bài 1 - bắc kạn provincehoinongdan.backan.gov.vn/documentlibrary/347646fb32acb45... · web...

25
Bài 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG DÂN VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN I. KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và dân tộc một di sản tư tưởng to lớn và vô cùng quý giá. Trong đó những nội dung tư tưởng của Người về nông dân Việt Nam, về vận động nông dân có một vị trí rất quan trọng và còn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay. 1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. 2. Nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí Minh 2.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, cần cù lao động, anh dũng sáng tạo trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, truyền thống văn hoá nhân ái của dân tộc Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì tinh thần yêu nước giữ vị trí hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ c- ướp nước”. Chủ nghĩa dân tộc chân chính, chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính sức mạnh truyền thống ấy là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. 2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đông (Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo). Các nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu

Upload: others

Post on 15-Feb-2020

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

Bài 1TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÔNG DÂN

VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN

I. KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và dân tộc một di sản tư tưởng to lớn và vô cùng

quý giá. Trong đó những nội dung tư tưởng của Người về nông dân Việt Nam, về vận động nông dân có một vị trí rất quan trọng và còn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay.

1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí MinhTư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc của Hồ Chí

Minh về cách mạng Việt Nam. 2. Nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí Minh2.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, cần cù lao động, anh

dũng sáng tạo trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, truyền thống văn hoá nhân ái của dân tộc Việt Nam.

Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì tinh thần yêu nước giữ vị trí hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

Chủ nghĩa dân tộc chân chính, chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính sức mạnh truyền thống ấy là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng.

2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loạiHồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đông (Nho giáo, Lão giáo,

Phật giáo). Các nhà hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết đó.

Người đã tiếp thu, kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, của thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng tư sản Trung Quốc.

Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản của cách mạng Pháp, Mỹ, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)… Người đã vận dụng và phát triển các học thuyết ấy lên một trình độ mới.

2.3. Chủ nghĩa Mác - LêninTừ khi rời Tổ quốc năm (1911), Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và

nhiều nước tư bản đế quốc. Người đã tiếp xúc với nhiều nhà hoạt động chính trị xã hội. Người đã tham gia Đảng Xã hội Pháp năm (1918), tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (1920). Hồ Chí Minh hoạt động trong Quốc tế Cộng sản và trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc. Người nhận thức sâu sắc hơn về

Page 2: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp biện chứng Mácxít. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận, tư tưởng chủ yếu nhất của sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá, phân tích, tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối cách mạng và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn để đề ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn.

2.4. Quê hương, gia đình và bản thân Quê hương xứ Nghệ là mảnh đất địa linh nhân kiệt. Chính mảnh đất này đã sản

sinh ra nhiều chí sỹ yêu nước, chiến sỹ cách mạng lỗi lạc của dân tộc. Người dân xứ Nghệ có truyền thống cách mạng, tiêu biểu trong số các cuộc khởi nghĩa của người dân xứ Nghệ là cuộc khởi nghĩa Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) đã để lại tiếng vang lớn và là bài học dẫn đến thành công của cách mạng tháng Tám 1945.

Hồ Chí Minh, xuất thân từ một gia đình nhà nho yêu nước, có truyền thống khoa bảng. Đất Nam Đàn thời ấy được mệnh danh “Nam Đàn tứ hổ”: Uyên bác như San, thông minh như Sắc, tài hoa như Quý, cường ký như Lương. Một trong số những người được suy tôn ấy chính là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ của Hồ Chí Minh.

Bản thân Hồ Chí Minh là người vốn có tư chất thông minh, học rộng, có nhân cách, giàu lòng yêu nước, nhân ái, sớm có hoài bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh của ý chí độc lập, tự cường dân tộc. Với ý chí lớn, Người đã ra đi tìm đường cứu nước năm (1911). Vào đầu thế kỷ XX có nhiều người Việt Nam sang Pháp và đã có những người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Thế nhưng trong số những người Việt Nam yêu nước ở Pháp vào năm 1920, duy nhất có Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản và cũng là một công dân thuộc địa tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Từ thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu phân tích, tổng hợp, khái quát thành những luận điểm, những quyết sách đúng đắn và sáng tạo, từ đó hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.

II. HỒ CHÍ MINH BÀN VỀ VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG NÔNG DÂN 1. Nông dân Việt Nam trong thời phong kiến Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nho giáo yêu nước sống ở nông thôn vào

buổi chiều hoàng hôn của chế độ phong kiến Việt Nam. Ngay từ nhỏ, Người đã gắn bó với xóm làng và người nông dân, vì vậy sớm có tình cảm và hiểu biết về người nông dân. Lớn lên, Hồ Chí Minh ra nước ngoài tìm đường cứu dân, cứu nước. Người đi khắp bốn châu lục, gặp gỡ nông dân ở nhiều nước thuộc địa và tư bản, Người càng thấu hiểu và thương xót người nông dân ở xứ mình.

Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dưới thời phong kiến, chủ thể đông đảo nhất quyết định sự hưng thịnh trong lịch sử của dân tộc là nông dân. Do điều kiện địa lý tự nhiên và địa vị chính trị mà người nông dân Việt Nam đã nảy sinh và định hình tính cộng đồng mạnh mẽ. Công xã nông thôn Việt Nam thời phong kiến được tổ chức trên cơ sở những quan hệ huyết thống và chế độ công hữu về ruộng đất càng làm tăng tính cố kết cộng đồng của nông dân. Theo Hồ Chí Minh, chế độ công điền, công thổ, chế độ phong kiến Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta không quyết liệt như

Page 3: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

các nước phương Tây. Đầu thế kỷ XX, Người viết: “An Nam chưa bao giờ có tăng lữ và thuế mười phần trăm. Hoàng đế trị vì nhưng chẳng lo cai trị gì. Tất nhiên là đã có quan lại rồi. Nhưng có thể so sánh với chúa phong kiến không? Không. Trước hết quan lại được tuyển lựa theo con đường dân chủ: con đường thi cử phải mở rộng cho mọi người và mọi người có thể chuẩn bị thi mà chẳng tốn kém gì. Hơn nữa, quyền lực của quan lại được cân bằng bằng tính tự trị của xã, thôn”(1). “Cho nên, nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn. Nếu nông dân sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa. Nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì địa chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc, người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có tờ - rớt, người thì nhẫn nhục chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của mình. Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”(2).

Đến thế kỷ XVIII, chiến tranh nông dân ở nước ta bùng phát mạnh mẽ tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó mô hình công xã chịu sự tác động nhiều nhất. Từ đây, các triều đại phong kiến tiếp tục duy trì tổ chức công xã bằng việc hủy bỏ chế độ phong cấp ruộng đất cho đại thần và hoàng tộc, thay vào đó là ban cấp bổng lộc dưới hình thức thu tô, thuế làng xã. Suốt mấy thế kỷ bị bóc lột tô, thuế nặng nề làm cho người nông dân vô cùng khổ ải. Vì vậy, Hồ Chí Minh nhận xét “Chế độ phong kiến tức là chế độ địa chủ bóc lột nông dân. Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ làm của riêng, nhưng họ không cày cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng của địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải hầu hạ và lễ lạt địa chủ. Nông dân không khác gì nô lệ, nông dân quanh năm chân lấm, tay bùn, đầu tắt, mặt tối, nhưng vẫn nghèo khổ. Địa chủ thì không nhắc chân động tay, mà lại nhà cao, cửa rộng, phú quý phong lưu. Đó là một chế độ cực kỳ không công bằng. Nông dân vì nghèo khó, không thể nâng cao mức sản xuất. Địa chủ thì chỉ lo lấy địa tô, không lo cải thiện sản xuất. Vì vậy, sản xuất không thể nâng cao. Đặc điểm của chế độ phong kiến là: nông dân sản xuất một cách rời rạc, địa chủ bóc lột một cách tàn tệ. Nhà nước phong kiến là Nhà nước của giai cấp địa chủ. Nó lấy vua chúa làm trung tâm. Nó dùng mồ hôi, nước mắt của nông dân để nuôi một bầy quan lại và quân lính, áp bức bóc lột nông dân. Trải qua mấy nghìn năm, nông dân nhiều phen nổi lên chống chế độ phong kiến địa chủ, nhưng kết quả thất bại vì họ không biết tổ chức chặt chẽ. Nông dân cần có một giai cấp tiên tiến lãnh đạo - tức là giai cấp công nhân, thì mới chắc chắn được giải phóng” (3).

2. Nông dân Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộcNăm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, vì quyền lợi của ngai

vàng, của hoàng tộc, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã kháng cự yếu ớt, từng bước đầu hàng rồi đi đến đầu hàng hoàn toàn, biến nước Việt Nam độc lập thống nhất, có chủ quyền thành một nước thuộc địa của thực dân Pháp. Từ đây nhân dân ta, trước hết là nông dân phải sống dưới ách thống trị dã man chưa từng có. Vào năm 1924, Hồ Chí Minh nhận xét: “Người An Nam nói chung đều phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, bóc lột, tước đoạt, là phá sản”(4),. “Họ bị đóng đinh câu rút bởi bốn thế lực liên hiệp là: Nhà nước, tên thực dân, Nhà thờ và tên lái buôn”(5).

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 464-465(2) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 464(3) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, NxbCTQG, H.1996, tr.203-204(4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr.227(5) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 211

Page 4: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

Ruộng đất với người nông dân như hình với bóng. Vậy mà dưới ách thống trị thực dân, người nông dân bị đủ các thế lực cướp giật ruộng đất. Hồ Chí Minh tố cáo: “Khi Pháp đánh chiếm thuộc địa này, chiến tranh đã làm cho nông dân phải rời khỏi làng mạc của họ. Sau đó, khi họ trở về thì đã thấy ruộng đất của họ bị bọn địa chủ đồn điền, theo sau quân đội chiến thắng chiếm mất… Như vậy là nông dân An Nam đã biến thành nông nô và buộc phải cày cấy ruộng đất của chính mình cho bọn địa chủ nước ngoài”(6).

Còn đối với “Những người nông dân bị cướp bóc, phá sản và bị đuổi đi nơi khác lại tìm cách khai khẩn để làm ruộng. Nhưng khi đất mới vừa khai khẩn xong thì chính quyền lại chiếm lấy và buộc nông dân phải mua theo giá chính quyền định. Ai không đủ sức mua thì bị đuổi đi một cách tàn nhẫn”(7). Buộc họ phải rời bỏ quê hương vào làm thuê cho các đồn điền với đồng lương chết đói, gia đình ly tán “Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ. Anh chạy vào đất đỏ làm phu. Bán thân đổi mấy đồng xu. Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”.

Hồ Chí Minh chỉ ra: “Bên cạnh các thế lực phần đời ấy còn có những đấng cứu thế phần hồn nữa. Các đấng này trong khi đi truyền bá đức nghèo cho người An Nam, cũng không quên tìm cách làm giầu bằng mồ hôi và máu của người bản xứ”(8). Lịch sử cũng cho thấy: “ở đâu có cuộc nổi dậy, có khởi nghĩa thì nơi đó cha cố biến thành mật thám, nhà thờ Chúa bị biến thành nơi tra khảo”(9). Có thể thấy, “người nông dân An Nam bị hành hình bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bản chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh Chúa”(10).

Như vậy, “chính sách thực dân của Pháp đã thủ tiêu quyền chiếm hữu công cộng và thay thế bằng quyền chiếm hữu tư nhân. Nó củng cố quyền chiếm hữu nhỏ, làm lợi cho quyền chiếm hữu đồn điền lớn”(11), người nông dân bị tước mất ruộng đất. Bởi vậy, “nông dân thì nghèo khổ đã sẵn, lại bị sưu cao thuế nặng. Địa chủ lấy địa tô quá nặng, cho vay cắt họng, làm cho người nông dân nhiều khi phải bán vợ đợ con. Nếu gặp hạn hán là chết đói đầy đường”(12).

Chính sách cai trị của thực dân Pháp làm cho “người ta lại thấy trong các thuộc địa đó tất cả hệ thống phong kiến trung cổ và dã man của chủ nghĩa tư bản”(13).. Ở thuộc địa, chúng đã thực hiện chính sách cướp đoạt ruộng đất, bần cùng hóa người nông dân - như ông Vinhê Đốctông, một nghệ sĩ nước Pháp khi đó phải nói: “Nếu so sánh với bọn viên chức thuộc địa thì những quân cướp đường còn là những người lương thiện”(14). Như ở nước ta, đến năm 1930, bọn địa chủ thực dân đã chiếm của nông dân tới gần 1 triệu ha ruộng đất màu mỡ, bằng 1/5 tổng số ruộng đất ở nước ta khi đó. Bình quân mỗi người Pháp chiếm gần bằng 100 lần diện tích ruộng đất trong tay một người Việt Nam.

Bọn địa chủ thực dân Pháp chiếm ruộng đất của nông dân Việt Nam rồi lại bóc lột họ bằng lối phong kiến, thực dân phát canh thu tô tới 50%, có lúc, có nơi chúng thu tới 70 - 80% sản lượng.

Địa chủ, phong kiến Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945 chỉ chiếm 2% dân số, nhưng lại chiếm tới 51% diện tích ruộng đất canh tác. Nông dân chiếm 90% (6) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 283- 284(7) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 285(8) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 229(9) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 417(10) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NxbCTQG, H.1995, tr 84(11) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NxbCTQG, H.1995, tr 286(12) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.1996, tr. 209(13) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1995, tr. 134(14) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 370

Page 5: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

dân số, nhưng chỉ có 36% diện tích ruộng đất, trong đó gần 60% số hộ hoàn toàn không có ruộng đất, ở Nam bộ có nơi con số này lên tới 74%. Họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và bị thu tô không dưới 50% sản lượng định trước.

Ruộng đất còn lại trong tay người nông dân là loại đất xấu, rất cằn cỗi và bọn cá mập Pháp đánh vào những mảnh ruộng đó “Những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế đất thời phong kiến”(15). Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, nhân dân ta phải sống trong một xã hội nô lệ tàn bạo nhất, trong đó “quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất”(16). Năm 1947, Hồ Chí Minh nhận xét: “thực dân Pháp cướp nước ta đã 85 năm trường… Trong 85 năm đó, thực dân Pháp làm chết dân ta ít nhất cũng đến 7,8 triệu người… Năm ngoái chỉ ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ đã hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”(17). Trong khi đó, từ năm 1890 đến năm 1939, thực dân Pháp cướp của nông dân ta để xuất khẩu từ Việt Nam gần 58 triệu tấn gạo, trung bình mỗi năm trên 1 triệu tấn.

Liệu nhân dân ta, nông dân ta có cam chịu sống mãi chế độ thực dân không? Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “mọi chế độ thực dân đế quốc đều tiêu diệt hết các nòi giống bản xứ và muốn cứu những nòi giống này ta phải lật đổ chủ nghĩa đế quốc”. Rõ ràng làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng nông dân là đòi hỏi bức xúc của dân tộc ta ở đầu thế kỷ XX. Nhưng giải phóng bằng con đường nào, ai làm, làm như thế nào còn là những câu hỏi lớn ở đầu thế kỷ trước của dân tộc ta.

3. Hồ Chí Minh tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải phóng nông dân Việt Nam

Trước cuộc khủng hoảng con đường giải phóng của dân tộc ở đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tự quyết định cho mình một hướng đi, thực hiện một cuộc khảo sát toàn thế giới với hy vọng xem nhân loại làm như thế nào để rồi sẽ về giúp đồng bào. Ngày 5/6/1911, Người rời Tổ quốc thân yêu, với tư cách người lao động đi làm thuê tới nhiều nước khắp bốn châu lục, gắn mình với phong trào công nhân và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là: “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”(18). Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(19). Dân tộc Việt Nam, nông dân Việt Nam muốn được độc lập, tự do, hạnh phúc chỉ có một con đường làm cách mạng theo chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin.

Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cương lĩnh đầu tiên do Hồ Chí Minh soạn thảo xác định: “Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, cuộc cách mạng này đã thắng lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng và được Hồ Chí Minh tổng kết chỉ ra: “Cách mạng Việt Nam trải qua 2 giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa”(20). Rõ ràng đây là một cuộc cách mạng chẳng những giải phóng dân tộc mà còn giải phóng nông dân, chẳng những giải phóng về chính trị mà còn triệt để về kinh tế, văn hóa - xã hội cho toàn dân tộc mà đông đảo nhất là giai cấp nông dân. Người phân tích: “tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm 2 bước: Bước thứ nhất, là đánh đuổi đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có ruộng” xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới… Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức

(15) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1995, tr.74(16) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 204(17) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 Nxb CTQG, H.1995, tr. 1(18) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NxbCTQG, H.1995, tr. 268(19) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, NxbCTQG, H.1996, tr. 314(20) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, NxbCTQG, H.1996, tr. 581

Page 6: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản”(21). Như vậy bước thứ nhất (giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ) của con đường cách mạng Việt Nam, xét về mặt kinh tế là đem lại ruộng đất cho nông dân và xây dựng kinh tế dân chủ mới. Nhưng chỉ thực hiện thành công ở bước thứ hai (giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa) thì mới tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật, văn hóa và xã hội tiên tiến để giải phóng triệt để về mọi mặt cho người nông dân đã bao đời gian truân vất vả.

4. Thực chất cách mạng giải phóng dân tộc là cách mạng giải phóng nông dânKhi Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn thì

giai đoạn đầu có nhiệm vụ giải phóng dân tộc giành lại độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, mà mục tiêu trước tiên, trước hết là giành độc lập dân tộc, nhiệm vụ dân chủ, mang lại ruộng đất cho nông dân cũng thực hiện ở giai đoạn đầu của cách mạng Việt Nam nhưng phải rải ra và phục tùng nhiệm vụ dân tộc mà thực hiện. Trong thực hiện nhiệm vụ dân tộc đã có nội dung dân chủ. Vì vậy Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự thật là cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa lúc đầu và trước hết là cuộc cách mạng chống phong kiến”(22). Người cũng phân tích: như vậy vấn đề nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc. Và nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân. Theo Người, cơ sở của luận đề này là:

1. “Vì nông dân là tối đại đa số trong các dân tộc”(23); “Trong tất cả các thuộc địa Pháp, công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất yếu ớt và nông dân hầu hết làm nghề nông, 95% dân số bản xứ làm nghề nông”(24); “Nước ta kinh tế chưa phát đạt, trong 100 người thì đến 90 người là dân cày”(25).

2. Dưới thời thực dân phong kiến, nông dân lao động nước ta là những người “bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước”(26). Họ bị áp bức, bóc lột hơn ai hết trong dân tộc. Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thực dân phong kiến là mâu thuẫn giữa nông dân với chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai. Bởi vậy “Nội dung cách mạng dân chủ căn bản là giải phóng nông dân, chia ruộng đất cho nông dân. Nội dung cách mạng dân tộc cũng là giải phóng cho nông dân”(27).

III. HỒ CHÍ MINH BÀN VỀ NÔNG DÂN VÀ VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Vận động nông dân là nhiệm vụ của toàn Đảng, Nhà nước và Mặt trận, nhưng chủ yếu và trực tiếp là Hội Nông dân, là nhiệm vụ của các cán bộ, Đảng viên ở cơ sở mà tuyệt đại đa số trong họ đều xuất thân từ giai cấp nông dân. Do vậy, địa phương và cơ sở vận động nông dân phải xuất phát từ đặc điểm của nông dân, từ nhiệm vụ chính trị của cách mạng. Và người đi vận động nông dân có phong cách phù hợp với đối tượng được vận động, tuyên truyền là nông dân.

1. Đặc điểm và tiềm năng của nông dân Việt Nam Muốn vận động nông dân làm cách mạng, trước hết phải hiểu về đặc điểm và tiềm

năng của họ.1.1. Đặc điểm cơ bản của nông dân Việt Nam

(21) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, NxbCTQG, H.1996, tr. 209 - 210(22) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.1996, tr. 475(23) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.1996, tr. 15(24) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1996, tr. 283(25) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1996, tr. 308(26) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 204(27) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.1996, tr.25

Page 7: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

Năm 1923, Hồ Chí Minh viết: “Nông dân trong các thuộc địa Pháp bị hai tầng bóc lột: vừa như người vô sản vừa như người bị mất nước”(28). Đây là cách tiếp cận đặc sắc của Hồ Chí Minh để tìm những đặc điểm của nông dân ta.

- Nông dân tham gia trên tất cả các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đều là những người lao động - nhân tố chủ yếu của lực lượng sản xuất và là người tư hữu nhỏ. Vào những năm 1925 - 1926, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp “đất thì xấu, phương pháp canh tác thì lạc hậu, do đó năng suất rất kém. Sản lượng một hecta ở Châu Âu là 4.670 kg thóc… còn ở Đông Dương thì chỉ có 1.210 kg”(29). Năm 1949, Hồ Chí Minh vẫn nhận định: “Nước ta là một nước nông nghiệp. Hơn 9/10 dân ta là nông dân. Hơn 9/10 nông dân ta là trung, bần và cố nông”(30). Phú nông được coi là tiểu chủ, phú hào. Như vậy từ đặc điểm nông nghiệp lạc hậu cả về trình độ canh tác và chế độ sở hữu ruộng đất, dẫn đến đặc điểm giai cấp nông dân có cơ cấu không thuần nhất và sự phân tầng giai cấp không đều trong nội bộ nông dân. Đây chính là cơ sở kinh tế để Hồ Chí Minh xác định lực lượng của cách mạng Việt Nam nhằm giải phóng nông dân.

Hồ Chí Minh khẳng định: dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thì giai cấp nông dân sẽ là “chủ cách mạng”, “gốc cách mạng”, “động lực cách mạng”. Nhận định đúng đắn này xuất phát từ đặc điểm chung của nông dân Việt Nam và nó là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.

- Nông dân Việt Nam là lực lượng chủ yếu, đông đảo nhất của dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến. Họ làm nên những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc và những giá trị văn hóa đó lại kết tinh trong người nông dân Việt Nam, làm nên sức mạnh Việt Nam tiến những bước dài trong lịch sử nhiều thiên niên kỷ của dân tộc. Với lịch sử hàng nghìn năm tồn tại, người nông dân Việt Nam luôn luôn tiêu biểu cho truyền thống yêu nước nồng nàn, cố kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc, như bệ đỡ cho dân tộc bảo tồn và phát triển.

- Đầu những năm 20 của thế kỷ trước, trong bài “Nước An Nam dưới con mắt người Pháp”, Hồ Chí Minh đã dẫn lời một người Pháp nhận xét về Việt Nam, ông Đờ Vuốc Vin cũng viết: “Chúng ta thấy ở đây cả một nền văn minh, mọi thứ đều xây dựng từ lâu. Nghệ thuật, khoa học, kể cả khoa học quản lý Nhà nước đều đã phát triển mạnh mẽ. Luật pháp cổ phong tôn giáo, văn học tất cả đã hoàn chỉnh và hoà hợp với nhau, trải qua bao nhiêu thế kỷ, đã được điều hoà và ngày càng hoàn hảo thêm. Những vết tích man rợ đã mất từ lâu, dân tộc đã sống trong một xã hội thuần thục có tổ chức trong khi những người phương Tây còn ở trạng thái bán khai. Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, tôn kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, coi trọng lời nói thánh hiền, thương yêu nòi giống, tôn kính lẽ phải, ghét xa hoa, không hám tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ hy sinh; đó là những đức tính răn dạy trong sách thánh hiền, lưu lại trong cổ phong và ghi thành luật pháp; hiện nay đó cũng chính là những đặc điểm về bản tính của người An Nam hình thành từ bao thế hệ, những thế hệ luôn cố gắng thực hiện đạo đức ấy một cách thành kính; người An Nam bình thường mà người ta gặp bất cứ ở đâu cũng đều như vậy cả”(31).

- Người nông dân Việt Nam cũng có hạn chế của người sản xuất nông nghiệp lạc hậu, của mặt trái việc đề cao tính huyết tộc. Những hạn chế này làm cho người nông dân Việt Nam bị cầm tù trong tâm lý và khả năng làm chủ. Họ có thể làm chủ trong gia đình, (28) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 208(29) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1995, tr. 229(30) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, tr. 170(31) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 425, 426.

Page 8: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

làng xóm nhưng với tầm vĩ mô đất nước dễ bị tư tưởng địa phương, cục bộ, đầu óc gia trưởng, bản vị kìm giữ. Những khái quát trong dân gian: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “phép vua thua lệ làng” nếu hiểu cực đoan sẽ dẫn đến không tốt trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng xã hội pháp quyền. Giai cấp nông dân Việt Nam không thể tự giải phóng, một mặt, do địa vị kinh tế - xã hội của họ, mặt khác do những tác động, ảnh hưởng của những điều nêu trên.

1.2. Tiềm năng của nông dân Việt NamKhi đánh giá giai cấp nông dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thấy ở họ những tiềm

năng to lớn và quý giá.Với số lượng chiếm đại bộ phận trong dân tộc, nên “Đồng bào nông dân sẵn có

lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh”(32).

Nhìn rõ tiềm năng to lớn của nông dân, Hồ Chí Minh đã kêu gọi dân tộc, trong đó “nông dân là quân chủ lực” hãy đứng dậy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Nhờ vậy, cách mạng tháng Tám đã thành công ở Việt Nam.

Thực hiện sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, Hồ Chí Minh lại chỉ ra: “nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”(33).

Thời gian cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định: “tối đại đa số nhân dân ta là nông dân. Mấy năm nay nhờ lực lượng nông dân mà kháng chiến được thắng lợi. Sau này cũng nhờ lực lượng nông dân mà kháng chiến được hoàn toàn thắng lợi, kiến quốc đi đến thành công”(34).

2. Vận động nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ Theo Hồ Chí Minh: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm

vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi”.

Người chỉ dẫn: “Vận động nông dân là phải vận thế nào cho toàn thể nông dân động, nghĩa là: làm cho nông dân hiểu quyền lợi của dân tộc và của giới mình; làm cho nông dân vào Hội Nông dân cứu quốc cho đông, để phấn đấu cho mục đích của mình và tích cực tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc”(35).

Bởi vậy: “Nông vận là phải:- Tổ chức nông dân thật chặt chẽ.- Đoàn kết nông dân thật khăng khít.- Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.- Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ

quốc”(36).2.1. Tổ chức nông dân thật chặt chẽQuần chúng nông dân chỉ có sức mạnh khi được giác ngộ. Nhưng sức mạnh của

nông dân chỉ trở thành hiện thực, thành sức mạnh vật chất khi nông dân được tổ chức. (32) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 710(33) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 1710(34) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.1995, Tr.179(35) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, Tr.711(36) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr.710

Page 9: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

Khi nông dân có tổ chức thì sức mạnh của họ được nhân lên gấp bội. Giác ngộ và tổ chức nông dân là những khâu, những nấc thang liên hoàn trong công tác vận động nông dân của Hồ Chí Minh. Quan điểm này thống nhất và xuyên suốt trong quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh.

Trước và sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh mở nhiều lớp bồi dưỡng những thanh niên yêu nước, trong đó có nhiều con em nông dân; người viết tài liệu, báo, Chỉ thị, truyền đơn để tuyên truyền giác ngộ nông dân và hướng dẫn họ thành lập các tổ chức tập hợp quần chúng, lúc đầu là những hội cấy, hội cày, hội nhổ mạ, hội lợp nhà, hội chẻ lạt, hội học chữ quốc ngữ… đến thành lập các Hội Nông dân cứu quốc trong hệ thống Mặt trận Việt Minh. Trong Mặt trận Việt Minh thì lấy việc xây dựng liên minh công nông làm gốc, làm hạt nhân để xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc.

2.2. Đoàn kết nông dân thật khăng khítGiác ngộ, tổ chức phải đi đến đoàn kết nông dân thật khăng khít. Muốn đoàn kết

được nông dân thì tổ chức của nông dân phải xác định rõ mục tiêu, nội dung của tổ chức. Năm 1941, về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã xây dựng tổ chức đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận Việt Minh, trong đó có khối đoàn kết của giai cấp nông dân liên minh với giai cấp công nhân làm hạt nhân, làm gốc của khối đoàn kết dân tộc. Mặt trận Việt Minh đã đưa ra mục tiêu, nội dung hoạt động của mình thông qua 10 chính sách của Việt Minh phổ biến rộng rãi trong dân chúng. Tổ chức thành viên của Mặt trận Việt Minh là Hội Nông dân cứu quốc ở các cấp căn cứ vào 10 chính sách của Việt Minh mà đề ra nội dung hoạt động cụ thể của mình và thực hiện đoàn kết thật khăng khít, biến cương lĩnh của khối đoàn kết toàn dân tộc thành hiện thực sinh động.

Trước cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh chỉ cho thấy, các Hội Nông dân cứu quốc phải biết vận động đoàn kết nông dân qua các hoạt động của nông dân chống Nhật, Pháp giữ gìn trật tự an ninh xóm, làng, bản; tổ chức bà con giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống. Khi thời cơ cách mạng chín muồi thì xiết chặt khối đoàn kết phát động nông dân phá các kho thóc của Nhật cứu nông dân đang chết đói. Trong kháng chiến kiến quốc, Hồ Chí Minh hướng dẫn các Hội Nông dân phải biết đoàn kết nông dân thực hiện các phong trào thi đua:

- “Thi đua tăng gia sản xuất để diệt giặc đói.- Thi đua học chữ quốc ngữ để diệt giặc dốt.- Thi đua giúp đỡ bộ đội, xây dựng dân quân du kích diệt giặc ngoại xâm”(38). Như vậy, mục tiêu, nội dung hoạt động của tổ chức nông dân không những đã

đoàn kết chặt chẽ nông dân lại, mà còn đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng thiết thực của người nông dân.

2.3. Huấn luyện nông dân thật giác ngộVới Hồ Chí Minh, tuyên truyền, vận động, huấn luyện nông dân là bước đầu tiên

cực kỳ quan trọng trong quá trình thực hiện công tác vận động nông dân tham gia cách mạng. Ngay năm 1923, đang hoạt động ở Châu Âu, Hồ Chí Minh đã nói với bạn bè quốc tế cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(37).

Hồ Chí Minh quan niệm: làm cách mạng dân tộc dân chủ là sự nghiệp của toàn

(38) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr.711(37) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1995, Tr.192

Page 10: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

dân. Chỉ có thể xây dựng được lực lượng cho cuộc cách mạng này trên cơ sở nhân dân mà chủ yếu là nông dân hiểu rõ cuộc sống của họ, của con cháu họ gắn bó với quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc. Chỉ có dân tộc độc lập thì quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của người nông dân mà trước hết là “người cày có ruộng” mới thực hiện được. Khi đó người nông dân mới tự giác tham gia đội quân cách mạng và họ mới có đủ nhận thức và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, kể cả sự hy sinh tính mạng để đưa cách mạng tới thắng lợi.

Khi về đến Trung Quốc, cũng như lúc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn thường căn dặn cán bộ rằng: trước khi đưa quần chúng ra đấu tranh phải tuyên truyền, giáo dục họ một cách tỷ mỷ, chu đáo. Người lưu ý là không sợ làm việc tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhiều lần.

2.4. Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ quốc

Quá trình tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, thực hiện đoàn kết nông dân là quá trình đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điểm khác biệt căn bản trong tư tưởng, đường lối cứu nước đem lại tự do, độc lập cho dân tộc, “ruộng đất cho dân cày” của Hồ Chí Minh so với mọi cuộc vận động cứu nước trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nói chung và đối với giai cấp nông dân nói riêng là một nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để bảo đảm nguyên tắc này, Hồ Chí Minh chỉ ra yêu cầu từ cấp vĩ mô, Đảng phải đề ra được đường lối cách mạng, đường lối với giai cấp nông dân đúng đắn; tổ chức Đảng các cấp phải cụ thể hóa đường lối của Đảng và đảng viên, cán bộ trong các tổ chức của nông dân phải đi đầu, tiên phong gương mẫu phấn đấu cho lợi ích của nông dân và của Tổ quốc. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu: “cán bộ, nông dân phải tránh bệnh chủ quan, bệnh hình thức, bệnh giấy tờ”. Người yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận huyện, các xã; cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ”. Thực hiện những yêu cầu đó là nhằm “để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát, rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nông dân và học hỏi dân”. Về mặt tổ chức thì “trong các cấp chính quyền cũng như trong ban lãnh đạo Nông hội, phải có những anh em bần nông, cố nông tham gia thực sự”(39), tức phải có đại biểu chân chính của giai cấp nông dân.

3. Vận động nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩaHồ Chí Minh chỉ rõ: con đường sống của dân tộc, của nông dân Việt Nam là đoàn

kết dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giành độc lập và đi lên chủ nghĩa xã hội. Khi giành được độc lập dân tộc thì tiến lên chủ nghĩa xã hội, tự do, hạnh phúc thật sự không phải tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam “cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”. Đó “là một cuộc chiến đấu khổng lồ”. “Là cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài, giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển”. Bởi vậy, sự nghiệp “xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người. Không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”. Người khẳng định: Mục đích của chủ nghĩa xã hội là nhằm (39) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 711

Page 11: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

“không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(40), và “chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”(41).

Vậy chủ nghĩa xã hội có phải là kết quả hành động tự phát của nhân dân không? Rõ ràng là không, mà ngược lại nó là kết quả của hành động tự giác của toàn dân, trong đó lực lượng của nông dân vẫn là chủ yếu nhất. Vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(42). Năm 1954 miền Bắc được giải phóng đi vào thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh thì việc tuyên truyền, vận động nhân dân ta phải nhằm làm cho nhân dân ta, nông dân ta: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”(43).

3.1. Vận động nông dân thực hiện đoàn kếtMặt trận dân tộc thống nhất là cái vỏ vật chất để đoàn kết các giai cấp, tầng lớp và

cá nhân yêu nước trong suốt con đường cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Chính vì thế, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”. Vì vậy, “chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng, công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”(44) nhằm đoàn kết toàn dân, đoàn kết giai cấp nông dân thực hiện thắng lợi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa thì Mặt trận, Hội Nông dân vẫn là tổ chức tuyên truyền, giáo dục, vận động nông dân đoàn kết chặt chẽ, thực hiện liên minh công nông làm hạt nhân cho khối đoàn kết toàn dân thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đáp ứng đòi hỏi này phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và Hội Nông dân; phải phát huy cao độ vai trò của Mặt trận và Hội Nông dân và Hội phải gương mẫu đi đầu thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ, Cương lĩnh của Mặt trận và mục tiêu của Hội Nông dân đặng mang lại lợi ích cho nông dân, cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

3.2. Vận động nông dân thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất nước nhà

Khi đất nước còn tạm thời chia cắt, Hồ Chí Minh chỉ ra: miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là yếu tố “gốc” cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Ngày nay, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động nông dân thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa thiết thực vận động nông dân trong sự nghiệp đổi mới.

3.2.1. Vận động nông dân vào hợp tác xã, phát triển sản xuấtThực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, công tác vận động nông dân cần phải làm

cho nông dân nhận thức rõ: xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là nhằm không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, của nông dân. Điều đó được thể hiện trước tiên ở

(40) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 271(41) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 133(42) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 505(43) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 130(44) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 605

Page 12: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, người khẳng định “tất cả đường lối, phương pháp, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng”(45). Tất cả Đảng, Chính phủ phải lo, nhưng nhân dân, nông dân phải được giáo dục về nhận thức là để đời sống của mình không ngừng được nâng cao chỉ có một con đường tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa theo đường lối của Đảng.

Nông dân muốn phát triển sản xuất, nâng cao đời sống phải đi vào xây dựng hợp tác xã. Đó là nội dung phải tuyên truyền cho nông dân hiểu. Hồ Chí Minh giải thích cho nông dân hiểu rằng, kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ: nông dân phải kinh qua hai cuộc cách mạng: cải cách ruộng đất là một cuộc, cuộc thứ hai là từ chỗ thực hiện tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ xã hội hóa nông nghiệp.

Hồ Chí Minh nêu: Hoàn thành cải cách ruộng đất phải đẩy mạnh phong trào cải tiến kỹ thuật như thủy lợi, phân bón, nông cụ; phải ra sức bảo vệ sản xuất, đề phòng thiên tai, đề phòng địch phá hoại. “Để làm tốt những việc trên chúng ta phải động viên lòng hăng hái sản xuất của nhân dân, củng cố và mở rộng phong trào tổ đổi công”(46). Quan điểm của Hồ Chí Minh vận động nông dân xây dựng tổ đổi công có kết quả là phải khéo tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, phải khéo lãnh đạo làm cho các tổ viên ai cũng hăng hái làm việc, ai cũng được hưởng lợi công bằng, phải có tổ trưởng hay ban quản trị, quản trị phải dân chủ. Phương châm xây dựng tổ đổi công là lúc đầu cần phát triển cho nhiều tổ đổi công từng vụ, từng việc rồi mới tiến lên xây dựng tổ đổi công thường xuyên; phương pháp tổ chức tổ đổi công: không được ham làm mau, ham rầm rộ, mà phải thiết thực; phải đi từ nhỏ đến lớn; phải thường xuyên rút kinh nghiệm; phải tổ chức thi đua; tổ đổi công phải rất đoàn kết; và tổ đổi công phải có lãnh đạo tốt.

Xây dựng hợp tác xã, phát triển sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm của nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn hoàn thành nhiệm vụ đó, theo Hồ Chí Minh: công tác vận động nông dân trước hết là phải tiến hành cách mạng về tư tưởng trong nông dân; xây dựng hợp tác xã thì phải đi đúng đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn, trước hết là dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông; giữ vững khối đoàn kết chặt chẽ trong hàng ngũ nông dân lao động như anh em một nhà; xây dựng hợp tác xã phải tuân thủ nguyên tắc: tự nguyện, tự giác, dân chủ và cùng có lợi; tổ chức phải từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao.

Xây dựng hợp tác xã phải đi liền với phát triển sản xuất. Vì vậy, công tác vận động nông dân phải nhằm vào những yếu tố quyết định phát triển sản xuất mà vận động nông dân tham gia tích cực. Theo Hồ Chí Minh có 8 khâu: Một là, phải có đủ nước trong canh tác, phải thực hiện toàn dân làm thuỷ lợi; hai là, trong canh tác phải chú trọng đến phân bón, phải phát triển chăn nuôi; ba là, phải cày sâu, phải cải tiến công cụ làm đất; bốn là, phải có giống tốt; năm là cấy đều; sáu là, trừ sâu, diệt chuột; bảy là, phải cải tiến nông cụ; tám là, công tác quản lý tốt. Theo Hồ Chí Minh, vận động nông dân thực hiện liên hoàn 8 điều trên thì “thóc bông đầy bồ” tức là sản xuất phát triển, năng suất tăng, đời sống nông dân được nâng cao, hợp tác xã được củng cố và phát triển, như vậy nông dân đã thiết thực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

3.2.2. Vận động nông dân củng cố hợp tác xã, xây dựng nông thôn mới, đời sống mới

Khi phong trào hợp tác xã căn bản hoàn thành, để tiếp tục phát triển sản xuất, nâng

(45) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 380 (46) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.1996, Tr.92

Page 13: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

cao đời sống nông dân, xã viên, theo Hồ Chí Minh, công tác vận động nông dân cần chú ý làm tốt mấy vấn đề: Một là, vận động nông dân phát triển hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao; hai là, thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: phải “ra sức củng cố hợp tác xã về mọi mặt. Tiến hành tốt cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, nhất là quản lý dân chủ và tài chính công khai, chống tham ô, lãng phí”(47) .

Hồ Chí Minh yêu cầu phải chuẩn bị thật tốt khi có đủ điều kiện mới đưa hợp tác xã lên bậc cao. Phải vận động được toàn thể cán bộ, xã viên nêu cao tinh thần đoàn kết, tinh thần làm chủ; thực hiện cần kiệm xây dựng hợp tác xã, chống lãng phí, tham ô; quản trị phải thật dân chủ, công bằng, minh bạch; cán bộ, đảng viên, thanh niên, dân quân tự vệ phải xung phong gương mẫu; sản xuất toàn diện, làm tốt tám biện pháp liên hoàn. Hồ Chí Minh nói: “Gọi là hợp tác xã bậc cao thì đoàn kết phải cao, thu nhập chung của hợp tác xã phải cao, sản xuất phải cao, thu nhập riêng của xã viên phải cao”(48).

- Vận động nông dân củng cố hợp tác, phát triển sản xuất đi liền với xây dựng nông thôn mới, con người mới.

+ Xây dựng nông thôn mới, trước hết Hồ Chí Minh chú ý xây dựng chủ thể của nông thôn - là xây dựng con người mới ở nông thôn. Xây dựng người nông dân xã hội chủ nghĩa; xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa đi liền với xây dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, muốn no cơm, ấm áo thì mọi người phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm; nông dân phải cần kiệm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp cho tốt, cho vững. Cụ thể:

Cán bộ, ban quản trị phải công bằng, dân chủ.Xã viên phải nêu cao tinh thần làm chủ, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, thi đua sản

xuất và thực hành tiết kiệm.+ Vận động xây dựng gia đình mới ở nông thôn.Gia đình nghĩa hẹp: Là từng gia đình cụ thể (gia đình nhỏ).Gia đình nghĩa rộng: Là tập thể, là cả nước (gia đình lớn).Xây dựng gia đình nhỏ: Phải thực hiện nam nữ bình quyền; phải nâng cao những

truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong đời sống gia đình.+ Vận động xây dựng nông thôn mới:Xây dựng sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt, đặc biệt là kinh tế và văn hóa,

xây dựng về văn hóa, về phong tục, về vệ sinh…+ Vận động xây dựng Đảng ở nông thôn.“Cái gốc trong việc lãnh đạo hợp tác xã vẫn là chi bộ Đảng cơ sở”(49)

Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu.Xây dựng Đảng mạnh ở nông thôn còn là xây dựng và phát huy vai trò của Hội

Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ.3.2.3. Vận động nông dân phát triển nông nghiệp toàn diện và thực hiện công

nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa- Cần vận động, giải thích cho nông dân hiểu rõ vì sao phải phát triển nông nghiệp

toàn diện; một là, nhằm đáp ứng đời sống của nhân dân, của nông dân ngày càng tăng;

(47) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 582(48) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 403(49) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 415

Page 14: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

hai là, phát triển nông nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát triển bản thân nền nông nghiệp Việt Nam; ba là, phát triển nông nghiệp toàn diện sẽ góp phần thúc đẩy công nghiệp phát triển; bốn là, xuất phát từ đặc điểm tự nhiên phong phú, thuận lợi của nước ta.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về một nền nông nghiệp toàn diện là phải phát triển cả ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, nghề phụ gia đình. Nhưng quan niệm phát triển nông nghiệp toàn diện của Hồ Chí Minh không phải theo lối manh mún, tự cấp, tự túc mà trên cơ sở có quy hoạch của một nền sản xuất hàng hóa phát triển theo quy mô lớn phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa.

- Cần vận động nông dân hiểu rõ tính tất yếu của công nghiệp hóa và mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp để giai cấp nông dân chủ động tích cực tham gia công nghiệp hóa.

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được cần phải có kỹ nghệ nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”(50).

Ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp thì công nghiệp hóa là tất yếu.Thực hiện công nghiệp hóa từ một nước nông nghiệp lạc hậu thì phải lấy nông

nghiệp làm cơ sở, làm khâu đột phá.Và công nghiệp hóa thành công thì nước ta mới thực sự giàu có, nông dân mới

phát triển được.Để nông nghiệp làm cơ sở cho công nghiệp hóa, người nông dân phải: “Cải tiến kỹ

thuật để phát triển nông nghiệp”(51); phải thực hiện biện pháp kỹ thuật liên hoàn, đó là “guồng máy” của nông nghiệp; quản trị phải dân chủ; chí công vô tư, đảng viên và đoàn viên thanh niên phải gương mẫu trong mọi việc; xã viên phải đoàn kết nhất trí, làm đúng nghĩa vụ của người chủ, làm đúng khẩu hiệu “cần kiệm xây dựng hợp tác xã”.

IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG PHONG CÁCH CỦA CÁN BỘ HỘI NÔNG DÂN

1. Khái niệmPhong cách công tác là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm

cách đã trở thành nề nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó.

Phong cách công tác có liên quan chặt chẽ với đạo đức. Cần kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là những phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi con người, nhưng được thể hiện trong phong cách công tác ở mỗi con người lại có sự khác biệt, rất khác nhau.

Phong cách công tác có đặc điểm là gắn với truyền thống, tập quán, thói quen do hoàn cảnh sống của mỗi người quy định.

Nếu những truyền thống tốt đẹp có sức sống bền vững đi vào phong cách công tác, thì những tập quán, thói quen xấu thường có sức ỳ to lớn, cản trở việc xây dựng phong cách mới.

Việc xây dựng phong cách công tác mới, mang tính cách mạng và khoa học phải kết hợp nhận thức lý tính với việc phát huy những truyền thống tốt đẹp và khắc phục những tập quán, thói quen xấu, vốn thường níu kéo con người trong các hoạt động hàng ngày để có một phong cách công tác khoa học, chính xác, khẩn trương thì việc khắc (50) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 272(51) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 82

Page 15: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

phục thói quen lề mề, luộm thuộm, đại khái là việc hoàn toàn không đơn giản, dễ dàng.Phong cách công tác còn có đặc điểm là mang dấu ấn cá nhân rất rõ rệt. Mỗi cán

bộ cần nhận ra “tính trội” của mình để có ứng xử trong công tác cho đúng mực và cần phải có phương pháp tu dưỡng, rèn luyện, phát huy những mặt ưu điểm, khắc phục những nhược điểm trong quá trình công tác.

2. Những yêu cầu chủ yếu về phong cách công tác của người cán bộ Hội Nông dân

- Người cán bộ Hội Nông dân có vai trò to lớn về vận động nông dân trong tiến trình cách mạng. Để hoàn thành trọng trách đó đòi hỏi cán bộ Hội phải có phong cách công tác tốt.

- Người cán bộ Hội phải có tác phong quần chúng, sâu sát cơ sở, liên hệ mật thiết với nông dân.

Hồ Chí Minh dạy: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Như vậy, cán bộ Hội Nông dân là gốc trong việc vận động nông dân. Muốn hoàn thành vị trí “cái gốc” đó đòi hỏi người cán bộ Hội phải có phong cách công tác:

+ Sâu sát nông dân, tìm hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của hội viên, nông dân, quan tâm đến mọi mặt đời sống của họ.

+ Phải tin yêu, tôn trọng, lắng nghe ý kiến và kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và tham gia giải quyết những kiến nghị chính đáng của hội viên, nông dân.

+ Tự mình gương mẫu để xứng đáng với sự tin cậy của quần chúng nhân dân. Cán bộ Hội phải thực hiện lời nói đi đôi với việc làm.

+ Ra sức tuyên truyền, giáo dục, động viên hội viên, nông dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham gia đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà nước trong việc đề ra những chủ trương, chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

+ Cán bộ Hội Nông dân phải “từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” chớ lên mặt “quan cách mạng”, “quan nhân dân”…; phải phê phán thói mệnh lệnh, cửa quyền, cưỡng bức, ức hiếp nông dân, không chịu lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị của nông dân.

Cán bộ Hội Nông dân các cấp phải thường xuyên đi cơ sở, tiếp xúc với nông dân, nghe nông dân nói. Khi tiếp xúc với nông dân, “muốn dân chúng thành tâm bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi gợi cho họ nói”. “Muốn như thế thì cán bộ Hội Nông dân phải tránh bệnh chủ quan, bệnh hình thức, bệnh giấy tờ… Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ”(52). Phải có thái độ cởi mở, vui vẻ, khiêm tốn với nông dân.

- Cán bộ Hội Nông dân phải có tác phong tập thể, dân chủ. Đặc biệt cán bộ chủ chốt phải nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Và “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả mọi lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”(53); cán bộ Hội phải thực hiện tốt quy (52) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 711(53) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 249

Page 16: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; phải thực sự cầu thị, thẳng thắn lắng nghe và tôn trọng ý kiến của mọi người, kể cả ý kiến trái với mình. Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà… Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu”(54).

- Người cán bộ Hội Nông dân phải có tác phong khoa học.+ Làm bất cứ việc gì, người cán bộ Hội cũng phải đi sâu, đi sát, điều tra, nghiên

cứu, nắm chắc tình hình cụ thể.+ Làm việc phải có mục đích rõ ràng, có chương trình, kế hoạch đặt ra phải sát hợp

với thực tiễn công tác Hội và phong trào nông dân.+ Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện của cấp dưới, của hội viên,

nông dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “đầy túi quần thông báo, đầy túi áo Chỉ thị mà công việc vẫn không chạy”.

+ Cán bộ Hội lãnh đạo, chỉ đạo phải cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm.

+ Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, cán bộ Hội phải thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm sớm phát hiện những điển hình, gương người tốt, việc tốt để phổ biến nhân ra diện rộng và kịp thời khắc phục những thiếu sót lệch lạc. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Sau mỗi một việc cần phải rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm riêng của từng cán bộ, từng địa phương. Kinh nghiệm chung tất cả các cán bộ và các địa phương. Kinh nghiệm thất bại, kinh nghiệm thành công. Rồi tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm ấy cho khắp tất cả cán bộ, tất cả địa phương. Mỗi một cán bộ, mỗi một địa phương sẽ học những kinh nghiệm hay, tránh những kinh nghiệm dở, áp dụng những kinh nghiệm cũ vào những công việc mới”(55).

Xây dựng phong cách công tác khoa học, hiện đại, sâu sát cơ sở, tập thể, dân chủ… là rất cần thiết đối với cán bộ Hội, nhất là cán bộ chủ chốt, cán bộ lãnh đạo các cấp Hội nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác Hội hiện nay./.

(54) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 280(55) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 520, 54(55) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 520, 54

Page 17: Bài 1 - Bắc Kạn Provincehoinongdan.backan.gov.vn/DocumentLibrary/347646fb32acb45... · Web viewThế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí