bÁo cÁo t 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều...

34
BỘ LAO ĐỘNG-THƢƠNG BINH VÀ XÃ HỘI VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI ---------------------------------------------- TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP MỞ RỘNG AN SINH XÃ HỘI ĐỒNG BỘ VỚI CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI ĐẾN 2020 NHÁNH 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NGHÈO, LAO ĐỘNG LÀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ, NÔNG DÂN CÓ MỨC THU NHẬP TỪ TRUNG BÌNH TRỞ XUỐNG MÃ SỐ: CT2011-02-02 BÁO CÁO T 2) HÀ NỘI, NĂM 2013

Upload: truongnhu

Post on 03-Mar-2018

216 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

BỘ LAO ĐỘNG-THƢƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI

----------------------------------------------

TÊN ĐỀ TÀI:

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP MỞ RỘNG AN SINH XÃ HỘI ĐỒNG BỘ VỚI

CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI ĐẾN 2020

NHÁNH 2:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH

KHUYẾN KHÍCH THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NGHÈO, LAO ĐỘNG LÀ NGƢỜI DÂN TỘC

THIỂU SỐ, NÔNG DÂN CÓ MỨC THU NHẬP TỪ TRUNG BÌNH

TRỞ XUỐNG

MÃ SỐ: CT2011-02-02

BÁO CÁO T

2)

HÀ NỘI, NĂM 2013

Page 2: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

1

:

, nông dân có mức thu nhập từ trung bình trở xuống.

: CT2011-02-02

-

:

:

:

:

n

:

: 2011-2012

Page 3: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

2

I. Tính cấp thiết của đề tài

. Ước lượng từ số liệu điều tra thực trạng

lao động, việc làm năm 2

(BHXH) bắt

buộc chiếm khoảng 75%. Những đối tượng này, nếu không có tích lũy,

không có chỗ dựa kinh tế đảm bảo thì dễ rơi vào vòng nghèo đói do kh

.

T , t

134 nghìn người tham gia1

trên

nhưng do chưa đủ số năm tham gia BHXH theo q

. Nói

cách khác, số đối tượng là nông dân, lao động tự làm, v.v… lần đầu tham gia

BHXH không nhiều.

sự tham gia của người

-

-

: “Nghiên cứu xây dự ến khích nông dân, lao động

trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện”. ,

thực hiện nghiên cứu

, nông dân có mức thu nhập từ trung bình trở xuống

góp phần thực hiện thành công mục tiêu

15-NQ/TW

đã đề ra.

II. Mục tiêu nghiên cứu

Đưa ra được cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khuyến

khích tham gia BHXH tự nguyện đối với lao động có mức thu nhập từ trung

bình trở xuống, trong đó chú ý tới chính sách đối với lao động nghèo, lao

động là người dân tộc thiểu số.

1 - (7/12013),

.

Page 4: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

3

III. Đối tƣợng nghiên cứu

Nghiên cứu khả năng tham gia chính sách BHXH tự nguyện của lao

động có mức thu nhập từ trung bình trở xuống để làm cơ sở xây dựng chính

sách khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện.

IV. Phạm vi nghiên cứu

- Người nông dân và lao động tự tạo việc làm.

- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2006 – 2010.

V. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp tổng quan tài liệu

- Phương pháp thống kê

- Điều tra định lượng và phỏng vấn sâu

- Phương pháp chuyên gia.

Page 5: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

4

CHƢƠNG I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH

NGƢỜI DÂN THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

I. Nội hàm của một chính sách BHXH khuyến khích ngƣời dân tự

nguyện tham gia

chương trình. Cơ quan bảo hiểm xã hội không có quyền từ chối nếu người

lao động quyết định tham gia. Như vậy, để người lao động tham gia chương

trình thì BHXH tự nguyện phải được thiết kế sao cho là sản phẩm phù hợp

với nhu cầu của người lao động (khách hàng) và việc tổ chức

,

cung cấp dịch vụ

.

Để đưa ra và triển khai thành công một

, cần 4 yếu tố sau:

(1) Có thị trườ ;

(2) Sản phẩm được thiết kế phù hợ

;

(3) ;

(4) phù hợp;

Để đảm bảo thành công thì tất cả các yế

.

Nhưng, nếu không xác định đúng thì sẽ không giải quyết được vấn đề. C

chính sách thường mắc hai lỗi là: (1) đưa ra chính sách duy ý

chí, không xem xét nhiều đến thị trường; và (2

.

1.1. Thị trường

Thị trường là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố kể trên.

Trước khi đư

là lượng cầu có khả năng thanh toán. Vì vậy, trước hết cần đánh giá xem có

tồn tại một thị trường về BHXH tự nguyện hay không và trong đó cần làm rõ

giữa nhu cầu nói chung và cầu có khả năng thanh toán nói riêng.

Page 6: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

5

Đối với vấn đề an sinh xã hội thì đạt được các mục tiêu xã hội là ưu

tiên hàng đầu nhưng vẫn phải chú ý đến vì

BHXH tự nguyện bao gồm yếu tố tự do và đương nhiên cũng cần một số

người tham gia tối thiểu để đảm bảo hiệu suất kinh tế và qui luật số đông

trong bảo hiểm.

2 nguyên nhân trên.

1.2. Thiết kế sản phẩm phù hợp

BHXH tự ng

càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên,

g nâng mức hưởng kéo theo tăng mức đóng ,

công thức .

yếu tố cơ bản như , tỉ lệ tử vong, lãi

đầu tư được quan tâm đầy đủ khi thiết lập công thức tính toán.

, nếu tính không

chuẩn xác thì sẽ xảy ra hai trường hợp: tính thiếu và tính thừa. Hậu quả của

việc tính thiếu quỹ

. , cơ

quan thực hiện và cơ quan

.

1

Một sản phẩm được thiết kế tốt nhưng

chương trình. Trên thực tế, ít khi có ngay sản phẩm hoàn hảo từ ban đầu.

Ph

ranh cãi.

ửa đổi chính sách.

Page 7: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

6

Chính sách cần có độ ổn định nhất định. Nếu thay đổi nhiều lần hoặc

trong thời gian ngắn quá, sẽ: (1) gây tác động tiêu cực đến qui trình hoạt động

vì cũng phải điều chỉnh theo; và (2) gây tâm lý không tốt đối với khách hàng

vì người mua hàng sẽ so sánh (người hài lòng thì ít, người bất mãn thì nhiều).

: (1) mang lại dịch vụ

tốt, thuận lợi cho khách hàng; và (2) tiết kiệm chi phí cho cơ quan thực hiện.

Dịch vụ không tốt sẽ không lôi kéo đượ

.

h

.

Vấn đề kỹ thuật khác là tỉ lệ hợp đồng. Sau khi đã ký hợp đồng, cơ

quan BHXH có thể dự tính người lao động sẽ tham gia suốt quá trình lao

động còn lại cho tới khi nghỉ hưu. Ta có thể ước tính dòng tiền trong một

khoảng thời gian. Dòng tiền này rất quan trọng đối với vấn đề

biện pháp hạn chế hủy hợp đồng.

1.4. T và bán hàng

. Công tác tuyên truyền (nói

theo ngôn ngữ trong khu vực tư nhân là quảng cáo) lại có tác dụng ngay. Do

vậy, cần phải thông tin : các chế độ

, ai là đối tượng được tham gia hoặc chế độ phù hợp với ai, mang lại

quyền lợi gì, nếu muốn tham gia thì phải gặp cơ quan nào, địa chỉ ở đâu

thuyết phục khác hàng tham gia chương trình.

Nếu mục đích chỉ là mời chào một

chế độ (ai muốn tham gia thì tham gia) thì chỉ cần thông tin tuyên truyền là

đủ, cơ quan BHXH chỉ cần ngồi chờ khách hàng đến đăng ký.

g nhiều người tham gia càng tốt thì cơ quan

BHXH không thể ngồi thụ động chờ khách hàng đến đăng ký mà phải đi tìm

khách hàng và thuyết phục họ tham gia, làm cho ch .

tham gia bán hàng).

Page 8: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

7

đội ngũ bán hàng, đại lý, chiến lược bán hàng và chi hoa hồng cho lực

lượng bán hàng

, hợp tác

công–tư là một hình thức có thể xem xét.

2.

Do

do

ham gia (

), trong

lương hưu .

.

) nên

,

).

II. Kinh nghiệm của Trung Quốc về BHXH tự nguyện

1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

1.1 Tổng quan hệ thống BHXH của Trung Quốc

Hệ thống BHXH ra đời từ năm 1951 theo mô hình của Liên Xô cũ

.

chuyển

từ hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định trước sang hệ thống hưu

trí dựa trên 3 trụ cột:

(1) Hưu trí cơ bản: dựa trên nguyên tắc PAYG, trụ cột này chỉ do

người sử dụng lao động đóng với tỷ lệ 13% tổng chi tiền lương.

(2) Tài khoản cá nhân

2005 giảm xuống còn 3%)

tổng chi tiền lương.

(3) : đóng góp mang tính cá nhân theo hình thức bảo

hiểm thương mại.

Page 9: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

8

Tiền lương hưu cơ bản ở giai đ

20% tiền lương trung bình của khu vực.

Luật Bảo hiểm Xã hội của Trung Quốc

ngày 1/7/2011. Đây là khung khổ pháp luật BHXH toàn diện

đầu tiên của Trung Quốc, trong đó quy định người sử dụng lao động phải

đăng ký cả 5 chế độ BHXH cho người lao động, bao gồm chế độ hưu trí cơ

bản, bảo hiểm y tế cơ bản, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm thất nghiệp

và chế độ thai sản.

cán bộ, công chức và người lao

động khu vực chính thức, Trung Quốc đã thực hiện bảo hiểm hưu trí tự

nguyện cho người lao động thuộc khu vực phi chính thức đang làm việc cho

các doanh nghiệp, người lao động tự làm và khu vực nông

nghiệp ở cả nông thôn và thành thị, theo 2 chương trình: Chương trình bảo

hiểm hưu trí thành thị và chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn.

Chương trình bảo hiểm hưu trí cho người lao động ở khu vực thành

thị được thiết kế tương tự như hệ thống BHXH chung, bao gồm 3 trụ cột

chính: Hưu trí cơ bản (đóng góp vào quỹ hưu chung); tài khoản cá nhân

(đóng vào tài khoản cá nhân) và bổ sung của cá nhân. Trong khi đó,

chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn được thiết kế dựa trên đóng góp

của cá nhân, hỗ trợ của tập thể (đ v của

Chính phủ. Dưới đây trình bày về chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn

(tương tự như BHXH tự nguyện ở nước ta).

1.2 Chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn

a. Giai đoạn khởi đầu và mở rộng (1986-1998)

Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 7 (1985-1990), Trung Quốc đặt ra

nhiệm vụ “cần nghiên cứu việc thiết lập hệ thống hưu trí nông thôn, tiến

hành và mở rộng dần dần chương trình thí điểm theo sự phát triển kinh tế”.

Năm 1991, Bộ Dân Chính chủ trì chương trình hưu trí nông thôn và thực

hiện chương trình thí điểm tại 5 huyện thuộc tỉnh Sơn Đông nguyên

tắc cơ bản cho chế độ hưu trí nông thôn như sau:

- Chương trình tự nguyện, được hình thành từ nguồn đóng góp cá nhân,

sự hỗ trợ tập thể tại cấp thôn và chính sách ưu đãi của nhà nước.

- Đóng góp hàng tháng của cá nhân dao động từ 2 đến 20 NDT và tập

thể đóng góp 2 NDT.

- Nông dân cao tuổi được hưởng lương hưu cho đến khi chết.

- Số tiền đóng góp được gửi tại ngân hàng và đầu tư vào công trái

quốc gia; ngoài ra không được đầu tư trực tiếp.

Page 10: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

9

- Sở Dân chính chịu trách nhiệm quản lý, chi phí quản lý được lấy từ

(ấn định là 3%).

Năm 1998 khi thực hiện cải cách hành chính, trách nhiệm về chương

trình hưu trí nông thôn được chuyển từ Bộ Dân chính sang Bộ Lao động và

An sinh xã hội (nay là Bộ Nguồn nhân lực và ASXH).

b. Giai đoạn thu hẹp và ngưng trệ (1999-2002)

Do lo ngại về hiệu quả, tính bền vững của chương trình hưu trí nông

thôn nên trong những năm cuối

thập kỷ 90 20.

c. Giai đoạn khôi phục (2003-2009)

Từ sau Đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc cuối năm 2002, Trung

nêu quyết tâm thực hiện BHXH toàn quốc vào năm 2020. Từ năm

2003 đến 2009 các chương trình hưu trí nông thôn đã phát triển, tổng số 300

huyện tại 25 tỉnh đã thiết lập chương trình mới.

1.3. Chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn mới

Tháng 10/2009,

thôn mới với 4 nguyên tắc: (i) Đảm bảo mức sống cơ bản của người già ở

nông thôn; (ii) Độ bao phủ rộng; (iii) Cơ chế tài chính linh hoạt; (iv) Đảm

bảo tính bền vững lâu dài của quỹ.

a. Đối tượng áp dụng

người dân trên 16 tuổi, có hộ khẩu thường trú nông thôn đều có

quyền tham gia nếu chưa tham gia chương trình bảo hiểm hưu trí thành thị.

b. Nguồn quỹ

ình thành từ ba nguồn: đóng góp của cá nhân, hỗ trợ của

tập thể và trợ cấp của Chính phủ (trước đây hoàn toàn do người nông dân tự

chi trả và không có bất kỳ trợ cấp nào từ Chính phủ). Phí cá nhân và tiền

hỗ trợ của tập thể đều được ghi vào tài khoản cá nhân, thuộc sở hữu cá nhân.

Theo quy định, nông dân nộp phí với 5 mức (100, 200, 300, 400 và 500

NDT), tối thiểu 100 NDT/năm. Địa phương có thể điều chỉnh mức đóng tùy

theo điều kiện kinh tế địa phương (như Bắc Kinh là hơn 2.000 NDT/năm).

Đối với người nghèo, thu nhập quá thấp, không thể đóng bảo hiểm thì địa

phương có thể giảm xuống mức tối thiểu (100 NDT). Đối với người khuyết

tật, người mất sức lao động thì thấp hơn 100 NDT hoặc miễn.

Như vậy, kinh phí chương trình gồm: (i) trợ giúp của trung ương cho

phần đóng hưu trí cơ bản (100% cho vùng trung tâm và vùng miền Tây;

50% cho vùng miền Đông); (ii) đóng góp cá nhân (từ 100 đến 500 NDT/năm

Page 11: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

10

tùy theo lựa chọn của người lao động); (iii) một phần đóng góp đối ứng từ

chính quyền địa phương, tối thiểu là 30 NDT/năm; và (iv) trợ giá của tập

thể, khoản này không bắt buộc và không ấn định mức. người tham

gia đều lựa chọn mức 100 hoặc 500 NDT, một số tỉnh và huyện duyên hải

nông dân chọn mức cao hơn, lên đến 2.500 NDT.

c. Điều kiện hưởng

- 60 tuổi đối với cả nam và nữ, có thời gian đóng tối thiểu 15 năm.

- Những người đã quá 60 tuổi khi chương trình khởi động cũng có thể

được hưởng hưu cơ bản nếu con cái họ tham gia đóng góp.

- Những người khi đến 60 tuổi mà vẫn chưa đủ thời gian đóng góp 15

năm thì được đóng một lần cho đủ số tháng còn thiếu để có đủ thời gian

đóng góp cần thiết.

d. Mức hưởng

Người tham gia bảo hiểm sẽ được hưởng lương hưu gồm hai phần:

phần do Chính phủ đảm bảo và phần còn lại từ tài khoản của cá nhân.

- Phần do Chính phủ đảm bảo là 55 NDT/tháng và có thể được chính

quyền địa phương nâng lên tùy theo ngân sách của họ.

- Phần từ tài khoản cá nhân bằng tổng số tồn tích trong tài

khoản tính đến khi hưởng lương hưu chia cho 139 tháng.

e. Tổ chức thực hiện

- Quản lý quỹ thực hiện tại cấp huyện. Văn phòng địa phương của Bộ

Nguồn nhân lực và An sinh xã hội thực hiện giám sát quỹ. Tất cả các chi phí

hành chính và vận hành chương trình được phân bổ từ ngân sách trung ương.

- Việc chi trả cho các đối tượng được hưởng thông qua hệ thống ngân

hàng hoặc tổ chức tín dụng ở xã. Trong trường hợp xã không có tổ chức tín

dụng, trưởng thôn có trách nhiệm lĩnh và chi trả cho đối tượng được hưởng.

g. Tỷ lệ bao phủ

Đến cuối 2010, 50% tổng số huyện trên toàn quốc thực hiện

mới cho nông dân. Dự tính đến năm 2014 sẽ áp dụng trên toàn

quốc, có thể bao phủ tới 80% dân số cả nước.

Hiện nay mức hưởng trung bình là 1.320 NDT/năm, trong đó mức trợ

cấp tối thiểu của Nhà nước là 55 NDT/tháng, địa phương bổ sung tùy theo

điều kiện kinh tế của địa phương (ví dụ Bắc Kinh là 280 NDT/tháng).

Page 12: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

11

1.4. Hạn chế

Hạn chế lớn của chương trình là chưa

giải quyết được vấn đề liên thông của quỹ khi người lao động đang tham gia

hệ thống hưu trí nông thôn, sau đó di chuyển sang làm việc và tham gia hệ

thống lương hưu của doanh nghiệp thành thị hoặc ngược lại.

Một trong những vấn đề đặt ra cho

hàng triệu lao động nhập cư nông thôn đổ về thành phố.

2 cách tính bảo hiểm hưu trí khác nhau giữa nông thôn và thành thị,

hệ thống BHXH hiện hành chưa cho phép người lao động có thể chuyển đổi

giữa 2 chương trình. Thí dụ, một người nông dân đã tham gia vào hệ thống

bảo hiểm hưu trí nông thôn 10 năm, sau đó di cư ra đô thị và ký hợp đồng

lao động với người sử dụng lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm

hưu trí thành thị. Cách giải quyết hiện nay là thanh toán một lần cho phần

đóng góp vào hưu trí nông thôn và phải tham gia từ đầu vào hệ

thống hưu trí thành thị. Điều này có nghĩa là khoản tiền người nông dân

đóng góp vào quỹ hưu trí không có giá trị bảo hiểm. Cách giải quyết này

không những gây thiệt thòi cho người lao động mà còn ảnh hưởng đến chính

sách ASXH và tăng thêm áp lực cho định hướng xây dựng một hệ thống

BHXH thống nhất của Trung Quốc.

một tỷ lệ lớn lao động di cư mùa vụ, làm việc tại

t quay trở lại nông thôn vào mùa xuân

để trồng trọt và mùa thu để thu hoạch xu thế đô thị hóa đang diễn

ra nhanh tại Trung Quốc, đã đặt ra cần phải thiết kế một

hệ thống ASXH tích hợp và hợp nhất, cho phép người lao động tham gia

BHXH ở bất cứ đâu, dù là thành thị hay nông thôn.

1.5. Định hướng cải cách hệ thống BHXH

Nhằm khắc phục những tồn tại của hệ thống BHXH hiện hành và mở

rộng độ bao phủ của BHXH toàn dân, Trung Quốc đã định hướng hợp nhất

chương trình bảo hiểm hưu trí ở 2 khu vực nông thôn và thành thị, thực hiện

mục tiêu “bảo đảm đời sống của người cao tuổi”:

- Tiếp tục mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm hưu trí;

- Xây dựng và triển khai thực hiện các biện pháp để lao động nhập cư

tham gia vào hệ thống bảo hiểm hưu trí;

- Cải thiện quỹ hưu trí;

- Nâng tuổi nghỉ hưu theo luật định ở thời điểm thích hợp;

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tài khoản cá nhân;

Page 13: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

12

- Nghiên cứu thiết lập cơ chế đầu tư quỹ bảo hiểm hưu trí đảm bảo

tính linh hoạt, hiệu quả và sự ổn định cho quỹ.

2. Bài học cho Việt Nam

- Hỗ trợ một phần mức đóng BHXH cho lao động có thu nhập thấp

(người nghèo, nông dân có thu nhập từ trung bình trở xuống...) nhằm khuyến

khích người dân tham gia BHXH, đảm bảo ASXH khi về già.

- Thí điểm chính sách con cái tham gia BHXH tự nguyện, bố mẹ được

hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng để vừa khuyến khích được người dân tham

gia BHXH và vừa đảm bảo một phần cuộc sống tự chủ cho người cao tuổi

ngay từ thời gian này.

- Nghiên cứu và thí điểm thực hiện chính sách hưu trí bổ sung ngoài

BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện nhằm gia tăng nguồn thu nhập cho

người lao động khi về già. Không nên phát triển một chính sách BHXH đơn

mà cần phát triển đa dạng để người dân có nhiều nguồn thu nhập từ

nhiều chính sách, chương trìn .

-

Theo quy định của chính sách Trung Quốc, mọi người lao động đến

tuổi nghỉ hưu theo luật định (60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với cán bộ nữ

và 50 tuổi đối với nữ công nhân) nhưng có thời gian đóng góp vào quỹ

BHXH ít hơn 15 năm, có thể đủ 15 năm để

nhận lương hưu hàng tháng. Quy định này thể hiện sự linh hoạt của chế độ

bảo hiểm. T , trên thực tế ở một số địa phương như Thâm Quyến

khi người lao động đến tuổi nghỉ hưu theo luật định thời gian tham gia

BHXH chưa đủ 15 năm không được tiếp tục tham gia mà chỉ được nhận

trợ cấp hưu trí một lần từ tài khoản hưu trí cá nhân.

- Về tổ chức thực hiện: Trung Quốc đã có sự phân cấp giữa trung ương

và địa phương mạnh mẽ. Trung ương xác định khung pháp luật chung về

ASXH, chỉ đạo thực hiện và cung cấp ngân sách, lập và duy trì quỹ rủi ro

BHXH. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm: (i) tổ chức thực hiện pháp

luật về ASXH; (ii) xây dựng chính sách và pháp luật của địa phương để đảm

bảo thực hiện ASXH của địa phương; (iii) thực hiện chính sách BHXH trên

cơ sở có nguồn hỗ trợ ngân sách từ trung ương và từ ngân sách địa phương;

(iv) trách nhiệm thu, chi các bảo hiểm; (v) thành lập các cơ quan

chuyên môn đảm bảo thực hiện chính sách và pháp luật về ASXH.

Page 14: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

13

CHƢƠNG II.

THỰC TRẠNG THAM GIA B TỰ NGUYỆN CỦA

LAO ĐỘNG CÓ MỨC THU NHẬP TỪ TRUNG BÌNH TRỞ XUỐNG

I. Đặc điểm chung của lao động có thu nhập từ trung bình trở xuống

1. Đặc điểm hộ gia đình có mức thu nhập từ trung bình trở xuống

1.1.

(400

- sống

2010 6 /

)

.

:

-

nên h :

).

-

,

.

2010

cho :

-

. N

,

/

. S

nông thôn.

-

. N

,

. S

.

Page 15: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

14

-

).

1.2. C chi tiêu của hộ

,

trong

.

nông m 5

49,5%.

)

thôn. H .

i

1,4%.

.

52%.

35,3% hộ

.

2. Đặc điểm lao động có mức thu nhập từ trung bình trở xuống

Trình độ văn hóa là một trong các yếu tố tới chất lượng

việc làm và thu nhập của người lao động. T

.

71,9% lao động nông thôn có trình độ từ tiểu học trở xuống. Trình độ

văn hóa của lao động hơn, nhưng

cao (69,8%).

(CMKT), 98,7% lao độ

Page 16: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

15

ằng cấ

ố ằng cấ

, không an ninh.

2.2. Việc làm

, l nông

. hơn

nông cao hơn 37,6% , 45,2

67,7%

.

.

, .

2.3. Thu nhập

Thu nhập bình quân của lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện

là 1.379 nghìn đồng/người/tháng năm 20102, trong , 65% có thu nhập bình

quân cao hơn mức tiền lương tối thiểu. Dưới góc độ tài chính, có thể coi đây

là nhóm có đủ năng lực tài chính tham gia BHXH tự nguyện.

. T

t

chính tương đương với 30,9% mức phí tối thiểu [theo qui định] đó

36% mức đóng tối thiểu.

-

-

-

.

2 Mức đóng tối thiểu theo quy định tại thời điểm này là 131,4 nghìn đồng/người/tháng

2, bằng 9,5% thu nhập

bình quân của đối tượng.

Page 17: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

16

II. Thực trạng lao động đang tham gia BHXH tự nguyện

thì

qui mô tăng nhanh trong những

năm tiếp theo. Tuy vậy n

năm 2012, người tham gia.

đây

Dương với 520 người lao động trong đó có

260 người lao động đang tham gia và 260 người chưa tham

gia để t “

”.

1. Thực trạng việc làm, thu nhập của đối tƣợng tham gia BHXH

, k iệc làm

đến khả năng và quá trình tham gia BHXH. Kết quả khảo

sát cho thấy việc làm 80,4%. Đối

18,4%.

Thực tế này cho thấy nông dân - lực lượng chiếm 2/3 số đối tượng thuộc diện

tham gia BHXH tự nguyện, tham gia vào hệ thống còn rất khiêm tốn so với lao

động tự làm. , ) trong

, .

, trên

93% (riêng 30-40 63,8%); đ ng trên

.

Tr

. Biểu đồ

.

h ,

69,9%

, 25,3 .

.

1.518

. ,

Page 18: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

17

trên trung .

).

.

Thu nhập từ làm công ăn lương và từ hoạt động kinh doanh chiếm trên

95% (riêng

)

.

2. Thực trạng tham gia BHXH tự nguyện

đối tượng tham gia BHXH là những người trước

kia đã tham gia BHXH chuyển sang. S

64,6%, tham gia mới chỉ chiếm 35,4%.

.

do

phương tiện truyền thông .

.

Về mức đóng, chủ yếu

khoảng 300-500 nghìn đồng/tháng.

là 166 nghìn đồng/tháng (t

)

,

quân ). Như v

5).

, 687 nghìn đồng/tháng

Page 19: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

18

, cao nhất là 3 triệu đồng/tháng, thấp nhất là 210

nghìn đồng/tháng.

quân ).

,

sang luôn o .

.

3. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của đối tƣợng đang

tham gia BHXH tự nguyện

3.1.

, đương nhiên

.

3.1.1. Về mức đóng

, có 98,9% cho rằng họ không gặp khó

khăn gì mức đóng . , 85% số

mức đóng như qui định hiện nay là hợp lý ó 12% số

đối tượng cho rằng có thể đóng cao hơn.

3.1.2. Về phương thức đóng

, 99,6% không gặp khó khăn với

phương thức đóng .

ng ) 1%

tham gia .

.

3.1.3. Về thời gian đóng BHXH tự nguyện

Trong số đối tượng được khảo sát, 79% cho rằng qui định thời gian

đóng 20 năm thì được hưởng lương hưu hàng tháng khi

đến tuổi nghỉ hưu là phù hợp.

đóng

tối thiểu 15 năm .

Page 20: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

19

cao hơn so với những người lựa chọn đóng theo qui định 20 năm

để đảm bảo số tiền đóng vào quỹ BHXH tự nguyện của đối tượng lựa chọn

đóng 15 năm số tiền đóng của đối tượng lựa chọn đóng 20

năm .

.

3.2.1. H

kênh

).

kênh .

T , 19,2% s

qua

kênh

qua

)

.

.

3.2.3. Về địa điểm đóng phí BHXH tự nguyện

Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đóng phí BHXH tại cơ

quan BHXH quận/huyện. 98% số đối tượng cho rằng không có khó khăn

gì khi đến đóng tại BHXH quận/huyện. Đối tượng tham gia cho rằng với sự

thông dụng của phương tiện giao thông, đường sá đi lại thuận lợi thì thời gian

và chi phí để đến các cơ quan BHXH quận/huyện là không lớn.

địa bàn khảo sát của đề tài Hà Nội và Hải Dương, hai địa phương

thuộc vùng đồng bằng, kinh tế khá phát triển, giao thông đi lại thuận tiện và

cư dân sinh sống tập trung. Nếu khảo sát ở , giao thông chưa

phát triển, cư dân sinh sống phân tán thì

sẽ là một vấn đề đối với đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

Page 21: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

20

C có 10,8% số đối tượng quyết định sẽ không tham gia BHXH tự

nguyện nữa (ở nhóm đối tượng tham giá mới, tỷ lệ này là 17,4%; ở nhóm đối

tượng từ BHXH bắt buộc chuyển sang, tỷ lệ này là 7,2%). Đây

, không . Trong số đối tượng không muốn tiếp tục

tham gia, đối tượng cho rằng chẳng phải vì lý do gì cụ thể mà

là họ không có nhu cầu tham gia nữa. Điều này

có các kênh đầu tư hoặc tiết kiệm khác hấp dẫn hơn

.

, v.v.

III. Thực trạng lao động chƣa tham gia BHXH tự nguyện

1. Thực trạng việc làm, thu nhập

260 lao động không tham gia BHXH tự nguyện

:

- Theo ngành kinh tế: 56% lao động được khảo sát làm trong ngành

thương mại-dịch vụ, 32,2% trong công nghiệp-xây dựng và 11,8% làm trong

nông nghiệp (11,8%).

- Theo loại hình kinh tế: 67% lao động làm việc trong hộ sản xuất kinh

doanh, 22,3% làm việc trong khu vực tư nhân, 8,5% làm kinh tế cá thể, số còn

lại làm trong khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

- Theo vị thế làm việc: 51,9% là lao động tự làm, 21,5% làm công ăn

lương, 7,7% là chủ cơ sở và 18,8% là lao động hộ gia đình.

Về thu nhập, trên 60% nguồn thu của các hộ là từ hoạt động kinh tế

của hộ, gần 30% là từ làm công hưởng lương. Phân bố thu nhập bình

quân/người/tháng của các hộ được khảo sát dao động từ 600 ngàn đến 15

triệu đồng; mức trung bình là 2.800 ngàn đồng/người/tháng.

Sử dụng ngưỡng thu nhập bình quân/người/tháng để phân số hộ được

khảo sát thành nhóm hộ có mức thu nhập trên trung bình và nhóm hộ có mức

thu nhập từ trung bình trở xuống, kết quả 18,5% hộ gia

đình được khảo sát có .

, thu nhập bình

quân của

Page 22: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

21

.

Theo thành phần kinh tế, mức thu nhập bình quân thấp nhất là của lao

động làm việc trong khu vực Nhà n

.

Theo vị thế việc làm, thu nhập thấp nhất là của lao động gia đình

thuộc nhóm hộ có thu nhập dưới trung bình, đạt gần 2 triệu đồng/tháng. Lao

động tự làm có thu nhập đạt gần 2,4 triệu đồng/tháng; với lao động làm công

ăn lương và chủ cơ sở, mức thu nhập còn cao hơn nữa.

thiểu. Tuy vậy, việc hộ gia đình có khả năng tích lũy hay không mới là yếu

tố quyết định năng lực tài chính trong việc tham gia BHXH của người lao

động nói riêng và hộ gia đình nói chung.

Số liệu khảo sát cho thấy hầu hết số hộ được khảo sát đều có mức thu

nhập lớn hơn chi tiêu. Cụ thể, 35% số hộ được khảo sát có mức thu nhập lớn

hơn chi tiêu từ 20% đến 50%; 11,2% số hộ có mức thu nhập lớn hơn 2 lần so

với chi tiêu của hộ. Những hộ còn lại có mức thu nhập lớn hơn chi tiêu dưới

20%. Xét bình quân trong mẫu khảo sát thì mỗi hộ có mức thu nhập lớn hơn

chi tiêu là 27%, nói cách khác, trung bình mỗi hộ có thể tiết kiệm được 27%

thu nhập hàng tháng. Như vậy, tài chính

tham gia BHXH tự nguyện. ?

Tham gia BHXH tự nguyện là một trong nhiều cách thức mà hộ gia

đình có thể lựa chọn đối với phần thặng dư tài chính của hộ gia đình. Tuy

vậy, kết quả khảo sát cho thấy chỉ 4% số hộ gia đình được khảo sát lựa chọn

hình thức tham gia bảo hiểm (BHXH, bảo hiểm thương mại), trong khi 19%

lựa chọn gửi tiết kiệm và số còn lại thì sử dụng khoản dư này

để đầu tư sản xuất, kinh doanh nhỏ sinh lời hoặc tự cất trữ [dưới dạng

tiền mặt hoặc mua kim loại quý, v.v.] trong nhà.

Tỷ lệ thấp hộ gia đình lựa chọn hình thức tham gia bảo hiểm cho thấy

g của người dân về bảo hiểm nói chung và BHXH tự

nguyện nói riêng là chưa thực sự tích cực. Thực tế này hàm ý rằng người dân

chưa hiểu hết vai trò, tầm quan trọng của bảo hiểm nói chung và BHXH

trong đó có BHXH tự nguyện nói riêng. Do vậy, họ chưa thiết tha với

BHXH tự nguyện. Dưới góc độ khác, có thể kết luận rằng công tác

nh truyền thông, tiếp thị xã hội về BHXH tự

nguyện đến với người dân còn hạn chế.

Page 23: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

22

2. Nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện

chính sách BHXH tự nguyện nhưng đối tượng mà chính sách

hướng tới lại không biết về nó thì khả năng thực hiện chính sách thành công

là rất thấp. Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ người lao động (chưa tham gia

BHXH tự nguyện) biết về chính sách BHXH tự nguyện là rất thấp. Lao động

có thu nhập thấp hơn thì tỷ lệ biết về chính sách cũng thấp hơn: chưa đến

10% số lao động có thu nhập dưới 1,5 triệu đồng/tháng biết đến chính sách

BHXH tự nguyện 30% lao động có mức thu nhập từ

2 triệu đồng/tháng trở lên .

Không biết chính sách BHXH tự nguyện

phương nhưng khi điều tra viên giới thiệu chính sách và hỏi họ có mong

muốn tham gia không thì tỷ lệ đối tượng được khảo sát có mong muốn tham

gia khá cao, trên 51,9%. Số liệu khảo sát cho thấy 44% số lao động có thu

nhập dưới 1,5 triệu có mong muốn tham gia. Thu nhập của người lao

động tăng thì nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cũng tăng theo.

Do chính sách BHXH tự nguyện qui định thời gian đóng BHXH tối

thiểu , hàng quí hoặc 6 tháng 1

lần thì được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu (theo qui định, nam có

thể tham gia đóng BHXH tự nguyện đến 65 tuổi, nữ đến 60 tuổi) nên những

lao động nam từ 45 tuổi trở lên, nữ từ 40 tuổi trở lên mới bắt đầu tham gia

thì không đủ điều kiện để được hưởng lương hưu hàng tháng. Đề tài phân

nhóm đối tượng được khảo sát thành 2 nhóm: nhóm A (gồm những lao động

nam dưới 45 tuổi và lao động nữ dưới 40 tuổi, số này chiếm 60,1% tổng số

đối tượng khảo sát) và nhóm B (gồm lao động nam 45 tuổi trở lên và nữ 40

tuổi trở lên, số này chiếm 39,9% tổng số đối tượng được khảo sát) để kiểm

nghiệm nguyện vọng tham gia BHXH tự nguyện của 2 nhóm đối tượng này.

Kết quả cho thấy, 49,4% số lao động trong nhóm A có mong muốn

tham gia BHXH tự nguyện còn ở nhóm B thì tỷ lệ này là 61,1%. Người lao

động ở tuổi trên 40 có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cao hơn so với

lao động ít tuổi hơn.

Phân theo ngành kinh tế, 61,7% lao động ngành thương mại, dịch vụ

có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện; 40,5% lao động trong công nghiệp-

xây dựng có nhu cầu tham gia; 20,8% lao động trong nông nghiệp có nhu

cầu tham gia. Như vậy, đối tượng tiềm năng của BHXH tự nguyện hiện nay

là lao động trong khu vực phi kết cấu. Mặt khác, lao động làm công

ăn lương, lao động tự làm, chủ cơ sở sản xuất kinh doanh cũng có nhu cầu

tham gia BHXH tự nguyện ở mức cao.

Page 24: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

23

.

n tham gia.

3. Lƣợng hóa

lao động

:

- Nhóm A là những lao động nam dưới 45 tuổi và nữ dưới 40 tuổi;

- Nhóm B là những lao động nam 45 tuổi trở lên và nữ 40 tuổi trở lên.

K yếu tố ảnh hưởng đến nhu

y:

Độ tuổi có tác động đến nhu cầu tham gia của cả nhóm A và nhóm B.

T

nhưng biến tuổi có tác động ngược chiều đến hai nhóm đối

tượng . Với nhóm A, tuổi càng cao thì xác suất người lao động tham gia

càng cao, còn ở nhóm B tuổi càng cao thì nhu cầu tham gia càng giảm. Với

nhóm A, cứ tăng 1 tuổi thì nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của lao động

tăng 8%, ngược lại với nhóm B cứ tăng 1 tuổi thì nhu cầu tham gia BHXH

tự nguyện của lao động lại giảm 32%.

Tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ càng cao thì nhu cầu tham gia BHXH

tự nguyện càng lớn, tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ tăng 1% thì nhu cầu tham

gia BHXH tự nguyện tăng 1,8%. Như vậy, gánh nặng phụ thuộc là một trong

những nguyên nhân dẫn đến người lao động lựa chọn BHXH tự nguyện như

là một trong nhưng phương thức phòng ngừa rủi ro cho bản thân.

Thu nhập bình quân của hộ tăng lên 1% thì nhu cầu tham gia bảo

hiểm tự nguyện của người lao động tăng lên 4,4 lần khi các yếu tố khác

không đổi.

Page 25: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

24

Ở nhóm B, nam giới có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cao hơn

12,6 lần so với nữ giới. Điều này có thể là do mức độ hiểu biết của nam tốt

hơn nữ và vai trò trụ cột của nam giới trong hộ gia đình nhưng kết quả này

cũng có nghĩa là mức độ hiểu biết sâu sắc về BHXH ở người dân còn rất thấp

bởi nữ thì sống lâu hơn nam và nữ lại được hưởng lương hưu trước nam.

Trong nhóm A, người lao động có bằng chuyên môn kỹ thuật thì xác

suất tham gia BHXH tự nguyện của họ cao hơn 2,6 lần so với lao động

không có. Như vậy, công tác tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự nguyện

cần chú ý nhiều hơn đến nhóm lao động có trình độ thuộc nhóm A.

Lao động làm trong ngành dịch vụ có xác suất tham gia cao hơn 3 lần

lao động làm trong ngành nông nghiệp. Như vậy, BHXH tự nguyện cần chú

ý hơn đến nhóm lao động làm nghề phi nông nghiệp, lao động trong khu vực

phi kết cấu.

Nhà ở cũng là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu tham gia BHXH tự

nguyện, người có nhà biệt thự, kiên cố thì nhu cầu tham gia BHXH tự

nguyện cao hơn 3 lần những lao động không có nhà biệt thự, kiên cố. Về

những tài sản khác trong gia đình, hộ có điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh có tác

động đến nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người lao động. Hộ sở hữu

máy điều hòa nhiệt độ hay tủ lạnh làm tăng nhu cầu tham gia BHXH tự

nguyện của người lao động (tương ứng với mức tăng 2 lần và 3 lần so với hộ

không sở hữu những đồ dùng này. Hộ gia đình có các khoản tiền gửi tiết

kiệm thì lao động trong gia đình có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện cao

hơn khoảng 2 lần so với lao động trong hộ không có khoản gửi tiết kiệm

nào. Như vậy, công tác tuyên truyền, vận động chính sách cần chú ý đến

nhóm đối tượng đã có các điều kiện sinh hoạt tương đối tốt và đầy đủ để gia

tăng độ bao phủ của BHXH tự nguyện.

Khoản tiền đầu tư kinh doanh tác động đến nhu cầu tham gia BHXH

tự nguyện có ý nghĩa thống kê với nhóm B. Hộ gia đình có lao động thuộc

nhóm B mà có những khoản đầu tư kinh doanh thì xác suất tham gia BHXH

tự nguyện của lao động trong hộ cao gấp 5 lần những hộ không đầu tư kinh

doanh. Như vậy, công tác tổ chức thực hiện chính sách BHXH tự nguyện khi

hướng tới nhóm B thì cần đặc biệt chú ý công tác tuyên truyền vận động đối

với các đối tượng thuộc nhóm B mà có hoạt động đầu tư sản xuất kinh

doanh. Cũng lưu ý rằng lao động thuộc nhóm A mà có hoạt động sản xuất

Page 26: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

25

kinh doanh dường như do còn trẻ nên họ chưa coi BHXH tự nguyện là một

phương thức tiết kiệm/đầu tư cần được ưu tiên.

Hộ có tình trạng kinh tế khá trở lên có nhu cầu tham gia BHXH tự

nguyện cao hơn những hộ có kinh tế trung bình trở xuống. Người đã có gia

đình có xác suất tham gia bảo hiểm tự nguyện cao hơn người ly thân, ly hôn

và góa; người chưa có vợ/chồng thì xác suất tham gia thấp hơn.

4. Nguyên nhân hạn chế khả năng tham gia BHXH tự nguyện

Kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy nhu cầu và khả năng tham gia

BHXH tự nguyện của người dân là lớn. Tuy vậy, sau 5 năm thực hiện chính

sách BHXH tự nguyện, số đối tượng tham gia còn rất khiêm tốn. Thực tế

này là bởi các nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:

- Công tác tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện chưa hiệu quả. BHXH

tự nguyện đã triển khai được 5 năm nhưng tỷ lệ đối tượng chưa tham gia biết

về chính sách này của Nhà nước còn rất thấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy

chưa đến 10% số lao động có thu nhập dưới 1,5 triệu đồng/tháng biết đến

chính sách

. Mặt

khác, vai trò của chính quyền, đoàn thể địa phương và hệ thống thông tin đại

chúng trong việc phổ biến, cung cấp thông tin về BHXH tự nguyện đến đối

tượng còn mờ nhạt. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số đối tượng đang

tham gia BHXH tự nguyện thì tỷ lệ biết chính sách chủ yếu là qua người

thân, họ hàng

19,2% tương ứng. Không tiếp cận được thông tin, không biết và không hiểu

đầy đủ về nội dung chính sách là một trong nhưng nguyên nhân quyết định

thái độ và hành vi của đối tượng đối với chính sách BHXH tự nguyện.

Ngoài ra, phỏng vấn sâu các cơ quan BHXH tỉnh và huyện cho thấy

các đơn vị này chưa có một chiến lược cụ thể trong công tác phổ biến chính

sách BHXH tự nguyện đến đối tượng thuộc diện tham gia. Không chỉ vậy,

cơ quan BHXH [tỉnh và huyện] cũng như chính quyền và đoàn thể địa

phương còn thụ động trong mục tiêu mở rộng độ bao phủ. Cả cấp tỉnh cũng

như huyện đều không nắm rõ số lượng và đặc điểm cụ thể của đối tượng

thuộc diện tham gia trên địa bàn.

- Với qui định hiện hành, lao động nữ trên 40 tuổi và lao động nam

trên 45 tuổi nếu mới bắt đầu tham gia BHXH thì sẽ không đủ điều kiện để

Page 27: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

26

được hưởng lương hưu hàng tháng do không có đủ 20 năm đóng BHXH khi

đến tuổi nghỉ hưu. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng thuộc nhóm này

chiếm gần 40% tổng số đối tượng thuộc diện tham gia trong khi nhu cầu

tham gia của nhóm đối tượng này cao hơn nhiều so với của nhóm đối tượng

ở tuổi trẻ hơn, 61,1% so với 49,4% (tuy vậy, ở nhóm đối tượng này, nhu cầu

tham gia giảm đi nhanh chóng khi tuổi tăng cao lên).

- Lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là nông dân

và lao động phi nông nghiệp trong khu vực phi kết cấu. Trình độ chuyên

môn kỹ thuật của họ thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước,

nhất là với nhóm lao động dưới 40 tuổi với nữ và dưới 45 tuổi với nam.

Trong khi đó, kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật

đóng vai trò rất quan trọng đối với nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của

nhóm lao động này. Như vậy, không có chuyên môn kỹ thuật là một hạn chế

(thường thì người không có chuyên môn kỹ thuật là người không có việc

làm tốt, không có thu nhập cao và ổn định) đối với người lao động trong việc

tham gia BHXH tự nguyện.

- Có thể do quan niệm về vai trò và vị thế giữa nam và nữ trong hộ là

khá khác nhau nên giới tính cũng đóng vai trò nhất định đối với nhu cầu

tham gia BHXH tự nguyện của đối tượng tuổi trên 45 với nam và trên 40 với

nữ. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhóm đối tượng này, nam giới có nhu cầu

tham gia cao hơn nữ giới rất nhiều trong khi nữ lại sống thọ hơn nam nên xét

về cơ cấu thì ở chừng mục nào đó số lượng nữ sẽ nhiều hơn nam trong khi

nhu cầu tham gia lại thấp hơn nam.

- Nông dân, lao động làm nghề nông thường có thu nhập không ổn

định (bộ phận lao động này chiếm tỷ trong lớn trong tổng số đối tượng thuộc

diện tham gia BHXH tự nguyện) nên nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện

của nông dân, lao động trong nông nghiệp thấp hơn nhiều so với lao động

làm trong dịch vụ và công nghiệp-xây dựng.

- Hộ gia đình đã có những điều kiện sống tốt (nhà cửa, trang thiết bị

điều hòa, tủ lạnh, tiền gửi tiết kiệm…) thì có nhu cầu tham gia BHXH tự

nguyện cao hơn. Tuy vậy, nông dân, lao động phi nông nghiệp trong khu

vực phi kết cấu có điều kiện và mức sống thấp, do vậy nhu cầu tham

gia BHXH tự nguyện của họ không cao.

Page 28: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

27

CHƢƠNG III.

KHUYẾN NGHỊ MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH LAO

ĐỘNG CÓ MỨC THU NHẬP TỪ TRUNG BÌNH TRỞ XUỐNG

THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khuyến

khích lao động có thu nhập từ trung bình trở xuống tham gia BHXH tự

nguyện cho thấy việc xây dựng và ban hành chính sách BHXH tự nguyện là

đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu tham gia BHXH của số đông người lao

động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Tuy vậy,

,

:

1. óng bù số năm

còn thiếu để được hưởng chế độ hưu trí

Cho phép người lao động được mua bù số năm còn thiếu. Việc điều

chỉnh này sẽ tạo điều kiện để lao động nam trên 45 tuổi nữ

trên 40 tuổi tham gia BHXH tự nguyện ) được hưởng lương hưu khi

đến tuổi nghỉ hưu.

. Điều

chỉnh này sẽ đáp ứng 61,1% số người lao động thuộc nhóm B và cũng đáp

ứng nguyện vọng của 21% người lao động ) cho rằng

nên cho phép lựa chọn đóng 15 năm với mức đóng cao hơn thay vì chỉ có

một lựa chọn là đóng trong 20 năm.

2. Cho phép đối tượng tham gia lựa chọn linh

hoạt hơn

H nay, 75%

,

Page 29: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

28

4

.

3. Nhà nước h một phần phí

Các bằng chứng từ nghiên cứu này cho thấy:

Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động cả nước ước tính là 48

triệu người, trong đó có khoảng 33 triệu người thuộc diện tham gia BHXH

tự nguyện.

Cả nước có 35% số lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện

không đủ năng lực tài chính tham gia BHXH tự nguyện, tương đương với

11,6 triệu người (35%*33 triệu người). Mỗi lao động này chỉ đủ khả năng

đóng BHXH tự nguyện với mức phí bằng 70% mức tối thiểu theo qui định.

Cả nước có trên 7 triệu lao động thuộc hộ nghèo, kể cả người dân tộc

thiểu số (trong số 11,6 triệu người nói trên). Nhóm lao động này hoàn toàn

không đủ năng lực tài chính tham gia BHXH tự nguyện. Nếu tham gia, ngân

sách nhà nước phải hỗ trợ toàn phần.

- Trường hợp 1: Giả định ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn phần phí

tham gia BHXH tự nguyện cho 7 triệu lao động thuộc hộ nghèo và 30% phí

tham gia BHXH tự nguyện cho 4,6 triệu lao động thu nhập thấp nói trên

Mô phỏng cho năm 2011 ta thấy lượng ngân sách Nhà nước cần chi

cho hỗ trợ trong năm là:

- Chi cho 4,6 triệu lao động thu nhập thấp: 4,6 triệu người* 30% *

18% tiền lương tối thiểu * 12 tháng = 4,6 triệu người * 30% * 18% * 830

nghìn đồng * 12 tháng = 2 nghìn 474 tỷ đồng. Khoản này tương đương với

0,1% GDP và bằng 0,45% tổng chi ngân sách thường xuyên năm 20113.

- Chi hỗ trợ toàn phần lao động nghèo: 7 triệu người*100%*18% tiền

lương tối thiểu*12 tháng = 12 nghìn 550 tỷ đồng. Khoản này tương đương với

0,5% GDP và bằng 2,3% tổng chi ngân sách thường xuyên năm 2011.

Khoản chi trên là một gánh nặng đối với ngân sách nhà nước. Khó

khả thi trong thực tiễn. Mặt khác, trong thực tế thực hiện thì

4

3 Năm 2011, GDP cả nước đạt 2.535.008 tỷ đồng; chi ngân sách thường xuyên là 546.081 tỷ đồng.

Page 30: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

29

cho người cận nghèo cho thấy khi chính sách nhà nước hỗ trợ 50% phí mua

bảo hiểm y tế thì gần như không có hộ cận nghèo nào tham gia; khi mức hỗ

trợ này tăng tên 70% thì cũng chỉ có 10% hộ tham gia.

- Trường hợp 2: Nhà nước hỗ trợ 30% phí tham gia BHXH tự nguyện

ở mức tối thiểu cho người lao động thu nhập thấp (từ mức tiền lương tối

thiểu trở xuống) nếu tham gia BHXH tự nguyện và có 10% số đối tượng

tham gia (10%*4,6 triệu người = 460 nghìn người)

Mô phỏng cho năm 2011 ta thấy lượng ngân sách Nhà nước cần chi

cho hỗ trợ trong năm là: 460 nghìn người* 30% * 18% tiền lương tối thiểu *

12 tháng = 460 nghìn người * 30% * 18% * 830 nghìn đồng * 12 tháng =

247,4 tỷ đồng. Khoản này tương đương với 0,01% GDP và bằng 0,045%

tổng chi ngân sách thường xuyên năm 2011. Đây là một khoản chi không

quá lớn đối với ngân sách nhà nước.

- Trường hợp 3: Nhà nước hỗ trợ 30% phí tham gia BHXH tự nguyện

ở mức tối thiểu cho người lao động thu nhập thấp (từ mức tiền lương tối

thiểu trở xuống) nếu tham gia BHXH tự nguyện và trong tổng số đối tượng

tham gia BHXH tự nguyện thì số thuộc diện hỗ trợ chỉ chiếm 3%

Khảo sát mẫu ngẫu nhiên do nghiên cứu này thực hiện cho thấy người

lao động thuộc hộ trên trung bình và dưới trung bình đều tham gia BHXH tự

nguyện. Trong đó, c 3% số đối tượng tham gia n cho rằng

mức đóng hiện nay là cao.

nghiên cứu này

3% số

.

-

2015 có 700 nghìn người tham gia BHXH tự

nguyện, giả định số đối tượng cần hỗ trợ là 3% trong số này (như số liệu

phân tích trong nghiên cứu này) thì số đối tượng được Nhà nước hỗ trợ sẽ là

21 nghìn người (3%*700 nghìn người). Giả định tiền lương tối thiểu năm

2015 là 1500 nghìn đồng và giả định cả 21 nghìn người này tham gia từ đầu

năm 2015 thì ngân sách Nhà nước cần hỗ trợ là: 21 nghìn người*30%*

Page 31: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

30

22%*1500 nghìn đồng*12 tháng = 24,5

vào năm 2015.

- Nhằm mở rộng độ bao phủ của BHXH, Trung Quốc đã thực hiện

chính sách con cái tham gia BHXH thì bố mẹ ở độ tuổi nghỉ hưu mà không

có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH, được nhận chế độ trợ cấp hàng tháng cho

người cao tuổi. Đây là một giải pháp mà Việt Nam có thể cân nhắc trong quá

trình hoàn thiện chính sách BHXH tự nguyện nhằm thu hút người lao động

tham gia nếu tiếp tục thực hiện mô hình BHXH tọa thu tọa chi như hiện nay

(lấy số đóng của thế hệ đóng hiện nay để chi trả cho thế hệ trước). Tuy vậy,

giải pháp này sẽ tạo gánh nặng cho ngân sách nếu chúng ta chuyển từ mô

hình BHXH vận hành theo nguyên tắc tọa thu tọa chi sang tài khoản tiết

kiệm cá nhân.

giải pháp sau:

1. Điều kiện và lộ trình thực hiện giải pháp hoàn thiện chính sách

BHXH tự nguyện đã được luật hóa. Do vậy, hoàn thiện chính sách

BHXH tự nguyện phải gắn với kế hoạch sửa đổi Luật BHXH. Hiện nay,

Luật BHXH đang được sửa đổi và dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào

năm 2014. Đây là cơ hội tốt để những khuyến nghị chính sách về BHXH tự

nguyện của nghiên cứu này được sử dụng làm đầu vào cho công tác sửa đổi

Luật. Về cơ bản, những khuyến nghị về vấn đề đóng bù số năm đóng BHXH

tự nguyện còn thiếu và về phương thức đóng BHXH là các nội dung có thể

đưa vào sửa đổi Luật BHXH lần này mà không gây ra những xáo trộn gì đối

với những đối tượng đang tham gia đóng, đang hưởng BHXH cũng như

không tạo gánh nặng gì cho ngân sách nhà nước. Trong khí đó, những sửa

đổi này sẽ tạo điều kiện để nhiều đối tượng, nhất là những người lao động từ

40 tuổi trở lên với nữ và từ 45 tuổi trở lên với nam tham gia BHXH. Không

chỉ vậy, do số đông đối tượng của BHXH tự nguyện là nông dân, lao động

trong khu vực phi kết cấu, thu nhập không ổn định như lao động làm công

hưởng lương trong khu vực chính thức nên ngay cả những lao động dưới 40

tuổi với nữ và dưỡi 45 tuổi với nam cũng không chắc là sẽ đáp ứng đủ thời

gian tối thiểu 20 năm đóng BHXH tự nguyện khi đến tuổi nghỉ hưu nếu

không cho phép họ đóng bù số năm còn thiếu (đóng 1 lần cho 1 năm, 1 lần

cho nhiều năm).

Page 32: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

31

Về hỗ trợ phí đóng BHXH tự nguyện cho lao động có thu nhập thấp

tham gia BHXH tự nguyện. Đây cũng là chủ trương của Đảng đã được

khẳng định trong Nghị quyết số 15/NQ-TW về một số vấn đề về chính sách

xã hội giai đoạn 2012-2020. Do vậy hàng năm Nhà nước cần chủ động dành

một khoản ngân sách tương đương với 0,01% GDP hay bằng 0,045% chi

ngân sách thường xuyên như đã ước tính ở trên để đảm bảo hỗ trợ 30% phí

tham gia BHXH tự nguyện ở mức tối thiểu cho người lao động thu nhập

thấp (từ mức tiền lương tối thiểu trở xuống) tham gia BHXH tự nguyện. Để

đảm bảo tính hiệu lực, nội dung về hỗ trợ người lao động thu nhập thấp một

phần phí tham gia BHXH tự nguyện cũng cần được trong Luật BHXH.

2. Giải pháp triển khai thực hiện chính sách

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, tiếp thị xã hội

để nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về vai trò, nội dung của

chính sách BHXH tự nguyện. Các chương trình truyền thông phải đảm bảo

hướng trực tiếp đến đối tượng của BHXH tự nguyện; nâng cao vai trò của

các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức đoàn thể trong việc phổ biến và hỗ trợ

triển khai thực hiện chính sách.

Cơ quan BHXH địa phương (cấp huyện) cần thực hiện các khảo sát,

thu thập số liệu để xây dựng được cơ sở dữ liệu về đối tượng thuộc diện

tham gia BHXH tự nguyện của địa phương mình, số đang tham gia,

đang hưởng chế độ và số thuộc diện tham gia nhưng chưa tham gia. Dựa trên

nhu cầu và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động trên địa

bàn, xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đưa

vào các nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm, 5 năm, 10

năm của địa phương...

Tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển đối tượng tham gia BHXH tự

nguyện một cách chủ động. Coi BHXH tự nguyện là sản phẩm/dịch vụ còn

người lao động là khách hàng. Hình thành mạng lưới thu và chi trả BHXH tự

nguyện đến cấp xã (kết hợp với các mạng lưới sẵn có khác như thu bảo hiểm

y tế chẳng hạn) để đảm bảo cung cấp sản phẩm/dịch vụ BHXH tự nguyện

đến người lao động một cách thuận tiện nhất, dễ tiếp cận nhất (nhất là đối

với các địa bàn giao thông không thuận lợi, chưa phát triển).

Có các hình thức biểu dương, khen thưởng đối với những địa phương

làm tốt chính sách BHXH tự nguyện đồng thời tổng kết, đánh giá, rút kinh

nghiệm, nhân rộng những cách làm hay trong thực hiện BHXH tự nguyện.

Page 33: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

32

3. Đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển một hệ thống BHXH

toàn diện

Các khuyến nghị và giải pháp thực hiện chính sách ở trên vẫn chỉ dừng

lại ở việc làm sao đạt được mục tiêu mở rộng độ bao phủ của BHXH [tự

nguyện], các chính sách BHXH bắt buộc và tự nguyện như vậy vẫn rời rạc,

không có sự liến kết, hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo cho BHXH phat huy hết vai

trò là xương sống của hệ thống ASXH. Do vậy, về lâu dài, cần có quyết tâm

chính trị mạnh mẽ hơn trong cải cách BHXH ở Việt Nam theo hướng phát

triển một hệ thống BHXH đa tầng có thể hỗ trợ lẫn nhau.

Về cơ bản, có thể xây dựng một hệ thống BHXH 3 tầng: Tầng BHXH

thứ nhất dựa vào ngân sách Nhà nước (nguồn thu từ thuế), đảm bảo cho mọi

người dân khi hết tuổi lao động, không còn khả năng lao động mà không có

nguồn thu nhâp nào khác thì được hưởng một mức lương hưu tối thiểu như

nhau (còn gọi là lương hưu xã hội), thường bằng khoảng 45% chuẩn nghèo.

Tầng BHXH thứ hai dựa trên nguồn thu từ sự bắt buộc mọi người lao động có

việc làm tạo thu nhập, phải tham gia với mức đóng đủ để đảm bảo khi đến

tuổi nghỉ hưu thì được hưởng mức lương hưu không thấp hơn mức tiền lương

tối thiểu (lương cơ sở). Tầng BHXH thứ ba dựa trên nguồn thu từ sự tham gia

tự nguyện của người lao động (đồng thời tham gia cả ở tầng 2 và thầng 3 này)

để gia tăng mức lương hưu cho người lao động sau này nghỉ hưu.

Page 34: BÁO CÁO T 2) - khcn.molisa.gov.vnkhcn.molisa.gov.vn/doc/Bao_cao_tom_tat.pdf · càng nhiều mức hưởng càng cao. Tuy nhiên, g nâng mức hưởng kéo ... tính thiếu

33

Tài liệu tham khảo

1. Bales S., Castel P (12/2005), Điều tra về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu

vực phi chính thức ở Việt Nam (VSIIS): các hàm ý chính sách, Quỹ tín thác

ASEM-II tài trợ Dự án Xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.

2. (2003), Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/1/2003 về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số

12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ.

3. (2009), Quyết định số 41/2009/QĐ-TTg ngày 16/03/2009 do Thủ

tướng Chính phủ ban hành hướng dẫn việc chuyển Bảo hiểm xã hội nông dân

Nghệ An sang Bảo hiểm xã hội tự nguyện.

4. DFID-UNDP (2005), Beyond HEPR: khung làm việc cho một hệ thống bảo

hiểm xã hội quốc gia hợp nhất ở Việt Nam, Đối thoại chính sách Việt Nam -

UNDP 2005/1 Hà Nội, tháng Ba năm 2005.

5. Hội nghị Trung ƣơng Năm (Khóa XI), Ban Chấp hành Trung ƣơng, Nghị

quyết số 15/NQ-TW về Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

6. Luu Quang Tuan (2012), Socialist Republic of Vietnam: Updating and

Improving the Social Protection Index, http://www.adb.org/projects/

documents/viet-nam-updating-and-improving-social-protection-index-tacr

7. Lƣu Quang Tuấn (2006), Ba tiêu chuẩn cơ bản đánh giá một hệ thống bảo

hiểm xã hội, Tạp chí Lao động Xã hội, Số 284, 1-15 tháng 4, 2006.

8. Lƣu Quang Tuấn (2009)

- , Số 21 năm 2009.

9. Lƣu Quang Tuấn (2010) –

- , Số

25 năm 2010.

10. Paulette Castel (2007), An sinh cho người cao tuổi: Các chính sách ngắn hạn

và trung hạn, Nghiên cứu do DFID Việt Nam tài trợ.

11. (2006), Luật Bảo hiểm xã hội.

12. Tổng cục Thống kê (2011), Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 2010.

13. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn

thiện mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, Chương trình cấp

Bộ 2007-2008.

14. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2008), Nghiên cứu chuyển đổi Bảo hiểm

xã hội nông dân Nghệ An sang bảo hiểm xã hội tự nguyện quốc gia.

15. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2012), Dự thảo Đề án Một số vấn đề về

chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.