bùi quang linh - Đtsh

29
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN BÀI TRÌNH THU HOẠCH MÔN : ĐẤU TRANH SINH H ỌC Giảng viên : Sinh viên : Bùi Quang Linh Lớp : K34B SP Sinh Khoa : Sinh - KTNN Hà Nội - Tháng 11/2010 0

Upload: nlblmm

Post on 26-Jun-2015

73 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

Page 1: Bùi Quang Linh - ĐTSH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2KHOA SINH - KTNN

BÀI TRÌNH THU HOẠCH MÔN : ĐẤU TRANH SINH H ỌC

Giảng viên :

Sinh viên : Bùi Quang Linh

Lớp : K34B SP Sinh

Khoa : Sinh - KTNN

Hà Nội - Tháng 11/2010

Đề Bài

0

Page 2: Bùi Quang Linh - ĐTSH

Vai trò, ý nghĩa,tầm quan trọng của đấu tranh sinh học.Những triển vọng,

thuận lợi và khó khăn của việc áp dụng đấu tranh sinh học ở Việt Nam.Giải

pháp để phát triển áp dụng đấu tranh sinh học ở Việt Nam.Cho biết những

sinh vật là thiên địch mà em đã biết, đã gặp.

Bài Làm

Bước sang thế kỉ XXI loài người càng nhận thức rõ ràng hơn với

những thách thức an ninh lương thực, ô nhiễm và sự nóng lên của trái đất,

sự giảm sút đa dạng sinh học và an toàn lương thực thực phẩm.Trong sản

xuất nông nghiệp cần áp dụng tốt hơn những tiến bộ về công nghệ sinh học

và sinh thái tổ hợp…

Chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao, đòi

hỏi các sản phẩm nông nghiệp và môi trường an toàn. Điều này chỉ có thể

đạt được khi mối cân bằng sinh học trong tự nhiên được duy trì ổn định.

Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay với hàng loạt các yếu tố thường

xuyên thay đổi trong quá trình canh tác từ khi gieo trồng đến khi thu

hoạch, việc tăng gia đầu vào (giống, phân hóa học, thuốc trừ hại dịch,…) đã

và đang làm giảm sự đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh học.Hệ

quả là nhiều loài thiên địch giảm số lượng nghiêm trọng, không thể khống

chế được dịch hại và do đó dịch hại bùng phát số lượng quá mức, gây thiệt

hại ngày một nhiều đối với cây trồng. Để giữ vững năng suất , người ta lại

phải sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, chủ yếu là các loại thuốc hóa

học và cứ như vậy vòng luẩn quẩn tăng sản lượng, tăng đầu vào, nguy cơ

sản phẩm không an toàn và ô nhiễm môi trường lại tiếp tục diễn ra.

Vì vậy hiện nay chúng ta đang chú trọng áp dụng các biện pháp đấu

tranh sinh học.

I. Khái niệm và lịch sử phát tiển của “đấu tranh sinh học”( ĐTSH)

1. Khái niệm

Khái niệm về “đấu tranh sinh học ” được xây dựng và bổ sung trong

một thời gian dài, đi từ đơn giản đến phức tạp và trở nên hoàn thiện.

1

Page 3: Bùi Quang Linh - ĐTSH

Trước đây người ta đã biết sử dụng côn trùng để tiêu diệt sâu hại.

Năm 1958 có tác giả đã định nghĩa nghĩa rộng của ĐTSH bao gồm sử

dụng kháng sinh trong y tế và chăn nuôi và sử dụng những sinh vật sống

để trừ sinh vật gây hại , cỏ dại, côn trùng gây bệnh hại cây trồng.

Năm 1971, tổ chức đấu tranh sinh học thế giới đưa ra định nghĩa:

ĐTSH là việc sử dụng những sinh vật sống hay các sản phẩm hoạt động

sống của chúng nhằm ngăn ngừa hay giảm bớt các tác hại do các sinh

vật gây hại.

Ví dụ: Một số loài côn trùng tiết ra các hoocmon dẫn dụ con cai đến.

Ở Việt Nam ĐTSH là biện pháp sử dụng sinh vật hay các sản phẩm

của chúng nhắm ngăn chặn hay giảm bớt tác động do dịch hại gây ra.

Qua quá trình xây dựng định nghĩa về đấu tranh sinh học ta có thể

định nghĩa ĐTSH như sau: ĐTSH là sự vận dụng mối quan hệ đối kháng

như bắt mồi ăn thịt, kí sinh, kháng sinh giữa các nhóm sinh vật nhằm

giảm thiểu thiệt hại do các nhóm sinh vật gây ra cho con người, cho vật

nuôi cây trồng hoặc côn trùng trong tự nhiên.

Ví dụ: Mèo ăn chuột, chim ăn sâu,…

2. Ý nghĩa

2.1. Ưu điểm

- An toàn cho con người, cho vật nuôi, cho môi trường và cho nhiều

sinh vật có ích khác.

- Có hiệu quả kinh tế lớn hơn so với các biện pháp khác. Đạt được lợi

ích lâu dài.(các biệnn pháp vật lý hay hóa học có hiệu quảv nhanh hơn

biện pháp đấu tranh sinh học nhưng phải tốn công bài trừ hậu quả)

- Những sinh vật có ích, sinh vật thiên địch có vai trò kiểm soát,

khống chế những sinh vật gây hại. Những sinh vật gây hại có thể gọi là

“địch hại” hay “dịch hại”.

- ĐTSH có vai trò khống chế, kìm hãm những sinh vật gây hại trong

quần xã.

2

Page 4: Bùi Quang Linh - ĐTSH

- Sử dụng ĐTSH có hiệu quả mà lại không ảnh hưởng đến chất lượng

sản phẩm nông nghiệp, hạn chế những tác dụng phụ đối với con người

và vật nuôi

2.2. Nhược điểm

Bên cạnh những ưu điểm thì việc sử dụng biện pháp đấu tranh sinh

học cũng có một số mặt hạn chế.

- Hiệu quả chậm, thâm chí rất chậm tùy theo từng trường hợp.

- Thường không đạt được mức gây hại dưới ngưỡng kinh tế.

- Sinh vật thiên địch thường nhạy cảm với nhất nhiều yếu tố ngoại

cảnh nên rất dễ bị tổn thương.

VD: Nhạy cảm với hóa chất bảo vệ thực vật ,…

- ĐTSH đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ chuyên môn cao, kể

cả rong sản xuất và ứng dụng.

Tóm lại, biện pháp ĐTSH có những ưu điểm quan trọng phù hợp với

tương lai nhưng không được sử dụng hoàn toàn mà cần phối hợp một cách

hợp lý với nhiều biện pháp khác.

Ngày nay phải sử dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp

TPM.Trong đó vẫn lấy ĐTSH làm trung tâm.

VD: Để phòng trừ dịch hại phải sử dụng biện pháp canh tác hợp lý .

3. Lịch sử phát triển của Đấu tranh sinh học

Đấu tranh sinh học có một lịch sử phát triển lâu dài. Đấu tranh sinh

học hay còn gọi là Biện pháp sinh học được hình thành và phát triển trên cơ

sở những quan sát ban đầu và thực nghiệm của các nhà nghiên cứu tự

nhiên thời xa xưa. Con đường phát triển của đấu tranh sinh học có nhiều

bước qua nhiều thế kỷ có nhiều bước thăng trầm.

ĐTSH xuất hiện và được nghiên cứu từ trước thế kỷ 18 và phát triển

đến ngày nay, và được áp dụng khá phổ biến

.

3.1 Những nghiên cứu và áp dụng biện pháp ĐTSH ở Việt Nam.

3

Page 5: Bùi Quang Linh - ĐTSH

Mặc dù biện pháp đấu tranh sinh học trên thế giới đã thành công hơn

100 năm, nhưng đây là một lĩnh vực khoa học tương đối mới ở nước ta.

Theo những gì ghi chép lại, nông dân nước ta cũng biết sử dụng kiến

vàng để diệt trừ sâu hại trong vườn cam quýt từ rất lâu.Nhưng nghiên

cứu phát triển ĐTSH thì mới chỉ được bắt đầu từ những năm đầu thập

niên 1970. Những nghiên cứu về thành phần sâu bệnh trên sâu hại lúa

của P.B.Quyền và nnk(1972-1973), của viện bảo vệ thực vật và việc đánh

giá hiệu lực của các chế phẩm sinh học từ vi khuẩn Bt để trừ sâu tơ tại

viện bảo vệ thực vật (1971-1974) có thể coi là những công trình đầu tiên

về nghiên cứu ĐTSH phòng chống dịch hại ở nước ta (P.V.Lầm,2003)

Từ 1973, việc nghiên cứu sử dụng ong mắt đỏ Trichogramma spp,

để trừ một số sâu hại được bắt đầu tại Viện bảo vệ thực vật. Sau đó công

việc nghiên cứu này cũng được một số cơ quan khác tến hành như

Phòng sinh thái côn trùng(viện sinh thái và tài nguyên động vật), Bộ

môn động vật không xương sống. Đến nửa sau thập niên 1970, việc

nghiên cứu sử dụng ong mắt đỏ Trichogramma spp. để trừ sâu hại được

chi cục BVTV Vĩnh Phúc , Thái Bình hưởng ứng triển khai.

Nghiên cứu nấm Beauveria bassiana để trừ sâu róm thông

Dendrolimus punctatúu được bắt đầu từ giữa thập niên 1970 ở trường

Đại học Lâm nghiệp.

Từ cuối thập niên 1980 đến nay, việc nghiên cứu biện pháp đấu tranh

sinh học được tiến hành ở nhiều cơ quan như Viện bảo vệ thực vật, Viện

sinh thái và tài nguyên sinh vật, Khoa sinh (Đại học khoa học tự nhiên

Hà Nội), Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Viện nghiên cứu và phát triển

cây bông, …Tác nhân sinh học được nghiên cứu cũng đa dạng, gồm ong

mắt đỏ Trichogramma spp, vi khuẩn,virus côn trùng, nấm côn trùng,

nấm đối kháng, tuyến trùng hại côn trùng,…

* Kết quả nghiên cứu

4

Page 6: Bùi Quang Linh - ĐTSH

Trong khoảng 1/3 thế kỉ qua, chúng ta đã tiến hành nghiên cứu nhiều

vấn đề về đấu tranh sinh học.Các nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở

hai hướng sau:

- Bảo vệ duy trì và phát triển quần thể thiên địch có sẵn trong tự

nhiên.

- Bổ sung thiên địch vào sinh quần cây trồng nông lâm nghiệp.

II. Áp dụng đấu tranh sinh học ở Việt Nam

Sau khi điều tra thành phần thiên địch của dịch hại ở Việt Nam,

chúng ta đã có được bảng số lượng loài thiên địch đã phát hiện đươcj

trên đồng lúa:

Tên bộ Số lượng họ Số lượng giống Số lượng loài

thiên địch

Tỉ lệ % số

lượng thiên

địch

Bộ cuồn chuồn

Odonata

2 4 4 0,9

Bộ bọ ngựa

Mantodea

1 1 1 0,2

Bộ cánh thẳng

Orthoptera

2 4 10 2,2

Bộ cánh da

Dermaptera

2 2 2 0,4

Bộ cánh nửa

Hemiptera

10 39 72 15,6

Bộ cánh cứng

Coleoptera

5 57 113 24,5

Bộ cánh cuốn

Strepsiptera

1 1 1 0,2

5

Page 7: Bùi Quang Linh - ĐTSH

Bộ cánh màng

Hymenoptera

18 92 173 37,6

Bộ hai cánh

Diptera

6 15 16 3,5

Bộ nhện lớn

Araneida

12 38 59 12,8

Bộ nấm

Etomophthorales

1 1 1 0,2

Bộ nấm cành

Moniliales

1 3 4 0,9

Virus côn trùng

Virus

1 1 3 0,6

Tuyến trùng

Nematoda

1 1 2 0,4

Tổng số 63 259 461 100

* Việt Nam đã nghiên cứu bổ sung thiên địch vào sinh quần cây

trồng lâm nghiệp

- Nhập nội , thuần hóa thiên địch để trừ dịch hại ngoại lai.

Năm 1996, được sự tài trợ của FAO, chi cục BVTV tỉnh Lâm Đồng đã

nhập nội từ Malaysia ong ký sinh Diadegma semicláuum để trừ sâu tơ ở

Đà Lạt. Sau 3 năm, nhân và thả ở một số địa điểm ở Đà Lạt, ong ký sinh

đã tồn tại, thiết lập được quần thể ở ruộng thả ong và phát tán ra những

ruộng xung quanh. Tỷ lệ ký sinh của ong ký sinh trên sâu tơ đạt 2,6-

69,4% tùy thuộc vào điều kiện cụ thể ở nơi thả ong. Ở nơi không thả

ong, tỷ lệ ký sinh của ong đạt 24,3%.

Năm 1995-1997, trong chương trình hợp tác quốc tế với tổ chức

CSIRO(Australia) do ACIAR tài trợ, viện BVTV đã nhập nội 3 tác nhân

sinh học để trừ cây trinh nữ thân gỗ (Mimosa pigra) và 3 tác nhân sinh

học để trừ cây bèo tây(Eichhornia crassipes). Các tác nhân đã nhập nội

6

Page 8: Bùi Quang Linh - ĐTSH

là sâu đục thân trinh nữ (Carmenta mimosae), mọt đục hạt trinh

nữ(Acanthoscelides puniceus, Acanthoscelides quadridentatus), bọ vòi

voi đục củ bèo tây(Neochetia bruchi) và sâu đục cọng bèo tây(Sameodes

albiguttalis).

Kết quả thử nghiệm kiểm tra tính chuyên hóa thức ăn của các tác

nhân sinh học đã nhập nội cho thấy tất cả chúng đều có tính chuyên hóa

thức ăn rất cao. Viện BVTV đã đề xuất xin phép các cơ quan quản lý

cho thả sâu đục thân trinh nữ để trừ cây trinh trinh nữ thân gỗ và bọ vòi

voi đục củ bèo tây để trừ bèo tây . Hai tác nhân này thả ra đã tồn tại và

tạo lập quần thể ở nơi thả chúng.

* Di chuyển thiên địch trong vùng khu phân bố của loài

Kiến vàng là thiên địch tương đối phổ biến trong các vườn cây ăn quả

có múi ở nước ta. Tuy vậy, ở một số vườn cây ăn quả có múi thiếu vắng

loài này. Nông dân đã áp dụng mọi biện pháp để di chuyển kiến vàng từ

vườn có đến những vườn không có nó.

* Nhân thả thiên địch để trừ dịch hại.

- Nhân thả các ký sinh sâu hại

Ở nước ta mới nghiên cứu thả ong mắt đỏ để trừ trứng sâu hại. Đến

nay đã xây dựng được quy trình nhân nuôi lượng lớn ong mắt đỏ ở trong

nhà bằng trứng ngài gạo corcyra cephalonica. Các loài ong mắt đỏ được

nhân nuôi để thả trừ sâu hại.

Đã nghiên cứu dùng ong mắt đỏ để trừ một số sâu hại như sâu cuốn

lá nhỏ, sâu đục thân lúa bướm hai chấm, sâu đo xanh, sâu xanh, sâu đục

thân ngô, sâu đục thân mía, sâu tơ.

Kết quả cho thấy trứng sâu hại ở nơi thả ong mắt đỏ bị ký sinh đạt tỷ

lệ 35-94% tùy thuộc vào loài sâu hại và điều kiện thả ong mắt đỏ.

* Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học từ vi khuẩn Bacillus

thuringiensis (Bt) để trừ sâu hại.

Vi khuẩn Bt là loài vi khuẩn gây bệnh cho côn trùng quan trọng nhất.

Trên thế giới, Bt đã được nghiên cứu sử dụng rộng rãi nhất để trừ nhiều

7

Page 9: Bùi Quang Linh - ĐTSH

loài sâu hại. Ở nước ta, việc nghiên cứu sử dụng Bt được tiến hành theo

hai hướng : nhập nội chế phẩm Bt của nước ngoài và nghiên cứu sản

xuất Bt ở trong nước.

* Nghiên cứu sử dụng nấm côn trùng để trừ sâu hại

Từ giữa thập niên 1970, trường đại học Lâm nghiệp bắt đầu nghiên

cứu nấm Beauveria bassiana để trừ sâu róm thông Dendrolimus punctatus,

nhưng chưa được chế phẩm nào vào trong sản xuất.

* Nghiên cứu sử dụng virus côn trùng để trừ sâu hại

Ở nước ta, các nghhiên cứu sử dụng virus côn trùng để trừ sâu hại

mới được bắt đầu những năm cuối thập niên 1980.Các nghiên cứu này cũng

chỉ tập trung vào nhóm NPV.Nghiên cứu sử dụng virus côn trùng trong

phòng chống sâu hại gồm 2 mảng công việc riêng biệt là: nghiên cứu nhân

nuôi hàng loạt sâu vật chủ bằng môi trường thức ăn và nghiên cứu phát

triển, sử dụng chế phẩm sinh học từ NPV.

Từ năm 1988, Viện BVTV bắt đầu nghiên cứu môi trường thức ăn

tổng hợp để nuôi sâu non các loài côn trùng cánh vảy, như sâu cắn gié, sâu

xanh, sâu khoang, sâu keo da láng, sâu đục thân ngô, sâu tơ và sâu xanh

bướm trắng.Viện BVTV đã chế được 10 môi trường thức ăn từ nguyên liệu

phế thải có sẵn ở trong nước để nuôi sâu xanh, sâu khoang và sâu keo da

láng. Các môi trường này được cục sở hữu công nghiệp nhà nước cấp bằng

sáng chế.

Đến nay chỉ có chế phẩm HaNPV được sử dụng nhiều hơn cả. Hàn

năm chế phẩm này được sử dụng trên diện tích vài trăm hecta bông ở phía

Nam. Sau đó là chế phẩm NPV sâu keo da láng được sử dụng trên hàng

trăm hecta hành tây, nho, đậu xanh ở Trung bộ.

8

Page 10: Bùi Quang Linh - ĐTSH

* Nghiên cứu tuyến trùng côn trùng để trừ sâu hại

Có hàng ngàn loài côn trrùng là ký chủ của tuyến trùng. Một số loài

tuyến trùng côn trùng đã được nghiên cứu tạo nên chế phẩm sinh học để

phòng chống sâu hại.

* Nghiên cứu sinh vật đối kháng trừ vật gây bệnh cây

Có rất nhiều vi sinh vật đối kháng với vật gây bệnh cây. Nhóm vi sinh

vật đối kháng được nhiều nước nghiên cứu là nấm Trichoderma. Ở Việt

Nam, nhóm nấm này cũng được quan tâm nghiên cứu đầu tiên trong các vi

sinh vật đối kháng với vật gây bệnh cây. Công việc này được bắt đầu từ

năm 1987 tại Bộ môn Bệnh cây Viện Bảo vệ thực vật.

* Nghiên cứu vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy để trừ chuột

Từ năm 1994, Viên BVTV bắt đầu nghiên cứu sản xuất bả chuột sinh

học từ vi khuẩn Salmonella enteridis chủng isachenko. Bả sinh học có

hiệu lực trừ chuột cao(80-100%) với liều lượng 1-2g bả/ 1 chuột. Chuột

chết ở ngày thứ 4 đến 10 sau khi ăn bả. Hiệu quả trừ chuột trên đồng

ruộng đạt 66,6-83,3%

* Nghiên cứu vi sinh vật trừ cỏ dại

Từ năm 1996, viện bảo vệ thực vật hợp tác với viện nghiên cứu nông

nghiệp bang New South Wales nghiên cứu nấm chuyên tính để trừ cỏ

lồng vực trên lúa….

Cách áp dụng biện pháp đấu tranh sinh học:

.Khi sử dụng biện pháp sinh học:

. Tạo môi trường thuận lợi cho các loại sinh vật có ích là kẻ thù tự

nhiên của dịch hại phát triển nhằm góp phần tiêu diệt dịch hại:

- Bảo vệ thiên địch tránh khỏi độc hại do dùng thuốc hoá học bằng

cách sử dụng những loại thuốc chọn lọc, thuốc có phổ tác động hẹp, dùng

thuốc khi thật cần thiết và phải dựa vào ngưỡng kinh tế...

9

Page 11: Bùi Quang Linh - ĐTSH

- Tạo nơi cư trú cho thiên địch sau vụ gieo trồng bằng cách trồng xen,

trồng cây họ đậu trên bờ ruộng, làm bờ rạ cho thiên địch ẩn nấp...

- Áp dụng các kỹ thuật canh tác hợp lí tạo điều kiện cho thiên địch

phát triển, ưu tiên sử dụng các loại thuốc Bảo vệ thực vật sinh học;

Các loại thuốc sinh học chỉ có tác dụng trừ dịch hại, không độc hại

với các loại sinh vật có ích an toàn với sức khỏe con người và môi trường

+ Khi sử dụng biện pháp hoá học :

a) Sử dụng hợp lý thuốc hoá học BVTV

- Sử dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế: Tiết kiệm được chi phí, giữ cân

bằng sinh học trên đồng ruộng, hạn chế ô nhiễm môi trường.

- Sử dụng thuốc an toàn với thiên địch: Lựa chọn thuốc ít độc hại,

chọn thời gian và phương thức xử lý ít ảnh hưởng với thiên địch.

- Sử dụng thuốc theo nguyên tắc 4 đúng:

+ Đúng chủng loại:

Mỗi loại sâu hay bệnh đều có những loại thuốc thích hợp để phòng

trừ. Dùng không đúng thuốc sẽ không diệt được sâu bệnh mà còn gây lãng

phí và ảnh hưởng tới thiên địch và môi trường.

+ Đúng liều lượng và nồng độ:

Liều lượng: Là lượng thuốc quy định cho một đơn vị diện tích (ha,

sào hay công đất... mét khối kho tàng...)

Nồng độ sử dụng: Là độ pha loãng của thuốc dạng lỏng, dạng bột để

phun lên cây, lượng đất bột, cát để trộn với thuốc hạt rắc vào đất.

10

Page 12: Bùi Quang Linh - ĐTSH

Dùng thuốc không đủ liều lượng và nồng độ hiệu quả sẽ kém, dịch hại

dễ nhờn thuốc. Sử dụng quá liều lượng và nồng độ (lạm dụng thuốc) vừa

lãng phí, vừa độc hại.

Phun rải thuốc không đúng cách hiệu quả sẽ kém, thậm chí không có

hiệu quả.

+ Đúng thời điểm (Đúng lúc):

Tác hại của dịch hại cây trồng chỉ có ý nghĩa khi mật độ quần thể đạt

tới số lượng nhất định, gọi là ngưỡng kinh tế. Do vậy, chỉ sử dụng thuốc đối

với sâu hại khi mật độ của chúng đạt tới ngưỡng kinh tế. Các biện pháp

“phun phòng” chỉ nên áp dụng trong những trường hợp đặc biệt. Phun

thuốc định kỳ theo lịch có sẵn hoặc phun theo kiểu cuốn chiếu là trái với

nguyên tắc của phòng trừ tổng hợp.

+ Đúng kỹ thuật (đúng cách):

Dùng thuốc phải căn cứ vào đặc điểm của sâu bệnh hại.

Ví dụ khi phun thuốc trừ rầy nâu phải rẽ hàng lúa để đưa vòi phun

vào phần dưới của khóm lúa, nơi rầy tập trung chích hút bẹ lá.

b) Sử dụng thuốc có chọn lọc

Trong quản lý dịch hại tổng hợp, người ta chủ trương ưu tiên dùng

các loại thuốc có phổ tác động hẹp hay còn gọi là thuốc có tác động chọn

lọc. Tuy nhiên, cho đến nay những nghiên cứu về tác động chọn lọc và độ

an toàn của thuốc đối với thiên địch còn rất ít.

11

Page 13: Bùi Quang Linh - ĐTSH

III. Một số loài thiên địch

1. Kiến vàng

Tên khoa học: Oecophylla smaragdina

Họ: Formicinae

Bộ: Oecophylla

Kiến vàng có khả năng không chế sự bộc phát của bọ xít xanh, sâu xanh

hại cam quýt, hạn chế sự gây hại của sâu vẽ bùa và rầy mềm, giới hạn sự

bộc phát của rầy chổng cánh, qua đó gián tiếp hạn chế bệnh vàng lá

Greening trên cây cam quýt. Nếu có trên 50 con kiến vàng trong một cây

cam (4-5 năm tuổi) chúng sẽ có khả năng khống chế được mật số của rầy

mềm, rệp sáp và sâu vẽ bùa. Sự có mặt của kiến vàng còn có tác dụng ngăn

chặn sự xâm nhập của kiến hôi (Dolichodorus thoracicus), một loài kiến mà

theo bà con làm vườn thì nếu chúng có mặt nhiều trong vườn cam quýt sẽ

làm cho trái bị sượng và khô nước.

2. Con đuôi kìm

Tên Khoa học: Euborellia stali   

Họ:Carcinophoridae

Bộ: Dermaptera

Đặc điểm của con đuôi kìm là có một đôi càng sau giống như hình cái

kẹp dùng để tự vệ. Bọ đuôi kìm có màu đen bóng, giữa cái đốt bụng có

khoang trắng và có điểm trắng đầu đỉnh râu.

Chúng thường sống trên ruộng khô và làm tổ dưới đất ở gốc cây lúa. Loài

bọ này chui vào các rãnh sâu đục thân đã đục để tìm sâu non. Đôi khi

chúng trèo lên lá để tìm mồi sâu cuốn lá.

12

Page 14: Bùi Quang Linh - ĐTSH

3. Muồm muỗm

Tên Khoa học: Conocephalus longgipennis

Họ:Tethigoniidae

Bộ: Orthoptera

Muồm muỗm là một loại côn trùng to, mặt nghiêng, có râu rất dài,

thường dài gấp đôi thân do đó dễ phân biệt với các loài châu chấu thông

thường.

Muồm muỗm có màu xanh, con trưởng thành có màu xanh và vàng.

Chúng thường hoạt động mạnh về đêm và có nhiều ở ruộng.

Thiên địch của bọ xít, sâu đục thân, bọ rầy lá và bọ rầy thân.

4. Dế nhảy

Tên khoa học: Metioche vittaticollis Anaxiphalongipennis

Họ: Oxyopidae

Bộ: Araneae           

Dế có đuôi nhọn xuất hiện ở môi trường đất ẩm và đất khô, khi bị đụng

đến sẽ nhảy từ cây này sang cây khác. Hầu hết các con trưởng thành bị mất

cánh sau khi ở ruộng lúa. Dế non sắp lớn tuổi có cánh cụt. Trưởng thành có

màu đen và dế non có màu nhạt sọc nâu. Dế nhảy ăn trứng của sâu đục

thân 5 vạch đầu đen, sâu cuốn lá, sâu cắn chẽn, ruồi đục lá, sâu non của bọ

rầy lá và bọ rầy thân.

5. Chuồn chuồn kim

Tên Khoa học: Agriocnemis pymaea Agriocnemis femina femina

Họ:Coenagrionidae

Bộ: Odonata 

13

Page 15: Bùi Quang Linh - ĐTSH

Đây là loại chuồn chuồn cánh hẹp, yếu hơn các loại chuồn chuồn cùng họ

với nó. Con trưởng thành màu xanh và đen, có bụng nhỏ dài. Con đực màu

sắc đẹp hơn con cái. Phần đuôi bụng của con đực màu vàng cam (màu xanh

lam). Con cái thân có màu xanh lục.

Chuồn chuồn kim là thiên địch của bọ rầy và sâu cuốn lá…  

6. Bọ xít mù xanh

Tên Khoa học: Crytohinus lividipennis

Họ: Miridae

Bộ: Hemiptera

Bọ xít mù xanh là một loài thuộc nhóm ăn thực vật, thứ yếu mới là thiên

địch, thích ăn trứng và sâu non của các loài rầy.

Con trưởng thành màu xanh và đen, sâu non có thể xuất hiện nhiều trên

ruộng có bọ rầy phá hại, cả trên ruộng nước lẫn ruộng khô.

7. Bọ xít nước ăn thịt

Tên Khoa học: Microvelia donglasi atrolineata

Họ: Veliidae

Bộ: Hemiptera

Đó là loài bọ xít nhỏ có vạch trên lưng có nhiều trên ruộng nước. Con

trưởng thành vai rộng có thể có cánh hoặc không có cánh. Loại không có

cánh không có vạch đen và vạch trắng ở cổ và cánh trước. Thân hình nhỏ

và bàn chân trước chỉ có 1 đốt do đó có thể phân biệt được với các loài bọ

xít khác.

Thiên địch của bọ rầy.

8. Bọ xít nước

Tên Khoa học: Msovelia vittigera

Họ: Mesoveliidae

Bộ: Hemiptera

Là một loài bọ sống dưới nước, thường tìm thấy ở các vùng có nước. Bọ

14

Page 16: Bùi Quang Linh - ĐTSH

trưởng thành màu xanh nhạt, to hơn bọ xít nước ăn thịt, nhưng số lượng ít

hơn. Trưởng thành có 2 dạng : có cánh và không có cánh.

Thiên địch của sâu đục thân, bọ rầy, tập trung ở bờ ruộng.

9. Bọ xít nước gọng vó

Tên Khoa học: Limnogonus fossarum

Họ: Gerridae

Bộ: Hemiptera

Bọ xít nước gọng vó là một loài bọ nhảy to, chân dài, dài nhất. Trưởng

thành màu đen, có 2 đôi chân sau rất dài. Đôi chân giữa có chức năng như

tay chèo và khi nằm yên thì để ra phía trước.

Khó phát hiện ở ngoài đồng ruộng vì loài bọ này di chuyển rất nhanh.

10. Nhóm ong ký sinh

- Ong xanh

Tên khoa học: Tetrastichus Schoenobii

Họ: Eulophidae

Bộ: Hymenoptera

Những ký sinh trứng sâu đục thân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc

làm giảm mật độ sâu đục thân trên ruộng. Những ký sinh trứng sâu đục

thân lúa là những con ong rất nhỏ, bằng khoảng hạt cát, chúng dễ dàng

diệt trên 70% trứng sâu đục thân trên ruộng. Từng con ong cái lùng kiếm

trên từng cây lúa những ổ trứng sâu đục thân để đẻ những quả trứng

nhỏ xíu của ong vào trong đó. Những trứng sâu đục thân đã bị ký sinh sẽ

bị tiêu diệt bởi những con ong phát triển ở bên trong. Kể từ khi trứng ong

được đẻ vào bên trong trứng sâu đục thân cho tới khi ong đã phát triển

hoàn toàn và chui ra khỏi quả trứng của sâu đục thân, thời gian này khoảng

2 tuần.

15

Page 17: Bùi Quang Linh - ĐTSH

- Ong kén nhỏ ký sinh sâu đục thân

Tên khoa học: Phanerotoma sp.

Họ: Braconidae

Bộ: Hymenoptera

Sâu non sâu đục thân bị ký sinh theo nhiều cách khác nhau. Đôi khi sâu

non đã bị lộ ra ngoài khi chuyển từ dảnh này sang dảnh khác. Một số loài

ký sinh có khả năng đẻ trứng vào bên trong cơ thể sâu non sâu đục thân

bằng cách thọc cái ống dài đựng trứng của nó (ống dẫn trứng) xuyên qua

dảnh lúa vào bên trong cơ thể sâu non.Trứng của ký sinh phát tiển bên

trong sâu đục thân và tùy theo loài ong, trứng sẽ nở ra ong ở giai đoạn sâu

non hoặc nhộng của sâu đục thân. Sự phát triển của ong bên trong cơ thể

sâu đục thân và sự nở ra ong trưởng thành cuối cùng sẽ diệt con sâu non

sâu đục thân.

- Ong đa phôi ký sinh sâu cuốn lá

Tên khoa học: Copidosomopsis nacoleiae

Họ: Encyrtidae

Bộ: Hymenoptera

Loài ong ký sinh trứng thú vị nhất khá phổ biến là loài ong đa phôi

Copidoso mopsis. Con ong này đẻ một trứng của nó vào quả trứng của sâu

cuốn lá. Nhưng một quả trứng ong có thật này đã phân chia mãi thành

nhiều trứng. Sau cùng từ một quả trứng ong đơn độc ở trong trứng sâu

cuốn lá đã phát triển thành trên 200 con ong. Những con ong này đồng

nhất về mặt di truyền. Những con ong trường thành nhỏ xíu này sẽ nở ra

từ một con sâu non đã phát triển của sâu cuốn lá. Có thể thấy nhộng của

những con ong nhỏ này đầy ở trên cơ thể sâu non tuổi lớn của sâu cuốn lá.

16

Page 18: Bùi Quang Linh - ĐTSH

- Ong ký sinh trứng rầy

Tên khoa học: Gonatocerus spp.

Họ: Mymaridae

Bộ: Hymenoptera

Ong ký sinh trứng rầy là những con ong đen rất nhỏ, to bằng khoảng hạt

cát. Ong lùng kiếm trứng do rầy đẻ trên cây lúa. Khi đã tìm thầy trứng

rầy, ong đẻ trứng của nó vào bên trong trứng của rầy. Một số loài ong có

thể đẻ mỗi ngày 30 trứng. Trong mỗi trứng rầy có 11 con ong phát triển

trong đó. Thời gian để con ong phát triển thành con trưởng thành là hai

tuần. Sự phát triển của ong đã tiêu diệt trứng rầy. Khi mật độ quần thể rầy

lên cao. Một số lượng lớn trứng rầy trên ruộng có thể bị ký sinh. Trứng rầy

bị ký sinh thường có màu đen, đôi khi hơi đỏ, còn trứng rầy không bị ký

sinh có màu trắng và khi đã đẻ được vài ngày thì trên trứng đó có một đốm

đỏ.

- Ong đen ký sinh bọ xít

Tên khoa học: Telenomus cyrus

Họ: Scelionidae

Bộ: Hymenoptera

Những ký sinh trên trứng này là những con ong nhỏ màu đen,

lớn bằng cỡ một hạt cát. Con ong tìm thấy ổ trứng do bọ xít cái

nằm trên ổ trứng để bảo vệ trứng. Do bọ xít cái tiết ra mùi nặng

nên giúp cho ong tìm ra được trứng. Những trứng bọ xít bị ký sinh

thường xám màu hơn các trứng không bị ký sinh. Một số ổ trứng

bắt được có thể chỉ còn có vỏ trứng, do ấu trùng hoặc ký sinh đã

nở rộng. Có thể dễ dàng xác định một quả trứng đã nở ra ấu trùng

17

Page 19: Bùi Quang Linh - ĐTSH

bọ xít hay đã nở ra ký sinh bằng cách quan sát hình dáng lổ thủng

trên đỉnh quả trứng. Nếu đỉnh quả trứng bị nứt ra theo một đường

vòng đều đặn thì trứng đó đã nở ra ấu trùng. Nếu vết nứt đỏ nham

nhở, có nghĩa là trứng này đã nở ra một ký sinh.

IV. Một số hình ảnh các loài thiên địch

18

Page 20: Bùi Quang Linh - ĐTSH

19