cái này khó
TRANSCRIPT
BÀI LÀM
Câu 1: Tại sao nói hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt?
Trả lời:
Trước tiên ta nói đến “hàng hóa”. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng vật thể(hữu hình) và phi vật thể(dịch vụ vô hình)
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (hay giá trị trao đổi). Sở dĩ
hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hóa có hai mặt: Lao động
cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa, lao động trừu tượng tạo ra giá trị của
hàng hóa.
Về giá trị sử dụng :
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Ví dụ: kéo dùng để cắt, áo dùng để mặc …. Và mỗi vật có nhiều thuộc Nói
tính tự nhiên khác nhau do vậy nó có nhiều giá trị sử dụng và công dụng khác
nhau.Như gạo ngoài để nấu thành cơm còn có thể nấu rượu,bia hay cồn trong
ngành y tế…
Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải một lúc phát hiện ra hết được mà
nó được phát hiện dần theo sự phát triển của khoa học-kỹ thuật. Và những giá trị
đó do thuộc tính tự nhiên của vật thể đó quyết định. Do vậy, giá trị sử dụng là một
phạm trù vĩnh viễn.
Về giá trị (hay giá trị trao đổi):
Gía trị trao đổi mang tính trừu tượng , là tương quan về số lượng hàng hóa này với
hàng hóa khác trong trao đổi. Nó là một phạm trù trừu tượng giữa những người sản
xuất thông qua trao đổi.
Người ta chỉ trao đổi cho nhau những hàng hóa có công dụng khác nhau những thứ
có cùng giá trị. Qua trao đổi giá trị được biểu hiện bằng giá cả(tiền).
Qua trên ta có thể thấy hàng hóa là sự thống nhất giữa hai thuộc tính là giá trị sử
dụng và giá trị trao đổi.Một vật đã là hàng hóa thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng
nhưng một vật có giá trị sử dụng chưa chắc đã là hàng hóa.Ví dụ như không khí
cần thiết nhưng nó không phải là hàng hóa.Vậy nên một vật cần là hàng hóa thì nó
cần có giá trị trao đổi.Tuy nhiên, sự thống nhất này là sự thống nhất của hai mặt
đối lập.Thể hiện ở chỗ người bán hàng hóa thì quan tâm đến giá trị hàng hóa trước
khi quan tâm đến giá trị sử dụng còn người mua thì quan tâm đến giá trị sử dụng
nhưng trước tiên phải trả giá trị của nó cho người bán. Do đó giá trị luôn được thực
hiện trước sau đó mới đến giá trị sử dụng.
Khi đã hiểu rõ về hàng hóa và những thuộc tính của nó ta bắt đầu nói đến “hàng
hóa sức lao động”.Nó không phải là một hàng hóa thông thường mà phải là một
hàng hóa đặc biệt, hàng hóa mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc
sinh ra giá trị.của hàng hóa thông thường nhưng nó còn mang những điiểm đặc biệt
riêng. Do đó nó là hàng hóa đặc biệt. Sau đây, ta có thể hiểu rõ hơn.
Trước tiên ta nói đến “sức lao động”. Theo C.Mác :”sức lao động, đó là toàn
bộ thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động
của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản
xuất ra những vật có ích”. Có hàng hóa sức lao động nhưng không phải lúc nào
sức lao động cũng trở thành hàng hóa.nó chỉ trở thành hàng hóa khi nó thỏa
mãn một trong hai điều kiện sau:
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể. Làm chủ
được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của minh như một
hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất , để
tồn tại buộc người đó phải bán sức lao động của mình để sống.
Về hàng hóa sức lao động, nó cũng có hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa là
giá trị và giá trị sử dụng, tuy nhiên trong mỗi thuộc tính đó lại bao gồm những
nét đặc thù riêng do hàng hóa sức lao động nó tồn tại trong con người và người
ta chỉ có thể ban nó trong khoảng thời gian nhất định.
Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do lượng lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Cho nên giá trị của hàng
hoá sức lao động được xác định gián tiếp qua giá trị những hàng hoá tiêu dùng
mà người lao động dùng để tái sản xuất sức lao động để nuôi sống gia đình và
chi phí học tập.
Do hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt nên giá trị hàng hóa sức
lao động cũng mang những đặc điểm riêng khác với hàng hóa thông thường.
Nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.ngoài nhũng nhu cầu về vật chất ra
người công nhân còn có những nhu cầu về văn hóa tinh thần… những nhu
cầu đó phụ thuộc phần lớn vào điều kiện lịch sử ở mỗi thời kì và yếu tố điều
kiện địa lí khí hậu ở nỗi khu vực. Hơn nữa, giá trị sức lao động không cố
định,tăng lên khi nhu cầu trung bình về hàng hóa dịch vụ của con người tăng
và yêu cầu kỹ thuật lao động tăng. Giảm khi năng suất lao động xã hội tăng
làm giảm giá trị hàng hóa tiêu dùng.
Tiếp đó ta nói đến giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Cũng như các
hàng hóa thông thường khác, hàng hóa sức lao động cũng có giá trị sử dụng
và nó cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá
trình lao động của công nhân. Tuy nhiên, hàng hóa thông thường sau quá trình
tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất
theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá
trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một
giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động (đó chính là giá
trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt). Vậy nên, giá trị sử dụng của hàng
hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức nó
có thể tao ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Ngoài ra, hàng hóa sức lao động còn khác hàng hóa đặc biệt trong quan hệ mua
bán. Hàng hóa thông thường là những sản phẩm hoàn chỉnh được tạo ra trong quá
trình sản xuất hoặc chu kỳ sản xuất (mùa vụ). Trong đó hàng hóa sức lao động có
những đặc điểm sau:
Chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và bán trong một
thời gian nhất định thông qua các hợp đồng.
Mua bán chịu:Giá trị sử dụng thực hiện trước (bắt lao động) ,giá trị thực
hiện sau (trả công sau).
Chỉ có phía người bán là công nhân làm thuê và phía người mua là các
nhà tư bản,không có ngược lại.
Giá cả của sức lao động (tiền công) luôn thấp hơn so với giá trị sức lao
động bởi vì đối với người công nhân, lao động là phương tiện sinh sống duy
nhất vì vậy phải bán sức lao động trong mọi điều kiện.
Qua những khái niệm, đặc điểm và thuộc tính của hàng hóa và hàng hóa sức lao
động. Ta có thể thấy hàng hóa sức lao động cũng là một loại hàng hóa và nó cũng có
hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa những trong mỗi thuộc tính đó hàng hóa sức lao
động đều có những đặc điểm riêng biệt và những sự khác nhau trong quan hệ mua
bán đã chứng minh hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt.
Câu 2: So sánh tư bản cố đinh, tư bản lưu động, tư bản bất biến, tư bản khả biến?
Ý nghĩa của việc nghiên cứu?
Trả lời:
Ta có bảng sau:
Tư bản cố định Tư bản lưu
động
Tư bản bất biến Tư bản khả biến
Khái niệm Là bộ phận của tư
bản sản xuất tồn
tại dưới dạng máy
móc, thiết bị, nhà
xưởng,…về hiện
vật tham gia toàn
bộ vào quá trình
sản xuất nhưng giá
trị của nó bị khấu
hao từng phần và
chuyền dần vào
sản phẩm mới
được sản xuất ra.
Bộ phận tư bản
sản xuất tồn tại
dưới dạng
nguyên liệu,
nhiên liệu vật
liệu phụ, sức lao
động ..vv.giá trị
của nó lưu
thông toàn bộ
cho các nhà tư
bản sau mỗi quá
trình sản xuất.
Bộ phận tư bản
biến thành tư
liệu sản xuất mà
giá trị được bảo
toàn và chuyển
vào sản
phẩm,tức là
không thay đổi
về lượng giá trị
của nó.
Bộ phận tư bản
biến thành sức
lao động không
tái hiện ra nhưng
thông qua lao
động trìu tượng
của công nhân
làm thuê mà tăng
lên, tức là biến
đổi về lượng.
Đặc điểm Về hiện vật, nó
luôn cố định trong
quá trình sản xuất,
chỉ có giá trị của
nó là tham gia vào
Giá trị của nó
được chuyển
toàn bộ vào giá
trị hàng hoá
trong quá trình
Giá trị của
chúng được bảo
tồn và chuyển
dịch nguyên
vẹn vào giá trị
Bộ phận tư bản
ứng trước dùng
để mua hàng hóa
sức lao động
không tái hiện
quá trình lưu
thông cùng sản
phẩm. Hơn nữa
cũng chỉ lưu thông
từng phần, một
phần vẫn bị cố
định trong tư liệu
lao động, phần
này không ngừng
giảm xuống cho
đến khi nó chuyển
hết giá trị vào sản
phẩm.
Tư bản cố định
được sử dụng lâu
dài trong nhiều
chu kỳ sản xuất và
nó bị hao mòn dần
trong quá trình sản
xuất.
sản xuất. Còn
bộ phận tư bản
biểu hiện dưới
hình thái tiền
công, đã bị
người công
nhân tiêu dùng
và được tái tạo
trong quá trình
sản xuất hàng
hoá. Đặc điểm
của loại tư bản
này là chu
chuyển nhanh
về mặt giá trị.
Nếu tư bản cố
định muốn chu
chuyển hết giá
trị của nó phải
mất nhiều năm,
thì trái lại tư
bản lưu động
trong một năm
giá trị của nó có
thể chu chuyển
nhiều lần hay
nhiều vòng.
sản phẩm.
Giá trị tư liệu
sản xuất được
bảo tồn dưới
hình thức giá trị
sử dụng mới.
ra, nhưng thông
qua lao động
trừu tượng,
người công nhân
làm thuê đã sáng
tạo ra một giá trị
mới, lớn hơn giá
trị sức lao động,
tức là có sự biến
đổi về số lượng.
Qua bảng trên, ta có thể so sánh được tư bản bất biến, tư bản khả biến, tư bản cố
định và tư bản lưu động. Trước tiên nói đến sự giống nhau: chúng đều mang bản
chất của tư bản là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người trong
quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử. Cả bốn loại tư bản đều
phản ánh quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị
thạng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Về sự khác nhau, ta chia thành hai nhóm:
*Sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến
Tư bản bất biến: Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo
toàn và chuyển vào sản phẩm, tức là không thay đổi về lượng giá trị của nó kí hiệu
là C.
Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra
nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là
biến đổi về lượng, kí hiệu là V.
Như vậy tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất
ra giá trị thặng dư còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó vì
nó chính là bộ phận tư bản lớn lên.
Căn cứ để phân chia ra tư bản bất biến và tư bản khả biến là dựa vào vai trò khác
nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
*Sự khác nhau giữa tư bản cố định và tư bản lưu động:
Tư bản cố định là bộ phận sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị nhà
xưởng…tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không
chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn
của nó trong thời gian sản xuất.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó bị hao
mòn dần trong quá trình sản xuất.
Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu,
nhiên liệu , nguyên vật liệu, sức lao động giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho
các nhà tư bản sau mỗi một quá trình sản xuất, khi hàng hoá được bán xong .
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động còn làm cho tỉ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị
thặng dư hàng năm tăng lên.
Căn cứ để phân chia ra tư bản cố định và tư bản lưu động là phương thức
chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất.
Sự khác nhau giữa “tư bản bất biến và tư bản khả biến” và “tư bản lưu động và tư
bản cố định” là: hai loại tư bản lưu động và cố định thuộc tư bản sản xuất còn tư bản
bất biến và khả biến thuộc loại tư bản liên quan đến tư liệu sản xuất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đã giúp C.Mác tìm
ra chỉa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến. Ông
là người đầu tiên chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Căn cứ cho sự
phân chia đó là dựa vào sự khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư, do đó nó vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chỉ
lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
Qua việc nghiên cứu trên giúp ta hiểu được tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố
định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định làm cho
lượng tư bản sử dụng tăng lên, tránh được thiệt hại hao mòn hữu tình do tự nhiên
phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh.