTM” do Sở KH-CN tổ chức vào sáng 10-6.
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 7 ~
Nhiều mô hình sản xuất mới
Đến cuối năm 2015, BR-VT đã kết thúc giai
đoạn 2 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng NTM với 15 xã đạt 19/19 tiêu chí
NTM. Ông Nguyễn Kim Trường, Phó Giám
đốc Sở KH-CN cho biết, để đạt kết quả trên có
thể kể đến vai trò không nhỏ trong việc áp dụng
KHCN vào sản xuất ở các xã NTM. Qua đó góp
phần nâng cao năng suất sản phẩm nông nghiệp,
tăng thu nhập bền vững cho người dân. Trong 5
năm (2010-2015), thông qua 35 trạm thông tin
KHCN của tỉnh, nhiều giải pháp đã được ngành
KHCN thực hiện nhằm chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi sang loại hình có năng suất, giá
trị kinh tế cao hơn. Đã có hàng trăm mô hình sản
xuất hiệu quả, giúp nâng cao thu nhập cho người
dân như 206 mô hình trồng trọt chăn nuôi, thủy
sản tại huyện Xuyên Mộc; 220 mô hình trồng
trọt, chăn nuôi tại huyện Đất Đỏ…
Trang trại của anh Vũ Ngọc Bích (xã Xuyên
Mộc, huyện Xuyên Mộc) áp dụng thành công
mô hình heo nái nuôi con trên đệm lót sinh học
do Sở KH-CN triển khai. Anh Vũ Ngọc Bích
cho biết, với mô hình này chuồng nuôi heo luôn
khô ráo, sạch sẽ và hoàn toàn không mùi hôi;
heo giảm dịch bệnh: Tỷ lệ heo con bị tiêu chảy
giảm từ 70% (nuôi theo phương pháp cũ) xuống
còn 10% khi nuôi trên đệm lót sinh học; bệnh
viêm phổi và viêm khớp hầu như không có; heo
nái nuôi con mau lên giống... Đặc biệt, heo nái
trong chuồng không còn hiện tượng bị chết đột
ngột do phải thường xuyên tiếp xúc với thuốc
sát trùng định kỳ. Mặt khác, đệm lót sinh học
còn giúp anh tiết kiệm chi phí điện, nước, công
nhân, hạn chế tối đa ruồi và ô nhiễm môi
trường. Một ưu điểm nổi bật của mô hình này
là tỷ lệ heo con cai sữa lúc 21 ngày tăng 10%
so với cách nuôi cũ. Với hiệu quả của mô hình,
trong thời gian tới, trang trại của anh dự kiến sẽ
cải tạo chuồng nuôi cho heo nái nuôi con trên
đệm lót với đàn heo 3.000 con.
Tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm
Trước đây tình trạng tổn thất về sản lượng
trong và sau thu hoạch là một trong những
nguyên nhân làm giảm năng suất. Chẳng hạn
tổn thất sản lượng sau thu hoạch đối với lúa 11-
13%; các loại bắp, màu, trái cây từ 13-15%. Ông
Phạm Ngọc Vũ, Giám đốc Trung tâm Thông tin
và Thống kê KHCN tỉnh cho biết, việc đầu tư ứng
dụng KHCN sau thu hoạch những năm qua tại
một số địa phương đã hạn chế tối đa tổn thất, nâng
cao hiệu quả của sản xuất, ổn định đời sống, thu
nhập của người dân.
Theo ông Đỗ Hữu Hiền, Giám đốc Trung
tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN, thời gian tới, để
phát huy vai trò của KHCN trong xây dựng
NTM, tỉnh cần hỗ trợ đẩy nhanh tốc độ đổi mới
công nghệ trong các ngành, các lĩnh vực then
chốt như công nghệ sinh học, công nghệ bảo
quản và chế biến nông lâm thủy sản, công nghệ
môi trường…. Trong đó, công nghệ sinh học phải
là khâu đột phá, thông qua hoạt động lai tạo, sản
xuất giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng tốt,
hiệu quả kinh tế cao đáp ứng yêu cầu thị trường
và phục vụ nhu cầu xuất khẩu, từng bước tiến lên
công nghệ cao trên cơ sở nâng cao hàm lượng
chất xám trong sản phẩm. “Việc nghiên cứu và
áp dụng những tiến bộ KHCN, trong đó việc
ứng dụng có hiệu quả công nghệ sinh học sẽ làm
thay đổi mạnh mẽ năng suất và chất lượng sản
phẩm cây trồng, vật nuôi, góp phần tích cực
Thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp tại xã An Nhứt
(huyện Long Điền).
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 8 ~
vào việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo
hướng tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện
tích sản xuất”, ông Hiền cho biết thêm.
Còn theo ông Võ Minh Giang, Phó Chủ tịch
Hội Nông dân tỉnh, trong thời gian tới, khi hiệp
định TPP có hiệu lực, một trong những giải
pháp quan trọng để hội nhập là đẩy nhanh tiến
trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát huy
cao hơn những lợi thế của tỉnh BR-VT. Đồng
thời kết hợp với việc ứng dụng KHCN, tổ chức
lại sản xuất để các sản phẩm của tỉnh có khả
năng cạnh tranh cao hơn, chiếm lĩnh thị trường
không bị thua ngay trên sân nhà. “Như vậy, việc
ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp
giúp nông dân giải quyết vấn đề giá thành,
nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ
sinh ATTP, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng
thu nhập của hộ nông dân, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường …, đồng thời góp phần hoàn thành
các mục tiêu chương trình xây dựng NTM”,
ông Giang nói.
Bài, ảnh: NGÔ THANH
http://www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa
Vùng đất “đệ nhất chè” và giấc mơ nông nghiệp công nghệ cao Ngày 6/6/2016
Được ví là vùng “đệ nhất chè”, những năm qua tỉnh Thái Nguyên luôn chú trọng đẩy mạnh
sản xuất cây chè hàng hóa và phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
Từ khi triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới
(NTM), Thái Nguyên lại có thêm điều kiện thuận lợi để đưa
nông nghiệp tiến thêm một bước, góp phần nâng cao thu nhập
cho người dân.
Xây dựng 7 vùng chè trọng điểm
Theo Sở NNPTNT Thái Nguyên, toàn tỉnh hiện có khoảng
21.100ha chè, sản lượng bình quân 195.000 tấn/năm. Tỉnh đã
xây dựng thành công nhãn hiệu tập thể chè Thái Nguyên và hiện
có 775 tổ chức, cá nhân được cấp quyền sử dụng nhãn hiệu này.
Tuy nhiên, có một thực tế là
ngành chè trên địa bàn vẫn chủ
yếu sản xuất theo phương pháp
thủ công truyền thống, quy mô
nhỏ lẻ, manh mún, trình độ sản
xuất của người trồng chè còn
nhiều hạn chế. Thái Nguyên
cũng chưa có quy hoạch vùng
sản xuất nguyên liệu tập trung
Vùng chè Thái Nguyên có nhiều giống chè nổi tiếng thơm ngon, năng suất bình quân đạt 160tạ búp
tươi/ha/năm. Ảnh: T.L
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 9 ~
gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Toàn tỉnh mới có 640ha
chè VietGAP... Ông Hoàng Văn Dũng - Phó Giám đốc Sở
NNPTNT Thái Nguyên cho biết, để ngành chè nói riêng và
nông nghiệp Thái Nguyên phát triển bền vững, đáp ứng được
yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đòi hỏi các cấp, ngành
liên quan phải có lộ trình thích hợp. Theo đó, trong giai đoạn
này tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất, đẩy mạnh
dồn điền, đổi thửa và khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát
triển sản xuất quy mô lớn. Bên cạnh đó, tỉnh cũng tổ chức sản
xuất theo chuỗi giá trị liên kết, từng bước xây dựng các mô hình
nông nghiệp hàng hóa cho thu nhập cao; đào tạo nghề nông
nghiệp cho lao động nông thôn...
Riêng đối với cây chè, ông Dũng cho biết một trong những
giải pháp mang tính đột phá là tỉnh sẽ tăng nhanh diện tích sản
xuất chè an toàn để đến năm 2020, toàn tỉnh sẽ có trên 16.800ha
chè an toàn; xây dựng mô hình chế biến chè công nghệ cao để
nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Đặc biệt là phát triển cơ
sở hạ tầng tại 7 vùng sản xuất chè tập trung theo hướng công
nghệ cao ở các huyện trọng điểm như huyện Đại Từ, Phú
Lương, Định Hoá, Đồng Hỷ, Phổ Yên và Tp. Thái Nguyên.
Đầu tư 3.388 tỷ đồng cho nông thôn mới
Theo báo cáo, trong giai đoạn 2011-2015, tổng vốn ngân
sách đầu tư cho xây dựng NTM tỉnh Thái Nguyên đạt 3.388 tỷ
đồng, chiếm gần 45% tổng chi ngân sách cho đầu tư xây dựng
cơ bản. Nguồn vốn trên đã được tỉnh ưu tiên đầu tư cơ sở hạ
tầng cho những xã gần về đích và các xã đặc biệt khó khăn. Đối
với những xã điểm, tỉnh hỗ trợ 2 tỷ đồng, các xã còn lại được
hỗ trợ 600 triệu đồng.
Để giúp các huyện chủ động cân đối ngân sách, huy động
nguồn lực của địa phương, tỉnh đã thực hiện cơ chế hỗ trợ theo
từng vùng. Theo đó, các huyện đặc biệt khó khăn như Võ Nhai,
Định Hóa, Phú Bình được ngân sách hỗ trợ 80%, các địa
phương còn lại hỗ trợ từ 60 - 70%, riêng Tp. Thái Nguyên và
thị xã Sông Công được hỗ trợ 50%.
Để nâng cao hiệu quả cơ chế hỗ trợ, Thái Nguyên đã triển
khai chương trình mua xi măng trả chậm. Ông Nguyễn Văn Thái
- Phó Giám đốc Sở KHĐT cho biết, phương án này đã được nhân
dân đồng tình ủng hộ rất cao. Sau 4 năm (2012-2015), đã có
208.200 tấn xi măng được tỉnh
hỗ trợ cho các xã để xây dựng
trên 1.000km đường giao
thông nông thôn.
Phương án hỗ trợ xi măng
đã góp phần thúc đẩy phong
trào xây dựng NTM tại các địa
phương, tạo nguồn vốn “mồi”
để huy động người dân đóng
góp trên 887 tỷ đồng, tham gia
gần 2 triệu ngày công lao động,
hiến 346ha đất... đồng thời, đây
cũng là giải pháp giúp các
doanh nghiệp sản xuất xi măng
trên địa bàn gỡ “thế bí” trong
tiêu thụ sản phẩm.
Đánh giá về hiệu quả của
chương trình xây dựng NTM,
ông Nguyễn Văn Thái cho hay:
“Việc “mạnh tay” đầu tư cho
Một số kết quả nổi bật
- 3.388 tỷ đồng là tổng vốn ngân
sách đầu tư xây dựng NTM giai
đoạn 2011 - 2015.
- 2.000 tỷ đồng là tổng vốn đóng
góp của nhân dân, doanh nghiệp.
- 208.200 tấn xi măng đã được
tỉnh hỗ trợ cho các xã để thực
hiện trên 1.000km đường giao
thông nông thôn.
- 346ha là diện tích đất nhân dân
toàn tỉnh đã hiến.
Dự kiến trong giai đoạn 2016 –
2020, nguồn ngân sách T.Ư hỗ
trợ cho xây dựng NTM của Thái
Nguyên khoảng 294,8 tỷ đồng.
Tỉnh Thái Nguyên cũng phấn
đấu sẽ có 70% số xã đạt chuẩn
NTM vào năm 2020.
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 10 ~
chương trình xây dựng NTM đã đem đến sự thay đổi rõ rệt cho
diện mạo các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh, nhất là về cơ
sở hạ tầng. Hiện nay toàn bộ các xã đã có đường bê tông đến
trung tâm, đạt chuẩn về y tế, trụ sở làm việc được đầu tư khang
trang, thu nhập của người dân được cải thiện rõ rệt”.
http://danviet.vn
Theo Dân Việt
Xây dựng nông thôn mới tại huyện duyên hải Thạch Hà Ngày 03/06/2016
Xác định phát triển kinh tế, nâng cao thu
nhập cho người dân là một trong những tiêu
chí và mục tiêu quan trọng trong quá trình
xây dựng nông thôn mới, huyện Thạch Hà (Hà
Tĩnh) luôn chú trọng phát triển các hình thức
tổ chức sản xuất, các mô hình kinh tế hiệu quả
tại các địa phương.
Đổi thay từ mỗi gia đình
Trước kia, khi chưa thực hiện phong trào
xây dựng nông thôn mới, mỗi hộ dân trong xã
Tượng Sơn, huyện Thạch Hà đều phát triển
kinh tế và xây dựng theo kiểu “mạnh ai nấy
làm”, người trồng ngô, người trồng khoai, nhà
xây bờ rào bằng gạch, nhà để bờ rào bằng
cây… Nhưng nay tất cả đã đổi thay khi phong
trào xây dựng khu dân cư nông thôn kiểu mẫu
và vườn mẫu được đưa vào áp dụng.
Không chỉ tạo nên không gian trù phú, hiện
đại cho các vùng quê nông thôn mới, các khu
vườn mẫu ở Tượng Sơn thực sự đã đem lại
nguồn thu nhập đáng kể cho người dân, góp
phần quan trọng và trực tiếp vào quá trình phấn
đấu trở thành xã nông thôn mới (NTM) kiểu
mẫu của địa phương.
Thôn Hà Thanh, một trong những địa phương
khó khăn nhất của xã Tượng Sơn, sau những
năm thực hiện chương trình xây dựng NTM, đặc
biệt là khu dân cư NTM kiểu mẫu, đã đổi thay rõ
nét. Không chỉ có hệ thống hạ tầng kiên cố, hiện
đại, cảnh quan, môi trường xanh, sạch, đẹp, hàng
chục khu vườn mẫu được đầu tư công phu, tạo
điểm nhấn trong bức tranh NTM của xã.
Bà Nguyễn Thị Cử, thôn Hà Thanh phấn
khởi cho biết, “Kể từ khi tham gia làm vườn
mẫu, cùng với làm đẹp cảnh quan khuôn viên,
gia đình đã tận dụng được hết đất đai và đã có
nguồn thu nhập khá trên mảnh vườn của mình.
Với diện tích vườn 1.500m2, tôi đang trồng cây
ăn quả như hồng xiêm, nhãn, bưởi, na, ổi. Rau
ăn quả, mướp ngọt, mướp đắng, rau mồng tơi,
rau dền, thơm các loại, mỗi ngày đi chợ bán
trung bình cũng được 200-300 ngàn”. Mùa
nào thức ấy, người cán bộ hưu này cũng tăng
thêm thu nhập cho gia đình bằng các loại cây
trái, rau củ trong vườn. Bà rất vui khi phong
trào trồng vườn kiểu mẫu được nhân dân trong
xã hưởng ứng, vừa tạo cảnh quan, vừa có tính
chuyên nghiệp cao, các thương lái về xã cũng
sẽ dễ mua vì nhân dân trồng đồng bộ. Đến thời
điểm này, toàn xã Tượng Sơn có 2 khu dân cư
NTM kiểu mẫu và 25 vườn mẫu. Hiện nay, xã
đang tích cực huy động sức dân và các nguồn
lực khác, đồng thời, tổ chức quy hoạch để nhân
rộng các mô hình khu dân cư NTM kiểu mẫu
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 11 ~
và vườn mẫu trên địa bàn toàn xã. Cùng với
quy hoạch về quy mô và hình thức, xã đặc biệt
chú trọng cơ cấu các loại cây trồng phù hợp,
nhằm đảm bảo mỹ quan cho các khu vườn
mẫu, đồng thời, có giá trị kinh tế để nâng cao
thu nhập cho người dân.
Bí thư Đảng ủy xã Tượng Sơn vui mừng
cho biết, nhờ thực hiện phong trào xây dựng
nông thôn mới mà Tượng Sơn đã có sự thay
đổi nhanh chóng và rõ nét nhìn từ mỗi gia đình,
từ mỗi khu vườn và từ các đường làng, ngõ
xóm. Xác định nội dung quan trọng của quá
trình xây dựng nông thôn mới là phải nâng cao
được đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, trong những năm qua, xã đã tập trung xây
dựng được 52 mô hình phát triển kinh tế, điển
hình là 6 vùng sản xuất rau củ quả an toàn với
diện tích gần 30ha cho thu nhập từ 250 đến 300
triệu đồng/ha mỗi năm; 5 mô hình nuôi tôm
thâm canh cho thu nhập trên 1 tỷ đồng mỗi
năm. Xã đã được các chính sách hỗ trợ sản
xuất 2,76 tỷ đồng. Bên cạnh đó đã huy động
các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
và thực hiện các nhóm tiêu chí 150 tỷ đồng.
Riêng việc triển khai khu dân cư kiểu mẫu đã
huy động được hơn 1000 ngày công, phá bỏ 69
vườn tạp, triển khai xây dựng các nhà văn hóa
thôn đạt chuẩn. Xã Tượng Sơn cũng là 1 trong
5 xã đầu tiên trong huyện cán đích xã nông
thôn mới năm 2015.
Huy động mọi nguồn lực xây dựng nông
thôn mới
Không chỉ ở Tượng Sơn, phong trào xây
dựng nông thôn mới diễn ra sôi nổi trên khắp
địa bàn huyện Thạch Hà. Ông Trần Việt Hà,
Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện
Thạch Hà cho biết, phong trào xây dựng nông
thôn mới không chỉ của những người nông dân
mà tất cả hệ thống chính trị đều vào cuộc.
Huyện đã phát động phong trào “Ngày về cơ
sở xây dựng nông thôn mới” vào các ngày thứ
7, chủ nhật hằng tuần, các ban, phòng, ngành,
đoàn thể cấp huyện đã về tận các địa phương
trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc và tham
gia phong trào ra quân phát quang giải tỏa hành
lang an toàn giao thông, nạo vét kênh mương,
chỉnh trang vườn hộ, khu dân cư, vệ sinh môi
trường, tạo được sự đồng thuận, nhất trí cao
trong quần chúng nhân dân.
Với các cơ chế, chính sách khuyến khích
hợp lý, nhiều hộ dân trên địa bàn đã mạnh dạn
vay vốn, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh
tạo sự chuyển biến tích cực trong quá trình
phát triển kinh tế tại địa phương. Trong 03
tháng đầu năm 2016, toàn huyện đã thành lập
mới 15 tổ hợp tác, lũy kế đến nay là 275 tổ hợp
tác; thành lập mới 05 Hợp tác xã, lũy kế đến
nay là 130 hợp tác xã; thành lập mới 01 doanh
nghiệp nâng tổng số doanh nghiệp toàn huyện
lên 203 doanh nghiệp.
Huyện cũng đã chỉ đạo triển khai quyết liệt
Đề án phát triển sản xuất nâng cao thu nhập
cho người dân ở các xã; xây dựng và thành lập
mới 27 mô hình có doanh thu từ 100 triệu
đồng/năm trở lên, trong đó có 06 mô hình lớn,
03 mô hình vừa, 18 mô hình nhỏ. Phong trào
phát triển kinh tế với nhiều hình thức đa dạng
đang được nhân rộng tại các địa phương, từng
bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho
nhiều hộ dân. Tiêu biểu như: mô hình chăn nuôi
Đường làng, ngõ xóm trên địa bàn huyện Thạch Hà
đã được mở rộng và bên tông hóa. (Ảnh: HH)
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 12 ~
lợn nái quy mô 600 con/lứa tại xã Ngọc Sơn,
mô hình chăn nuôi tổng hợp ở xã Thạch Ngọc,
Tổ hợp tác chăn nuôi bò quy mô 100 con ở
thôn Vĩnh Cát, xã Thạch Vĩnh...
Cùng với phát triển kinh tế, nâng cao thu
nhập cho người dân, huyện Thạch Hà cũng đã
tập trung huy động các nguồn lực, xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế, xã hội, nâng cao các hoạt
động văn hóa, môi trường, xây dựng khu dân
cư kiểu mẫu, vườn mẫu.... Tổng nguồn vốn
huy động xây dựng nông thôn mới 3 tháng đầu
năm 2016 là 48,846 tỷ đồng, trong đó vốn ngân
sách huyện là 4,372 tỷ đồng, ngân sách xã
3,913 tỷ đồng, vốn lồng ghép 14,5 tỷ đồng; vốn
tín dụng 5,59 tỷ đồng; vốn doanh nghiệp 6,228
tỷ đồng; vốn nhân dân đóng góp 7,526 tỷ đồng...
Với 4 xã bãi ngang ven biển gồm Thạch Khê,
Thạch Hải, Thạch Đỉnh, Thạch Bàn cũng đã
được các cơ quan, đoàn thể chung tay góp sức
xây dựng đường giao thông đi lại thuận tiện.
Theo ông Trần Việt Hà, đến nay, huyện
Thạch Hà đã có 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 6
xã đạt 10 - 13 tiêu chí; 10 xã đạt 9 tiêu chí; 9 xã
đạt dưới 9 tiêu chí. Năm 2016, huyện phấn đấu
100% xã hoàn thành các tiêu chí: Bưu điện, Hình
thức tổ chức sản xuất, Y tế; mỗi xã có ít nhất 01
khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu; 04 xã đạt
chuẩn gồm: Thạch Đài, Thạch Khê, Thạch Liên,
Thạch Kênh và không còn xã dưới 10 tiêu chí./.
Hiền Nguyễn
http://dangcongsan.vn/
Trang điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Chư Sê (Gia Lai) xây dựng nông thôn mới Ngày 03/06/2016
"Mặc dù là huyện miền núi có nhiều khó khăn, song với quyết tâm cao của toàn Đảng
bộ và nhân dân trong huyện, đến nay, công tác xây dựng nông thôn mới (NTM) trên địa
bàn huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai) bước đầu gặt hái một số thành công quan trọng, tạo đà để
đến năm 2020, huyện sẽ có 80% số xã về đích NTM".
Đó là khẳng định của
đồng chí Nguyễn Hồng Linh
- Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ
tịch UBND huyện, Trưởng
Ban Chỉ đạo Xây dựng NTM
huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai).
Từ năm 2011, huyện Chư Sê
bắt tay vào thực hiện Chương
trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng NTM. Kế hoạch của
Chương trình này là phấn đấu
đến năm 2015 sẽ có 4 xã đầu
tiên của huyện về đích NTM
Đến nay, tại các thôn xóm ở Chư Sê, bên cạnh sự đầu tư của Nhà nước,
người dân địa phương còn đóng góp ngày công, tiền của và cả vườn
ruộng, cây trồng...., để cùng với xã làm đường giao thông nông thôn
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 13 ~
và đến năm 2020 là 11/14 xã,
thị trấn cũng sẽ về đích. Tuy
nhiên, so với điều kiện thực
tế và yêu cầu để thực hiện
của địa phương, Chư Sê gặp
rất nhiều khó khăn nếu
không có các giải pháp đột
phá. Ngay từ đầu, Ban
Thường vụ Huyện ủy đã xác
định, yếu tố nội lực, sự quyết
tâm vào cuộc của hệ thống
chính trị và sự đồng thuận,
đóng góp của nhân dân có ý
nghĩa quyết định để Chư Sê
hoàn thành mục tiêu.
Nhận thức rõ yêu cầu,
thách thức đặt ra, từ tháng
10/2011, Huyện ủy Chư Sê
đã ban hành Chương trình
hành động để chỉ đạo, kêu
gọi các cấp, các ngành và
toàn dân cùng vào cuộc, tích
cực hưởng ứng Chương
trình mục tiêu xây dựng
NTM trên địa bàn. Từ tháng
5/2012, Huyện ủy cũng tiếp
tục ban hành Kế hoạch thực
hiện Quyết định số 196 của
UBND tỉnh Gia Lai về tổ
chức thực hiện phong trào
“Gia Lai chung sức xây
dựng nông thôn mới” để huy
động các nguồn lực từ xã hội
và nhân dân đóng góp cho
chương trình này.
Trong quá trình tổ chức
thực hiện, tại 14/14 xã của
huyện, các địa phương đã
thành lập Ban Chỉ đạo cấp
xã, thôn; nhiều lớp tập huấn, tuyên truyền về xây dựng NTM
được triển khai, giúp đội ngũ cán bộ xã, thôn và người dân nâng
cao nhận thức, triển khai có hiệu quả các mô hình liên quan đến
xây dựng NTM; các phong trào thi đua trong nhân dân được phát
động.., từ đó, ngày càng có nhiều tổ chức, doanh nghiệp và người
dân ủng hộ ngày công, tiền của, đất đai, hoa màu…, cho địa phương
để có thêm nguồn lực xây dựng NTM.
Theo đồng chí Nguyễn Hồng Linh, ngay trong năm đầu tiên bắt
tay vào xây dựng NTM (năm 2011), Chư Sê đã hoàn thành đồ án
quy hoạch và đề án xây dựng NTM để cấp có thẩm quyền phê duyệt,
sau đó công bố rộng rãi để nhân dân biết chủ động thực hiện.
Trên cơ sở các đồ án quy hoạch và đề án của từng xã, cấp ủy,
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở các địa phương đã vào
cuộc khá tích cực, nhất là trong chỉ đạo, áp dụng, triển khai các
mô hình kinh tế có hiệu quả phù hợp với điều kiện của địa
phương; triển khai xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu như:
Đường, điện, trường, trạm, chợ…, phục vụ nhu cầu dân sinh,
đồng thời tạo điểm nhấn để đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội và nâng cao đời sống người dân trên địa bàn.
“Từ năm 2011 đến nay, tất cả 14/14 xã trong huyện đã hoàn
thành việc rà soát diện tích cây trồng tập trung để đưa cơ giới
vào sản xuất, xây dựng các cách đồng mẫu lớn; đồng thời phát
huy, nhân rộng các mô hình trồng trọt, chăn nuôi có hiệu quả,
từng bước mở rộng diện tích canh tác, phát triển mạnh theo
hướng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến,
tạo được nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao như: Hồ tiêu,
Tại các cánh đồng ở Chư Sê, trong mùa khô vừa qua, các con kênh bê tông
do người dân và chính quyền xã xây dựng đã Mang đến những dòng nước
"giải khát", giúp cây trồng vượt qua nắng hạn
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 14 ~
cà phê, ngô, sắn, bông vải…,
mang thương hiệu Chư Sê” -
đồng chí Nguyễn Hồng Linh
- Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ
tịch UBND, Trưởng Ban
Chỉ đạo Xây dựng NTM
huyện Chư Sê chia sẻ.
Theo Phòng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn
huyện Chư Sê, đến nay, toàn
huyện có trên 2.496ha hồ
tiêu gắn với 2 nhà máy chế
biến cung cấp nguyên liệu
hồ tiêu thành phẩm trên địa
bàn với công suất sản xuất
10.000 tấn sản phẩm/năm;
hơn 8.000ha cà phê, đủ cung
cấp nguyên liệu cho 21 cơ sở
chế biến cà phê bột và cà phê
nhân của huyện và tỉnh; hơn
2.150ha ngô, sản lượng đạt
hơn 11.000 tấn/năm, là
nguồn nguyên liệu cung cấp
cho các nhà máy chế biến
thức ăn chăn nuôi trong tỉnh
và một số tỉnh thuộc Tây
Nguyên; gần 950ha sắn là
nguồn nguyên liệu ổn định
hằng năm cung cấp cho nhà
máy sản xuất tinh bột sắn của
tỉnh; hơn 100ha bông vải đủ
công cấp nhiên liệu bông cho
nhà máy bông của huyện.
Trong khi đó, đàn gia súc
trên địa bàn huyện cũng
ngày càng phát triển; nhất là
đàn bò với hơn 18.800 con
(trong đó có 01 trang trại có
tổng đàn hơn 2.000 con, tỷ lệ
bò lai hơn 22%), đàn lợn hơn 40.000 con (có 03 trang trại nuôi
quy mô lớn từ 50 đến 200 lợn nái/trang trại, tỷ lệ lai hơn 60%) là
nguồn nguyên liệu thịt và giống gia súc lớn để đáp ứng nhu cầu
thị trường tại huyện và tỉnh Gia Lai mấy năm trở lại đây.
Đặc biệt, trong 5 năm qua, Chư Sê đã xây dựng được 77 mô
hình phát triển sản xuất có hiệu quả, trong đó tập trung chủ yếu là
trồng trọt và chăn nuôi. Các mô hình sản xuất hiệu quả này đang
được các địa phương tiếp tục nhân rộng, như: Mô hình sản xuất cà
phê bền vững, mô hình trồng hồ tiêu sạch cho thu nhập bình quân
từ 100 đến 140 triệu đồng/hộ/năm, góp phần tăng thu nhập bình
quân đầu người ở khu vực nông thôn của huyện theo từng năm.
Cụ thể năm 2011 là 8,97 triệu đồng/người/năm, đến năm 2015
tăng lên 18,6 triệu đồng/người/năm (tăng gấp đôi).
Tại địa bàn huyện, hiện có 1 hợp tác xã nông nghiệp với 9 tổ
hợp tác tại 9 xã của huyện; 3 tổ hợp tác đánh bắt cá tại xã Ayun,
01 tổ hợp tác sản xuất cà phê tại xã Chư Pơng và các hộ dân là
thành viên tham gia sản xuất cà phê thuộc Công ty cà phê tỉnh.
Ngoài ra, Hiệp hội hồ tiêu Chư Sê là nơi cung cấp các dịch vụ hỗ
trợ kỹ thuật và hướng dẫn các hộ dân sản xuất hồ tiêu đảm bảo
đúng quy trình về hồ tiêu an toàn. Bên cạnh các mô hình sản xuất
trên, theo Ban Chỉ đạo Xây dựng NTM huyện Chư Sê, trong 5
năm qua (2011 - 2015), Chương trình xây dựng NTM trên địa
bàn huyện đã lồng ghép, tổ chức được 58 lớp đào tạo nghề cho
hơn 1.740 lao động nông thôn của huyện; 145 lớp chuyển giao
khoa học - kỹ thuật nông nghiệp cho hơn 5.300 lượt nông dân
tham gia; 02 lớp tập huấn cho 250 lượt đại biểu là người có uy
tín trong đồng bào dân tộc thiểu số của huyện để phổ biến một
số nội dung, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
Từ phong trào xây dựng NTM, tại nhiều xã trạm y tế được nâng cấp, xây
mới,làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân địa phương
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 15 ~
công tác dân tộc, công tác phát
triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc, miền núi.
Để đảm bảo nguồn lực
phát triển cho các mô hình
sản xuất kể trên, trong 5 năm
qua, huyện Chư Sê đã huy
động nhiều nguồn vốn đầu
tư từ Trung ương, tỉnh và địa
phương hơn 1.782 tỷ 021
triệu đồng; trong đó vốn trực
tiếp Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng NTM là
2.170 triệu đồng, vốn lồng
ghép các chương trình có liên
quan 36.040,8 triệu đồng, vốn
nhân dân vay tín dụng để đầu
tư phát triển sản xuất 1.738 tỷ
178,13 triệu đồng, vốn do
doanh nghiệp đóng góp 1.720
triệu đồng, vốn nhân dân đối
ứng 842,6 triệu đồng...
Từ các nguồn vốn đầu tư
trên, đến nay, Chư Sê đã làm
mới, cải tạo và nâng cấp gần
200km đường giao thông
nông thôn; xây dựng mới và
nâng cấp 15 công trình thủy
lợi; kiên cố hóa 43,94km
kênh mương; làm mới và
nâng cấp trên 31km đường
dây điện trung thế và hạ thế;
nâng cấp, xây mới 199 phòng
học các cấp, 18 nhà văn hóa
xã và thôn, làng; xây dựng,
cải tạo, nâng cấp 4 chợ; xây mới 15 công trình cấp nước sinh hoạt,
3 trụ sở làm việc của xã; xóa 1.365 nhà tạm cho các hộ thuộc diện
nghèo và gia đình chính sách.
Tuy nhiên, theo đồng chí Nguyễn Hồng Linh, mặc dù có nhiều
nỗ lực trong thời gian qua, song trên địa bàn huyện, việc xây
dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là tại các xã (thuộc vùng I,
khu vùng II, vùng III) chưa đồng bộ và chưa đồng đều. Đặc biệt,
ở các xã vùng III có tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng khá chậm
do điều kiện kinh tế của nhân dân còn thấp, việc đóng góp đối ứng
và nguồn lực đầu tư còn hạn chế.
Ngoài những nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội, hạ tầng trên
địa bàn, hoạt động của hệ thống chính trị tại Chư Sê mấy năm
gần đây có nhiều chuyển biến đáng kể. Trong đó, các tổ chức cơ
sở đảng trên địa bàn đã được nâng cao chất lượng, đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, từ đó không ngừng nâng cao vai
trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa
phương. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ từ huyện đến xã luôn được kiện
toàn, trưởng thành về nhiều mặt. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ ở cơ sở đạt chuẩn được quan tâm hơn. Hoạt động của Đảng,
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể luôn có sự phối hợp chặt
chẽ và hiệu quả, được nhân dân tin tưởng. Đây cũng là cơ sở, nền
tảng để Chư Sê làm tốt công tác dân vận, xây dựng các phong trào
bảo vệ an ninh, trật tự tại địa phương khá tốt…
Với những nỗ lực trên, đến cuối năm 2015, Ban Chỉ đạo xây
dựng nông thôn mới toàn huyện Chư Sê đã lập hồ sơ đề nghị tỉnh
công nhận 4 xã đạt chuẩn NTM. Ngoài ra, căn cứ vào các tiêu
chí của Bộ tiêu chí Xây dựng NTM do Bộ NN&PTNT đưa ra,
đến nay, Chư Sê có 14/14 xã đạt tiêu chí nhóm I (quy hoạch);
4/14 xã đạt tiêu chí nhóm II (phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội);
04/14 xã đạt tiêu chí nhóm III (kinh tế, tổ chức sản xuất); 04/14
xã đạt tiêu chí nhóm IV (văn hóa, xã hội, môi trường); 8/14 xã
đạt tiêu chí nhóm V (hệ thống chính trị)./.
Bài, ảnh: Đình Tăng
http://dangcongsan.vn
Trang điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
~ 16 ~
Nông thôn mới không phải là… bảng hiệu Báo chí vừa qua tỏ ra lo
ngại khi các địa phương xây
dựng nông thôn mới (NTM)
đang bị đè nặng bởi món nợ
14.000 tỷ đồng, chủ yếu là nợ
xây dựng cơ bản...
Đây là số nợ do chính quyền
các cấp quá sốt sắng hoàn thành
chỉ tiêu xây dựng NTM mà đã
bạo tay đi vay mượn, nó rồi sẽ
quy về đâu? Hay rồi được “bổ
sung” vào nợ công quốc gia?
Con số 14.000 tỷ là không lớn đối với một chương trình
quốc gia có quy mô và tầm cỡ như xây dựng NTM nhưng liệu
rằng mắc nợ để xây dựng NTM thì có đáng? Khắp nơi hô hào
phát động chương trình này nhưng hiệu quả và thực chất của
nó vẫn là vấn đề cần bàn.
Phát biểu trong một hội nghị, TS Trần Đình Thiên - Viện
trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã phải nói rằng: “Không thể
có NTM nếu chỉ xây một cái cổng làng, rồi dựng hai con chó
đá ở hai bên là xong được, mà phải là người dân được cái gì
từ chương trình này”.
Tính hiệu quả là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu chứ
không phải chạy theo các tiêu chí “phần trăm” trên giấy, đưa
ra các giới hạn thời gian về việc hoàn thành các tiêu chí vô hình
tạo áp lực buộc phải đạt được khiến không ít địa phương “lỏng
tay” trong việc bình xét các tiêu chí, không ít trường hợp đánh
giá qua loa, hời hợt.
Điển hình như việc xây cổng, nhà văn hóa thôn, ấp tốn hàng
tỷ đồng để được công nhận đạt các tiêu chí về văn hóa trong
khi tỷ lệ hộ nghèo còn cao chót vót, đời sống thực tế của người
dân còn quá khó khăn là điều không hợp lý.
Nghịch lý hơn, trụ sở văn hóa thôn ấp được đầu tư xây tiền
tỷ nhưng rất nhiều nơi chỉ đóng cửa bỏ hoang, họa hoằn lắm
mỗi tháng chỉ họp hành một lần. Lãng phí này không đáng có
và “động cơ” phê duyệt các công trình thiếu hiệu quả này cần
được minh bạch, công khai.
Cần xác định mục tiêu đầu tư
xây dựng các công trình liên
quan trực tiếp đến đời sống
người dân, như y tế, giáo dục, hỗ
trợ khởi nghiệp, giải quyết các
vấn đề nhức nhối về môi trường
và an toàn vệ sinh thực phẩm…
Nói cách khác phải sử dụng
đồng tiền hiệu quả hơn chứ
không nên “vung tay quá trán”
để chạy theo thành tích được
“gắn bảng” NTM trong khi nợ
ngập đầu!
Nếu không có biện pháp
chấn chỉnh rồi đây chắc chắn số
nợ đọng sẽ không dừng lại ở
con số 14.000 tỷ, trong bối cảnh
bội chi ngân sách và khó khăn
kinh tế hiện nay phải chi tiêu tiết
kiệm chứ không nên lấy hình
thức trụ sở hoành tráng, cổng
chào tiền tỷ làm thước đo.
Cơ sở hạ tầng luôn là nền
tảng và quyết định kiến trúc
thượng tầng, quy luật vốn có là
phải xây dựng nền tảng kinh tế
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 17 ~
vững mạnh, lấy kinh tế là đòn bẩy và sau đó các thiết chế về
văn hóa sẽ hình thành trên nền tảng đó, nhưng hiện nay nhiều
địa phương “nhà nghèo chơi sang” làm ngược lại với quy luật
khách quan.
Lo ngại trước việc nợ đọng xây dựng cơ bản không có khả
năng thanh toán, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc băn
khoăn, hiện nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa phương quá
nhiều, trong khi đó khả năng trả nợ không có. Lo nhất lại chuyển
đổi mục đích sử dụng, bán đất nông nghiệp trả nợ. Không khéo
được cái này thì mất cái kia.
Mục tiêu cuối cùng và tối thượng của NTM là người dân
thoát nghèo, được sống trong một môi trường văn hóa lành
mạnh, được hưởng các dịch vụ y tế, giáo dục tiên tiến và tất cả
những dịch vụ đó được xây
dựng và hình thành trên nền
tảng kinh tế chứ không phải là
cái gì khác.
Người dân không thể nhìn
trụ sở hoành tráng, cổng chào
tiền tỷ mà hết đói hết khổ và
NTM cần thực chất chứ không
phải là cái bảng hiệu gắn trên
mọi con đường.
Ths Trương Khắc Trà
http://nongnghiep.vn
Nông Nghiệp Việt Nam
Một số biện pháp sản xuất rau màu vụ hè, hè thu năm 2016 Ngày 07/06/2016
Sản xuất cây rau màu vụ hè, hè thu trong điều kiện sinh thái, khí hậu của miền Bắc thời
tiết nắng nóng, mưa nhiều, mặt khác gieo trồng cây vụ hè, vụ hè thu diễn ra đồng thời với
thu hoạch lúa đông xuân và gieo cấy lúa mùa. Vì vậy trồng cây vụ hè, hè thu cần chuẩn bị tốt
các điều kiện để sản xuất, thực hiện kỹ thuật thâm canh.
Vụ đông xuân năm 2016 chịu ảnh hưởng
lớn của biến đổi khí hậu, tháng 5 bước vào hè
mà thời tiết mát mẻ như mùa thu, thời tiết
muộn lại khoảng 1 tháng, lúa và rau màu kéo
dài thời gian sinh trưởng, cây ăn quả ra hoa,
kết quả muộn.
Quỹ thời gian từ thu hoạch lúa đông xuân
đến trồng cây vụ đông sớm ngắn nên các địa
phương có cơ hội đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, cơ cấu mùa vụ, trồng cây rau màu
vụ hè, tạo điều kiện mở rộng diện tích cây vụ
đông sớm, nhóm cây ưa nhiệt sẽ cho năng suất
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 18 ~
và hiệu quả kinh tế cao. Việc bố trí sản xuất vụ
hè, vụ hè thu là vụ trung gian giữa vụ đông
xuân với vụ đông có ý nghĩa quan trọng trong
công thức luân canh của năm.
Theo nhận định của Trung tâm Khí tượng
thủy văn Quốc gia về thời tiết vụ mùa năm
2016: Bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực
tiếp vào nước ta tập trung vào những tháng
cuối năm (từ tháng 8 – 11), nắng nóng ở Bắc
Bộ vụ hè không gay gắt như năm 2015, lượng
mưa vụ hè, hè thu cao hơn so với trung bình
nhiều năm.
Sản xuất cây rau màu vụ hè, hè thu trong điều
kiện sinh thái, khí hậu của miền Bắc thời tiết
nắng nóng, mưa nhiều, mặt khác gieo trồng cây
vụ hè, vụ hè thu diễn ra đồng thời với thu hoạch
lúa đông xuân và gieo cấy lúa mùa.
Vì vậy trồng cây vụ hè, hè thu cần chuẩn bị
tốt các điều kiện để sản xuất, thực hiện kỹ thuật
thâm canh. Sau đây xin giới thiệu kinh nghiệm
của nông dân vùng trồng rau màu tập trung với
sản lượng hàng hóa lớn ở huyện Gia Lộc (Hải
Dương) như sau:
1. Quy hoạch vùng sản xuất tập trung
Lựa chọn vùng có cao trình ruộng đất cao,
vàn cao, đất nhẹ, dễ làm, có hệ thống thủy lợi
tưới tiêu thuận lợi, quy mô vùng hợp lý, tối
thiểu 3ha trở lên, có sản phẩm chính như: vùng
dưa lê, vùng dưa hấu, vùng bắp cải, vùng cải
dưa… để tạo ra một khối lượng nông sản hàng
hóa lớn, phát triển các cơ sở thu mua và tiêu
thụ sản phẩm.
Mở rộng quy mô sản xuất của hộ, các doanh
nghiệp với các hình thức thuê, thầu, mượn
ruộng, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất để hạ
giá thành, nâng cao lợi nhuận.
2. Xây dựng các công thức luân canh, mô
hình trồng giống mới, kỹ thuật canh tác mới
Xây dựng công thức luân canh khoa học,
một thửa ruộng, một vùng không trồng một
loại cây trồng nhiều lần, không trồng cây cùng
họ trên cùng một ruộng để giảm sâu bệnh hại
cây trồng. Luân canh giữa cây trồng nước với
cây trồng cạn, luân canh giữa cây họ đậu với
các cây trồng khác để cải tạo đất.
Ví dụ công thức luân canh như sau:
Lúa xuân – Dưa hấu, dưa lê hè – Bắp cải
thu đông.
Dưa xuân – Cây họ đậu – Cây vụ đông
Lúa xuân – Cà pháo – Su hào – Cây vụ đông
khác
Bầu hoặc Bí xuân – Cải dưa – Ngô nếp, Ngô
ngọt, Ngô giống – Rau vụ đông
Cà chua xuân – Rau cải – Lúa mùa – Rau
vụ đông ...
Các giống rau màu mới trong và ngoài nước
ngày càng nhiều, các tiến bộ về phân bón, kỹ
thuật canh tác mới… Cần xây dựng các mô hình
trình diễn với quy mô từ nhỏ đến vừa để nông
dân tham quan, học hỏi các tiến bộ khoa học kỹ
thuật và ứng dụng vào sản xuất.
3. Thời vụ và các giải pháp tranh thủ thời vụ
a. Thời vụ
Địa phương, hộ có trình độ thâm canh, phát
triển các cây rau màu trái vụ, lệch vụ thì sản
xuất khó khăn, chi phí sản xuất cao nhưng giá
trị sản phẩm cao, thị trường tiêu thụ thuận lợi,
đa số các hộ có thu nhập cao như: trồng cần
tây, tỏi tây, cà chua thu đông, dưa lê chất lượng
cao, bí xanh... Các loại rau màu này trồng từ
tháng 5 đến tháng 8.
Căn cứ vào điều kiện tiểu khí hậu của địa
phương để bố trí thời vụ các cây trồng để hạn
chế thiệt hại do mưa lớn gây ra.
b. Các giải pháp tranh thủ thời vụ
* Chuẩn bị tốt các điều kiện cho sản xuất như:
ủ phân chuồng, làm đất bột, các nông cụ...
* Làm bầu ươm cây giống: kích thước bầu
to để tuổi cây giống trong bầu dài hơn so với
vụ hè, vụ hè thu các năm trước.
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 19 ~
* Trồng rau màu xen lúa (rau màu luồn lúa)
hoặc thu hoạch một phần diện tích lúa chín 85
- 90% để làm rạch gieo hạt hoặc đặt bầu cây
rau màu.
* Làm đất tối thiểu.
4. Lựa chọn giống
Bên cạnh một bộ phận nhỏ các giống rau
truyền thống, sử dụng nhiều các giống lai F1
có thời gian sinh trưởng ngắn, chịu nóng tốt,
chịu mưa, chống chịu sâu bệnh tốt, có chất
lượng, sản phẩm đáp ứng với nhu cầu thị
trường, phù hợp với trình độ canh tác và điều
kiện đất đai của địa phương.
Các hộ có trình độ canh tác trung bình trồng
các loại rau màu dễ làm, không yêu cầu kỹ thuật
cao, như dưa lê trồng an toàn hơn so với dưa hấu
(mất đợt hoa này còn đợt hoa khác).
Các hộ có trình độ thâm canh cao, có nguồn
vốn đầu tư nên trồng rau màu giống mới, cây
cho giá trị kinh tế cao, áp dụng các biện pháp
kỹ thuật canh tác mới như: sử dụng màng phủ
nông nghiệp, kỹ thuật bắc giàn cải tiến...
5. Kỹ thuật làm đất
Đối với ruộng trồng màu nhiều vụ cần xử lý
đất: Nên để đất nghỉ tối thiểu 15 ngày, cày bừa
ngả ruộng, rắc 20 - 30kg vôi bột/sào Bắc Bộ bừa
đan 1 - 2 lần rồi rắc 2kg đồng sunphat, bừa tiếp,
để ruộng ngập nước ít nhất 10 ngày nhằm diệt
giun, dế, tuyến trùng, côn trùng và các nấm bệnh,
tàn dư thực vật được phân hủy. Đồng thời cung
cấp nguyên tố trung (Canxi) và vi lượng (Đồng)
cho cây trồng.
Căn cứ vào thành phần cơ giới của đất. Đối
với đất có thành phần cơ giới nhẹ đất dễ bị trăng
lì, gí nên làm đất khi đất còn hơi ướt, không làm
kỹ để khi gặp mưa hoặc đưa nước vào ruộng đất
trong luống vẫn thông thoáng, rễ cây hô hấp tốt,
cây sinh trưởng phát triển tốt.
Đối với đất thịt nặng thì cần làm đất kỹ,
nhỏ, tơi.
Căn cứ vào đặc điểm hệ rễ của cây trồng mà
có kỹ thuật làm đất phù hợp. Đối với cây có hệ
rễ chùm, ăn nông thì làm đất kỹ hơn nhưng bảo
đảm độ thoáng như các cây họ đậu. Đối với cây
có bộ rễ khỏe, phát triển mạnh, ăn sâu, rộng thì
không làm đất kỹ, lật đất đến tầng đế cày, có thể
chỉ làm đất ở phần đặt bầu và làm rãnh thoát
nước như: Bí xanh, Ngô.
Đối với cây chịu nước kém phải lên luống
cao, làm luống mui rùa, làm rãnh thoát nước
tốt. Các cây trồng ưa ẩm, rễ phát triển trong
nước được như: Bí xanh, Dưa chuột…, chỉ cần
gốc cao khi mưa to không bị ngập gốc, không
cần làm rãnh sâu và rãnh thoát nước xung
quanh ruộng.
Trồng cây vụ hè trên đất lúa: rút nước trước
khi thu hoạch lúa khoảng 15 ngày. Nếu gặp mưa
nhiều, tranh thủ thời vụ cày lật đất, xếp luống,
vằm xới mặt luống, trồng ngay trong khi mưa.
6. Làm giàn và che phủ để bảo vệ cây trồng
Sử dụng màng phủ nông nghiệp phủ mặt
luống, đặt mặt bạc lên trên để giữ ẩm tốt, hạn
chế rửa trôi phân bón, cỏ dại và sâu bệnh.
a. Sử dụng khum tre hoặc sắt kết hợp nilon
trắng hoặc vải trắng để bảo vệ rau màu khi
mưa lớn. Khi trời không mưa, nắng nhẹ thì mở
nilon, vải bằng cách buộc túm vải, nilon vào
giữa khum.
Đối với Dưa lê, Dưa hấu, Dưa lê chất
lượng: Vừa phủ màng nilon mặt luống và làm
khum vòm vải hoặc nilon trắng che phủ chống
mưa to, nắng gắt.
b. Đối với cây họ Bầu bí, Cà chua, Ớt, Đậu
đũa: Làm giàn chắc chắn bằng dóc, tre hoặc
kết hợp với lưới cước. Để giảm chi phí, giảm
công lao động, hạn chế bệnh hại, nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm.
7. Bón phân, điều tiết nước
Vụ hè, hè thu mưa nhiều, nhiệt độ cao yêu
cầu bón phân chuồng, phân vô cơ, phân NPK
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 20 ~
phải bón sâu để hạn chế phân bón bị rửa trôi, bay
hơi. Tăng lượng phân chuồng, phân lân và kali.
Chú ý: Khi bón phân lót, nhất là phân đạm
và kali cần bón sâu và xa gốc cây để hạn chế
cây chết do xót phân khi gặp mưa to hoặc đưa
nước vào ruộng sau trồng.
Đối với diện tích vụ trước đã bón phân vi
sinh thì lượng phân bón cần đầu tư cao hơn
khoảng 20% vì hàm lượng chất dinh dưỡng
trong đất đã giảm do cây trồng vụ trước đã khai
thác được các phân bón bị keo đất giữ nhờ có vi
sinh vật phân giải thành các chất dễ tiêu.
Các cây rau màu phần lớn là các cây trồng
cạn, thường xuyên điều tiết nước bảo đảm đủ
ẩm, tiêu thoát nước tốt sau mưa lớn, thực hiện
tưới rãnh là chính, hạn chế tưới nước mặt luống
để giảm sự phát sinh gây hại của nấm bệnh.
Đưa nước vào ruộng sau 3 – 4 giờ rồi tháo cạn,
đối với một số cây trồng như: bí xanh, mướp, Dưa
chuột…, có thể để mực nước nông trong rãnh.
8. Phòng trừ sâu bệnh
Vụ hè, hè thu, sâu bệnh phát sinh gây hại
rau màu nhiều, cần thực hiện biện pháp phòng
trừ tổng hợp, khi phun thuốc BVTV thực hiện
theo nguyên tắc 4 đúng, sử dụng thuốc BVTV
trong danh mục thuốc được phép sử dụng của
Bộ Nông nghiệp và PTNT, tăng cường sử dụng
thuốc sinh học, thuốc thảo mộc, bảo đảm thời
gian cách ly khi thu hoạch sản phẩm để bảo
đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo đảm sức
khỏe người tiêu dùng.
Bùi Văn Viện
http://www.khuyennongvn.gov.vn/
Nguồn khuyennongvn.gov.vn
Rau sạch theo công nghệ Israel là cực kỳ an toàn? Không hẳn Người Israel ăn rau quả được tưới bằng
nước thải tái chế đang gia tăng sự phơi
nhiễm với chất có trong thuốc động kinh.
Chúng ta đều biết rằng Israel có một nền
nông nghiệp phát triển ở trình độ cao. Rất
nhiều công nghệ và quy trình hiện đại được đất
nước này áp dụng trong trồng trọt để khắc phục
sự bất lợi về điều kiện canh tác, điển hình là
thiếu nước ngọt.
Tuy nhiên, một trong số những công nghệ
này đang bộc lộ sự mất an toàn. Cụ thể, tình
trạng khan hiếm nước ngọt đang khiến Israel
tăng cường sử dụng nước thải tái chế để tưới
cho cây trồng. Đồng thời, điều này cũng gia
tăng sự phơi nhiễm hóa chất trong thực
phẩm của họ.
Mới đây, một nhóm nghiên cứu đa ngành
đến từ Đại học Hebrew và Trung tâm Y tế
Hadassah của Israel đã phát hiện: Người ăn rau
quả trồng trong đất tưới bằng nước thải tái chế
bị phơi nhiễm với một chất hóa học có tên
carbamazepine. Hợp chất này có nguồn gốc từ
một loại thuốc chống động kinh, và xuất hiện
nhiều trong nước thải.
Công nghệ tưới nhỏ giọt nổi tiếng của nông nghiệp
Israel.
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 21 ~
"Israel là quốc gia tiên phong trên thế
giới sử dụng nước thải thu hồi và tái chế trong
lĩnh vực nông nghiệp", giáo sư Benny Chefetz
của Khoa Nông nghiệp và thực phẩm môi
trường, Đại học Habrew cho biết. Vì vậy, sẽ là
cần thiết để thực hiện các nghiên cứu đánh giá
sức khỏe của người tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp sử dụng nước thải tái chế có bị ảnh
hưởng. Công trình của giáo sư Chefetz là
nghiên cứu đầu tiên hướng đến mục đích cụ thể
này.
"Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, chúng
tôi đã chứng minh rằng những người khỏe
mạnh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tưới bằng
nước thải tái chế có sự xuất hiện của
carbamazepine và các chất chuyển hóa trong
nước tiểu. Trong khi đó, người ăn rau quả tưới
bằng nước sạch hầu như không phát hiện mức
độ carbamazepine", giáo sư Ora Paltiel, hiệu
trưởng Trường Y tế động đồng thuộc Đại học
Hebrew nói.
Nghiên cứu theo dõi 34 người cả nam và nữ,
được chia làm 2 nhóm. Nhóm đầu tiên được
định hướng tiêu thụ rau quả tưới bằng nước
thải tái chế trong 1 tuần, sau đó chuyển sang
sản phẩm tưới bằng nước sạch. Nhóm thứ 2
thực hiện theo thứ tự ngược lại.
Các tình nguyện viên tiêu thụ các sản phẩm
nông nghiệp gồm: Cà chua, Dưa chuột, Ớt và
Rau diếp. Ngoài ra, họ ăn theo một chế độ bình
thường và uống nước đóng chai được đồng bộ
hóa suốt thời gian nghiên cứu.
Các nhà khoa học thực hiện đo nồng độ
carbamazepine trong sản phẩm tươi đầu vào và
trong nước tiểu của tình nguyện viên sau khi
tiêu thụ chúng. Thời điểm ban đầu trước khi ăn
rau quả tưới bằng nước thải tái chế,
carbamazepine không được phát hiện, hoặc
nếu có đều ở nồng độ rất thấp. Sau 7 ngày,
những người ở nhóm thứ nhất đã phát hiện
mức định lượng rõ ràng của carbamazepine,
nhóm thứ 2 không có sự thay đổi.
Sản phẩm nông nghiệp sử dụng nước thải
tái chế cũng trưng bày một mức độ
carbamazepine cao hơn đáng kể so với sử dụng
nước sạch, giáo sư Paltiel nói. "Rõ ràng những
người tiêu thụ sản phẩm trên đất được tưới bằng
nước thải tái chế đang gia tăng sự phơi nhiễm
với chất có trong thuốc động kinh này. Mặc dù
mức độ phát hiện của nó thấp hơn nhiều so với
bệnh nhân sử dụng thuốc thực sự".
Thêm vào kết luận, giáo sư Chefetz cho
biết: "Đây là bằng chứng cho ý tưởng người
tiêu dùng đang phơi nhiễm với các hợp chất
trong dược phẩm thông qua tiêu hóa sản phẩm
nông nghiệp thương mại". Dữ liệu cung cấp
trong nghiên cứu có thể giúp các nhà hoạch
định chính sách đánh giá mức độ rủi ro cho vấn
đề này. Trong tương lai, nhiều nghiên cứu
tương tự cũng sẽ phải được thực hiện.
http://ttvn.vn
Theo Tri Thức trẻ
Ý tưởng của nghiên cứu được trình bày trong báo cáo
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 22 ~
Kỹ thuật trồng nấm rơm trong nhà hiệu quả cao Ngày 06/01/2016
Vài năm gần đây, nhiều hộ nông dân
ĐBSCL quyết định chuyển từ hình thức trồng
nấm rơm ngoài trời sang trồng trong nhà. Bởi
cách làm này có nhiều lợi thế về năng suất và
ưu điểm hơn.
Ông Nguyễn Thanh Tùng ở ấp Trung Bình
Nhì, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn (An
Giang) cho biết: “Trước đây, kinh tế gia đình
chủ yếu dựa vào SX lúa giống. Cách nay hơn
1 năm, tôi được Trạm Khuyến nông huyện
Thoại Sơn tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ 30%
kinh phí để thực hiện thí điểm mô hình trồng
nấm trong nhà, thấy hiệu quả nên tôi tiếp tục
SX đến giờ”.
Để trồng nấm rơm trong nhà phải trải qua
nhiều công đoạn từ thiết kế kệ để, ủ rơm, đảo
rơm, hệ thống phun tưới… Đang thu hoạch
nấm rơm trong trại, ông Tùng nói: “Trại trồng
nấm tốt nhất là được lợp bằng lá, xung quanh
che chắn bằng bạt, giàn trồng nấm được làm
bằng tre, mỗi giàn có 3 kệ, khoảng cách mỗi kệ
cách nhau 50cm, bề rộng 80cm.
Trồng nấm rơm trong nhà có nhiều ưu điểm
hơn trồng ngoài trời, có thể điều chỉnh nhiệt
độ bằng cách tưới nước trên nền sàn và lớp vải
bạt được che chắn xung quanh. Còn nếu nhiệt
độ lạnh thì mở tấm mê ca trên nóc trại và bạt
xung quanh để cho ánh nắng vào. Đối với nấm
rơm nhiệt độ thích hợp nhất là 30 – 35 độ C, ẩm
độ 80 – 90%. Vào ban đêm trời lạnh thì sử dụng
đèn tròn loại 70W để sưởi ấm”.
Ngoài việc SX theo mô hình trồng nấm
trong nhà, ông Tùng còn chọn hướng canh tác
theo những thời điểm nấm có giá trong năm
để tăng lợi nhuận. “Trồng nấm trong nhà
năng suất cao nhất là vụ đông xuân vì rơm
chất lượng, thời tiết và độ ẩm thích hợp cho
nấm phát triển. Các tháng giêng, tháng 7, 10,
dịp Tết giá nấm từ 80.000 – 100.000 đ/kg nên
tôi chọn vào thời điểm này SX với số lượng
nhiều, các tháng còn lại SX nhỏ lẻ”, ông chia sẻ.
Mặc dù, trồng nấm trong nhà chi phí cao
hơn so với trồng nấm ngoài trời, nhưng năng
suất nấm luôn đứng ở mức cao và ổn định. Vẫn
có thể dự trữ rơm để làm cả mùa nắng, lẫn mùa
mưa. Trời lạnh thì các hộ trồng nấm làm mô rộng
và cao 38cm, còn khi nóng thì 30cm. Theo ước
tính, chi phí mua rơm, vận chuyển, meo, phân
bón, công lao động…, từ 400.000 – 500.000
đồng/công rơm, trừ chi phí cho lợi nhuận 1,5 – 2
triệu đồng/công (chưa tính tiền cất trại).
Trước đây, kinh tế gia đình chủ yếu là làm
lúa giống, ngoài ra ông Tùng còn được thử
nghiệm trồng nấm bào ngư, nấm rơm, nấm
mèo. Nhưng thấy nấm rơm cho hiệu quả hơn
nên chọn nấm rơm.
Sau khi thu hoạch xong nấm, phần rơm rạ
được ông Tùng sử dụng nấm Trichoderma ủ
cho oai mục sau đó dùng để bón cho lúa, phần
còn dư thì bán cho các hộ trồng hoa kiểng để
tăng thu nhập.
Theo ông Tùng, trồng nấm trong nhà nên
xây dựng nền bằng xi măng để sau mỗi vụ thu
hoạch dễ dàng vệ sinh, khử trùng cũng như
trong quá trình canh tác tưới nước, giữ ẩm mà
không bị bùn lầy. Lợp lá thì độ ẩm trong trại
ổn định, nhưng sau mỗi vụ thu hoạch cần tóc
nóc làm vệ sinh.
Mô hình trồng nấm rơm trong nhà đang mang lại
hiệu quả cao.
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 23 ~
Sạp bằng tre thì chất nấm được 1 – 2 năm.
Việc chất nấm trên sạp tre mô nấm rõ nước tốt
sẽ cho năng suất cao. Bình quân 1m mô tới cho
thu hoạch 1 – 1,5kg nấm. Mỗi công rơm cho
20 – 30kg.
Ngoài ra, trồng nấm trong nhà không phải
tốn chi phí rơm đậy (lớp rơm áo) và công thu
hoạch nhiều. Không sợ không cho nấm. Rơm
trong quá trình ủ thì cho vôi vào để khử đi các
loại mầm bệnh, vi khuẩn bất lợi, giúp cho rơm
mau vàng và mau chín. Bình quân 1kg vôi bột
cho 20 lít nước để ủ. Mỗi công rơm tưới
khoảng 3 – 4kg vôi.
Nói về việc ủ rơm, ông Tùng chia sẻ: “Rơm
vụ đông xuân thì từ khi ủ đến chất khoảng 15
ngày, còn vụ hè thu khoảng 10 – 12 ngày, cứ 6
ngày ủ là tiến hành đảo rơm, giúp cho rơm
chín đồng đều. Thường thì chất nấm vào những
tháng nắng nóng thì tưới nước 2 lần/ngày, ít
thì 1 lần. Còn những lúc lạnh thì cách nhau 3
– 4 ngày mới tưới nước. Sau khi chất nấm
khoảng 12 – 14 ngày thì tiến hành thu hoạch.
Nấm ra tập trung nên việc thu hái rất thuận lợi,
chọn hái những nấm to, hình trứng. Thu hoạch
xong đợt 1, tưới nước, chăm sóc cho nấm phát
triển đợt 2”.
Được biết, trước đây, kệ trồng nấm của gia
đình ông Tùng được thiết kế bằng tre, nhưng
bên dưới nền trải bằng lưới cước nên nấm chỗ
bị hư, chỗ không thu hoạch được. Cho nên mấy
vụ SX gần đây, kệ được đóng có khoảng cách
thưa ra để tiện thu hoạch.
Hướng tới đây, ông Tùng sẽ đầu tư hệ thống
phun sương và quạt hút để nâng cao hiệu quả của
việc trồng nấm trong nhà. Mỗi năm, với việc
trồng 150 công rơm trên nền 3 trại, bán với giá
60.000 – 100.000 đ/kg, với vòng quay 3 vụ/năm
sau khi trừ chi phí đem lại nguồn thu nhập trên
200 triệu đồng cho gia đình.
Bà Huỳnh Đào Nguyên, Phó GĐ Trung tâm
KN An Giang cho biết: nhờ trồng nấm rơm
trong nhà, nông dân chủ động được điều kiện
về nhiệt độ, ẩm độ, thị trường vào các thời
điểm dịp lễ tết. Mô hình này chủ yếu được SX
theo kiểu hộ gia đình. Toàn tỉnh hiện có 14 nhà
trồng, diện tích mỗi nhà trồng khoảng 18 –
24m2. Tùy lượng rơm có được hoặc dự trữ, mỗi
năm có thể SX ít nhất 3 – 4 vụ/năm, năng suất
nấm rơm trồng trong nhà cao hơn trồng ngoài
trời khoảng 30%.
Một số kỹ thuật cần lưu ý khi trồng nấm
rơm trong nhà
Cách đây vài năm, phong trào trồng nấm
rơm phát triển khá mạnh ở nhiều địa phương
trong tỉnh, nhất là ở huyện Mộ Đức (với
khoảng hơn 100 hộ dân tham gia, chủ yếu ở
các xã Đức Nhuận, Đức Hòa và Đức Lân). Sau
một thời gian thực hiện, tuy có nhiều hộ thành
công đem lại lợi nhuận cao, nhưng cũng có
không ít hộ thất bại, phải bỏ nghề. Một trong
những nguyên nhân chính là do bà con thực
hiện yếu tố kỹ thuật chưa nghiêm túc.
“Trồng nấm rơm không tốn nhiều tiền đầu tư
nguyên liệu, nhanh thu hoạch, sản phẩm dễ tiêu
thụ, nhất là vào ngày rằm, mồng một. Tuy nhiên
để trồng nấm đạt năng suất cao và chất lượng
nấm tốt thì phải đảm bảo 3 yếu tố. Đó là xử lý
nguyên liệu trước khi cấy meo giống, chất lượng
giống và nhiệt độ trong nhà nấm, …” đó là kinh
nghiệm được đúc kết qua 6 năm làm nghề nấm
của ông Nguyễn Văn Bốn (ở thôn 2, Đức Nhuận).
Bắt đầu sản xuất từ năm 2002, trải qua
không ít lần thất bại, nhưng nhờ sự kiên trì,
chịu khó đúc rút kinh nghiệm, hiện nay vợ
chồng ông Bốn là những người sản xuất nấm
giỏi. Hiện tại gia đình ông có 5 nhà sản xuất nấm
(mỗi nhà khoảng 60m2), cung cấp nấm thường
xuyên cho thị trường (trung bình mỗi tháng
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 24 ~
ông xuất bán khoảng 3 tạ nấm, với giá 35.000
đồng/kg). Ông cho biết: Ngày nào có bao nhiêu
nấm là ông bán hết bấy nhiêu, nhất là vào ngày
rằm, mồng một, nấm thường bán được giá cao
(khoảng 50.000 đồng/kg). Như vậy với giá
nấm dao động từ 35.000 – 50.000 đồng/kg,
hàng tháng ông thu 9-10 triệu đồng từ nấm.
Thành công trong nghề trồng nấm còn có
ông Dương Ngọc Sơn (ở thôn 2, Đức Nhuận).
Đến nay ông đã mở rộng diện tích trồng nấm
lên 1.000m2. Trung bình mỗi tháng ông hái 1,5
tạ nấm, thu về 5 - 6 triệu đồng. Ông Dương cho
biết: “Nghề nấm này không khó nhưng cũng
không dễ, người trồng phải thực hiện đúng
theo quy trình hướng dẫn, mới đạt kết quả. Nếu
không giữ nhiệt độ trong nhà nấm ổn định thì
nấm lên không như ý muốn hoặc bị hư hỏng.
Xử lý nguyên liệu không chu đáo là năng suất
sẽ thấp”. Theo kinh nghiệm của ông Sơn,
trong 5 ngày đầu để bánh rơm lên kệ không
được xê dịch, vì sẽ làm đứt tơ ảnh hưởng đến
năng suất. Nấm là loại mẫn cảm, không để
người lạ vào, dễ bị nhiễm bệnh. Ưu điểm của
nghề trồng nấm là sản xuất quanh năm (kể cả
mùa mưa) miễn làm sao phải đảm bảo được nhiệt
độ thích hợp, để nấm phát triển. Sản xuất nấm tại
nhà vừa tận dụng được phụ phẩm nông nghiệp,
vừa tận dụng được sức lao động nông nhàn.
Đó là hai trong số những hộ thực hiện thành
công mô hình này. Hiện tỉnh ta có khoảng 150
hộ sản xuất nấm đạt hiệu quả kinh tế cao và
đang tiếp tục mở rộng với quy mô lớn hơn (chủ
yếu là ở Nghĩa Hành và Mộ Đức). Tuy nhiên,
con số đó vẫn quá nhỏ so với con số khoảng
500 hộ được Trung tâm Khuyến nông tỉnh triển
khai thực hiện từ năm 2005 đến năm 2007 tại
các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành,
Mộ Đức. Nhưng đến nay nhiều hộ trong số này
đã bỏ nghề, vì trồng nấm không đạt, nấm
không phát triển, bị hư hỏng nặng.
Theo ông Hồ Sỹ Thận – cán bộ kỹ thuật
Trung tâm Khuyến nông tỉnh, thì nguyên nhân
thất bại là do, nhiều hộ dân chưa thực hiện
nghiêm túc các yêu cầu kỹ thuật trong các khâu
sản xuất nấm như không xử lý kỹ rơm, rạ trước
khi ủ, nên bị các loại nấm ký sinh cạnh tranh
dinh dưỡng, gây bệnh, làm cho nấm rơm không
phát triển và chết; không điều chỉnh được nhiệt
độ thích hợp trong các giai đoạn sinh trưởng
của nấm; chất lượng meo nấm không đảm bảo,
bị nhiễm nấm dại; khu vực sản xuất nấm không
được vệ sinh sạch sẽ, ẩm thấp,…
Mặc dù trồng nấm rơm không khó, nhưng
phải kỹ, vì nấm là giống rất ưa sạch. Do đó để
thành công thì yêu cầu trước hết là bà con cần
tuân thủ đầy đủ các khâu trong xử lý nguyên
liệu. Đây là khâu quan trọng, vì nó quyết định
năng suất và chất lượng nấm rơm. Trước khi ủ
phải xử lý rơm qua nước vôi theo hai cách:
Cách 1: Rơm rạ khô được làm ướt trong nước
vôi (3,5-4kg vôi hoà trong 1m3 nước) cho rơm
ngấm đủ nước vớt rơm lên để ráo rồi đánh đống.
Cách 2: Ngâm rơm rạ khô xuống ao, hồ,
mương,…, vớt lên bờ để ráo nước rồi ủ đống.
Trải lớp rơm rạ khô ra sân bãi, phun trực
tiếp bằng máy bơm hoặc ô doa trong nhiều giờ
đến khi rơm rạ đủ ướt sẽ có màu nâu sẫm, lấy
nước vôi tưới lên lần cuối, để rơm ráo rồi đem
ủ,… Ngoài ra, khâu chọn mẹo giống cũng có
ảnh hưởng lớn đến năng suất nấm. Chọn được
mẹo giống tốt, đúng tuổi, không nhiễm tạp
khuẩn, sẽ cho năng suất cao và chất lượng nấm
tốt. Chú ý khi chọn mẹo giống không chọn sử
dụng bịch mẹo có đốm màu nâu, đen, vàng
cam vì đã bị nhiễm nấm dại. Không chọn bịch
meo phía dưới đáy bịch bị ướt, bị nhão và có
mùi hôi chua,…
http://nong-dan.com
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 25 ~
Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng hiệu quả cao Trong điều kiện diện tích đất đai đang bị thu hẹp ảnh hưởng đến việc chăn thả ngoài
đồng, nghề chăn nuôi bò theo hình thức nuôi nhốt là nghề nuôi phù hợp với nhiều địa
phương. Tuy nhiên để nghề chăn nuôi bò nhốt thực sự mạng lại hiệu quả kinh tế cao và
đảm bảo tính bền vững, thì người nuôi cần nắm vững Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng.
1. Kỹ thuật nuôi bò nhốt
chuồng – Chuồng trại:
Mục tiêu là để thuận lợi
cho công tác nuôi dưỡng,
quản lý đàn bò. Xây dựng
chuồng nuôi bò ở những nơi
cao ráo, sạch sẽ, thoáng mát
về mùa hè, ấm áp về mùa
đông. Hướng chuồng xây
theo hướng Nam hoặc Đông
Nam, diện tích chuồng nuôi
bình quân 3-5m2/con. Tuỳ
theo qui mô mà chuồng có
thể xây dựng 1 dãy hoặc 2
dãy. Nền chuồng phải làm
chắc, không láng trơn, có độ
dốc 2-3% về phía rãnh thoát.
Cần trang bị máng ăn, máng
uống dọc theo hành lang,
kích thước máng ăn 60cm x
120cm, cao phía sau 80cm,
cao phía trước 50cm, trong lòng máng hình lòng mo. Kích thước
máng uống dài x rộng x sâu là 60cm x 60cm x 40cm. Rãnh thoát
nước thải thiết kế phía sau rộng 30cm, sâu 30cm, độ dốc 5-8%.
Ngoài ra cần bố trí thêm hố ủ phân hoặc hầm biogas, hệ thống
rèm che cách tầm bò với 1-1,5m, hệ thống cây xanh chống nóng
cho bò trong mùa hè, ....
2. Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng -Vệ sinh thú y:
– Tiêu độc, khử trùng và vệ sinh chuồng trại.
– Vệ sinh phòng bệnh: Thực hiện phương châm “Phòng bệnh
hơn chữa bệnh”. Chuồng trại, máng ăn, máng uống, môi trường
xung quanh và cơ thể bò phải luôn được sạch sẽ. Định kỳ tẩy uế
chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng nuôi, phát quang bờ
bụi, khơi thông cống rãnh, thu gom xử lý chất thải. Tích cực diệt
chuột, dán, ve, ruồi muỗi, hạn chế tối đa các động vật trung gian
truyền bệnh vào khu vực chăn nuôi bò.
– Thức ăn nước uống phải đảm bảo sạch sẽ, an toàn vệ sinh.
– Thường xuyên kiểm tra theo dõi đàn bò khi có dấu hiệu biểu
hiện không bình thường cần can thiệp ngay.
– Tiêm vacxin phòng bệnh đầy đủ các loại bệnh bắt buộc cho
bò 2 lần/năm như: Bệnh tụ huyết trùng trâu bò, lở mồm long
móng,…
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 26 ~
– Chuồng nuôi phải được
làm vệ sinh hàng ngày và phải
được khử trùng định kỳ theo
chế độ phòng bệnh của thú y.
– Sau khi xuất toàn bộ vật
nuôi phải tiến hành khử trùng
toàn bộ chuồng nuôi theo chế
độ tổng vệ sinh và khử trùng
trước khi nuôi lứa mới.
– Trường hợp trong
chuồng nuôi có vật nuôi bị
chết vì bệnh dịch thì phải
thực hiện chế độ khử trùng
cấp bách theo hướng dẫn của
thú y.
3. Kỹ thuật nuôi bò nhốt
chuồng – Tẩy ký sinh trùng
cho bò:
Để bò khỏe mạn lớn nhanh
cần tẩy ký sinh trùng theo các
phương pháp dưới đây:
* Đối với ngoại ký sinh
trùng:
Sử dụng các loại thuốc
có phổ hoạt lực rộng như
Neuguvon hoặc Asuntol hòa
thành dung dịch tắm hoặc
xoa. Pha và sử dụng thuốc
Nevugvon với liều phổ biến
1à 25g/lít nước, bổ sung
50ml dầu ăn và 20g xà
phòng bột lắc đều trước khi
sử dụng. Dùng bình phun
đều lên cơ thể bò, đặc biệt là
vùng bẹn, nách và yếm. Có
thể đeo găng tay, dùng giẻ
để bôi thuốc. Không để
thuốc bám vào người, quần
áo. Không hút thuốc, ăn
uống trong khi pha và bôi thuốc.
* Đối với nội ký sinh trùng:
Sử dụng các loại thuốc có phổ hoạt lực rộng như: Levamisole,
Tetramisole điều trị nội ký sinh trùng đường ruột và Fasinex điều
trị sán lá gan.
Liều lượng: Levamisole 7,5%, dùng 1ml/20kg thể trọng.
Fasinex dùng 1 viên/75kg thể trọng. Cách sử dụng: Cho uống,
trộn vào thức ăn hoặc tiêm theo hướng dẫn.
4. Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng – Khẩu phần ăn cho bò:
Để bò có tốc độ lớn nhanh nhất thì lượng thức ăn đảm bảo
năng lượng cao được ăn vào hàng ngày là 2,5% trọng lượng cơ
thể. Ví dụ, bò nặng 200kg cần khoảng 5kg vật chất khô trong một
ngày, còn thức ăn thô xơ khoảng 15 – 20kg. Khẩu phần hoàn
chỉnh là đủ tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết cho bò. Bò có thể
tự do lựa chọn sau khi đã trộn lẫn hoàn toàn cả hai loại thức ăn
tinh và thô với nhau. Phương pháp cho ăn và tập cho bò ăn thức
ăn tinh vô cùng quan trọng. Lúc đầu nên cho bò ăn nhiều thức ăn
thô xanh, ít thức ăn tinh để bò làm quen với khẩu phần năng
lượng cao. Nếu ngay từ đầu bò ăn nhiều thức ăn tinh có thể bị
chết do ngộ độc axít (acidosis). Thức ăn thô xanh cần sử dựng
kết hợp với thức ăn tinh để tạo ra một khẩu phần ăn hoàn chỉnh.
Khẩu phần ăn cho bò nhốt chuồng bao gồm: thức ăn thô xanh,
phụ phẩm, thức ăn tinh, thức ăn bổ sung khoáng và vitamin. Căn cứ
vào nguồn thức ăn sẵn có để lựa chọn các nguyên liệu chính như sau:
* Thức ăn thô xanh: Các loại cỏ băm nhỏ, thức ăn băm nhỏ ủ
chua, phụ phẩm nông nghiệp băm nhỏ, phụ phẩm công nghiệp
(bã bia, rượu, rỉ mật, bã đậu, bã dứa, vỏ hoa quả) chiếm 55-60%
vật chất khô trong khẩu phần.
* Thức ăn tinh hỗn hợp: Các loại Sắn Nghiền, ngô Nghiền,
khô dầu lạc, bột keo dậu. Thức ăn tinh hỗn hợp…, chiếm 40-45%
vật chất khô trong khẩu phần.
Trên cơ sở các loại nguyên liệu thức ăn trên, bổ sung khoáng
và vitamin phối hợp thành khẩu phần thức ăn tinh hoàn chỉnh để
cho bò ăn theo 4 công thức (xem bảng)
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 27 ~
Để tăng năng suất lao
động, giảm giá thành thức ăn
và tận dụng triệt để nguồn
thức ăn nên đầu tư máy băm
Nghiền thức ăn vào việc chế
biến thức ăn cho bò nhốt.
Hướng dẫn kỹ thuật
nuôi bò thịt
1. Giống:
Giống là một trong
những vấn đề quan trọng
nhất. Giống khác nhau thì
tốc độ sinh trưởng, phát
triển, tích lũy thịt, mỡ khác
nhau: Con lai của bò
Charolaise có tỷ lệ thịt xẻ
cao hơn con lai của bò
Hereford và ngược lại, tổ
chức mỡ của thịt bò
Charolaise thấp hơn thịt bò
Hereford. Bò vàng Việt
Nam có tỷ lệ thịt xẻ là 42%,
tỷ lệ thịt tinh là 31%, trong
khi đó bò thịt Charolaise có
tỷ lệ thịt xẻ 60%, tỷ lệ thịt
tinh là 45%.
Hiện nay trên thế giới
nhiều giống bò có tỷ lệ thịt
xẻ tới 70%, tỷ lệ thịt tinh
trên 50%, giá trị dinh dưỡng
thịt rất cao và rất thơm,
ngon. Ngoài các giống bò
chuyên thịt, ở các cơ sở chăn
nuôi bò sữa, người ta cũng
chọn lọc những bê đực khỏe
mạnh đưa vào nuôi dưỡng
với một chế độ thích hợp để
vỗ béo và giết mổ. Đây
cũng là những nguồn cung
cấp sản phẩm thịt bò chiếm
một tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng thịt bò.
2. Tuổi:
Trong quy trình vỗ béo và giết mổ, hiện nay người ta thường nuôi
bò từ 16 – 24 tháng tuổi với quy trình công nghệ cao để giết mổ.
Tuổi giết mổ khác nhau thì chất lượng thịt cũng khác nhau:
Bê và bò tơ cho thịt màu nhạt, ít mỡ, thịt mềm và thơm ngon hơn.
Bò lớn tuổi cho thịt màu đỏ, đậm, nhiều mỡ, thịt dai hơn và tất
nhiên là không thơm ngon bằng thịt bê tơ. Tỷ lệ các cơ quan nội
tạng sẽ giảm theo tuổi và ngược lại độ béo sẽ tăng dần lên.
3. Giới tính:
Thường thì bò cái thớ thịt nhỏ hơn bò đực, mô giữa các cơ ít
hơn, thịt vị đậm hơn, vỗ béo nhanh hơn. Ngược lại bò đực có tỷ
lệ thịt xẻ cao hơn bò cái cùng độ tuổi vì bò cái có cơ quan sinh
dục phát triển hơn bò đực. Trong quy trình vỗ béo người ta có
thể thiến bò đực lúc 7 – 12 tháng tuổi để vỗ béo, nếu bò thiến
sớm để vỗ béo thì thịt bò sẽ mềm hơn và béo nhanh hơn.
4. Khối lượng lúc giết mổ:
Khối lượng bò đưa vào giết mổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: Giống, khả năng tăng trọng, thời điểm tích lũy nạc lớn nhất,
chế độ nuôi dưỡng, hệ số tiêu tốn thức ăn, thị trường và giá cả…
5. Dinh dưỡng và phương thức vỗ béo:
Kỹ thuật chăn nuôi thâm canh bò thịt hiện nay là chọn lọc
những bê khỏe mạnh của các giống cao sản chuyên thịt, đưa vào
nuôi dưỡng với chế độ thâm canh cao để đạt được khối lượng
giết mổ cao nhất ở giai đoạn bê sinh trưởng với cường độ cao
nhất (dưới 24 tháng tuổi). Các khẩu phần ăn khác nhau sẽ cho tỷ
lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh khác nhau khi giết mổ.
Dù vỗ béo theo phương thức nào, vỗ béo sớm hay vỗ béo
muộn, đối với bò thịt trước khi giết mổ bắt buộc phải có công
đoạn vỗ béo. Vỗ béo là dùng biện pháp dinh dưỡng, chăm sóc
nuôi dưỡng làm cho khối lượng con vật tăng nhanh và phẩm chất
thịt được cải thiện. Thời gian vỗ béo tùy thuộc vào phương thức
vỗ béo, thức ăn, giống, độ béo của bò. Thời gian vỗ béo quá ngắn
thì thịt sẽ nhiều nước, thời gian vỗ béo thích hợp thì chất lượng
thịt sẽ cao hơn.
Khẩu phần thức ăn vỗ béo cho bò giàu đạm và nhiều sắt thì
thịt bò sẽ đỏ đậm, khẩu phần thức ăn có nhiều bột bắp thì mỡ bò
sẽ vàng, thịt thơm ngon và khẩu phần thức ăn có tỷ lệ các phụ
phẩm công nghiệp thì thịt bò có thớ lớn và nhiều mỡ giắt (mỡ
giữa các lớp thịt).
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 28 ~
Điều cần chú ý khi nuôi
bò thịt
Trong và năm gần đây,
ngành chăn nuôi ở Đồng
bằng Sông Cửu Long đã có
những chuyển biến tích cực,
trong đó đáng chú ý là việc
khôi phục và phát triển đàn
bò địa phương. Ngoài ưu thế
về chi phí thức ăn thấp, sử
dụng thúc ăn không cạnh
tranh với người, giải quyết
công lao động nông nhàn.
Nghề nuôi bò còn có một ưu
thế quan trọng là sản phẩm
cuối cùng là bê và thịt có thị
trường tiêu thụ ổn định, giá
cả bảo đảm cho người chăn
nuôi có lãi. Tuy nhiên, để
đảm bảo hiệu quả đạt được
cao nhất, người chăn nuôi cần
biết những yếu tố cơ bản sau:
Đặc điểm sinh lý:
– Với bò đực: Tuổi bắt
đầu phối giống từ 24 – 26
tháng tuổi và thời gian sử
dụng phối giống tất nhất là
từ 2 – 6 năm tuổi.
– Đối với bò cái: Tuổi
thành thục sinh dục 18 – 24
tháng tuổi, chu kỳ động dục
trung bình là 21 ngày, thời
gian mang thai 9 tháng 10
ngày và thời gian động dục
trở lại sau khi sinh con 60 –
70 ngày.
Chọn giống:
Chọn những con tốt, thân
hình vạm vỡ, mình tròn,
phía mông và vai phát triển
như nhau giống hình trụ. Nên biết rõ nguồn góc và tính năng SX
của đòi bố mẹ.
Một số giống bò được nuôi phổ biến tại Việt Nam:
– Giống bò nội: Bò vàng Việt Nam (Bosindicus) .
– Giống bò lai ngoại: Con lai Zêbu (nhóm bò Zêbu gồm các
giống: Redsindhi, Sahiwal, Brah-man đỏ, Brahman trắng,
Ongole).
Chuồng trại:
– Xây dựng nơi cao ráo, thoáng mát và có màng lưới bao xung
quanh chuồng để chống ruồi, muỗi và các côn trùng khác xâm
nhập (trong chăn nuôi hộ gia đình).
– Nền cứng, không trơn trượt và có độ dốc để dễ thoát nước.
– Diện tích tối thiểu: 2,5 – 3m2/con bò thịt.
– Máng ăn và máng uống nên làm bằng xi măng đặt theo chiều
dài hành lang phân phối thúc ăn.
– Cần có biện pháp xử lý phân để hạn chế ô nhiễm môi trường
chung quanh và lây lan cỏ dại.
Thức ăn:
– Nguồn thức ăn chủ yếu của bò gồm các loại cỏ tươi, rơm rạ,
cỏ khô, thức ăn xanh thô và củ, quả…
– Ngoài ra nên sử dụng thức ăn ủ chua hoặc rơm được kiềm
hóa và thức ăn tinh chế chủ động trong việc tìm thức ăn cho bò.
– Trong chăn nuôi bò thịt, mỗi gia đình cần dành 500 –
1.000m2 đất để trống các loại cỏ như cỏ voi, cỏ sả, cỏ lông tây,
cây bình linh…, để lấy thức ăn cho bò.
Chăm sóc, nuôi dưỡng, vỗ béo
– Bò cái chửa: Cần cho ăn uống đầy đủ, tránh cày kéo nặng, đặc
biệt là ở những tháng chửa cuối cùng. Nhu cầu ăn mỗi ngày là: 25
– 30kg cỏ tươi, 2kg rơm, 1 kg thức ăn tinh và 20 – 30g muối.
– Bò cái nuôi con: Ngoài khẩu phần trên, cần cho thêm các
thức ăn củ quả tươi và thức ăn tinh để bò cái tăng khả năng tiết
sữa nuôi con.
– Bê con: Tập cho bê con ăn cỏ khô từ tháng thứ 2, cỏ tươi và
củ quả từ tháng thứ 4 và cai sữa từ tháng thứ 6. Khi trời nắng ấm
nên cho bê con vận động tự do. Nhu cầu ăn mỗi ngày 5 – 10kg
cỏ tươi, 0,2 – 0,3kg thức ăn tinh.
– Bê từ 6 – 24 tháng: Trường hợp nuôi chuồng phải thường
xuyên cho bò, bê ra sân vận động từ 2-4 giờ/ngày. Nhu cầu ăn
một ngày: 10 – 15kg cỏ tươi và cho ăn thêm các thức ăn tận dụng
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 29 ~
khác như ngọn mía, dây
khoai, rơm rạ, cỏ khô, cỏ ủ
chua và củ quả thay thế.
– Để có bò thịt đạt khối lượng cuối cùng khi giết thịt từ 250-
300kg lúc 24 tháng tuổi cần nuôi vỗ béo bò trong khoảng 80-90
ngày trước khi bán bằng thức ăn tinh 1 kg/con/ ngày.
http://nong-dan.com
Cải tiến nuôi tôm: Hiệu quả trong hạn mặn Ngày 17/06/2016
Nuôi tôm quảng canh cải tiến ít thay
nước; nuôi có mái che; trồng cỏ nuôi tôm…,
là những mô hình nuôi cải tiến đang được áp
dụng rộng rãi ở các tỉnh ĐBSCL. Nhằm hạn
chế tình trạng hạn mặn đang diễn ra khốc
liệt và giúp giảm thiệt hại, mang lại hiệu quả
cho người nuôi tôm.
Quảng canh cải tiến ít thay nước
Đây là mô hình đang được nhiều huyện của
tỉnh Cà Mau áp dụng. Một số kỹ thuật đối với
nuôi quảng canh cải tiến đã được Bộ
NN&PTNT khuyến cáo như: Tập trung gia cố
bờ bao, cống để tăng khả năng giữ nước; chủ
động bơm trữ nước vào mương và ao đầm nuôi
khi mực nước cao ở các tuyến kênh; diện tích
ao nuôi thường < 15.000m2; diện tích ao lắng,
xử lý chiếm 10 - 15% diện tích ao nuôi; diện
tích ao ương 200 - 1.000m2; Thả giống với mật
độ phù hợp và cần đạt kích thước 1,5 - 2cm/con
(nuôi chuyên tôm: mật độ thấp hơn 10 con/m2;
nuôi kết hợp cua, cá là 1 - 3 con/m2). Sau 2
tháng, thả tiếp 1 - 2 con/m2 (khoảng cách giữa
hai lần thả giống không quá ngắn). Tôm giống
trước khi thả nên ương trong ao hoặc gièo 10 -
15 ngày để tăng tỷ lệ sống và phát triển tốt.
Thực hiện đầy đủ các quy trình nuôi tôm đúng
khoa học, kỹ thuật và định kỳ bổ sung các chế
phẩm sinh học vào ao nuôi.
Nuôi có mái che
Việc sử dụng các loại lưới che trong ao nuôi
tôm không đỏi hỏi nhiều chi phí đầu tư và công
sức của hộ nuôi. Với các vùng nắng nóng và
hạn mặn kéo dài, người nuôi nên sử dụng các
tấm lưới này để che trên mặt ao tôm ngay từ
đầu vụ. Lưới sử dụng để che ao tôm thường có
độ che phủ 50 - 60% để vừa tránh nắng nóng
vừa đảm bảo ánh sáng cho tôm phát triển tốt.
Người nuôi nên chọn loại lưới có độ bền cao,
trọng lượng nhẹ, thoáng nước tốt, cản nắng mà
không gây ảnh hưởng đến môi trường sống của
tôm. Để sử dụng cho những ao nuôi có diện tích
lớn và thời gian sử dụng lâu dài, nên chọn
những loại lưới có độ bền cao, dễ thi công và
không làm ảnh hưởng đến vệ sinh trên mặt ao.
Hiện, trên thị trường có rất nhiều nhà cung
cấp loại lưới che cho ao nuôi tôm và thủy sản
với các nguồn gốc xuất xứ khác nhau như: Thái
Lan, Đài Loan, Việt Nam…, trong đó, loại lưới
che từ Thái Lan tuy có giá thành đắt nhưng có
nhiều đặc tính vượt trội như độ dốc tốt, độ bền
3 - 5 năm, che nắng 40 - 80%, kích cỡ phổ biến
là (2x100)m, (3x50)m được nhiều người nuôi
Giống cỏ đuôi phụng có khả năng chịu mặn khá tốt được
nông dân Kiên Giang áp dụng hiệu quả
Ảnh: Lê Hoàng Vũ
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 30 ~
tôm sử dụng. Quy trình nuôi tôm có mái che
bằng lưới đang được nhiều người nuôi tôm tại
tỉnh Kiên Giang, Nghệ An áp dụng mang lại hiệu
quả. Bởi, hệ thống lưới che giúp hạn chế ánh
nắng chiếu thẳng xuống ao nuôi, làm giảm chênh
lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm. Đồng thời, giúp
giảm tình trạng bốc hơi nước và giữ độ mặn ổn
định cho ao nuôi, hạn chế tảo phát triển.
Trồng cỏ nuôi tôm
Cỏ được trồng trong ao tôm chủ yếu là cỏ
năn tượng (hến biển). Theo TS Dương Văn Ni,
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm
đa dạng sinh học Hòa An - Trường Đại học Cần
Thơ, trong hệ sinh thái tự nhiên của đầm lầy
ven biển, năn tượng là cây tiên phong phát triển
trên nền bùn nhão, giúp giữ lại lớp phù sa.
Còn trong hệ sinh thái ao nuôi tôm, năn
tượng giúp ổn định nhiệt độ nước và làm giảm
các chất ô nhiễm do thức ăn tôm dư thừa gây
ra. Cỏ năn tượng có thể sống với mật độ rất dày
800 - 1.000 cây/m2, hệ thống rễ chằng chịt của
cây chính là nơi lọc mặn và giữ đất rất tốt.
Trong quá trình phát triển, các chồi non của cây
cũng là nguồn thức ăn của cua, tôm, cá... Ðến
cuối mùa nắng, khi cây lụi dần và chết đi, thân
cây lại cung cấp cho môi trường nguồn chất
hữu cơ quan trọng.
Châu An
http://thuysanvietnam.com.vn
Thủy sản Việt Nam
Sản xuất tảo xoắn Sản xuất tảo phải là nơi có giao thông thuận tiện. Nguồn nước chủ động, không bị ô
nhiễm, thích hợp cho nuôi tảo. Hệ thống điện lưới tốt; lượng chiếu sáng tốt, thích hợp cho
tảo phát triển và giảm được chi phí chiếu sáng.
Thiết kế hệ thống nuôi
Sản xuất tảo phải là nơi có giao thông thuận
tiện. Nguồn nước chủ động, không bị ô nhiễm,
thích hợp cho nuôi tảo. Hệ thống điện lưới tốt;
lượng chiếu sáng tốt, thích hợp cho tảo phát
triển và giảm được chi phí chiếu sáng. Hệ
thống bể nuôi tảo thường có 2 loại là hệ thống
nuôi hở và nuôi kín. Bể được xây dựng bằng xi
măng, gạch cement, gạch bê tông cement có
tính chịu kiềm. Bể thường thiết kế hình chữ
nhật, các góc được vê tròn; cao 50 – 55cm;
mực nước 20 - 30cm; bể xây một bức tường
ngăn hụt ở giữa để tạo dòng chảy trong hệ
thống nuôi. Trong bể ở các quy mô nuôi lớn,
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 31 ~
thường đặt hệ thống cánh khuấy tạo dòng chảy
giúp cho tảo không bị lắng tại các góc của bể
và tảo tiếp xúc tốt hơn với dinh dưỡng, ánh
sáng; giữ cho nhiệt độ nước ổn định.
Chọn giống
Mua giống ở những địa chỉ sản xuất uy tín
và tại các cơ sở nuôi trồng được trang bị các
phòng thí nghiệm để phục vụ cho công tác giữ
và nhân giống. Chọn giống cho năng suất cao,
dễ thu hoạch, dễ thích nghi, có sức chống chịu
tốt với môi trường.
Môi trường
Ánh sáng: Đối với hệ thống nuôi hở cần ánh
sáng tự nhiên, thời gian chiếu sáng có cường
độ đạt khoảng 30% lượng chiếu sáng. Đối với
hệ thống nuôi kín có thể chủ động điều chỉnh
ánh sáng thông qua điều chỉnh hệ thống đèn
hoặc mái che.
Nhiệt độ: Nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển
của tảo xoắn là 350C; kiểm tra nhiệt độ nước 2
lần/ngày.
pH: độ pH cho tảo phát triển tối ưu 8,5 - 9,5.
Tuy nhiên, trong thực tế trong các bể nuôi
thường pH dao động lên tới 10 - 10,5. Kiểm tra
pH trong ngày 2 lần/ngày để có biện pháp xử
lý kịp thời.
Các yếu tố sinh học
Trong quá trình nuôi tảo các sinh vật có thể
xâm nhập vào hệ thống nuôi và gây hại cho tảo.
Cần chú ý xử lý nguồn nước cấp cẩn thận đảm
bảo cho tảo phát triển tốt nhất.
Động vật chân chèo (Rotifers): Tiến hành
diệt luân trùng bằng cách dừng khuấy bể vào
ban đêm, để làm chúng thiếu ôxy rồi chết.
Tảo tạp: Trong hệ thống nuôi có thể bị
nhiễm một số loài tảo khác như tảo silic, tảo
lục... Khi các loại tảo này phát triển mạnh, có
thể tiến hành tắt các máy khuấy sau đó thu vớt
tảo xoắn trên mặt chuyển sang bể nuôi khác;
rồi tiến hành xử lý tảo tạp.
Bổ sung các dưỡng chất
Trong quá trình nuôi cần bổ sung thêm các
dưỡng chất cần thiết cho tảo theo chu kỳ; K/Na
< 5 trong bể là thích hợp nhất và phải ổn định.
Hàm lượng một số cation và anion được bổ
sung trong quá trình nuôi tảo: Na+: 4.380 mg/l;
K+: 642 mg/l; 10 mg/l; Fe2+: 0,8 mg/l; CO32-
: 2.800 mg/l; NO3-: 614 mg/l; PO43-: 80 mg/l;
SO42-: 350 mg/l.
Ảnh hưởng của kim loại nặng và các chất
độc khác: As, Pb, Cu, Ni, Zn, thuốc trừ sâu,
thuốc diệt cỏ…, đều gây độc cho tảo. Cần loại
bỏ các chất độc hại này ra khỏi nguồn nước
trước khi đưa vào bể để sản xuất tảo.
Thu hoạch tảo
Khi sinh khối tảo đạt > 750 mg/l thì tiến
hành thu hoạch; nên để sinh khối tảo đang sinh
trưởng còn lại > 300 mg/l. Thời gian bắt đầu
thu hoạch thường sau khi xuống giống khoảng
7 - 10 ngày và quá trình nuôi, thu hoạch kéo
dài liên tục 3 - 4 tháng thì thu toàn bộ, làm vệ
sinh bể và chuẩn bị nuôi đợt mới.
Châu An
http://thuysanvietnam.com.vn
Theo Thủy sản Việt Nam
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 32 ~
Phải thay đổi quy trình kỹ thuật nuôi Ngày 08/06/2016
Hiện nay, đã có một số quy trình kỹ thuật cao được áp dụng ở nước ta đó là quy trình
nuôi tuần hoàn, quy trình biofloc. Điểm mấu chốt của các quy trình này là có hệ thống xử
lý chất thải... - PGS.TS Trương Quốc Phú (Trưởng Khoa Thủy sản, ĐH Cần Thơ)
Trong năm 2012-2013 và
những năm tiếp theo có
điểm chung tôm nuôi ở
ĐBSCL bị thiệt hại chủ yếu
do hai loại bệnh là hoại tử
gan tụy cấp do vi khuẩn
Vibrio parahaemolyticus và
bệnh đốm trắng do virus
WSSV.
Chuyển tôm từ ao ương
vèo ra thả nuôi trên diện
rộng
Bệnh hoại tử gan tụy cấp
thường xảy ra vào đầu vụ
trong thời tiết nắng nóng và
bệnh đốm trắng thường xảy
ra vào cuối vụ khi bị các đợt
mưa dầm hoặc gió mùa đông
bắc bắt đầu thổi. Tuy nhiên,
có sự khác biệt khá rõ về
dịch bệnh xảy ra trong năm
2012-2013 và những vụ tôm
của các năm sau, đặc biệt là
vụ tôm năm 2015-2016.
Trong vụ tôm năm 2012-
2013 bệnh hoại tử gan tụy
cấp gây thiệt hại rất nặng nề
ở đầu vụ nuôi, tỉ lệ diện tích
nuôi bị thiệt hại do bệnh
đốm trắng rất thấp so với
diện tích bị thiệt hại do bệnh
hoại tử gan tụy cấp, cuối vụ
thì hầu hết nông dân trúng
mùa và được giá.
Trong khi đó, các năm tiếp theo bệnh hoại tử gan tụy cấp và
bệnh đốm trắng xảy ra rải rác và tỉ lệ thiệt hại do hai bệnh trên là
gần như nhau, diện tích tôm nuôi bị thiệt hại không cao như diện
tích tôm bị thiệt hại năm 2012-2013.
Ngoài ra, trong những năm gần đây trong các vùng nuôi tôm
xuất hiện một số bệnh mới gây hiện tượng tôm chậm lớn như
bệnh vi bào tử trùng (EHP), bệnh Laem Singh Virus (LSNV)…,
tuy các bệnh trên không gây chết tôm nhưng cũng gây thiệt hại
đáng kể cho người nuôi tôm.
Diễn biến khác, diện tích nuôi tôm công nghiệp tăng quá
nhanh trong khi quy trình kỹ thuật nuôi không có nhiều thay đổi,
điều này đã dẫn đến môi trường bị ô nhiễm, dịch bệnh xuất hiện
thường xuyên và trầm trọng hơn. Hiện nay, phần lớn nông dân
áp dụng quy trình nuôi hở, nước và bùn thải cuối vụ nuôi hầu như
được thải trực tiếp ra sông rạch, điều này làm cho môi trường
xung quanh bị ô nhiễm và mầm bệnh phát tán rộng hơn.
Mặc dù, cơ quan quản lý và các nhà khoa học khuyến cáo khi
ao tôm bị bệnh, nông dân không được xả nước và bùn ra môi trường
mà phải xử lý khử trùng để tránh mầm bệnh lây lan.
Tuy nhiên, việc này không được thực hiện nghiêm, nước của
ao tôm bệnh bị xả ra kênh rạch, một số hộ nuôi khác kế cận lại
lấy nguồn nước này vào ao nuôi của mình, điều này đã làm dịch
bệnh phát sinh trên diện rộng. Như vậy, để nuôi tôm bền vững
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp
~ 33 ~
và hạn chế dịch bệnh phát
sinh, người nuôi tôm cần phải
thay đổi quy trình kỹ thuật
nuôi tiên tiến hơn.
Hiện nay, đã có một số
quy trình kỹ thuật cao được
áp dụng ở nước ta đó là quy
trình nuôi tuần hoàn, quy
trình biofloc. Điểm mấu
chốt của các quy trình này là
có hệ thống xử lý chất thải
và tái sử dụng nước, hoàn
toàn không xả chất thải ra
môi trường xung quanh. Nếu
quy các quy trình này được
áp dụng rộng rãi thì chúng ta
hoàn toàn có thể hạn chế
thiệt hại do dịch bệnh gây ra.
Vào đầu mùa mưa năm
2016, theo dự báo dưới tác
động của hiện tượng La
Nina sẽ có nhiều mưa hơn,
có thể xuất hiện nhiều đợt
mưa dầm và nhiệt độ sẽ
giảm nhanh, điều này ảnh
hưởng rất lớn đến vụ tôm
chính năm nay.
Nhiệt độ và độ mặn giảm
là hai yếu tố cần được đặc
biệt lưu ý, nhiệt độ và độ
mặn giảm nhanh sẽ gây sốc
cho tôm, sức khỏe của tôm
bị suy giảm tạo điều kiện
cho mầm bệnh tấn công gây
bệnh tôm, đặc biệt bệnh
đốm trắng và các bệnh do virus khác. Để hạn chế rủi ro do bệnh
người nuôi tôm cần thực hiện một số biện pháp sau: Giữ mức
nước trong ao đủ sâu, khoảng 1,5m hoặc sâu hơn.
Mực nước sâu sẽ giúp nhiệt độ và độ mặn ít biến động hơn.
Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp, trong đó có bốn khâu
quan trọng như nhau: Cải tảo và xử lý tốt ao nuôi vào đầu vụ;
chọn giống tốt; tăng sức đề kháng cho tôm bằng cách cho tôm ăn
đầy đủ và bổ sung các chất làm tăng sức đề kháng của tôm
(vitamin C, α-glucan, MOS…); cuối cùng là quản lý môi trường
ao nuôi ổn định, trong đó chú ý đến các yếu tố nhiệt độ, pH, độ
mặn và các khí độc trong ao...
Nuôi tôm 2 giai đoạn thành công rất cao
Ông Trần Thanh lân, cán bộ kỹ thuật Cty CP cho biết, mô hình
nuôi tôm 2 giai đoạn đã được Cty CP thực hiện tại tỉnh Bạc Liêu
qua mấy vụ nuôi. So với cách nuôi truyền thống thì mô hình này
cho sản lượng cao hơn hẳn. Hiện mô hình đã được nhân rộng ra
các tỉnh ven biển vùng ĐBSCL.
Ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, năm nay có khá nhiều đơn
vị và hộ nông dân nuôi theo mô hình này, tỷ lệ thành công trên
80%, mặc dù gặp thời tiết bất lợi. Tại Kiên Giang, cũng đã có
trên 10 mô hình được triển khai và những hộ đi đầu đều thành
công. Hiện nhiều Cty đầu tư nuôi tôm quy mô lớn tại khu vực Hà
Tiên - Kiên Lương như: Trung Sơn, BIM - Hạ Long, Biển
Đông…, điều triển khai mô hình nuôi tôm 2 giai đoạn.
Chi phí để làm bể ương có dung tích từ 50 - 80m2 khoảng 26-
30 triệu đồng/bể. Mỗi bể ương vèo được 250 - 400 ngàn con tôm
giống (mật độ trung bình 5con/lít). Thời gian ương vèo 25 - 30
ngày là có thể thả ra nuôi trên diện rộng. Nếu kết hợp nuôi trong
ao có lót bạt, có mái che để hạn chế tác động của môi trường thì
khả năng thành công rất cao.
HỮU ĐỨC - Đ.T.CHÁNH
http://nongnghiep.vn
Báo Nông nghiệp Việt Nam
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
~ 34 ~
Chuyển trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt Ngày 03/06/2016
Những năm gần đây nhiều hộ nông dân ở huyện Thanh Bình (Đồng Tháp) đã chuyển
hàng trăm ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt.
Ớt Thanh Bình khẳng định thương hiệu
Nhằm đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng để tăng thêm
thu nhập trên cùng diện tích canh tác, những năm gần đây nhiều
hộ nông dân ở huyện Thanh Bình (Đồng Tháp) đã chuyển hàng
trăm ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt, tiết kiệm
nguồn nước tưới và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Hiện toàn huyện đã có 1.860ha ớt các loại, chiếm hơn 65%
tổng diện tích trồng ớt của tỉnh, trồng tập trung chủ yếu ở các xã
cù lao và vùng ven. Trong số đó, khoảng 20% nông dân được đầu
tư hạt giống và thu mua sản phẩm theo giá thị trường.
Việc chủ động thu mua, bảo tiêu sản phẩm của các cơ sở thu
mua ớt trên địa bàn đã giúp nhiều nông dân an tâm SX, đẩy
mạnh chuyển đổi cây trồng và phát huy hiệu quả, xây dựng
thương hiệu “Ớt Thanh Bình”.
Để ớt đạt năng suất cao, bà con đã thực hiện đúng quy trình
chăm sóc, bón phân hợp lý, phòng trừ sâu bệnh kịp thời..., mỗi
công ớt (1.000m2) cho thu hoạch 3 đợt trái, năng suất dao động
từ 1 - 1,5 tấn.
Anh Trần Văn Tùng ở xã An Phong trồng hơn 10 công ớt
chia sẻ: “Mùa này trồng ớt cho năng suất cao, chất lượng tốt,
nhiều cơ sở thu mua nên cũng dễ dàng tiêu thụ. Giá cả hiện
nay tương đối ổn định, sau khi trừ chi phí thuốc men cũng cho
lợi nhuận khá”. Hiện tại ớt trái được thương lái thu mua tại
ruộng với giá 15.000 - 18.000 đồng/kg, giá ớt khô dao động từ
55.000 - 60.000 đồng/kg và
trên địa bàn huyện có rất nhiều
cơ sở thu mua ớt khô để xuất
khẩu sang thị trường Trung
Quốc như: Dũng Ớt, 2 Mành,
6 Nếu, 8 On, Xuân Bảo, Tấn
Đạt..., mỗi ngày thu mua hàng
chục tấn ớt thương phẩm.
Ông Nguyễn Văn Danh,
thương lái thu mua ớt ở xã An
Phong, cho biết: “Ớt được thu
mua tập trung của các nông
dân để xuất sang Trung Quốc,
Hàn Quốc, Thái Lan… Hiện
nay, nhiều thương lái đã đặt
cơ sở ở các địa phương để thu
mua với lượng lớn tập trung
rồi lên xe chuyển ra Tp. HCM
sau đó tiến hành XK”.
Trung bình mỗi năm ớt trên
địa bàn huyện cho sản lượng
15.000 - 20.000 tấn, chủ yếu là
ớt chỉ thiên (chiếm hơn 80%
sản lượng). Do điều kiện tự
nhiên thuận lợi, khả năng thích
nghi cao, nên ớt trồng ở đây có
màu đỏ đẹp, vị rất cay, phẩm
chất tốt, thời gian lưu giữ được
lâu. Nhiều cơ sở đã ký kết với
nông dân trồng ớt trong bao
tiêu sản phẩm với hình thức
thu mua theo giá thị trường
hoặc đầu tư một phần về giống
hay chi phí khác. Theo tính toán
của bà con, sau 2 tháng trồng,
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
~ 35 ~
ớt bắt đầu cho thu hoạch, thời gian thu liên tục, sản lượng đạt
từ 10 - 15 tấn/ha, thu nhập từ 50 - 100 triệu đồng/ha. Sản phẩm
ớt Thanh Bình còn được chế biến nhiều loại đa dạng khác như
tương ớt, bột ớt, muối ớt, ớt khô..., để có thể cạnh tranh với thị
trường nội, nâng cao giá trị sản phẩm từ ớt.
Tỉnh Đồng Tháp đang chủ động thực hiện mô hình trồng ớt
liên kết bao tiêu sản phẩm tiến đến chuỗi giá trị cây ớt trong
tương lai nhằm tăng hiệu quả trong sản xuất và nâng cao sức
cạnh tranh, đảm bảo chất
lượng sản phẩm phục vụ XK
và tiêu dùng.
Lê Hoàng – Phú Thuận
http://nongnghiep.vn
Báo Nông nghiệp Việt Nam
Rau hữu cơ trên đất nhiễm mặn Ngày 08/06/2016
Với cách làm độc đáo của mình, anh Hóa không chỉ xử lý thành công đất nhiễm mặn, mà
vườn rau của anh còn là rau hữu cơ, không sử dụng bất kỳ loại thuốc, phân bón hóa học nào...
Anh Hóa biến đất mặn thành vùng trồng rau hữu cơ an toàn
Nhìn vườn rau hữu cơ xanh tốt, không sử
dụng bất kỳ loại thuốc, phân bón hóa học nào tại
vườn của anh Nguyễn Văn Hóa (tổ 2, ấp Hải
Sơn, xã Phước Hưng, huyện Long Điền, Bà Rịa
– Vũng Tàu) mấy ai hay trên chính mảnh đất này
trước đây là cánh đồng muối nước ngập mặn
chát, khó có thể trồng được bất kỳ loại cây gì.
Được biết đến là nông dân điển hình của xã
bởi mô hình trồng rau sạch với rượu, tỏi, ớt,
không dùng bất kỳ loại phân, thuốc hóa học
nào; giờ đây anh Hóa còn tự mình chinh phục
hơn 2ha đất mặn, nơi trước kia là cánh đồng
muối, nước mặn ngập tới gần đầu gối.
Hồi mới chuyển nhà vào đây, anh bị nhiều
người cho là “khùng” vì ai lại đi trồng rau trên đất
nhiễm mặn. Nhưng anh nghĩ, hồi ở ngoài Bắc,
anh đã từng đi theo nhiều người ra đồng làm
ruộng.
Đất nơi đó cũng mặn chát do ở gần làng
muối, nhưng họ vẫn làm rau tươi tốt, thu hoạch
đều đặn thì tại sao anh không làm được. Nghĩ
là làm, anh dựng ngay một chòi nhỏ để tiện nghỉ
ngơi, rồi ngày đêm cải tạo đất.
Ban đầu, anh làm theo những gì mình nhìn
thấy ngoài quê nên thất bại, việc giảm mặn
không thành công do chưa làm thử lần nào, lần
cải tạo đầu, nước mặn vẫn cứ tràn lên mặt đất.
Bước sang năm thứ hai, anh bắt đầu thay đổi
dần, đi cẩn thận từng bước, từ làm đất, ép mặn
cho tới việc điều chỉnh nước ngọt cho phù hợp.
Năm đó, lần đầu tiên những cây rau của anh nhú
lên mặt đất, anh đã gần như hét lên vì vui sướng
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
~ 36 ~
khi công sức quần quật ngày đêm cuối cùng có
kết quả.
Chia sẻ kinh nghiệm, anh cho biết: “Để trị
đất nhiễm mặn, trước hết cần phải xử lý đất,
đây là bước quan trọng để có thể đo được độ
mặn của đất cũng như tách hoàn toàn phần đất
trồng cây ra khỏi phần nhiễm mặn”.
Thời gian đầu, anh cho máy cày xới toàn
bộ đất lên, tạo luống, nâng nền đất thật cao,
cách phần nước mặn từ 40 – 60cm. Chiều cao
này sẽ giúp cây trồng không đụng phải phần đất
nhiễm mặn. Sau khi nền đất được nâng lên, các
tầng nước mặn sẽ từ từ rút xuống thấp.
Sau đó, anh sử dụng rơm, lục bình phủ xuống
đất, đậy kín toàn bộ. Theo anh Hóa, vùng này vốn
là vùng làm muối, nắng chiếu vào nhiều sẽ đẩy
muối lên, đọng hết lên đất, việc che ánh nắng sẽ
ép hoàn toàn lượng muối xuống phía dưới, bảo
đảm được nền đất tốt phía trên.
Tiếp theo, anh sử dụng các loại phân xử lý
đất như phân chuồng ủ hoai mục, phân lân, vôi
để rửa chua, rửa phèn, lượng phân này sẽ gấp 3
lần so với các loại đất thường.
Điều bắt buộc khi xử lý đất nhiễm mặn là
phải có nước ngọt. Việc tưới nước ngọt có thể
duy trì nhiều ngày, tưới đẫm từ khi làm đất
cho tới khi trồng cây. Theo anh tính toán, lượng
nước ngọt phải lớn hơn nước mặn tới 80% thì
mới ép được nước mặn xuống phía dưới.
Nói đoạn, anh dẫn chúng tôi xuống vườn,
bốc từng mảnh đất lên, nói: Khu vực này, nếu
chỉ 1 ngày không tưới nước ngọt là nước mặn
sẽ trồi lên ngay, cây trồng rất dễ chết. Trung
bình một ngày tưới từ 9 – 10 lần, mỗi lần tưới
từ 5 - 7 phút. Thời gian tưới cách nhau từ 1 –
1,5 tiếng. Đối với các khu vực thiếu nước ngọt,
để xử lý đất nhiễm mặn, người dân phải che
bằng nhà lưới, nhà kính để giúp đất thoát khỏi
ánh nắng trực tiếp.
Với cách làm độc đáo của mình, anh Hóa
không chỉ xử lý thành công đất nhiễm mặn, mà
vườn rau của anh còn là rau hữu cơ, không sử
dụng bất kỳ loại thuốc, phân bón hóa học nào
trong suốt thời gian sản xuất. Nhờ đó, với 2ha rau
của mình, anh cung cấp cho phần lớn các trường
học, công ty và các chợ nhỏ trong khu vực, đảm
bảo bữa ăn an toàn cho mọi người.
NGÔ TRƯỜNG
http://nongnghiep.vn
Báo Nông nghiệp Việt Nam
An Giang: Thu nhập cao từ trồng cải bẹ dún Ngày 07/06/2016
Ông Phạm Văn Tường là nông dân có
kinh nghiệm sản xuất rau ăn lá và là thành
viên của Tổ liên kết sản xuất rau an toàn ở ấp
Tân Hậu B2, xã Long An, thị xã Tân Châu.
Vụ đông xuân 2016, ông Tường trồng cải
bẹ dún với diện tích 2000m2. Sau thời gian
chăm sóc là 40 ngày ông thu hoạch với năng
suất 4 tấn/1000m2, bán 4000 đồng/kg, trừ hết
chi phí, ông Tường thu được lợi nhuận từ 6,7
triệu đồng/1000m2. Nếu so với trồng lúa trong
cùng 1 thời gian và diện tích thì lợi nhuận trồng
cải bẹ dún cao hơn gấp 4 - 5 lần.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có được lợi
nhuận trên vì theo ông Tường, cải bẹ dún rất
khó trồng, nếu không có kỹ thuật và kinh
nghiệm thì cải sẽ bị óp bắp và bị thương lái chê
nên khó bán và bán không được giá.
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
~ 37 ~
Trao đổi về kỹ thuật trồng cải bẹ dún, ông
Tường chia sẻ như sau:
Nên ương cây giống đến 20 ngày tuổi thì
đem ra trồng trên luống. Khâu chuẩn bị đất rất
quan trọng vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển
cây cải sau này. Đất xới tơi xốp, lên luống với
chiều cao 50 - 60cm, khoảng cách giữa mỗi
luống 70 - 80cm, diệt côn trùng gây hại trong
đất bằng sản phẩm thuốc Secsaigon 5EC (2
bình/công theo liều lượng khuyến cáo), bón lót
20kg phân NPK Việt Nhật/công. Sau đó rải
rơm phủ lên, tưới nước cho ướt đất và tiến hành
trồng cây giống trên luống.
Nhằm tránh cho cây cải mất sức khi đem ra
trồng ngoài luống với thời tiết nóng, nhiệt độ cao
so với trồng vườn ươm, nên cho nước vào rảnh
liên tục trong 4 ngày đầu để cây cải có đủ nước
phục hồi và phát triển rễ. Sau 4 ngày trồng cải
xuống luống thì cách 1 ngày cho nước vào 1 lần.
Cây cải bẹ dún rất nhạy cảm với nhiều loại
thuốc BVTV nên sau khi trồng chỉ sử dụng
các loại thuốc trừ sâu chiết xuất từ tự nhiên, có
tính an toàn cao và thân thiện với môi trường
như: Radiant 60SC ở các thời điểm 7 ngày và
30 ngày sau khi trồng.
Ngoài ra, ông Tường còn sử dụng phân urê
sau khi trồng 13 ngày (15kg/1000m2), phân
NPK sau khi trồng 20 ngày (75kg/1.000m2) và
phân bón lá Root 2 (150cc/1.000m2) ở thời
điểm 6 ngày, 11 ngày và 15 ngày sau khi trồng
để kích thích bộ rễ phát triển và giúp cây cải có
đủ chất dinh dưỡng qua lá và rễ để nuôi cây.
Trước khi thu hoạch 10 ngày ông Tường
không sử dụng bất kỳ loại thuốc hóa học nào vì
theo ông phải có thời gian cách ly như vậy để
thuốc phân hủy không còn khả năng gây độc cho
người và vật nuôi, đó là trách nhiệm của người
sản xuất nông sản để cung cấp cho người tiêu
dùng sản phẩm rau an toàn, chất lượng ./.
Nguyễn Thị Mỹ Tiên
http://www.khuyennongvn.gov.vn
Khuyến nông Việt Nam
Tỉ phú bưởi da xanh trên đất cà phê Ngày 8 tháng 6 năm 2016
Ở vùng chuyên canh cà phê, một nông dân
mạnh dạn trồng bưởi da xanh thu lợi lớn.
Ông Nguyễn Văn Nhàn ở tổ dân phố 8, TT.
Quảng Phú, H. Cư Mgar (Đắk Lắk), nổi tiếng
trong vùng là người làm ăn giỏi. Từ quê đất võ
Bình Định lên cao nguyên lập nghiệp những
năm đầu thập niên 1990, vợ chồng ông khởi sự
với nghề buôn bán nông sản nhỏ lẻ. Vốn yêu
thích nghề nông nên dành dụm được bao nhiêu
lời lãi từ kinh doanh là ông Nhàn tìm sang
nhượng lại đất rẫy. Ngay cả đất ở xa nguồn
nước, cằn cỗi, nhiều người chê nhưng ông vẫn
chấp nhận mua để cải tạo, biến thành diện tích
canh tác màu mỡ. Trong vòng 15 năm, vợ chồng
ông có trong tay hơn 20 ha đất chuyên trồng cây
công nghiệp và cây ăn quả.
Phá thế độc canh cà phê
Khác với những nông dân chuyên canh cà
phê trong vùng, ông Nhàn luôn tìm cách thay đổi
bằng những cây trồng khác sinh lợi nhiều hơn.
Vườn bưởi cho thu nhập tiền tỉ của ông Nhàn
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
~ 38 ~
Diện tích cà phê ban đầu hơn 10ha được ông
cho phá bỏ dần đến nay chỉ còn 3ha. Thay vào
đó, ông trồng hồ tiêu và các loại cây ăn trái có
hiệu quả kinh tế cao nhưng đầu tư chăm sóc ít
tốn kém hơn.
Cách đây chục năm, ông đưa vào trồng sầu
riêng thuần trên 2ha, đồng thời xen hàng trăm
cây khác trong vườn cà phê. Thu nhập từ sầu
riêng bình quân 200 triệu đồng/ha, cao hơn so
với trồng cà phê, nhưng ông Nhàn vẫn chưa thỏa
mãn. Ông tiếp tục trồng các giống bơ cao sản và
mít “siêu sớm” trên diện tích gần 7 ha để so sánh
hiệu quả đem lại của các loại cây ăn trái này.
4 năm trước, ông phá bỏ hơn 1ha cà phê để
trồng 370 cây bưởi da xanh với giống mua từ
Cai Lậy, Tiền Giang. Ban đầu, người thân ông
Nhàn phản đối gay gắt vì cho rằng cây bưởi
không hợp đất cao nguyên, khó sinh trưởng,
cho trái như ở miền Tây Nam bộ. Quyết vượt
thử thách này, ông Nhàn ứng dụng các giải
pháp công nghệ cao chăm sóc cây ăn trái vào
vườn bưởi, từ khâu bón phân, tỉa cành, theo dõi
phòng trừ sâu bệnh, đến lắp hệ thống tưới tiết
kiệm, bảo đảm mùa khô bưởi vẫn xanh tốt nhờ
tưới đủ nước. Được chăm sóc kỹ nên dù trồng
ở chân đất dốc, bưởi vẫn phát triển, năng suất
trái cao không thua kém những cây trồng trên
đất bằng. Dưới chân các gốc bưởi, ông Nhàn cho
trồng các loại cây ngắn ngày, cỏ trang trí để
chống xói mòn đất. Những loại cây tưởng chừng
chỉ tận dụng đất này cũng đem lại nguồn thu
không nhỏ, trang trải các chi phí nhân công
chăm sóc vườn...
Thu nhập không ngừng tăng
Kết quả, vườn bưởi da xanh đã cho thu
nhập cao hơn hẳn so với những cây ăn trái
khác. Theo ông Nhàn, bưởi ra trái quanh năm,
hơn 60% trái thu hoạch có trọng lượng từ 1,5
kg/trái trở lên, giá bán tại vườn khoảng 40.000
đồng/kg, mỗi gốc bưởi cho thu nhập bình quân
tới 3 triệu đồng. Năm 2015, 1ha bưởi cho
doanh thu tới 1,1 tỉ đồng; trong khi hơn 10ha
sầu riêng, mít, bơ còn lại thu gần 2,5 tỉ đồng.
Ông Nhàn cho biết sản phẩm bưởi da xanh chỉ
mới tiêu thụ ở Đắk Lắk, không đủ để cung cấp
đến Tp. HCM và tỉnh ngoài dù có nhiều đơn
đặt hàng. Ông cũng cho rằng năm 2016 dự kiến
vườn bưởi sẽ bước vào tuổi thứ 5, thu hoạch
mỗi năm sẽ ổn định ở mức 5 triệu đồng/cây.
“Ở Tây nguyên thời tiết thất thường, nhiều
lúc mưa to, gió lớn; cây bưởi trồng trên đất
bazan mềm, cõng nhiều trái nên dễ bật gốc,
gãy đổ. Tôi cũng tự mình nghiên cứu, chuyển
dần sang trồng bưởi ghép gốc thay cho bưởi
chiết cành để cây có rễ cọc, vững chắc hơn”,
ông Nhàn nói. Tỉ phú cây ăn trái trên vùng
chuyên canh cà phê Cư Mgar cũng cho biết
mùa mưa năm nay ông sẽ xuống giống trồng
mới thêm 2ha bưởi da xanh và những năm tới
tiếp tục mở rộng sản xuất loại cây này vì thị
trường tiêu thụ đang rất hút hàng.
http://www.kinhtenongthon.com.vn/
Kinh tế Nông thôn
Xã vùng cao biên giới có cả trăm tỷ phú đi lên từ nông nghiệp
Ngày 06/06/2016
Nhiều nông dân tại xã Thuận Hạnh, huyện Đắk Song (Đắk Nông) nhờ chí thú làm ăn
đã có thu nhập tiền tỷ mỗi năm. Tiền dư dả, hàng chục gia đình đã mạnh tay mua xe hơi
để phục vụ nhu cầu đi lại của gia đình và hàng ngày lái xe đi… thăm rẫy.
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
~ 39 ~
Linh hoạt đa canh đa cây
Thuận Hạnh là một xã
biên giới có khí hậu thuận
lợi và đất đai màu mỡ, đời
sống của người dân phụ
thuộc vào nông nghiệp.
Người dân sử dụng tài
nguyên đất vô cùng hợp lí,
xen canh gối vụ, mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
Ông Nguyễn Cao Trí -
Chủ tịch Hội Nông dân xã
cho biết: Thuận Hạnh là một
xã thuần nông với hồ tiêu và
cà phê là hai loại cây trồng
chủ lực. Tuy nhiên, những
năm gần đây các mô hình
kinh tế đa canh, đa cây được
hàng trăm hộ nông dân ra sức
thực hiện, mang lại hiệu quả
kinh tế vô cùng cao.
Dễ thấy nhất là cây cà phê,
trên nhiều diện tích cà phê già
cỗi, năng suất, chất lượng
kém, nông dân đã chủ động
thực hiện việc tái canh cà phê
hoặc chuyển đổi sang các loại
cây trồng khác có hiệu quả
kinh tế vượt trội như: Hồ tiêu,
Sầu riêng, Bơ Booth, Bí ngô,
Khoai lang tím…
Chúng tôi tham quan mô
hình kinh tế đa canh, đa cây
của anh Vũ Hồng Ánh, thôn
Thuận Nam, một nông dân đi
đầu trong việc linh hoạt thực
hiện xen canh, gối vụ các loại
cây trồng có thu nhập
“khủng”. Anh Ánh chia sẻ:
“Cách làm là tận dụng tối đa, linh hoạt xen canh các loại cây
trồng trên một đơn vị diện tích để có thu nhập cao nhất có thể”.
Minh chứng cho điều này, anh Ánh dẫn chúng tôi ra khu vườn
rộng chừng 2 ha nhưng xen canh tới 4 loại cây trồng khác nhau,
loại cây nào cũng cực kỳ tươi tốt gồm: Bí đỏ, Chanh dây, Hồ tiêu,
Bơ Booth.
Cách làm của anh cũng vô vùng đơn giản. Đầu tiên anh xuống
giống bí đỏ, sau đó chôn trụ bê tông, làm giàn cho chanh dây leo.
Tại các trụ bê tông, anh tiếp tục thả dây tiêu vào, cuối cùng nơi
giao nhau giữa 4 trụ tiêu anh trồng một gốc bơ Booth. Như vậy
trên một đơn vị diện tích anh trồng tới 4 loại cây với phương
châm lấy ngắn nuôi dài.
Chia sẻ bí quyết thành công của mình, anh cho biết: thông
thường thời vụ bí đỏ chỉ kéo dài có 4 tháng, chanh dây 6 tháng
cho thu hoạch, thời gian thu hoạch kéo dài lên đến trên 2 năm,
hồ tiêu và bơ Booth thì phải 3 năm trở lên mới có thu.
Như vậy, sau khi anh thu hoạch bí đỏ xong thì dọn vườn, tiếp
tục chuẩn bị thu hái chanh dây. Sau khi chanh dây già cỗi lại tập
trung chăm sóc hồ tiêu và bơ Booth để sang năm tiếp tục có
nguồn thu ngay.
“Việc xen canh, gối vụ cần tính toán thời vụ hợp lý và phải
đặc biệt chú trọng đến khâu chăm sóc, xử lý BVTV cho cây trồng,
tránh tình trạng bệnh dịch lây lan”, anh Ánh nói.
Theo anh Ánh, nhờ thực hiện xen canh, gối vụ hợp lý các loại
cây trồng nên dù đang trong giai đoạn kiến thiết vườn hồ tiêu
nhưng năm nào 2ha vườn của anh cũng cho thu lãi trên 2 tỷ đồng.
Tăng tốc đầu tư nông nghiệp
Chăm chỉ làm ăn, tích góp nhiêu nông dân trở thành tỷ phú, mạnh tay
xây nhà lầu, sắm xe hơi
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
~ 40 ~
Một điều đáng mừng ở xã
Thuận Hạnh là dù đời sống
kinh tế không ngừng được
nâng lên, nhưng người dân
vẫn luôn ý thức rất cao với
việc gắn bó làm nông
nghiệp, chăm chỉ làm ăn,
không có tư tưởng xa hoa, ăn
chơi hưởng thụ.
Đi khắp một vòng quanh
xã những ngày đầu mùa mưa
này, ở bất kỳ nơi nào cũng
thấy nông dân hăm hở bắt
tay làm đất, mua giống, phân
bón, chuẩn bị đầu tư cho
những mùa vụ mới.
Gia đình anh Vũ Xuân
Lợi, thôn Thuận Nam, vừa
mới ra ngân hàng huyện rút
hơn 500 triệu đồng để về trả
tiền vật tư nông nghiệp, tất
bật chôn trụ, chuẩn bị xuống
giống hơn 1,5ha hồ tiêu
trong mùa mưa năm nay.
Anh Lợi cho biết: Nếu xuống
giống xong 1,5ha hồ tiêu này,
cùng với 2,5ha tiêu đang kinh
doanh, anh Lợi sẽ có tổng
cộng 4ha tiêu trong tay.
Tuy nhiên, chưa bằng
lòng với thành quả đã có,
anh tiếp tục sẽ đầu tư trồng
thêm 2ha cây ăn quả là sầu
riêng và bơ Booth. Suy nghĩ
của anh Lợi cũng là hướng
đi chung của hàng trăm hộ
nông dân Thuận Hạnh.
Ông Nguyễn Cao Trí cho biết: Theo thống kê sơ bộ của
UBND xã, chỉ trong vòng 2 năm trở lại đây, lượng vốn mà nông
dân trong xã bỏ ra để đầu tư phát triển nông nghiệp đã lên đến
trên 300 tỷ đồng.
Chưa kể, nhiều nông dân mạnh dạn đầu tư mở các cửa hàng
vật tư phân bón, thuốc BVTV, sắm sửa xe ô tô tải chở hàng, xe
hơi để đi giao dịch làm ăn, máy móc, thiết bị phục vụ làm nông
nghiệp. Nếu đúng như kỳ vọng, chỉ vài năm nữa, đa số nông dân
Thuận Hạnh sẽ trở thành tỷ phú, triệu phú.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các tiến bộ KHKT vào trong sản
xuất nông nghiệp được người dân thực hiện rất khoa học. Nông
dân chịu khó tham dự các cuộc hội thảo khoa học nông nghiệp,
cũng như tìm tòi sách báo, tài liệu để tham khảo. Đi dọc con
đường liên xã có đến 70% hộ nông dân kết nối mạng Internet chỉ
để tìm hiểu thông tin về nông nghiệp.
Nhờ chịu khó tích cóp, chăm chỉ làm ăn, hàng trăm hộ nông
dân trong xã đã vươn lên trở thành hộ có thu nhập khá, tỷ phú.
Chỉ tính trong năm 2015, Thuận Hạnh có đến 300 hộ đạt danh
hiệu nông dân kinh doanh sản xuất giỏi. Công việc thuận lợi, thu
nhập ở mức cao nên nhiều nông dân mạnh tay đầu tư xây dựng
nhà ở khang trang, sạch đẹp. Việc mua sắm xe hơi không còn là
điều lạ lẫm ở vùng biên giới xa xôi, hẻo lánh này.
THANH SA
http://www.hoinongdan.org.vn
Trồng và chăm sóc cây hồ tiêu ở Thuận Hạnh
top related