bỒi dƯỠng thƯỜng xuyÊnthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/thu... · web...

35
Ngày 20 tháng 10 năm 2014 MÃ MÔ ĐUN 19 (15 tiết) (Gv tự bồi dưỡng 10 tiết, Lý thuyết 2 tiết; Thực hành 3 tiết) ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN GIẢNG DẠY Ở nước ta, vấn đề ứng dụng ICT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của Chính phủ về chương trình quốc gia đưa công nghệ thông tin (CNTT) vào giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010,… Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020; Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012; Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục. Chỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2005 nêu rõ “CNTT là phương tiện để tiến tới một xã hội

Upload: others

Post on 25-Dec-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

Ngày 20 tháng 10 năm 2014MÃ MÔ ĐUN 19

(15 tiết) (Gv tự bồi dưỡng 10 tiết, Lý thuyết 2 tiết; Thực hành 3 tiết)

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN GIẢNG DẠY

Ở nước ta, vấn đề ứng dụng ICT trong giáo dục, đào tạo được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, coi yêu cầu đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều hết sức cần thiết. Các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Bộ Giáo dục – Đào tạo đã thể hiện rõ điều này, như: Nghị quyết CP của Chính phủ về chương trình quốc gia đưa công nghệ thông tin (CNTT) vào giáo dục đào tạo (1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Luật giáo dục (1998) và Luật giáo dục sửa đổi (2005), Nghị quyết 81 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010,…

Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020;

Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012;

Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục.

Chỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 – 2005 nêu rõ “CNTT là phương tiện để tiến tới một xã hội hóa học tập”, nhưng “giáo dục và đào tạo phải đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển của CNTT ”.

Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong quản lý và dạy học là một bước chuyển hóa tiến bộ của ngành Giáo dục trong những năm qua. CNTT đã thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đổi mới trong giáo dục, tạo ra công nghệ giáo dục (Educational Technology) với nhiều thành tựu rực rỡ.CNTT làm thay đổi nội dung, hình thức và phương pháp dạy học một cách phong phú. Việc ứng dụng CNTT trong công tác dạy học có hiệu quả rút ngắn khoảng cách giáo dục giữa các đơn vị trường, tiện cho trao đổi thông tin chương trình, phương pháp giảng dạy, tạo ra môi trường tương tác; tiến đến đưa ứng dụng CNTT vào việc giao ban trực tuyến. Các hình thức  dạy học như dạy theo lớp, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin. Mối giao lưu giữa người và máy đã trở thành tương tác hai chiều với các phương tiện đa truyền thông (multimedia) như âm thanh, hình ảnh, video,.. mà đỉnh cao là e-learning (học trực tuyến qua mạng Internet).

Page 2: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

Nếu muốn việc dạy học theo kịp cuộc sống, mỗi một giáo viên (GV) nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin và các trang thiết bị dạy học hiện đại và phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành, hứng thú học tập của học sinh (HS) để nâng cao chất lượng dạy và học.1. Vai trò và tầm quan trọng của CNTT dạy học

Trong một thời gian dài, thầy cô chúng ta được trang bị phương pháp để truyền thụ tri thức cho học sinh theo quan hệ một chiều: Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận. Với phương pháp giảng dạy này, các em học sinh như một cái kho và thầy cô chúng ta đem bất kỳ một điều tốt đẹp nào của khoa học để chất đầy cái kho đó. Kết quả là học sinh học tập một cách thụ động, thiếu tính độc lập sáng tạo trong quá trình học tập.

Theo quan điểm giáo dục hiện đại, dạy học là một quá trình tương tác (GV – HS, HS – HS, HS - GV, HS với những người hiểu biết hơn…), trong đó, “học” là một hoạt động trung tâm. Và, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ, chưa có chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Để đạt được điều ấy, trong quá trình dạy học, người thầy cần phải thức tỉnh trong tâm hồn các em học sinh tính ham hiểu biết, dạy các em biết suy nghĩ và hành động tích cực. Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) để học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập là một vấn đề cần thiết và không thể thiếu được. Bởi, chỉ có đổi mới PPDH, chúng ta mới góp phần khắc phục những biểu hiện trì trệ nghiêm trọng trong giáo dục hiện nay; chỉ có đổi mới PPDH chúng ta mới góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo và chỉ có đổi mới PPDH chúng ta mới tham gia được vào “sân chơi” quốc tế trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và tiếp cận phương pháp giáo dục mới theo quan điểm giáo dục hiện đại.

Vì những lẽ đó, việc đổi mới PPDH hiện nay không chỉ là phong trào mà còn là một yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên.

Do đó, việc ứng dụng CNTT và thực hiện các thí nghiệm ảo trên máy tính, là giải pháp thiết thực, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng, sâu sắc, và tạo sự hứng thú học tập cho học sinh trong từng bài học

Xuất phát từ những vấn đề thực tế, qua bài tham luận xin giới thiệu đến quý thầy cô và các em học sinh một số phần mềm hỗ trợ thực hiện thí nghiệm ảo và một số địa chỉ webside hỗ trợ cho việc dạy, học, và nghiên cứu.

PPDH là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Để đổi mới PPDH, đòi hỏi người thầy không chỉ có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng mà còn phải tự mình vượt qua những thói quen đã ăn sâu, bám rễ (một số thầy cô giáo viên nhiều năm bám theo chương trình cũ, phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào nghiệp vụ sư phạm nên rất khó để dứt bỏ trong ngày một, ngày hai). Để đổi mới PPDH, đòi hỏi người thầy phải làm quen với công nghệ thông tin (CNTT) và những phương tiện dạy học hiện đại, sử dụng được đa dạng các hình thức kiểm tra đánh giá, tiếp cận với những đòi hỏi mới về yêu cầu kiến thức, kĩ năng cũng như tâm lý của học trò....

Page 3: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

Vì thế, nếu trình độ ứng dụng CNTT hạn chế, sử dụng các thiết bị hiện đại không thành thạo thì thầy cô giáo viên chúng ta sẽ lúng túng hoặc khó tiếp cận với yêu cầu đổi mới  PPDH hiện đại.Tìm hiểu về vấn đề đổi mới PPDH ở các trường hiện nay, chúng tôi ghi nhận được một số thuận lợi và khó khăn như sau:

Về mặt thuận lợi:- Các trường trong tỉnh hiện nay đã được Sở Giáo dục và Đào tạo trang bị

máy vi tính và đèn chiếu (Projectore) đến từng lớp học (ở một số trường thuộc vùng xa, số máy vi tính và đèn chiếu được trang bị ít nhất cũng bằng ½ tổng số lớp của trường).

- Sở Giáo Giáo dục và Đào tạo, các trường trong tỉnh cũng đã tổ chức nhiều đợt bồi dưỡng tin học cho cán bộ, giáo viên và công nhân viên. Tại một số trường, giáo viên đã được học các lớp phổ cập tin học và được hướng dẫn cách soạn một bài giảng điện tử, cách thức ứng dụng các thiết bị hiện đại, CNTT vào quá trình dạy học. Kết quả, giáo viên đã biết ứng dụng CNTT và các thiết bị hiện đại vào việc soạn giảng và bước đầu đã mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng dạy học cũng như việc đổi mới PPDH.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn một số hạn chế cần rút kinh nghiệm:

- Một trong những biểu hiện của việc đổi mới PPDH là chúng ta cần đa dạng hóa và vận dụng nhuần nhuyễn các hình thức học tập: Học sinh làm việc cá nhân, thảo luận nhóm, … Với cơ sở vật chất hiện nay – bàn ghế cố định - thì việc tổ chức thảo luận nhóm cũng gặp một số khó khăn trong quá trình di chuyển (với một số nước tiên tiến hoặc một số trường trong nước, mỗi bàn chỉ có một học sinh thì việc tổ chức thảo luận nhóm trong giờ dạy rất thuận tiện).

- Ứng dụng CNTT và các phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học là một trong các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đổi mới PPDH theo quan điểm hiện đại nhưng hiện tại vẫn còn một số giáo viên vì trình độ ứng dụng CNTT còn hạn chế, hoặc chưa sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại nên còn lúng túng hoặc có tâm lí “e ngại” khi đổi mới PPDH. Thực tế cho thấy, kiến thức, kỹ năng về CNTT ở một số giáo viên còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo; thậm chí còn né tránh, tâm lý ngại khó khi phải soạn bằng giáo án điện tử. Bởi muốn soạn giảng một giáo án điện tử, người giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần, vừa phải biết tin học và sử dụng thành thạo phần mềm Powerpoint và vừa phải tốn khá nhiều thời gian, công sức để cắt, ghép, chụp phim và làm chữ nổi, làm khung… Vì thế, tuy việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã đem lại hiệu quả cao nhưng mức độ ứng dụng trong nhà trường và bản thân giáo viên chưa cao, chưa rộng rãi và chưa thể trở thành một hệ thống ứng dụng đồng bộ trong môi trường giáo dục hiện nay. Hơn nữa, ứng dụng CNTT trong dạy học biểu hiện rất đa dạng. Trong thực tế, tuy đã được triển khai ở nhiều trường nhưng mức độ ứng dụng CNTT lại khác nhau vì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan về phía nhà trường và giáo viên và kể cả yếu tố đặc thù riêng của từng môn học trong chương trình.

- Với cách tổ chức thi cử - kiểm tra - đánh giá như hiện nay, một số bộ môn rất ngại thay đổi PPDH, muốn dạy khác đi cũng không được, buộc thầy cô

Page 4: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

một số bộ môn phải dạy cho học sinh cách học vẹt để vào phòng thi dễ kiếm điểm, để đỗ đạt.

Vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học đã được chứng minh bằng thực tiễn giáo dục trong và ngoài nước những năm qua, nó cho thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong giảng dạy và học tập là xu thế tất yếu của giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học bằng CNTT là một chủ đề lớn được UNESCO đưa ra thành chương trình của thế kỷ XXI và dự đoán sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT. Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu rõ: “Đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới một xã hội học tập”.

Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy học; ngay từ những ngày đầu thành lập trường (2004), BGH trườngTHPT chuyên Quang Trung đã đặc biệt quan tâm và quyết tâm đưa CNTT vào công tác giảng dạy và học tập. Với sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, sự nỗ lực không ngừng của tập thể sư phạm nhà trường, đến nay, 100% giáo viên có thể tự soạn giảng ở mức thành thạo và sử dụng hiệu quả những phần mềm soạn giảng cũng như các thiết bị hỗ trợ để phục vụ công tác chuyên môn. 2. Tinh sư phạm trong viêc ưng dung CNTT vào dạy học

Sử dụng máy tính để dạy học là một trong những hướng thay đổi PPDH trong nhà trường chúng ta hiện nay, trong đó, việc giảng bằng các trang trình chiếu PowerPoint đang được nhiều GV trường THPT thực hiện. Đương nhiên, không phải và cũng không cần thiết biến mọi tiết dạy trở thành giờ học bằng máy tính, cho dù ở trường nào đó có đủ khả năng về cơ sở vật chất cũng như các kĩ năng thích hợp cho công việc. Mỗi giáo viên cần chọn tiết học sao cho nếu đưa nó lên trang trình chiếu PowerPoint thì sẽ tận dụng được tối đa ưu việt của máy tính về phương diện cung cấp thông tin cho người học, về tính hấp dẫn của của bài giảng, chí ít cũng có hiệu quả hơn bài giảng với bảng viết thông thường.

Cần tránh việc chạy theo phong trào để rồi bài giảng thiếu chất lượng, lạm dụng các hiệu ứng trong phần mềm PowerPoint làm người học bị phân tán sự chú ý. Cũng không nên tầm thường hoá việc dạy bằng PowerPoint. Nhiều người quan niệm trang trình chiếu chẳng qua là thay bảng đen, thậm chí không bằng bảng đen (vì họ không được viết xóa thoải mái như dùng bảng đen). Cái “lí” của họ cũng có thể đúng, bởi vì thực tế, một số GV dạy bằng PowerPoint nhưng cuối cùng HS chẳng ghi được gì vào vở, không thu nhận được kiến thức gì quan trọng ngoài sự “thú vị” một cách chung chung.3. Định hướng viêc đổi mới PPDH và vai trò của CNTT trong đổi mới PPDH

“Phương pháp giáo dục phổ thông cần phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Điều 8.2, Luật Giáo dục).Với mục tiêu đó, chúng ta thấy:

Page 5: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

- Định hướng cơ bản trong đổi mới PPDH là nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của người học. Đó cũng là xu hướng quốc tế trong đổi mới PPDH.

- Từ mục tiêu “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình”, trước hết giáo dục nhà trường phải hình thành và bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề(việc trang bị tốt năng lực này là một trong những hoạt động trọng tâm của việc đổi mới PPDH  trong điều kiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông).

- Đổi mới PPDH là phải đổi mới cách dạy, cách truyền đạt hệ thống kiến thức cho học sinh (Phát triển năng lực nội sinh của người học, đổi mới quan hệ thầy trò…), biết cách ứng dụng các phương tiện và thiết bị hiện đại, ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học.

Bill Gates, ông chủ tập đoàn Microsoft, đã khẳng định: “Một trong những điều kỳ diệu nhất trong 20 năm trở lại đây là sự xuất hiện của Internet. Chính Internet đã làm cho thế giới trở nên rất nhỏ, khoảng cách địa lý đã bị san phẳng… Một điều tuyệt vời khác là ngày càng có nhiều trường đại học trên thế giới đưa bài giảng lên Internet. Bạn có thể ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới để chọn bài giảng, chủ đề…, thậm chí là những giáo sư danh tiếng để học tập mà không phải trả tiền. Đây sẽ là một sự thay đổi gốc rễ hệ thống giáo dục trong thời gian tới”. Với tác động của CNTT, môi trường dạy học cũng thay đổi, nó tác động mạnh mẽ tới quá trình quản lý, giảng dạy, đào tạo và học tập dựa trên sự hỗ trợ của các phần mềm ứng dụng, website và hạ tầng CNTT đi kèm. Việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học sẽ góp phần nâng cao chất lượng học tập, tạo ra môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không chỉ đơn thuần là thầy giảng, trò nghe, thầy đọc, trò chép như hiện nay, học sinh - sinh viên được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học.

Thuận tiện của chúng ta là được sự quan tâm của lãnh đạo sở, các trường trong tỉnh đều đã được nối mạng Internet, được trang bị máy vi tính, đèn chiếu cùng các phần mềm ứng dụng hiện đại. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết góp phần đổi mới phương pháp, giúp giáo viên tạo ra được nhiều hiệu ứng sinh động và trực quan giúp cho bài giảng trở nên sinh động hơn, thu hút học sinh hơn trong quá trình dạy học.

Đành rằng CNTT rất tiện ích vì tạo ra được nhiều hiệu ứng sinh động và trực quan giúp cho bài giảng trở nên sinh động hơn, nhưng không vì thế mà nó là cứu cánh cho cái gọi là "đổi mới phương pháp". CNTT chỉ là một trong những phương tiện giúp thầy cô chúng ta giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn. Vì thế, việc ứng dụng CNTT trong quá trình dạy học không thể thay thế hoàn toàn bảng đen – phấn trắng. Ứng dụng CNTT không phải là cách thức để cho thầy cô chúng ta từ “đọc – chép” sang “chiếu – chép”. Ứng dụng CNTT không phải là cách để thầy cô nhàn hơn nhưng trò thì bị nặng nề, mệt mỏi do phải cố gắng nhìn màn hình để chép (rất đáng tiếc, tại một số trường THPT trong tỉnh vẫn còn xảy ra các hiện tượng này).  Trong các tiết học, học sinh sẽ thấy thích thú hơn nếu thầy cô biết cách đầu tư khi tích hợp các hình ảnh, âm thanh, hiệu ứng cùng với bài giảng của

Page 6: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

mình. Song, nếu lạm dụng, những tiết học trên lớp sẽ trở nên rất nhàm chán, trở thành việc trình chiếu những kỹ xảo "điện ảnh".

Vì thế, chúng ta cần nhận thức rằng, việc ứng dụng CNTTchỉ là một trong những phương tiện giúp giáo viên chúng ta đổi mới PPDH chứ không thể thay đổi cả một quá trình dạy học. Để tiết học có hiệu quả, chúng ta phải biết kết hợp nhuần nhuyễn nhiều PPDH cũng như vận dụng linh hoạt các phương tiện, thiết bị dạy học  khác nhau nhằm đạt được mục tiêu của bài dạy. Quan trọng nhất trong công nghệ dạy học là việc thiết kế bài học (Thiết kế mục tiêu, thiết kế nội dung, thiết kế các hoạt động của người học, thiết kế nguồn lực và phương tiện, thiết kế môi trường học tập, đặc biệt quan trọng là thiết kế hoạt động của thầy và trò).

4. Trách nhiêm của CQQLGD và Ban giám hiêu của các trường THCSKhi tiến hành đổi mới PPDH, không ít thầy cô lo lắng, băn khoăn như khi

áp dụng những phương pháp mới có thể không thành công bằng phương pháp thuyết giảng; ngại cho học sinh thảo luận, sợ nêu nhiều câu hỏi cho học sinh trả lời sẽ không đủ thời gian thực hiện kế hoạch giảng dạy. Hiện nay, khi Bộ GD và ĐT chưa đổi mới triệt để cách kiểm  tra - đánh giá thì đổi mới PPDH có làm cho kết quả của học sinh giảm sút không? Những băn khoăn, lo lắng này không phải là không có cơ sở.   Để đổi mới PPDH đòi hỏi người thầy phải luôn học tập, phải làm quen với CNTT và những phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại,... Nhiều giáo viên đã tích cực đổi mới PPDH và đã đạt được hiệu quả rất khả quan nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít giáo viên mang tâm lý “e ngại” cũng như chưa có thái độ tham gia tích cực vào việc đổi mới. … Do đó, đổi mới PPDH rất cần đến sự quan tâm của ngành và đặc biệt là sự cảm thông, chia sẻ và động viên của ban giám hiệu (BGH). 

Thực tiễn cho thấy, nếu BGH của trường quan đến việc đổi mới PPDH, thì chắc chắn giáo viên trường ấy sẽ được tạo điều kiện để tiếp cận với các PPDH, với trang thiết bị hiện đại, có cơ hội được tham dự những buổi hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm ...  Ngoài việc chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, tập huấn GV... theo tôi, điều quan trọng nhất là BGH phải phấn đấu làm người đi tiên phong về đổi mới PPDH, kiên trì tổ chức hướng dẫn, khích lệ giáo viên tích cực đổi mới đổi mới PPDH; tăng cường việc dự giờ thăm lớp và nghiêm túc rút kinh nghiệm, không để tình trạng người làm cũng được, người không làm cũng chẳng sao.

Các tổ chuyên môn cần thường xuyên tổ chức dự giờ thăm lớp và nghiêm túc rút kinh nghiệm, tổ chức sinh hoạt chuyên môn với nội dung phong phú, thiết thực, động viên tinh thần cầu thị trong tự bồi dưỡng của giáo viên, giáo dục ý thức khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp. Đánh giá đúng đắn và đề xuất khen thưởng những giáo viên tích cực đổi mới PPDH và thực hiện đổi mới đổi mới PPDH có hiệu quả.

Page 7: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

5. Các hoạt động ưng dung CNTT trong dạy họcỨng dụng CNTT trong dạy và học là việc ứng dụng nhưng thành tựu của

CNTT một cách phù hợp và hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Như vậy, Ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học tập không chỉ được

hiểu theo nghĩa đơn giản là dùng máy tính vào các công việc như biên soạn rồi trình chiếu bài giảng điện tử ở trên lớp. Ứng dụng CNTT phải được hiểu là một giải pháp trong mọi hoạt động liên quan đến đào tạo; liên quan đến công việc của người làm công tác giáo dục; liên quan đến hoạt động nghiên cứu, soạn giảng; lưu trữ, tìm kiếm, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và tài nguyên học tâp… Và cao hơn, với E-Learning, hoạt động dạy và học ngày nay được diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Trên lớp, ở nhà, ngay tại góc học tập của mình học sinh vẫn có thể nghe thầy cô giảng, vẫn được giao bài và được hướng dẫn làm bài tập, vẫn có thể nộp bài và trình bày ý kiến của mình…

Nhận thức được điều đó, việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục, được nhà trường triển khai một cách đầy đủ và thiết thực nhất. Một số hoạt động điển hình về ứng dụng CNTT trong dạy – học được giáo viên thực hiện thành công và mang lại hiệu quả cao như:

Tra cứu thông tin phục vụ công tác nghiên cứu, nâng cao kiến thức chuyên môn và lấy tư liệu hỗ trợ soạn giảng;

Sử dụng các phần mềm hỗ trợ soạn giảng để tạo bài giảng điện tử như MS Powerpoint, Violet, iSpring Presenter và các phần mềm dựng phim, nhạc…

Sử dụng các phần mềm hỗ trợ làm đề thi/kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh như McMix, Quest, MS Excel…

Sử dụng diễn đàn, email như một phương tiện để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm với giáo viên các trường bạn trong cả nước.

Triển khai các tiết học có ứng dụng CNTT, có sử dụng bài giảng điện tử. Đoàn thanh niên nhà trường cũng tổ chức ghi hình để dự giờ tập thể (ghi hình tiết dạy sau đó tổ chức chiếu lại để cả chi đoàn GV dự giờ, phân tích, góp ý xây dựng bài).Tuy nhiên, chúng ta cũng cần xác định rõ rằng: CNTT chỉ là phương tiện

tạo thuận lợi cho triển khai phương pháp dạy học tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của học sinh thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà giáo viên sử dụng. Cần tránh việc dùng slide trình chiếu chỉ để thay việc viết bảng mà lại coi đó là tiết dạy ứng dụng CNTT (cần phân biệt thế nào là giáo án điện tử, bản trình chiếu, bài giảng điện tử hay bài giảng điện tử theo chuẩn E-Learning).

6. Quá trình tổ chưc thực hiênTrong quá trình triển khai thực hiện dĩ nhiên sẽ vướng mắc nhiều khó khăn.

Nhận diện khó khăn để tìm giải pháp khắc phục và vượt qua là công việc thường

Page 8: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

xuyên trong quá trình tổ chức thực hiện. Những khó khăn điển hình thường gặp trong việc ứng dụng CNTT trong dạy-học như:

Về đội ngũ giáo viên: Trình độ, kiến thức về CNTT, kỹ năng sử dụng máy tính và các phương tiện hỗ trợ của giáo viên không đồng đều, thậm chí có người chỉ dùng máy tính với mục đích duy nhất là soạn thảo văn bản.

Về học sinh: Nhiều học sinh rất ít có điều kiện tiếp xúc với máy tính hoặc một số em chưa từng biết sử dụng máy tính cũng là khó khăn cần được quan tâm.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho việc dạy tin học và ứng dụng CNTT của nhà trường còn nhiều hạn chế: Thiếu các phòng học chức năng; số máy tính phục vụ cho học tin học của học sinh còn ít.Là người được giao nhiệm vụ phụ trách công tác triển khai ứng dụng

CNTT trong nhà trường, tôi xin được chia sẻ với quý thầy cô một số giải pháp khắc phục những khó khăn trên để thực hiện hiệu quả hơn việc ứng dụng CNTT trong dạy-học. Trong hệ thống các giải pháp, nhà trường chú trọng một số giải pháp sau:a. Công tác bồi dưỡng đội ngũ

Xác định Con người là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công trong việc ứng dụng CNTT vào trong quản lý và giảng dạy. Do đó, nhà trường đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ tin học, các kỹ năng ứng dụng CNTT cho đội ngũ giáo viên.a.1. Nâng cao nhận thưc cho cán bộ giáo viên

Đẩy mạnh tuyên truyền cho giáo viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua nhiều hình thức như: triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành về ứng dụng CNTT trong dạy học; thông qua các buổi họp hội đồng sư phạm, sinh hoạt chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề…Đặc biệt, để triển khai thành công thì trước hết, lãnh đạo nhà trường phải nhận thức đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT trong dạy-học, từ đó quan tâm, tạo điều kiện và quyết tâm triển khai thực hiện. Nếu chỉ phát động mà không quan tâm, không thể hiện quyết tâm và thực hiện những biện pháp bổ sung thì việc ứng dụng CNTT của giáo viên cũng không thể mang lại kết quả như mong đợi.a.2. Nâng cao trình độ Tin học và kỹ năng ưng dung CNTT giáo viên và học sinh

Như đã trình bày, một trong những khó khăn cơ bản của việc triển khai ứng dụng CNTT trong day-học là tâm lý ngại khó, ngại cái mới của giáo viên (đặc biệt là giáo viên đã lớn tuổi). Như vậy, muốn triển khai hiệu quả, muốn được tất cả các giáo viên đón nhận thì ngoài công tác tư tưởng còn cần làm thế nào đó cho họ thấy việc ứng dụng CNTT không quá khó và họ hoàn toàn có thể thực hiện được. Nhận thức được điều đó, nhà trường rất chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên thông qua nhiều hoạt động, như:

Xây dựng đội ngũ cốt cán:Phân công cho ít nhất một giáo viên có đủ năng lực và tâm huyết phụ trách

công việc này, sẵn sàng tạo điều kiện cho giáo viên học tập và tham gia các lớp

Page 9: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

tập huấn để nâng cao năng lực (Ngay từ khi mới thành lập trường (2004), BGH đã phân công một GV phụ trách ứng dụng CNTT).

Với các tổ chuyên môn, mỗi tổ cử một giáo viên chịu trách nhiệm chính để được tập huấn và hỗ trợ đồng nghiệp trong tổ công tác soạn giảng với CNTT.

Tổ chức tập huấn đại tràTổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm hỗ

trợ soạn giảng. Các lớp tập huấn này được tổ chức theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ yếu vào những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng hàng ngày và phải bắt đầu từ những kỹ năng đơn giản nhất như cách tra cứu và tìm kiếm thông tin, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách thiết kế bài kiểm tra,… mà báo cáo viên chính là đội ngũ cốt cán của trường.

Điều quan trọng là phải có cách động viên giáo viên tích cực tự học, khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng chia sẻ, luôn cầu thị tiến bộ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp; tạo ra một môi trường học hỏi chuyên môn tích cực.

Để làm được điều này, ngoài sự nhiệt tình của đội ngũ cốt cán thì BGH phải luôn quan tâm sâu sát, đi đầu gương mẫu, cùng học hỏi- cùng làm với giáo viên thì mới hiểu được họ yếu ở điểm nào, gặp khó khăn ở khâu nào, cần giúp đỡ gì (trong các buổi tập huấn về CNTT, tất cả các phó hiệu trưởng của nhà trường đều tham gia).b. Công tác xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị

Được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp cùng với sự tích cực tham mưu của nhà trường, đến nay tình trạng cơ sở vật chất về tin học và công nghệ thông tin của nhà trường đã tương đối đầy đủ. Tuy nhiên ở đây xin được chia sẻ với thầy cô kinh nghiệm tổ chức thực hiện trong những năm đầu, thời điểm nhà trường cũng gặp rất nhiều khó khăn về CSVC khi triển khai thực hiện với mong muốn có thể giúp các trường có điều kiện còn khó khăn có thể tìm được giải pháp phù hợp. Trước năm 2007, Số máy tính phục vụ cho giáo viên dùng để soạn giảng chỉ có 2 máy đặt tại thư viện, Internet vnn1269, giáo viên hầu hết chưa có máy tính xách tay (laptop), có 02 máy chiếu projector và một số phương tiện khác. Khi đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và phát huy hiệu quả của những thiết bị ít ỏi đó, nhà trường đã dành một phòng học để làm phòng nghe nhìn, cắt cử một giáo viên kiêm nhiệm làm việc xếp lịch và hỗ trợ kỹ thuật giúp giáo viên thực hiện các tiết dạy có ứng dụng CNTT (về chế độ thì áp dụng chế độ của giáo viên kiêm nhiệm phòng thí nghiệm, thiết bị).    Từ khi có mạng ADSL, nhà trường đã triển khai mạng không dây phủ sóng toàn trường và hệ thống dây cap mạng đến từng phòng làm việc của khu hành chính và các phòng ở của giáo viên ở KTX để phục vụ giáo viên tra cứu thông tin phục vụ nghiên cứu và soạn giảng.Hiện nay, ngoài việc duy trì và phát huy công năng của phòng nghe nhìn với nhiều thiết bị hiện đại (máy chiếu đa năng, màn hình kép, máy chiếu vật thể, hệ thống thu và ghi tín hiệu truyền hình vệ tinh là tư liệu giảng dạy…) nhà trường có trang bị máy chiếu (projector) cho các phòng học. Kết nối cáp quang cho khu hành chính, thư viện và phòng chờ của giáo viên. Đầu tư mua sắm và giao cho

Page 10: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

mỗi tổ trưởng chuyên môn một máy tính xách tay để chuyên dùng cho việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy của tổ.7. Các kỹ năng cần phải có khi ưng dung công nghê thông tin trong giảng dạy:

Để ứng dụng được CNTT trong dạy học có hiệu quả thì theo tôi GV cần phải có được những kỹ năng cơ bản sau:1. Soạn thảo văn bản (MS Word, ...): Dùng để soạn giáo án, văn bản,…2. Bảng tính điện tử (MS Excel): Dùng để thống kê, tính điểm,…3.Trình diễn điện tử (MS PowerPoint, Violet, ...): Dùng để soạn và dạy bài giảng điện tử, báo cáo, trình bày một vấn đề nào đó,…4. Sử dụng phần mềm Math Type để đánh công thức Vật lý, Toán,…5. Sử dụng phần mềm Crocodile Physics và các phần mềm thí nghiệm khác.6. Sử dụng trình duyệt web (Mozilla FireFox, Internet Explorer, ...): Dùng để trao đổi và tìm kiếm thông tin trên mạng Internet hoặc mạng nội bộ của cơ quan.7. Sử dụng email: Dùng để trao đổi thư từ với đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh, ...8.Thiết kế trang web, blog cá nhân: Dùng để trao đổi thông tin liên quan đến chuyên môn, giúp HS học tập thông qua mạng, mở rộng không gian giao tiếp giữa thầy-trò, đồng nghiệp, ...9. Cũng cần phải biết chụp ảnh, quay phim và chuyển tư liệu vào máy tính.10. Nếu ta biết được việc cài đặt hệ điều hành, downdload và cài đặt các phần mềm ứng dụng tốt thì ta sẽ chủ động hơn trong việc sử dụng máy tính.8. MỘT SỐ ĐỊA CHỈ WEBSIDE VÀ PHẦN MỀM HỖ TRỢ CHO VIỆC GIẢNG DẠY

Thiết kế bài giảng cần có sự linh hoạt trên máy vi tính, thể hiện sự thuận lợi, và bảo đảm tính chính xác, khoa học. Bài giảng trên máy tính là nguồn tài liệu đáng tin cậy cho người dạy, người học, do đó cần tranh thủ sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp và cũng cần bổ sung, cập nhật tư liệu cho hay hơn, phù hợp hơn. Thiết kế bài giảng trên  máy vi tính là sự kết hợp hài hoà giữa phương tiện truyền thống (phấn, bảng) và phương tiện hiện đại (máy chiếu, máy vi tính), hoạt động của thầy và trò…Cần có sự dung hòa giữa phương pháp hiện đại với phương pháp truyền thống.      Khi thiết kế bài giảng trên máy tính ta có thể tìm tư liệu ở các nguồn sau ( xin đua ra một số địa chỉ website và giới thiệu ngắn gọn về những gì có trong từng website)

Trang web này có các bài giảng, các đoạn video hình ảnh phục vụ cho việc giảng dạy, các tài liệu- đề thi... do nhóm giáo viên http://baigiang.violet.vn

Ngoài các bài giảng, các đoạn video hình ảnh phục vụ cho việc giảng dạy, các tài liệu, trang web này còn cung cấp rất nhiều tư liệu của các bộ môn khác, dành cho THPT cũng như THCS....

http://www.thuvienkhoahoc.com/

Page 11: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

Đây là website khoa học do các nhà khoa học gốc Việt đang làm việc ở các trường đại học lớn trên thế giới, du học sinh và cộng đồng Người Việt lập lên. Website này cung cấp rất nhiều kiến thức bổ ích về nhiều lĩnh vực, trong đó Vật Lý là một mảng đồ sộ các bài viết chất lượng về: thiên văn học, lịch sử thiên văn, lịch sử vật lý, tiểu sử các danh nhân, các phát minh, các giải vật lý, thuật ngữ về vật lý, từ vựng vật lý, từ vựng thiên văn ...

http://cpepweb.orgĐây là chương trình hỗ trợ cộng đồng của công ty Oracle, ở đó họ tổ chức

cho sinh viên (và học sinh) tự thể hiện những hiểu biết của mình, mỗi nhóm sinh viên làm một trang web để trình bày cho các sinh viên khác xem cho ấn tượng, hàng năm họ tổ chức các đợt bình chọn những sản phẩm mới và trao giải, các trang web của sinh viên làm sẽ được cho vào ThinkQuest Library này cho mọi người cùng tham khảo.

Thay cho lời kết, tôi xin trích dẫn một câu nói của TS Vũ Ngọc Anh, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam chia sẻ quan điểm về “làn sóng” đổi mới PPDH hiện nay: “Đổi mới PPDH trong trường phổ thông không phải là một mong muốn chủ quan, một phong trào quần chúng với sự tự nguyện hoặc không mà là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, có cơ sở pháp lý, lý luận, thực tiễn đối với mọi trường học, mọi giáo viên”. Đổi mới PPDH hiện đang là vấn đề cốt yếu nâng cao chất lượng dạy học và là một trong những mục tiêu quan trọng trong cải cách giáo dục ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới nội dung, PPDH là công việc lâu dài, khó khăn, đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT vào dạy học trong thời gian tới có hiệu quả, không có gì khác hơn là nhà nước cần phải tăng dần mức đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện, hiện đại hóa thiết bị, công nghệ dạy học. Đồng thời, hoàn thiện hạ tầng CNTT để mọi trường học đều có thể kết nối vào mạng internet. Bên cạnh đó, có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn bản của nhà nước mang tính pháp quy để các tỉnh, thành có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn đầu tư cho giáo dục này; góp phần làm thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập.

Page 12: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNMoDule THCS 20: Sử dung các thiết bị dạy học

(15 tiết)(Gv tự bồi dưỡng 10 tiết, Lý thuyết 2 tiết; Thực hành 3 tiết)

Câu 1: Trình bày các cách phân loại thiết bị dạy học hiên nay.1. Phân loại theo điều kiện sử dụng Theo cách nay khi sử dụng các thiết bị phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Người ta chia loại thiết bị cơ sử dụng năng lượng điện và loại không sử dụng năng lượng điện.Nhóm 1: Nhóm không dùng năng lượng điên, thường quen gọi là TBDH truyền thống.Nhóm TBDH truyền thống bao gồm các loại thiết bị:

- Tranh ảnh, biển đồ giáo khoa- Bản đồ, lược đồ giáo khoa.- Bảng biển- Mô hình, mẫu vật- Dũng cụ

Nhóm 2: Nhóm dùng năng lượng điên, thường gọi là TBDH hiên đại. Nhóm này bao gồm các loại thiết bị:

- Phím đèn chiếu- Bản dùng cho máy chiếu qua đầu;- Bảng đĩa ghi âm;- Băng đĩa ghi hình- PMDH- Website học tập;- Phòng thí nghiệm ảo;- Mô hình dạy học điện tử- Thư viện ảo, thư viện điện tử- Bản đồ tư duy được thiết kế bằng phần mềm- Bản đồ giáo khoa điện tử.

Mỗi nhóm có đặc điểm sử dụng và hình thức sử dụng khác nhau.Câu 2: Nêu các chưc năng của thiết bị dạy học:

1. Chức năng cơ bản và quan trọng nhất của thiết bị dạy học là chức năng thông tin.

2. Thiết bị dạy học có chức năng phản ánh.3. Thiết bị dạy học có chức năng giáo dục4. Thiết bị dạy học có chức năng phục vụ.

Câu 3: Nêu vai trò của thiết bị dạy học trong quá trình dạy học.- TBDH góp phần nâng cao tính trực quan của quá trình DH. Giúp học sinh nhận ra những sự việc, hiện tươpngj, khái niệm một cách cụ thể hơn, dễ dang hơn. Mặt khác TBDH là nguồn tri thức với tư cách là phương tiện chứa đựng và chuyển tải thông tin đến người học.TBDH hướng dẫn hoạt động nhận thức của học sinh thông qua việc đặt câu hỏi gợi mở, để:

Page 13: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

+ Nhận biết tên gọi, tính năng thiết bị.+ Lắp ráp thiết bị để tiến hành thí nghiệm thực hành.+ Nhận biết, thu thập và phân tích kết quả thí nghiệm.

- Thông qua quá trình làm việc với TBDH, học sinh phát triển năng lực tư duy, nắm vững kiến thức, kĩ năng.

+ Kĩ năng sử dụng các thiết bị kĩ thuật.+ Kĩ năng thu thập dữ liệu.+ Kĩ năng quan sát, phân tích, tổng hợp, kết luận.

Từ đó học sinh tự lực nắm vững kiến thức và phát triển trí tuệ.Câu 4: Nêu vai trò của thiết bị dạy học đối với nội dung dạy học.

- TBDH đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu của từng đơn vị kiến thức, mục tiêu của từng bài học, vì vậy nó có vai trò đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu lực cao nhất các yêu cầu của chương trình và nội dung SGK.

- TBDH đảm bảo cho việc phục vụ trực tiếp cho giáo viên và học sinh cùng nhau tổ chức các hình thức dạy học, tổ chức nghiên cứu từng đơn vị kiến thức của bài học nói riêng và tổ chức cả quá trình dạy học nói chung.- TBDH đảm bảo cho khả năng truyền đạt của giáo viên và khả năng lĩnh hội của học sinh theo đúng yêu cầu nội dung chương trình, nội dung bài học đối với mỗi khối, mỗi cấp học, bậc học.Câu 5: Nêu một số loại hình thiết bị dạy học bộ môn?* Tranh ảnh giáo khoa* Bản đồ giáo khoa* Mô hình mẫu vật dạy học* Vật thật.* Dụng cụ, hóa chất thí nghiệm* Bản trong SGK* Băng, đĩa ghi âm* Băng hình và đĩa hình giáo khoa.Câu 6: Nêu các nguyên tắc sử dung thiết bị dạy học:* Sử dụng thiết bị dạy học đúng mục đích* Sử dụng thiết bị dạy học đúng lúc* Sử dụng thiết bị dạy học đúng chỗ* Sử dụng thiết bị dạy học đúng mức độ và cường độCâu 7: Thống kê thiết bị dạy học hiên có ở trường theo môn học mà mình đảm nhận* Môn ngữ văn, GDCD

- Tranh ảnh giáo khoa- Băng, đĩa ghi âm- Màn hình, đèn chiếu- Bảng thống kê, luyện chính tả chương trình địa phương

* Môn lịch sử.- La bàn- Tranh ảnh, bản đồ

Câu 8: Nêu vai trò của TBDH trong dạy học bộ môn mà minh đảm nhận:- Thiết bị dạy học làm cho giờ học sinh động hơn.

Page 14: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

- Thiết bị dạy học làm cho học sinh tập trung chú ý, hứng thú bài học hơn.- Thiết bị dạy học góp phần khắc phục sâu kiến thức cho học sinh.- Rèn luyện cho học sinh thao tác quan sát kết hợp với phân tích, suy luận, đánh gá.Câu 9: Thiết bị DH tự làm là gì?

TBDH tự làm là loại thiết bị dạy học do giáo viên chế tạo mới hoặc cải tiến từ một TBDH đã có hoặc qua sưu tầm tư liệu hiện vật mà có. Thiết bị dạy học làm cho tự làm có nguyên lí cấu tạo và cách sử dụng phù hợp với ý tưởng thực hiện bài dạy của giáo viên làm ra, do đó khi được sử dụng thường cho hiệu quả cao và thiết thực. Thiết bị dạy học tự làm góp phần nâng cao hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp giáo dục nhằm khắc phục phương pháp truyền thụ một chiều, tạo ra động lực khuyến khích tư duy sáng tạo của đội ngũ giáo viên và học sinh.Câu 10: Thiết bị dạy học tự làm cần đảm bảo những yêu cầu gì?

TBDH tự làm cần đảm bảo những yêu cầu sau:- Về chất lượng : TBDH tự làm phải đảm bảo cho học sinh tiếp thu được

kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, giúp cho giáo viên tổ chức hoạt động dạy học một cách thuận lợi.

- Phải đảm bảo về sự phù hợp với tiêu chuẩn sinh lí của giáo viên và học sinh: TBDH tự làm phải gây được sự hứng thú cho học sinh và thích thú với quá trình tìm tòi, nghiên cứu của thầy và trò.

- Phải đảm bảo về sự phù hợp với các tiêu chuẩn sư phạm: TBDH tự làm cần phải có màu sắc sáng sủa, hài hòa, giống màu sắc của vật thật, có cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển, chắc chắn, có khối lượng và kích thước phù hợp.Câu 11: Một số định hướng trong tự làm ĐDDH ở trường THCS:* Sưu tầm mẫu vật:

- Sưu tầm các vật sấy khô, ép khô...- Sưu tầm vật tươi sống- Sưu tầm một số thực vật- Sưu tầm mảnh gỗ, đoạn gỗ, gỗ dán...- Sưu tầm chai lọ, ca cốc ... làm hộp xốp hình lập phương, hình chữ nhật

* Sưu tầm tranh ảnh: Sưu tầm trên báo chí, báo ảnh, bưu ảnh ... hình ảnh tuyển chọn phải tiêu biểu, điển hình và phản ánh trung thực, đúng dắn những tình tiết cơ bản cần truyền thụ trong bài học...* Tự làm mô hình:

- Dùng giấy, vải lụa, ni lông, dây thép ... tạo thành hoa lá, con vật - Dùng đất sét, thạch cao nặn các con vật, các loại quả, loại củ ...- Cắt, gọt, đóng gỗ, gắn bìa cứng ... sơn, nhuộm màu thành mô hình theo thiết kế.

* Vẽ tranh, vẽ bản đồ, sơ đồ, tranh động:- Vẽ tranh minh họa theo nội dung bài học hoặc phong tó tranh SGK.- Khi vẽ tranh giáo viên cần xem xét, cân nhắc thể hiện đường nét, hình khối, bố cục đến phân phối màu sao cho phù hợp với yêu cầu sư phạm.

Page 15: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

MÔ-ĐUN 25 :Viết sáng kiến kinh nghiêm(SKKN) trong trường THCS

(15 tiết) (Gv tự bồi dưỡng 10 tiết, Lý thuyết 2 tiết; Thực hành 3 tiết)

Muc 1. Vai trò của tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục :

1.1 : Phần mở đầu : Hiểu về cum từ và SKKN * Theo Hán Việt từ điển – Đào Duy Anhq - Kinh nghiệm : điều mình đã nghiệm qua, điều mình từng nghe thấy - Sáng kiến : mới thấy xuất hiện lần đầu, mới bắt đầu phát minh * Theo Từ điển Tiếng Việt – NXB KHXH : - Tổng kết : nhìn lại toàn bộ việc đã làm, khi đã kết thúc hoặc sau một năm để có sự đánh giá chung, rút ra những kết luận chung - Kinh nghiệm : điều hiểu biết có được do tiếp xúc với thực tế, do từng trải - Sáng kiến : ý kiến mới, có tác dụng làm cho công việc tiến hành tốt hơn * Ở đây chỉ đề cập đến kinh nghiệm giảng dạy, kinh nghiệm giáo dục trong

trường THCS . Vậy tổng kết kinh nghiệm (giảng dạy, giáo dục ) là việc giáo viên rút ra sự đánh giá chung , những kết luận chung về điều hiểu biết bản thân có được do tiếp xúc với thực tế giảng dạy, thực tế giáo dục, do từng trải hay là do từng nghe thấy . Đó là điều giáo viên đã nghiệm ra qua thực tế của bản thân , hay của người khác có khi là sau một năm học, có khi là trong quá trình lâu dài tích lũy. Còn sáng kiến kinh nghiệm là ý kiến mới, mới thấy xuất hiện lần đầu, bắt đầu

phát minh có tác dụng làm cho công việc giảng dạy, giáo dục của giáo viên được tiến hành tốt hơn . Đó là điều giáo viên sáng tạo ra, mang tính riêng cá nhân và chưa từng có trước đó, có thể là dựa trên cơ sở của việc tổng kết kinh nghiệm.* Nội dung tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục rất đa dạng.

Có thể là : - vấn đề về nội dung dạy học bộ môn ( phân môn) : một vấn đề của kiến thức

về bộ môn - vấn đề về phương pháp dạy học bộ môn: vận dụng và kết hợp các phương pháp để dạy một kiểu bài nhất định, hay cách thức , tiến trình dạy một đơn vị kiến thức theo kiểu loại, hay kĩ năng tích hợp kiến thức các kiến thức bộ môn, kiến thức liên môn, việc vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực với một bộ môn nhất định, về kĩ năng dạy học ……. - Vấn đề về phương pháp giáo dục ( công tác chủ nhiệm ): giáo dục hạnh kiểm, thực hiện giáo dục lồng ghép theo các yêu cầu như ATGT, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.1.2: Vai trò của tổng kết kinh nghiêm và SKKN trong dạy học, giáo duc : Việc tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với quá trình thực hiện công việc được giao của mỗi giáo viên và việc nâng cao nhất lượng giảng dạy, giáo dục nói chung của nhà trường.

Page 16: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

a- Với giáo viên, việc tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục đều cùng giúp hỗ trợ cho công việc giảng dạy và giáo dục của giáo viên nhưng ở mỗi mức độ khác nhau :Việc viết SKKN giúp cho việc phát huy sự sáng tạo riêng của mỗi giáo viên trong công việc giảng dạy và giáo dục. Các SKKN đem đến một “làn gió mới”, những thay đổi khởi sắc cho công việc giảng dạy và giáo dục, nó là kết quả của quá trình suy ngẫm, thử nghiệm để tìm ra giải pháp mới, tìm ra cách thức, con đường đi ngắn nhưng hiệu quả, đáp ứng với yêu cầu đổi mới của phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục. Với việc áp dụng những cái mới đúng hướng sẽ giúp thúc đẩy cho nhiều điều mới khác ra đời, từ đó giúp cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của giáo viên . Chuyên môn của giáo viên không vững vàng và không tâm huyết khó có thể có SKKN sáng tạo, chất lượng ra đời. Mỗi SKKN, mỗi cái mới ra đời là tâm huyết của mỗi giáo viên. . Còn với việc tổng kết kinh nghiệm, đây là việc giáo viên cần làm. Cũng giúp hỗ trợ cho công việc giảng dạy và giáo dục của giáo viên nhưng tổng kết kinh nghiệm lại là sự đúc rút tất cả những kinh nghiệm của bản thân và kinh nghiệm của đồng nghiệp khác đã được biết theo từng chủ đề, đề tài, để từ đó có sự chọn lọc việc cần làm, phương pháp tiến hành phù hợp với thực tế dạy học và giảng dạy của mỗi giáo viên . Việc chọn lựa, sắp xếp, hệ thống và khái quát một cách khoa học để rút ra những nhận xét, đánh giá về các kinh nghiệm đã được sử dụng đòi hỏi giáo viên phải có năng lực cần thiết như : lắng nghe và thấu hiểu, sự chính xác và khoa học, khả năng phán đoán và tổng hợp. Tổng kết kinh nghiệm là nền tảng giúp cho giaó viên tiến được xa hơn trong công việc b- Còn với nhà trường, ở góc độ công tác quản lí, việc tổng kết kinh nghiệm

và SKKN trong dạy học, giáo dục có ý nghĩa, tác dụng ở cả chiều sâu và diện rộng. . Về SKKN, khi nhà trường phát động và phát triển thành một phong trào

thực chất chứ không phải là mang tính hình thức thì sẽ giúp cho chất lượng chuyên môn của nhà trường có sự thay đổi rõ rệt, toàn diện về mọi mặt . SKKN sẽ càng hiệu quả hơn khi nó được phát huy, nhân rộng trong tập thể giáo viên vì sự thích hợp, dễ sử dụng. . Về tổng kết kinh nghiệm, nếu được chuyên môn nhà trường thực hiện thường

xuyên theo từng đề tài, bám sát được yêu cầu thực tế giảng dạy và yêu cầu đổi mới phương pháp, đặc biệt nhất là giải quyết được những vướng mắc, những khó khăn của đa số giáo viên trong giảng dạy và giáo dục thì sẽ có tác dụng, ảnh hướng vô cùng hiệu quả. Tổng kết kinh nghiệm là nền tảng giúp cho việc quản lí sâu sát hơn vì việc phổ biến kinh nghiệm hay, tốt sẽ thuận lợi và khoa học hơn. Hiện nay việc viết SKKN của giáo viên vẫn còn tồn tại những hiện tượng

đáng ngại như sao chép lẫn nhau, sao chép các SKKN từ mạng In ternet, hay còn sơ lược, thiếu sự đầu tư thích đáng …. Còn việc tổng kết kinh nghiệm lại ít được giáo viên chú tâm . Cho dù có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan cho những tồn tại trên

nhưng nói tóm lại, tổng kết kinh nghiệm và SKKN trong dạy học, giáo dục luôn

Page 17: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

vừa là một nhu cầu, vừa là yêu cầu của mỗi giáo viên, là phần việc phải làm và nên làm của mỗi giáo viên nói riêng và chuyên môn nhà trường nói chung.MỤC 2. Xác định đề tài, nội dung và phương pháp viết SKKNI. Một số vấn đề cần biết:1. Khái niêm Sáng kiến kinh nghiêm:SÁNG KIẾN Theo từ điển tiếng Việt:

Sáng kiến là những ý kiến mới có tác dụng làm cho công việc tiến hành tốt hơn.

Sáng kiến là tạo ra, tìm ra, xây dựng nên một ý kiến, một ý tưởng, một giải pháp mới về một đối tượng hay hoạt động nào đó.KINH NGHIỆMTheo từ điển tiếng Việt:

Kinh nghiệm là những điều hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống có được nhờ sự tiếp xúc, từng trải với thực tế.

Kinh nghiệm là cái có thực, được chủ thể tích lũy trong quá trình trải nghiệm, là những kiến thức cao nhất của chủ thể.SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMSáng kiến kinh nghiệm là những sáng kiến đã được thử nghiệm trong thực tế và đã thu được thành công nhất định, thể hiện sự cải tiến trong phương pháp hoạt động cho kết quả cao đáp ứng được nhu cầu của thực tế, công sức của những người tham gia hoạt động.ĐẶC ĐIỂM CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHỆMCó nét mới;Đã được áp dụng trong thực tế;Do chính người viết thực hiện.2. Những yêu cầu cơ bản đối với một sáng kiến kinh nghiêmKhi viết một sáng kiến kinh nghiệm, tác giả cần làm rõ tinh muc đich, tinh thực tiễn, tinh sáng tạo khoa học và khả năng vận dung, mở rộng SKKN đó như thế nào?Sau đây là biểu hiện cụ thể cần đạt được của những yêu cầu trên:+ Tính mục đích:- Đề tài đã giải quyết được những mâu thuẫn, những khó khăn gì có tính chất thời sự trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, trong công tác phụ trách Đội TNTP.Hồ Chí Minh?- Tác giả viết SKKN nhằm mục đích gì? (nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, để trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, để tham gia nghiên cứu khoa học…)+ Tính thực tiễn :- Tác giả trình bày được những sự kiện đã diễn ra trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của mình, ở nơi mình công tác.- Những kết luận được rút ra trong đề tài  phải là sự khái quát hóa từ những sự thực phong phú, những họat động cụ thể đã tiến hành ( cần tránh việc sao chép sách vở mang tính lý thuyết đơn thuần, thiếu tính thực tiễn )+ Tính sáng tạo khoa học:

Page 18: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

- Trình bày được cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn làm chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu ra trong đề tài.- Trình bày một cách rõ ràng,mạch lạc các bước tiến hành trong SKKN- Các phương pháp tiến hành mới mẻ, độc đáo.- Dẫn chứng các tư liệu, số liệu và kết quả chính xác làm nổi bật  tác dụng , hiệu quả của SKKN đã áp dụng.Tính khoa học của một đề tài SKKN được thể hiện cả trong nội dung lẫn hình thức trình bày đề tài cho nên khi viết SKKN, tác giả cần chú ý cả 2 điểm này.+ Khả năng vận dụng và mở rộng SKKN:- Trình bày, làm rõ hiệu quả khi áp dụng SKKN (có dẫn chứng các kết quả,các số liệu để so sánh hiệu quả của cách làm mới so với  cách làm cũ)- Chỉ ra được những điều kiện căn bản, những bài học kinh nghiệm để áp dụng có hiệu quả SKKN, đồng thời phân tích cho thấy triển vọng trong việc vận dụng và phát triển SKKN đã trình bày (Đề tài có thể vận dụng trong phạm vi nào? Có thể mở rộng, phát triển đề tài như thế nào?)Để đảm bảo được những yêu cầu trên, đòi hỏi người viết SKKN :+ Phải có thực tế (đã gặp những mâu thuẫn, khó khăn cụ thể trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục học sinh, trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn của công tác Đội TNTP ở địa phương, cơ sở nới mình công tác…)+ Phải có lý luận làm cơ sở cho việc tìm tòi biện pháp giải quyết vấn đề.+ Có phương pháp, biết trình bày SKKN khoa học, rõ ràng, mạch lạc:- Nắm vững cấu trúc của một đề tài, biết cân nhắc, chọn lọc đặt tên các đề mục phù hợp nội dung,thể hiện tính logic của đề tài-Nắm vững các phương pháp nghiên cứu khoa học.Khi xác định một phương pháp nào đó được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài, tác giả cần phải xác định được các yếu tố cơ bản: Mục tiêu của việc thực hiện phương pháp?Phương pháp được áp dụng với đối tượng nào?Nội dung thông tin cần thu được qua phương pháp đó? Những biện pháp cụ thể để tiến hành phương pháp nghiên cứu có hiệu quả?+ Thu thập đầy đủ các tư liệu, số liệu liên quan đến kinh nghiệm trình bày. Các số liệu được chọn lọc và trình bày trong những bảng thống kê thích hợp, có tác dụng làm nổi bật vấn đề mà tác giả muốn chứng minh, dẫn chứng.II. Cách xác đinh đề tài, nội dung và phương pháp viết SKKN1. Cách xác định đề tài:- Đề tài cần hướng vào những vấn đề cấp thiết, có tác dụng thúc đẩy, phát triển sự nghiệp GD, QLGD, đề tài phải có tính cấp thiết.- Vấn đề chọn không nên quá rộng hoặc chung chung mà cần tập trung vào vấn đề cụ thể, nổi bật nhất trong thực tế công tác.- Yêu cầu cơ bản của tên đề tài:

+ Ngắn gọn về ngôn ngữ.+ Phản ánh rõ bản chất của qá trình biến đổi từ lúc chưa áp dụng SK - đạt được kết quả.+ Rõ giới hạn của việc nghiên cứu.2. Cách xây dựng nội dung đề tài:Bước 1: Trang bị lí luận

Page 19: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

- Là việc thu thập, tham khỏa các tài liệu liên quan đến đề tài như những báo cáo, SKKN, cái tài liệu lí luận, phương pháp luận... Phục vụ cho vến đề đã chọn.- Trang bị lí luận chính là sự học tập, lĩnh hội KN của bản thân tác giả để viểt SKKN.- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các bài viết trước.

Bước 2: Thu thập dữ liệu:- Thu thập tư liệu thực tế từ khi bắt đầu đến kết thúc quá trình áp dụng SK để làm sáng tỏ quá trình biến đổi hoạt động GD.- Những số liệu, tư liệu về tình hình thực tế khi chưa áp dụng sáng kiến. Phân tích những điều kiện thuận lợi, khó khăn của đơn vị với quá trình hoạt động.- Hệ thống biện pháp đã tác động.

Bước 3: Phân tích, xử lí dữ liệu- Từ tất cả các tư liệu trên, phân tích những chuyển biến tích cực do áp dụng SK.- Tìm ra các quy luật, bài học kinh nghiệm.3. Phương pháp viết SKKN:+ Chọn đề tài ( đặt tên đề tài ):Các vấn đề có thể chọn để viết SKKN rất phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực như :- Kinh nghiệm trong việc giảng dạy ( một chương, một bài, một  nội dung kiến thức cụ thể… )- Kinh nghiệm trong việc giáo dục học sinh- Kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng, phụ đạo học sinh- Kinh nghiệm trong việc tổ chức một họat động giáo dục cụ thể cho học sinh ( Ví dụ: họat động giáo dục ngòai giờ lên lớp, công tác xã hội … )- Kinh nghiệm giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp trong khi tiến hành các họat động, các phong trào của Đội TNTP. Hồ Chí Minh ( VD: Tổ chức sinh hoạt sao nhi đồng, bồi dưỡng phụ trách sao,bồi dưỡng năng lực tự quản cho đội viên, bồi dưỡng BCH Đội, bồi dưỡng phụ trách chi đội,triển khai chương trình rèn luyện đội viên,xây dựng một mô hình họat động Đội, tổ chức bồi dưỡng một số kỹ năng cụ thể cho phụ trách chi đội, BCH đội,phụ trách sao…)Khi tiến hành công việc viết SKKN, công việc đầu tiên của tác giả là cần suy nghĩ  lựa chọn một tên đề tài phù hợp. Trong nghiên cứu khoa học (viết SKKN) việc xác định tên đề tài có ý nghĩa quan trọng số một, đôi khi nó còn quan trọng hơn cả việc giải quyết đề tài. Việc xác định tên đề tài chính xác  có tác dụng định hướng giải quyêt vấn đề cho tác giả,giúp cho tác giả biết tập trung sự nghiên cứu vào vấn đề cần giải quyết, tránh được sự lan man, lạc đề.Tên đề tài chính là một mâu thuẫn, một vấn đề trong thực tiễn giảng dạy, giáo dục mà tác giả còn đang phân vân, trăn trở, tìm cách giải quyết, làm sáng tỏ. Tên đề tài mang tính chủ thể, đòi hỏi người viết phải có sự hứng thú với nó, phải kiên trì và quyết tâm với nó. Về mặt ngôn từ tên đề tài phải đạt các yêu cầu :- Đúng ngữ pháp.- Đủ ý , rõ nghĩa, không làm cho người đọc có thể hiểu theo ý khác.- Xác định được phạm vi, nội dung nghiên cứu cụ thể của đề tài, cần tránh vấn đề quá chung chung hoặc có phạm vi quá rộng khó có thể giải quyết trọn vẹn trong một đề tài.

Page 20: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

+ Viết đề cương chi tiết:Đây là một công việc rất cần thiết trong việc viết SKKN. Nếu bỏ qua việc này, tác giả sẽ không định hướng được mình cần phải viết cái gì, cần thu thập những tư liệu gì về lý thuyết và thực tiễn ,cần trình bày những số liệu ra sao…? Việc chuẩn bị đề cương càng chi tiết bao nhiêu thì công việc viết SKKN càng thuận lợi bấy nhiêu. Khi xây dựng đề cương chi tiết, tác giả cần:- Xây dựng được một dàn bài chi tiết với các đề mục rõ ràng, hợp logic, chỉ ra được những ý cần viết trong từng đề mục cụ thể.Việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng sao cho đủ phán ánh nội dung đề tài, không thừa và cũng không thiếu.- Thiết kế các bảng thống kê số liệu phù hợp, các mẫu phiếu điều tra khảo sát, hình ảnh… phục vụ thiết thực cho việc minh họa, dẫn chứng cho đề tài.-Kiên quyết lọai bỏ những đề mục,những bảng thống kê, những thông tin không cần thiết cho đề tài.+ Tiến hành thực hiện đề tài:-Tác giả tìm đọc các tài liệu liên quan đến đề tài, ghi nhận những công việc đã thực hiện trong thực tiễn (biện pháp, các bước tiến hành, kết quả cụ thể), thu thập các số liệu để dẫn chứng.Tác giả nên lưu trữ các tư liệu thu thập được theo từng lọai. Nên sử dụng các túi hồ sơ riêng cho từng vấn đề thuận tiện cho việc tìm kiếm, tổng hợp thông tin.- Trong quá trình thu thập tài liệu cần tiếp tục  xem xét chỉnh sửa đề cương chi tiết cho phù hợp với tình hình thực tế.+ Viết bản thảo SKKN theo đề cương đã chuẩn bị.Khi viết SKKN tác giả cần chú ý đây là lọai văn bản báo cáo khoa học cho nên ngôn ngữ viết cần ngắn gọn, xúc tích, chính xác. Cần tránh sử dụng ngôn ngữ nói hoặc kể lể dài dòng nhưng không diễn đạt được thông tin cần thiết.+ Hòan chỉnh bản SKKN, đánh máy, in ấn.MỤC 3: THỰC HIỆN VIẾT SKKN

Một Sáng kiến kinh nghiệm có kết cấu cơ bản như sau:I. ĐẶT VẤN ĐỀ: (Lý do chọn đề tài, Tổng quan, Một số vấn đề chung ...)- Nêu rõ lý do chọn đề tài nghiên cứu: Lý do về mặt lý luận, về thực tiễn, về

tính cấp thiết, về năng lực nghiên cứu của tác giả (Những mâu thuẫn giữa thực trạng: bất hợp lí, cần cải tiến…, yêu cầu mới, từ đó tác giả khẳng định cần có biện pháp thay thế, đó cũng là lí do chọn đề tài)

- Xác định mục đích nghiên cứu của SKKN. Bản chất cần được làm rõ của sự vật là gì? Đối tượng nghiên cứu là gì? Đối tượng khảo sát, thực nghiệm.

- Chọn phương pháp nghiên cứu nào? Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu (thời gian nghiên cứu bao lâu? Khi nào bắt đầu và kết thúc?)

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở li luận: yêu cầu trình bày lí luận, lí thuyết đã được tổng kết (tóm tắt)

bao gồm: khái niệm, khái quát kiến thức về vấn đề được chọn để viết SKKN. Cũng chính là cơ sở lí luận có tác dụng định hướng nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp khắc phục hạn chế của vấn đề đã nêu trong đặt vấn đề.

2. Thực trạng: Tác giả trình bày những thuận lợi, khó khăn mà tác giả đã gặp phải trong vấn đề mà tác giả đã chọn để viết SKKN. Điều quan trọng trong phần

Page 21: BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊNthcs-tluong.huongthuy.thuathienhue.edu.vn/imgs/Thu... · Web viewChỉ thị số 29 của Bộ Giáo dục – Đào tạo (ngày 30/7/2001/CT) về

này là mô tả,làm nổi bật  những khó khăn ,những mâu thuẫn mà tác giả đang tìm cách giải quyết, cải tiến (kèm minh chứng)

3. Các biên pháp tiến hành (Trọng tâm) - .Trình bày trình tự biện pháp, phân tích và nhận xét về vai trò, tác dụng, hiệu

quả của biện pháp thực hiện (Phần thực trạng và mô tả giải pháp có thể trình bày kết hợp; khi trình bày giải pháp mới có thể liên hệ với giải pháp cũ ðã thực hiện hoặc những thử nghiệm nhưng chưa thành công nhằm nêu bật được sáng tạo của giải pháp mới)

4. Hiêu quả: Đã áp dụng ở đâu? Kết quả cụ thể khi áp dụng SKKN (thể hiện bằng bảng tổng hợp kết quả, số liệu minh hoạ, đối chiếu, so sánh…).

III. KẾT LUẬN- Những kết luận đánh giá cơ bản nhất về SKKN (nội dung, ý nghĩa, hiệu

quả, bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình áp dụng SKKN của bản thân...- Những nhận định chung của tác giả về việc áp dụng và khả năng phát

triển của đề tài.- Ý kiến đề xuất với Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT, Trường … để phát huy hiệu

quả đề tài (tùy mức độ đề tài để kiến nghị, nếu có).3. Qui định về cách trình bày- Đề tài SKKN được đánh máy, in, đóng quyển theo đúng quy định: soạn

thảo trên khổ giấy A4 bằng MS Word; Font chữ Times New Roman; bảng mã Unicode; cỡ chữ: 14; dãn dòng đơn; lề trái: 3 cm; lề phải: 2 cm; lề trên: 2 cm; lề dưới: 2 cm.

- Các minh chứng của SKKN là phụ lục đính kèm phía sau kết luận đề tài hoặc đóng thành quyển phụ lục riêng. Minh chứng bao gồm cả các bài kiểm tra đã chấm (nếu có), phiếu khảo sát ...

- Một báo cáo SKKN phải được đóng tập và sắp xếp theo thứ tự như sau: Bìa chính, Bìa phụ, Nội dung; Danh mục tài liệu tham khảo; Mục lục (nếu có, có thể đặt sau bìa phụ, trước phần nội dung); Phụ lục (nếu có).