chÍnh sÁch ĐỐi ngoẠi cỦa hoa kỲ tỪ sau nỘi chiẾn ĐẾn … · 2020. 2. 20. ·...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------***----------
DƢƠNG QUANG HIỆP
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
TỪ SAU NỘI CHIẾN ĐẾN KẾT THÚC
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT
(1865 – 1918)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Huế - NĂM 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
----------***----------
DƢƠNG QUANG HIỆP
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
TỪ SAU NỘI CHIẾN ĐẾN KẾT THÚC
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT
(1865 – 1918)
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 62 22 03 11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN TẬN
Huế - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận của
luận án chƣa từng đƣợc công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Huế, ngày tháng năm 2016
Tác giả
Dƣơng Quang Hiệp
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
DÙNG TRONG LUẬN ÁN
ĐQCN Đế quốc chủ nghĩa
TBCN Tƣ bản chủ nghĩa
USA The United States of America
(Hợp chúng quốc Hoa Kỳ)
USD United States Dollar
(Đồng Đô la Mỹ)
Nxb Nhà xuất bản
Cb Chủ biên
OAS Organization of American States
(Tổ chức các nƣớc châu Mỹ)
CA-TBD châu Á – Thái Bình Dƣơng
PL. Phụ lục
Tr. Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4
4. Nguồn tài liệu .......................................................................................................... 5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................... 6
6. Đóng góp của luận án .............................................................................................. 7
7. Bố cục của luận án .................................................................................................. 8
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 9
1.1. Thực trạng nghiên cứu vấn đề khoa học ở trong nƣớc ........................................ 9
1.1.1. Giai đoạn trƣớc năm 1975 ................................................................................. 9
1.1.2. Giai đoạn sau năm 1975 .................................................................................. 10
1.2. Thực trạng nghiên cứu vấn đề khoa học ở nƣớc ngoài ...................................... 14
1.3. Những tồn tại và vấn đề đặt ra cho luận án ........................................................... 19
CHƢƠNG 2. CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ . 21
TỪ SAU NỘI CHIẾN ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT
(1865 – 1918) ............................................................................................................ 21
2.1. Khái quát quá trình hình thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ................................. 21
2.2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trƣớc năm 1865 ........................................... 26
2.2.1. Giai đoạn 1776 – 1823 .................................................................................... 26
2.2.2. Giai đoạn 1823 – 1864 .................................................................................... 31
2.3. Bối cảnh quốc tế nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX ................................. 38
2.4. Cơ sở nội tại tác động đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 -
1918 ........................................................................................................................... 43
2.4.1. Cơ sở kinh tế ................................................................................................... 43
2.4.2. Cơ sở tƣ tƣởng xã hội ...................................................................................... 49
2.4.3. Cơ sở chính trị .................................................................................................. 54
CHƢƠNG 3. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI MỘT SỐ
KHU VỰC TIÊU BIỂU THỜI KỲ 1865 – 1918 ...................................................... 59
3.1. Khái quát chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 - 1918 ..................... 59
3.2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực Mỹ Latinh ......................... 61
3.2.1. Giai đoạn 1865 – 1898 .................................................................................... 61
3.2.2. Giai đoạn 1898 – 1918 .................................................................................... 67
3.3. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với một số nƣớc ở châu Á ..................... 78
3.3.1. Đối với Nhật Bản ............................................................................................ 78
3.3.2. Đối với Trung Quốc ........................................................................................ 93
3.3.3. Đối với Philippines và các nƣớc Đông Nam Á khác ...................................... 98
3.4. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với một số nƣớc ở châu Âu ................. 108
3.4.1. Đối với Anh ................................................................................................... 108
3.4.2. Đối với các bên tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất .................. 114
Chƣơng 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ .
THỜI KỲ 1865 – 1918 ........................................................................................... 126
4.1. Tổng quan kết quả chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 – 1918 .... 126
4.1.1. Những kết quả đạt đƣợc ................................................................................ 126
4.1.2. Hạn chế .......................................................................................................... 130
4.2. Đặc điểm .......................................................................................................... 131
4.3. Tác động của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ ..................................................... 138
4.3.1. Đối với Hoa Kỳ ............................................................................................. 138
4.3.2. Đối với các nƣớc chịu ảnh hƣởng của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ ........... 140
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................ 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 151
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tốc độ tăng trƣởng các ngành công nghiệp chủ chốt của Hoa Kỳ ........... 44
giai đoạn 1860 – 1900 ............................................................................................... 44
Bảng 2.2. Sự tăng trƣởng đầu tƣ tƣ bản, nhân công và giá trị .................................. 45
sản phẩm của nền công nghiệp Hoa Kỳ giai đoạn 1860 – 1900 ............................... 45
Bảng 2.3. Tỷ trọng của các nƣớc công nghiệp chủ yếu trong sản xuất công nghiệp
thế giới giai đoạn 1870 – 1900 .................................................................................. 45
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bất kỳ thời đại lịch sử nào, đối với mỗi quốc gia, chính sách đối ngoại
luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là khi lịch sử thế giới bƣớc vào thời kỳ
cận đại với những biến đổi mang tính toàn cầu. Chính sách đối ngoại của mỗi quốc
gia bao gồm những mục tiêu, chủ trƣơng, biện pháp trong quan hệ với các nƣớc
khác, nhằm đạt đến những lợi ích quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong suốt quá trình phát triển đi lên, sự hƣng vong của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia
không chỉ là kết quả của việc thực thi chính sách đối nội mà còn gắn liền với chính
sách đối ngoại. Nƣớc Mỹ cũng không nằm ngoài quy luật này.
Đối với Hoa Kỳ - một quốc gia có sự phát triển đi lên không ngừng trong thời
gian tƣơng đối ngắn so với các thực thể chính trị quốc tế quan trọng khác nhƣng đã
nhanh chóng đƣa Mỹ trở thành cƣờng quốc thế giới. Bên cạnh nhiều nhân tố khác,
ngƣời Mỹ đã biết sử dụng chính sách đối ngoại nhƣ một đòn bẩy thúc đẩy và phục vụ
cho sự phát triển của đất nƣớc. Hoa Kỳ sẽ không có đƣợc sự phát triển lớn mạnh nếu
không có sự can dự kịp thời và hiệu quả nhằm xác lập ảnh hƣởng ở nhiều khu vực,
trƣớc hết là ở Mỹ Latinh, châu Á và châu Âu cùng nhiều vùng đất khác trên thế giới.
Ngay sau khi vừa mới ra đời, nhà nƣớc Hợp chúng quốc Mỹ (The United
States of America - USA) đã phải đƣơng đầu với một thế giới đầy biến động. Sự hiện
diện của các nƣớc châu Âu nhƣ Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga…ở Tây bán cầu đã
tạo ra thế bao vây, kìm hãm sự lớn mạnh của nƣớc cộng hòa non trẻ này ở các mức
độ khác nhau. Ở khu vực châu Á và một số nơi khác, khi Mỹ đang còn bận bịu với
việc giải quyết các vấn đề nội tại và bảo vệ lợi ích Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh, các
cƣờng quốc châu Âu đã gần nhƣ phân chia xong phạm vi ảnh hƣởng ở đây. Điều đó
đòi hỏi chính giới Mỹ phải hành động để không chỉ bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ ở
những khu vực cận kề mà còn tìm cách bành trƣớng ảnh hƣởng, cạnh tranh địa vị,
vƣơn đến quyền lực thế giới của Mỹ trên trƣờng quốc tế.
Để hiện thực hóa tham vọng trên, ngay sau khi giành đƣợc độc lập, các chính
phủ Hoa Kỳ nối tiếp nhau thực hiện các kế sách đối ngoại khôn khéo với các cƣờng
quốc châu Âu (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nga…) và Nhật Bản. Nhằm ba mục tiêu cơ
bản là an ninh, phát triển và phát huy ảnh hƣởng của mình trên thế giới, Hoa Kỳ (dù
là một quốc gia mới thành lập và còn non trẻ) trƣớc hết đã chọn khu vực Mỹ Latinh,
2
sau đó là khu vực châu Á và một số nơi khác để thực hiện các mục tiêu đối ngoại của
Mỹ.
Ở khu vực Mỹ Latinh, sự có mặt của các cƣờng quốc châu Âu là mối đe dọa
nghiêm trọng đối với Hoa Kỳ trên cả ba phƣơng diện đã đề cập. Mặt khác, trên đà
phát triển sau khi giành đƣợc độc lập, ―khát vọng‖ của Mỹ muốn biến Mỹ Latinh,
vốn trở thành các nƣớc độc lập vào thập niên 20 của thế kỷ XIX, thành ―sân sau‖
ngày càng lớn dần. Mỹ coi sứ mạng duy nhất của họ là trở thành tấm gƣơng cho cả
thế giới noi theo, nhằm truyền bá nền tự do dân chủ và thực thi chính sách đối ngoại
khác biệt so với bất cứ quốc gia nào. Việc đề ra các chính sách ngoại giao của Hoa
Kỳ đối với khu vực Mỹ Latinh tính từ thời điểm tuyên bố Học thuyết Monroe (1823)
và đặc biệt là sau Nội chiến (1861 – 1865) đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1918) đã từng bƣớc biến Hoa Kỳ trở thành một ―đế quốc độc quyền‖ Tây bán cầu,
tạo tiền đề vững chắc cho Hoa Kỳ lũng đoạn chính trƣờng thế giới từ cuối thế kỷ
XIX, kéo dài suốt thế kỷ XX và cả những năm đầu thế kỷ XXI.
Đối với châu Á và châu Âu, Hoa Kỳ đã từng bƣớc dính líu đến các khu vực
này khi điều kiện trong nƣớc cho phép, đặc biệt là sau khi kết thúc Nội chiến (1861 –
1865), với nền kinh tế phát triển vƣợt trội, Mỹ cần có một thị trƣờng tƣơng ứng để
thỏa mãn nhu cầu kinh tế của chủ nghĩa tƣ bản Mỹ. Do đó, Hoa Kỳ đã từng bƣớc
thâm nhập vào châu Á với những chính sách ngoại giao đặc trƣng: buộc Nhật Bản
mở cửa, kết thân với Thái Lan, tiến hành chiến tranh với Tây Ban Nha để tranh giành
thuộc địa, tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trƣờng ở châu Á bằng chính sách “Mở cửa”
Trung Quốc… Tất cả chính sách ấy đã góp phần tạo dựng cho Hoa Kỳ một vị thế
ngang hàng với các cƣờng quốc thế giới ở cựu lục địa. Từ đó, tạo điều kiện cho Hoa
Kỳ tham gia giải quyết các vấn đề thế giới, kể cả ở ngay chính châu Âu trong và sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Vậy, đâu là nhân tố quyết định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với các
khu vực Mỹ Latinh, châu Á, châu Âu trong giai đoạn 1865 - 1918? Nội dung cụ thể,
thực chất và mục tiêu chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ này là gì? Chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ có tác động nhƣ thế nào đến các chủ thể mà chính sách này hƣớng
đến cũng nhƣ đến chính bản thân nƣớc Mỹ?...
Với những vấn đề đặt ra ở trên, chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau Nội chiến
(1865) đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918) trở nên hấp dẫn và lôi cuốn
sự đam mê của nhiều ngƣời trong giới nghiên cứu lịch sử nói chung và lịch sử quan
3
hệ quốc tế nói riêng. Điều thực sự có ý nghĩa nếu có đƣợc một công trình nghiên cứu
cơ bản, có hệ thống về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn đƣợc đề cập.
Với mục đích góp phần nhìn nhận, lý giải các vấn đề phức tạp nêu trên, chúng
tôi mạnh dạn chọn đề tài “Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến
kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 - 1918)” làm luận án tiến sĩ sử học,
chuyên ngành Lịch sử thế giới.
Đây là đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Về góc độ khoa học, bằng việc
tái hiện quá trình hình thành và phát triển chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong
thời kỳ 1865 – 1918, luận án sẽ chỉ ra tiền đề, thành tựu và đặc điểm của chính sách
đối ngoại Hoa Kỳ trong giai đoạn đƣợc đề cập. Đồng thời, từ việc tìm hiểu quá trình
phát triển của nền ngoại giao Hoa Kỳ và quan hệ giữa Hoa Kỳ với các chủ thể liên
quan, luận án cũng cố gắng làm sáng tỏ những tác động chính sách cả về phía Hoa
Kỳ cũng nhƣ các nƣớc ở Mỹ Latinh, châu Á và châu Âu.
Về góc độ thực tiễn, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chính
sách đa phƣơng hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế nhằm đƣa đất nƣớc đi vào
quỹ đạo phát triển ổn định, hòa bình. Tuy nhiên, trong quan hệ với các nƣớc lớn trên
thế giới, nhất là với Hoa Kỳ, chúng ta càng phải nghiên cứu kỹ càng mọi mặt về
quốc gia này, nhất là trong lĩnh vực ngoại giao. Có nhƣ thế chúng ta mới có những
biện pháp hữu hiệu để vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quan hệ với Hoa Kỳ - một đối
tác đầy tiềm năng và cũng lắm thách thức, đúng nhƣ tinh thần của Paul Kennedy đã
từng nói “Cách tốt nhất để nhận thức được tương lai sắp đến là nhìn lại một chút về
quá khứ” [35; tr.118].
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ mục tiêu và nội dung chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ
sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918) nhằm vƣơn
lên ngang hàng với các cƣờng quốc và đứng đầu thế giới sau này.
Nhiệm vụ: Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các học giả đi trƣớc, luận
án hƣớng đến việc dựng lại bức tranh tổng thể và rút ra một số nhận xét về chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với các khu vực trên thế giới thời kỳ 1865 - 1918
bằng các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, bao gồm: kinh
tế, chính trị, xã hội; bối cảnh quốc tế và khu vực…
4
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những nội dung, điều chỉnh của chính sách
đối ngoại Hoa Kỳ cũng nhƣ quá trình thực hiện chính sách đó đối với từng chủ thể cụ
thể ở khu vực Mỹ Latinh, châu Á và châu Âu.
- Rút ra một số nhận xét đánh giá về thành tựu, đặc điểm, tác động của chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn đƣợc đề cập.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau
Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 - 1918), bao gồm các vấn
đề cụ thể là:
- Những nhân tố tác động đến sự hình thành chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
- Nội dung, những điều chỉnh và quá trình thực hiện chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ đối với từng chủ thể cụ thể.
- Những thành công, hạn chế, tác động nhiều mặt của việc thực hiện những
chính sách này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án đƣợc xác định trên các phƣơng diện:
Về mặt không gian: Luận án tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của
Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh, châu Á và châu Âu - các chủ thể mà Hoa Kỳ quan
tâm trong giai đoạn từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865
– 1918).
Về mặt thời gian: Phạm vi nghiên cứu của luận án là thời kỳ 1865 – 1918.
Mốc mở đầu của đề tài là sau khi cuộc Nội chiến ở Mỹ kết thúc (1865). Từ đây, Hoa
Kỳ đã liên tục phát triển lớn mạnh về kinh tế và đi kèm với nó là những chính sách
đối ngoại nhằm đƣa Hoa Kỳ từng bƣớc vƣơn đến địa vị lãnh đạo thế giới.
Tháng 11/1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Hoa Kỳ bƣớc ra khỏi
cuộc chiến này với tƣ cách là nƣớc thắng trận. Trƣớc đó, ngày 8/1/1918, Tổng thống
Mỹ W.Wilson đã đọc Thông điệp Liên bang trƣớc Quốc hội, nêu lên Mƣời bốn điểm
(Fourteen Points) nhƣ là một giải pháp hòa bình cho thế giới sau chiến tranh, đồng
thời lần đầu tiên xác nhận rõ ràng tham vọng lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ. Từ đây,
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ bƣớc sang một trang mới. Vì những lí do trên,
chúng tôi giới hạn mốc cuối của luận án vào năm 1918. Tuy nhiên, trong một vài
5
trƣờng hợp cụ thể, luận án có thể kéo lùi về trƣớc hoặc sau thời gian đƣợc xác định
để có cái nhìn logic và hợp lý hơn.
Về vấn đề nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu quá trình hoạch định,
thực thi và kết quả của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ nhằm khống chế Mỹ Latinh
(Cuba, Puerto Rico, Mexico…), mở rộng ảnh hƣởng ở châu Á (Nhật Bản,
Philippines, Trung Quốc, Thái Lan, …) cũng nhƣ những can dự của Mỹ ở châu Âu
khi giải quyết những vấn đề trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy nhiên,
chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời kỳ 1865 – 1918 đƣợc triển khai rất rộng và
phức tạp, trong khuôn khổ của luận án và sự giới hạn về điều kiện, nên chúng tôi chỉ
tập trung nghiên cứu ở một số các chủ thể tiêu biểu nhƣ trên.
Về tên gọi Hợp chúng quốc Mỹ hay Hoa Kỳ:
Nƣớc Mỹ (tên đầy đủ là Hợp chúng quốc Mỹ, hay Hoa Kỳ) cho đến nay có
lịch sử gần 240 năm, là kết quả của cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 bang
thuộc địa ở Bắc Mỹ chống lại đế quốc Anh. Trên cơ sở đó, 13 bang thuộc địa đã ra
bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 4/7/1776, chính thức khai sinh Hợp chúng quốc
Mỹ (The United States of America). Trong cách sử dụng tên gọi nƣớc Mỹ ở Việt
Nam từ trƣớc đến nay vẫn phổ biến cách gọi Mỹ, Hoa Kỳ hay đầy đủ hơn là Hợp
chúng quốc Mỹ hoặc Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Cách gọi sau này là dựa vào cách
dịch từ nƣớc ngoài, mà ở đây, là từ Hán Việt để phần nào thể hiện Mỹ là một đất
nƣớc đa chủng tộc. Tên gọi Hoa Kỳ có nghĩa là “cờ hoa”, do đó một số ngƣời còn
gọi nƣớc Mỹ là “xứ cờ hoa”. Trong Hiệp định Paris ký vào năm 1973 nhằm lập lại
hòa bình ở Việt Nam, từ “Hợp chúng quốc Hoa Kỳ” đã đƣợc hai quốc gia chính thức
sử dụng để đề cập đến các vấn đề, nội dung của hiệp định [31; tr.13]. Do vậy, trong
luận án có lúc chúng tôi dùng “Mỹ”, có lúc dùng “Hoa Kỳ” để chỉ tên gọi chính thức
của đất nƣớc này và cả hai tên gọi đều có giá trị nhƣ nhau.
4. Nguồn tài liệu
Tài liệu chính đƣợc sử dụng trong luận án này bao gồm các nguồn sau:
- Các tƣ liệu gốc cung cấp những thông tin chính thức và độ tin cậy cao nhƣ
các bài phát biểu, diễn văn, thông điệp liên bang của tổng thống Hoa Kỳ; hiệp ƣớc ký
kết giữa Hoa Kỳ với các nƣớc nhƣ Nhật Bản, Trung Quốc, các nƣớc Mỹ Latinh; các
công điện, thƣ từ của quan chức ngoại giao. Nguồn tƣ liệu này bao gồm các tập tƣ
6
liệu gốc do Bộ Ngoại giao Mỹ công bố, trong các công trình tuyển chọn tƣ liệu về
lịch sử Mỹ, trên các website của Thƣ viện Quốc hội Mỹ, của các trƣờng đại học…
- Các công trình chuyên khảo của một số quan chức trực tiếp tham gia vào quá
trình hoạch định chính sách và thực thi chính sách đối ngoại Mỹ nhƣ G. Kennan,
Samuel Flagg Bemis, Jerald A.Comb….
- Các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nƣớc có giá trị
tham khảo về nội dung thông tin, quan điểm đánh giá và cách tiếp cận nhiều chiều
liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận án.
Các nguồn tài liệu để thực hiện luận án chủ yếu bằng tiếng Việt hoặc tiếng
Anh; đƣợc thể hiện dƣới dạng bài viết hay sách của các tác giả ngƣời Việt hoặc
ngƣời Mỹ. Các công trình của các tác giả Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan,… chủ
yếu đƣợc khai thác qua bản dịch bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh do sự hạn chế về
năng lực ngoại ngữ của tác giả luận án.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận
Luận án đƣợc thực hiện trên cơ sở quán triệt sâu sắc chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là nền tảng để
chúng tôi xử lý các nguồn tƣ liệu nhằm phân tích, đánh giá các sự kiện, các vấn đề cốt
yếu trong chính sách đối ngoại đối với các chủ thể mà Hoa Kỳ quan tâm trong giai đoạn
đặt ra của luận án. Theo đó, phƣơng pháp luận này đƣợc vận dụng để xem xét, nhìn
nhận sự vận động và phát triển chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong hơn 50 năm sau
Nội chiến.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
“Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1865 – 1918)” là một đề tài lịch sử, do vậy các phƣơng pháp
nghiên cứu chuyên ngành nhƣ phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic là những
phƣơng pháp căn bản đƣợc sử dụng trong luận án. Bằng phƣơng pháp lịch sử, luận
án sẽ tái hiện lại quá trình hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của Mỹ trong
thời kỳ 1865 – 1918 theo trình tự thời gian với những nội hàm cụ thể của nó. Bằng
phƣơng pháp logic, trên cơ sở các nguồn tƣ liệu có đƣợc, luận án sẽ khái quát hóa, hệ
thống hóa những giai đoạn phát triển chủ yếu của chính sách đối ngoại Mỹ cũng nhƣ
lý giải đƣợc các căn nguyên, các nhân tố chi phối chính sách của Mỹ đối với từng
chủ thể nhất định.
7
Ngoài ra, để làm sáng rõ yêu cầu đặt ra, các phƣơng pháp nghiên cứu liên
ngành trong nghiên cứu quốc tế nhƣ phân tích tổng thể và toàn cục nội dung và sự
kiện, phân tích so sánh, hệ thống hóa, … cũng đƣợc vận dụng trong luận án. Việc kết
hợp các phƣơng pháp nêu trên cho phép xem xét quá trình định hình và thực hiện
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1865 – 1918 nhƣ một cấu trúc gồm
nhiều thành tố cấu thành. Điều đó giúp cho chúng ta nhận thức đƣợc cội nguồn, tính
chất, đặc điểm, tác động của chính sách đối ngoại mà Hoa Kỳ thực thi đối với các
chủ thể liên quan trong giai đoạn nghiên cứu của luận án.
6. Đóng góp của luận án
Trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các công trình trong và ngoài
nƣớc, đóng góp của luận án chủ yếu ở những mặt sau đây:
6.1.Về mặt khoa học
Thứ nhất, tái hiện bức tranh tổng thể về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ
sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918) một cách
khách quan và chân thực.
Thứ hai, tập trung phân tích, luận giải những căn nguyên, mục đích, các yếu
tố cấu thành cũng nhƣ nội dung cơ bản và tác động của việc thực thi chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn nghiên cứu. Từ đó, luận án rút ra những đặc điểm
cơ bản của chính sách đối ngoại Mỹ, góp phần nhận thức một cách chân xác, sâu sắc
hơn về nền ngoại giao của Hoa Kỳ trong lịch sử.
Thứ ba, đóng góp vào việc tìm hiểu một phần lịch sử của một số nƣớc, nhất là
các nƣớc Mỹ Latinh – khu vực vẫn còn xa lạ với giới nghiên cứu sử học ở Việt Nam.
Thứ tư, luận án góp phần vào việc nghiên cứu về lịch sử Mỹ nói chung, lịch
sử quan hệ quốc tế của Mỹ nói riêng. Do vậy, luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho
công tác giảng dạy và học tập của sinh viên, học viên cùng những ai quan tâm đến
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong lịch sử.
6.2. Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời
kỳ 1865 – 1918, luận án nêu lên một số nhận thức cần thiết về nền ngoại giao cũng nhƣ
những phƣơng cách ngoại giao mà Hoa Kỳ đã áp dụng để vƣơn tới địa vị quyền lực thế
giới trong giai đoạn trên.
Thứ hai, từ những kinh nghiệm lịch sử trong quá trình tiếp nhận chính sách đối
ngoại Mỹ của các nƣớc liên quan, luận án sẽ là những hàm ý cần thiết cho việc hoạch
8
định chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ. Điều này thực sự có ý nghĩa
trong bối cảnh Việt Nam và Hoa Kỳ đã xây dựng đƣợc mối quan hệ đối tác toàn diện.
Song, trong quan hệ với Mỹ - một quốc gia có vai trò và vị trí quan trọng trên trƣờng thế
giới mà Việt Nam cần có quan hệ nhiều hơn, rộng hơn cả ở cấp độ nhà nƣớc lẫn nhân
dân, những kinh nghiệm lịch sử vẫn luôn cần thiết cho mối quan hệ không phải lúc nào
cũng hài hòa về lợi ích giữa hai nƣớc.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính
của luận án bao gồm 4 chƣơng:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội
chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918).
Chương 3. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với một số khu vực tiêu
biểu thời kỳ 1865 – 1918.
Chương 4. Một số nhận xét về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ
1865 - 1918.
9
CHƢƠNG 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ lâu là đối tƣợng quan tâm nghiên cứu của
nhiều học giả và các nhà hoạch định chính sách ở cả trong và ngoài nƣớc. Nhìn
chung, có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các khía cạnh của chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ. Trong phạm vi những công trình và tài liệu có thể tiếp cận
đƣợc, chúng tôi xin nêu một số nét chính về vấn đề này theo hai hƣớng nhƣ sau:
1.1. Thực trạng nghiên cứu vấn đề khoa học ở trong nƣớc
1.1.1. Giai đoạn trƣớc năm 1975
Từ lâu, các nhà sử học Việt Nam đã quan tâm nghiên cứu về Hoa Kỳ nói
chung, chính sách đối ngoại nói riêng. Từ trƣớc năm 1975, ở miền Bắc Việt Nam,
việc nghiên cứu về Hoa Kỳ, nhất là chính sách đối ngoại của quốc gia này đối với
các nƣớc xung quanh đã phần nào đƣợc chú ý. Sớm nhất có thể là công trình “Châu
Mỹ Latinh đấu tranh cho độc lập dân tộc và dân chủ‖ của Hà Tá, xuất bản năm 1961
bởi Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. Thông qua việc mô tả cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc và dân chủ của nhân dân các nƣớc Mỹ Latinh, cuốn sách cũng đã chỉ ra sự
can thiệp của đế quốc Mỹ vào Mỹ Latinh – một khu vực đƣợc Mỹ xem là “sân sau”
của mình. Tiếp theo đó là các bài báo đăng trên các tạp chí, thông báo khoa học đề
cập đến chính sách xâm nhập của Mỹ vào các nƣớc thông qua con đƣờng của chủ
nghĩa thực dân kiểu mới đối với các khu vực Mỹ Latinh, Đông Nam Á, Đông Á….
Có thể điểm qua các bài viết nhƣ “Chính sách nô dịch của đế quốc Mỹ và sự phá sản
của nó ở Mỹ Latinh” (1962) của Võ Văn Nhung; ―Quá trình xâm lược của Mỹ vào
Cuba từ hơn một thế kỷ nay” (1963) của Văn Lạc; ―Nhìn lại con đường xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc Mỹ trong thời kỳ lịch sử cận đại” (1966), “Bước đầu xâm
nhập của Mỹ vào Đông Nam Á” (1969) của Vũ Dƣơng Ninh; ―Một trăm năm đấu
tranh vì độc lập tự do của nhân dân Cuba anh hùng” (1968) của Phạm Xuân Nam…
Các bài viết kể trên đã phần nào đề cập đến quá trình xâm nhập, xâm lƣợc của Mỹ
vào các khu vực trên thế giới nhƣ Đông Nam Á, Mỹ Latinh với Cuba là đối tƣợng
đầu tiên.
Ở miền Nam việc nghiên cứu về Hoa Kỳ và chính sách đối ngoại Mỹ cũng
đƣợc chú ý. Nhiều công trình về Hoa Kỳ của các tác giả nƣớc ngoài đã đƣợc tiến
hành dịch thuật nhƣ “Những tài liệu căn bản về lịch sử Mỹ” (1969) của Richard
10
Morris do Việt Nam khảo dịch xã ấn hành; “Lịch sử Mỹ” (1972) của Franck L.
Schoell. Hai công trình này đã tập trung trình bày lịch sử phát triển của Hoa Kỳ từ
khi C. Columbus phát hiện ra châu Mỹ đến những năm 50 của thế kỷ XX. Một số
vấn đề về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cũng đƣợc ít nhiều nhắc đến trong hai
công trình này.
Đồng thời, trong thời kỳ này cũng xuất hiện một số công trình chuyên khảo về
quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của Mỹ nhƣ ―Hội nghị Tê hê ran (28-11-
1942 – 1-12-1943” (1962) của Nhà xuất bản Sự thật; “Châu Mỹ Latinh giữa gấu và
diều hâu” (1969) của Đỗ Vũ, Nhà xuất bản Thái độ, Sài Gòn; “Lịch sử chính trị và
bang giao quốc tế” (2 tập, 1972) của Hoàng Ngọc Thành do Nhà xuất bản Lửa
thiêng ấn hành với hai cuốn. Cuốn I tƣờng thuật tình hình chính trị tại nhiều quốc gia
trên thế giới cũng nhƣ mối bang giao giữa các cƣờng quốc trong giai đoạn 1818 –
1939 và những nguyên nhân gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai. Nội dung của cuốn
II là tình hình thế giới sau năm 1945, những sự thay đổi về chính trị ở phƣơng Tây và
phƣơng Đông cũng nhƣ sự tranh chấp giữa hai siêu cƣờng Hoa Kỳ và Liên Xô. Song
đáng tiếc là những nội dung mà luận án cần lại nằm ở khoảng thời gian trƣớc của
công trình này.
1.1.2. Giai đoạn sau năm 1975
Sau khi đất nƣớc thống nhất, việc nghiên cứu về Hoa Kỳ nói chung, chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ nói riêng đƣợc chú ý nhiều hơn, phạm vi và vấn đề
nghiên cứu cũng rộng hơn. Điều này đặc biệt nổi rõ trong những năm đầu thập niên
1990. Dƣới tác động của công cuộc Đổi mới, nhất là đổi mới trong chính sách đối
ngoại, Việt Nam đã tích cực mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế. Hơn nữa, những
bƣớc cải thiện trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ với những sự kiện quan trọng nhƣ
việc Mỹ bãi bỏ cấm vận (1994), bình thƣờng hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa
hai nƣớc (1995) đã mở ra một giai đoạn mới trong nghiên cứu về Hoa Kỳ ở Việt
Nam. Nhiều tổ chức nghiên cứu, giảng dạy về Hoa Kỳ đã đƣợc thành lập. Đồng hành
với nó là nhiều công trình nghiên cứu đã đƣợc công bố. Thêm vào đó, nhiều công
trình nghiên cứu của các học giả nƣớc ngoài đã đƣợc dịch sang tiếng Việt… Tựu
chung lại, có thể chia các công trình này thành ba nhóm nhƣ sau:
Trong nhóm thứ nhất, các công trình nghiên cứu mang tính tổng thể về Mỹ
hoặc dành một phần dung lượng đáng kể để bàn về Hoa Kỳ nhƣ “Lịch sử nước
Mỹ” (1994) của Lê Minh Đức và Nguyễn Nghị, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà
11
Nội; “Lịch sử thế giới cận đại‖ (1998) của Vũ Dƣơng Ninh, Nguyễn Văn Hồng,
“Lược sử nước Mỹ” (2000) của Vƣơng Kính Chi; “Lịch sử thế giới hiện đại” (2003)
của Nguyễn Anh Thái (cb); “Một số chuyên đề lịch sử thế giới (tập II)” (2006) của
Vũ Dƣơng Ninh và Nguyễn Văn Kim (cb);“Liên bang Mỹ, đặc điểm văn hóa xã hội”
(2005) của Nguyễn Thái Yên Hƣơng; “Hồ sơ văn hóa Mỹ‖ (2006) của Hữu Ngọc;
“Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ” (2011) của Nguyễn Thái Yên Hƣơng, Đỗ Minh
Tuấn (Cb). Các công trình kể trên mặc dù có dành một dung lƣợng không nhiều để
nói về chính sách đối ngoại của Mỹ và vẫn đang còn ở dạng khái quát, song các tác
phẩm này đã cung cấp những kiến thức phong phú về nhiều mặt của đất nƣớc Hoa
Kỳ, qua đó trang bị cho ngƣời đọc một cái nhìn tổng thể về vấn đề mà luận án đặt ra.
Đặc biệt, công trình ―Các vấn đề nghiên cứu về Hoa Kỳ” đã tập hợp đƣợc 61 bài viết
của nhiều tác giả khác nhau và đƣợc phân chia theo 4 chƣơng chính: lịch sử, văn hóa
và xã hội Hoa Kỳ; Hệ thống chính trị, pháp luật Hoa Kỳ; Kinh tế Hoa Kỳ; Chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Trong phần về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với 18
bài viết, đáng chú ý là nhóm bài: “Ý nghĩa của lobby đối với chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ” (Bùi Phƣơng Lan), “Vấn đề nhân quyền trong chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ” (Tạ Minh Tuấn), “Chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ sau Chiến tranh
Lạnh” (Nguyễn Vũ Tùng), “Thực chất của cái gọi là “thúc đẩy dân chủ” ở nước
ngoài của Hoa Kỳ” (Nguyễn Thành Lợi), “Hoạt động ngoại giao nhân dân của Hoa
Kỳ” (Nguyễn Thị Thanh Thủy), “Chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực châu Á”
(Luận Thùy Dƣơng)… Những bài viết này đã phần nào mổ xẻ những khía cạnh cũng
nhƣ những chính sách cụ thể trong đối ngoại của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đặc điểm
chung của các công trình kể trên là không hoặc đề cập một cách hạn chế về chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1865 – 1918), mà trái lại tập trung nhiều vào một thời kỳ lịch sử khác – thời kỳ
sau Chiến tranh Lạnh.
Trong nhóm thứ hai, gồm các công trình nghiên cứu về chính sách đối
ngoại của Mỹ trong tổng thể các mối quan hệ quốc tế trên thế giới. Có thể kể đến
một số công trình tiêu biểu nhƣ: “Lịch sử quan hệ quốc tế (1917 – 1945)” (2002) của
Lê Văn Quang; “Lịch sử quan hệ quốc tế từ đầu thời Cận đại đến kết thúc Thế chiến
II”, (2005) Vũ Dƣơng Ninh (Cb); “Lịch sử quan hệ quốc tế - tập 1” (2005) Vũ
Dƣơng Ninh (Cb) cùng các tác giả Phan Văn Ban, Nguyễn Văn Tận; “Chiến tranh
thế giới thứ hai” (2005) của Nguyễn Huy Quý; “Chính sách đối ngoại của một số
12
nước lớn trên thế giới” (2008) của Phạm Minh Sơn (Cb), “Giáo trình Quan hệ quốc
tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương” (2014) của Phạm Quang Minh. Nhìn
chung, các công trình kể trên đã dành một phần dung lƣợng trong tổng thể chung để
nói về chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đa phần các
công trình chỉ đề cập đến những vấn đề về quan hệ quốc tế trong thời kỳ gần đây mà
ít có những khảo cứu về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn mà luận án
đề cập. Riêng trong cuốn ―Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945”, tác giả Lê
Văn Quang đã dành một phần nhỏ để nói về lập trƣờng của Mỹ trong Hội nghị
Versailles với Chƣơng trình 14 điểm của Tổng thống W.Wilson, trong đó điểm cuối
cùng là chủ trƣơng thành lập Hội Quốc liên (League of Nations) nhằm mục tiêu đảm
bảo cho hòa bình, an ninh quốc tế, tránh cho loài ngƣời khỏi nguy cơ của một cuộc
chiến tranh thế giới mới. Tuy nhiên, tác giả cho rằng ―thực chất của vấn đề là ở chỗ,
Mỹ muốn thông qua tổ chức này để lãnh đạo thế giới trước hết bằng sức mạnh kinh
tế và chính trị của mình” [55; tr.42]. Đa phần còn lại của cuốn sách đều dành dung
lƣợng lớn để nói về quan hệ quốc tế, trong đó có Mỹ nhƣng ở vào các giai đoạn sau.
Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây cũng xuất hiện một số các công trình
chuyên khảo, tập trung nghiên cứu về một số vấn đề cơ bản trong chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ hay một số mối quan hệ giữa Mỹ với một vài nƣớc cụ thể, tuy
nhiên với số lƣợng không nhiều. Có thể kể đến một số công trình nhƣ ―Can thiệp
nhân đạo trong chính sách đối ngoại của Mỹ” (2005) của Nguyễn Thái Yên Hƣơng
(Cb) đi vào phân tích việc sử dụng vấn đề nhân đạo để can thiệp vào các nƣớc nhƣ là
một phƣơng cách trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Cuốn “Góp phần tìm hiểu
lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ” (2006) của Phạm Xanh đã khảo cứu về những
cơ hội lịch sử bị bỏ lỡ trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ cũng nhƣ những cải thiện,
chuyển biến trong quan hệ giữa hai nƣớc trong thời gian gần đây….
Đề cập đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cũng nhƣ một số vấn đề nổi lên
trong quan hệ giữa Mỹ với các nƣớc trên thế giới cũng là nội dung đƣợc các tác giả
quan tâm trong công trình đăng tải trên các tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Nghiên cứu
Đông Nam Á, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Nghiên cứu Lịch sử.... Có thể
nêu một số bài viết tiêu biểu dƣới đây:
Vào năm 1995, tác giả Nguyễn Quốc Hùng có bài “Franklin D.Roosevelt và
Chiến tranh thế giới thứ II (1939 – 1945)” đăng trên Châu Mỹ ngày nay, số 2 đã tập
trung đề cập đến chính sách của Mỹ dƣới thời Tổng thống F.Roosevelt trong Chiến
13
tranh thế giới thứ hai. Năm 1998, công trình của Cao Minh Chơng trên Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á là “Cuộc chiến tranh Philippin – Mỹ 1899 – 1903” đã
điểm lại những nét chính của cuộc chiến tranh ở Philippines cũng nhƣ những can
thiệp của ngƣời Mỹ vào đất nƣớc này. Các bài viết “Xu hướng chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ trong lịch sử” (1999) của Lê Thu Hằng; ―Các luận điểm và biểu hiện
của Học thuyết sứ mệnh bành trướng trong chính sách đối ngọai của Hoa Kỳ”
(2008) của Nguyễn Lan Hƣơng, ―Những cơ sở phát triển chủ nghĩa quốc gia – dân
tộc Mỹ từ sau Nội chiến đến trước Chiến tranh thế giới lần I” (2010) của Nguyễn
Ngọc Dung đã chỉ ra những cơ sở, xu hƣớng, luận điểm và biểu hiện của chủ nghĩa
biệt lệ, chủ nghĩa bành trƣớng…trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Đây là hai
khuynh hƣớng cho sự lựa chọn chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong lịch sử.
Trong nhóm thứ ba, bao gồm những công trình đề cập đến chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ qua các giai đoạn hoặc các chủ thể khác nhau, nhƣ ―Chính sách
đối ngoại của Mỹ giai đoạn 1865 - 1904” (2007) của Trần Thiện Thanh; “Những
chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ giai đoạn 1870 – 1900” (2008) của
Nguyễn Ngọc Dung; “Nhật Bản trong chính sách đối ngoại của Mỹ trước năm
1905” (2009) của Trần Thiện Thanh đã khảo cứu về những chính sách cụ thể cũng
nhƣ những chuyển biến của nền ngoại giao Hoa Kỳ thời kỳ sau Nội chiến cho đến
những năm đầu thế kỷ XX. Đó chính là những thay đổi trong quan hệ giữa Hoa Kỳ
với các cƣờng quốc châu Âu tại châu Mỹ, với Mexico, với các nƣớc trong khu vực
châu Á – Thái Bình Dƣơng (CA-TBD) nhƣ Triều Tiên, Nhật Bản, Philippines. Tất cả
sự chuyển biến đó đều nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bành trƣớng lãnh
thổ, từng bƣớc xác lập vị thế và ảnh hƣởng của Hoa Kỳ đối với Mỹ Latinh, đồng thời
hƣớng sang châu Á. Hay vấn đề chính sách đối ngoại của Mỹ đối với từng khu vực,
chủ thể nhất định cũng đƣợc đề cập trong bài “Tóm tắt chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ với Mỹ Latinh từ Tổng thống F.D.Roosevelt cho tới Tổng thống William Jefferson
Clinton” (2006) của Nguyễn Lan Hƣơng. Ở một khía cạnh khác, trong bài ―Vai trò
của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh” (2005), tác giả Đỗ Minh Tuấn đã chỉ ra những vai trò
nổi bật của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh – nơi đƣợc xem là “sân sau” của Hoa Kỳ. Đối
với khu vực châu Á, tác giả Nguyễn Văn Tận đã có những kiến giải về chính sách
của Mỹ đối với Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc trong bài “Nhìn lại chính sách
châu Á của Mỹ từ nửa sau những năm 50 của thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX” (2007).
14
Ngoài ra, vấn đề chính sách đối ngoại Mỹ cũng đƣợc đề cập trong luận văn
thạc sĩ “Châu Mỹ Latinh và chính sách của Mỹ trong thời lịch sử cận đại” (1983)
của Hoàng Thị Điệp và các luận án tiến sĩ ―Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với
Nhật Bản trong nửa đầu thế kỷ XX” (2008) của Trần Thiện Thanh, ―Chính sách của
Mỹ đối với các cường quốc châu Âu trong việc mở rộng lãnh thổ (1787 – 1861)” của
Lê Thành Nam. Đây là ba công trình nghiên cứu công phu nhƣng lại chỉ tập trung
vào một khu vực cụ thể trong thời cận đại (Mỹ Latinh), hoặc tập trung nghiên cứu về
chính sách của Mỹ đối với một đối tƣợng cụ thể duy nhất là Nhật Bản trong nửa đầu
thế kỷ XX hay nghiêng về việc nghiên cứu chính sách của Mỹ đối với các cƣờng
quốc châu Âu trong việc mở rộng lãnh thổ trƣớc năm 1861. Mặc dù vậy, các công
trình nói trên là nguồn bổ khuyết rất quan trọng cho việc nghiên cứu về chính sách
đối ngoại Hoa Kỳ trong những năm gần đây.
Nhƣ vậy, có thể nhận thấy rằng, trong thời gian gần đây ở Việt Nam đã có khá
nhiều các công trình nghiên về Hoa Kỳ nói chung và chính sách đối ngoại cũng nhƣ
quan hệ quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, hầu nhƣ chƣa có một công trình nghiên cứu
nào đề cập một cách toàn diện về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn từ
sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918).
1.2. Thực trạng nghiên cứu vấn đề khoa học ở nƣớc ngoài
Có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu tổng thể về Mỹ nói chung, chính
sách đối ngoại Mỹ và quan hệ giữa Mỹ với các nƣớc trên thế giới nói riêng là mảng
đề tài từ lâu đã đƣợc giới chính trị và các học giả nƣớc ngoài quan tâm, với cái nhìn
đa diện và hệ thống. Trong phạm vi những công trình và tài liệu có thể tiếp cận đƣợc,
chúng ta dễ dàng nhận thấy có hai mảng đề tài đƣợc quan tâm chính yếu: (1) nghiên
cứu về những vấn đề khác nhau của lịch sử Hoa Kỳ; (2) nghiên cứu về chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ và quan hệ giữa nƣớc này với các chủ thể liên quan.
Trong nhóm vấn đề thứ nhất – nghiên cứu các vấn đề khác nhau của lịch
sử Hoa Kỳ. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu tổng quan, khái quát về lịch sử
các mặt của Hoa Kỳ đã đƣợc dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam nhƣ:
“Lịch sử Hoa Kỳ” (1970) của France L.Schoell ; “Khái quát về lịch sử nước Mỹ”,
của Howard Cincotta, Bản dịch (lƣu tại Đại sứ quán Hoa Kỳ); “Lịch sử mới của
nước Mỹ” (2003) của Eric Foner; “Lược sử nước Mỹ” (2006); “Lịch sử Hoa Kỳ -
Những vấn đề quá khứ” (2009) của Irwin Unger; “Lịch sử dân tộc Mỹ” (2010) của
Howard Zinn… Các công trình kể trên có đặc điểm chung là phạm vi nghiên cứu
15
rộng cả về không gian lẫn thời gian. Nội dung nghiên cứu chủ yếu là các mặt về lịch
sử Mỹ qua các thời kỳ. Phần về chính sách đối ngoại chung lẫn chính sách của Mỹ đối
với từng nƣớc, từng khu vực cụ thể chỉ đƣợc đề cập ở một mức độ nhất định. Tuy
nhiên, những nội dung khái quát về lịch sử, đất nƣớc, con ngƣời, kinh tế, xã hội, tƣ
tƣởng đƣợc phản ánh trong các công trình trên đã giúp ích rất nhiều cho luận án trong
việc làm sáng tỏ những tiền đề cho quá trình hoạch định và thúc đẩy sự phát triển của
chính sách đối ngoại Hoa Kỳ. Trong số những công trình đƣợc đề cập ở trên, đáng chú
ý là cuốn ―Lịch sử Hoa Kỳ - những vấn đề quá khứ” của Irwin Unger. Đây là một
công trình đồ sộ về lịch sử của nƣớc Mỹ. Tác giả Irwin Unger đã phục dựng lại lịch sử
Hoa Kỳ từ những khởi thủy đầu tiên của vùng đất Bắc Mỹ qua các thời kỳ thuộc địa,
tiến tới độc lập bằng cuộc cách mạng Mỹ, sự ra đời của Hiến pháp Mỹ, các đảng phái
đầu tiên, các thành tựu về kinh tế của Hoa Kỳ, Nội chiến, Tái thiết, những dính líu của
Mỹ trong hai cuộc chiến tranh thế giới và nƣớc Mỹ thời hiện đại… Về mặt đối ngoại,
cuốn sách đã dành một dung lƣợng vừa phải để nói về chủ nghĩa bành trƣớng, về đế
quốc Mỹ. Công trình này đã cung cấp cho ngƣời đọc một cái nhìn tổng thể nhiều mặt
về lịch sử Hoa Kỳ và là nguồn tƣ liệu quan trọng cho tác giả trong quá trình thực hiện
luận án. Tuy nhiên, là một công trình nghiên cứu của tác giả nƣớc ngoài, dĩ nhiên mọi
thông tin trong tác phẩm này (cũng nhƣ các công trình khác) đều thể hiện quan điểm
và phản ánh cách nhìn nhận của giới nghiên cứu ở nƣớc đó.
Ở một khía cạnh khác, cuốn “Những sự kiện lớn trong lịch sử Hoa Kỳ” (2005)
của các tác giả Pam Cornelison, Ted Yanak đã điểm lại những sự kiện quan trọng trong
lịch sử Hoa Kỳ, trong đó có đề cập đến những sự kiện đáng chú ý về mặt đối ngoại.
Cũng trong mảng nghiên cứu về lịch sử Hoa Kỳ, các công trình nhƣ “42 đời tổng thống
Hoa Kỳ” (1995) của W.A.Degregorio; “Văn minh Hoa Kỳ” (1998) của Jean Prierre
Fichou; “Những tác phẩm biến đổi thế giới” (2003) của Robert B.Down; “Những tài
liệu căn bản về lịch sử Mỹ” (1969) của Richard B. Morris biên soạn… đã cung cấp một
khối lƣợng thông tin lớn về lịch sử Mỹ thông qua các đời tổng thống Mỹ với những
chính sách đối nội, đối ngoại, những hoạt động của chính quyền...
Đối với các công trình bằng nguyên bản tiếng Anh, lịch sử Mỹ cũng đƣợc rất
nhiều học giả Mỹ quan tâm nghiên cứu một cách rộng rãi. Đây là mảng đề tài rất quan
trọng, do vậy, nhiều công trình đã đƣợc công bố, tiêu biểu nhƣ “The Frontier in
American History” (Biên cƣơng trong lịch sử Hoa Kỳ) (1953) của Federick Jackson
Turner. “The American Past: Conflicting Interpretations of the Great Issues”(Quá khứ
16
Mỹ: những giải thích mâu thuẫn về những vấn đề lớn) (1965) của Sydney Fine và
Gerald S. Brown; “Main Problems in American History – Volume I, Volume II” (Những
vấn đề chính yếu trong lịch sử Hoa Kỳ - tập I, tập II) (1968) của các tác giả Howard H.
Quint, Dean Albertson, Mitton Cantor; “Woodrow Wilson” (Tổng thống Woodrow
Wilson) (1969) của Arthur Walworth; “The American Civil War” (Cuộc Nội chiến Mỹ)
(1975) của Peter J. Parish; “Our Country: Its Possible Future and Its Present Crisis”
(Những khủng hoảng hiện tại và tƣơng lai có thể của đất nƣớc chúng ta) (1985) của
Josiah Strong; “An Outline of American History” (Khái quát lịch sử Hoa Kỳ) (1994) của
Cơ quan Chƣơng trình thông tin quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ; “America’s History”
(Lịch sử Hoa Kỳ) (2004) của James A. Henretta, David Brody, Lynn Dumenil, Susan
Ware; “The Paper of Ulysses S. Grant” (Tƣ liệu về Tổng thống Ulysses S. Grant)
(2008) của John Y. Simon; “Battle History of The United States Marine Corps, 1775 –
1945” (Trận chiến lịch sử của Thủy quân lục chiến Mỹ, 1775 – 1945) (2010) của
George B.Clark. Cũng giống nhƣ các công trình đã đƣợc dịch sang tiếng Việt, các công
trình bằng tiếng Anh đề cập đến chủ đề lịch sử Mỹ đều có phạm vi nghiên cứu rộng cả
về đối tƣợng lẫn thời gian và không gian. Lịch sử Mỹ qua các giai đoạn đƣợc đề cập với
nhiều nội dung khác nhau, trong đó, phần về chính sách đối ngoại và các hoạt động đối
ngoại chỉ chiếm một phần rất nhỏ và mang tính khái lƣợc trong tổng thể chung của từng
công trình. Dẫu vậy, những thông tin chứa đựng trong các tác phẩm nói trên là cơ sở để
tác giả luận án đi sâu tìm hiểu, phân tích và đánh giá đúng nền tảng cho việc hoạch định
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn mà đề tài đặt ra.
Trong nhóm vấn đề thứ hai – nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ và quan hệ giữa nước này với các chủ thể liên quan cũng đã đƣợc giới học giả
quan tâm nghiên cứu. Rất nhiều công trình trong số đó đã đƣợc dịch và xuất bản tại
Việt Nam, có thể nêu một số công trình tiêu biểu nhƣ “Những vấn đề trung tâm
trong đường lối đối ngoại của Mỹ” (1997) của Henry Kissinger; “Chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ - Động cơ lựa chọn trong thế kỷ XXI” (2004), của Bruce
W.Jentleson. Hai cuốn sách này chứa đựng nhiều tƣ liệu giá trị về những trọng tâm
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cũng nhƣ những lựa chọn về mặt đối ngoại
trong thế kỷ mới – thế kỷ XXI. Mặc dù vậy, nội dung đề cập của hai công trình trên
chủ yếu nói về chính sách đối ngoại của Mỹ trong và sau Chiến tranh Lạnh.
Lịch sử và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ còn thu hút các học giả bên ngoài
tham gia nghiên cứu, tiêu biểu là các công trình “Chính sách đối ngoại của Mỹ”
17
(1961) của học giả ngƣời Nga N.I.Nozemsew; “Nội tình 200 năm Nhà Trắng”
(2004) của tác giả ngƣời Trung Quốc Lý Thắng Khải. Trong cuốn sách của mình, tác
giả Lý Thắng Khải đã khảo cứu lịch sử Mỹ từ buổi bình minh cho đến đầu thế kỷ
XXI với sự kiện 11/9/2001. Trong đó, nhiều vấn đề về mặt đối ngoại đã đƣợc tác giả
nhắc đến nhƣ việc nƣớc Mỹ bắt đầu can thiệp vào công việc thế giới thông qua cuộc
chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (1898), chính sách “Mở cửa” ở Trung Quốc, “dụ dỗ”
và “cưỡng ép” để xây dựng và độc chiếm kênh đào Panama… Đây chính là những
gợi mở cần thiết cho tác giả trong quá trình thực hiện luận án.
Đối với các công trình nguyên bản tiếng Anh, vấn đề ngoại giao và quan hệ
đối ngoại Hoa Kỳ đã đƣợc đề cập một cách phong phú và đa dạng hơn. Trong phạm
vi nguồn tƣ liệu có thể tiếp cận đƣợc, chúng tôi xin đƣợc nêu một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu sau:
Vào năm 1942, Nhà xuất bản Henry Holt and Company – New York đã cho ấn
hành công trình “A Diplomacy history of the United States” (Lịch sử ngoại giao Hoa
Kỳ) của Samuel Flagg Bemis. Đây là một công trình đồ sộ với hơn 900 trang nói về lịch
sử ngoại giao Hoa Kỳ qua ba phần: Những hoạt động ngoại giao sau ngày lập quốc, thời
kỳ bành trƣớng và ngoại giao Hoa Kỳ trong thế kỷ XX. Trong đó, tác giả đã đề cập đến
những hoạt động ngoại giao của Hoa Kỳ từ khi tiến hành liên minh với Pháp (1775 –
1778) trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập, Học thuyết Monroe (1823), Chiến tranh
với Mexico, những hòa giải giữa Mỹ và Anh, chiến tranh với Tây Ban Nha, chính sách
“Mở cửa” Trung Quốc… Theo đó, tác giả cho rằng, Hoa Kỳ đã không phạm phải một
sai lầm nghiêm trọng nào về mặt ngoại giao trong giai đoạn 1775 – 1898. Công thức
thành công của nền ngoại giao Hoa Kỳ trong thời kỳ này là dựa vào những lợi thế hoàn
toàn biệt lập và xa châu Âu để cạnh tranh với các nƣớc ở cựu lục địa trong bối cảnh các
cƣờng quốc này gặp khó khăn. Nói cách khác, Hoa Kỳ không cần phải có nhiều tính
toán có chủ ý, miễn sao mục tiêu của chính sách đối ngoại phù hợp với tầm nhìn của
giới tinh hoa cũng nhƣ lợi ích của ngƣời Mỹ. Sau khi hiện thực hóa những mục tiêu cơ
bản trong chính sách đối ngoại, nƣớc Mỹ bƣớc vào một giai đoạn mới với tƣ cách là một
cƣờng quốc thế giới. Với vị thế đó, từ sau năm 1898, Hoa Kỳ đóng vai trò ngày càng lớn
hơn trong nền chính trị thế giới với những can dự rộng khắp ở Philippines, Nhật Bản,
Trung Quốc và trƣớc đó là ở Mỹ Latinh.
Công trình ―American Diplomacy 1900 – 1950” (Ngoại giao Hoa Kỳ 1900 –
1950) (1951) của George F.Kennan là một công trình chuyên khảo riêng về nền ngoại
18
giao của nƣớc Mỹ trong nửa đầu thế kỷ XX. Công trình này đã đƣợc tái bản có bổ sung,
sửa chữa vào năm 1984 với tên gọi ―American Diplomacy” (Ngoại giao Hoa Kỳ). Trong
công trình này, dƣới góc nhìn của một học giả đồng thời là quan chức ngoại giao,
G.F.Kennan đã phân tích chính sách đối ngoại của Mỹ trong cuộc chiến với Tây Ban
Nha, chính sách Mở cửa (Open Door), nƣớc Mỹ với phƣơng Đông, nƣớc Mỹ với các
cuộc chiến tranh thế giới và nền ngoại giao của Mỹ trong thế giới hiện đại. Theo
G.F.Kennan, chính sách của Hoa Kỳ trong những năm bản lề từ 1898 đến 1920, giai
đoạn Hoa Kỳ trở thành một cƣờng quốc lớn trên thế giới, đã thƣờng xuyên đƣợc hình
thành bởi việc đặt nhầm sự tin tƣởng vào chủ nghĩa hợp pháp và đạo đức, hoặc chịu ảnh
hƣởng quá mức của các quốc gia khác – những quốc gia ở mức độ nào đó đã thao túng
các quan chức Washington. G.F.Kennan cho rằng, việc Hoa Kỳ trở thành một cƣờng
quốc quan trọng đối với châu Á trong những năm 1898 – 1900 không phải bởi vì Hoa
Kỳ nhận thức đƣợc những lợi ích thực sự của họ trong các vấn đề ở châu Á, mà là vì họ
bị các quan chức Anh lôi kéo để ủng hộ một chính sách “Mở cửa” nhằm tạo ra “một
sân chơi công bằng và không thiên vị” (John Hay) cho tất cả các quốc gia đang cạnh
tranh trong thị trƣờng Trung Quốc, chính sách này mang lại lợi ích cho nƣớc Anh chứ
không phải cho Hoa Kỳ. Mặc dù có những khác biệt về quan điểm và nhận định, song
những thông tin trong công trình này là nguồn tƣ liệu quan trọng, gợi mở cho luận án
nhiều vấn đề trong nghiên cứu về ngoại giao của Hoa Kỳ.
Cụm công trình “The History of American Foreign Policy” (1986) của Jerald
A.Comb; “Race, Federalism and Diplomacy: The Gentlemen’s Agreement A
Century Later” (2009) của Paul Finkelman; “The Pan – American Trademark
Convention of 1929: A Bold Vision of Extraterritorial Meets Current Realities”
(2013) của Christine H. Farley cũng ít nhiều đề cập đến chính sách đối ngoại tổng
thể của Hoa Kỳ cũng nhƣ các vấn đề cụ thể nhƣ Công ƣớc về nhãn hiệu hàng hóa
liên Mỹ năm 1929.
Không đề cập đến chính sách đối ngoại Mỹ một cách tổng thể nhƣ trên mà tập
trung nghiên cứu về từng mối quan hệ cụ thể giữa Mỹ với các nƣớc trên thế giới là một
nội dung quan trọng đƣợc nhiều tác giả quan tâm. Có thể nêu ra một số các công trình
tiêu biểu cho mảng đề tài này nhƣ: Trƣớc hết là cụm công trình về quan hệ giữa Mỹ và
Thái Lan nhƣ “Thai – American Relations” (Quan hệ Hoa Kỳ - Thái Lan) (1982) của
Hans H. Indorf; “The Eagle and the Elephant, Thai-American Relations Since 1833”
(Đại bàng và Voi, quan hệ Hoa Kỳ - Thái Lan từ năm 1833) (2009) của Đại sứ quán
19
Hoàng gia Thái Lan tại Washington D.C; Hai công trình này đã điểm qua mối quan hệ
giữa Thái Lan và Hoa Kỳ kể từ khi hai nƣớc ký kết Hiệp định Hữu nghị và Thương mại
1833). Đây là cơ sở quan trọng cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nƣớc và
cũng là hiệp ƣớc đầu tiên mà Hoa Kỳ ký với một nƣớc ở khu vực châu Á (trƣớc cả Nhật
Bản). Từ thời điểm này trở đi, quan hệ Mỹ - Thái tiếp tục phát triển với tƣ cách là đồng
minh của nhau, mặc dù trong lịch sử có những giai đoạn thăng trầm.
Tiếp theo, đối với quan hệ giữa Hoa Kỳ với các khu vực, các nƣớc khác, nhiều
công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nƣớc Mỹ đề cập nhƣ“United States
– China Normalization: An Evaluation of Foreign Policy Decision Making” (Bình
thƣờng hóa quan hệ Mỹ - Trung Quốc: Đánh giá về việc ra quyết định trong chính sách
đối ngoại) (1986) của Jaw – Ling Joanne Chang; “The Banana war: United States
Intervention in the Caribbean, 1898 – 1934” (Cuộc chiến tranh chuối: Sự can thiệp của
Mỹ ở vùng vịnh Caribbean, 1898 – 1934) (1983) của Lester.D.Langley; “The United
States and Viet Nam 1787 – 1941” (Hợp chúng quốc Mỹ và Việt Nam 1787 – 1941)
(1990) của Robert Hopkins Miller; “Gentlemen’s Agreement, 1908: Fragments for a
Pacific History” (Thỏa thuận của các quý ông, 1908: những mảnh vỡ cho lịch sử khu
vực Thái Bình Dƣơng) (2009) của Jordan Sand; “Cassell’s History of the Russo –
Japanese War” (Lịch sử cuộc chiến tranh Nga – Nhật) (2008) của Thƣ viện Trƣờng Đại
học Toronto, Canada… Các công trình kể trên mặc dù đề cập đến mối quan hệ của Hoa
Kỳ với từng nƣớc, khu vực riêng biệt, qua đó, chúng ta có thể thấy đƣợc chính sách cụ
thể của Hoa Kỳ đối với từng địa bàn cũng nhƣ những tác động đến các nƣớc chịu sự chi
phối của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, không phải công trình nào cũng giới
hạn vấn đề nghiên cứu theo thời gian và không gian nhƣ đề tài luận án đặt ra; hơn nữa
lại phản ánh quan điểm và nhận định của các tác giả nƣớc ngoài. Do vậy, việc kế thừa có
chọn lọc các công trình nói trên luôn đƣợc cân nhắc trong luận án.
1.3. Những tồn tại và vấn đề đặt ra cho luận án
Qua việc trình bày tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về chính sách đối
ngoại của Mỹ, có thể nhận thấy những tồn tại và vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung, cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ nói chung và trong thời kỳ từ sau
Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918) nói riêng đã đƣợc
giới nghiên cứu tại Mỹ và một số nƣớc khác rất quan tâm và đã đạt đƣợc những kết
quả đáng kể. Điều này cũng đồng nghĩa với sự phong phú về nội dung và đa dạng
20
trong phong cách thể hiện. Tuy nhiên, nhiều công trình trong số đó thiên về việc
nghiên cứu một cách khái quát, tổng thể chính sách đối ngoại qua nhiều giai đoạn
lịch sử hoặc về chính sách và quá trình thực thi chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối
với một vài nƣớc nhất định chứ chƣa đề cập nhiều đến giai đoạn 1865 – 1918 với tƣ
cách là một đối tƣợng riêng biệt.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài mặc dù rất phong phú, đa
dạng, song là ấn phẩm của các tác giả nƣớc ngoài, đặc biệt là các học giả ngƣời Mỹ,
do đó nó phản ánh quan điểm, cách thể hiện và cách nhìn nhận, đánh giá của giới
nghiên cứu ở các nƣớc đó. Vì vậy, việc kế thừa đòi hỏi phải có sự phê phán và chọn
lọc trong tiếp cận tƣ liệu nhằm đảm bảo độ tin cậy và khách quan trong nhìn nhận,
đánh giá vấn đề nghiên cứu.
Thứ ba, vấn đề chính sách đối ngoại và quan hệ ngoại giao của Mỹ đã đƣợc
nhiều học giả, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam quan tâm, chú ý nhiều hơn trong những
năm gần đây. Do vậy, số lƣợng công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ ngày càng nhiều hơn và toàn diện hơn về mặt nội dung. Đã có nhiều tuyển tập các
bài viết, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử và chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vấn đề chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết
thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918) vẫn chƣa đƣợc một công trình chuyên
khảo nào đề cập đến một cách đầy đủ và toàn diện. Các công trình có liên quan đến đề
tài mới chỉ dừng lại ở chỗ hoặc nghiên cứu một cách khái quát hoặc tập trung nghiên
cứu một vấn đề, một sự kiện hay lĩnh vực cụ thể trong chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ cũng nhƣ trong quan hệ giữa Mỹ với các nƣớc cụ thể.
Thứ tư, phản ánh chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời kỳ 1865 – 1918
đƣợc các tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm, song vẫn chƣa đánh giá một cách có
hệ thống về chính sách đối ngoại của Mỹ cũng nhƣ tác động của chính sách này đến
Mỹ và đến các nƣớc chịu sự chi phối chính sách từ Mỹ. Đây là một vấn đề nữa đặt ra
cho luận án và cần đƣợc nghiên cứu một cách thỏa đáng hơn.
Do vậy, kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu của các học giả đi
trƣớc, đây là nguồn tƣ liệu hết sức quan trọng, là sự thuận lợi lớn tạo cơ sở cho việc
tái hiện lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến
tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918) cũng nhƣ rút ra đƣợc những nhận định, đánh
giá về vấn đề đặt ra, góp phần vào việc nghiên cứu đề tài chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ ở Việt Nam.
21
CHƢƠNG 2.
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
TỪ SAU NỘI CHIẾN ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ NHẤT (1865 – 1918)
2.1. Khái quát quá trình hình thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
Hoa Kỳ hay Mỹ là một nhà nƣớc theo chế độ cộng hòa tổng thống, liên bang,
gồm 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang. Hoa Kỳ gần nhƣ nằm hoàn toàn ở Tây
bán cầu, trừ bang Hawaii nằm ở Thái Bình Dƣơng và bang Alaska nằm ở Tây Bắc
của lục địa Bắc Mỹ. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có 14 vùng lãnh thổ hải ngoại(1)
nằm rải
rác ở vịnh Caribbean và Thái Bình Dƣơng.
Lịch sử Hoa Kỳ tƣơng đối ngắn, mới chỉ trải qua 239 năm hình thành và phát
triển. Tuy một số vùng ở bờ biển phía Đông đƣợc các nhà thám hiểm Tây Ban Nha,
Anh, Pháp phát hiện từ cuối thế kỷ XV nhƣng quá trình khai phá chỉ thực sự bắt đầu
từ thế kỷ XVII.
Sau cuộc chiến tranh bảy năm (1756 – 1763) với thắng lợi nghiêng về phía
Anh, Pháp buộc phải ký Hiệp ƣớc Paris (10/2/1763). Qua hiệp ƣớc này, Pháp mất
toàn bộ phần thuộc địa ở lục địa Bắc Mỹ. Toàn bộ Canada và vùng đất nằm giữa
sông Mississippi và dãy Appalachia của Louisiana thuộc về Anh. Tây Ban Nha bị
Pháp lôi cuốn và cuộc chiến tranh đã không làm thay đổi gì nhiều trong tƣơng quan
lực lƣợng, hơn thế nữa lại mất Florida vào tay Anh. Để đền bù sự mất mát này, nƣớc
Pháp trao cho đồng minh của mình tất cả phần đất Louisiana nằm giữa sông
Mississippi và dãy Rocheuses, kể cả New Orleans. Cuộc chiến tranh bảy năm (1756
– 1763) kết thúc đã đƣa lại một cục diện mới trên vùng đất Bắc Mỹ: nƣớc Pháp
không còn mẫu đất nào trên lục địa Bắc Mỹ, một nƣớc Anh thắng trận và mạnh mẽ
cùng với một nƣớc Tây Ban Nha rất yếu [44; tr.67]. Cục diện ấy đã tạo điều kiện cho
nƣớc Anh thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa mẫu quốc với các thuộc địa trong việc
quản lý, kiểm soát, chi phối các thuộc địa Bắc Mỹ từ Nghị viện Anh.
Tuy nhiên, lịch sử đã từng chứng minh, hầu hết những ngƣời di cƣ từ châu Âu
sang sinh sống ở châu Mỹ là những ngƣời muốn thoát ly khỏi những ràng buộc và áp
(1)
Bao gồm: Samoa thuộc Mỹ, đảo Baker, đảo Howland, đảo Jarvis, đảo san hô Johnston, đá Kingman, đảo san
hô Midway, Guam, đảo Navssa, quần đảo Bắc Mariana, đảo san hô Palmyra, Puerto Rico, quần đảo Virgin
thuộc Mỹ và đảo Wake.
22
lực của xã hội cũ, muốn đƣợc tự do khai khẩn những vùng đất mới, tự do làm ăn,
kinh doanh. “Vốn đã có một thời gian dài với quy mô rộng lớn của nền tự trị, các
thuộc địa đang đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn, đặc biệt khi ở thời điểm này mối đe
dọa của người Pháp đã bị loại bỏ” [103; tr.60 - 61]. Nhằm đƣa một hệ thống mới
vào hoạt động và siết chặt sự kiểm soát, Nghị viện Anh đã phải tranh đấu với “các
thuộc địa đã được rèn luyện tính tự trị, tự quyết, và không chịu bất cứ sự can thiệp
gây trở ngại nào” [103; tr.61]. Chính phủ Anh hạn chế ngƣời định cƣ di chuyển đến
các vùng đất mới, hạn chế di trú và khẳng định việc mở rộng đất đai cho các thuộc
địa cần đƣợc thực hiện theo từng bƣớc. Tất cả các biện pháp đó đều nhằm đảm bảo
sự kiểm soát của Hoàng gia Anh đối với các khu vực định cƣ đang tồn tại trƣớc khi
cho phép lập các khu định cƣ mới. Năm 1763, Hoàng gia Anh ra tuyên bố đảm bảo
toàn bộ phía tây sông Mississippi, Florida và Quebec cho ngƣời Mỹ bản địa sử dụng.
Tuyên bố này nằm trong nỗ lực bãi bỏ tuyên bố sở hữu đất đai miền Tây của 13 bang
thuộc địa cũng nhƣ ngừng cuộc bành trƣớng sang phía Tây của ngƣời Mỹ. Tuy
không bao giờ đƣợc đem thi hành, nhƣng trong con mắt dân lập nghiệp ở thuộc địa,
biện pháp này “hàm chứa sự coi thường một cách chuyên chế đối với quyền sơ đẳng
của họ là chiếm và định cư tại các vùng đất miền Tây” [103; tr.61]. Những ngƣời
buôn da và lông thú, những chủ đầu cơ đất, những kiều dân cùng đƣờng đang hi
vọng một khoảnh đất, nay bị đạo luật khắc nghiệt của chính quốc ngăn trở, nên rất
bất mãn. Bên cạnh đó, vào năm 1764, các sắc luật mới về thuế đánh vào hàng nhập
cảng, về việc bắt buôn lậu, về thuế đƣờng nhập khẩu, cấm thuộc địa phát hành tiền
giấy (nhằm ngăn chặn không để tiền giấy đƣợc phát hành ở bất kỳ thuộc địa nào
thuộc chính quốc trở thành đồng tiền đƣợc công nhận chính thức) đã làm cho mâu
thuẫn giữa các thuộc địa với mẫu quốc Anh ngày càng trở nên gay gắt. Nhân dân Bắc
Mỹ ngày càng bất bình hơn khi Chính phủ Anh đặt ra Thuế tem (Stamp Act) đánh
vào các kiện hàng nhập khẩu, đụng chạm đến mọi hoạt động kinh doanh. Thêm vào
đó là Đạo luật cung cấp binh bị (The Quartering Act) thông qua năm 1765, trong đó
đòi hỏi các thuộc địa phải cung cấp thực phẩm, lều trại cho các đơn vị quân đội của
Anh (khoảng 10.000 quân) [47; tr.48].
Tất cả những điều trên đã dẫn tới mâu thuẫn không thể điều hòa đƣợc. Cuộc
đấu tranh chống lại chính sách của Anh của nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ tất yếu
sẽ xảy ra. Cuộc đấu tranh này ngoài ý nghĩa là một cuộc đấu tranh giành độc lập, nó
còn là cuộc đấu tranh của giai cấp tƣ sản bản xứ chống lại sự áp đặt của giai cấp tƣ
23
sản chính quốc. Tƣ sản bản xứ muốn phá vỡ những xiềng xích của chủ nghĩa thực
dân Anh bấy lâu nay kìm hãm sự phát triển, bành trƣớng của họ.
Sự kiện đƣợc xem nhƣ mở đƣờng cho Cách mạng Mỹ là sự kiện Boston
(12/1773), đánh dấu thời điểm chín muồi cho cách mạng. Khi chè Anh nhập vào Mỹ
giá hạ, ngƣời Mỹ tẩy chay vì ý thức bảo vệ quyền tự do độc lập. Tháng 12/1773, khi
ba chiếc tàu chở chè neo đậu tại cảng Boston, ngƣời Mỹ đã không cho dỡ hàng.
Trong đêm 16/12/1773, một nhóm ngƣời do Samuel Adams dẫn đầu, giả dạng làm
ngƣời da đỏ đã leo lên tàu, đổ toàn bộ 434 thùng chè trị giá 100.000 bảng Anh xuống
biển. Hành động này đƣợc ca ngợi ở các thuộc địa nhƣng chính quyền Anh đã áp
dụng hàng loạt đạo luật nhằm trừng trị nhân dân Bắc Mỹ. Điều đó đã làm cho mâu
thuẫn giữa chính quốc và các thuộc địa không những không giảm xuống mà còn bị
đẩy lên đỉnh điểm, và vấn đề giải quyết mâu thuẫn không thể chỉ bằng con đƣờng
hợp pháp, bằng kiến nghị mà phải bằng một cách thức kiên quyết hơn, đó là kết hợp
với đấu tranh vũ trang.
Trong bối cảnh ấy, từ 5/9 đến 26/10/1774, Hội nghị lục địa lần thứ I đƣợc
triệu tập trong tình trạng những ngƣời lãnh đạo phong trào cách mạng ở các bang cần
có một hội nghị để biểu lộ ý chí chung, bao gồm 56 đại biểu của 12 bang trừ bang
Georgia, họp tại Philadelphia. Đại hội lục địa lần thứ I đã đƣa ra 5 nghị quyết quan
trọng: 1) bác bỏ kế hoạch thống nhất các thuộc địa dƣới sự cai quản của Anh; 2) ủng
hộ việc đƣa ra một lời tuyên bố tƣơng đối vừa phải để bày tỏ sự bất bình của mình,
đó là “Tuyên ngôn về quyền và khiếu nại” (Declaration of Rights and Grievances),
trong đó công nhận Nghị viện có quyền điều tiết buôn bán của thuộc địa bằng cách
đề cập đến nhà vua nhƣ là “một đấng thiêng liêng nhân từ” nhƣng cần loại bỏ tất cả
hệ thống pháp lý áp bức do chính quốc ban hành từ sau năm 1763; 3) đại hội thông
qua hàng loạt nghị quyết do Hội nghị Massachussets đề xuất liên quan đến việc
chuẩn bị lực lƣợng đề phòng các cuộc tấn công của quân đội Anh tại Boston; 4) các
đại biểu thông qua nhiều biện pháp tẩy chay hàng hóa Anh nhằm chấm dứt tất cả các
hoạt động buôn bán với nƣớc Anh và thành lập một “Hiệp hội lục địa” nhằm đảm
bảo cho các thỏa thuận đƣợc thực hiện; và cuối cùng, 5) các đại biểu nhất trí sẽ họp
lại vào mùa xuân năm sau nếu nhƣ vào thời điểm đó các khiếu nại vẫn chƣa đƣợc
giải quyết [79; tr.12].
Đại hội thuộc địa lần thứ I đƣợc coi là diễn đàn dân tộc đầu tiên đƣợc tạo nên
của ngƣời dân Mỹ cách mạng, là ―một biểu tượng của độc lập và thống nhất của các
24
thuộc địa trong cuộc đấu tranh vì một mục tiêu chung” [47; tr.50]. Đáp lại, Quốc hội
Anh không đáp ứng một yêu cầu nào của Đại hội. Họ cho rằng quyền làm luật cho
thuộc địa là quyền của chính quốc. Chính phủ Anh còn ban hành nhiều đạo luật mới
nhƣ cấm các thuộc địa Bắc Mỹ buôn bán trực tiếp với các nƣớc khác, cấm ngƣ dân
thuộc địa đánh cá ven biển… Thái độ đó càng làm cho mâu thuẫn giữa các thuộc địa
với chính quốc ngày càng thêm gây gắt và chiến tranh tất yếu sẽ xảy ra. Trong thời
gian cuối năm 1774 đến đầu năm 1775, cả hai bên đều đẩy mạnh chuẩn bị chiến
tranh. Các kho vũ khí, lực lƣợng vũ trang… đƣợc nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ
hăng hái chuẩn bị, sẵn sàng tham gia cuộc chiến tranh tự vệ khi có hành động gây
chiến từ phía quân đội Anh. Ngày 19/4/1775, quân Anh do tƣớng Thomas Gage chỉ
huy tiến công kho vũ khí của nhân dân ở Lexington đã bị thiệt mạng hơn 200 lính.
Trận chiến Lexington đã tập hợp tất cả những ngƣời yêu nƣớc ở cả 13 thuộc địa Bắc
Mỹ, trở thành tác nhân khuyến khích nhân dân nổi dậy, là mốc khởi đầu đánh dấu sự
rạn nứt, không còn gắn bó với nhau giữa Anh và các thuộc địa nhƣ trƣớc.
Để giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh, Đại hội lục địa lần II đƣợc
triệu tập vào ngày 10/5/1775. Đại hội quyết định thành lập “Quân đội lục địa” và
bầu George Washington làm chỉ huy. Đại hội cũng kêu gọi nhân dân tự nguyện tham
gia đóng góp xây dựng quân đội. Tiếp theo đó, một Ủy ban để soạn thảo Tuyên ngôn
độc lập đƣợc thành lập bao gồm Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, John Adams,
trong đó Thomas Jefferson là ngƣời soạn thảo chính. Ngày 4/7/1776, Đại hội đã
thông qua bản Tuyên ngôn độc lập.
Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn là lời tuyên bố quyền tự do dân chủ tƣ sản
và khẳng định nền độc lập của các bang ở Bắc Mỹ. Bản Tuyên ngôn nêu rõ: ―Tất cả
mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền
không thể tước bỏ. Trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc‖ [47; tr.52]. Tuyên ngôn khẳng định chỉ có nhân dân mới có quyền
thiết lập chính quyền và hủy bỏ chính quyền khi nó đi ngƣợc lại quyền lợi của quần
chúng. Chính phủ đƣợc thành lập với mục đích bảo vệ “cuộc sống, quyền tự do và
thành quả của sự hạnh phúc” của ngƣời dân, và ―bất cứ khi nào một thể chế chính
quyền nào đó phá vỡ mục tiêu được nêu, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ
chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc
cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho nó có hiệu quả tốt
nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ” [31; tr.75].
25
Bản Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ra đời là một tiến bộ lớn
lao, ghi nhận những mong muốn dân chủ của quần chúng, đánh dấu sự thắng lợi của
cách mạng dân chủ tƣ sản gắn với mục đích giải phóng dân tộc. Tuy vậy, Tuyên ngôn
độc lập của Hoa Kỳ vẫn có những hạn chế nhất định, điểm đáng lƣu ý ở đây là vấn đề
nô lệ không đƣợc đề cập. Vào thời điểm này, đối với các nhà lãnh đạo cách mạng Mỹ,
nô lệ da đen chƣa phải là “người”.
Sau khi tuyên bố lập quốc, nhân dân Mỹ đã phải tiến hành đấu tranh giành độc
lập khá quyết liệt và gian khổ trong hoàn cảnh và điều kiện không thuận lợi. Chiến
tranh diễn ra trong thời gian 6 năm (1775 – 1781) với một số thất bại trong giai đoạn
đầu nhƣng cuối cùng kết thúc kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng Yorktown. Tại
đây, ngày 19/10/1781, 8000 binh lính Anh cùng tƣớng Charles Cornwallis đã phải
đầu hàng quân cách mạng. Năm 1783, Hiệp ƣớc Paris đƣợc ký kết, Anh buộc phải
công nhận độc lập của các thuộc địa và trao cho Hoa Kỳ toàn bộ miền Tây
Mississippi. Sau cuộc chiến tranh lâu dài và đầy gian khổ, nhân dân Mỹ đã giành
đƣợc độc lập mà họ mong muốn. Cách mạng Mỹ, nhƣ lời của cựu Tổng thống John
Adams(1)
, là “một cuộc cách mạng được thực hiện trước khi chiến tranh bắt đầu.
Cách mạng trong trái tim, khối óc của nhân dân” [103; tr.60]. Vì thế, cuộc cách
mạng đã huy động đƣợc sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
các luật sƣ thuộc tầng lớp thƣợng lƣu lại là lực lƣợng chủ yếu đứng đằng sau sự thay
đổi quyền lực. Cách mạng Mỹ đã mở đầu cho một trang sử mới, một quốc gia non trẻ
ra đời ở Bắc Mỹ, đó là Hợp chúng quốc Mỹ (The United States of America).
Nhƣ vậy, nƣớc Mỹ sau cách mạng là một quốc gia trẻ tuổi vừa mới ra đời vào
cuối thế kỷ XVIII, từng bƣớc mở rộng lãnh thổ về phía tây vào đầu thế kỷ XIX, trải
qua cuộc Nội chiến (1861 – 1865), ổn định tình hình trong nƣớc sau Nội chiến,…và
chƣa có vị thế trên thế giới. Điều đó đặt ra cho Hoa Kỳ một vấn đề đòi hỏi chính giới
Mỹ phải giải quyết, đó là việc tăng cƣờng phát triển kinh tế xã hội trong nƣớc, đồng
thời phải có chính sách đối ngoại phù hợp, khôn khéo để từng bƣớc giành lấy vị thế
(1)
John Adams (1735 – 1826), là Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ. Ông nắm quyền từ 4/3/1797 đến 4/3/1801.
Ông thuộc về thế hệ các vị “tổ phụ lập quốc” của nƣớc Mỹ và đƣợc Thomas Jefferson đánh giá là “Người
khổng lồ của nền độc lập” của Hoa Kỳ. John Adams cũng đồng thời là cha của John Quincy Adams – vị Tổng
thống thứ 6 của Hoa Kỳ.
26
của mình trên thế giới, khẳng định sức mạnh của Mỹ trong việc can dự ngày một sâu
rộng vào các vấn đề quốc tế trong các thế kỷ tiếp theo.
2.2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trƣớc năm 1865
Sau khi giành đƣợc độc lập, bên cạnh nhiệm vụ củng cố nền kinh tế trong
nƣớc, ổn định tình hình tài chính quốc gia, Hoa Kỳ luôn coi trọng các vấn đề liên
quan đến chính sách đối với thế giới bên ngoài. Hoa Kỳ đã từng bƣớc định hình
chính sách đối ngoại phù hợp với thực lực có đƣợc của quốc gia theo từng giai đoạn
cụ thể. Trong thời kỳ từ sau lập quốc đến trƣớc khi cuộc Nội chiến nổ ra (1865),
chính sách của Hoa Kỳ về mặt đối ngoại có thể đƣợc chia thành hai giai đoạn cụ thể
dƣới đây:
2.2.1. Giai đoạn 1776 – 1823
Sau khi giành đƣợc độc lập từ Anh, Hoa Kỳ phải đƣơng đầu với nhiều vấn đề
mà tất cả các nƣớc đều phải giải quyết đó là xây dựng và bảo vệ nhà nƣớc non trẻ
mới thành lập. Về góc độ đối ngoại, mục tiêu chính sách của Tổng thống
G.Washington là duy trì hòa bình, xây dựng một nƣớc Mỹ độc lập, trung lập với các
nƣớc châu Âu. Hoa Kỳ chủ trƣơng không liên minh hay ngả theo một bên nào hoặc
tham dự vào bất kỳ cuộc chiến tranh của bất kỳ một nƣớc châu Âu nào khởi xƣớng
nhằm tạo thời gian cần thiết để hàn gắn vết thƣơng chiến tranh và tiếp tục tiến trình
nhất thể hóa quốc gia dân tộc.
Mặc dù ở xa và biệt lập với châu Âu trên phƣơng diện địa lý song Hoa Kỳ
không thể tránh khỏi sự tác động của các biến động chính trị lớn xảy ra trên cựu lục
địa. Cách mạng Pháp (1789) ảnh hƣởng khá mạnh mẽ đến Hoa Kỳ nhất là khi nƣớc
Pháp tuyên chiến với Anh và Tây Ban Nha năm 1793. Ngoài Hiệp ƣớc Liên minh ký
với Pháp năm 1778, tƣ tƣởng cộng hòa cũng là một yếu tố gắn kết hai quốc gia lại
với nhau. Sự trợ giúp của Pháp đối với Mỹ trong khuôn khổ Hiệp ƣớc Liên minh
Pháp – Hoa Kỳ (1778) trong thời gian diễn ra chiến tranh giành độc lập là một sự
“ban ơn” mà ngƣời Mỹ không bao giờ trả hết. 6000 quân viễn chinh đƣợc Pháp cử
tới Hoa Kỳ (tháng 7/1780) và việc hạm đội Pháp đã quấy rối việc vận chuyển đƣờng
biển của quân Anh, ngăn cản lực lƣợng tăng viện và nguồn tái cung cấp của quân đội
Anh [103; tr.78] là sự giúp đỡ mà ngƣời Mỹ không đƣợc phép quên. Điều đó gần
nhƣ là một định mệnh gắn chặt Mỹ với Pháp trong các vấn đề quốc tế, mặc dù ở vài
vấn đề ngƣời Mỹ không ƣa gì ngƣời Pháp.
27
Bên cạnh mối quan hệ với Pháp, trong giai đoạn đầu sau lập quốc, nƣớc Mỹ
non trẻ cũng có mối quan hệ gắn bó với Anh. Ngoài sợi dây liên kết về lịch sử và văn
hóa, Hoa Kỳ và Anh còn là đối tác thƣơng mại quan trọng hàng đầu của nhau. Vào
thòi kỳ đó, hệ thống tài chính của Hoa Kỳ phụ thuộc nhiều vào thuế nhập khẩu và
nền kinh tế sẽ chịu ảnh hƣởng nếu nhƣ buôn bán với Anh bị ngƣng trệ. Vì vậy, cả
Tổng thống G.Washington lẫn Quốc hội đều cố gắng giữ đƣợc thái độ trung lập –
không liên kết trong các mối quan hệ. Do vậy, trung lập đƣợc lựa chọn nhƣ một ƣu
tiên hàng đầu cho chính sách đối ngoại trong thời kỳ non trẻ của Hoa Kỳ.
Trong bối cảnh ấy, chính sách của Tổng thống G.Washington là cố gắng
đƣơng đầu với mọi áp lực phải ngả sang phía Anh hoặc phải ngả sang phía Pháp.
Vào thời điểm ở Pháp diễn ra cuộc cách mạng dẫn tới việc Vua Louis XVI bị xử tử
tháng 1/1793, Anh, Tây Ban Nha và Hà Lan đã can dự vào cuộc chiến với nƣớc
Pháp. Theo Hiệp định Liên minh Pháp - Mỹ năm 1778, Hoa Kỳ và Pháp là những
đồng minh vĩnh viễn và nƣớc Mỹ có nghĩa vụ giúp nƣớc Pháp bảo vệ khu vực Tây
Ấn. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn là một nƣớc non yếu về quân sự và kinh tế, và do vậy
không có khả năng can dự vào một cuộc chiến tranh mới với các cƣờng quốc châu
Âu. Ngày 22/4/1793, Hoa Kỳ đã thành công trong việc hủy bỏ các điều khoản của
Hiệp định Liên minh 1778(1)
, bằng tuyên bố rằng Hoa Kỳ “thân thiện và công bằng,
không thiên vị với các cường quốc đang tham chiến” [8; tr.99]. Tổng thống
G.Washington cũng kêu gọi toàn thể nhân dân Mỹ kiềm chế, không hành động
ngƣợc lại lời tuyên bố đã đƣợc đƣa ra; đồng thời, cảnh báo rằng họ sẽ phải chịu tội
trƣớc tòa án nếu điều đó xảy ra vì tội “vi phạm luật quốc gia đã được tòa án của
Liên bang công nhận” [31; tr.96]. Đầu năm 1794, khi các tàu Mỹ tham gia buôn bán
ở các vùng Tây Ấn của Pháp bị Hải quân Hoàng gia Anh bắt giữ đã làm cho dƣ luận
(1)
Ngày 6/2/1778, Mỹ và Pháp đã ký Hiệp định Liên minh, trong đó Pháp công nhận nền độc lập hoàn toàn
của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hai bên cam kết sẽ không ký hòa ƣớc với Anh cho đến khi Anh công nhận nền
độc lập của 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ và mỗi nƣớc phải bảo đảm tài sản của phía bên kia ở Mỹ. Đồng thời,
Pháp sẽ gửi khí giới và quân đội để hỗ trợ Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh chống Anh giành độc lập. Theo đó,
một hạm đội của Pháp dƣới quyền chỉ huy của Hầu tƣớc Estainy chở một đội quân gồm 6000 ngƣời đƣợc huấn
luyện kỹ càng dƣới quyền điều khiển của Bá tƣớc Jeans De Rochambeau. Những ngƣời lính Pháp mới tiếp tục
gia nhập đạo quân này, trong đó có những tên tuổi nổi tiếng nhƣ: Bá tƣớc Lafayette, tƣớng Louis Duportail –
ngƣời thành lập đội quân công binh đầu tiên của quân đội Mỹ; thiếu tá Pierre I’Emfant – tác giả của đồ án
khổng lồ của Thủ đô Washington D.C [44; tr.110 – 111].
28
Hoa Kỳ căm tức cao độ. Tổng thống G.Washington đã cử John Jay - Chánh án tối
cao làm đại sứ tại London để thƣơng lƣợng. Mặc dù một số mục tiêu cơ bản đề ra
ban đầu không đạt đƣợc (hiệp ƣớc bảo đảm việc rút quân Anh ra khỏi các pháo đài
miền Tây và London hứa sẽ đền bù thiệt hại do việc Anh bắt giữ tàu và hàng hóa
Hoa Kỳ vào hai năm 1793 và 1794, nhƣng lại không cam kết sẽ không có các vụ bắt
giữ trong tƣơng lai. Hơn nữa, hiệp định đã không giải quyết vấn đề hết sức nhức nhối
là ngƣời Anh vẫn cƣỡng bức tòng quân các thủy thủ Hoa Kỳ tham gia lực lƣợng Hải
quân Anh, cản trở ghê gớm việc buôn bán của Hoa Kỳ với Tây Ấn. Tuy nhiên, do
cuộc thƣơng lƣợng kéo dài cũng đã tạo điều kiện cho Hoa Kỳ tránh đƣợc một cuộc
chiến tranh với Anh. Tháng 11/1794, Hiệp ƣớc Jay đƣợc ký kết, trong đó Anh cam
kết sẽ rút khỏi vùng Tây Bắc trƣớc ngày 1/6/1796. Ngày 24/6/1795, Thƣợng viện
Hoa Kỳ đã phê chuẩn Hiệp ƣớc. Hiệp ƣớc Jay cũng đã mở đƣờng cho việc giải quyết
mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha. Theo đó, Thomas Pinckney đã đàm phán
và ký với Tây Ban Nha Hiệp ƣớc San Lorenzo el Real vào tháng 10/1795. Theo đó,
Tây Ban Nha chấp nhận cho các tàu buôn của Hoa Kỳ đƣợc tự do đi lại và cập bến
bất kỳ cảng nào dọc theo sông Mississippi và quyền tiếp cận hải cảng New Orleans
để thực hiện việc xuất khẩu cũng nhƣ phân định biên giới giữa Hoa Kỳ và Florida
thuộc Tây Ban Nha ở vĩ tuyến 31 [11; tr.50].
Rõ ràng G.Washington và các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thời kỳ này đã có một
tầm nhìn xa trông rộng và những tính toán hợp lý. “Trung lập” là một chính sách
chiến lƣợc tối ƣu. Đối với một quốc gia còn non trẻ nhƣ Hoa Kỳ thời kỳ bấy giờ, hòa
bình là điều tối cần thiết cho sự tồn tại và ổn định của đất nƣớc cho dù phải chịu một
số nhƣợng bộ. Thỏa thuận đạt đƣợc với Anh tại vùng Tây Bắc là một thắng lợi quan
trọng và việc các tàu buôn của Hoa Kỳ tự do đi lại trên sông Mississippi đã góp phần
ngăn cản sự tấn công của ngƣời bản địa vào vùng biên giới phía Tây Bắc Hoa Kỳ.
Mặc dù luôn đề cao chính sách trung lập trong đối ngoại, song Hoa Kỳ luôn
vận dụng tài tình tính “trung lập” nhằm phục vụ tốt nhất cho lợi ích quốc gia. Điều
này đƣợc thể hiện khá rõ ràng trong việc mở rộng đất nƣớc về phía Tây trong giai
đoạn đầu sau lập quốc. Vào thời kỳ cuối của cuộc Chiến tranh bảy năm (1756 –
1763), nƣớc Pháp đã nhƣợng quyền cho Tây Ban Nha sở hữu vùng lãnh thổ phía tây
sông Mississippi và cảng New Orleans gần cửa sông này – một hải cảng rất cần thiết
cho việc vận chuyển của Hoa Kỳ bằng tàu từ thung lũng sông Ohio và Mississippi.
29
Ngay sau khi Thomas Jefferson(1)
trở thành tổng thống, Napoléon đã buộc Chính phủ
Tây Ban Nha phải nhƣợng quyền sở hữu dải đất mang tên Lousiana trở về cho Pháp.
Động thái này đã khiến cho ngƣời Mỹ rất căm phẫn bởi họ hiểu Napoléon muốn xây
dựng một đế chế thuộc địa bao la ở miền Tây Hoa Kỳ. Điều đó đe dọa trực tiếp đến
quyền lợi buôn bán và an ninh của các khu định cƣ nội địa Mỹ. Nếu Pháp chiếm
đƣợc quyền sở hữu miền Louisiana, Mỹ sẽ không cứng nhắc theo đuổi tính trung lập
trong đối ngoại.
Khi biết rằng một cuộc chiến tranh khác với Anh đang sắp xảy ra, Napoléon
đã quyết định bổ sung ngân sách và đặt Louisiana ra ngoài tầm với của ngƣời Anh
bằng cách đề nghị bán vùng đất này cho Hoa Kỳ. Mặc dù Hiến pháp không cho phép
quyền mua bán lãnh thổ, song Tổng thống T.Jefferson đã quyết định mua vùng đất
này với lập luận rằng “lương tri của đất nước chúng ta sẽ sửa đổi tội lỗi của một sự
giải thích không chặt chẽ khi sự giải thích ấy sẽ sản sinh ra những kết quả không
hoàn hảo” [103; tr.103].
Với giá 15 triệu USD, Hoa Kỳ đã có đƣợc “vật mua” Louisiana vào năm
1803. Miền đất này rộng hơn 2,6 triệu km2
và có cả cảng New Orleans. Việc mua bán
này đƣợc đánh giá rất cao, là “một thành công quan trọng nhất của chính quyền
T.Jefferson” nhƣ lời của William A. Degregorio trong “42 đời tổng thống Hoa Kỳ”.
Với 15 triệu USD (3 cent = một mẫu đất), Hoa Kỳ đã có đƣợc một vùng đất bao la
nằm giữa sông Mississippi và dãy núi Rockies, với những đồng bằng màu mỡ, những
dãy núi, những khu rừng và hệ thống sông ngòi mà sau này đã trở thành vùng đất
trung tâm của Hoa Kỳ và là vựa thóc lớn của nƣớc này. Vùng đất này bao gồm toàn
bộ diện tích hoặc một phần diện tích của các bang Louisiana, Arkansas, Missouri,
Iowa, Minnesota, North Dakota, South Dakota, Nebraska, Kansas, Oklahoma, Texas,
New Mexico, Colorado, Wyoming và Montana ngày nay.
(1)
Thomas Jefferson (1743 – 1826) là vị tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ sau G.Washington và John Adams.
Ông giữ cƣơng vị tổng thống của Hoa Kỳ trong hai nhiệm kỳ, từ năm 1801 đến năm 1809. Thomas Jefferson
đƣợc xem là một trong những vị “tổ phụ lập quốc” của Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập; là tác
giả của bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ trứ danh, của đạo luật Virginia về tự do tín ngƣỡng và là cha đẻ đồng thời
là hiệu trƣởng đầu tiên của Trƣờng Đại học Tổng hợp Virginia (thành lập năm 1825). Ông đƣợc bầu chọn là
một trong năm vị tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ vào năm 1962. [Nguồn: tổng hợp từ William A.
Degregorio, 42 đời tổng thống Hoa Kỳ, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1998].
30
Sự nhanh nhạy pha chút phiêu lƣu của những ngƣời di dân muốn đi tìm mảnh
đất mới để thi thố tài năng đã đem lại những giá trị vô cùng lớn cho Hoa Kỳ qua việc
mua bán này. Việc vùng đất Louisiana trở thành lãnh thổ không thể tách rời của Hoa
Kỳ nhƣ là một biểu tƣợng của sự nhạy bén, biết chớp lấy thời cơ, nắm bắt cơ hội và
tạo ra cơ hội trong chính sách đối ngoại Hoa Kỳ. Có thể nói việc tận dụng thành công
cơ hội mua Louisiana từ Pháp (khi Pháp đang còn vƣớng bận vào việc giải quyết
những mâu thuẫn với Anh), đã mở đầu cho một truyền thống, đó là tính thực dụng và
chủ nghĩa cơ hội trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Đặc điểm này luôn thể hiện
rõ và xuyên suốt trong tiến trình vƣơn đến quyền lực thế giới của nƣớc Mỹ.
Tính trung lập cũng đƣợc ngƣời Mỹ khai thác thành công, phục vụ cho sự
phát triển kinh tế và tăng khả năng quốc phòng của quốc gia non trẻ này. Khi Anh và
Pháp tranh giành nhau vị trí bá quyền trên lục địa và trên biển vào những năm đầu
thế kỷ XIX (thời điểm Pháp tiến hành chiến tranh giành quyền bá chủ ở châu Âu),
Hoa Kỳ đã giành đƣợc nhiều mối lợi lớn. Tàu buôn của Hoa Kỳ với tƣ cách “trung
lập” có thể tiếp cập đến mọi cảng, nhờ phục vụ cho cả Anh lẫn Pháp, Hoa Kỳ thu
đƣợc những khoản lợi nhuận khá lớn. Khi Anh và Pháp bận rộn với xung đột và mâu
thuẫn, Hoa Kỳ đã kịp phát triển đƣợc một đội hàng hải mạnh. Trong khoảng thời
gian từ năm 1789 đến năm 1805, khả năng vận tải của các thƣơng thuyền của Hoa
Kỳ đã tăng từ 100.000 tấn lên 1.000.000 tấn [31; tr.96]. Điều đó tất yếu làm cho
ngƣời Anh không hài lòng, bởi lẽ, việc mở rộng các đội thƣơng thuyền sẽ tạo điều
kiện cho Hoa Kỳ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp về thƣơng thuyền và chiến
thuyền của Anh trong tƣơng lai.
Quan điểm trung lập, không liên kết trong chính sách đối ngoại giai đoạn đầu
của Hoa Kỳ đã đƣợc đúc kết trong bài diễn văn mãn chức nổi tiếng của Tổng thống
G.Washington. Qua kinh nghiệm hai nhiệm kỳ là ngƣời đứng đầu lãnh đạo đất nƣớc,
Washington khuyến cáo rằng không nên có bất kỳ sự can thiệp nào có thể gây tổn hại
đến lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ, rằng Hoa Kỳ nên tiếp tục đứng ngoài các cuộc
chiến tranh ở châu Âu. Theo Washington, “Châu Âu có hàng loạt các lợi ích hàng
đầu chẳng liên quan gì đến chúng ta, hoặc liên quan rất ít, vì vậy chính sách của
chúng ta là tránh càng xa càng tốt các mối liên hệ liên minh luẩn quẩn (entangling
alliance) với bất kỳ bộ phận nào trong thế giới tự do, thân hữu với mọi dân tộc
nhưng không liên minh theo cách chặt chẽ với một dân tộc nào…” [31; tr.100 - 101].
Tổng thống G.Washington mặc dù không đề cập đích danh đến Anh và Pháp, nhƣng
31
chắc chắn rằng trong ẩn ý của ông không ai khác chính là hai quốc gia nói trên. Quan
điểm trung lập của ông cũng chính là thái độ, là sự lựa chọn chi phối chính sách đối
với thế giới bên ngoài của các chính quyền Hoa Kỳ sau này, kể cả khi đất nƣớc này
thực sự vƣơn đến quyền lực hùng mạnh trên thế giới. Tuy nhiên, cùng với thời gian
và sự lớn mạnh về mọi mặt, chính sách biệt lập trong các vấn đề về đối ngoại của
Hoa Kỳ đã không còn gói gọn trong phạm vi nƣớc Mỹ mà dần mở rộng ra khu vực
xung quanh, đến tầm châu lục, xuyên châu lục – đó chính là tính biệt lập trong giới
hạn Mỹ!
2.2.2. Giai đoạn 1823 – 1864
Nhƣ đã đề cập, khi Hoa Kỳ đã dần dần lớn mạnh, chính sách biệt lập trong đối
ngoại không còn đơn thuần nhƣ giai đoạn đầu sau lập quốc mà nó đã có sự thay đổi
căn bản. Trong giai đoạn từ năm 1823 cho đến khi Nội chiến nổ ra, bên cạnh việc sử
dụng nhiều công cụ, biện pháp nhằm bành trƣớng lãnh thổ sang phía Tây theo thuyết
“Định mệnh hiển nhiên”, Hoa Kỳ đã bắt đầu nhìn ra xa hơn các vùng đất xa xôi ở
Mỹ Latinh – nơi các nhà nƣớc non trẻ vừa mới ra đời sau khi giành đƣợc độc lập từ
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, đánh dấu mốc khởi đầu trong việc tham gia tích cực vào
các công việc của thế giới và từng bƣớc khẳng định sức mạnh cũng nhƣ ảnh hƣởng
của Mỹ ra bên ngoài.
a. Chính sách đối ngoại trong việc mở rộng vùng Viễn Tây
Miền Tây là một vùng đất giàu có và trù phú, là nơi chứa đựng nhiều của cải
để tạo dựng nên cuộc sống của ngƣời dân Mỹ. Với quan điểm bành trƣớng là “định
mệnh hiển nhiên” (Manifest Destiny), nhà sử học Richard Hofstadter đã bình luận
rằng “Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đã bắt đầu với sự hoàn thiện và đã có tham vọng
tiến bộ” [42; tr.40]. Theo đó, tiến bộ có nghĩa là phát triển chủ nghĩa biệt lập trên
khắp lục địa và sau đó là trên khắp thế giới. Chủ nghĩa bành trƣớng này thƣờng đƣợc
nhắc đến dƣới tên “sứ mệnh khai hóa văn minh” cho ngƣời bản địa của Hoa Kỳ.
Bƣớc đầu tiên cho tiến trình bành trƣớng là việc Hoa Kỳ khẳng định chủ
quyền đến tận bờ biển Thái Bình Dƣơng trên lục địa Bắc Mỹ. Vào năm 1819, John
Quincy Adams – Bộ trƣởng Ngoại giao dƣới thời Tổng thống James Monroe đã cho
rằng: “Hoa Kỳ và Bắc Mỹ đồng nhất với nhau về yếu tố địa lý”. Năm 1821, Ngoại
trƣởng John Q. Adams tiếp tục cảnh báo tới Bộ trƣởng Ngoại giao Anh rằng “Thật là
vô nghĩa khi cãi nhau với chúng tôi về lãnh thổ Bắc Mỹ”. Khi Bộ trƣởng Ngoại giao
Anh hỏi là lục địa này có bao gồm Canada hay không, J.Q.Adams đã miễn cƣỡng trả
32
lời: “Hãy giữ lấy cái gì là của các ngài, nhưng hãy để lại phần còn lại của lục địa
này cho chúng tôi” [42; tr.41], tức là bao gồm những phần đất do Nga và Tây Ban
Nha kiểm soát.
Kế thừa thành quả của các thƣơng vụ đất đai trƣớc đây (nhƣ thƣơng vụ
Louisiana với giá 15 triệu USD, năm 1803), Hoa Kỳ đã tiến xa hơn với chính sách
ngoại giao điền thổ của mình. Vào năm 1819, để trả công cho việc đoạt đƣợc những
quyền khai khẩn của công dân Mỹ với trị giá 5 triệu USD, Hoa Kỳ đã giành đƣợc từ
Tây Ban Nha cả vùng Florida lẫn quyền sở hữu của Tây Ban Nha ở khu vực Oregon
thuộc miền Viễn Tây. Những trao đổi này đƣợc biết đến nhƣ những điều khoản trong
Hiệp ƣớc Adams – Onis (1819). Theo hiệp ƣớc này, Tây Ban Nha sẽ nhƣợng lại
Florida cho Hoa Kỳ. Phía Hoa Kỳ đồng ý nhận về mình việc bồi thƣờng thiệt hại trị
giá khoảng 5 triệu USD mà các công dân Mỹ đã kiện phía Tây Ban Nha. Hiệp định
còn ấn định ranh giới phía Tây Nam giữa Hoa Kỳ và vùng lãnh thổ mà Tây Ban Nha
kiểm soát dọc theo sông Sabine(1)
. Tây Ban Nha cũng từ bỏ yêu sách đòi vùng
Oregon [11; tr.191].
Tiếp tục chính sách bành trƣớng về phía Tây, trong suốt thập niên 1820, ngƣời
dân Hoa Kỳ đƣợc chính quyền khuyến khích định cƣ ở vùng lãnh thổ bao la của bang
Texas ngày nay, lúc bấy giờ đang thuộc quyền sở hữu của Mexico. Đây là một tính
toán khôn ngoan và không kém phần lợi hại của Hoa Kỳ. Với chính sách khuyến
khích ngƣời dân định cƣ ngày càng nhiều vào những vùng đất thuộc chủ quyền của
nƣớc khác song mức độ quản lý còn yếu hoặc ở những vùng đất đang tranh chấp,
Hoa Kỳ sẽ có những lý do chính đáng để mở rộng lãnh thổ quốc gia. Trƣờng hợp
Texas là một ví dụ điển hình cho nhận định này. Con số đông đảo những ngƣời định
cƣ chẳng bao lâu đã khiến Chính phủ Mexico lo sợ, vì vậy vào năm 1830, Mexico
cấm việc tiếp tục nhập cƣ từ Mỹ. Năm 1834, tƣớng Antonio Lopez de Santa Anna đã
thiết lập chế độ độc tài ở Mexico, và vào năm sau đó (1834) ngƣời Texas đã khởi
nghĩa và giành đƣợc thắng lợi vào năm 1836. Trong suốt gần 10 năm, Texas là một
nƣớc cộng hòa độc lập và trở thành bang thứ 28 của Hoa Kỳ vào năm 1845.
Việc gia nhập liên bang của Texas cũng là một cơ hội cho chính sách bành
trƣớng mạnh mẽ về phía Tây của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã lợi dụng những tranh chấp về
biên giới lãnh thổ giữa Texas và Mexico: Texas tuyên bố biên giới là sông Rio
(1)
Sông Sabine ngày nay thuộc tiểu bang Texas, đây cũng là ranh giới tự nhiên giữa Texas và Louisiana.
33
Grande, Mexico lại cho rằng biên giới ở xa trên phía Bắc, dọc sông Nueces(1)
. Trong
khi đó, những ngƣời định cƣ đã tràn ngập lãnh thổ vùng New Mexico và California,
đúng vào lúc “nhiều người Mỹ tuyên bố rằng Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có “số phận
hiển nhiên không thể tranh cãi” là được mở rộng về phía tây cho tới Thái Bình
Dương” [8; tr.68]. Đồng thời, sau khi những nỗ lực, cố gắng nhằm mua lại vùng lãnh
thổ New Mexico và California đã thất bại, nhất là sau các cuộc đụng độ giữa binh
lính Mexico và lính Hoa Kỳ dọc sông Rio Grande, Hoa Kỳ đã thay đổi sách lƣợc
bằng cách tuyên chiến với Mexico vào năm 1846.
Lực lƣợng quân đội Hoa Kỳ đã bao vây vùng lãnh thổ New Mexico, sau đó
ủng hộ cuộc nổi dậy của dân định cƣ ở California. Một lực lƣợng quân đội Hoa Kỳ
do tƣớng Zachary Taylor chỉ huy đã tấn công Mexico, giành nhiều thắng lợi ở
Monterey và Buena Vista nhƣng thất bại trong việc đƣa Mexico tới bàn thƣơng
lƣợng. Tháng 3/1847, quân đội Hoa Kỳ do Winfield Scoft chỉ huy đã đổ bộ lên bờ
biển phía Đông Mexico rồi tiến vào Mexico City (9/1847).
Sự thất bại của Mexico đã dẫn tới việc ký kết Hiệp định Guadalupe Hidalgo
vào tháng 2/1848. Hiệp định này quy định: (1) biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico
đƣợc ấn định ở sông Rio Grande; Mexico phải từ bỏ tất cả những vùng mà ngày nay
là một phần hoặc toàn bộ diện tích các bang California, Nevada, Utah, Wyoming,
Colorado, Texas, New Mexico và Arizona; (2) Ngƣời Mexico sống trên các vùng đất
bị chiếm đƣợc tự do lƣu lại hoặc trở về Mexico bất cứ lúc nào họ muốn mà không bị
mất mát gì về nhân thân hay tài sản; (3) Hoa Kỳ phải trả cho Mexico 15 triệu USD
để đổi lấy vùng đất chiếm đƣợc; (4) Phía Hoa Kỳ đồng ý giải quyết mọi khiếu nại đòi
bồi thƣờng của ngƣời Mỹ đối với Chính phủ Mexico, khoản tiền này lên tới trên 3
triệu USD [11; tr.348 - 349].
Với kết quả này, Hoa Kỳ đã thu đƣợc một vùng lãnh thổ rộng lớn với hơn
1,36 triệu km2. Đây là vùng đất đƣợc mở rộng lớn nhất kể từ khi Mỹ mua vùng
Louisiana của Pháp năm 1803. Còn Mexico thì bị mất một nửa diện tích đất nƣớc
thông qua cuộc chiến tranh này.
Nhƣ vậy, chính sách ngoại giao điền thổ để mở rộng lãnh thổ đã đƣợc các
Chính phủ Hoa Kỳ sử dụng thƣờng xuyên bên cạnh các công cụ khác nhƣ khuyến
khích di dân, sử dụng sức mạnh quân đội để bành trƣớng lãnh thổ về phía Tây cho
đến giáp với Thái Bình Dƣơng và xa hơn. Đồng hành với quá trình bành trƣớng lãnh
(1)
Sông Nueces bắt nguồn từ Tây Bắc bang Texas và đổ ra vịnh Mexico.
34
thổ Bắc Mỹ, Hoa Kỳ cũng đã bắt đầu nhìn ra thế giới mà trƣớc hết là ở khu vực Mỹ
Latinh một khi sức mạnh của quốc gia này tăng lên tƣơng ứng nhằm tăng cƣờng ảnh
hƣởng và vị thế ở khu vực láng giềng có tầm quan trọng chiến lƣợc với Hoa Kỳ.
b. Học thuyết Monroe với khu vực Mỹ Latinh
Vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX, vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ đã
hƣớng về cách mạng. Cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ
đã thổi những luồng tƣ tƣởng tự do làm khuấy động nhân dân Mỹ Latinh; thêm vào
đó, cuộc chinh phục Tây Ban Nha của Napoléon năm 1808 đã trở thành tín hiệu cho
ngƣời dân khu vực Mỹ Latinh vùng lên khởi nghĩa giành lấy độc lập tự do. Trong
vòng 20 năm đầu của thế kỷ XIX, dƣới sự lãnh đạo của các anh hùng dân tộc Mỹ
Latinh nhƣ Simon Bolivar, Francisco Miranda, José De San Martin… tất cả các vùng
đất nói tiếng Tây Ban Nha từ Argentina và Chile ở miền Nam tới Mexico và
California ở miền Bắc đều đã giành đƣợc độc lập.
Ngay sau khi các quốc gia Mỹ Latinh tuyên bố độc lập, Hoa Kỳ đã nhanh
chóng công nhận các nƣớc này. Sự công nhận của Hoa Kỳ đã khẳng định một niềm
tin nơi họ với tƣ cách là một quốc gia độc lập thực sự đã đƣợc tách hoàn toàn khỏi
những ràng buộc trƣớc kia với châu Âu.
Trƣớc nguy cơ Tây Ban Nha có thể giành giật lại các thuộc địa cũ của họ ở
Mỹ Latinh và Nga có thể sẽ mở rộng quyền khai thác của Nga tại Alaska sang cả
vùng Oregon, ngƣời Mỹ bắt đầu lo lắng cho tham vọng của họ. Thêm vào đó, nƣớc
Anh cũng tiến hành nhiều hoạt động nhằm ngăn ngừa Tây Ban Nha khôi phục lại đế
quốc của nó, bởi lẽ, lợi ích thƣơng mại ở Mỹ Latinh là quan trọng đối với các quyền
lợi của Anh. Lợi ích thƣơng mại của Anh sẽ đƣợc đảm bảo tốt hơn nếu Mỹ Latinh
giành đƣợc độc lập nên Anh đã đề nghị Hoa Kỳ ra thông cáo chung. Tuy nhiên, Hoa
Kỳ đã phản ứng trƣớc sự biến đổi của tình hình Mỹ Latinh bằng một chính sách rất
rõ ràng. Bộ trƣởng Ngoại giao John.Q.Adams đã thuyết phục Tổng thống James
Monroe ra một tuyên bố riêng, với lập luận rằng “sẽ là ngay thẳng chân thật hơn,
cũng như đường hoàng hơn khi ta tuyên bố những nguyên tắc của chúng ta một cách
rõ ràng với Nga và Pháp so với việc bước lên một con thuyền nhỏ chạy theo chiếc
tàu chiến của Anh”[103; tr.129]. Vào tháng 12/1823, khi biết rằng hải quân Anh sẽ
bảo vệ Mỹ Latinh chống lại Liên minh thần thánh (Holy Alliance – do Nga, Áo, Phổ
lập nên, sau có thêm Pháp tham gia), Tổng thống James Monroe trong thông điệp
hàng năm gửi Quốc hội Hoa Kỳ đã công bố những điều mà sau này trở thành những
35
luận điểm của học thuyết ngoại giao nổi tiếng – Học thuyết Monroe (Monroe
Doctrine), với nội dung:
1. Các lục địa châu Mỹ từ nay trở đi không thể đƣợc coi là đối tƣợng cho việc
thực dân hóa trong tƣơng lai do bất cứ một cƣờng quốc châu Âu nào tiến
hành.
2. Chúng ta (Hoa Kỳ) phải coi bất kỳ toan tính nào về phần họ (các cƣờng
quốc châu Âu) nhằm mở rộng hệ thống (chính trị) của họ tới bất cứ bộ phận
nào của bán cầu này là nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh của Hoa Kỳ.
3. Chúng ta (Hoa Kỳ) đã không can thiệp và sẽ không can thiệp vào những
thuộc địa hay các xứ phụ thuộc nào của bất cứ cƣờng quốc châu Âu nào hiện
đang tồn tại. Nhƣng với những chính phủ đã tuyên bố nền độc lập của mình và
bảo vệ nền độc lập ấy, và đƣợc chúng ta thừa nhận thì Hoa Kỳ phải coi bất cứ
một sự can thiệp nào nhằm mục đích áp chế họ hay kiểm soát số phận của họ
bằng bất kỳ phƣơng thức nào do bất kỳ cƣờng quốc châu Âu nào thực hiện là
một khuynh hƣớng thù nghịch với Hoa Kỳ.
Với những lập luận nói trên, Học thuyết Monroe đƣợc đánh giá rất cao trong
lịch sử ngoại giao Hoa Kỳ. Với luận thuyết của mình, J.Monroe ―đã đặt nền tảng cho
chính sách ngoại giao của Mỹ trong khoảng thời gian còn lại của thế kỷ XIX”
[11;193]. Học thuyết đã đánh dấu một bƣớc phát triển vƣợt trội trong chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ. Với Học thuyết Monroe, Hoa Kỳ lần đầu tiên khẳng định quyền
lực của đất nƣớc này ra khỏi phạm vi quốc gia, mở rộng ảnh hƣởng xuống các nƣớc
láng giềng phƣơng Nam, nơi phản ánh lợi ích của Hoa Kỳ trong suốt phần còn lại
của thế kỷ XIX và xa hơn. Học thuyết này là nền tảng không chỉ của Hệ luận
Roosevelt (1905) – khẳng định rằng, nghĩa vụ của Hoa Kỳ là phải chứng tỏ hiệu lực
của Học thuyết Monroe, mà còn là sự tiếp nối của Chính sách “Láng giềng thân
thiện” của Tổng thống F.D.Roosevelt (những năm 30 của thế kỷ XX).
Với Học thuyết Monroe, Hoa Kỳ lần đầu tiên thể hiện một cách dứt khoát,
mạnh mẽ và hiệu quả chính sách đối ngoại của họ đối với các quốc gia liên quan
cũng nhƣ các nƣớc trong khu vực Mỹ Latinh. Trƣớc hết, Học thuyết Monroe ra đời
trong thời điểm nƣớc Nga đang tìm cách mở rộng ảnh hƣởng sang bờ biển Thái Bình
Dƣơng (đặc biệt là những tham vọng ở vùng Oregon) và các nƣớc châu Âu đang ủng
hộ Tây Ban Nha khôi phục địa vị thống trị đối với các nƣớc Mỹ Latinh, cho nên nó
chính là “một học thuyết mang tính chất phòng vệ”. Quan điểm của Hoa Kỳ trong
36
vấn đề này là các nƣớc Mỹ Latinh có quyền tự quyết, họ đã tuyên bố độc lập và duy
trì đƣợc nền độc lập thì không có một nƣớc nào có quyền can thiệp vào công việc
của các nƣớc đó. Đổi lại, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào công việc của các nƣớc
châu Âu, nhất là của Liên minh thần thánh, khi các hoạt động ấy không diễn ra trên
đất châu Mỹ.
Với khẩu hiệu “châu Mỹ của người châu Mỹ”, Học thuyết Monroe đã chứng
tỏ Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm và vƣơn đến những tranh chấp ở khu vực Mỹ Latinh –
nơi mà trƣớc đó không lâu Hoa Kỳ không cho là vấn đề của họ. Trên cơ sở đó, Hoa
Kỳ đã thực thi những chính sách tham gia một cách tích cực vào các cuộc tranh chấp
kinh tế, chính trị ở khu vực Mỹ Latinh. Bằng chứng cho vấn đề này là vào năm 1825,
Hoa Kỳ cho quân chiếm đóng đảo Puerto Rico, là hòn đảo mà Hoa Kỳ cho rằng nó là
một phần phụ thuộc thiên nhiên vào lục địa Bắc Mỹ. Cũng trong năm này, Hoa Kỳ
yêu cầu Colombia cho phép Hoa Kỳ đƣợc thông thƣơng qua eo đất Panama. Đến
năm 1846, Hoa kỳ đã ký với Colombia một hiệp ƣớc cho phép Hoa Kỳ đƣợc hƣởng
nhiều quyền lợi thƣơng mại, quyền tự do vận chuyển qua eo đất Panama và quyền
đƣợc đặt xe lửa qua Panama. Để đổi lại, Hoa Kỳ sẽ đảm bảo chủ quyền của
Colombia và tính chất trung lập của Panama.
Học thuyết Monroe đã cụ thể hóa một bƣớc chủ nghĩa biệt lập trong chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, phạm vi của sự biệt lập gắn liền với tiềm lực quốc gia.
Nếu nhƣ vào giai đoạn trƣớc đây, khi Hoa Kỳ vừa mới đƣợc thành lập, chủ trƣơng
trung lập trong đối ngoại đã giúp Hoa Kỳ tránh đƣợc các cuộc chiến tranh với bên
ngoài. Hoa Kỳ đã tận dụng thời gian hòa bình, vận dụng sáng tạo tính trung lập để
xây dựng đất nƣớc, phát triển kinh tế, thƣơng mại, xây dựng quân đội, phát triển các
đội thƣơng thuyền và cả hải quân, đồng thời mở rộng lãnh thổ quốc gia xa hơn nữa
về phía Tây. Khi đã có một tiềm lực quốc gia nhất định, Hoa Kỳ tiếp tục đẩy mạnh
tính biệt lập lên một tầm cao mới, không còn giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Bắc
Mỹ mà giờ đây là không gian chung toàn châu Mỹ bằng Học thuyết Monroe. Nhƣ
vậy, biệt lập trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ không chỉ gói gọn trong phạm vi
nƣớc Mỹ mà còn là sự mở rộng ra bên ngoài trong phạm vi quyền lực mà Hoa Kỳ
xác lập đƣợc dựa trên cơ sở sức mạnh quốc gia và cơ hội lịch sử đƣa lại. Đây cũng
chính là đặc điểm nhất quán và xuyên suốt trong quá trình vƣơn đến quyền lực thế
giới của Hoa Kỳ trong các giai đoạn lịch sử tiếp sau.
37
Ở một bình diện khác, Học thuyết Monroe, dù muốn hay không cũng đã đƣa
lại một sự đảm bảo nhất định cho nền độc lập của các quốc gia non trẻ vừa mới thoát
khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha. Trong bối cảnh yếu kém của các quốc
gia vừa thoát ra khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, sự cam kết bảo vệ nền độc
lập, ngăn chặn việc tái thiếp lập hệ thống thuộc địa ở đây của Tây Ban Nha là một
nguồn cổ vũ, động viên rất lớn cho nền độc lập của các quốc gia Mỹ Latinh non trẻ.
Tuy nhiên, lịch sử Mỹ Latinh thực ra “là lịch sử của một chuỗi dài những cuộc can
thiệp quân sự của Mỹ thường là với duyên cớ an ninh” [42; tr.41]. Cuộc đổ bộ của
quân đội viễn chinh Hoa Kỳ lên đảo Puerto Rico một năm sau tuyên bố của
J.Monroe, cuộc chiến tranh với Mexico (1846 – 1848) kết thúc bằng Hiệp ƣớc
Guadalupe Hildago (1848) đã cắt mất một nửa lãnh thổ của Mexico là những minh
chứng cho sự thật lịch sử này.
Nhƣ vậy, với học thuyết của mình, James Monroe đã “đem không gian của
chủ nghĩa cô lập kéo dài ra toàn châu Mỹ, và từ lý luận trên đã phát triển thành sự
lựa chọn ngoại giao của nước Mỹ từ ngày lập quốc tới nay” [18; tr.48].
Tóm lại, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ sau lập quốc đến trƣớc Nội
chiến thực chất là chính sách biệt lập – hay chủ nghĩa biệt lập – trong ngôi nhà Bắc
Mỹ và rộng hơn là toàn bộ châu Mỹ khi có điều kiện. Hoa Kỳ đã dồn hết tâm sức của
đất nƣớc để mở rộng hơn nữa lãnh thổ về phía tây, bành trƣớng đƣợc ngƣời Mỹ xem
nhƣ là một “định mệnh hiển nhiên”. Đây là một trong những luận thuyết đƣợc ngƣời
Mỹ vận dụng và lợi dụng triệt để nhằm bành trƣớng, tìm kiếm vai trò bá chủ thế giới
của Hoa Kỳ trong quá trình phát triển những năm sau này. Hoa Kỳ đã “mở rộng ngôi
nhà của mình một cách không ngượng ngùng và cũng không hối hận, những cuộc
chinh phục lãnh thổ của nó là một sự bành trướng, trong khi những cuộc chinh phục
trên biển của các nước khác thì lại là những cuộc chinh phục thuộc địa kinh khủng”
[2; tr.707]. Song hành với quá trình mở rộng lãnh thổ, khi điều kiện cho phép, Hoa
Kỳ đã mở rộng không gian của chủ nghĩa biệt lập ra toàn bộ châu Mỹ bằng Học
thuyết Monroe và các hành động can thiệp đi kèm sau đó. Tất cả những điều đó đã
thúc đẩy hơn nữa tham vọng bành trƣớng và gia tăng ảnh hƣởng của Hoa Kỳ ra các
khu vực xung quanh rộng lớn hơn, nhất là sau khi đất nƣớc này hoàn tất việc giải
quyết các vấn đề đối nội sau Nội chiến.
38
2.3. Bối cảnh quốc tế nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Thời kỳ 1865 – 1918 là một chuỗi dài thời gian mà thế giới có nhiều biến
động hết sức đa dạng và phức tạp. Hoa Kỳ cũng không thể đứng ngoài những biến
động ấy, thậm chí, trong từng thời điểm, Hoa Kỳ chính là nhân tố vừa tạo ra những
biến động đó, vừa chi phối và tác động đến quan hệ quốc tế trong giai đoạn này.
Những sự kiện xảy ra trên thế giới từ khi kết thúc cuộc Nội chiến ở Hoa Kỳ đến kết
thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tác động mạnh mẽ tới chính sách và chiến lƣợc
đối ngoại của Hoa Kỳ đối với các khu vực xung quanh mà trƣớc hết là ở Mỹ Latinh
và CA-TBD.
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, thế giới chứng kiến sự
chuyển biến của các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa (TBCN) sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa (ĐQCN). Cùng với đó là sự thống nhất của Đức, Italia; Nhật Bản với sự thành
công của Minh Trị Duy Tân và các cuộc chiến tranh nổ ra để giành giật thị trƣờng và
thuộc địa. Trên cơ sở đó, nhiều hiệp ƣớc đƣợc ký kết giữa các nƣớc đế quốc với nhau
nhằm phân chia và tranh giành quyền lợi làm cho thế giới trong nửa sau thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX luôn diễn biến phức tạp và khó lƣờng. Tình hình đó vừa tạo ra
những thuận lợi lẫn những trở ngại trên con đƣờng thực hiện tham vọng mở rộng ảnh
hƣởng và địa vị của Hoa Kỳ.
Ở châu Âu, sau thời kỳ phát triển hoàng kim với vị thế “công xưởng thế
giới”, “ngân hàng của thế giới”, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nếu so sánh
với các nƣớc khác, đặc biệt là với Hoa Kỳ và Đức, tốc độ tăng trƣởng của nƣớc Anh
tiếp tục chậm lại. Mặc dù vẫn còn có ảnh hƣởng trên toàn thế giới nhƣng trong nhiều
lĩnh vực, Anh mất dần vị trí hàng đầu.
Nhịp độ phát triển công nghiệp giữa các nƣớc tƣ bản chênh lệch nhau rất rõ:
Năm 1871, và cả năm 1880, Anh sản xuất nhiều hơn của Hoa Kỳ và Đức cộng lại;
đến năm 1913, sản xuất của Anh chỉ bằng già nửa của Hoa Kỳ. Xét riêng về lĩnh vực
gang thép, trong giai đoạn 1871 – 1900, sản xuất gang của Anh tăng 1/3 trong khi
Đức tăng 5,5 lần và Hoa Kỳ tăng 8 lần. Năm 1880, sản lƣợng gang và thép của Anh
là 11,6 triệu tấn so với 6,7 của Hoa Kỳ và 4,2 của Đức; đến năm 1900, con số tƣơng
ứng là 15,1 triệu tấn so với 37,6 của Hoa Kỳ và 15,9 của Đức. Nhƣng cùng lúc đó,
Hoa Kỳ và Đức còn thua kém Anh về mặt đóng tàu, dệt vải... Do đó, vị trí của mỗi
nƣớc trong trong nền sản xuất thế giới có sự thay đổi. Anh mất dần địa vị độc quyền
về công nghiệp. Phần của Anh trong sản xuất công nghiệp thế giới cũng giảm từ 32%
39
năm 1870 xuống 14% trƣớc Chiến tranh thế giới thứ nhất; còn Hoa Kỳ thì tăng từ
23% lên 38,5% (cùng thời điểm với Anh). Năm 1880, Anh chiếm 1/4 những trao đổi
của thế giới, đến năm 1913, con số này chỉ còn 1/6 [1; tr.216 – 219].
Tƣơng tự Anh, sau thời kỳ phát triển mạnh mẽ với tiềm lực và sản lƣợng công
nghiệp đứng thứ hai thế giới sau Anh và là chủ nợ lớn trên thế giới, đến cuối thế kỷ
XIX, địa vị của nƣớc Pháp bắt đầu suy giảm, tốc độ tăng trƣởng kinh tế chậm lại.
Pháp rơi xuống hàng thứ tƣ về sản xuất công nghiệp, trong một số ngành thì rơi
xuống hàng thứ sáu, thứ bảy. Đến đầu thế kỷ XX, nền kinh tế Pháp có một số chuyển
biến quan trọng, nhƣng thực ra Pháp vẫn còn thua kém các nƣớc khác. Tỷ lệ sản xuất
công nghiệp của Pháp chỉ dao động ở mức 6% (trong giai đoạn 1906 – 1910), thấp
hơn nhiều khi so với 16% của Đức và 35% của Mỹ [63; tr.54].
Trong khi đó, năm 1871, cuộc chiến tranh Pháp - Phổ chấm dứt, nƣớc Đức
đƣợc thống nhất, đặt dƣới sự thống trị của thế lực quân phiệt Phổ, ngày càng vƣơn
lên cộng thêm vào đó là một nền công nghiệp phát triển, làm cho các nƣớc láng
giềng lo lắng đến nguy cơ Đức có thể trỗi dậy, đặc biệt là Pháp. Nhờ tận dụng những
điều kiện thuận lợi do việc hoàn thành thống nhất đất nƣớc và tiếp thu những kinh
nghiệm, phát minh kỹ thuật mới nhất trong sản xuất, nền kinh tế nƣớc Đức phát triển
nhanh chóng. Bắt đầu từ thập niên 1870, sản xuất công nghiệp của Đức phát triển
mạnh mẽ. Đến cuối thế kỷ XIX, Đức trở thành một nƣớc công nghiệp quan trọng
hàng đầu ở châu Âu và trên thế giới. Đến đầu thế kỷ XX, nƣớc Đức chính thức bƣớc
vào giai đoạn ĐQCN và trở thành nƣớc đứng hàng đầu châu Âu và thứ hai thế giới
về tổng sản lƣợng công nghiệp. Trên cơ sở sự lớn mạnh của sức mạnh tổng lực, từ
cuối thế kỷ XIX, nƣớc Đức tìm mọi cách tập hợp lực lƣợng nhằm cô lập Pháp – một
đối thủ cạnh tranh địa vị bá chủ ở châu Âu lục địa, bằng cách ký kết các hiệp ƣớc
liên minh với các cƣờng quốc châu Âu. Trong thời gian từ năm 1871 trở đi, Đức liên
tục ký các Hiệp ƣớc với Áo (1871) và Nga (1873), Liên minh Đức – Áo (1879), Hiệp
ƣớc liên minh Đức – Áo – Hung (10/1879, quy định: nếu một bên ký hiệp ƣớc bị
Nga tấn công thì bên kia có nghĩa vụ mang toàn bộ binh lực viện trợ. Mãi đến năm
1888, Nga mới biết nội dung nói trên, chính điều này dẫn đến việc hình thành liên
minh Pháp – Nga vào đầu những năm 90 của thế kỷ XIX. Những hiệp ƣớc, liên minh
mà Đức tạo ra cùng với sự phản ứng, đối phó của các cƣờng quốc châu Âu liên quan
nhƣ Anh, Pháp, Nga... đã làm cho những mâu thuẫn giữa các cƣờng quốc ở lục địa
châu Âu cho đến cuối thế kỷ XIX đã phân thành những ranh giới rõ rệt. Điều này tạo
40
nên nét đặc trƣng trong bối cảnh quốc tế giai đoạn này, đó là cuộc chạy đua giữa các
cƣờng quốc TBCN, nhất là các nƣớc đế quốc “trẻ” trong việc đẩy mạnh chính sách xâm
lƣợc, tranh giành thuộc địa để độc chiếm nguồn nguyên liệu, mở rộng ảnh hƣởng và thị
trƣờng tiêu thụ hàng hóa, phân chia phạm vi ảnh hƣởng ở khu vực châu Á - Phi - Mỹ
Latinh. Đây cũng là đặc điểm của TBCN khi chuyển sang giai đoạn ĐQCN.
Rõ ràng, từ sự khác biệt quá lớn trong tốc độ phát triển kinh tế và kỹ thuật
giữa các nƣớc đế quốc đã đƣa đến sự thay đổi trong tƣơng quan lực lƣợng (trong đó
ƣu thế dần nghiêng về các nƣớc đế quốc “trẻ”) và cả trong trật tự thế giới hiện thời
(do các nƣớc đế quốc “già” nắm giữ). Các nƣớc đế quốc “già” không chỉ muốn duy
trì thuộc địa cũ mà còn muốn mở rộng thêm đất đai để bù đắp lại sự suy giảm lợi
nhuận của giai cấp tƣ sản khi bị mất đi vai trò số một, số hai trong nền kinh tế thế
giới. Các nƣớc đế quốc “trẻ” thì đòi hỏi một chỗ đứng “dưới ánh mặt trời”, không
chỉ muốn chiếm vùng đất còn “trống” mà còn lăm le giành giật thuộc địa của nƣớc
khác để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu và thị trƣờng cho sự phát triển nhanh chóng
của các ngành công nghiệp trong nƣớc.
Trong cuộc phân chia lại thị trƣờng thế giới, giữa các nƣớc đế quốc luôn tồn
tại những mâu thuẫn hết sức gây gắt và khó có thể điều hòa đƣợc, trong đó nổi lên sự
kình địch giữa Anh và Đức, giữa Đức và Pháp. Đây là những mâu thuẫn mang tính
chủ lƣu của quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trƣớc những hành động
của Đức nhằm tăng cƣờng sức mạnh quân sự và bành trƣớng thế lực sang khu vực
Tiểu Á, trong những năm đầu thế kỷ XX, Anh đã phải thay đổi chính sách đối ngoại
của mình từ “cô lập vẻ vang” sang tìm kiếm bạn đồng minh mới để đối phó với
những mƣu đồ đòi phân chia lại thế giới trong tƣơng lai gần. Do tính chất phức tạp
trong quan hệ quốc tế và sự chồng chéo của nhiều mối quan hệ liên quan đến lợi ích
của các bên nên trong những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự thù địch
giữa Anh và Pháp về quyền lợi ở châu Phi đƣợc thay thế bằng tinh thần thân thiện
giữa hai nƣớc do có chung một mối đe dọa là Đức; mâu thuẫn Anh – Nga ở Trung Á
đƣợc thay thế bằng nhu cầu cần phải liên minh với nhau để chống lại sự bành trƣớng
của Đức và chống lại phong trào cách mạng, phong trào giải phóng dân tộc của các
nƣớc phƣơng Đông. Kết quả là, trên cơ sở Hiệp ƣớc Nga – Pháp (1893), Hiệp ƣớc
Anh – Pháp (1904) và Anh – Nga (1907), khối Hiệp ƣớc Anh – Pháp – Nga đã hình
thành và đối đầu với khối Liên minh Đức – Áo – Hung.
41
Mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa hai khối quân sự này đã làm cho quan hệ
quốc tế ở châu Âu trở nên căng thẳng và tất yếu đƣa đến sự bùng nổ của Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914 – 1918). Việc các nƣớc chính yếu trên thế giới thời kỳ này là
Anh, Pháp, Đức, Áo – Hung... bận tâm trong cuộc chiến ở chiến trƣờng chính châu
Âu đã tạo nên những thuận lợi nhất định cho Hoa Kỳ trong việc mở rộng phạm vi
ảnh hƣởng và tìm kiếm lợi ích ở Trung Quốc và Viễn Đông. Đồng thời, bối cảnh lịch
sử ở châu Âu trong giai đoạn này cũng đã đƣa lại thuận lợi không nhỏ cho Nhật Bản
– một đối thủ của Hoa Kỳ trong việc tranh giành ảnh hƣởng và vị thế ở châu Á.
Ở châu Á, từ cuối những năm 60 – 70 của thế kỷ XIX, các nƣớc ĐQCN nhƣ
Anh, Pháp, Nhật tiến hành xâu xé Trung Quốc. Đặc biệt sau Chiến tranh Giáp Ngọ
(1894 – 1895) với sự thất bại thuộc về triều đình Mãn Thanh, các nƣớc đế quốc phân
chia phạm vi thế lực trên đất Trung Quốc. Anh buộc nhà Thanh cắt nhƣợng bán đảo
Cửu Long, Hƣơng Cảng, Thẩm Quyến...; Đức giành phạm vi ở Sơn Đông; Nga ở
Hắc Long Giang, Cát Lâm, chiếm Lữ Thuận và Đại Liên; Pháp đƣợc quyền khai thác
ở Quảng Đông, Quảng Tây; Nhật Bản chiếm giữ Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và
Phúc Kiến... Nhƣ vậy, ngoại trừ một vài nƣớc đặc thù, Trung Quốc và các nƣớc ở
châu Á đều là đối tƣợng tranh giành và đã trở thành nƣớc thuộc địa hoặc nửa thuộc
địa của các nƣớc đế quốc.
Riêng đối với Nhật Bản, sau khi Minh Trị Duy Tân (1868) thành công, đất
nƣớc này nhanh chóng trở mình và phát triển thành một nƣớc đế quốc, tham gia vào
công cuộc cạnh tranh, mở rộng phạm vi ảnh hƣởng và hệ thống thuộc địa ở CA-TBD
mà trƣớc hết là ở Trung Quốc, Triều Tiên. Không lâu sau chiến thắng trƣớc Trung
Quốc trong cuộc Chiến tranh Trung - Nhật (1894 – 1895), đến đầu năm 1904, đƣợc
sự hậu thuẫn của Anh và Mỹ, Nhật Bản tuyên chiến với Nga. Kết quả của cuộc chiến
này là sự thắng lợi của Nhật Bản bằng việc đánh tan Hạm đội Thái Bình Dƣơng II
của Nga trong trận Tshusima (Eo Đối Mã) vào ngày 27 và ngày 28/5/1905. Đến ngày
5/12/1905, Hiệp ƣớc Portsmouth đƣợc ký kết đã mang lại nhiều lợi ích cho Nhật
(Nga phải nhƣờng lại phần phía Nam đảo Sakhalin và cảng Lữ Thuận cho Nhật Bản;
Nga công nhận Triều Tiên là phạm vi ảnh hƣởng của Nhật và buộc phải rút quân
khỏi Mãn Châu). Đến năm 1910, Nhật đã chính thức sát nhập Triều Tiên vào lãnh
thổ của mình. Chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905) đã
chính thức đƣa Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh của thế giới
vào thời bấy giờ. Với bản chất của một nƣớc ĐQCN, Nhật Bản đã nhanh chóng hòa
42
mình vào xu thế chung bằng việc tăng cƣờng xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị
trƣờng, khai thác tài nguyên và tận dụng nguồn lao động rẻ mạt ở các vùng đất chiếm
đƣợc. Đồng thời, cuộc chiến tranh Nga – Nhật cũng đã tạo cơ hội thuận lợi cho Mỹ
và Anh đạt đƣợc mục tiêu là làm suy yếu Nga, dọn đƣờng cho họ bành trƣớng sang
châu Á.
Đối với khu vực Mỹ Latinh: Cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 bang
thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành thắng lợi, tác động mạnh mẽ tới phong trào giải
phóng dân tộc của nhân dân khu vực Mỹ Latinh. Cùng với sự suy yếu của Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha trong những thập niên đầu của thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh
giành độc lập của nhân dân Mỹ Latinh phát triển mạnh. Hầu hết các nƣớc thuộc khu
vực Mỹ Latinh nhƣ Argentina, Mexico, Colombia, Chile, Brazil đều trở thành các
quốc gia độc lập trong những năm 20 của thế kỷ XIX. Sau khi giành đƣợc độc lập,
các nƣớc Mỹ Latinh còn non yếu đã phải bắt tay vào xây dựng đất nƣớc trong muôn
vàn khó khăn, thử thách. Điều đó đã tạo điều kiện cho rất nhiều thế lực dòm ngó
nhằm tái thiết lập chế độ thực dân ở khu vực này.
Không muốn bất cứ nƣớc châu Âu nào tái xác lập hoặc duy trì ảnh hƣởng tại
khu vực này, năm 1823, Tổng thống Mỹ James Monroe ban hành Học thuyết
Monroe, tuyên bố “châu Mỹ là của người châu Mỹ” nhƣng trên thực tế lịch sử là sự
chuyển dịch dần dần sang “châu Mỹ là của riêng người Mỹ”. Kể từ thời điểm này
trở đi, các nƣớc Mỹ Latinh luôn luôn phải đối diện với nhân tố Hoa Kỳ trong quá
trình xây dựng đất nƣớc của mình. Hoa Kỳ đã không ngừng can thiệp vào các khu
vực Mỹ Latinh bằng nhiều phƣơng cách khác nhau, bao gồm cả quân sự lẫn kinh tế
và cả sức mạnh chính trị, ngoại giao. Năm 1825, Hoa Kỳ cho quân chiếm đảo Puerto
Rico đồng thời gây sức ép với Colombia buộc phải cho Hoa Kỳ quyền tự do thông
thƣơng qua eo đất Panama. Trong hai năm 1845 – 1846, Hoa Kỳ can thiệp bằng vũ
lực vào Mexico, sáp nhập một nửa lãnh thổ Mexico vào nƣớc Mỹ. Mặc dù luôn bị
các nƣớc Anh, Đức, Pháp cạnh tranh quyết liệt trong việc mở rộng thế lực ở Mỹ
Latinh, song đến cuối thế kỷ XIX, hoạt động của Hoa Kỳ ở khu vực này ngày càng
trở nên ráo riết. Bằng những thủ đoạn tinh vi núp dƣới chiêu bài “độc lập dân tộc”,
“hợp tác và đoàn kết” với nhân dân các nƣớc Mỹ Latinh, Hoa Kỳ đã thông qua cơ
chế Hội nghị toàn châu Mỹ (triệu tập lần đầu tiên vào năm 1889 tại Washington
D.C), thành lập “Cơ quan thương mại của các nước châu Mỹ” và 20 năm sau biến
thành ―Liên minh toàn châu Mỹ” đã dần tạo đƣợc chỗ đứng ở khu vực và loại bỏ thế
43
lực của các nƣớc châu Âu, biến Mỹ Latinh thành “sân sau”, là một khối phụ thuộc
vào Hoa Kỳ, buộc các nƣớc Mỹ Latinh phải theo đƣờng lối chính trị của đế quốc Mỹ.
Tựu chung lại, diễn biến của tình hình quốc tế nói trên đã cho chúng ta thấy
đƣợc tƣơng quan lực lƣợng giữa các cƣờng quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi
cho các nƣớc tƣ bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tƣ bản trƣớc
đây. Trong bối cảnh ấy, giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã nhanh chóng tìm ra đƣợc hƣớng đi
trong việc mở rộng ảnh hƣởng, tăng cƣờng địa vị và thế lực ra các vùng đất xung
quanh, nơi gắn kết với nhiều lợi ích của đất nƣớc này nhằm phục vụ tối đa nhất cho
sự phát triển lớn mạnh của đất nƣớc mà trƣớc hết là Mỹ Latinh, CA-TBD và xa hơn
là ở châu Âu sau này.
2.4. Cơ sở nội tại tác động đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 -
1918
Nếu nhƣ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau lập quốc đến trƣớc khi Nội
chiến là yếu tố lịch sử mang lại truyền thống trong việc định hình chiến lƣợc, sách
lƣợc và phong cách ngoại giao; những diễn biến, xu hƣớng trong bối cảnh quốc tế từ
nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là nhân tố ngoại cảnh tác động đến sự lựa
chọn đƣờng lối trong đối ngoại thì những học thuyết, tƣ tƣởng, quan điểm chính trị
của xã hội và đặc biệt là sự phát triển kinh tế mạnh mẽ sau Nội chiến chính là những
nhân tố nội tại quan trọng quyết định đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ trong giai đoạn mới. Đó chính là chính sách đối ngoại của một nƣớc Hoa Kỳ
thống nhất, từng bƣớc khẳng định ƣu thế của mình trên trƣờng quốc tế. Trong phạm
vi của các cơ sở nền tảng nội tại, chúng tôi xin đƣợc làm rõ một số cơ sở quan trọng
cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ 1865 – 1918.
2.4.1. Cơ sở kinh tế
Cuộc Nội chiến (1861 – 1865) kết thúc với thắng lợi của giai cấp tƣ sản công
thƣơng nghiệp miền Bắc đã đƣa đến sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của chủ nghĩa tƣ
bản Hoa Kỳ. Và đến năm 1870, Hoa Kỳ bắt đầu bƣớc vào thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tƣ bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Trong một thời gian ngắn chỉ
40 năm (1860 - 1900), Hoa Kỳ đã chuyển biến từ một quốc gia nông nghiệp trở
thành một cƣờng quốc công nghiệp với nền tảng là gang, thép và các tuyến đƣờng
sắt. Trong đó, sản lƣợng thép tăng 863,6 lần (từ 1860 - 1900), sản lƣợng than là 7,96
lần và gang là 7,23 lần (từ 1870 - 1900); chiều dài đƣờng sắt tăng lên 6,34 lần (1860
44
- 1900), nghĩa là đã vƣợt tổng chiều dài của tất cả đƣờng sắt ở Tây Âu [68; tr.34].
Các số liệu thống kê trong bảng 2.1 đã cho thấy sự phát triển công nghiệp của Hoa
Kỳ trên một số lĩnh vực chủ chốt.
Bảng 2.1. Tốc độ tăng trƣởng các ngành công nghiệp chủ chốt của Hoa Kỳ
giai đoạn 1860 – 1900
Đơn vị tính: Gang, thép, than: triệu tấn.
Chiều dài đƣờng sắt: km.
Sản phẩm
Năm Gang Thép Than
Chiều dài đường
sắt
1860 0,013 49.001,6
1870 1,711287 0,077 33,310905 84.675,2
1880 2,741853 1,397 70,478426 149.219,3
1890 7,603642 4,779 140,882729 266.646,4
1900 13,620730 11,779 240,788238 310.934,4
Nguồn: Historical Statistics of the US và Statistical Abstract of the US trên website:
http://www2.census.gov.
Theo một thống kê khác của nhà sử học Kenton Clymer thuộc Đại học
Illinois, cơ sở kinh tế cho quá trình vƣơn đến quyền lực thế giới của Hoa Kỳ trong
giai đoạn này, đó là việc tạo ra một nền tảng công nghiệp to lớn. Trong khoảng 35
năm sau năm 1860, sản lƣợng khai khoáng của Hoa Kỳ tăng 10 lần; sản lƣợng gang
tăng 11 lần; sản lƣợng dầu mỏ tăng 7 lần trong khoảng thời gian từ 1876 đến 1896;
tới năm 1893, Hoa Kỳ là nhà sản xuất đồng lớn nhất thế giới và vài lần trong thập kỷ
1890, Hoa Kỳ đã vƣợt qua Anh trong sản xuất các hàng hóa cơ bản nhƣ sắt, thép,
than và hàng dệt bông. Dấu hiệu về sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế còn có thể
thấy đƣợc qua các con số về bằng phát minh. Trƣớc năm 1860, Hoa Kỳ có khoảng
36.000 bằng phát minh đƣợc công bố. Trong vòng 30 năm sau đó, từ 1860 đến 1890,
đã có 440.000 bằng phát minh đƣợc ban hành [16; tr.74]. Bên cạnh đó, các chỉ số về
đầu tƣ tƣ bản, về lực lƣợng lao động trong công nghiệp và giá trị sản xuất công
nghiệp mang lại cho nền kinh tế Hoa Kỳ liên tục tăng qua các năm. Các số liệu thống
kê dƣới đây sẽ cho thấy điều này.
45
Bảng 2.2. Sự tăng trƣởng đầu tƣ tƣ bản, nhân công và giá trị
sản phẩm của nền công nghiệp Hoa Kỳ giai đoạn 1860 – 1900
Thập niên Đầu tƣ tƣ bản
(USD)
Số nhân công
(ngƣời)
Giá trị sản phẩm
(USD)
1860
1870
1880
1890
1900
1.009.855.715
2.118.208.769
2.790.272.606
6.525.156.486
9.817.434.799
1.311.246
2.053.996
2.732.595
4.251.613
5.308.406
1.885.861.676
4.232.325.442
5.369.579.191
9.372.437.283
13.004.400.143
Nguồn: William Greenleaf (1968), American Economic Development since 1860 –
Documentary History of United States, University of South Carolina press, Columbia.
Nhƣ vậy, từ một nƣớc có nền kinh tế gần nhƣ phụ thuôc vào châu Âu, Hoa Kỳ
đã nhanh chóng trở thành một cƣờng quốc công nghiệp trên thế giới. Điều này càng
đƣợc khẳng định hơn khi xét đến sản lƣợng công nghiệp Hoa Kỳ so với các nƣớc
công nghiệp khác cũng nhƣ tỷ lệ đóng góp trong tổng thể nền sản xuất công nghiệp
của thế giới. Năm 1860, sản lƣợng công nghiệp Hoa Kỳ mới chỉ đứng hàng thứ 4
trên thế giới nhƣng đến cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX, Hoa Kỳ
đã vƣơn lên nhanh chóng, vƣợt xa các nƣớc tƣ bản khác và độc tôn vị trí số một thế
giới. Chỉ trong vòng 3 thập niên, Hoa Kỳ đã kịp làm đƣợc điều mà trƣớc đây, nƣớc
Anh đã phải mất rất nhiều thời gian mới làm đƣợc. Các con số trong bảng 2.3 đã chỉ
ra rất rõ sự thay đổi vị thế của Hoa Kỳ trong nền sản xuất công nghiệp của thế giới
giai đoạn 1870 – 1900.
Bảng 2.3. Tỷ trọng của các nƣớc công nghiệp chủ yếu trong sản xuất công
nghiệp thế giới giai đoạn 1870 – 1900
Đơn vị tính: %
Nước
Năm
Anh Pháp Đức Nga Mỹ Nhật
Bản
Phần còn lại
của thế giới
1870 32 10 13 4 23 18
1881 –1885 27 9 14 3 29 18
1896 –1900 20 7 17 5 30 1 20
Nguồn: Michel Beaud, “Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ 1500 đến 2000”, Nxb.Thế giới,
HN, 2002; tr.219.
46
Việc vƣơn lên trở thành số một của Hoa Kỳ trong lĩnh vực công nghiệp đã
đƣa đến một hệ quả tất yếu, đó là sự ra đời và nở rộ của các hiệp hội độc quyền, các
tổ chức độc quyền trong kinh tế, hay còn gọi là tơrớt (Trust). Một cuộc điều tra do
Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành năm 1900 cho thấy, cả nƣớc có 185 trust công nghiệp,
giá trị tài sản hơn 3 tỷ USD, trong đó có 73 trust có giá trị lên đến 10 triệu USD. Và
sau 4 năm, số lƣợng trust công nghiệp đã tăng lên con số 318, giá trị tài sản tới 7 tỷ
USD, chiếm khoảng 2/5 tƣ bản công nghiệp toàn quốc [36; tr.286].
Đến đầu thế kỷ XX, những xí nghiệp lớn này hình thành thông qua sát nhập theo
chiều ngang và tổ hợp lại theo chiều dọc đều dần dần thuộc về các ngân hàng lớn ở phố
Wall, New York khống chế. Các ngân hàng này do Morgan, Rockefeller, Vanderbilt…
lần lƣợt thành lập, bắt đầu gia tăng ảnh hƣởng đến đời sống kinh tế, tiến tới thao túng
chính trị cả nƣớc thông qua khống chế hoặc chi phối các cơ quan chính phủ.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ đã tác động rất lớn đến nhận thức
của các tập đoàn tài phiệt, các liên hiệp độc quyền, đặc biệt là một số trí thức và quan
chức chính phủ. Họ cho rằng: “thị trường nội địa dường như không đủ tiếp nhận
mức sản xuất tăng lên của các ngành công nghiệp mới” [16; tr.74]. Và điều tiên
quyết là Hoa Kỳ phải có một thị trƣờng rộng lớn hơn, đặc biệt là ở khu vực Mỹ
Latinh và Trung Quốc – những khu vực mà theo họ có vị trí và vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ. Vì thế, việc tìm kiếm thị trƣờng ở
nƣớc ngoài bắt đầu đƣợc một số giới xem nhƣ là giải pháp cho mọi vấn đề trong
nƣớc nảy sinh bởi sự công nghiệp hóa quá nhanh. Các thị trƣờng mới, theo Hoa Kỳ,
sẽ tạo ra một cơ sở đảm bảo cho nền kinh tế lành mạnh và nền kinh tế này, ngƣợc lại,
sẽ đảm bảo cho môi trƣờng xã hội lành mạnh. Đây là điều vẫn còn nguyên giá trị
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ khi nƣớc này tiến hành các hoạt động chi
phối, can thiệp vào các quốc gia trên thế giới trong lịch sử.
Từ sự thúc ép do nền kinh tế phát triển đƣa lại đã tác động đến sự chuyển biến
về tƣ tƣởng trong chính sách đối ngoại. Năm 1893, Thƣợng nghị sĩ Orville Platt đã
cho rằng: “… Nhưng ngày nay mọi thứ đã khác, chúng ta là 65 triệu người của một
quốc gia mạnh mẽ và có điều kiện thuận lợi nhất thế giới, quan tâm đến tương lai
thịnh vượng, yêu cầu một lệnh cấm học thuyết cô lập…” [28; tr.11]. Cái mà ngƣời
Mỹ yêu cầu và họ đã hƣớng tới chính là một nền kinh tế sản xuất khổng lồ. Chính
sức sản xuất mạnh mẽ ấy đã đòi hỏi phải có một thị trƣờng tiêu thụ rộng lớn. Để có
đƣợc điều đó, đòi hỏi Hoa Kỳ phải bành trƣớng, mở rộng hơn nữa ra bên ngoài
47
không gian châu Mỹ. Do vậy, học thuyết cô lập giờ đây không còn phù hợp mà trái
lại, cần phải có một lệnh cấm quan điểm này để mở đƣờng cho những can dự của
Hoa Kỳ ra thế giới.
Tác động của nhận thức này lên việc hoạch định chính sách đối ngoại và cả
việc hình thành các công cụ thực hiện quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ là rất đáng kể.
Từ nhu cầu tìm kiếm và mở rộng thị trƣờng, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã tỏ ra chuyên
nghiệp hơn và bắt đầu hoạt động tích cực hơn trƣớc kia để trợ giúp các công ty Mỹ
quan tâm đến việc mở rộng thị trƣờng. Mặt khác, nhu cầu tìm kiếm thị trƣờng, mở
rộng ảnh hƣởng lại chính là nhân tố quy định sự cần thiết phải xây dựng một lực
lƣợng hải quân mạnh mẽ và hiện đại – là cung cụ bảo vệ các tuyến thƣơng mại và
mở rộng lãnh thổ, phạm vi ảnh hƣởng của chủ nghĩa bành trƣớng Mỹ. Năm 1880,
Hoa Kỳ chỉ đứng hàng thứ 13 trong số các cƣờng quốc hải quân. Hoa Kỳ bị tụt hậu
về công nghệ, vào thời điểm đó, khi các nƣớc khác đã chuyển sang tàu chiến bằng sắt
và chạy bằng hơi nƣớc thì tàu chiến Hoa Kỳ phần lớn đƣợc đóng bằng gỗ và chạy
bằng sức gió. Nhƣng cho đến thập niên 1890, hải quân Hoa Kỳ đã đƣợc hiện đại hóa
và mở rộng đến mức vào năm 1898, Hoa Kỳ đã đứng vào hàng thứ 6 hoặc thứ 7 và
đã dễ dàng đánh bại hải quân Tây Ban Nha trong cuộc chiến tranh với nƣớc này vào
năm đó.
Sự tăng trƣởng kinh tế và nhu cầu tìm kiếm thị trƣờng còn tác động đến việc
hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ theo một hƣớng khác: tìm kiếm thuộc
địa kiểu mới. Trong bối cảnh thế giới những năm cuối thế kỷ XIX, việc tìm kiếm thị
trƣờng của Hoa Kỳ không nhất thiết dẫn đến mong muốn có đƣợc thuộc địa chính
thức nhƣ giai đoạn trƣớc đây. Các thuộc địa trên thực tế có thể đƣợc xem nhƣ là
“của nợ” và luận điểm này đƣợc nhà tài phiệt trong ngành thép Andrew Carnegie hết
sức bảo vệ. Vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hoa Kỳ bƣớc vào giai
đoạn ĐQCN và bắt đầu xuất khẩu tƣ bản hàng loạt. Xuất khẩu tƣ bản trở thành công
cụ bành trƣớng ra các khu vực xung quanh của Hoa Kỳ. Năm 1889, đầu tƣ tƣ bản
của Hoa Kỳ ra nƣớc ngoài đã là 500 triệu USD. Sang đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tƣ
bản của Hoa Kỳ đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1909, đầu tƣ ra nƣớc ngoài của Hoa
Kỳ đạt 2 tỷ USD [54; tr.101]. Việc xuất khẩu tƣ bản đƣợc sử dụng rộng rãi vào việc
chiếm đoạt các nguồn nguyên liệu quan trọng của những quốc gia khác đã mở ra cho
Hoa Kỳ khả năng tiếp cận các thị trƣờng lân cận nhƣ ở Mỹ Latinh, đƣa lại nguồn lợi
khổng lồ cho Hoa Kỳ từ khu vực này.
48
Một cơ sở khác về mặt kinh tế chi phối sự định hình chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ trong thời kỳ 1865 – 1918, đó là các thị trƣờng trên thế giới gần nhƣ đã đƣợc
phân chia xong. Hoa Kỳ là nƣớc đế quốc non trẻ không thể tiến hành các hoạt động
bành trƣớng cổ điển nhƣ các nƣớc thực dân châu Âu trƣớc đây. Hoặc nếu có thì thế
giới cũng không còn khoảng trống nào cho Hoa Kỳ thực hiện điều đó. Vì vậy, Hoa
Kỳ đã lựa chọn những lối đi khác hơn. Nhà sử học Kenton Clymer có lý khi cho rằng
“sự bành trướng của Hoa Kỳ trong những năm 1890 như là một nỗ lực thôn tính
thương mại hơn là lãnh thổ”. Ông dẫn chứng rằng, “ngay trong trường hợp
Philippines, động cơ kinh tế là chiếm ưu thế bởi đó chính là căn cứ thích hợp để từ
đó thâm nhập vào thị trường được coi là rộng lớn của Trung Quốc, nơi mà Hoa Kỳ
không hề muốn có một ý muốn thiết lập một thuộc địa thực sự” [16; tr.75]. Tuy
nhiên, điều này không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của giới cầm quyền Hoa Kỳ
mà hiện thực thế giới trong thời kỳ đó đã đƣa đến những lập luận nói trên. Vào thời
điểm này, Hoa Kỳ không đủ lực để nhằm thiết lập một thuộc địa thực sự nhƣ ý muốn
của họ, đặc biệt đối tƣợng ở đây lại là Trung Quốc – một quốc gia rộng lớn và đang
là nơi tranh chấp, cạnh tranh, là bàn tiệc của rất nhiều kẻ không mời. Vì vậy, Hoa Kỳ
không còn con đƣờng nào khác hơn là phải sử dụng thƣơng mại nhƣ là một giải pháp
hữu hiệu nhằm thâm nhập vào thị trƣờng to lớn này.
Nhƣ vậy, với sự phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ trong nƣớc cộng với sức
ép của các tập đoàn lũng đoạn, các tổ chức tài phiệt và nguồn vốn tƣ bản khổng lồ
mà Hoa Kỳ xuất khẩu ra nƣớc ngoài đã thúc ép Hoa Kỳ quan tâm nhiều hơn, sâu sắc
hơn đến các khu vực xung quanh. Nói nhƣ Wayne Morgan trong cuốn “Unity and
Culture” (Thống nhất và Văn hóa): “mối quan tâm đến chính trị thế giới nảy sinh
một cách tự nhiên do kiểu cách phát triển quốc gia” [20; tr.118]. Chính do “kiểu
cách phát triển quốc gia” ấy mà sau hơn 100 năm tìm cách mở rộng biên giới đất
đai, giờ đây Hoa Kỳ “đang tìm kiếm khách hàng cho các sản phẩm hàng công
nghiệp và ngành tài chính ngân hàng. Nếu chiếm được đất đai, nó cũng không được
sử dụng cho các mục đích nông nghiệp mà cho các căn cứ hải quân ở Hawaii, biển
Caribbean và Philippines – những căn cứ có thể bảo vệ cho nền ngoại thương đang
mở rộng này” [21; tr.595]. Đó chính là phƣơng cách mà nền kinh tế phát triển của
Hoa Kỳ tác động đến sự hoạch định và lựa chọn chính sách đối ngoại cho phù hợp
với nhu cầu của các ngành sản xuất của đất nƣớc này trong thời kỳ 1865 – 1918.
49
2.4.2. Cơ sở tƣ tƣởng xã hội
Mặc dù kinh tế là thành tố nội tại quan trọng tác động đến việc hình thành chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ đƣợc đề cập, song sự vƣơn đến quyền lực thế
giới của đất nƣớc này sẽ không đầy đủ và toàn diện nếu thiếu đi cơ sở về mặt tƣ tƣởng
xã hội. Khi lý giải cho chủ nghĩa bành trƣớng Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến rất nhiều học thuyết, nhiều luận
thuyết, quan điểm, tƣ tƣởng của các chính khách, học giả Mỹ. Các học thuyết này đƣợc
chính giới Hoa Kỳ sử dụng hay vận dụng triệt để để giải thích cho các hành động bành
trƣớng ra bên ngoài của Mỹ. Trƣớc hết, không thể không nhắc đến thuyết ―Bành trướng
do định mệnh” hay ―Định mệnh hiển nhiên” (Manifest Destiny) của John O’Sullivan.
Học thuyết “Định mệnh hiển nhiên” đƣợc đƣa ra lần đầu tiên vào năm 1845 trong bài
báo nhan đề “Annexation” (sát nhập) đƣợc đăng trong Democratic Review của
J.O’Sullivan nói về vấn đề ủng hộ việc sát nhập Texas vào Liên bang Hoa Kỳ.
J.O’Sullivan khẳng định Hoa Kỳ “có quyền bành trướng do định mệnh và sở hữu toàn
bộ lục địa mà Chúa đã ban cho chúng ta nhằm phát triển tự do và liên bang tự trị mà
chúng ta được giao phó”[28; tr.11]. Kể từ đó, Học thuyết “Sứ mệnh bành trướng” luôn
luôn chi phối và tác động mạnh mẽ tới đời sống chính trị và đƣờng lối đối ngoại của
Hoa Kỳ, đặc biệt là trong vấn đề mở rộng lãnh thổ cũng nhƣ gia tăng ảnh hƣởng ra bên
ngoài trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Một luận thuyết vô cùng quan trọng khác đƣợc ngƣời Mỹ tận dụng không chỉ
trong quá trình bành trƣớng trong nƣớc mà nó còn phục vụ cho tiến trình vƣơn đến
quyền lực thế giới của Hoa Kỳ là Học thuyết Darwin xã hội. Có thể nói, tất cả những
hoạt động bên ngoài biên giới quốc gia của Hoa Kỳ, trong chừng mực nào đó đều
chịu ảnh hƣởng từ tƣ duy của Học thuyết Darwin xã hội vốn khá phổ biến trong giới
trí thức Mỹ lúc bấy giờ. Luận thuyết này đƣợc phát triển dựa trên Thuyết tiến hóa
của Charles Darwin – nhà khoa học ngƣời Anh, ngƣời đƣa ra giả thuyết về thế giới
sinh học đƣợc đặc trƣng bởi sự cạnh tranh tàn bạo và trong đó chỉ có sinh vật nào
mạnh mẽ nhất và có khả năng thích nghi nhất mới tồn tại đƣợc. Theo Spencer –
ngƣời đã giải thích học thuyết Darwin và đi đến Học thuyết Darwin xã hội: con
ngƣời sống trong xã hội cũng theo quy luật đào thải trong tự nhiên. Hơn một xã hội
nào khác, xã hội Mỹ luôn luôn chạy đua để thích nghi, để giành thắng lợi và kẻ mạnh
sẽ nuốt chửng ngƣời yếu. Những ngƣời theo Học thuyết Darwin xã hội đã áp dụng lý
thuyết của Darwin vào xã hội Hoa Kỳ cũng nhƣ trong quan hệ quốc tế và lập luận
50
rằng “trong thế giới tàn bạo của các quan hệ quốc tế, chỉ có những quốc gia thích
nghi được mình với những điều kiện mới và được chuẩn bị để tranh đấu mới tồn tại
được” [16; tr.76]. Giới trí thức Hoa Kỳ tin tƣởng rằng họ làm vì sự tồn tại của những
cái thích hợp nhất, vì vậy, những ngƣời này đã thúc giục mở rộng lợi ích trong chính
sách đối ngoại. Những quan niệm về chủng tộc ƣu việt của ngƣời da trắng văn minh
cũng liên quan đến luận thuyết này. “Người Mỹ là dân tộc được Thượng đế ủng hộ
và có sứ mệnh giúp đỡ các dân tộc khác “lạc hậu” hơn ra khỏi bóng tối” [68; tr.19].
Quan điểm này đã củng cố ý thức trong xã hội về niềm tin rằng, dân tộc đã đƣa ra
những nguyên tắc tổ chức xã hội rất đơn giản và dễ hiểu, “được Chúa lựa chọn, có
nhiệm vụ kiểu mẫu cho toàn thế giới”!
Đối với ngƣời Mỹ, cũng nhƣ sự cạnh tranh về kinh tế trong nội địa, ai thích
nghi giỏi nhất, ngƣời đó sẽ thắng. Điều này cũng đƣợc nhìn thấy tƣơng tự trong các
vấn đề bên ngoài biên giới quốc gia: “trong lĩnh vực ngoại giao, tất cả vấn đề là ở
tương quan lực lượng; luật rừng vẫn có giá trị tuyệt đối” và “trong nước, một số
trust lớn cố gắng giành lấy độc quyền; hệt như vậy, cả nước Hoa Kỳ đều muốn loại
trừ sự cạnh tranh của các nước khác” [20; tr.127].
Những quan niệm về chủng tộc vào thời điểm đó liên quan nhiều đến Học
thuyết Darwin xã hội. Các nền văn hóa châu Âu và Mỹ trong quá khứ đã phát triển
những lý thuyết về tính ƣu việt chủng tộc. Cạnh tranh quốc tế ở vào thời điểm này
đƣợc cho là đã “tách cừu ra khỏi dê” nên cuộc đấu tranh giành giật lẫn nhau để tồn
tại qua hàng thế kỷ đã làm cho ngƣời Mỹ cảm thấy rõ ràng rằng một vài loài này ƣu
việt hơn các loài khác. Những lý thuyết nhƣ vậy ngày nay tất nhiên đã hoàn toàn mất
uy tín nhƣng khi đó vẫn đƣợc chấp nhận bởi vì dƣờng nhƣ chúng đƣợc ủng hộ bằng
những chứng cứ khoa học.
Rõ ràng, Học thuyết Darwin xã hội và luận thuyết của Chủ nghĩa chủng tộc
ƣu việt đã có những tác động quan trọng góp phần hình thành nên những chính sách
bành trƣớng trong đối ngoại của Hoa Kỳ. Trong bối cảnh thế giới những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tƣ bản đã chuyển sang giai đoạn ĐQCN,
thị trƣờng thế giới gần nhƣ đã đƣợc phân chia xong, Hoa Kỳ, với sức ép của các tập
đoàn lũng đoạn trong nƣớc đã phải viện dẫn đến những luận thuyết này nhằm biện hộ
cho hoạt động bành trƣớng ra thế giới bên ngoài của mình. Việc Tây Ban Nha bị Hoa
Kỳ làm nhục trong cuộc xung đột ngắn ngủi chứng tỏ rằng “sự sống sót của kẻ thích
51
hợp nhất là điều quyết định số phận của các dân tộc cũng như của các loài vật” [35;
tr.64] mà Hoa Kỳ là một điều minh chứng hiển nhiên.
Học thuyết Darwin xã hội và đi kèm với nó là chủ nghĩa chủng tộc ƣu việt
cũng khuyến khích Hoa Kỳ nghiên cứu các cƣờng quốc lớn, đặc biệt là Anh và noi
theo hành động của Anh. Nghiên cứu các cƣờng quốc để nhằm đạt đến địa vị cƣờng
quốc là một cách làm không gì tốt hơn. Mặc dù vào thời điểm ban đầu Hoa Kỳ
không hẳn đã làm những điều tƣơng tự nhƣ Anh, những đến năm 1898, khi cuộc
chiến tranh Hoa Kỳ - Tây Ban Nha, cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên nổ ra và đƣa
lại cho Hoa Kỳ các thuộc địa Cuba, Puerto Rico và Philippines đã phần nào đƣợc
giải thích nhƣ là một nỗ lực của Hoa Kỳ học theo mô hình cƣờng quốc.
Học thuyết Darwin xã hội đặc biệt nổi rõ trong những năm cuối thế kỷ XIX
khi chủ nghĩa tƣ bản Mỹ chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn ĐQCN,
khi nền kinh tế Hoa Kỳ có những thay đổi căn bản tạo cơ sở cho việc tính toán quyền
lực đã làm sâu sắc hơn tính ƣa chuộng sức mạnh và đặc điểm chạy đua để tranh
giành thắng lợi trở nên rõ ràng hơn. Điều này lại càng đƣợc thúc đẩy hơn nữa trong
bối cảnh các nƣớc châu Âu nhƣ Anh, Pháp, Đức đang ra sức chạy đua để xâu xé
châu Phi và cùng với Nga đang tranh giành phạm vi ảnh hƣởng và lợi ích thƣơng mại
ở châu Á – nơi có đối thủ đang lên là Nhật Bản. Vì vậy, rất nhiều nhân vật có ảnh
hƣởng trong giới chính trị Hoa Kỳ đã tích cực hô hào và chủ trƣơng có đƣợc một vai
trò quốc tế mạnh mẽ hơn cho đất nƣớc này.
Bên cạnh đó, giới chính trị của Hoa Kỳ còn bị hấp dẫn bởi tƣ tƣởng của
Thayer Alfred Mahan. Trong tác phẩm “Ảnh hưởng của sức mạnh biển cả đến lịch
sử” (―The Influence of Sea Power upon History‖ – 1890), Nhà chiến lƣợc hải quân
Mahan đã đƣa ra lời khuyên rằng: “…Mỹ nên quan tâm đến đại dương không phải là
một tấm lá chắn mà là một đường cao tốc…bởi đất liền là trở ngại còn mặt biển mới
là trường tung hoành” hay “Ngự trị trên sóng nước sẽ ngự trị trên thế giới” [12;
tr.144]. Theo quan điểm của Mahan thì Mỹ nên sử dụng đại dƣơng không chỉ dừng
lại ở một tấm bình phong để bảo vệ đất nƣớc mà đó còn là cơ hội hết sức to lớn để có
thể bành trƣớng và mở rộng phạm vi ảnh hƣởng của mình ra khắp thế giới. Kiểm
soát mặt biển là điều tối quan hệ đối với bất kỳ quốc gia nào muốn đóng một vai trò
quan trọng trên trƣờng quốc tế, muốn thực hiện thịnh vƣợng và an ninh tối đa ở quốc
nội. Một cƣờng quốc lục địa không có đƣờng ra biển, dù hùng mạnh đến đâu, cũng
có thể bị lâm vào cảnh suy tàn. Một quốc gia, nếu có hải quân hùng mạnh để kiểm
52
soát mặt biển và duy trì đƣợc một đội thƣơng thuyền hùng hậu, có thể khai thác đƣợc sự
trù phú của thế giới. Những lý luận mà Mahan vạch ra trong tác phẩm này có tác động
hết sức mạnh mẽ tới các cƣờng quốc thời bấy giờ, đặc biệt là các cƣờng quốc mới nổi,
tiêu biểu là Đức. Chính Hoàng đế Wilhelm II đã phải nói rằng: “Không phải nói đọc,
mà phải nói tôi vừa mới ngấu nghiến xong tập sách của Đại úy Mahan. Trên tàu nào
của tôi cũng có sách này…Tương lai Đức quốc là ở trên mặt nước. Trái đấm của chúng
ta phải là lực lượng hải quân”[12; tr.141]. Đối với nƣớc Mỹ, những tƣ tƣởng mà Mahan
trình bày có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong việc biến chuyển tƣ tƣởng của các chính trị
gia là phải đặc biệt quan tâm tới việc phát triển và tăng cƣờng sức mạnh hải quân. Và
cũng từ khi “Ảnh hưởng của sức mạnh biển cả đến lịch sử” đƣợc ấn hành, các chƣơng
trình đóng tàu của Hoa Kỳ đƣợc phát triển nhanh chóng. Hoa Kỳ cũng đã sớm tạo lập
cho mình một lực lƣợng hải quân hùng mạnh, lập đƣợc nhiều căn cứ ở Caribbean và
Thái Bình Dƣơng. Các căn cứ này chính là những ―hàng không mẫu hạm không bao giờ
chìm” phục vụ đắc lực cho quá trình bành trƣớng, mở rộng thị trƣờng và phạm vi ảnh
hƣởng sang vùng Viễn Đông của Hoa Kỳ.
Xuất phát từ tƣ tƣởng chủ đạo của Mahan, một quan điểm mới đã đƣợc hình
thành và thƣờng đƣợc các nhà nghiên cứu gọi là quan điểm thực lực. Quan điểm này
ảnh hƣởng mạnh mẽ đến một số chính khách Hoa Kỳ, tiêu biểu nhƣ Benjamin
F.Tracy – Bộ trƣởng Hải quân từ 1889 đến 1893; Henry Cabot Lodge – làm việc tại
Ủy ban các vấn đề hải quân từ 1889 đến 1893 và sau này là trong Ủy ban đối ngoại
Thƣợng viện Hoa Kỳ từ năm 1895 và Theodore Roosevelt – Trợ lý Bộ trƣởng Hải
quân từ 1897 đến 1898 và là Tổng thống Hoa Kỳ (1901-1909). Có thể thấy ảnh
hƣởng đó qua việc thực hiện chƣơng trình phát triển và hiện đại hóa lực lƣợng hải
quân của B.F.Tracy – cha đẻ của lực lƣợng hải quân Hoa Kỳ hiện đại hay lời phát
biểu của H.C.Lodge trƣớc Thƣợng viện Hoa Kỳ ngày 2/3/1895 rằng “không quốc gia
nào thực sự vững mạnh nếu thiếu sức mạnh hải quân”.
Nhƣ vậy, trên thực tế, Hoa Kỳ đã áp dụng thuyết “bành trướng do định mệnh”
kết hợp với quan điểm “thực lực” để mở rộng phạm vi ảnh hƣởng không chỉ ở khu vực
Mỹ Latinh mà còn ở trên bình diện thế giới, trƣớc hết là khu vực CA-TBD.
Ở một góc độ khác, thuyết Biên cƣơng (Frontier) của Frederick Jackson
Turner cũng ít nhiều tác động đến việc định hình chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
trong giai đoạn này. Học thuyết Biên cƣơng đƣợc F.J.Turner đƣa ra vào năm 1893
trong một báo cáo tựa đề “Ý nghĩa của thuyết Biên cương trong lịch sử Hoa Kỳ”, nói
53
về những đợt tiến quân lần lƣợt của những ngƣời mở đƣờng, những chủ trang trại,
những thợ thủ công rồi đến thƣơng nhân và ngƣời làm dịch vụ vào miền Tây Hoa
Kỳ. Khái niệm “miền Tây” không cố định: bao giờ ta cũng ở về phía tây của một
ngƣời nào khác… Biên cƣơng cứ xa dần bờ biển Đại Tây Dƣơng để băng qua miền
Trung Tây, rồi Viễn Tây. F.J.Turner giải thích nền văn hóa Hoa Kỳ bằng tinh thần
của ngƣời đi tiên phong khai phá. Theo F.J.Turner, biên cƣơng là “giao điểm giữa
người hoang dã và người văn minh” và “cái lãnh thổ luôn chuyển động ấy, nơi
những người tiên phong khai phá, tiếp xúc trực diện với đất hoang và các dân tộc da
đỏ - thuộc về nền văn minh khác hẳn – đã làm nảy sinh những thế ứng xử mới, sẽ
góp phần hình thành tính cách của dân tộc”. Quá trình đó “chẳng mấy chốc chủ
nghĩa bành trướng sẽ trở thành một thuộc tính của Hoa Kỳ, điều này ngày càng rõ
khi các bang dần dần được củng cố: chiếm được lãnh thổ nơi sinh ra mình rồi, văn
hóa Hoa Kỳ sẽ lao ra chinh phục thế giới” [20; tr.21- 23]. Rõ ràng luận thuyết này
đã ít nhiều có tác động rất lớn đến nhận thức của xã hội Hoa Kỳ và cũng đƣợc giới
chính trị của đất nƣớc này vận dụng để tìm kiếm những vùng “biên cương mới”
trong quá trình bành trƣớng ra thế giới của Hoa Kỳ.
Một cơ sở nữa đóng góp vào nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc hoạch định chính
sách nhằm tìm kiếm quyền lực quốc tế và trở thành một nƣớc ĐQCN những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đó là cơ sở tâm lý – xã hội Mỹ. Cơ sở này mặc dù vẫn còn
mờ nhạt và khó chứng minh một cách thuyết phục, song ở vào thời điểm cuối thế kỷ
XIX khi miền biên giới phía Tây của Hoa Kỳ đã giáp với Thái Bình Dƣơng, lãnh thổ
Hoa Kỳ đã đƣợc định hình nhƣ ngày nay (nhất là sau khi mua Alaska của Nga vào năm
1867), điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng biên cƣơng bên trong lục địa Bắc Mỹ của
Hoa Kỳ đã kết thúc(1)
. Đối với một xã hội lâu nay vẫn nghĩ về biên giới và việc mở rộng
biên giới nhƣ một “cái van an toàn” đối với sự bất đồng, vì vậy sự chấm dứt việc mở
rộng biên giới tiềm ẩn một sự phát triển đáng lo ngại. Hội chứng tâm lý – xã hội này
phần nào đó đã thúc đẩy Hoa Kỳ tiến hành một chính sách đối ngoại quyết đoán và
mang tính ĐQCN hơn. Cecil Rhodes, một nhà ĐQCN lớn ngƣời Anh đã từng khuyên
ngƣời Mỹ rằng “nếu bạn muốn tránh khỏi một cuộc nội chiến thì bạn phải trở thành đế
quốc”.
(1)
Giới sử học Hoa Kỳ cho rằng việc Thƣợng viện nƣớc này ra nghị quyết sáp nhập Hawaii (6/7/1898) mới là
mốc đánh dấu sự kết thúc công cuộc mở rộng lãnh thổ về phía Tây của Hoa Kỳ.
54
2.4.3. Cơ sở chính trị
Sau cuộc Nội chiến, Hoa Kỳ bắt đầu bƣớc vào thời kỳ thống nhất về kinh tế,
chính trị. Chính sự thống nhất đó đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa tƣ bản Mỹ có bƣớc
bứt phá ngoạn mục, giúp Hoa Kỳ trở thành một trong những cƣờng quốc hàng đầu
trên thế giới. Việc nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ
1865 – 1918 không thể không phân tích những nền tảng về mặt chính trị mà từ sau
cuộc Nội chiến, Hoa Kỳ đã có những thay đổi quan trọng.
Ngay trong thời kỳ Nội chiến, trong bài phát biểu ở Gettyburgs năm 1863,
Tổng thống Abraham Lincoln đã hƣớng đến việc xây dựng một kỷ nguyên tự do
đƣợc đảm bảo bằng một chính phủ chăm lo cho nhân dân, khi nói rằng: “Chính
chúng ta phải có mặt tại đây để cống hiến cho nhiệm vụ lớn lao còn tồn tại trước mắt
chúng ta – nhiệm vụ mà từ những liệt sĩ cao quý, chúng ta lãnh nhận sự cống hiến
nhiều hơn nữa cho sự nghiệp vì nó mà họ đã dành sự cống hiến cao nhất – nhiệm vụ
mà tại đây chúng ta quyết tâm cao độ rằng những liệt sĩ ấy sẽ không hy sinh vô ích –
nhiệm vụ dân tộc này, trước Chúa, sẽ bước vào một kỷ nguyên mới của tự do – và
nhiệm vụ - một chính phủ của dân, do dân và vì dân sẽ không bị tiêu diệt khỏi trái
đất này” [11; tr.482]. Tuy nhiên, A.Lincoln chƣa kịp thực hiện điều đó thì bị ám sát.
Tổng thống kế nhiệm Lincoln là Andrew Johnson đã thực hiện theo đúng ý nguyện
của ông bằng một chính sách tái thiết khoan dung ở miền Nam. Theo Tổng thống
Johnson, những bang ở miền Nam chƣa bao giờ tách khỏi Liên bang vì theo Hiến
pháp, Liên bang không thể bị giải thể. Tổng thống Johnson đã tiến hành phục hồi lại
địa vị pháp lý, không buộc tội và cũng không thực thi chính sách can thiệp, dù ở mức
độ nhẹ nhất đối với ngƣời dân ở các bang miền Nam(1)
.
Cuộc Nội chiến Mỹ đã làm tổn thất rất nhiều nhân mạng, phe miền Bắc mất
gần 360.000 ngƣời trong số gần 2 triệu binh sĩ, phe miền Nam mất 250.000 ngƣời.
Miền Nam bị tàn phá nghiêm trọng, sản xuất ngƣng trệ. Tuy nhiên, mục tiêu chính đã
thực hiện đƣợc, cuộc chia rẽ lớn nhất trong lòng nƣớc Mỹ đã đƣợc giải quyết. Việc
giải phóng nô lệ đã đƣợc hoàn tất khi Quốc hội thông qua Tu chính án thứ 13 vào
ngày 18/12/1865, trong đó tuyên bố rằng: “Không một chế độ nô lệ nào, không một
hình thức tôi tớ miễn cưỡng nào, trừ khi để trừng phạt một trọng tội mà thể lệ pháp
(1)
Trƣớc khi bị ám sát (15/4/1865), Tổng thống Lincoln đã có ý định bồi thƣờng cho những chủ nhân nô lệ và
đƣa ra một đạo luật nhằm bảo đảm cho những ngƣời đƣợc giải phóng có một phƣơng tiện sinh hoạt dƣới một
chế độ tự do.
55
lý công nhận bị can đã phạm, có thể hiện hữu tại Hoa Kỳ, cũng như tại bất cứ nơi
nào thuộc thẩm quyền của quốc gia này” [57; tr.333].
Mặc dù đã đƣợc luật pháp thừa nhận quyền công dân song những nô lệ da đen
ở miền Nam còn phải đấu tranh lâu dài để có đƣợc đầy đủ quyền lợi của mình. Sau
Nội chiến, những chƣơng trình tái thiết ôn hòa mà vị Tổng thống quá cố A.Lincoln
và Tổng thống đƣơng nhiệm A.Johnson đã phải đối mặt với rất nhiều sự chống đối,
thậm chí có khi không thể thực hiện đƣợc. Những ngƣời da trắng ở miền Nam không
bao giờ có ý định sống hòa thuận với ngƣời da đen và cũng không có ý định chia sẻ
quyền lực chính trị với những ngƣời đã từng là nô lệ của họ. Còn các đảng viên Đảng
Cộng hòa cấp tiến ở miền Bắc thì chủ trƣơng phải thực hiện chính sách tái thiết
“diều hâu” bằng cách trừng phạt miền Nam, cụ thể là tầng lớp chủ nô da trắng. Các
bang miền Nam đã ban hành “Luật Đen” nhằm hạn chế quyền lợi của nô lệ da đen,
không cho họ có quyền bầu cử, làm việc trong ban bồi thẩm, xét xử ngƣời da trắng
tại tòa án, không đƣợc kết hôn với ngƣời da trắng và cũng không đƣợc ký kết hợp
đồng lao động trên cơ sở bình đẳng với ngƣời da trắng [11; tr.498]. Để đáp trả lại tƣ
tƣởng cực đoan của các bang miền Nam, những đảng viên Cộng hòa cấp tiến đã
thông qua “Luật Dân sự”(1)
và Tu chính án thứ 14(2)
. Nhằm ngăn cản những ngƣời
Cộng hòa cấp tiến thực hiện chính sách tái thiết khắt khe với miền Nam, Tổng thống
Johnson đã thực hiện 29 phủ quyết, trong đó có 15 phủ quyết bị Quốc hội bác bỏ nhƣ
“Luật Dân sự”, “Luật cơ quan của người được giải phóng” (1866), “Luật quyền
bầu cử” của quận Columbia (1867), “Bốn luật tái thiết” (1867 – 1868)…
Cuộc bầu cử năm 1868 đã đƣa ngƣời anh hùng trong cuộc Nội chiến là tƣớng
Ulysses S.Grant lên làm tổng thống và Đảng Cộng hòa cũng nắm phần thắng tại Thƣợng
viện và Hạ viện. Ngay sau đó, Quốc hội Mỹ đã thông qua Tu chính án thứ 15 nhằm bảo
đảm quyền đầu phiếu của công dân: “Chính phủ Hoa Kỳ và các tiểu bang không được
phủ nhận quyền đầu phiếu của công dân Hoa Kỳ hoặc không được hạn chế quyền đó vì lý
do chủng tộc, màu da hoặc vì trước đây họ đã là nô lệ”. Chính quyền của Tổng thống
(1)
Luật Dân sự đƣợc Quốc hội Mỹ thông qua vào tháng 4/1866, xem mọi ngƣời sinh ra tại Hoa Kỳ (ngoại trừ
ngƣời da đỏ) đều là công dân và có quyền bình đẳng bất kể màu da về những việc nhƣ ký kết hợp đồng, thƣa
kiện, đƣợc hƣởng sự đảm bảo về an ninh con ngƣời và tài sản [21; tr.136].
(2) Tu chính án thứ 14 đƣợc Quốc hội thông qua vào tháng 6/1866, trong đó có một số điều khoản quan trọng
nhƣ nghiêm cấm các tiểu bang rút ngắn sự bình đẳng trƣớc pháp luật, quy định giảm số đại diện của tiểu bang
tƣơng ứng với số nam công dân mất quyền bầu cử… [21; tr.140].
56
Grant đe dọa dùng vũ lực để xử lý những bang không cho ngƣời da đen có quyền bầu cử
và những tổ chức khủng bố, nổi tiếng nhất là Ku Klux Klan (3K)(1)
phải phục tùng pháp
luật. Ở North Carolina, nơi bọn 3K hoạt động rất mạnh mẽ, Grant đã ra lệnh bắt ngƣời
hàng loạt. Trên thực tế, mặc dù vẫn bị kỳ thị nhƣng nhờ đƣợc chính phủ liên bang bảo
đảm về mặt pháp lý, ngƣời da đen cũng đã bắt đầu cuộc tranh đấu về chính trị và đã giành
đƣợc một số thắng lợi nhất định. Cho đến cuối thời kỳ Tái thiết, toàn miền Nam có 18
ngƣời da đen đƣợc giữ những chức vụ quan trọng nhƣ phó thống đốc, giám đốc ngân khố,
ủy viên giáo dục, ủy viên đối ngoại. Tháng 12/1872, P.B.S.Pinchback trở thành vị thống
đốc da đen đầu tiên trong lịch sử nƣớc Mỹ khi thay thế Henry Warmoth, thống đốc bang
Louisiana bị buộc tội và cách chức. Cơ cấu chính trị nƣớc Mỹ cũng có sự thay đổi lớn sau
Nội chiến với trên 600 ngƣời da đen, phần đông là những nô lệ cũ đƣợc bầu vào các hội
đồng lập hiến. Ở những cấp chính quyền địa phƣơng cũng có nhiều ngƣời da đen nắm giữ
những chức vụ quan trọng. Nhiều thành phố lớn và thị trấn trở thành trung tâm sinh hoạt
chính trị của ngƣời da đen nhƣ thành phố Petersburg (Virginia), Nashville (Tennessee)…
Nhƣ vậy, sau Nội chiến, với những nỗ lực không ngừng nghỉ của chính phủ và
cá nhân các tổng thống Lincoln, Johnson và Grant, thể chế nhà nƣớc liên bang đã
đƣợc kiện toàn và sắp đặt quyền lực lên toàn bộ lãnh thổ, củng cố sự thống nhất của
lãnh thổ bằng quy mô công nghiệp hóa chƣa từng có. Những điển chế, nguyên tắc mà
Chính phủ liên bang đã ban hành trong thời kỳ Tái thiết đã bảm đảm rằng không một
thế lực nào có thể làm tổn hại đến Chủ nghĩa Liên bang (American Federalism).
Thêm vào đó, sự hợp pháp quyền công dân của những nô lệ da đen về mặt pháp lý
(trên thực tế, nô lệ da đen ít nhiều vẫn bị kỳ thị và bị tấn công bởi những ngƣời da
trắng ở miền Nam) đã đem lại một bầu không khí dân chủ, tạo ra những điều kiện
thuận lợi để nƣớc Mỹ phát triển kinh tế, nhanh chóng vƣơn lên trở thành một trong
những cƣờng quốc hàng đầu, bƣớc đầu thực thi chính sách bành trƣớng ra bên ngoài.
Trên cơ sở sự phát triển kinh tế và kiện toàn về mặt tổ chức nhà nƣớc sau thời
kỳ tái thiết, cho đến cuối thế kỷ XIX, giới tinh hoa chính trị Hoa Kỳ về cơ bản đã
thống nhất trong việc bành trƣớng ra nƣớc ngoài. Sự thống nhất về mặt chính trị đó
(1)
Đảng 3K đƣợc thành lập sau khi cuộc Nội chiến kết thúc ở Pulaski, Tennessee, bởi 6 cựu binh của quân đội
miền Nam. Tổ chức 3K nguyên là một tổ chức vũ trang phục vụ lợi ích cho Đảng Dân chủ, quyền lợi các chủ
đồn điền và những ai mong muốn ngƣời da trắng thống trị. Đến năm 1870, 3K và các tổ chức tƣơng tự nhƣ
“Hiệp sĩ Hoa trà trắng” hay “Tình huynh đệ da trắng” tung hoành khắp các bang miền Nam [21; tr.206].
57
không chỉ dừng lại trong suy nghĩ mà đã đƣợc khuyến khích bởi các hoạt động ở
nƣớc ngoài từ rất sớm. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong “Các trường
hợp về việc sử dụng lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ ở nước ngoài giai đoạn 1798 -
1945” đƣợc Ngoại trƣởng Dean Rusk trình bày trƣớc một ủy ban của Thƣợng viện
năm 1962 đã liệt kê đến 103 vụ can thiệp vào nội bộ của nƣớc khác từ năm 1798 đến
năm 1895(1)
[75; tr.362].
Nhƣ vậy, cho đến những năm 1890, ý chí chính trị về việc bành trƣớng lan rộng
trong các tầng lớp thuộc lực lƣợng quân đội, chính trị gia, doanh nhân, thậm chí cả một
số lãnh đạo phong trào nông dân vốn cho rằng thị trƣờng nƣớc ngoài có thể giúp đỡ họ.
Trên cơ sở thúc ép từ quan điểm thực lực của Mahan, nhiều lãnh đạo Hoa Kỳ đã bắt đầu
nói đến việc “cần phải nhìn ra bên ngoài”. Thƣợng nghị sỹ Henry Cabot Lodge của
bang Massachusetts đã viết: “Vì lợi ích thương mại của chúng ta…chúng ta phải xây
dựng kênh đào Nicaragua và bảo vệ kênh đào đó, cũng như bảo vệ vị thế thương mại tại
khu vực Thái Bình Dương, chúng ta phải kiểm soát được các hòn đảo thuộc Hawaii và
duy trì sức ảnh hưởng tại Samoa… và khi kênh đào Nicaragua được xây dựng, hòn đảo
Cuba…sẽ trở nên rất cần thiết. Các cường quốc sẽ nhanh chóng nhảy vào vì sự bành
trướng cho tương lai cũng như sự hiện diện về mặt quân sự tại những nơi vẫn còn trống
trên trái đất này. Đó là một hành động vì thế giới văn minh và sự tiến bộ của nhân loại.
Với tư cách là một trong những cường quốc trên thế giới, Hoa Kỳ không thể bị tuột khỏi
hàng ngũ cuộc diễu hành đó” [75; tr.363].
Nhận định nói trên của H.C.Lodge đã chứng minh một thực thế rằng có sự
gặp gỡ và thống nhất trong quan điểm bành trƣớng giữa các nhà tƣ tƣởng với giới
chính trị hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1865 – 1918.
Bành trƣớng đã trở thành nhiệm vụ và là một điều cần thiết cho Hoa Kỳ trong những
(1)
Lƣợc trích một số miêu tả của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong danh sách nói trên nhƣ sau:
- 1852 – 1853 – Argentina: Lực lƣợng lính thủy đánh bộ đã đổ bộ và duy trì tại Buenos Aires để bảo vệ các lợi
ích của Hoa Kỳ.
- 1853 – Nicaragua: bảo vệ công dân và lợi ích của Hoa Kỳ trong giai đoạn bất ổn về mặt chính trị,
- 1853 - 1854 – Nhật Bản: “Mở cửa nước Nhật” và cuộc viễn chinh của Perry bằng “ngoại giao pháo hạm”.
- 1854 – Nicaragua: Greytown đã bị phá hủy để trả thù việc xúc phạm đến công sứ của Mỹ tại Nicaragua.
- 1855 – Uruguay: lực lƣợng hải quân Hoa Kỳ và châu Âu đã đổ bộ vào Uruguay để bảo vệ các lợi ích của Hoa
Kỳ trong cuộc cách mạng tại Montevideo.
- 1859 - Trung Quốc: Bảo vệ các lợi ích của Hoa Kỳ tại Thƣợng Hải.
- 1860 – Angola, khu vực Tây Phi thuộc Bồ Đào Nha: Để bảo vệ công dân và các lợi ích của Hoa Kỳ khi
ngƣời bản địa có những hành động quấy phá.
- 1893 – Hawaii: bề ngoài là bảo vệ cuộc sống và tài sản của Hoa Kỳ, thực chất là ủng hộ chính phủ lâm thời
dƣới sự lãnh đạo của Sanford B.Dole. Hành động này bị Hoa Kỳ chối bỏ.
- 1894 – Nicaragua: bảo vệ các lợi ích của Hoa Kỳ tại Bluefields sau khi cuộc cách mạng nổ ra.
(Nguồn: Howard Zinn (2010), ―Lịch sử dân tộc Mỹ” (bản dịch), Nxb.Thế giới, Hà Nội, tr.362 - 363)
58
năm cuối thế thế kỷ XIX, xét trên mọi phƣơng diện, đặc biệt là do sự thúc ép của quá
trình phát triển kinh tế ở Hoa Kỳ. Điều này đã tạo ra cơ sở cho quá trình tìm kiếm vị
thế quốc tế và lợi ích của Hoa Kỳ trong các khu vực mà đất nƣớc này quan tâm nhƣ
Mỹ Latinh, CA-TBD và một số khu vực khác.
Tiểu kết
Sau khi giành đƣợc độc lập cho đến trƣớc Nội chiến, Mỹ đã từng bƣớc xác lập
đƣờng lối đối ngoại bằng chính sách biệt lập (hoặc chủ nghĩa biệt lập). Hoa Kỳ đã
tập trung mọi nguồn lực để mở rộng lãnh thổ về phía Tây và bành trƣớng đƣợc xem
nhƣ là một “định mệnh hiển nhiên”. Song hành với quá trình mở rộng lãnh thổ, khi
điều kiện cho phép, Hoa Kỳ đã đƣa không gian của chủ nghĩa biệt lập ra toàn bộ
châu Mỹ bằng Học thuyết Monroe và các hành động can thiệp đi kèm sau đó.
Tham vọng bành trƣớng của Hoa Kỳ diễn ra trong bối cảnh những thập niên cuối
cùng của thế kỷ XIX, thế giới chứng kiến sự chuyển biến của các nƣớc TBCN sang giai
đoạn ĐQCN. Cùng với sự xuất hiện của các nƣớc đế quốc trẻ là các cuộc chiến tranh nổ
ra để giành giật thị trƣờng và thuộc địa. Trên cơ sở đó, nhiều hiệp ƣớc đƣợc ký kết giữa
các nƣớc đế quốc với nhau nhằm phân chia và tranh giành quyền lợi làm cho bức tranh
quan hệ quốc tế từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX luôn diễn biến phức tạp và
khó lƣờng. Tình hình đó vừa tạo ra thuận lợi lẫn thách thức trên con đƣờng thực hiện
tham vọng mở rộng ảnh hƣởng và địa vị của Hoa Kỳ ra xung quanh.
Trong bối cảnh ấy, với sự phát triển vƣợt trội về kinh tế sau Nội chiến cộng
với tác động, ảnh hƣởng mạnh mẽ của các trào lƣu tƣ tƣởng trong lòng xã hội và sự
thống nhất về đƣờng lối bành trƣớng của tầng lớp tinh hoa chính trị đã thuyết phục
đƣợc giới cầm quyền Hoa Kỳ rằng đã đến lúc phải tìm một vai trò lớn hơn trong
quan hệ quốc tế. Vai trò mà Hoa Kỳ muốn đạt đến chính là sự chi phối của ngƣời Mỹ
không chỉ trong nội bộ châu Mỹ - nơi không còn đủ rộng rãi cho các nhà tài phiệt
Hoa Kỳ, mà phải là các khu vực có phạm vi rộng lớn hơn nhƣ CA-TBD và một số
vùng đất khác. Xuất phát từ sức ép của tổng hòa các nhân tố kinh tế, chính trị và tƣ
tƣởng, Hoa Kỳ đã bắt đầu can dự vào các công việc quốc tế, từng bƣớc vƣơn đến và
khẳng định quyền lực thế giới nhƣ một thực thể chính yếu mà các cƣờng quốc khác
không thể không tính đến khi tiến hành các hoạt động bên ngoài biên giới quốc gia
của họ. Đó chính là nền tảng cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ mới
sau Nội chiến cho đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất, đánh dấu sự gia tăng vị
thế mạnh mẽ của Hoa Kỳ trên thế giới.
59
CHƢƠNG 3.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
ĐỐI VỚI MỘT SỐ KHU VỰC TIÊU BIỂU THỜI KỲ 1865 – 1918
3.1. Khái quát chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 - 1918
Trên cơ sở sự phát triển kinh tế công nghiệp mạnh mẽ sau Nội chiến kết hợp
với sự thúc ép của các nhân tố tƣ tƣởng trong lòng xã hội, sự thống nhất về chủ
trƣơng chính trị của tầng lớp lãnh đạo và việc xóa bỏ chế độ nô lệ khi Quốc hội
thông qua Tu chính án thứ 13, Hoa Kỳ đã bắt đầu có đƣợc những điều kiện để điều
chỉnh chính sách đối ngoại, gia tăng sự ảnh hƣởng và phạm vi quyền lực ở các khu
vực xung quanh. Kể từ đây, Hoa Kỳ không còn gói gọn trong phạm vi của chủ nghĩa
biệt lập mà đã bắt đầu tìm kiếm một vai trò lớn hơn tƣơng ứng với vị thế ngày càng
quan trọng của Hoa Kỳ trên trƣờng quốc tế và đã đạt đƣợc những thành công rực rỡ
trong việc thực thi chính sách đối ngoại bành trƣớng của mình. Hoa Kỳ đã từng bƣớc
xác lập phạm vi ảnh hƣởng và khẳng định lợi ích của mình bằng nhiều chính sách cụ
thể đối với các khu vực gắn liền với lợi ích của Mỹ nhƣ Mỹ Latinh, CA-TBD…
Tháng 4/1898 (thời điểm trƣớc khi Mỹ tuyên chiến với Tây Ban Nha),
Thƣợng nghị sĩ Albert Beveridge đã phát biểu tại Boston về giấc mơ bành trƣớng
Hoa Kỳ: “Các nhà máy của nước Mỹ sản xuất mức tiêu dùng nhiều hơn của người
Mỹ; người Mỹ bán sản phẩm nhiều hơn họ tiêu thụ. Đó là chính sách định mệnh
giành cho chúng ta…Chúng ta sẽ thiết lập các trạm liên thông thương mại, cũng như
các điểm phân phối cho hàng hóa của nước Mỹ trên khắp thế giới. Chúng ta sẽ
khống chế đại dương bằng những thương gia hàng hải của chúng ta. Chúng ta sẽ xác
lập một phạm vi hàng hải vĩ đại nhất cho chúng ta…” [68; tr.716]. Dù chiến tranh
giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha chƣa khai màn nhƣng Beveridge cũng đã dự báo đƣợc
trƣớc phần thắng của Mỹ. Những lời lẽ hùng hồn và cuồng nhiệt của ông ta đã nói
lên một cách đầy đủ tham vọng bành trƣớng của nƣớc Mỹ từ sau cuộc Nội chiến.
Khát vọng to lớn mà ngƣời Mỹ hƣớng đến đầu tiên chính là khu vực Mỹ Latinh.
Không giống nhƣ thời kỳ trƣớc đó, kể từ sau cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, Hoa
Kỳ đã có đủ sức mạnh để lấn át các cƣờng quốc thực dân cũ đang còn chỗ đứng tại
khu vực này nhƣ Tây Ban Nha, Anh, Pháp…, buộc các cƣờng quốc này phải nhƣợng
lại cho Hoa Kỳ những lợi ích quan trọng tại đây. Tây Ban Nha chính là mục tiêu đầu
tiên của “cơn sốt bành trướng Mỹ”. Sau khi chiến tranh kết thúc, theo những điều
60
khoản do Hiệp định Paris quy định, Tây Ban Nha buộc phải từ bỏ mọi quyền hành
của mình ở Cuba; nhƣợng lại đảo Puerto Rico, Guam, các đảo ở quần đảo Mariana
và các đảo khác ở khu vực Tây Ấn mà nƣớc này đã kiểm soát trƣớc chiến tranh. Hoa
Kỳ cũng sẽ giành quyền quản lý Philippines sau khi trả cho Tây Ban Nha 20 triệu
USD. Đến thập niên đầu của thế kỷ XX, Hoa Kỳ lại tiếp tục đẩy mạnh chính sách
bành trƣớng của mình tại Mỹ Latinh dƣới nhiều hình thức khác nhau. Các chính sách
nhƣ “Cây gậy lớn” đã can thiệp trực tiếp và thô bạo đến tình hình nội tại của nhiều
nƣớc Mỹ Latinh, hay chính sách “Ngoại giao Dollar” đã rêu rao sẽ tránh cho Mỹ
Latinh đƣợc nạn nợ nƣớc ngoài và khủng hoảng tài chính nhƣng thực chất là thay thế
nguồn đầu tƣ kinh doanh của các cƣờng quốc châu Âu ở Mỹ Latinh bằng của Hoa
Kỳ và do đó đem lại cho nƣớc Mỹ thêm nhiều ảnh hƣởng chính trị ở Tây bán cầu.
Nhƣ vậy, bằng cách giƣơng cao ngọn cờ “độc lập dân tộc” đầu tiên của “Tân thế
giới” và “con bài” chính trị dân chủ cấp tiến của mình, Hoa Kỳ đã làm cho nhiều
quốc gia khu vực Mỹ Latinh ngộ nhận về những hành động “bảo vệ” khu vực này
trƣớc các cƣờng quốc thực dân cũ ở châu Âu. Tuy nhiên, sự thật lại khác xa những gì
mà ngƣời Mỹ tuyên bố, Cuba chính là một minh chứng điển hình cho hình thức chủ
nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ.
Mặc dù Mỹ Latinh luôn là hƣớng bành trƣớng hàng đầu của Hoa Kỳ nhƣng
châu Á cũng đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt trong nền ngoại giao Hoa Kỳ thời kỳ
này. Đối với Nhật Bản, các cuộc chiến tranh mà nƣớc này phát động cuối thập niên
80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX đều có sự trợ lực từ Hoa Kỳ. Thông qua những
trợ lực này, Hoa Kỳ nhắm đến mục tiêu là tìm kiếm lợi ích thƣơng mại ở vùng Viễn
Đông. Đến đầu thế kỷ XX, nhận thấy sự lớn mạnh của Nhật Bản sẽ là nguy cơ “nhãn
tiền” đối với các giao dịch và cơ sở thƣơng mại cũng nhƣ phạm vi ảnh hƣởng của
mình, Hoa Kỳ đã thực hiện các chiến lƣợc nhằm ngăn chặn và cô lập Nhật Bản. Còn
tại Trung Quốc, để thực hiện tham vọng bành trƣớng của mình, Hoa Kỳ đã “kết bạn”
với các cƣờng quốc khác (trƣớc năm 1899) và tự mình tuyên bố thi hành chính sách
“Mở cửa” Trung Quốc. Ở các nƣớc Đông Nam Á nhƣ Thái Lan, Philippines, Hoa
Kỳ cũng đã có nhiều cách thức khác nhau nhằm tạo lập cho mình những lợi ích về
thƣơng mại, lãnh thổ tại các nƣớc này.
Tham vọng bành trƣớng của Hoa Kỳ còn đƣợc thể hiện rất rõ nét trong Chiến
tranh thế giới thứ nhất. Trƣớc thời điểm Mỹ tham chiến, ngày 2/4/1917, Tổng thống
W.Wilson đã tuyên bố trƣớc Quốc hội rằng: “Chúng ta không mong muốn xâm lược
61
nước nào cả và không mong muốn có những lãnh thổ mới nào cả. Chúng ta không
đòi hỏi một sự bồi thường vật chất nào đối với những sự hy sinh mà người khác gây
ra cho chúng ta. Chúng ta là một đội ngũ chiến sĩ đấu tranh cho sự tự do của loài
người” [52; tr.33]. Tuy nhiên, khác xa với những lời lẽ hoa mỹ mà Tổng thống
Wilson tuyên bố, Chƣơng trình 14 điểm do chính ông đề xuất sau khi chiến tranh kết
thúc thực chất là một kế hoạch bành trƣớng của Mỹ nhằm giành quyền thống trị thế
giới, phá vỡ trật tự thế giới cũ do các cƣờng quốc châu Âu đứng đầu để Mỹ có thể
thực hiện tham vọng lãnh đạo thế giới của mình.
Với những mục tiêu, chủ trƣơng, định hƣớng và tham vọng cụ thể nói trên,
Hoa Kỳ trong thời kỳ 1865 – 1918 đã từng bƣớc mở rộng ảnh hƣởng ra bên ngoài.
Đồng thời, Hoa Kỳ còn khống chế các khu vực có lợi ích sống còn, tăng cƣờng can
dự vào những vấn đề quốc tế lớn để dần vƣơn đến địa vị quyền lực thế giới trong
những năm tiếp theo. Thực tế chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Mỹ Latinh,
châu Á và một số nƣớc ở châu Âu dƣới đây sẽ chứng minh điều này.
3.2. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực Mỹ Latinh
Khu vực Mỹ Latinh là địa bàn chiến lƣợc, phản ảnh lợi ích quốc gia của Hoa
Kỳ từ lâu trong lịch sử. Bởi ngay từ đầu, nhằm ba mục tiêu cơ bản là an ninh, phát
triển và phát huy ảnh hƣởng của mình trên thế giới, Hoa Kỳ ngay sau khi mới thành
lập đã chọn khu vực Mỹ Latinh để thực hiện các mục tiêu đối ngoại đó. Trên đà phát
triển sau khi cuộc Nội chiến kết thúc, Hoa Kỳ đã có đầy đủ thực lực để biến Mỹ
Latinh thực sự trở thành ―sân sau‖ bằng các chính sách cụ thể.
3.2.1. Giai đoạn 1865 – 1898
3.2.1.1. Mở rộng và khẳng định ảnh hưởng ở khu vực Mỹ Latinh
Nửa sau thế kỷ XIX là giai đoạn bành trƣớng đế quốc của Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
quá trình đế quốc hóa tại Hoa Kỳ không diễn ra nhƣ ở các nƣớc châu Âu đối địch
khác, bởi lịch sử đấu tranh chống các đế quốc châu Âu của Hoa Kỳ và bởi cả sự phát
triển độc nhất vô nhị tại đây.
Nguồn gốc dẫn đến sự bành trƣớng của Hoa Kỳ nửa sau thế kỷ XIX là do
nhiều lý do. Xét tình hình quốc tế, đây là giai đoạn mà chủ nghĩa đế quốc phát triển
mạnh mẽ nhất. Các thế lực châu Âu xâu xé châu Phi và cùng với Nhật Bản cạnh
tranh lẫn nhau nhằm giành quyền lực chính trị và thƣơng mại tại châu Á. Rất nhiều
ngƣời Mỹ, trong đó có các nhân vật đầy thế lực nhƣ Theodore Roosevelt, Henry
Cabot Lodge và Elihu Root nhận thấy rằng, để đảm bảo quyền lợi của chính mình,
62
nƣớc Mỹ cũng cần phải giành lấy cho mình những lợi ích kinh tế. Quan điểm này
đƣợc tiếp sức bởi các cuộc vận động hành lang mạnh mẽ của lực lƣợng hải quân,
theo đó mạng lƣới các cảng biển và đội tàu của Mỹ đƣợc mở rộng, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia. Nhìn chung, học thuyết ―bành trướng
do định mệnh‖, trƣớc đây thƣờng đƣợc viện dẫn nhằm biện minh cho công cuộc bành
trƣớng lục địa của Mỹ nay lại đƣợc khẳng định lại với tuyên bố rằng nƣớc Mỹ có
quyền và nghĩa vụ mở rộng ảnh hƣởng cũng nhƣ nền văn minh của họ ra bán cầu
Tây và vùng biển Caribbean cũng nhƣ các nƣớc bên kia Thái Bình Dƣơng.
Đối với khu vực Mỹ Latinh, chỉ hai năm sau ngày kết thúc Nội chiến, Hoa Kỳ
đã có những động thái khẳng định vị thế của nƣớc này tại Tây bán cầu. Vào năm
1867, Mỹ đã ép Pháp phải rút quân đội ra khỏi Mexico và Pháp buộc phải nhƣợng
bộ. Trƣớc đó, vào năm 1862, hoàng đế Pháp Napoleon III vốn ủng hộ phe miền Nam
(thời điểm này đang chiếm ƣu thế so với phe miền Bắc) đã cho một đội quân viễn
chinh đổ bộ lên Mexico nhằm tạo nên một biên cƣơng chung với những tiểu bang
miền Nam nƣớc Mỹ để có thể đem lại sự viện trợ hữu hiệu khi cần thiết; đồng thời,
cũng muốn biến Mexico thành thuộc địa lâu dài của Pháp [57; tr.353]. Tuy nhiên,
Pháp đã không dự đoán trƣớc đƣợc sự kháng cự mạnh mẽ của Mexico và phải mất
đến hai năm, nƣớc Pháp mới dựng lên đƣợc một hoàng đế bù nhìn tại quốc gia Trung
Mỹ này. Nhƣng vào chính lúc này, phe miền Nam đang đi dần đến sự thất bại. Nhờ
đó mà Chính phủ Hoa Kỳ sắp có cơ hội để rảnh tay hành động. Dựa vào Học thuyết
Monroe, Mỹ đã phái một đạo quân tới biên giới giáp với Mexico và yêu cầu Pháp
phải rút quân đội ra khỏi đất nƣớc này. Do đang phải đối mặt với nguy cơ bành
trƣớng của Phổ ở châu Âu, Napoleon III đã buộc phải chấp nhận yêu cầu nói trên của
Mỹ. Đến năm 1867, Pháp đã triệt thoái hoàn toàn quân đội ở Mexico.
Một hoạt động khác cho thấy chính sách bảo vệ lợi ích và khẳng định vai trò
của Hoa Kỳ ở khu vực Mỹ Latinh ngày càng rõ ràng sau Nội chiến là sự kiện tranh
chấp biên giới giữa Anh và Venezuela, hay đúng hơn là sự tranh chấp đƣờng biên
giới giữa Venezuela với xứ Guyana thuộc Anh. Nhận thấy mình bị yếu thế,
Venezuela đề nghị có ngƣời làm trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp song bị
Anh từ chối. Venezuela ngay lập tức cầu cứu Hoa Kỳ và ngay lập tức đã đƣợc Tổng
thống Grover Cleveland đồng ý giúp. Năm 1895, những cuộc tranh cãi gay gắt giữa
ngoại trƣởng hai nƣớc Anh và Hoa Kỳ đã xảy ra, trong đó Ngoại trƣởng Hoa Kỳ, ông
Richard Olney đã thẳng thừng tuyên bố với ngƣời Anh rằng: “Ngày nay, Hoa Kỳ
63
thực hiện chủ quyền trên thực tế đối với lục địa này và áp đặt ý muốn của mình trên
những lĩnh vực mà Hoa Kỳ muốn hạn chế sự can thiệp. Với vị trí cô lập và tài
nguyên vô tận của mình, Hoa Kỳ đã làm chủ tình thế và thực tế bất khả xâm phạm
bởi bất cứ cường quốc nào khác hoặc bởi tất cả các cường quốc khác” [44; tr.218].
Về sau, vấn đề này đƣợc giải quyết thông qua trọng tài quốc tế nhƣng điều đáng chú
ý là Hoa Kỳ đã hành động nhƣ một kẻ bảo vệ lợi ích của chính mình, nhƣ các nƣớc
châu Âu khác. Đó là điều gần nhƣ mang tính tất yếu đối với Hoa Kỳ, bởi theo họ,
“châu Mỹ là của người châu Mỹ” song thực chất là của ngƣời Mỹ - điều đã đƣợc
Tổng thống J.Monroe đƣa ra vào năm 1823.
Đỉnh điểm của chính sách mở rộng và tăng cƣờng ảnh hƣởng của Hoa Kỳ ở
khu vực Mỹ Latinh giai đoạn 1865 – 1898 chính là cuộc chiến tranh Hoa Kỳ - Tây
Ban Nha năm 1898. Cuộc chiến tranh này đã đánh dấu một bƣớc ngoặt trong chính
sách can thiệp vào khu vực Mỹ Latinh của Hoa Kỳ nói riêng và cũng là dấu ấn cho
thấy Hoa Kỳ bắt đầu can dự vào các vấn đề quốc tế với tƣ cách là một cƣờng quốc
thế giới. Bởi khi Hoa Kỳ bƣớc lên vũ đài chính trị quốc tế thì thị trƣờng thế giới gần
nhƣ đã đƣợc các nƣớc đế quốc đi trƣớc phân chia xong. Trong khi các nƣớc đế quốc
già nhƣ Anh, Pháp, Nga… có trong tay hàng triệu km2
đất đai thuộc địa thì Hoa Kỳ
lại không có gì. Đứng trƣớc hoàn cảnh ấy cộng với sức ép của nền kinh tế trong việc
mở rộng thị trƣờng, tăng cƣờng nguồn cung cấp nguyên vật liệu, nhân công và các
cơ sở đảm bảo cho nền thƣơng mại, Hoa Kỳ đã bắt đầu tìm kiếm thuộc địa theo cách
của mình.
Có thể nói, đối tƣợng cho tham vọng bành trƣớng của Hoa Kỳ trong thời điểm
này chính là các thuộc địa của các đế quốc già cỗi, suy yếu nhƣ Tây Ban Nha. Cho
đến cuối thế kỷ XIX, Tây Ban Nha đang trên đƣờng suy tàn, vì vậy, các thuộc địa
của Tây Ban Nha đã trở thành đối tƣợng trực tiếp cho sự “phân chia lại” thế giới của
Hoa Kỳ. Lợi ích kinh tế và những đảm bảo về mặt an ninh từ việc xâm nhập các
vùng đất thuộc địa là nguyên nhân dẫn đến việc Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh chống
Tây Ban Nha, qua đó giành lấy Cuba, Puerto Rico và Philippines từ tay đế quốc này.
Thực ra không phải mãi đến cuối thế kỷ XIX Hoa Kỳ mới có những quan tâm
đến Cuba. Ngay từ thời lập nƣớc, nhất là dƣới thời Tổng thống T.Jefferson, ông đã
cho ngƣời liên hệ với những nhân sĩ có ảnh hƣởng ở Cuba, khuyến khích họ tiến
hành những hoạt động cho nền độc lập của Cuba, tức tách Cuba ra khỏi Tây Ban Nha
nhằm để phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Đến đầu thập niên 1820, bên cạnh sự xâm nhập về
64
kinh tế, Hoa Kỳ bắt đầu để lộ ý đồ xâm chiếm Cuba. Dƣ luận Hoa Kỳ đã bắt đầu rêu
rao nhiều về “lợi ích đặc biệt” và “tính chất quan trọng” của Cuba đối với Hoa Kỳ.
Ngày 28/4/1823, trong bức thƣ gửi cho Công sứ Mỹ tại Tây Ban Nha, Ngoại trƣởng
Hoa Kỳ John Quincy Adams đã đánh giá rằng “tính chất quan trọng của Cuba đối
với lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là không một lãnh thổ nước ngoài nào có thể so
sánh kịp” [38; tr.4] và Hoa Kỳ lập luận rằng, Cuba là “vật phụ thuộc thiên nhiên”
vào lục địa Bắc Mỹ. Với vị trí chiến lƣợc án ngữ các con đƣờng giao thƣơng giữa
Bắc và Nam Mỹ, giữa Trung Mỹ và châu Âu, Cuba là “chiếc chìa khóa của thế
giới’’. Nƣớc nào chiếm đƣợc Cuba sẽ có thể khống chế con đƣờng thƣơng mại trên
biển quan trọng bậc nhất, và là bàn đạp để thâm nhập vào các nƣớc Mỹ Latinh khác.
Bên cạnh việc giữ một vị trí chiến lƣợc quan trọng, Cuba còn là nơi có nguồn tài
nguyên phong phú, đƣợc mệnh danh là “hòn ngọc của biển Caribbean“. Đối với
Hoa Kỳ, Cuba là một vùng đất có ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế lẫn đảm bảo an
ninh của đất nƣớc này. Do vậy, chiếm đƣợc Cuba, vịnh Mexico và biển Antilles sẽ
trở thành “cái hồ“ của Hoa Kỳ, che chở cho miền duyên hải phía Nam của Mỹ, giúp
Hoa Kỳ dễ dàng chi phối mạnh mẽ hơn các nƣớc Trung và Nam Mỹ.
Cho đến trƣớc những năm 1890, Cuba và Puerto Rico là hai thuộc địa duy
nhất còn sót lại tại Tân thế giới của đế quốc Tây Ban Nha vốn một thời hùng mạnh;
trong khi đó quần đảo Philippines là trung tâm quyền lực của Tây Ban Nha tại vùng
biển Thái Bình Dƣơng. Đến năm 1895, sự phản kháng ngày một mạnh mẽ của những
ngƣời Cuba đã biến thành một cuộc chiến tranh du kích giành độc lập. Hầu hết ngƣời
Mỹ lúc bấy giờ đồng cảm với ngƣời dân Cuba nhƣng Tổng thống G.Cleveland vẫn
“cương quyết giữ thái độ trung lập”. Tuy nhiên, ba năm sau, vào thời Tổng thống
William McKinley, chiến hạm Maine của Mỹ đƣợc phái tới Havana trong một
chuyến ghé thăm xã giao nhằm mục đích thể hiện mối quan tâm của nƣớc Mỹ trƣớc
các cuộc đàn áp đẫm máu của Tây Ban Nha đã nổ tung trong bến cảng vào ngày
15/2/1898, làm 266 trong tổng số 350 thủy thủ thiệt mạng. Nguyên nhân của vụ nổ
cho đến nay vẫn chƣa đƣợc xác định, song ngƣời Mỹ tin rằng chính Tây Ban Nha đã
đặt mìn phá tàu và rằng ngƣời Tây Ban Nha phải chịu trách nhiệm về con tàu. Sự
phẫn nộ đƣợc đổ thêm dầu vào lửa bởi các bài báo giật gân, đã lan khắp Hoa Kỳ. Lúc
đầu Tổng thống McKinley cố duy trì hòa bình nhƣng sau đó vài tháng, “tin rằng trì
hoãn thêm cũng là vô ích”, vị tổng thống này đã tuyên bố can thiệp vũ trang vào
65
Cuba. Nhƣ vậy, sự kiện tàu Maine chính là “thời khắc quyết định’’ đƣa Hoa Kỳ đến
cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha.
Ngày 25/4/1898, Hoa Kỳ chính thức tuyên chiến với Tây Ban Nha. Việc can
dự của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha đã đƣợc Quốc hội Mỹ khẳng
định rằng “Hoa Kỳ bác bỏ mọi kế hoạch, ý định can thiệp vào chủ quyền hoặc khống
chế Cuba trừ trường hợp là các hòa ước hòa bình. Hoa Kỳ cũng khẳng định rằng,
chừng nào cuộc chiến tranh chấm dứt, Hoa Kỳ sẽ trao lại chính phủ và quyền cai
quản hòn đảo này cho nhân dân trên đảo” [11; tr.707].
Cuộc chiến với Tây Ban Nha diễn ra vô cùng nhanh gọn và chóng vánh. Tại
Cuba, quân đội Mỹ đã tiến vào Santiago và tấn công cảng này sau một loạt trận thắng
chớp nhoáng. Bốn tàu chiến Tây Ban Nha rời vịnh Santiago để chặn hạm đội Hoa Kỳ
cũng bị tiêu diệt gọn.
Tây Ban Nha nhanh chóng yêu cầu chấm dứt chiến tranh. Hiệp định hòa bình
đƣợc ký kết ngày 10/12/1898, theo đó Cuba thuộc quyền kiểm soát tạm thời của Mỹ
trƣớc khi quốc đảo này giành độc lập. Ngoài ra, Tây Ban Nha cũng nhƣợng lại
Puerto Rico và Guam thay cho các đền bù thiệt hại do chiến tranh và nhƣợng lại cho
Mỹ quần đảo Phillipines để đổi lấy 20 triệu USD. Trên thực tế, nƣớc Mỹ đã đóng vai
trò của một nƣớc thực dân. Nó vẫn duy trì quyền kiểm soát về mặt hành chính đối
với Puerto Rico, chỉ trao cho Cuba nền độc lập trên danh nghĩa, đi ngƣợc lại những
gì mà họ đã tuyên bố trƣớc đây.
3.2.1.2. Khống chế Mỹ Latinh bằng Liên minh Pan – Mỹ
Bên cạnh việc gạt dần ảnh hƣởng của các nƣớc châu Âu ra khỏi Mỹ Latinh,
Hoa Kỳ đã tính đến việc khống chế các nƣớc láng giềng phƣơng Nam bằng một định
chế khu vực nhằm chi phối sâu sắc hơn và biến khu vực này thực sự trở thành “sân
sau” của Hoa Kỳ. Thực ra, ý niệm về một tổ chức hợp tác ở Tây bán cầu đƣợc đề ra
trƣớc tiên bởi Simón Bolívar vào năm 1826 tại Hội nghị Panama nhằm tạo một liên
minh các nền cộng hòa ở châu Mỹ cùng chung nhau một minh ƣớc tƣơng trợ quân sự
và một nghị viện quốc tế để bảo vệ các nƣớc thuộc Mỹ Latinh khỏi bị ngoại lực
khống chế. Tại buổi họp đó có đại diện của Grand Colombia (nay là các nƣớc
Colombia, Ecuador, Panama và Venezuela), Peru, Mexico và Liên hiệp các Tỉnh
Trung Mỹ (bao gồm lãnh thổ của các quốc gia Guatemala, El Salvador, Honduras,
Nicaragua và Costa Rica hiện nay) nhƣng chỉ riêng Grand Colombia xúc tiến phê
66
chuẩn. Giấc mộng này nhanh chóng tan biến vì sau đó là nội chiến ở Grand
Colombia. Liên hiệp các Tỉnh Trung Mỹ sau đó cũng giải tán (1841).
Sau khi Nội chiến kết thúc, với vai trò là nƣớc mạnh nhất và có ảnh hƣởng lớn
nhất Tây bán cầu, Hoa Kỳ đã đóng vai trò thiết lập cơ sở, thể chế cho sự hợp tác giữa
các quốc gia Mỹ Latinh. Vào năm 1889, Ngoại trƣởng Hoa Kỳ James G.Blaine đƣa
ra sáng kiến rằng 21 quốc gia độc lập ở Tây bán cầu ngồi lại với nhau trong khuôn
khổ Hội nghị liên Mỹ lần đầu tiên nhằm mục đích liên kết thành một tổ chức để giải
quyết những bất đồng bằng các biện pháp hòa bình và thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh
tế. Kết quả là Liên minh Pan - Mỹ (còn gọi là Liên hiệp Quốc tế các Cộng hòa châu
Mỹ) đã ra đời vào năm 1890 tại Hội nghị Quốc tế các Quốc gia châu Mỹ kỳ I ở
Washington D.C. Cuối cùng, Cục các nƣớc Cộng hòa châu Mỹ đƣợc thành lập tại
Washington, làm nhiệm vụ nhƣ một trung tâm thông tin thƣơng mại. Tại Hội nghị kỳ
IV ở Buenos Aires (Argentina) năm 1910 tên gọi của tổ chức này đƣợc đổi thành
Liên hiệp Cộng hòa châu Mỹ và Nha sở lấy tên là Liên hiệp Liên Mỹ. Tổ chức này
đã phát triển dần để trở thành Tổ chức các nƣớc châu Mỹ (OAS – Organization of
American States) nhƣ ngày nay.
Nƣớc Mỹ, trong thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có sức mạnh tổng
lực đủ sức chi phối Mỹ Latinh cho nên đã đẩy mạnh âm mƣu biến khu vực Mỹ
Latinh thành một “hàng không mẫu hạm khổng lồ”, nhằm tạo nên khối liên kết để
chống lại sức mạnh đầu tƣ kinh tế và lũng đoạn chính trị của các nhà tƣ sản Anh,
Pháp, Hà Lan…tại đây. Qua đó, ngày càng thâu tóm một cách chặt chẽ các nƣớc Mỹ
Latinh trong vòng kiềm tỏa của nƣớc Mỹ, dần biến nó thành khu vực “sân sau” thực
sự của Mỹ. Và trên thực tế lịch sử các giai đoạn sau này, Hoa Kỳ đã sử dụng tổ chức
này nhƣ một công cụ để khống chế các nƣớc trong khu vực Mỹ Latinh cũng nhƣ gạt
bỏ những ảnh hƣởng thƣơng mại của các cƣờng quốc châu Âu tại Tân thế giới.
Chẳng hạn nhƣ tại Hội nghị Liên Mỹ diễn ra vào ngày 20/2/1929, mặc dù có những
nghi ngại đối với Hoa Kỳ, song 19 quốc gia, bao gồm: Bolivia, Brazil, Chile,
Colombia, Costa Rica, Cuba, Cộng hòa Dominica, Equador, Guatemala, Haiti,
Honduras, Mexico, Nicaragua, Panama, Paraguay, Peru, Uruguay, Venezuela và Hoa
Kỳ đã ký kết và thông qua Công ƣớc thƣơng mại giữa các quốc gia châu Mỹ nhằm
gạt bỏ những ảnh hƣởng về mậu dịch của các cƣờng quốc châu Âu [87; tr.4]. Công
ƣớc này cũng đem lại nhiều lợi ích to lớn cho Hoa Kỳ ở các nƣớc Mỹ Latinh khi mà
67
giờ đây, các nƣớc châu Âu đã không còn nhiều quyền lợi thƣơng mại tại khu vực này
và Hoa Kỳ trở thành ngƣời bảo trợ thƣơng mại lớn nhất tại châu lục này.
Như vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực Mỹ Latinh từ sau
Nội chiến đến Chiến tranh Hoa Kỳ - Tây Ban Nha vẫn là sự tiếp tục và mở rộng
chính sách ban đầu mà Học thuyết Monroe đã đề ra. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia
trong giai đoạn này đã phần nào cho phép Hoa Kỳ thể hiện vị thế của mình một cách
rõ ràng hơn trƣớc các cƣờng quốc châu Âu vốn có nhiều ràng buộc với khu vực Mỹ
Latinh. Trong giai đoạn này, chính sách phản đối sự can thiệp của các cƣờng quốc
châu Âu vào khu vực Mỹ Latinh của Hoa Kỳ đã không còn mang tính phòng vệ nhƣ
trƣớc mà đã mang tính thực chất hơn. Bên cạnh những lời tuyên bố phản đối, Hoa Kỳ
đã có những hoạt động nhằm tập hợp lực lƣợng, quy tụ các nƣớc Mỹ Latinh vào quỹ
đạo chi phối của Hoa Kỳ. Và trên hết, sự thắng lợi của Hoa Kỳ trong cuộc chiến
tranh với Tây Ban Nha năm 1898 đã khởi đầu cho tham vọng vƣơn đến quyền lực
thế giới của Hoa Kỳ. Kể từ đây, một đế quốc non trẻ đã bắt đầu tham gia vào quá
trình phân chia lại thị trƣờng thế giới, và cũng từ thời điểm này, một hình thái thực
dân kiểu mới đã ra đời.
3.2.2. Giai đoạn 1898 – 1918
3.2.2.1. Thực thi Tu chính án Platt đối với Cuba
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha (1898), Hoa
Kỳ đã khẳng định sức mạnh của mình với các cƣờng quốc khác trên thế giới; đồng
thời, nó cũng đem lại cho Hoa Kỳ nhiều lợi ích to lớn bằng việc ký kết Hiệp định hòa
bình giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha (còn gọi là Hiệp định Paris) vào ngày 10/12/1898.
Theo Hiệp định Paris, Tây Ban Nha buộc phải từ bỏ mọi quyền hành của mình ở
Cuba; nhƣợng lại đảo Puerto Rico, Guam, các đảo ở quần đảo Mariana và các đảo
khác ở khu vực Tây Ấn mà nƣớc này đã kiểm soát trƣớc chiến tranh. Hoa Kỳ cũng sẽ
giành quyền quản lý Philippines sau khi trả cho Tây Ban Nha 20 triệu USD [138].
Nhƣ vậy, sau khi đƣợc “giải phóng” khỏi Tây Ban Nha, Cuba lại rơi vào sự thống trị
thực dân của Mỹ, mô hình này thậm chí còn rõ ràng hơn trƣớc khi Quốc hội Mỹ
thông qua Tu chính án Platt với những điều khoản biến Cuba trở thành một quốc gia
“độc lập” trên danh nghĩa.
Trong khi chính thức cho phép Cuba đƣợc độc lập, Mỹ cƣơng quyết đòi gắn
Tu chính án Platt vào Hiến pháp Cuba. Vào ngày 2/3/1901, Quốc hội Mỹ thông qua
Điều khoản bổ sung Platt do Thƣợng nghị sĩ bang Connecticut Orville.H.Platt đƣa ra
68
và đƣợc chấp nhận. Thƣợng nghị sĩ Platt và Bộ trƣởng Chiến tranh lúc đó là E.Root
cũng chính là những ngƣời cổ súy và có tác động mạnh mẽ nhất cho việc Hoa Kỳ sáp
nhập Hawaii và chiếm Phillippines. Tu chính án Platt đặt ra 8 điều kiện mà Chính
phủ Cuba phải đồng ý trƣớc khi Hoa Kỳ rút các lực lƣợng quân sự và thực hiện các
bƣớc nhằm chuyển giao chủ quyền lại cho nƣớc này, bao gồm:
Thứ nhất, Cuba không được phép tham gia vào bất cứ hiệp ước hay thỏa
thuận nào khác với một cường quốc bên ngoài làm suy yếu sự độc lập của mình,
cũng không cho phép nước ngoài sử dụng các căn cứ trú đóng quân đội và hải quân
(Điều I);
Thứ hai, Cuba không được ký kết bất kỳ khoản nợ công nào vượt quá tài
nguyên đã được thừa nhận một cách hợp lý (Điều II);
Thứ ba, Hoa Kỳ có quyền can thiệp với lý do bảo toàn nền độc lập của Cuba,
duy trì một chính quyền đầy đủ để bảo vệ cuộc sống, tài sản và quyền tự do cá nhân
và vì lý do để hoàn thành những trách nhiệm phải đảm đương từ Hiệp ước Paris
(Điều III);
Thứ tƣ, Cuba phải phê chuẩn tất cả các đạo luật của Hoa Kỳ trong thời kỳ
chiếm đóng quân sự (Điều IV);
Thứ năm, Cuba phải thi hành các thỏa thuận về vệ sinh dịch tễ từng được
đảm nhận bởi Hoa Kỳ, theo đó đảm bảo sự bảo vệ khỏi các bệnh truyền nhiễm “đối
với người dân và thương mại của Cuba, cũng như là thương mại của các cảng phía
nam Hoa Kỳ và người dân sống ở đó” (Điều V);
Thứ sáu, Chủ quyền đối với đảo Isle of Pines(1)
được để dành lại cho sự dàn
xếp trong tương lai (Điều VI);
Thứ bảy, Hoa Kỳ, vì sự phòng thủ của bản thân cũng như của Cuba có quyền
mua hoặc thuê hai căn cứ hải quân (Điều VII);
Thứ tám, những điều khoản trên sẽ được bao hàm trong một hiệp ước vĩnh
viễn với Hoa Kỳ (Điều VIII)[77; tr.504 – 505].
(1)
Đảo Isle of Pines có diện tích 986 dặm vuông, cách bờ biển phía Nam của Cuba 35 dặm. Hiệp ƣớc Cuba –
Mỹ ký ngày 4/3/1904 công nhận chủ quyền của Cuba ở hòn đảo này nhƣng không đƣợc Hoa Kỳ phê chuẩn
mãi cho tới năm 1925. Sự trì hoãn này là do ảnh hƣởng của những ngƣời theo chủ nghĩa thực dân ở Mỹ đã
từng đến đây với niềm tin rằng họ đang định cƣ dƣới lá cờ Hoa Kỳ [19; tr.504].
69
Với việc thông qua Tu chính án Platt, Cuba đƣợc Hoa Kỳ công nhận là một
quốc gia độc lập, có chủ quyền (khác với hình thức thuộc địa của Tây Ban Nha trong
giai đoạn trƣớc đó). Tuy nhiên, nền độc lập đó nay lại đƣợc đặt dƣới sự bảo hộ của
Mỹ. Chính phủ Cuba dù đƣợc thiết lập (Cuba tuyên bố độc lập vào ngày 20/5/1902)
nhƣng thực chất không có nhiều quyền hành trong lãnh đạo đất nƣớc mà phải chấp
nhận sự can thiệp trực tiếp của Mỹ; thậm chí, hệ thống giáo dục của nƣớc này cũng
hoàn toàn bị Mỹ hóa. Nền độc lập giả tạo của Cuba đúng nhƣ lời của Thống đốc
Cuba Leonard Wood trong một bức thƣ gửi Tổng thống Hoa Kỳ W.McKinley: “tất
nhiên, chỉ có một ít hoặc không có sự độc lập nào ở Cuba dưới Tu chính án Platt
cả”[19; tr.294]. Một năm sau, Thƣợng nghị sĩ Chauncey M.Depew tuyên bố: “Một
ngày không xa nữa, Cuba sẽ giống hệt Mỹ về hiến pháp, luật pháp và các quyền tự
do... sẽ có từ năm đến sáu triệu người được giáo dục về lối sống Mỹ và xứng đáng
với mọi quyền công dân Mỹ. Khi đó, với đề xuất từ phía Cuba, chúng ta có thể đón
mừng thêm một ngôi sao khác in trên lá cờ Mỹ quốc”[19; tr.295].
Trong bƣớc đƣờng nhằm nắm chặt Cuba và cụ thể hóa Tu chính án Platt, vào
tháng 2/1903, Quốc hội Mỹ đã thông qua “Hiệp ước giữa Hợp chúng quốc và Cuba
cho việc thuê các đảo làm trạm tiếp than và căn cứ hải quân” (còn gọi là Hiệp ƣớc
Cuba – Hoa Kỳ) đã đƣợc ký kết trƣớc đó giữa Tổng thống Cộng hòa Cuba T.Estrada
Palma và Tổng thống Hoa Kỳ T.Roosevelt. Nội dung chủ yếu của hiệp ƣớc này là sự
thỏa thuận giữa Cuba và Mỹ để cho hải quân Hoa Kỳ đƣợc thuê vịnh Guantanamo
làm căn cứ hải quân và trạm tiếp than với tiền thuê mỗi năm là 2000 USD. Hiệp ƣớc
cũng quy định rằng “Hoa Kỳ có thẩm quyền giải quyết và kiểm soát hoàn toàn vùng
đất được thuê” trong khi vẫn thừa nhận “sự tồn tại của chủ quyền cuối cùng của
Cộng hòa Cuba”[119]. Nhƣ vậy, Mỹ đã sử dụng chiêu bài giƣơng cao ngọn cờ độc
lập và giải phóng dân tộc ở khu vực Mỹ Latinh nhằm phục vụ cho những mƣu đồ
bên trong để từng bƣớc thâu tóm các lợi ích của mình tại khu vực này, đặc biệt là ở
Cuba.
Sau khi Tu chính án Platt đƣợc thông qua, quân đội Mỹ vẫn thƣờng xuyên
hiện diện ở Cuba. Tuy nhiên, đối lập với sự có mặt của quân đội Mỹ, tình hình chính
trị và an ninh của Cuba liên tục chìm trong bất ổn, đặc biệt là vào thời gian Mỹ
chiếm đóng quân sự lần thứ hai từ năm 1906 đến năm 1909, khi hải quân Mỹ đổ bộ
vào Cuba để bảo vệ quyền lợi Mỹ và công dân Mỹ năm 1910 và một lần đổ quân
khác vào năm 1917 để thuyết phục Cuba làm đồng minh của Mỹ trong Chiến tranh
70
thế giới thứ nhất. Suốt giai đoạn này, Chính phủ Hoa Kỳ đã rất miệt thị ngƣời dân
Cuba. Chính điều đó đã làm cho tƣ tƣởng chống Mỹ dâng cao, hun đúc nên những
lãnh tụ trong phong trào chống Mỹ ở đất nƣớc này mà thế hệ Fidel Castro sau đó đã
trở thành những ngƣời kế tục.
Trong lĩnh vực kinh tế, tính đến năm 1926, giới tƣ bản Mỹ đã đầu tƣ vào Cuba
hơn 1,6 tỷ USD. Ngành công nghiệp Cuba lúc này chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất
mía đƣờng nhƣng các ngân hàng nƣớc ngoài (chủ yếu là Mỹ) đã kiểm soát tới 80%
sản lƣợng mía của nƣớc này. Các công ty Mỹ hoàn toàn chiếm lĩnh trong lĩnh vực
đƣờng sắt, nhà máy thủy điện, điện thoại. Lƣợng tiền của ngƣời dân Cuba gửi vào
các chi nhánh ngân hàng Mỹ trên đảo đã tăng vọt từ 20% năm 1920 lên 69% năm
1921[19; tr.300], vì hầu nhƣ các ngân hàng do ngƣời Cuba làm chủ đã bị phá sản bởi
không thể cạnh tranh nổi với quyền lực chính trị và nguồn tiền dồi dào của các ngân
hàng Hoa Kỳ.
3.2.2.2. Chính sách “Cây gậy lớn” (Big Stick) và “Ngoại giao dollar” (Dollar
Diplomacy)
Chính sách “Cây gậy lớn” và “Ngoại giao dollar” là những công cụ cụ thể
hóa một bƣớc Học thuyết Monroe trong việc mở rộng và tăng cƣờng ảnh hƣởng chi
phối các nƣớc Mỹ Latinh. Đó là việc thực thi chính sách can thiệp bằng quân sự vào
các nƣớc ở khu vực Mỹ Latinh, cải biến nó theo những ý muốn của Hoa Kỳ. Đồng
thời nhằm lũng đoạn kinh tế các nƣớc này, khai thác và đƣa lại lợi nhuận cao nhất về
kinh tế, trói chặt các nƣớc Mỹ Latinh vào Hoa Kỳ.
Sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, Hoa Kỳ ngày càng
tăng cƣờng hơn nữa sự chi phối, ảnh hƣởng đối với Mỹ Latinh. Trong hai bức thông
điệp hàng năm gửi Quốc hội vào tháng 12/1904 và tháng 12/1905, Tổng thống T.
Roosevelt khẳng định rằng, nghĩa vụ của Mỹ là phải “chứng tỏ hiệu lực của Học
thuyết Monroe và sẵn sàng can thiệp vào bất cứ quốc gia Mỹ Latinh nào để nhằm
mục đích duy trì sự ổn định” và rằng “Sự sai lầm hay yếu kém như những căn bệnh
kinh niên dẫn tới việc làm hư hại dần các mối quan hệ xã hội văn minh. Căn bệnh ấy
có thể đang hoành hành ở châu Mỹ hay ở những nơi khác đòi hỏi phải có sự can
thiệp của một quốc gia văn minh nào đó. Còn ở phần bán cầu Tây, sự trung thành
tuyệt đối của Mỹ đối với Học thuyết Monroe sẽ buộc Mỹ phải sử dụng đến quyền lực
cảnh sát thế giới” [11; tr.744].
71
Nhƣ vậy, với luận điểm nói trên, Mỹ đã tự biến mình thành một “cảnh sát
trưởng” ở Tây bán cầu. Mỹ tự cho mình có quyền can thiệp vào các nƣớc thuộc khu
vực Mỹ Latinh và bất cứ nƣớc châu Âu nào hoạt động ở đây đều bị Mỹ tranh chấp
quyết liệt. Lập luận này sau đó đƣợc chính T.Roosevelt bổ sung thêm rằng: “Chúng
ta chỉ can thiệp trong trường hợp đó là phương sách cuối cùng, hoặc giả như họ rõ
ràng không có khả năng hoặc không chịu hành động theo công lý, kể về mặt đối nội
và đối ngoại, và việc đó thực sự vi phạm các quyền lợi của Mỹ hoặc gây ra sự thù
địch từ bên ngoài” [11; tr.744]. Hệ luận nói trên thực chất là một bƣớc phát triển cao
hơn của Học thuyết Monroe trong một hoàn cảnh mới, khi Mỹ hội tụ đủ điều kiện
sức mạnh cần thiết cho việc “bảo vệ” Mỹ Latinh. Đó thực sự là việc “bảo vệ” địa vị
bá chủ của Mỹ trên bán cầu Tây với những hoạt động đối ngoại đƣợc gọi là chính
sách “Cây gậy lớn” – tên gọi đƣợc đặt trích từ một câu nói của Tổng thống
T.Roosevelt: “Hãy nói những lời nhã nhặn, và mang theo một chiếc gậy lớn, bạn sẽ
đi rất xa” (―Speak softly and carry a big stick, and you will go far‖) [11; tr.744].
Cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha năm 1898 đã thúc đẩy ngƣời Mỹ quan tâm
nhiều hơn đến việc xây dựng một con kênh đào xuyên ngang qua eo đất Panama để
nối liền Đại Tây Dƣơng với Thái Bình Dƣơng. Bởi lẽ, cuộc chiến tranh nói trên đã
chứng minh một sự thật hiển nhiên rằng mất quá nhiều thời gian cho việc triển khai
hải quân từ Thái Bình Dƣơng sang Đại Tây Dƣơng và ngƣợc lại. Trong chiến tranh
Mỹ - Tây Ban Nha, chiến hạm Oregon đậu ở San Francisco – bờ biển phía Tây Hoa
Kỳ, đã phải mất 68 ngày để đi vòng xuống mũi Horn(1)
và trở lại vị trí chiến đấu của
mình ở vùng biển Cuba, phía Đông Hoa Kỳ [84; tr.969]. Vì vậy, đối với Hoa Kỳ,
ngoài những lợi ích khác thì tầm quan trọng về mặt an ninh quân sự mà kênh Panama
mang lại là rất cần thiết, bởi nó sẽ giúp cho việc vận chuyển nhanh hơn của các tàu
chiến từ đại dƣơng này tới đại dƣơng kia. Nhu cầu ấy ngày càng bức bách hơn khi
Hoa Kỳ quyết định xây dựng một lực lƣợng hải quân mạnh. Nếu vào năm 1904, lực
lƣợng hải quân Hoa Kỳ chỉ đứng hàng thứ 5 trên thế giới, thì đến năm 1907 đã nhảy
lên hàng thứ hai [84; tr.969]. Từ thực tế đòi hỏi của yêu cầu an ninh cộng với sức ép
kinh tế do “kiểu cách phát triển quốc gia”, với “Cây gậy lớn” trong tay, Hoa Kỳ đã
từng bƣớc can thiệp ngày một sâu sắc hơn vào khu vực Mỹ Latinh.
(1)
Điểm cực Nam của quần đảo Tierra del Fuego, miền Nam Chile.
72
Không ai cảm nhận sự cần thiết của việc can thiệp vào Mỹ Latinh, nhất là việc
xây dựng một con kênh đào nhằm phục vụ những đòi hỏi ở trên bằng chính
T.Roosevelt. Đắc cử Phó Tổng thống bên cạnh W.McKinley của Đảng Cộng hòa
trong cuộc bầu cử năm 1900, đến năm 1901, McKinley bị ám sát, T.Roosevelt lên
làm tổng thống và có toàn quyền hành động để thực hiện tham vọng của những kẻ
bành trƣớng xâm lƣợc. Tham vọng này đã đƣa Hoa Kỳ đến Panama, cụ thể hóa sức
mạnh của “Cây gậy lớn”.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nƣớc Panama ngày nay chỉ là một tỉnh
ở phía bắc của Colombia. Năm 1903, khi cơ quan lập pháp Colombia từ chối phê
chuẩn hiệp định cho Hoa Kỳ xây dựng và quản lý con kênh, một nhóm ngƣời
Panama với sự giúp đỡ của lính thủy đánh bộ Mỹ đã nổi dậy và tuyên bố độc lập cho
Panama. Hoa Kỳ đã nhanh chóng công nhận chính quyền này trên thực tế (vào ngày
6/11/1903) trong khi hạm đội Hoa Kỳ đã ngăn cản không cho quân đội Colombia đổ
bộ để lập lại trật tự cũ. Đến ngày 18/11, Hoa Kỳ đã ký một hiệp ƣớc với Toàn quyền
của Cộng hòa Panama Bunau Varilla. Sau Hoa Kỳ, các cƣờng quốc châu Âu cũng
nhanh chóng công nhận quốc gia mới này. Hiệp ƣớc đã trao cho Hoa Kỳ quyền đƣợc
xây dựng kênh đào và sở hữu khu vực xung quanh kênh đào rộng 10 dặm vuông từ
Colon tới Panama; đổi lại, Panama nhận đƣợc 10 triệu USD, cộng thêm tiền thuê 250
ngàn USD mỗi năm [77; tr.515]. Với việc khai thông con kênh quan trọng bậc nhất
thế giới này thì hơn 10 năm sau đó (1914), “sức mạnh hải quân Hoa Kỳ tăng lên rất
nhiều và một chân trời mới đã mở ra cho chiến lược toàn cầu của họ” [44; tr.225].
“Cây gậy lớn” đã đƣợc chính quyền Hoa Kỳ lê đi khắp Mỹ Latinh, tiếp tục
thể hiện quyền lực của “cảnh sát thế giới”. Nhiều cuộc can thiệp đã đƣợc Hoa Kỳ
thực hiện, đầu tiên là ở Haiti, sau đó là ở Dominica. Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần cho
hạm đội đổ bộ lên Cuba để đàn áp các cuộc khởi nghĩa cho đến năm 1909 mới chịu
rút đi. Trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống W.H.Taft (1909 – 1913), “Cây gậy
lớn” tiếp tục đƣợc sử dụng trong việc chi phối, xâm lƣợc nhằm đƣa các nƣớc Mỹ
Latinh vào quỹ đạo của Hoa Kỳ. Nhiều cuộc can thiệp đã diễn ra, nhƣ hai lần ở
Nicaragua. Lần thứ nhất, năm 1911, các ngân hàng Hoa Kỳ chiếm quyền kiểm soát
nền tài chính của nƣớc này. Lần thứ hai, năm 1912, thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã
đổ bộ lên Nicaragua để đàn áp cuộc đấu tranh của ngƣời dân nƣớc này. Tổng thống
W.H.Taft lập luận rằng “nếu một cuộc can thiệp như vậy đã bảo vệ được những
quyền lợi chiến lược và tài chính của Hoa Kỳ thì đồng thời nó cũng phục vụ quyền
73
lợi của nước bị can thiệp vì nó duy trì trật tự cho xứ sở và đem lại hạnh phúc cho
nhân dân” [44; tr.227]. Chính sách “Cây gậy lớn” đã đƣợc Hoa Kỳ tiếp tục thực thi
đối với Mỹ Latinh dƣới thời Tổng thống Woodrow Wilson, với cƣờng độ nhiều lần
hơn so với hai đời tổng thống trƣớc đó cộng lại. Năm 1915, bạo động cách mạng nổ
ra ở Haiti, Hoa Kỳ đƣa quân chiếm đóng nƣớc này mãi cho đến năm 1934 mới chịu
rút đi. Năm 1916, nƣớc Cộng hòa Dominica cũng chịu chung số phận trong tám năm
trời. Cuba cũng chịu cảnh ngộ tƣơng tự khi Hoa Kỳ tiến hành can thiệp và chiếm
đóng từng phần nƣớc này kể từ năm 1917 đến năm 1922.
Sự khống chế của Hoa Kỳ đối với Mỹ Latinh bằng chính sách “Cây gậy lớn”
chắc chắn sẽ không bền vững nếu thiếu đi sự kết hợp những chính sách và biện pháp
mềm dẻo hơn. Đó là việc sử dụng sức mạnh của đồng dollar nhằm khống chế và
bành trƣớng thế lực kinh tế Mỹ vào khu vực Mỹ Latinh. Lịch sử ngoại giao của Hoa
Kỳ đã minh định chính sách này bằng học thuyết “Ngoại giao dollar”.
Trong thời gian giữ chức tổng thống (1909 – 1913), William Howard Taft đã
ủng hộ Ngoại trƣởng Philander C.Knox theo đuổi chính sách “Ngoại giao dollar”,
dùng sức mạnh quân sự và ảnh hƣởng chính trị để mở rộng các lợi ích thƣơng mại
của Hoa Kỳ ở Mỹ Latinh cũng nhƣ một số khu vực khác. W.H. Taft đã vận động các
ngân hàng cứu trợ Honduras về tài chính, đồng thời thiết lập vị thế tài chính vững
chắc của Mỹ tại Haiti. Năm 1911, Hoa Kỳ thâu tóm quyền kiểm soát tài chính của
Nicaragua và một năm sau, đã phái một lực lƣợng hải quân làm nhiệm vụ đàn áp
cuộc nổi dậy của ngƣời bản xứ chống lại chính phủ nƣớc này – một chính phủ có
nhiều cộng tác với Hoa Kỳ về mặt thƣơng mại. Với các biện pháp mà Hoa Kỳ thực
thi nói trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng lợi ích về thƣơng mại giờ đây trở nên hết
sức quan trọng đối với Hoa Kỳ. Suy cho cùng, tất cả mọi can dự của Hoa Kỳ vào
nƣớc khác, ngoài đảm bảo lợi ích về mặt chiến lƣợc, mục đích cuối cùng và cao nhất
chính là những quyền lợi thƣơng mại – cơ sở đảm bảo sự thịnh vƣợng cho Hoa Kỳ.
Sức mạnh của đồng dollar giờ đây rõ ràng đã trở thành công cụ hữu hiệu nhằm trói
chặt các nƣớc Mỹ Latinh vào Hoa Kỳ, càng làm cụ thể hóa hơn tham vọng biến Mỹ
Latinh thành “sân sau” của Mỹ mà từ năm 1823, J.Monroe đã đƣa ra. Tham vọng
này cũng đã đƣợc chính W.H.Taft thừa nhận và khẳng định trong Thông điệp thƣờng
niên cuối cùng gửi Quốc hội (12/1912), rằng:
“Chính sách ngoại giao dollar chính là sự mở rộng của Học thuyết Monroe.
Mục tiêu của nó là để bảo vệ các quốc gia Trung Mỹ tránh nạn nợ nước ngoài, nạn
74
khủng hoảng tài chính quốc gia và nguy cơ rối loạn các mối quan hệ quốc tế do ảnh
hưởng của tình hình bất ổn trong nước. Chính vì vậy mà Mỹ sẵn sàng động viên và
ủng hộ các chủ ngân hàng Mỹ chìa tay giúp đỡ các nước đó khôi phục nền tài chính,
bởi vì việc khôi phục nền tài chính và việc bảo vệ thương mại không cho nó bị biến
thành con mồi của các thế lực độc quyền sẽ loại trừ ngay tức khắc nguy cơ phải vay
nợ nước ngoài quá nặng nề và cả nguy cơ bất an trong nước do các lực lượng cách
mạng chống đối gây nên” [11; tr.776 - 777].
Mục tiêu “bảo vệ các quốc gia Trung Mỹ tránh nạn nợ nước ngoài” của Mỹ
không phải là một mục tiêu mang tính thiện chí, thực chất đó là sự chuyển giao con
nợ từ các nƣớc khác sang tay Mỹ. Mục đích của nó là thay thế nguồn đầu tƣ kinh
doanh của châu Âu ở Mỹ Latinh bằng của Mỹ và do đó đem lại cho nƣớc Mỹ thêm
nhiều ảnh hƣởng chính trị ở Tây bán cầu. Qua đó, Hoa Kỳ càng khống chế sâu hơn
nền kinh tế của các quốc gia ở khu vực Mỹ Latinh, ―che chở‖ nó trong ―ngôi nhà
chung châu Mỹ”. Trên thực tế, đầu tƣ tƣ bản của Hoa Kỳ vào Mỹ Latinh trong
những năm 1913 – 1929 cho ta thấy một sự vƣợt trội trong mức độ chi phối nền kinh
tế các nƣớc sở tại của Hoa Kỳ. Nếu năm 1913, tổng số vốn đầu tƣ tƣ bản của Hoa Kỳ
là 1.242 triệu USD, đến năm 1929 đã lên đến con số 5.587 triệu USD, tăng 450% (so
với Anh con số tƣơng ứng là 4.983 triệu USD, 5.889 triệu USD, 18,2%). Đó là
những kết quả không thể biện minh cho chính sách “Ngoại giao dollar”, một công
cụ phục vụ đắc lực cho giới tài phiệt Mỹ. Với chính sách “Cây gậy lớn” và “Ngoại
giao dollar”, Hoa Kỳ gần nhƣ đã nắm đƣợc về chính trị và kinh tế một số nƣớc Mỹ
Latinh, xác lập quyền khống chế của Mỹ ở Tây bán cầu, mở đầu truyền thống ngoại
giao của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà Hoa Kỳ sẽ thi hành ở nhiều nơi trên thế
giới trong những năm sau đó.
3.2.2.3. Chính sách can thiệp vào Mexico và Nicaragua
Trong hai thập niên đầu thế kỷ XX, Hoa Kỳ ngày càng tăng cƣờng sự hiện
diện của mình ở khu vực Mỹ Latinh bằng chính sách can thiệp thô bạo vào các nƣớc
này, tiêu biểu là ở Mexico và Nicaragua.
Đối với Mexico, ngay sau khi lập quốc, quốc gia này vẫn luôn là “miếng mồi
ngon” của Hoa Kỳ trong công cuộc bành trƣớng lãnh thổ. Trong suốt thập niên 20, 30, 40
của thế kỷ XIX, khi mà Học thuyết Monroe (1823) đƣợc công bố, thêm vào đó là tƣ tƣởng
“bành trướng theo định mệnh” hay “định mệnh hiển nhiên” đƣợc các chính trị gia Mỹ cổ
vũ và hô hào, Hoa Kỳ ngoài việc gia tăng phạm vi ảnh hƣởng của mình ở Mỹ Latinh cũng
75
đã thực thi chính sách đối ngoại chiếm đất đối với Mexico thông qua việc sáp nhập Texas
vào Liên bang và cuộc chiến tranh với nƣớc này vào năm 1846 – 1848. Hai cuộc chiến
này đã đƣa về cho Mỹ một vùng đất trù phú với diện tích lên tới gần 2 triệu km2 (bao gồm
hơn 600.000 km2 của bang Texas ngày nay và 1,36 triệu km
2 thông qua Hiệp ƣớc
Guadalupe Hidalgo ký kết vào tháng 2/1848, bao gồm phần đất ngày nay của các
bang New Mexico, Nevada, California, Utah, phần lớn Arizona và một số phần của
bang Colorado và Wyoming [137]. Đây cũng là vùng đất đƣợc mở rộng lớn nhất của
Mỹ kể từ sau “Thương vụ Lousiana” (1803).
Đến đầu thế kỷ XX, khi cả thế giới biết đến sức mạnh Mỹ sau chiến thắng
trong cuộc chiến với Tây Ban Nha (1898), Hoa Kỳ lại càng có cơ hội nhằm can thiệp
nhiều hơn tới tình hình nội bộ của các quốc gia Mỹ Latinh và trƣờng hợp đầu tiên lại
chính là Mexico. Tháng 2/1913, Victoriano Hureta – một vị tƣớng Mexico đã thiết lập
nên chế độ mới sau khi thực hiện cuộc đảo chính và lật đổ chính quyền đƣơng nhiệm của
Tổng thống Pedro Paredes Lascuráin. Tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là W.Wilson không
công nhận điều đó và vào tháng 10/1913, ông đã đƣa ra ―Học thuyết linh động” (Mobile
Doctrine) với tuyên bố: “Mỹ sẽ không bao giờ mở rộng lãnh thổ bằng con đường xâm
lược nữa”[11; tr.501]. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nƣớc trở nên xấu đi khi ở Tampico
(thành phố cảng thuộc bang Tamaulipas) xảy ra sự kiện chính quyền Mexico bắt giữ thủy
thủ Mỹ đang đóng quân ở khu vực này. Mặc dù Mexico sau đó đã thả các thủy thủ này
nhƣng phía Mỹ buộc nƣớc này phải bắn 21 phát đại bác chào quốc kỳ xem nhƣ một lời
xin lỗi. Chính quyền Victoriano không chấp nhận vì điều này giống nhƣ một sự sỉ nhục.
Trƣớc vụ việc này, Tổng thống Wilson đã cử lính thủy đánh chiếm Vera Cruz (một bang
của Mexico ngày nay). Sau đó, với sự can thiệp của ba nƣớc là Brazil, Argentina và Chile,
xung đột giữa hai bên đã dịu bớt xuống. Tuy vậy, ở thành phố Mexico, học sinh đã xuống
đƣờng và hô to khẩu hiệu với thái độ hết sức phản đối. Các cơ sở thƣơng mại Mỹ trên đất
Mexico bị ngƣng hoạt động. Đây đƣợc xem là hệ quả tất yếu của chính sách đối ngoại
mang tính can thiệp, nô dịch của Hoa Kỳ và bản thân Wilson cũng có đƣợc một bài học
về sự thất bại trong việc thiết lập “dân chủ” ở một đất nƣớc khác.
Vào tháng 6/1914, Tổng thống V.Hureta từ chức, F.Carranza lên thay và chính phủ
của ông này đƣợc Hoa Kỳ công nhận năm 1915. Nhƣng trong thời điểm này, một phần
rộng lớn ở phía Bắc Mexico đang thuộc quyền kiểm soát của lực lƣợng cách mạng
Pancho Willa. Đến tháng 3/1914, lực lƣợng này đã vƣợt qua và đánh xuống thành phố
Columbus, bang New Mexico, giết hại 17 ngƣời Mỹ. Chính quyền Washington đã phản
76
ứng bằng việc điều 6000 quân do Tƣớng John J.Pershing chỉ huy, đến bao vây và tấn công
lực lƣợng cách mạng của Pancho, lấn sâu vào lãnh thổ Mexico hàng trăm dặm. Vì điều
này, Chính quyền Carranza đã đem quân đánh lại quân Mỹ, vì cho rằng Hoa Kỳ xâm lƣợc
đất nƣớc mình. Đến tháng 3/1917, W.Wilson đã cho rút quân viễn chinh về nƣớc. Cũng
trong thời điểm ấy, Mỹ nhận đƣợc tin cho biết Đức đề nghị liên minh với Mexico, dƣ luận
Mỹ rất tức giận và yêu cầu phải có đối sách thích hợp với cả Mexico và Đức. Nguồn tin
này dựa trên bức thông điệp của Bộ trƣởng Ngoại giao Đức Zimmerman gửi cho Đại sứ
Đức tại Mexico vào ngày 25/12/1917. Văn bản này về sau đƣợc gọi là “Công hàm
Zimmerman”, trong đó có đề cập tới việc Đức đề nghị Mexico liên kết với Đức thành
đồng minh nhằm chống lại Mỹ. Ngoài ra, còn có việc đề nghị Tổng thống Mexico
Carranza mời Nhật Bản tham gia vào đồng minh chống Mỹ này. Trong Công hàm có
đoạn đề cập đến việc Đức sẽ ủng hộ về tài chính chung cho Mexico, giúp Mexico chiến
đấu để giành lại các vùng lãnh thổ New Mexico, Texas và Arizona bị Mỹ chiếm. Việc tiết
lộ bức công hàm này khiến dƣ luận Hoa Kỳ căm phẫn và đòi chính phủ phải có biện pháp
đáp trả thích ứng.
Rõ ràng, những biện pháp mà W.Wilson thực thi đối với Mexico nhƣ đã đề
cập ở trên “chẳng kém gì chính sách “Cây gậy lớn” của Tổng thống Theodor
Roosevelt và đã gây ra sự chống đối và căm phẫn của nhân dân Mỹ Latinh”[36;
tr.341]. Và các đời tổng thống kế tiếp nhƣ C.Coolidge, H.Hoover vẫn tiếp tục hành
xử với Mexico nhƣ những ngƣời tiền nhiệm. Để rồi, đến năm 1933, sau khi lên nhậm
chức, F.D.Roosevelt đã phải tìm cách thay đổi cách nhìn của các nƣớc láng giềng đối
với Hoa Kỳ bằng một chính sách hoàn toàn mới - Chính sách “Láng giềng thân
thiện”.
Bên cạnh việc tăng cƣờng thế lực kinh tế, Mỹ đã trực tiếp liên quan đến nhiều
cuộc đảo chính của phe thân Mỹ ở các nƣớc Mỹ Latinh. Đây cũng là đặc điểm tiêu
biểu trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với các nƣớc Tây bán cầu trong những
thập niên đầu thế kỷ XX và đƣợc thể hiện rõ nhất ở trƣờng hợp của Nicaragua.
Trong nội bộ đất nƣớc Nicaragua vào lúc này xảy ra bất đồng giữa hai Đảng Tự do
và Bảo thủ, Hoa Kỳ lo ngại Đảng Tự do của Tổng thống José Santos Zelaya sẽ tạo
thuận lợi cho các nƣớc khác đi qua kênh đào Panama vốn bị Mỹ khống chế; do đó đã
giúp đỡ Đảng Bảo thủ do Juan José Estrada đứng đầu. Tháng 12/1909, Đảng Bảo thủ
nhờ sự hậu thuẫn của Mỹ đã gây ra một cuộc nổi loạn (Cuộc nổi loạn Estrada) nhằm
lật đổ chính phủ đƣơng nhiệm nhƣng bất thành. Chính phủ Nicaragua lúc đó cho
77
rằng: chính Hoa Kỳ đã giật dây cho cuộc bạo loạn nên đã quyết định cắt đứt quan hệ
với Mỹ [98].
Ngay lập tức, Mỹ đã phái 6 tàu chiến (bao gồm các tàu USS.Des Moines,
USS.Tacoma, USS.Hanibal, USS.Prairie, USS.Vickburg và USS.Yorktown) cùng
với 700 thủy quân lục chiến [99] tới Nicaragua nhằm giúp đỡ Đảng Bảo thủ của
Estrada chống lại chính phủ. Với sự giúp sức to lớn của Mỹ, Đảng Bảo thủ đã giành
đƣợc quyền kiểm soát đất nƣớc và đƣa José Madriz lên làm tổng thống. Tuy nhiên,
Madriz lại là ngƣời hƣớng tới mục tiêu đƣa Nicaragua trở thành một nƣớc tự do, dân
chủ và chủ trƣơng sẽ không lệ thuộc vào Mỹ nên Hoa Kỳ đã đứng đằng sau xúi giục
các lực lƣợng chống chính phủ ở Nicaragua nổi dậy. Đến ngày 20/8/1910, Madriz
buộc phải từ chức tổng thống sau chỉ hơn 8 tháng nắm quyền và Estrada trở thành
ngƣời đứng đầu quốc gia này với sự thừa nhận chính thức của Mỹ [97; tr.64]. Chính
phủ của Estrada khi giành đƣợc chính quyền đã xây dựng những đƣờng lối có lợi cho
Mỹ, đặc biệt là cho phép các công ty Mỹ đƣợc xây dựng và quản lý hệ thống đƣờng
sắt ở Nicaragua.
Đến năm 1926, khi thấy chính quyền này không thể trụ nổi trƣớc Đảng Tự do,
Mỹ liền lấy cớ “bảo vệ kiều dân Mỹ”, đƣa quân sang can thiệp trực tiếp lần thứ hai
vào tình hình nội bộ của Nicaragua. Việc làm của Mỹ khiến cho phong trào đấu tranh
của quần chúng dâng cao mạnh mẽ ở đất nƣớc này.
Như vậy, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Mỹ Latinh từ sau cuộc
Nội chiến đến thời điểm kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 - 1918) là một
bƣớc tiến mới của Hoa Kỳ trong tham vọng chinh phục tuyệt đối Mỹ Latinh. Bằng
các thủ đoạn nhƣ chính sách “Cây gậy lớn” và “Ngoại giao dollar”, Mỹ đã phát
triển Học thuyết Monroe trong tình hình mới. Châu Mỹ đã là “của người Mỹ” nhƣ
mong muốn (hay có thể nói là “khát vọng”) của bao đời tổng thống và chính khách
theo chủ thuyết ―định mệnh hiển nhiên‖ của Hoa Kỳ. Các nƣớc Mỹ Latinh đã bị Hoa
Kỳ lũng đoạn không chỉ về kinh tế, chính trị mà còn bị lũng đoạn về văn hóa, mô
hình xã hội và ngày càng bị Mỹ dẫn dắt nhƣ một “hàng không mẫu hạm khổng lồ”
của Mỹ với những cái tên đầy hoa mĩ nhƣ Liên hiệp Quốc tế các Cộng hòa châu Mỹ,
Liên hiệp Cộng hòa châu Mỹ và sau này là Tổ chức các quốc gia châu Mỹ
(Organization of American States - OAS). Những cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhân
dân Mỹ Latinh đã diễn ra trong thời kỳ này theo một nguyên tắc bất di bất dịch “có
áp bức, có đấu tranh” và Mỹ càng can thiệp thô bạo chừng nào thì phong trào đấu
78
tranh đó lại càng diễn ra mạnh mẽ, tạo điều kiện cho Mỹ Latinh “bùng cháy” trong
những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Mỹ Latinh trong thời kỳ này là một
bƣớc phát triển cao hơn cùng với quá trình phát triển lớn mạnh của nƣớc Mỹ. Nếu
nhƣ trong thời kỳ trƣớc Nội chiến, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ mới chỉ dừng lại
ở những tuyên bố, những học thuyết mang tính chất phòng vệ và chƣa phản ánh sức
mạnh của một ―ngôi sao đang lên” (rising star) thì trong thời kỳ sau Nội chiến, nƣớc
Mỹ đã có những bƣớc đi mạnh mẽ hơn. Với sự gia tăng sức mạnh kinh tế và quân sự,
Hoa Kỳ đã từng bƣớc cụ thể hóa những tuyên bố về mặt đối ngoại bằng các hành
động thâu tóm về kinh tế, tài chính và sẵn sàng can thiệp trực tiếp để bảo vệ lợi ích
cũng nhƣ đảm bảo các nƣớc Mỹ Latinh vẫn nằm trong quỹ đạo chi phối của Hoa Kỳ.
3.3. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với một số nƣớc ở châu Á
Sau khu vực Mỹ Latinh, châu Á là nơi biểu lộ tham vọng của Hoa Kỳ trong
nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX một khi Hoa Kỳ có đầy đủ thực lực. Tuy nhiên,
do tác động của các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài, Hoa Kỳ đã có những thay đổi,
điều chỉnh trong chính sách với từng nƣớc ở khu vực này cho phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
3.3.1. Đối với Nhật Bản
3.3.1.1. Giai đoạn 1865 – 1905
Sau cuộc Nội chiến, cùng với việc tiếp tục mở rộng bành trƣớng ở khu vực
Mỹ Latinh, vấn đề mở rộng xâm chiếm châu Á cũng đƣợc Chính phủ Mỹ đƣa vào
chính sách đối ngoại của mình. Năm 1867, chính cái gọi là “sự điên rồ của
Seward”(1)
đã đƣa về cho Hoa Kỳ vùng đất Alaska rộng hơn 1,7 triệu km2 với giá 7,2
triệu USD từ Nga[117]. Ngoài lý do mở rộng lãnh thổ, Alaska còn là cơ sở vững
chắc cho Mỹ khống chế Trung Quốc và Nhật Bản từ phía Bắc Thái Bình Dƣơng.
Hoa Kỳ phản đối yêu cầu của Nhật Bản đòi sửa đổi các hiệp ƣớc bất bình đẳng mà
(1)
William Henry Seward (1801 – 1872), là Ngoại trƣởng Hoa Kỳ dƣới thời Tổng thống Abraham Lincoln và
Andrew Johnson, ngƣời đề xuất và đàm phán với Nga để mua lại Alaska (1867) – một vùng đất rộng lớn
nhƣng hoang vắng và chƣa phát hiện ra nguồn dầu mỏ và khí đốt có trữ lƣợng lớn ở đây vào thời điểm này.
Cũng trong năm này, Seward đã vận động để Mỹ thôn tính quần đảo Midway (“giữa đường”), sau này có vị
trí chiến lƣợc hết sức quan trọng đối với Mỹ và phe Đồng Minh trong Chiến tranh Thái Bình Dƣơng (1941 –
1945).
79
nƣớc này đã ký với các cƣờng quốc phƣơng Tây(1)
nhƣng lại ủng hộ và mong muốn
Nhật Bản đóng vai trò đi đầu trong công cuộc xâm lƣợc thuộc địa. Sở dĩ có sự mâu
thuẫn nhƣ vậy là do hai nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, ý đồ của Mỹ là muốn có chỗ
đứng ở thị trƣờng Trung Quốc và Triều Tiên nhƣng lại sợ vấp phải sự ngăn cản của
các thế lực tƣ bản châu Âu vốn đã cắm rễ sâu ở đây. Thứ hai, giới lãnh đạo Mỹ lo
ngại Nhật Bản có thể liên kết với những cƣờng quốc châu Âu nhằm chống lại Mỹ
hoặc liên minh với Trung Quốc – quốc gia đang trong tình trạng bị các nƣớc đế quốc
xâu xé.
Về phía Nhật Bản, kể từ thời Minh Trị trở đi (1868), quốc gia này đã đi vào
quỹ đạo của con đƣờng TBCN và nhanh chóng vƣơn lên để trở thành một cƣờng
quốc mới nổi sau khi đạt đƣợc những thành tích đáng nể trong phát triển kinh tế. Với
khẩu hiệu là “Fukoku Kyohei”, có nghĩa là “Quốc gia giàu có, quân đội hùng
mạnh”, để thực hiện hiện đại hóa đất nƣớc, Chính phủ Minh Trị đã đề ra 3 mục tiêu
chung, đó là:
1. Hiện đại hóa kinh tế, trong đó chú trọng tới vấn đề phát triển công nghiệp;
2. Thiết lập một hiến pháp quốc gia và quốc hội (hiện đại hóa chính trị);
3. Mở rộng ảnh hƣởng ra bên ngoài (hiện đại hóa quân sự) [122; tr.43].
Trên nền tảng cơ sở kinh tế vững chắc và cùng với đó là chính sách bành
trƣớng, đƣợc xem là cần thiết để bảo vệ độc lập và lợi ích quốc gia nhằm chống lại
sự can thiệp của phƣơng Tây và xây dựng một vùng ảnh hƣởng xung quanh lãnh thổ
Nhật Bản của nhiều nhân vật có ảnh hƣởng trong giới cầm quyền Nhật, chính quyền
Minh Trị đã chuẩn bị kế hoạch đƣa Nhật Bản trở thành “người lãnh đạo châu Á”.
Dựa trên tinh thần đó, chính sách xâm lƣợc của Nhật Bản đƣợc khái quát ở hai
hƣớng: Hƣớng thứ nhất, dùng hải quân Nam tiến để chiếm các đảo phía Nam. Hƣớng
thứ hai, dùng lục quân để Bắc tiến vào lục địa châu Á, trƣớc hết là Triều Tiên và
Trung Quốc [63; tr.49]. Với hai hƣớng trên, không lâu sau đó, Nhật Bản đã phát
động cuộc chiến tranh xâm lƣợc Đài Loan (1874), Trung Quốc (1894 – 1895) và đặc
(1)
Trƣớc sức ép của thực dân phƣơng Tây, Nhật Bản đã phải ký nhiều hiệp ƣớc bất bình đẳng với nhiều nƣớc
trên thế giới: Ngày 14/10/1854, ký Hiệp ước Hữu nghị với Anh; ngày 7/2/1855, ký Hiệp ước Thương mại và
Định hướng với Nga (còn gọi là Hiệp ƣớc Shimoda); ký Hiệp ước Thương mại với Hà Lan ngày 30/1/1856;
ngày 7/10/1858, ký với Pháp Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại. Ngoài ra, Nhật Bản còn phải ký hiệp ƣớc với
một loạt nƣớc khác nhƣ Bồ Đào Nha (1860), Đức (1861), Ý, Đan Mạch, Bỉ, Áo – Hung…
80
biệt là cuộc chiến tranh với nƣớc Nga (1904 – 1905) – cuộc chiến tranh đã đƣa Nhật
Bản lên vị thế ngang tầm với các cƣờng quốc trên thế giới lúc bấy giờ. Chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản từ năm 1865 đến những năm đầu thế kỷ XX
vì thế cũng xoay quanh 3 cuộc chiến tranh do nƣớc này tiến hành.
Vào mùa xuân năm 1874, Chính phủ Nhật Bản đã cử hải quân tới Đài Loan
nhằm trừng phạt thổ dân Paiwan ở đảo này sau khi Nhật Bản nghi ngờ họ là những
ngƣời đã làm đắm thuyền và sát hại 54 thủy thủ của Nhật xuất phát từ quần đảo Lƣu
Cầu (Riukyu) [86; tr.47]. Cuộc chiến tranh này đã đƣợc Hoa Kỳ ủng hộ ngay từ đầu
bằng việc tuyên bố không hạn chế ngƣời Mỹ phục vụ cho Nhật Bản. Một trong
những dẫn chứng tiêu biểu cho điều này là Chính phủ Mỹ đã đồng ý cho tƣớng
Charles Legendre thôi giữ chức Đại biện lâm thời của Hoa Kỳ ở Trung Quốc để đến
Nhật Bản làm cố vấn cho Bộ Ngoại giao Nhật trong việc hoạch định các chính sách
đối ngoại quan trọng, trong đó có việc xâm lƣợc Đài Loan. Khi hành động của Nhật
Bản bị Chính phủ Anh và nhà Thanh phản đối gay gắt thì Mỹ cũng lên tiếng phản đối
việc Nhật Bản thuê thuyền vận tải và sĩ quan Mỹ phục vụ cho cuộc chiến song thực
chất là: “Mãi đến bước quan trọng cuối cùng, Mỹ mới cấm dùng tàu thuyền làm
phương tiện vận chuyển cho Nhật Bản, còn việc ngăn cấm sĩ quan phục vụ cho Nhật
thì lại càng do dự không quyết định. Cho đến khi Trung Quốc quyết định phản đối
cuộc viễn chinh đó thì Lãnh sự Mỹ ở Hạ Môn mới chính thức ra lệnh cho họ rút lui
nhưng lệnh này lại được đưa đi trước khi ủy quyền. Do đó mà họ không hề chấp
hành gì cả”[63; tr.37].
Sau những hành động xâm lƣợc bằng quân sự của Nhật Bản ở Đài Loan bị
phản ứng mạnh mẽ, trong quá trình đàm phán giữa Nhật Bản và Trung Quốc, Đại
biện lâm thời Mỹ ở Bắc Kinh S.W.William là phụ tá đắc lực cho Nhật và có những
ảnh hƣởng nhất định, dẫn tới việc ký kết Hiệp ước Bắc Kinh vào ngày 31/10/1874.
Hiệp ƣớc Bắc Kinh là một hiệp ƣớc bất bình đẳng nữa mà triều đình Mãn Thanh ký
với nƣớc ngoài với các điều khoản nhƣ sau: 1) Trung Quốc sẽ không coi cuộc thám
hiểm của hải quân Nhật Bản là phi nghĩa vì Nhật Bản chƣa hiểu rõ các phần lãnh thổ
và con ngƣời thuộc Trung Quốc; 2) Cả hai đồng ý rằng sự cố đắm tàu là nguyên nhân
làm xấu đi quan hệ giữa hai nƣớc chứ không có chuyện thổ dân Paiwan giết thủy thủ;
3) Trung Quốc có trách nhiệm điều tra sự cố đắm tàu và sẽ trừng phạt thổ dân
Paiwan nếu họ là thủ phạm; 4) Trung Quốc đồng ý bồi thƣờng cho Nhật Bản 500.000
81
lƣợng vàng, trong đó, 100.000 lƣợng sẽ bồi thƣờng cho các nạn nhân đắm tàu và
400.000 lƣợng cho các chi phí khác [101; tr.120 – 121].
Đối với cuộc Chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1895) nhằm giải quyết vấn đề
Triều Tiên, mặc dù bên ngoài Hoa Kỳ tuyên bố “trung lập” nhƣng trên thực tế, vẫn
ủng hộ và giúp đỡ Nhật Bản bằng cách tạo điều kiện cho gián điệp Nhật Bản hoạt
động; liên hệ và che giấu những hành động tàn bạo của Nhật Bản; phản đối đề nghị
của Anh về giải pháp “liên hiệp can thiệp” giữa 5 nƣớc Anh, Đức, Nga, Pháp và Mỹ
để kết thúc cuộc chiến… Tuy nhiên, khi Nhật Bản buộc Triều Tiên chấp nhận sự bảo
hộ của mình và tiến vào xâm chiếm Mãn Châu, bán đảo Liêu Đông thì Hoa Kỳ vội
vàng khuyên Nhật Bản “nghị hòa” với Trung Quốc và đề nghị đƣợc làm trung gian
hòa giải cuộc chiến. Với những toan tính về sự đƣợc mất trong lợi ích quốc gia, Nhật
Bản cuối cùng đã đồng ý với đề nghị này của Mỹ. Ngày 17/4/1895, Hiệp ước
Shimonoseki(1)
(hay còn gọi là Điều ƣớc Mã Quan) giữa Nhật Bản và triều đình nhà
Thanh đƣợc ký kết.
Hiệp ƣớc Shimonoseki là một hiệp ƣớc bất bình đẳng đối với Trung Quốc và
đem về cho Nhật Bản nhiều lợi ích to lớn. Kể từ đây, Triều Tiên và Đài Loan đã nằm
gọn trong tay ngƣời Nhật. Và để cảm ơn vai trò trung gian nghị hòa của Mỹ, Thiên
hoàng Mutsuhito (Minh Trị) đã viết thƣ cho Tổng thống G.Cleveland, trong đó có
đoạn: “Trong các cuộc chiến tranh giữa đế chế chúng tôi và đế chế Trung Hoa, nay
đã kết thúc bằng một hiệp ước hòa bình, theo sự chuẩn y và những chỉ dẫn sáng suốt
của Ngài, các nhà ngoại giao và cố vấn Mỹ ở Trung Quốc đã mở rộng cửa văn
phòng của mình, tiếp đón thần dân của chúng tôi ở Trung Quốc và nhiều lần giúp đỡ
họ… Nhân dịp này, chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới Ngài về những hành động
của Ngài cũng như các nhân viên dưới quyền Ngài vì những hành động đó không chỉ
giúp làm giảm những gay go, gian khổ và khốc liệt của chiến tranh và đưa tới sự
thành công của cuộc đàm phán hòa bình mà còn thắt chặt hơn sợi dây đoàn kết và
láng giềng hữu hảo giữa hai nước chúng ta”[63; tr.39].
Cuộc Chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905) với phần thắng thuộc về Nhật
Bản đã thực sự đƣa “đất nước mặt trời mọc” bƣớc sang trang mới, với vị thế là một
(1)
Hiệp ƣớc Shimonoseki có những điều khoản quan trọng nhƣ sau: chính quyền Mãn Thanh thừa nhận sự
“độc lập” của Triều Tiên; phải nhƣờng cho Nhật bán đảo Liêu Đông, Đài Loan, quần đảo Bành Hồ; bồi
thƣờng chi phí chiến tranh cho Nhật 360 triệu Yên; mở thêm các cảng Sa Thị, Trùng Khánh, Tô Châu, Hàng
Châu để cho ngƣời Nhật đƣợc vào buôn bán, cƣ trú và lập xƣởng sản xuất [140].
82
cƣờng quốc hùng mạnh trên thế giới. Cuộc chiến tranh này bùng nổ do sự mâu thuẫn
giữa Nhật Bản và Nga xung quanh vấn đề bán đảo Liêu Đông và Triều Tiên. Nhƣ đã
đề cập ở trên, cuộc Chiến tranh Trung – Nhật kết thúc với việc ký kết Hiệp ƣớc
Shimonoseki, trong đó có điều khoản Trung Quốc sẽ nhƣợng lại bán đảo Liêu Đông
cho Nhật. Tuy nhiên, nƣớc Nga với ý đồ và tham vọng riêng của mình(1)
đã thuyết
phục Pháp và Đức gây áp lực đòi Nhật từ bỏ quyền kiểm soát của mình ở bán đảo
Liêu Đông. Cuối cùng, sau nhiều áp lực từ phe Tam cƣờng, Nhật Bản cũng đã chịu
nhƣợng bộ từ bỏ quyền kiểm soát bán đảo Liêu Đông và đổi lại đƣợc đền bù một
khoản tài chính [58; tr.112]. Có đƣợc bán đảo Liêu Đông (bao gồm cả cảng Lữ
Thuận), Nga tìm cách bành trƣớng ảnh hƣởng của mình sang Triều Tiên – vùng đất
thuộc phạm vi ảnh hƣởng truyền thống của Nhật Bản. Điều này đã làm cho Nhật Bản
hết sức tức giận và cũng là lý do trực tiếp dẫn tới cuộc chiến này. Ngày 8/2/1904,
Nhật Bản chính thức tuyên chiến với Nga và tấn công quân Nga bất ngờ ở cảng Lữ
Thuận. Bƣớc ngoặt của cuộc chiến xảy ra khi quân Nhật đánh tan Hạm đội Baltic của
Nga ở Eo Đối Mã (Tsushima) vào ngày 27/5/1905.
Ngay khi cuộc Chiến tranh Nga – Nhật nổ ra, Tổng thống T.Roosevelt đã đề
nghị đƣợc làm ngƣời trung gian hòa bình để đổi lấy một hiệp ƣớc bí mật: Nhật có thể
chiếm Triều Tiên nếu Hoa Kỳ có thể chiếm Philippines(2)
[58; tr.113]. Về phƣơng
diện cá nhân, giữa Nga và Nhật Bản, T.Roosevelt coi Nga là mối đe dọa lớn hơn
Nhật Bản. Trong một bức thƣ gửi cho con trai, Roosevelt đã nói rằng: “Cha thật sự
vui mừng vì chiến thắng của Nhật, vì vậy hãy để Nhật chơi trò chơi của họ”[63;
tr.52]. Trong bức thƣ gửi nhà ngoại giao Anh Cecil Spring Rice ngày 24/7/1905,
Tổng thống T.Roosevelt cũng nói rằng: “Ngay khi chiến tranh nổ ra, tôi đã thông
báo cho Đức và Pháp một cách lịch thiệp và thận trọng rằng: trong trường hợp Nga,
Đức và Pháp hợp thành liên minh chống lại Nhật như năm 1894, tôi sẽ ngay lập tức
đứng về phe với Nhật và làm tất cả những gì có thể vì lợi ích của họ”[77; tr.493].
(1)
Sau cuộc Chiến tranh Trung – Nhật, Nga xem Mãn Châu là bàn đạp để hƣớng đến Triều Tiên; Nhật Bản lại
xem Triều Tiên (lúc này chỉ độc lập trên danh nghĩa) nhƣ là bàn đạp để hƣớng đến Mãn Châu. Đằng sau những
mƣu đồ trƣớc mắt của cả hai cƣờng quốc kình địch ở Triều Tiên và Mãn Châu là những tham vọng để giành
quyền thống trị toàn cõi Trung Hoa. Nhật Bản vẫn luôn muốn đƣợc đảm bảo rằng nƣớc Nga sẽ phải chiến đấu
đơn độc mà không có một đồng minh nào bên cạnh. Đây cũng chính là lý do dẫn đến sự ra đời của liên minh
Anh – Nhật vào ngày 30/1/1902 [77; tr.490].
(2) Hiệp ƣớc bí mật ấy chính là Thỏa thuận Taft – Katsura đƣợc ký kết vào tháng 7/1905, theo đó Nhật cam kết
tôn trọng quyền lợi của Mỹ ở Philippines; đổi lại, Mỹ cam kết tôn trọng lợi ích của Nhật ở Triều Tiên.
83
Tuy nhiên, ý đồ sâu xa của Hoa Kỳ trong việc thiên vị Nhật Bản đó là chuyển hƣớng
sự chú ý của Nhật Bản ra khỏi những quyền lợi của Mỹ ở Trung Quốc và vùng Tây
Thái Bình Dƣơng.
Ðến ngày 5/9/1905, Hòa ước Portsmouth đƣợc ký kết. Theo đó, Nhật đƣợc
hƣởng mọi quyền lợi của Nga ở bán đảo Liêu Đông, có quyền quản lý và kinh doanh
tuyến đƣờng sắt Nam Mãn Châu (tuyến Lữ Thuận – Trƣờng Xuân), vùng Nam đảo
Sakhalin(1)
và đƣợc toàn quyền hành động ở Triều Tiên. Hòa ƣớc Portsmouth là một
thành công đáng kinh ngạc của Nhật Bản khi mà nƣớc này đã chính thức xác lập vị
thế cƣờng quốc thế giới của mình. Đây có thể coi là một bƣớc tiến vĩ đại của quốc
gia ở châu Á này.
Nhƣ vậy, trong 3 cuộc chiến tranh mà Nhật Bản tiến hành từ năm 1874 đến
năm 1905, tất cả đều có bàn tay dính líu của Hoa Kỳ. Hay nói cách khác, Mỹ đã lợi
dụng và xúi giục Nhật Bản gây ra các cuộc chiến đó. Bề ngoài Mỹ tuyên bố “trung
lập” nhƣng bên trong lại không ngừng viện trợ vũ khí, chỉ đạo việc bố trí quân sự
cho Nhật và chờ thời cơ cả hai bên cùng suy yếu. Nhƣng khi Nhật Bản thắng lợi dễ
dàng, Hoa Kỳ lo ngại thế lực của Nhật sẽ mạnh lên và bành trƣớng, làm ảnh hƣởng
tới lợi ích của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng thì liền đứng ra “hòa giải”
và cùng với Nhật đƣợc hƣởng một số quyền lợi nhất định, chẳng hạn nhƣ quyền tối
huệ quốc. Đây thực sự chẳng khác nào mối quan hệ cộng sinh, cùng có lợi giữa hai
cƣờng quốc trẻ trên thế giới đang tìm cách cân bằng quyền lực với các cƣờng quốc
khác ở khu vực CA-TBD thời bấy giờ.
3.3.1.2. Giai đoạn 1905 – 1918
Bƣớc sang những thập niên đầu của thế kỷ XX, sau những thắng lợi trong các
cuộc chiến tranh xâm lƣợc, Nhật Bản quyết tâm biến các vùng đất thuộc quyền kiểm
soát nhƣ Triều Tiên, Mãn Châu…thành những khu vực ảnh hƣởng mang tính “độc
quyền” của mình, làm bàn đạp để phát động cuộc chiến tranh xâm lƣợc Trung Quốc
về sau. Điều này đã đi ngƣợc lại thỏa thuận bí mật đƣợc ký kết giữa Mỹ và Nhật
(Thỏa thuận Taft – Katsura), trong đó Nhật cam kết tôn trọng quyền lợi của Mỹ ở
Viễn Đông, đặc biệt là ở Triều Tiên và Mãn Châu.
(1)
Sau Chiến tranh Nga – Nhật, Nhật Bản đổi tên Nam Sakhalin thành tỉnh Karafuto. Đến tháng 8/1945, theo
thỏa thuận ở Hội nghị Yalta, Liên Xô có quyền kiểm soát Sakhalin và đến ngày 25/8 thì Liên Xô chiếm lại
đƣợc toàn bộ vùng Nam Sakhalin từ tay Nhật Bản cho đến nay.
84
Tại Triều Tiên, vƣợt xa giới hạn do Hiệp ƣớc Shimonoseki quy định, ngày
6/7/1909, Thủ tƣớng Nhật Bản đã thông qua Nghị quyết sáp nhập Triều Tiên vào
Nhật Bản. Đến ngày 22/8/1910, Nhật ép buộc Triều Tiên phải chấp nhận Nghị quyết
sáp nhập này. Chính sách của Nhật Bản lúc này đã chuyển từ sự duy trì “độc lập”
cho Triều Tiên sang chính sách biến Triều Tiên thành lãnh thổ của mình, chẳng hạn
nhƣ bắt ngƣời Triều Tiên học tiếng Nhật, theo phong tục văn hóa của Nhật, treo cờ
Nhật và ảnh của Nhật hoàng…
Còn tại Đài Loan, Chính phủ Nhật tăng cƣờng các hoạt động đầu tƣ nhƣ xây
dựng đƣờng sắt, hải cảng, ngân hàng… Kết quả là biến Đài Loan trở thành thị trƣờng
cung cấp các sản phẩm nông nghiệp quan trọng cho Nhật Bản, đặc biệt là gạo và
đƣờng. Đồng thời, Nhật Bản cũng dần biến Đài Loan thành căn cứ hải quân chiến
lƣợc để từ đây, Nhật có thể bành trƣớng phạm vi ảnh hƣởng của mình xuống phía
Nam Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á(1)
.
Ở Mãn Châu, với vị trí chiến lƣợc quan trọng và nguồn tài nguyên thiên nhiên
dồi dào đã tạo điều kiện cho Nhật Bản thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc xâm nhập vào
vùng đất này.
Về kinh tế, từ vị trí thứ 6 trong bảng xếp hạng đầu tƣ của các nƣớc vào thị
trƣờng Trung Quốc vào năm 1902, Nhật Bản đã vƣơn lên vị trí thứ 4 vào năm 1914
và thứ 2 vào năm 1931 (chỉ xếp sau Anh với mức 1,6%), chiếm tỷ trọng lớn so với
mức đầu tƣ của Nhật ở các vùng khác của Trung Quốc. Cũng tại Mãn Châu, Nhật
Bản đã thành lập Công ty đƣờng sắt Nam Mãn Châu (South Manchuria Railway
Company) để phục vụ cho công cuộc khai thác ở đây.
Đồng thời với việc tăng cƣờng đầu tƣ vào Mãn Châu, Nhật Bản còn tìm mọi
cách để giành đƣợc quyền quản lý hành chính vùng đất này. Ngày 30/6/1906, Thiên
hoàng Mushuhito đã ra Sắc lệnh thành lập Phủ toàn quyền ở Quan Đông (Kwantung)
– vùng đất mà Nhật thuê của Trung Quốc. Toàn quyền Quan Đông đƣợc giao những
quyền lực hành chính dân sự, có quyền ban bố những quyết định liên quan tới các
vấn đề hành chính và dân sự trong phạm vi khu vực mình quản lý, chỉ trừ những
trƣờng hợp khẩn cấp hay những sắc lệnh đặc biệt thì mới trình lên Nhật hoàng xem
xét, phê chuẩn. Toàn quyền Quan Đông cũng có quyền chỉ huy quân đồn trú của Bộ
(1)
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đài Loan cùng với Philippines và Cam Ranh là những căn cứ đóng vai
trò đặc biệt trong các cuộc hành quân của hải quân và không quân Nhật tiến đánh Đông Nam Á và các đảo,
quần đảo ở Thái Bình Dƣơng.
85
Quốc phòng và Bộ tham mƣu Nhật Bản bảo vệ và giám sát các tuyến đƣờng sắt ở
Nam Mãn Châu.
Việc xâm nhập mạnh mẽ về kinh tế và hành chính của Nhật Bản ở Mãn Châu
đã chứng tỏ mƣu đồ của Nhật Bản trong việc biến khu vực này thành thuộc địa của
mình và điều này đã đi ngƣợc lại với những cam kết và thỏa thuận của nƣớc này với
Hoa Kỳ và Anh. Đây cũng chính là “nấc thang” đầu tiên dẫn tới cuộc khủng hoảng
trong quan hệ Hoa Kỳ - Nhật Bản trong suốt thời gian từ năm 1905 đến sau khi
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc; đồng thời, nó cũng là nguyên nhân để cho Hoa
Kỳ đề ra những đối sách thích hợp trƣớc sự bành trƣớng mạnh mẽ của Nhật Bản
trong giai đoạn này. Do vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản từ
năm 1905 đến năm 1918 xoay quanh những vấn đề chính yếu nhƣ sau:
Thứ nhất, đối với vấn đề Mãn Châu, trƣớc những mƣu toan hành động nhằm
biến khu vực này thành thuộc địa của Nhật Bản, cùng với Anh, Chính phủ Hoa Kỳ
đã gửi công hàm yêu cầu Chính phủ Nhật thực hiện chính sách “Mở cửa” ở Mãn
Châu. Dƣới sức ép của Mỹ và Anh, cũng nhƣ để khẳng định quyền lực của chính phủ
đối với giới lãnh đạo quân sự ở trong và ngoài nƣớc, ngày 5/4/1906, Thủ tƣớng Nhật
Bản Saionji Kinmochi đã tuyên bố với Đại biện lâm thời Mỹ tại Tokyo Huntington
Wilson rằng Chính phủ Nhật đã quyết định thực hiện chính sách mở cửa ở Mãn Châu
bằng việc cam kết mở cửa An Đông, Tatungkau từ ngày 1/5/1906 và Thẩm Dƣơng từ
ngày 1/6/1906. Cũng từ ngày 1/6, Nhật Bản sẽ không thực hiện bất cứ một biện pháp
nào nhằm hạn chế sự hiện diện của ngƣời nƣớc ngoài tại Mãn Châu, trừ một số khu
vực nhất định vì lý do an ninh và quân sự. Riêng đối với cảng Đại Liên, việc mở cửa
sẽ tiến hành muộn hơn nhƣng Nhật Bản đang soạn thảo các quy định liên quan.
Những nội dung này đƣợc Thủ tƣớng Saionji chính thức khẳng định trong công hàm
gửi H.Wilson vào ngày 1/4/1906.
Tuy nhiên, khác xa với những lời lẽ khẳng định “mở cửa” Mãn Châu, Chính
phủ Nhật Bản đã liên tục có những hành động thể hiện không muốn chia sẻ bất cứ
một lợi ích nào với các cƣờng quốc khác ở khu vực này. Sau các hành động xâm
nhập mạnh mẽ về kinh tế, hành chính và quân sự tại Mãn Châu, Nhật Bản còn ký các
hiệp ƣớc với Pháp (tháng 10/1907)(1)
và Nga(1)
(tháng 7/1907). Nhƣ vậy, thực tế tình
(1)
Hiệp ƣớc Nhật – Pháp đƣợc ký kết tại Paris vào ngày 6/10/1907 với những điều khoản quan trọng nhƣ sau:
cả Nhật và Pháp cam kết tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc; khẳng định quyền lợi của Nhật Bản ở
86
hình ở Mãn Châu lại tƣơng tự nhƣ trƣờng hợp Ngoại trƣởng Mỹ John Hay gửi công
hàm cho các nƣớc đề nghị thực hiện chính sách “Mở cửa” đối với Trung Quốc. Đó
là “sự bình đẳng về cơ hội buôn bán được thừa nhận nhưng bên cạnh đó là những
khu vực ảnh hưởng với các quyền đầu tư ưu đãi và ảnh hưởng về chính trị” [63;
tr.63]. Việc tồn tại những khu vực ảnh hƣởng nhƣ trƣờng hợp của Nhật Bản, Pháp và
Nga nhƣ trên đây rõ ràng là đi ngƣợc lại với nguyên tắc của Hoa Kỳ về “sự toàn vẹn
của Trung Quốc”. Điều này là một thách thức của Hoa Kỳ trên cả phƣơng diện an
ninh, kinh tế và ngoại giao.
Thách thức đó lại càng khó giải quyết hơn khi về mặt địa lý, Hoa Kỳ không có
vị trí thuận lợi để bảo vệ Philippines và các đảo ở Tây Thái Bình Dƣơng nhƣ Nhật
Bản và Anh. Hơn thế nữa, trong khi Nhật Bản đã chứng tỏ khả năng tấn công vào các
căn cứ trên bờ biển của đối phƣơng nhƣ đã từng đánh tan Hạm đội Baltic của Nga ở
Eo Đối Mã trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật thì từ tháng 8/1907 (kéo dài đến năm
1914), Hoa Kỳ đã không có một tàu chiến nào đóng ở các vùng biển ở châu Á, trong
khi giới lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ thì lại không ngừng tranh luận việc đặt căn cứ
quân sự ở Tây Hawaii hay ở vịnh Subic (Philippines)(2)
. Trong một diễn biến khác,
quan hệ hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Anh đang dần bị phai nhạt khi Anh thắt chặt quan
hệ với Nhật Bản bằng hiệp ƣớc tháng 8/1905(3)
và với Nga vào tháng 7/1907.
Mãn Châu, Nội Mông, Phúc Kiến và quyền lợi của Pháp ở Vân Nam, Quảng Đông và Quảng Tây; Nhật Bản
công nhận quyền lợi của Pháp ở Đông Dƣơng…[121].
(1) Hiệp ƣớc Nhật – Nga đƣợc ký kết vào ngày 17/7/1907 tại St Petersburg với những nội dung quan trọng, đó
là: Nhật Bản và Nga cùng công nhận sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc; công nhận phạm vi ảnh hƣởng của
Nga ở Bắc Mãn Châu và của Nhật ở Nam Mãn Châu và hai bên đồng ý sẽ không xâm phạm hệ thống đƣờng
sắt và điện tín của nhau ở Mãn Châu; Nga thừa nhận quyền lợi của Nhật ở Triều Tiên, Nhật công nhận quyền
lợi của Nga ở Ngoại Mông Cổ…[127].
(2) Sau những lần tranh luận, Hoa Kỳ cuối cùng đã quyết định chọn Subic làm căn cứ hải quân của Mỹ ở châu
Á – Thái Bình Dƣơng. Năm 1900, Tổng thống T.Roosevelt đã ra Sắc lệnh thiết lập căn cứ hải quân ở vịnh
Subic. Còn ở Tây Hawaii, mãi tới nhƣng năm cuối của Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hoa Kỳ mới xây dựng và
mở rộng hệ thống cảng và căn cứ của mình ở Pearl Harbor (Trân Châu Cảng).
(3) Hiệp ƣớc liên minh Anh – Nhật ký ngày 12/8/1905 với những điều khoản sau đây: 1. Củng cố và giữ gìn
hòa bình chung trong khu vực Đông Á và Ấn Độ; 2. Duy trì những lợi ích chung của tất cả các cƣờng quốc ở
Trung Quốc bằng cách đảm bảo nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đế chế Trung Hoa và nguyên tắc bình
đẳng quyền lợi thƣơng mại và kinh doanh của tất cả các quốc gia có mặt ở Trung Quốc; 3. Duy trì chủ quyền
về lãnh thổ và quyền đƣợc bảo vệ những lợi ích đặc biệt của các cƣờng quốc mạnh tham gia ký kết trong khu
vực Đông Á và Ấn Độ [77; tr.490].
87
Những mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản xung quanh vấn đề mở cửa Mãn
Châu chƣa đƣợc giải quyết thì lại nảy sinh vấn đề nhập cư của người Nhật vào Mỹ
trong thập niên đầu của thế kỷ XX càng làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ Hoa
Kỳ - Nhật Bản.
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với triều đình Mãn Thanh,
Nhật Bản đã thu về những lợi ích đặc biệt ở Trung Quốc, Triều Tiên, chiếm trọn Đài
Loan và đặc biệt là chiến thắng trong cuộc chiến tranh với nƣớc Nga (1905) đã
chứng minh Nhật Bản đã thực sự trở thành một cƣờng quốc trên thế giới. Về phần
mình, Tổng thống T.Roosevelt đánh giá rất cao sức mạnh của Nhật Bản và sự trỗi
dậy của Nhật nhƣ là một bƣớc song trùng với những bƣớc tiến của Mỹ ở khu vực
CA-TBD. Bộ trƣởng Ngoại giao Mỹ Elihu Root trong một bài phát biểu cũng cho
rằng: “Nhật Bản đã sẵn sàng cho chiến tranh” và có “các thiết bị và nhân viên quân
sự hiệu quả nhất thế giới” [89; tr.7].
Trong khi đó, sự xuất hiện ngày càng nhiều ngƣời Nhật trên đất Mỹ đã khiến
cho Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ hết sức lo sợ trƣớc “mối hiểm họa da vàng”
(Yellow peril), cộng thêm vào đó là việc Nhật Bản tăng cƣờng bành trƣớng ở Viễn
Đông, đặc biệt là ở Nam Mãn Châu đã làm cho mâu thuẫn giữa hai nƣớc ngày càng
trầm trọng.
Cũng cần nói thêm rằng, trong lịch sử lập quốc của mình, nhập cƣ luôn là vấn
đề xuyên suốt của Hoa Kỳ. Đối với ngƣời nhập cƣ từ châu Á, cho đến những năm 40
của thế kỷ XIX, hầu nhƣ không có một sự hiện diện nào của ngƣời châu Á tại Hoa
Kỳ. Tình hình đó đã thay đổi khi bƣớc vào thập niên 50, lúc mà Hoa Kỳ phát hiện ra
mỏ vàng ở California. Chính điều đó đã dẫn đến làn sóng nhập cƣ vào Hoa Kỳ, đặc
biệt là từ Trung Quốc(1)
. Theo thống kê, vào năm 1850, chỉ có 1.135 ngƣời châu Á
sinh sống tại Hoa Kỳ, đến năm 1860 tăng lên 36.000 ngƣời, năm 1870 là 64.000
ngƣời và vƣợt lên con số 107.000 ngƣời vào năm 1880 [89; tr.4]. Đối với dân nhập
cƣ ngƣời Nhật, vào năm 1890, mới chỉ có 2.039 ngƣời Nhật tại Hoa Kỳ nhƣng chỉ 10
năm sau đã tăng lên 24.000 ngƣời, trong đó có 10.000 ngƣời tập trung tại California.
Chính điều này đã góp phần làm gia tăng làn sóng chống ngƣời châu Á và dẫn tới
(1)
Những ngƣời Hoa đến Mỹ theo phong trào “Cơn sốt vàng” (Gold Rush) đã thiết lập nên các khu Chinatown
kéo dài dọc theo bờ biển phía Tây nƣớc Mỹ từ San Diego đến Victoria (California); sau đó lan sang cả các khu
vực lân cận nhƣ Washington, Oregon, Idaho, Utah…và các thành phố bờ Đông nhƣ New York, Boston,
Baltimore…
88
Quốc hội Hoa Kỳ buộc phải thông qua một đạo luật hạn chế ngƣời nhập cƣ vào năm
1902. Tuy nhiên, đạo luật này lại không đề cập tới ngƣời Nhật mà chỉ hạn chế ngƣời
Trung Quốc; chính vì thế, ngƣời dân ở California hết sức tức giận(1)
. Một số chính
khách ở California đã cho rằng: “Nhập cư của Nhật Bản là nghiêm trọng hơn Trung
Quốc vì Nhật Bản đã đạt được trạng thái của một cường quốc trong khi Trung Quốc
thì không” [89; tr.5].
Trƣớc những phản ứng dữ dội từ phía công đoàn và những kẻ quá khích ở
California, Tổng thống T.Roosevelt đã buộc phải nhƣợng bộ và tuyên bố cần phải
hạn chế ngƣời nhập cƣ Nhật Bản để giữ gìn hòa bình ở California và an ninh nƣớc
Mỹ(2)
. Thực hiện lời hứa với Thị trƣởng San Francisco Schmitz và Uỷ ban giáo dục
thành phố này, Tổng thống T.Roosevelt đã yêu cầu Nhật Bản phải ký kết Thỏa thuận
của các Quý ông (Gentlemen’s Agreement) về hạn chế nhập cƣ. Theo đó, có 3 nhóm
ngƣời lao động sau đây đƣợc phép nhận hộ chiếu vào Hoa Kỳ:
Thứ nhất, những ngƣời trƣớc kia đã cƣ trú tại nƣớc Mỹ lục địa;
Thứ hai, những ngƣời là cha mẹ, vợ chồng hoặc con cái của cƣ dân nƣớc Mỹ
lục địa;
Thứ ba, những ngƣời hoạt động trong ngành nông nghiệp đã có cơ sở kinh
doanh tại nƣớc Mỹ lục địa[74; tr.62].
Cũng trong năm 1907, Tổng thống T.Roosevelt đã đề nghị Quốc hội thêm vào
điều khoản: “Bất cứ khi nào Tổng thống nhận thấy rằng những hộ chiếu được cấp
bởi nước ngoài cho công dân của họ để đi tới các nước khác ngoài nước Mỹ, tới các
đảo thuộc sở hữu của nước Mỹ hoặc khu vực kênh đào ảnh hưởng không tốt tới môi
trường lao động tại đó, Tổng thống sẽ không cho phép những công dân này được
nhập cư vào nước Mỹ lục địa hay bất cứ đảo nào thuộc sở hữu của Mỹ”[74; tr.62].
Trên cơ sở điều khoản này, Tổng thống T.Roosevelt đã ban hành quy định cấm
(1)
Năm 1905, Hội đồng giáo dục thành phố San Francisco đã thông qua đạo luật phân biệt tất cả ngƣời châu Á
trong các trƣờng công lập của thành phố. Tuy nhiên, trận động đất vào tháng 4/1906 đã trì hoãn thực thi đạo
luật này. Sau khi trƣờng học mở cửa trở lại, các học sinh, sinh viên Nhật Bản đã bị loại khỏi các trƣờng mà họ
đã theo học [89; tr.8].
(2) Trên phƣơng diện tình cảm cá nhân, Tổng thống Roosevelt lại cho rằng đạo luật mà chính quyền California
ban hành là ác ý và thể hiện chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cách phi lý. Bằng chứng là trong một bức thƣ
gửi con trai Kermit Roosevelt – sinh viên đang học tại Đại học Harvard, ông đã nói rằng: “Cha đang có mối
bận tâm khủng khiếp với giới doanh nhân Nhật Bản. Những kẻ ngu ngốc ở California, đặc biệt là ở San
Francisco đang xúc phạm người Nhật một cách bất cẩn…” [89; tr.15].
89
ngƣời lao động Nhật Bản đã có hộ chiếu vào Mexico, Canada hay Hawaii (hoặc bất
cứ hòn đảo nào thuộc sở hữu của Hoa Kỳ) đi tới Hoa Kỳ [89; tr.16].
Nhƣ vậy, với việc thông qua Thỏa thuận giữa các Quý ông, Nhật Bản trong
chính sách của Hoa Kỳ đƣợc xem nhƣ là một quốc gia hạng hai và do đó, công dân
Nhật không xứng đáng đƣợc nhập tịch vào Hoa Kỳ. Đây là một chính sách bất công
và thiếu sự tôn trọng Nhật Bản của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh vừa mới
thoát ra cuộc chiến tranh với Nga, chƣa đủ điều kiện để sẵn sàng cho một cuộc đối
đầu mới nên Nhật Bản không có con đƣờng nào khác là phải ký Thỏa thuận này.
Sự kiện Hoa Kỳ ban hành Thỏa thuận giữa các Quý ông đã thêm một dấu
mốc nữa đánh dấu sự khủng hoảng trong quan hệ Hoa Kỳ - Nhật Bản vào đầu thế kỷ
XX; đồng thời, nó cũng là thử thách cho nguyên tắc bình đẳng và dân chủ của nƣớc
Mỹ.
Dƣới thời Tổng thống W.H.Taft, chính sách kiềm chế sự bành trướng của
Nhật Bản ở châu Á vẫn không thay đổi, nhƣng lại đƣợc thực thi thông qua một chính
sách khác, đó là chính sách “Ngoại giao Dollar”: thông qua quan hệ thƣơng mại và
khuyến khích các nhà đầu tƣ Hoa Kỳ cho nƣớc ngoài vay; qua đó, mở rộng lợi ích
của Hoa Kỳ và trói buộc các quốc gia khác vào quỹ đạo ảnh hƣởng của Hoa Kỳ.
Ngoài khu vực Mỹ Latinh, chính sách “Ngoại giao Dollar” còn đƣợc Mỹ
thực thi tại khu vực châu Á nhằm đẩy lùi thế lực của Anh, Đức và Pháp đang hiện
diện ở đây. Bƣớc đầu tiên của Chính phủ Taft áp dụng là sử dụng áp lực đòi đƣợc
tham gia xây dựng công trình đƣờng sắt Hồ Quảng (Hồ Bắc - Quảng Đông), làm cho
nhà Thanh trong một thời gian dài chƣa dám phê chuẩn hợp đồng vay tiền của Anh,
Pháp và Đức.
Bƣớc lớn thứ hai trên con đƣờng Hoa Kỳ thực hiện chính sách “Ngoại giao
Dollar” ở Trung Quốc là cố gắng thực hiện “trung lập hóa đường sắt Mãn Châu”
(dự án Knox). Năm 1909, Ngoại trƣởng P.C.Knox đƣa ra kiến nghị: tranh thủ dùng
các giải pháp quốc tế cùng quản lí để thực hiện “trung lập hóa đường sắt Mãn
Châu”. Điều này nhằm mục tiêu là giảm bớt thế lực ngày càng tăng của Nga và Nhật
tại vùng Đông Bắc Trung Quốc. Tuy nhiên, dự án này đã thất bại do không đƣợc sự
đồng ý của Nhật Bản và Nga.
90
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản đã áp đặt 21 yêu sách(1)
(tháng
1/1915) lên Chính phủ của Viên Thế Khải, mƣu đồ biến Trung Quốc thành thuộc địa
riêng của mình bằng cách đƣa Viên Thế Khải lên làm vua. Điều này đã đe dọa trực
tiếp tới lợi ích của Hoa Kỳ ở Trung Quốc. Do vậy, Hoa Kỳ tìm mọi cách để xóa bỏ
việc liên minh giữa Anh và Nhật. Tuy nhiên, ý định độc chiếm Trung Quốc của Nhật
Bản cũng đã làm cho Anh vào lúc này vô cùng lo lắng, nên Anh cũng hy vọng sử
dụng một liên minh gồm 3 nƣớc Anh - Hoa Kỳ - Nhật nhằm thay thế cho liên minh
Anh - Nhật trƣớc đây. Nhƣng Hoa Kỳ đã từ chối đề nghị này của Anh, Hoa Kỳ vẫn
muốn thay đổi và chủ trƣơng sửa liên minh này thành công ƣớc không xâm phạm lẫn
nhau.
Khi W.Wilson lên làm tổng thống, cùng với việc tiếp tục mở rộng phạm vi
ảnh hƣởng ở khu vực Mỹ Latinh nhằm tranh thủ thời gian các nƣớc châu Âu đang
bận chiến tranh thì ở khu vực CA-TBD, Mỹ muốn lợi dụng chiến tranh để củng cố và
mở rộng vị thế của mình ở Trung Quốc, đặc biệt là ở Mãn Châu – nơi mà Nhật Bản
đang kiểm soát và chiếm ƣu thế.
Hoa Kỳ định sử dụng áp lực của 3 nƣớc thành viên khối Hiệp ƣớc là Anh,
Pháp và Nga để cùng với Hoa Kỳ chống lại Nhật nhƣng những nƣớc này cho rằng
trƣớc khi chiến tranh kết thúc không thể làm cho quan hệ với Nhật Bản thêm phức
tạp. Do vậy, Nhật có cơ hội để củng cố địa vị vững chắc của mình ở Trung Quốc
nhƣng điều đó lại làm tăng thêm mâu thuẫn giữa nƣớc này với Hoa Kỳ. Tuy vậy,
trong điều kiện Nhật Bản chƣa thể dùng quân sự để xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc,
còn Hoa Kỳ thì bận tham gia chiến tranh (từ tháng 4/1917)(2)
nên Hoa Kỳ và Nhật
Bản tạm thời hòa hoãn với nhau. Điều này đƣợc thể hiện qua Thỏa thuận Lansing –
Ishii (Lansing – Ishii Agreement) liên quan đến vấn đề Trung Quốc đƣợc ký kết giữa
Ngoại trƣởng Mỹ R.Lansing và Đặc phái viên Nhật Ishii vào ngày 2/11/1917 với nội
dung chính nhƣ sau:
(1)
21 yêu sách của Nhật Bản đƣợc Thủ tƣớng Okuma Shigenobu gửi đến Chính phủ Trung Hoa Dân quốc vào
ngày 18/1/1915 với một số nội dung quan trọng nhƣ: Chính phủ Trung Quốc phải thừa nhận các quyền, lợi ích
và những ƣu đãi của Nhật ở tỉnh Shantung (Sơn Đông); thừa nhận quyền kiểm soát của Nhật Bản ở Nam Mãn
Châu và Đông Nội Mông, kể cả vấn đề chính trị, quân sự, tài chính và an ninh; cho phép Nhật gia hạn thêm
thời gian thuê cảng Lữ Thuận (Port Arthur), Đại Liên (Dalny) và tuyến đƣờng sắt Antung – Mukden (An Đông
– Thẩm Dƣơng) đến 99 năm…[102; tr.788]
(2) Ngày 4 và 6/4/1917, Thƣợng viện và Hạ viện Mỹ thông qua Nghị quyết tuyên chiến với Đức. Đến ngày
17/12/1917, Mỹ chính thức tuyên chiến với đế quốc Áo – Hung.
91
Thứ nhất, hai bên cam kết sẽ duy trì chính sách “Mở cửa” Trung Quốc và
không thừa nhận có những hành động bất kỳ dƣới hình thức nào vi phạm đến sự toàn
vẹn lãnh thổ của Trung Quốc;
Thứ hai, Chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận rằng, Nhật Bản có những “lợi ích đặc
biệt” ở Trung Quốc do sự gần gũi về mặt địa lý, đặc biệt là những khu vực của
Trung Quốc tiếp giáp với lãnh thổ của Nhật Bản [131].
Mặc dù Thỏa thuận này trƣớc đó đã nói rõ rằng, “Chính phủ hai nước sẽ
không lợi dụng tình thế hiện thời để mưu cầu những lợi ích đặc biệt ở Trung Quốc
mà điều đó sẽ gây tổn hại tới quyền lợi của công dân các nước anh em khác” nhƣng
việc Hoa Kỳ thừa nhận những “lợi ích đặc biệt” của Nhật Bản ở Trung Quốc là một
sự mâu thuẫn với chính sách “Mở cửa” và là một bƣớc lùi của Hoa Kỳ. Điều đó có
thể giải thích một phần bởi nguyên do là việc Nhật Bản ký các hiệp ƣớc đồng minh
với Anh (vào các năm 1902, 1905, 1911) và mong muốn đƣợc tham gia vào đồng
minh này của Pháp và Nga vào năm 1914 tuy không đạt đƣợc kết quả nhƣ mong
muốn nhƣng cũng dẫn tới việc ký kết Hiệp ƣớc Nhật – Nga (tháng 7/1916) cũng nhƣ
việc Nhật Bản đƣợc mời tham gia Tuyên bố London (tháng 9/1915) đã đƣa nƣớc này
nghiễm nhiên trở thành một thành viên trong nhóm “5 ông lớn” đóng vai trò quan
trọng trong cuộc đàm phán kết thúc chiến tranh sau này và cũng nhƣ một lời nhắc
nhở sâu xa rằng nếu Nhật không đƣợc ―đối xử một cách hào phóng” thì Nhật sẽ rút
khỏi các liên minh này và quay sang hợp tác với Đức. Điều đó có nghĩa đặt Hoa Kỳ
vào vị trí mâu thuẫn với các nƣớc trong khối Hiệp ƣớc.
Tuy nhiên, sự hòa hoãn trên đây chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và đã
nhanh chóng kết thúc cùng với Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong bối cảnh các
nƣớc châu Âu (kể cả thua trận và thắng trận) đều bị suy yếu thì Hoa Kỳ nhờ tham
chiến muộn, lại bán đƣợc nhiều vũ khí nên đã ngày càng lớn mạnh và đạt đến thời kỳ
hƣng thịnh vào những năm 1920(1)
. Do vậy, giới tƣ bản và các chính khách Hoa Kỳ
muốn đƣa nƣớc Mỹ vƣơn lên trở thành bá chủ thế giới. Xuất phát từ các lý do đó,
Tổng thống Wilson đã đề ra Chương trình 14 điểm (The Fourteen Points) với hình
thức bề ngoài là lập lại hòa bình thế giới và đề cao dân chủ song thực chất là nhằm tổ
chức lại thế giới sau chiến tranh theo con đƣờng có lợi cho Hoa Kỳ.
(1)
Còn gọi là Thời đại “Phồn vinh Coolidge”.
92
Ở CA-TBD, Hoa Kỳ tích cực chuẩn bị cho một chiến dịch lớn nhằm chống lại
sự bành trƣớng của Nhật Bản theo 4 hƣớng cơ bản nhƣ sau:
Một là, cố gắng điều chỉnh việc đầu tƣ của Nhật ở Trung Quốc trong khuôn
khổ các văn bản đƣợc ký kết giữa các thành viên của “tổ hợp 4 cường quốc mới”
gồm Mỹ, Anh, Pháp và Nhật;
Hai là, tham gia vào liên quân viễn chinh đổ bộ vào Siberia nhằm cản trở ý đồ
của Nhật tách các tỉnh ven biển khỏi sự cai quản của Nga;
Ba là, kiên quyết gây áp lực buộc Nhật Bản phải trả lại vùng Sơn Đông cho
Trung Quốc;
Bốn là, ký các hiệp ƣớc nhằm điển chế các nguyên tắc trong chính sách Viễn
Đông của Hoa Kỳ [63; tr.71].
Với ba hƣớng đầu tiên, Hoa Kỳ đã không thành công bởi hai nguyên nhân chủ
yếu: Một là, sự kiên quyết bảo vệ quyền lợi của Nhật Bản trƣớc những đòi hỏi và áp
lực của Hoa Kỳ. Hai là, lúc này liên minh Anh – Nhật đang còn tồn tại, không cần
tới khả năng đề nghị Mỹ giúp đỡ. Với hƣớng thứ tƣ, Hoa Kỳ đã bƣớc đầu thực hiện
đƣợc mục tiêu này trong Hội nghị thông tin liên lạc quốc tế tổ chức ở Washington
D.C từ tháng 1 đến tháng 12/1920 với sự tham dự của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản và
chủ nhà Hoa Kỳ. Tại hội nghị này, Mỹ đã yêu cầu các nƣớc đặt đảo Yap(1)
dƣới sự
cai quản của quốc tế. Tuy nhiên, lời đề nghị này của Hoa Kỳ đã bị Nhật, Anh và
Pháp kiên quyết từ chối, còn Italia thì tỏ thái độ lập lờ, nƣớc đôi.
Nhƣ vậy, trong thời gian từ sau Nội chiến đến năm 1918, trong bối cảnh Hoa
Kỳ đang dần trở thành một cƣờng quốc công nghiệp, tài chính của thế giới và có
những nhu cầu lẫn điều kiện để có thể mở rộng phạm vi ảnh hƣởng của mình ở khu
vực CA-TBD thì cùng lúc đó, Nhật Bản cũng đang mở rộng và bành trƣớng ở Viễn
Đông và Đông Á bằng chiến tranh. Những lo ngại về lợi ích bị tổn hại do sự bành
trƣớng của Nhật Bản đã khiến cho Hoa Kỳ phải có những toan tính và bƣớc đi thích
hợp nhằm kiềm chế tham vọng của Nhật Bản, bắt buộc Nhật phải chấp nhận những
nhƣợng bộ và thua thiệt. Một điểm đặc biệt là dù có nhiều mâu thuẫn nhƣng do tác
động của các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài nên cả Hoa Kỳ và Nhật Bản đều không
(1)
Đảo Yap nằm trên tuyến đƣờng biển từ Hawaii đến Philippines và là đầu mối của một trong hai tuyến cáp
ngầm xuyên Thái Bình Dƣơng; đồng thời có vị trí đặc biệt quan trọng trong thƣơng mại và chiến lƣợc của Mỹ.
Sau khi Hòa ƣớc Versailles đƣợc ký kết, hòn đảo này đặt dƣới sự quản lý của Nhật Bản. Hiện nay, đây là một
bang của Liên bang Micronesia.
93
đẩy những mâu thuẫn và cạnh tranh đến mức căng thẳng, dẫn đến đối đầu mà nguy
cơ cao nhất là phải giải quyết bằng chiến tranh.
3.3.2. Đối với Trung Quốc
Vào cuối thế kỷ XIX, các nƣớc đế quốc phƣơng Tây tăng cƣờng xâm nhập lãnh
thổ và thuộc địa để thỏa mãn nhu cầu thị trƣờng, tài nguyên và nhân công phục vụ nền
kinh tế chính quốc. Ở CA-TBD, tất cả các nƣớc đế quốc đều hƣớng con mắt thèm
thuồng vào vùng đất rộng lớn Trung Quốc. Chính quyền phong kiến Mãn Thanh vốn đã
suy yếu thì nay lại càng rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng sau khi thất bại trong
hai cuộc Chiến tranh Nha phiến (1840 – 1843 và 1856 – 1860) trƣớc liên minh các nƣớc
đế quốc, đứng đầu là Anh. Đây cũng chính là lý do để cho các cƣờng quốc phƣơng Tây
ép buộc Trung Quốc phải ký các hiệp ƣớc bất bình đẳng(1)
, tạo cơ hội thuận lợi cho các
nƣớc đế quốc xâu xé và tranh giành “chiếc bánh ngọt Trung Quốc”.
Sau khi cuộc Nội chiến Nam – Bắc kết thúc, Hoa Kỳ lại tiếp tục mƣu tìm
những lợi ích về thƣơng mại và can dự nhiều vấn đề về lãnh thổ của Trung Quốc.
Ngày 28/7/1868, Mỹ lại ép buộc Trung Quốc ký thêm Điều ước bổ sung cho Hiệp
ước Thiên Tân(2)
(Hiệp ƣớc Thiên Tân đƣợc ký vào năm 1858) nhằm mở rộng hơn
nữa các cơ sở thƣơng mại của Mỹ ở Trung Quốc và đảm bảo các quyền tự do đi lại,
sinh hoạt tôn giáo của ngƣời Mỹ sinh sống ở Trung Quốc.
Trong suốt thập niên 1870 và 1880, Mỹ đã cùng phối hợp với Anh, Nhật Bản
tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm các vùng biên giới phía Đông và phía
Tây Nam của Trung Quốc. Vào năm 1874, đƣợc Tƣớng Charles Legendre (lúc này
đang là Đại biện lâm thời Mỹ tại Hạ Môn) làm cố vấn, Nhật Bản đã tiến hành cuộc
chiến tranh xâm lƣợc Đài Loan. Nhƣng khi chiến hạm của Mỹ chở quân Nhật đổ bộ
lên đảo thì đã bị quân dân ở đây chống trả quyết liệt. Chính quyền Mãn Thanh và
(1)
Trƣớc sức ép của thực dân phƣơng Tây, chính quyền Mãn Thanh đã phải ký hàng loạt hiệp ƣớc nhƣ Hiệp
ước Nam Kinh (1842), Hiệp ước Hổ Môn (1843) với Anh; Hiệp ước Vọng Hạ với Mỹ (1844); Hiệp ước Ái
Hồn với Nga (1858); Hiệp ước Thiên Tân với Pháp, Anh, Nga, Mỹ (1858); Hiệp ước Bắc Kinh với Anh, Pháp,
Nga (1860)…
(2) Hiệp ước Thiên Tân với 30 điều khoản đƣợc ký kết vào ngày 18/6/1858 giữa triều đình Mãn Thanh với 4
nƣớc là Anh, Pháp, Nga và Mỹ; trong đó Hoa Kỳ có quyền thiết lập tòa đại sứ tại Bắc Kinh; Trung Quốc phải
mở 11 cảng cho thƣơng nhân nƣớc ngoài vào buôn bán; tàu thuyền nƣớc ngoài đƣợc quyền tự do đi lại trên
sông Dƣơng Tử; Trung Quốc phải đảm bảo quyền tự do tôn giáo của các Kitô hữu…[141].
94
Anh cũng phản ứng mạnh mẽ trƣớc hành động này của Nhật Bản. Cuối cùng, nhờ sự
can thiệp của Đại biện lâm thời Mỹ ở Bắc Kinh S.W.William, Hiệp ƣớc Bắc Kinh đã
đƣợc ký kết và Trung Quốc phải bồi thƣờng cho Nhật Bản 500.000 lƣợng vàng.
Sau khi chiếm đƣợc Triều Tiên, Nhật Bản lại tiếp tục nhòm ngó Trung Quốc.
Lúc này, tuyến đƣờng sắt xuyên Siberia của Nga đã vƣơn tới khu vực Mãn Châu của
Trung Quốc. Sự gia tăng ảnh hƣởng của Nga ở Trung Quốc đã khiến cho Nhật lo ngại.
Tháng 4/1894, quân Nhật không tuyên chiến đã bất ngờ tấn công quân Thanh ở Nha
Sơn. Trong khi cuộc chiến Trung – Nhật đang diễn ra, tàu chiến Mỹ và các nƣớc
phƣơng Tây khác đã không có một hành động nào nhằm giúp đỡ quân đội nhà Thanh
mà chỉ lo bảo vệ các cơ sở thƣơng mại của mình ở các cảng của Trung Quốc. Về phía
Mỹ, nƣớc này cũng muốn cân bằng lực lƣợng với Nga và Nhật ở Trung Quốc nên đã
đứng ra dàn xếp kết thúc chiến tranh khi đƣợc đại thần nhà Thanh là Lý Hồng Chƣơng
đề nghị [13; tr.35]. Đến ngày 17/4/1895, với vai trò trung gian của Mỹ, Trung Quốc và
Nhật Bản đã ký kết Hiệp ƣớc Shimonoseki với các điều khoản có lợi cho Nhật.
Nhƣ vậy, từ thập niên 40 của thế kỷ XIX cho đến khi chiến tranh Mỹ - Tây
Ban Nha bùng nổ (1898), do thực lực có hạn, Hoa Kỳ chủ yếu thi hành chính sách ngoại
giao “kết bạn” với Trung Quốc. Mục đích của các nhà ngoại giao Mỹ là duy trì nguyên
trạng các quốc gia phƣơng Đông (đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên) để
đảm bảo cho Mỹ một cơ hội thông thƣơng bình đẳng với các quốc gia này. Tuy nhiên,
sau thắng lợi vang dội trƣớc Tây Ban Nha, những ngƣời Mỹ theo chủ nghĩa bành trƣớng
đã không còn cảm thấy thỏa mãn với địa vị nhỏ bé của Hoa Kỳ ở Trung Quốc. Họ đòi
thi hành chính sách Trung Quốc độc lập, phản đối sự lệ thuộc của Trung Quốc vào Anh.
Chính phủ Mỹ cũng cảm thấy khẩn thiết cần phải điều chỉnh chính sách đối với Trung
Quốc bởi vì những hoạt động tranh giành, xâu xé Trung Quốc của các cƣờng quốc khác
đã đe dọa nghiêm trọng tới lợi ích của Mỹ. Nhƣ Henry Cabot Lodge đã nói: “Cả châu
Âu đều bành trướng ở Trung Quốc. Nếu chúng ta không xác lập địa vị của mình ở
phương Đông, thế thì, tương lai mậu dịch to lớn có thể mang lại của cải cho chúng ta
cũng như cả khu vực rộng lớn có hi vọng tìm được thị trường mới vô cùng quan trọng
với chúng ta sẽ bị đóng cửa”[36; tr.270].
Cuối năm 1898, Tổng thống McKinley bày tỏ phải áp dụng một thủ đoạn
“tương thích” với chính sách nhất quán của Chính phủ Hoa Kỳ để bảo vệ lợi ích to
lớn của Mỹ ở Trung Quốc, đánh dấu cho sự ra đời của chính sách “Mở cửa” (The
95
Open Door Policy) ngay sau đó. Nguyên nhân để Hoa Kỳ lựa chọn chính sách này là
do những điểm sau đây:
1. Lúc bấy giờ, Hoa Kỳ chỉ có hơn 10 vạn quân thƣờng trực, thiếu một sức
mạnh quân sự để có thể tranh giành quyền lợi và phạm vi ảnh hƣởng với các cƣờng
quốc nhƣ Anh, Pháp, Đức...
2. Vào cuối thế kỷ XIX, Mỹ đã vƣơn lên trở thành cƣờng quốc kinh tế TBCN,
hoàn toàn có khả năng thực hiện những bành trƣớng cạnh tranh trong lĩnh vực
thƣơng mại mà hầu nhƣ không cần tới việc sử dụng vũ lực.
3. Cũng vào thời điểm này, thế lực của các nƣớc mạnh ở Trung Quốc tồn tại
quá nhiều mâu thuẫn. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa Anh với Nga, Nhật với Nga. Đế
quốc Anh lúc này cũng đang vƣớng vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt với Pháp ở
châu Phi, với Nga ở vùng Cận Đông, với Đức trong vấn đề thƣơng mại và hàng hải
và đang công khai phát động chiến tranh với Boers ở Nam Phi (1899 – 1902). Điều
đó làm cho Anh lo ngại và quyết tâm duy trì thế cân bằng ở Trung Quốc nhằm tránh
bất cứ một thiệt hại nào về lợi ích cho mình.
Chính vì thế, vào tháng 3/1898, Chính phủ Anh đã mời Hoa Kỳ hợp tác để
chống lại mọi hành động có thể làm phƣơng hại đến sự bình đẳng mậu dịch của các
cƣờng quốc ở Trung Quốc. Tuy nhiên, Tổng thống McKinley đã chỉ đạo cho Ngoại
trƣởng Sherman từ chối lời đề nghị này của ngƣời Anh. Trên thực tế, lúc này Hoa Kỳ
đang vƣớng bận cho việc chuẩn bị chiến tranh với Tây Ban Nha; do đó, cùng một lúc
không thể tính đến vấn đề Trung Quốc. Đến năm 1899, một lần nữa Anh lại đƣa ra
đề nghị Anh – Hoa Kỳ hợp tác; song với lý do cũ, Mỹ lại từ chối. Tuy nhiên, nguyên
nhân thực sự là chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha đã kết thúc với thắng lợi nghiêng về
Hoa Kỳ. Hơn nữa, Hoa Kỳ vốn có dã tâm, mƣu đồ bành trƣớng đối với Trung Quốc
nhƣng lại không muốn đi theo con đƣờng của Anh mà muốn tạo ra cho mình một
chính sách ngoại giao độc lập.
Trong khoảng thời gian từ ngày 6/9 đến ngày 17/11/1899, Ngoại trƣởng Mỹ
John Hay đã gửi công hàm về chính sách “Mở cửa” Trung Quốc lần lƣợt tới các Đại
sứ Hoa Kỳ ở Anh, Nga, Đức, Nhật Bản, Italia và Pháp, tuyên bố rằng:
Chính phủ chúng tôi đặc biệt được mong muốn chứng kiến những tuyên bố
chính thức từ phía tất cả các cường quốc có liên quan đến Trung Quốc, và tất cả các
bên sẽ đều có lợi ích rõ ràng trong các hoạt động thương mại với toàn thế giới, tất
cả đều dựa trên những nguyên tắc như sau:
96
Điều đầu tiên, thừa nhận việc các cường quốc không được dùng bất kỳ
phương thức nào can thiệp với bất kỳ hải cảng mở hay bất kỳ quyền được thụ hưởng
trong bất cứ phạm vi lãnh thổ thuê mướn nào hay những vùng được gọi là “phạm vi
ảnh hưởng” thuộc Trung Quốc.
Điều thứ hai, đó là việc hiệp ước thuế quan của Trung Quốc vào thời điểm đó
được áp dụng cho tất cả hàng hóa cập bến tất cả các cảng được xem như là “phạm
vi ảnh hưởng” (trừ khi họ nhập hàng vào “cảng phi thuế quan”) bất luận hàng hóa
đó thuộc quốc gia nào và thuế phải thu do chính phủ Trung Quốc quản lý.
Điều thứ ba, mỗi cường quốc sẽ không thu nhiều hơn lệ phí cảng của các
thuyền nước ngoài thường xuyên ghé qua cảng thuộc “khu vực” so với thuyền của
chính quốc gia đó, và hàng hóa thuộc về công dân hay đối tượng có quốc tịch khác
sẽ không phải trả nhiều hơn chi phí ngoài chi phí xây dựng, kiểm soát hay vận hành
đường ray xe lửa so với hàng hóa tương tự thuộc cường quốc này khi được vận
chuyển trên một cung đường trong phạm vi [77; tr.484 – 485].
Sau khi công hàm đƣợc đƣa ra, các cƣờng quốc có những phản ứng khác
nhau. Chính phủ Anh tỏ ra tán thành những yêu cầu của Mỹ song đề nghị phải đặt
vùng tô giới của Anh (Hong Kong và Cửu Long) ra ngoài chính sách “Mở cửa”.
Pháp cũng biểu thị sự đồng ý và thực hiện nguyên tắc “đối xử công bằng”. Tiếp đó,
Nhật Bản, Italia, Đức cũng đều tán thành các chính sách do Mỹ đề ra. Trong khi đó,
Nga lại tỏ ra không chấp nhận chính sách “Mở cửa” Trung Quốc của Hoa Kỳ song
John Hay vẫn tuyên bố: “…Nước Nga chấp nhận đề nghị của chúng ta mà không có
nhiều bảo lưu” (ngày 20/3/1900) [36; tr.273].
Với những kiến nghị của John Hay không những không thể bảo đảm cho một
nền độc lập của Trung Quốc mà còn kích động lòng căm thù đối với nhân dân Trung
Quốc. Liên tiếp là những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Quốc bùng nổ, đặc biệt
vào năm 1900, nổ ra phong trào Nghĩa Hòa Đoàn buộc nhà Thanh phải cầu cứu sự giúp
sức của liên quân Tám nƣớc (Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nga, Italia, Áo và Hoa Kỳ).
Hoa Kỳ một mặt đƣa 5000 quân tham gia hành động xâm lƣợc của liên quân
Tám nƣớc. Song mặt khác lại sợ các nƣớc mạnh lợi dụng cơ hội này phá vỡ thế cân
bằng ở Trung Quốc, gạt bỏ những lợi ích của Hoa Kỳ ra bên ngoài. Đến ngày
3/7/1900, Ngoại trƣởng John Hay lại gửi công hàm cho các cƣờng quốc, một lần nữa
khẳng định lập trƣờng của Hoa Kỳ đối với chính sách “Mở cửa” Trung Quốc:
“Chính sách của Chính phủ Hợp chúng quốc là tìm kiếm phương án giải quyết có
97
thể mang lại hòa bình và an ninh lâu dài cho Trung Quốc, duy trì lãnh thổ và chính
quyền của người Trung Quốc, bảo đảm tất cả các quyền lợi của các cường quốc
đồng minh bằng hiệp ước và luật pháp quốc tế, và giữ gìn cho thế giới những nguyên
tắc về giao thương bình đẳng và không thiên vị trên toàn đế chế Trung Hoa” [77;
tr.487]. Tuy nhiên, hành động của Hoa Kỳ và các cƣờng quốc châu Âu khác thực
chất là xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc.
Trên cơ sở những nguyên tắc đề ra trong chính sách “Mở cửa”, Hoa Kỳ đã ép
buộc Trung Quốc phải ký Hiệp ước gia hạn quan hệ thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc
(còn gọi là Hiệp ƣớc Thƣợng Hải) vào năm 1903 nhằm mở rộng hơn nữa lợi ích về
thƣơng mại, các quyền lợi của ngoại giao đoàn và công dân Mỹ ở Trung Quốc.
Khi W.H.Taft lên làm tổng thống (1909), ông và Ngoại trƣởng Philander
C.Knox nhận ra rằng sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập về chính trị ở Mãn Châu đang
bị uy hiếp bởi những nhƣợng bộ về đƣờng sắt với Nhật Bản và Nga. Ngoại trƣởng
Knox tin rằng nếu những nhƣợng bộ đó bị hủy bỏ thì chính sách “Mở cửa” và chủ
quyền của Trung Quốc sẽ đƣợc bảo đảm. Để đạt đƣợc mục đích của mình, Knox đã
thảo một bản quy ƣớc bao gồm những nguyên tắc đã đƣợc Chính phủ Anh đồng
thuận về mặt ngoại giao rồi gửi cho chính phủ các nƣớc Trung Quốc, Nhật Bản,
Pháp, Nga và Đức; trong đó, Hoa Kỳ đề nghị các nƣớc cho Trung Quốc vay tiền đủ
để họ mua lại toàn bộ hệ thống đƣờng sắt (bao gồm cả Mãn Châu và những vùng
lãnh thổ đang bị cầm cố hoặc cho nƣớc ngoài thuê) hoặc xây dựng một tuyến đƣờng
sắt nối từ Cẩm Châu đến Ái Hồn và xuyên qua Mãn Châu [77; tr.498]. Đây chính là
đề xuất “trung lập hóa đường sắt Mãn Châu” của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, do Nga vốn
từ trƣớc đã không ủng hộ chính sách “Mở cửa”, còn ngƣời Nhật thì xem nó nhƣ “cái
gai trong mắt”; do vậy, cả Nga và Nhật đều không muốn bất kỳ một chính sách nào
đƣợc áp dụng ở Mãn Châu. Mặc dù đã nhận đƣợc sự tán thành của Anh, Trung Quốc
và Đức nhƣng do sự phản đối mạnh mẽ của Nhật và Nga, đề xuất “trung lập hóa
đường sắt Mãn Châu” đã bị đổ bể.
Sau thất bại của đề xuất trung lập hóa, Taft và Knox mong muốn giành đƣợc
thị phần bền vững trong những khoản vay nƣớc ngoài và các hợp đồng xây dựng lớn
của Trung Quốc. Vào năm 1910, dƣới sự bảo trợ của chính quyền nhà Thanh, các tập
đoàn ngân hàng của Pháp, Đức, Anh và Mỹ đã ký thỏa thuận hợp tác tham gia vào
khoản vay nƣớc ngoài dành cho Trung Quốc. Liên minh ngân hàng đã cho Trung
Quốc vay 27 triệu USD, trong đó phần của Mỹ là 7,299,000 USD [77; tr.500].
98
Sau khi Trung Hoa Dân Quốc ra đời (1/1/1912), chính sách của Hoa Kỳ đối
với Trung Quốc đã bƣớc sang một trang mới khi hai nƣớc thiết lập quan hệ hữu nghị
và hợp tác bằng việc ký Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị vào ngày 15/9/1914. Đây
cũng là cơ sở hết sức quan trọng để Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc thiết lập mối
quan hệ đồng minh chiến lƣợc trong suốt thời gian từ cuộc chiến chống Nhật Bản và
sau đó là cuộc chiến tranh tổng lực chống lại lực lƣợng của Đảng Cộng sản Trung
Quốc sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
Chính sách “Mở cửa” ra đời đã chứng minh vai trò ngày càng lớn mạnh của
Mỹ ở khu vực CA-TBD, vốn đƣợc coi là khu vực ảnh hƣởng truyền thống của các
cƣờng quốc khác. Lần đầu tiên, Hoa Kỳ đã buộc các cƣờng quốc mạnh phải thừa
nhận quyền lợi và vị trí của mình tại khu vực mang tính sống còn này. Đạt một kết
quả rực rỡ và ngoài mong đợi nhƣ vậy, nhà chính trị học John L.O’Sullivan đã phải
thốt lên rằng, “Chính sách Mở cửa là một trong những trang đáng tự hào nhất của
lịch sử ngoại giao Hoa Kỳ, một ví dụ về tấm lòng thiện lương song hành với lòng
nhiệt huyết và kỹ năng đàm phán sắc sảo. Tất cả các chính khách hay quốc gia dù
không muốn vẫn phải đồng ý với chính sách hay đề xướng. Điều này giống như việc
đi yêu cầu những người chân thật đứng lên sẽ khiến cho những kẻ dối trá buộc phải
đứng lên đầu tiên…” [95; tr.21].
Nhƣ vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc thời kỳ 1865
– 1918 đã thể hiện đầy đủ nhất nền ngoại giao thực dụng của Hoa Kỳ. Khi chƣa đủ
thực lực để có thể chen chân vào Trung Quốc, Hoa Kỳ chỉ dừng lại ở việc kết bạn
với các cƣờng quốc châu Âu đang có phạm vi ảnh hƣởng ở Trung Quốc nhằm mƣu
tìm những lợi ích về thƣơng mại. Tuy nhiên, sau khi đã đánh bại Tây Ban Nha, Hoa
Kỳ ngay lập tức đòi hỏi sự công bằng trong thƣơng mại cũng nhƣ các quyền lợi về
chính trị, quân sự với các cƣờng quốc khác ở Trung Quốc mà đỉnh cao chính là công
hàm “Mở cửa” do Ngoại trƣởng John Hay tuyên bố vào năm 1899.
3.3.3. Đối với Philippines và các nƣớc Đông Nam Á khác
3.3.3.1. Đối với Philippines
Nếu nhƣ Cuba là một quốc gia có tầm chiến lƣợc quan trọng đối với Hoa Kỳ ở
khu vực Mỹ Latinh thì Philippines trong con mắt của ngƣời Mỹ lại có vị trí chiến
lƣợc hết sức quan trọng và lợi hại ở khu vực CA-TBD. Nếu giành đƣợc quyền kiểm
soát Philippines thì đó sẽ là bàn đạp và là trạm trung chuyển cho tham vọng bành
trƣớng vào bất cứ nƣớc nào ở khu vực Viễn Đông và Thái Bình Dƣơng, đặc biệt là ở
99
Trung Quốc. Khống chế đƣợc Philippines đồng nghĩa với việc khống chế đƣợc con
đƣờng thƣơng mại trên biển ở khu vực này và đồng thời ngăn chặn đƣợc sự mở rộng
ảnh hƣởng của các đế quốc khác. Ngƣời Mỹ cũng đã nhận ra đƣợc vai trò của quần
đảo này cả về kinh tế lẫn chiến lƣợc toàn cầu từ rất lâu. Trong một bài diễn văn đọc
trƣớc Quốc hội, Thƣợng nghị sĩ A.Beveridge cho rằng “Quần đảo Philippines mãi
mãi là của chúng ta. Thị trường Trung Quốc rộng lớn lại ở đằng sau Philippines.
Chúng ta không thể quên trách nhiệm của chúng ta đối với quần đảo đó, không thể
bỏ qua cơ hội mở ra cho chúng ta tiền đồ ở phương Đông” [7; tr.32 - 33].
Với những toan tính nói trên, Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để đoạt lấy Philippines
từ tay Tây Ban Nha. Khi cuộc đấu tranh của nhân dân Philippines chống thực dân
Tây Ban Nha đang trên đà thắng lợi thì quân đội Mỹ ngay lập tức nhảy vào. Mở màn
là trận đánh với hải quân Tây Ban Nha trong vịnh Manila. Vào ngày 1/5/1898, Đô
đốc George Dewey đã chỉ huy một đội tàu gồm 4 tuần dƣơng hạm và 2 pháo hạm(1)
đã đánh tan 10 chiến hạm của Tây Ban Nha (Hạm đội Asiatic) do Đô đốc Patricio
Montojo chỉ huy [133]. Trong trận đánh này, số thƣơng vong của Tây Ban Nha lên
tới gần 400 ngƣời, các chiến hạm bị đánh đắm; trong khi đó, lực lƣợng hải quân Mỹ
thiệt hại không đáng kể [130]. Ngày 19/5/1898, đƣợc sự phê chuẩn của Quốc hội,
Tổng thống W.McKinley đã ra lệnh cho lục quân Mỹ đến chiếm đóng quần đảo
Philippines và cho đến đầu năm 1899, số quân Mỹ đồn trú tại Philippines đã lên tới
20.851 ngƣời [6; tr.14]. Đến ngày 13/8/1898, một hiệp ƣớc đình chiến đƣợc ký kết
giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ sau “một trận đánh giả vờ”, chấm dứt sự tranh giành
một trong những thuộc địa có vị trí quan trọng bậc nhất giữa hai nƣớc đế quốc cũ và
mới này.
Cuộc chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha kết thúc bằng việc ký kết Hiệp định hòa
bình Paris vào ngày 10/12/1898(2)
. Theo các điều khoản của Hiệp định này, Tây Ban
Nha phải chấm dứt chiến tranh với Cuba, trao lại Puerto Rico và Guam cho Mỹ,
đồng thời bán lại quần đảo Philippines với giá 20 triệu USD cho Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
vào ngày 4/2/1899, tức là chỉ 2 ngày trƣớc khi Thƣợng viện Mỹ phê chuẩn Hiệp định
(1)
Đó là các tàu USS.Olympia, USS.Baltimore, USS.Raleigh, USS.Boston, USS.Concord và USS Petrel.
(2) Trƣớc khi đến Hội nghị Paris, Tổng thống McKinley đã nói với đoàn đại biểu Mỹ là phải khăng khăng
giành lấy toàn bộ Philippines về cho nƣớc Mỹ, trong đó có đoạn rằng: “Chúng ta không thể trả lại họ cho Tây
Ban Nha – đó là hành động nhút nhát và đáng hổ thẹn…Đối với chúng ta không có gì để làm ngoài việc dẫn
dắt tất cả và giáo dục họ, nâng cao văn minh và niềm tin Thiên Chúa cho họ…” [68; tr.739].
100
Paris (6/2/1899), một cuộc đụng độ đã xảy ra giữa lực lƣợng Mỹ với lực lƣợng cách
mạng Philippines do Emilio Aguinaldo chỉ huy tại vịnh Manila. Aguinaldo là một
lãnh tụ theo khuynh hƣớng chủ nghĩa dân tộc, tìm kiếm sự độc lập hoàn toàn cho
Philippines chứ không phải là thay đổi hình thức cai trị từ cƣờng quốc này sang
cƣờng quốc khác. Cuộc chiến tranh này kéo dài tới tháng 7/1902 mới chấm dứt. Hơn
20.000 binh lính Philippines và hơn 4.200 lính Mỹ đã thiệt mạng trong cuộc chiến
này. 200.000 thƣờng dân Philippines cũng chết vì bạo lực, nạn đói và bệnh tật [125].
Sự thất bại của lực lƣợng cách mạng Philippines cũng đồng nghĩa với việc quần đảo
này chính thức trở thành một thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Trong năm 1902, Quốc hội
Hoa Kỳ đã cho phép Philippines đƣợc lập Hội đồng lập pháp, tuy nhiên hệ thống
chính quyền vẫn thuộc quyền kiểm soát của Mỹ(1)
. Những năm sau đó, Mỹ cố gắng
chinh phục Philippines bằng cách đƣa ra luật cải cách đất đai, lập chính quyền tự trị
địa phƣơng và cải thiện các điều kiện giáo dục.
Nhƣ vậy, với việc chiếm đƣợc quần đảo Philippines, Hoa Kỳ thực sự trở
thành một trong những cƣờng quốc thực dân mạnh nhất trên thế giới. Tổng thống
McKinley cho rằng, đây là cơ hội để “giáo dục, nâng cao dân trí, khai hóa văn minh
và truyền bá Cơ đốc giáo”[11; tr.707] cho ngƣời Philippines. Tuy nhiên, ai cũng biết
trong mắt ngƣời Mỹ, Philippines không chỉ dừng lại ở những lý tƣởng cao cả đó mà
còn là những lợi ích thực dụng hơn về kinh tế lẫn chiến lƣợc trong tƣơng lai. Đối với
ngƣời Mỹ, “không có gì buộc chúng ta (người Mỹ) phải từ bỏ Philippines. Chúng ta
nắm giữ bờ bên kia của Thái Bình Dương và giá trị của đất nước này hầu như khó
hình dung nổi‖[7; tr.33]. Không những thế, Philippines còn là vùng đất màu mỡ,
“một khu vườn của thiên đàng, một hứa hẹn mới lộng lẫy và đáng giá hơn bất cứ cái
gì”. Manila đƣợc Hoa Kỳ miêu tả nhƣ một cơ sở thƣơng mại với Trung Quốc, là
trạm trung chuyển không thể bỏ qua trên con đƣờng thƣơng mại Mỹ – Trung.
Vị trí quan trọng của Philippines không chỉ dừng lại ở chỗ là trạm trung
chuyển trên con đƣờng thƣơng mại mà nó còn là một trong những tổ hợp căn cứ
(1)
Đến năm 1935, Hoa Kỳ cho Philippines đƣợc hƣởng quy chế độc lập dƣới hình thức Khối Thịnh vƣợng
chung (Commonwealth) trong thời hạn 10 năm thông qua Đạo luật Tydings – McDuffie đƣợc Thƣợng viện Mỹ
phê chuẩn vào năm 1934. Theo đó, sẽ thiết lập một chính quyền tự quản tại Philippines do Tổng thống Manuel
L.Quezon đứng đầu nhƣng mọi quyền quyết định về an ninh, quốc phòng, ngoại giao, kinh tế vẫn do Mỹ nắm
[142].
101
quân sự vô cùng quan trọng đối với Mỹ, đặc biệt là trong Chiến tranh thế giới thứ hai
và trong Chiến tranh Lạnh. Vì là một quần đảo với hàng nghìn đảo lớn nhỏ, lại nằm
trải dài theo hƣớng Bắc – Nam nên Philippines đƣợc xem nhƣ là “một chiếc cầu tự
nhiên”, tiếp cận với Đài Loan (thuộc Nhật) và phía Nam là quần đảo Indonesia
(thuộc Hà Lan). Năm 1900, Tổng thống T.Roosevelt đã ra Sắc lệnh thiết lập căn cứ
hải quân ở vịnh Subic. Ngoài ra, trong khoảng thời gian sau đó, Mỹ còn thiết lập
nhiều căn cứ quân sự ở Philippines nhƣ các sân bay Clark, Iba, căn cứ hải quân
Cavite. Bộ Tổng tƣ lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Viễn Đông trong thời kỳ Chiến tranh
thế giới thứ hai cũng đƣợc đặt ở đây. Đứng về phƣơng diện chiến lƣợc, đối với Hoa
Kỳ, Philippines là vòng cung phòng ngự từ xa của bờ phía Tây lục địa Mỹ. Vòng
cung thứ hai là quần đảo Aleutian và Hawaii. Giữa hai hệ thống phòng thủ này là
những sân bay đƣợc xây dựng ở các đảo nhƣ Guam, Midway, Wake… Còn trong
chiến lƣợc tiến công thì Philippines đƣợc ví nhƣ là “những tàu sân bay không chìm”
của Mỹ trong Chiến tranh Thái Bình Dƣơng 1941 – 1945. Với những loại máy bay
hiện đại nhƣ B.17, B.18 đậu tại sân bay Clark thì Hoa Kỳ lúc nào cũng có thể tấn
công các căn cứ quan trọng của Nhật Bản đến tận Đài Loan, miền Nam Nhật Bản,
Đông Dƣơng, Mã Lai và Indonesia.
3.3.3.2. Đối với một số nước Đông Nam Á khác
* Đối với Thái Lan
Trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ với các quốc gia châu Á, hiếm
có một mối quan hệ nào lại tƣơng đối êm đẹp và hữu hảo nhƣ quan hệ giữa Mỹ với
Thái Lan. Quan hệ đồng minh thân cận Mỹ - Thái cho đến nay đã hơn 180 năm, kể
từ khi hai nƣớc ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại vào năm 1833.
Theo những tài liệu hiện có thì thƣơng thuyền của Mỹ đến Xiêm là vào năm
1821 do Han làm Thuyền trƣởng (tức là vào thời vua Rama II), “thuyền đã đi ngược
lên sông Chao Phraya và ghé đến Bangkok”. Khi đến Bangkok, Thuyền trƣởng Han
đã đƣợc vua Rama II tiếp đón trịnh trọng. Ông đã giới thiệu với vua 500 khẩu súng
kíp và đƣợc vua Rama II miễn thuế một phần hàng hóa trên tàu [109; tr.3].
Vào năm 1825, Tổng Lãnh sự Mỹ ở Batavia là John Shillaber đã yêu cầu với
Chính phủ Mỹ xem xét việc thiết lập hiệp định thƣơng mại với Xiêm và Việt Nam;
tuy nhiên, yêu cầu này của ông đã không đƣợc Chính phủ Mỹ đáp ứng. Đến năm
1833, vua Rama III đã tiếp đón Đặc phái viên của Tổng thống Andrew Jackson là
Edmund Robert. Ngay sau đó, vào ngày 20/3/1833, Mỹ và Xiêm đã ký kết Hiệp định
102
Hữu nghị và Thương mại(1)
. Đây là cơ sở quan trọng cho việc thiết lập quan hệ ngoại
giao giữa hai nƣớc và cũng là hiệp ƣớc đầu tiên mà Mỹ ký với một nƣớc ở khu vực
châu Á (trƣớc cả Nhật Bản).
Bƣớc sang thập niên 50 của thế kỷ XIX, Xiêm cũng nhƣ nhiều quốc gia châu
Á khác đã không thể đứng vững trƣớc sức mạnh của các cƣờng quốc thực dân
phƣơng Tây và buộc phải ký kết các hiệp ƣớc bất bình đẳng. Vào năm 1855, lùi bƣớc
trƣớc áp lực ngoại giao và quân sự của Anh, Xiêm đã buộc phải ký với Anh hiệp ƣớc
bất bình đẳng đầu tiên. Ngày 18/4/1855, Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại giữa
Anh và Xiêm. Theo sau Anh, đến lƣợt các nƣớc Pháp, Nga, Đan Mạch(2)
… cũng ép
buộc Xiêm ký các hiệp ƣớc bất bình đẳng. Trƣớc nguy cơ có thể mất đi các quyền lợi
về thƣơng mại ở Xiêm vào tay Anh và Pháp, Hoa Kỳ cũng đã ép buộc Xiêm ký Hiệp
ước Hữu nghị, Thương mại và Định hướng (còn gọi là Hiệp ƣớc Harris) và ngày
29/5/1856. Hiệp ƣớc Harris có một số nội dung quan trọng nhƣ sau: Hoa Kỳ có
quyền buôn bán ở tất cả các cảng của Xiêm; công dân Hoa Kỳ có quyền lãnh sự tài
phán, đƣợc quyền đi đến bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ Xiêm và có quyền tự do tôn
giáo…[109; tr.174].
Việc ký kết các hiệp ƣớc bất bình đẳng đã mở cửa cho hàng hóa nƣớc ngoài tự
do tràn vào thị trƣờng Xiêm, là giai đoạn biến Xiêm thành nƣớc nửa thuộc địa.
Mặc dù việc Hoa Kỳ ép Xiêm ký hiệp ƣớc bất bình đẳng song đây chỉ là “một
bước lùi” hết sức ngắn ngủi trong quan hệ Mỹ - Xiêm. Đến tháng 2/1861, quan hệ
giữa hai nƣớc lại đƣợc hâm nóng trở lại khi vua Mongkut (Rama IV) đã gửi cho
Tổng thống James Buchanan một bức thƣ mong muốn đƣợc tặng cho Mỹ một cặp
voi nhằm thể hiện tình hữu nghị giữa hai nƣớc. Bức thƣ có đoạn viết rằng: “…Chúng
tôi hy vọng rằng Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng tiếp nhận chúng như
là một dấu hiệu của sự thân thiện…” [109; tr.177]. Tuy nhiên, sau khi nhận đƣợc
(1)
Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại bao gồm 10 điều khoản với những nội dung quan trọng nhƣ: hai nƣớc
đồng ý thiết lập một nền hòa bình và hữu nghị vĩnh viễn; công dân Mỹ đƣợc hƣởng quyền tối huệ quốc; các
thuyền buôn Mỹ đƣợc phép tự do đi lại ở các cảng của Xiêm; Xiêm có trách nhiệm cứu trợ cho công dân Mỹ
trong trƣờng hợp tàu bị đắm; Mỹ có quyền thiết lập tòa lãnh sự ở Xiêm bình đẳng nhƣ các nƣớc khác…[109;
tr.170].
(2) Xiêm ký Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại với Pháp vào năm 1855, Hiệp ước Thương mại và Định hướng
với Nga vào năm 1898…
103
bức thƣ vào một năm sau đó, Tổng thống A.Lincoln đã từ chối đề nghị này của vua
Mongkut là do vào lúc này, nƣớc Mỹ đang xảy ra cuộc Nội chiến Nam – Bắc.
Quan hệ Xiêm – Hoa Kỳ tiếp tục khởi sắc vào thời vua Chulalongkorn (Rama
V) trị vì (1868 – 1910). Sau khi lên ngôi lần thứ 2 vào năm 1873(1)
, vua
Chulalongkorn đã thực hiện một loạt cải cách toàn diện trong lĩnh vực chính trị, kinh
tế, quân sự, giáo dục và hành chính. Những cải cách này không chỉ làm cho thực lực
của Xiêm mạnh hơn mà còn giữ vững đƣợc độc lập cho đất nƣớc trƣớc họa xâm lăng
của các cƣờng quốc thực dân phƣơng Tây, đặc biệt là Anh và Pháp(2)
.
Vua Chulalongkorn rất coi trọng quan hệ với Hoa Kỳ. Trƣớc chuyến thăm
Xiêm của cựu Tổng thống U.S.Grant (tháng 4/1879), ông đã viết thƣ cho Grant và
thể hiện rõ lập trƣờng của Xiêm là mong muốn thiết lập quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ:
“Tôi có niềm vui rất lớn là sẽ được tiếp đón Ngài tại Xiêm. Chúng tôi sẽ đón tiếp
Ngài như một vị khách cao quý, nhưng Ngài phải cho phép chúng tôi được bày tỏ
điều đó… Quốc gia của Ngài rất tuyệt vời khi đã rất thân thiện với Xiêm, và quan hệ
giữa hai nước chúng ta được đánh giá là tốt đẹp và công bằng trong các quan hệ ở
Viễn Đông”[111; tr.119].
Vào năm 1884, em trai của vua Chulalongkorn là Hoàng tử Nares Warariddhi
sau khi thăm London đã đến Washington D.C và có cuộc gặp gỡ với Tổng thống
Chester A.Arthur. Hoàng tử Warariddhi đã gửi lời chào của vua Chulalongkorn và đề
nghị Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện các hoạt động ngoại thƣơng, buôn bán và giúp nâng
cao chất lƣợng giáo dục ở Xiêm thông qua hoạt động của các nhà truyền giáo Hoa
Kỳ [109; tr.35].
Vào năm 1903, Chính phủ Mỹ đã cử Edward H.Strobel(3)
sang làm cố vấn cho
vua Chulalongkorn. Strobel là cố vấn đầu tiên của Mỹ ở Xiêm và là ngƣời đã để lại
nhiều dấu ấn đặc biệt trong lịch sử Thái Lan. Chính Strobel là ngƣời có công lớn
nhất trong các cuộc đàm phán giữa Xiêm và Pháp xung quanh vấn đề tranh chấp lãnh
thổ giữa hai nƣớc này ở phía Đông sông Mekong (bao gồm cả Lào và các tỉnh ở
(1)
Tháng 10/1868, Chulalongkorn lên ngôi lần thứ nhất nhƣng do ông còn quá nhỏ, chỉ mới 15 tuổi nên Thừa
tƣớng Si Suriyawonse làm nhiếp chính vƣơng.
(2) Năm 1896, Xiêm ký Điều ƣớc London, quy định thung lũng sông Menam trở thành khu đệm giữa các thuộc
địa của Anh và Pháp ở bán đảo Đông Dƣơng.
(3) Edward H.Strobel, sinh ngày 7/12/1855, mất ngày 15/1/1908 tại Bangkok do bệnh nhiễm trùng máu. Mộ
của ông hiện nay vẫn nằm ở Nghĩa trang Tin Lành Bangkok.
104
Đông Bắc Campuchia) và dẫn đến việc ký kết Hiệp ƣớc Pháp – Xiêm vào năm 1907.
Mặc dù bản hiệp ƣớc này đã buộc Xiêm phải nhƣợng lại cho Pháp toàn bộ đất đai
của Lào, các vùng Battambang, Siemreap, Sisophon(1)
[109; tr.45] nhƣng điều quan
trọng nhất là đã tránh cho Xiêm khỏi cuộc xung đột không cân sức với liên quân
Pháp – Anh. Ngoài ra, Strobel còn có công lớn đối với Chính phủ Xiêm trong việc
soạn thảo các bộ luật về thuế, đất đai và xóa bỏ các tàn tích của chế độ nô lệ ở Xiêm.
Nhƣ vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Thái Lan trong thời kỳ
1865 – 1918 chỉ dừng lại ở việc Mỹ thiết lập quan hệ thƣơng mại đối với Xiêm và
một số hợp tác trên các lĩnh vực khác giữa hai nƣớc, đặc biệt là về giáo dục và trao
đổi văn hóa. Đây cũng là xu thế tất yếu đối với Hoa Kỳ khi vào thời điểm đầu thế kỷ
XIX, thực dân Anh và Pháp đã tạo đƣợc cho mình chỗ đứng khá vững chắc ở Xiêm
nói riêng và khu vực Đông Nam Á lục địa nói chung. Thông qua việc tìm hiểu chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Thái Lan thời kỳ 1865 – 1918 đã phần nào cho
chúng ta thấy đƣợc quan hệ khá êm thấm giữa hai quốc gia này trong lịch sử. Đó
chính là cơ sở để thiết lập quan hệ đồng minh Mỹ - Thái trong những năm cuối cùng
của Chiến tranh thế giới thứ hai và kéo dài cho đến ngày nay.
* Đối với Việt Nam
Sau cuộc Nội chiến, cùng với việc gia tăng vị thế của mình ở Trung Quốc,
Hoa Kỳ còn thực thi những chính sách nhằm bảo vệ và củng cố vững chắc quyền lợi
của mình ở quốc gia này. Do vậy, khi Pháp và nhà Thanh mâu thuẫn về vấn đề Bắc
Kỳ, Hoa Kỳ đã đứng ra hòa giải nhằm bảo vệ những lợi ích của mình ở Trung Quốc.
Sau khi chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ (1867), Pháp tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh
xâm lƣợc nhằm thôn tính toàn bộ Việt Nam, trƣớc tiên là ở Bắc Kỳ. Việc Pháp ráo
riết tiến hành xâm chiếm Bắc Kỳ là đụng chạm trực tiếp tới nhà Thanh từ lâu vốn coi
Việt Nam là một “thuộc quốc” của mình. Nhƣ vậy, khi triều đình Huế ký Thƣơng
ƣớc vào ngày 3/8/1874 về việc mở cửa thông thƣơng trên sông Hồng cho các thƣơng
gia châu Âu vào buôn bán, triều đình nhà Thanh coi đó là sự vi phạm Hiệp ƣớc
Thiên Tân đƣợc ký kết vào năm 1858. Việc ký kết thƣơng ƣớc cũng đồng nghĩa vai
trò bảo hộ Việt Nam từ nay sẽ đƣợc chuyển từ triều đình nhà Thanh sang cho Pháp.
Khi Pháp xúc tiến nhanh âm mƣu đánh chiếm toàn bộ Bắc Kỳ, nhà Thanh đã
yêu cầu Pháp phải tôn trọng “quyền tôn chủ” của Trung Quốc nhƣ là điều kiện để
(1)
Cả 3 tỉnh Battambang, Siemreap và Sisophon hiện nay đều thuộc Campuchia.
105
Trung Quốc công nhận quyền bảo hộ của Pháp và Việt Nam sẽ là quốc gia nằm dƣới
quyền bảo hộ của cả Pháp và Trung Quốc. Tuy nhiên, với ý đồ độc chiếm Việt Nam
nên Pháp đã bác bỏ yêu sách này của Trung Quốc. Trƣớc thái độ đó của Pháp, Trung
Quốc buộc phải có hành động can thiệp mạnh mẽ hơn vào Việt Nam. Bắt đầu từ mùa
thu năm 1882, nhà Thanh đã cho quân đội xâm nhập Bắc Kỳ và đóng rải rác trên một
tuyến dài từ Tuyên Quang kéo xuống tận Bắc Ninh. Tình hình này đã làm cho quan
hệ Pháp – Trung trở nên căng thẳng.
Trƣớc tình hình quan hệ Pháp – Trung căng thẳng, có thể làm tổn hại các lợi
ích của mình ở Trung Quốc, Hoa Kỳ đã đề nghị đƣợc làm trung gian hòa giải giữa
Pháp và Trung Quốc. Đại biện lâm thời Hoa Kỳ tại Bắc Kinh John Rusell Young đã
thúc giục Bộ Ngoại giao Mỹ cố gắng “thực hiện các nỗ lực ngoại giao trung gian
giữa Pháp và Trung Quốc”. Bản thân nhà Thanh cũng mong muốn thƣơng lƣợng với
Pháp thông qua vai trò trung gian của nƣớc thứ ba, trong đó có Hoa Kỳ. Ngày
5/7/1883, sau khi Pháp và Trung Quốc cắt đứt cuộc đàm phán về Việt Nam,
J.R.Young đã gọi điện cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ từ Bắc Kinh chuyển “lời đề nghị
lần thứ nhất” của Trung Quốc về việc nối lại quan hệ với Pháp thông qua sự trung
gian của Hoa Kỳ.
Ngày 7/8/1883, Đại sứ Hoa Kỳ tại Paris Charge Brulatour đã thông báo cho
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ biết những điều kiện của Trung Quốc đặt ra với Pháp, đó là:
1. Pháp không đƣợc thôn tính thêm lãnh thổ;
2. Quan hệ thần thuộc giữa An Nam và Trung Quốc vẫn không thay đổi;
3. Quân đội Pháp phải rút khỏi các vùng đã chiếm đóng;
4. Sông Hồng sẽ đƣợc mở cho thƣơng mại nƣớc ngoài lên đến Tung Ho
Kouan (Hồ Động Đình);
5. Trung Quốc sử dụng ảnh hƣởng của mình để tạo thuận lợi cho thƣơng mại
và có các biện pháp để tiễu trừ quân Cờ Đen(1)
;
6. Các hiệp định giữa Pháp và An Nam phải đƣợc sự đồng thuận của Trung
Quốc [100; tr.92].
Ngoại trƣởng Hoa Kỳ lúc này là Federick T.Frelinghuysen đã ủy quyền cho
J.R.Young thực hiện vai trò ngoại giao trung gian của Hoa Kỳ trong việc chuyển
những đề nghị của Trung Quốc về Việt Nam cho phía Pháp nhƣng Pháp đã không
(1)
Quân Cờ Đen là một nhóm cƣớp đƣợc tuyển mộ phần lớn từ các binh sĩ của dân tộc Choang, hoạt động rất
mạnh mẽ ở vùng biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc.
106
đếm xỉa gì tới những đề nghị này và tiếp tục công cuộc xâm chiếm toàn bộ Việt
Nam.
Về phía Việt Nam, trƣớc những hành động tỏ rõ mƣu đồ xâm lƣợc của Pháp,
triều đình nhà Nguyễn đã phải nhanh chóng cử ngƣời ra thƣơng thuyết và kết quả là
dẫn tới ký kết Hiệp ước Harmand (hay còn gọi là Hòa ƣớc Quý Mùi) vào ngày
25/8/1883, trong đó, triều đình Huế phải công nhận chế độ bảo hộ của Pháp và trao
cho Pháp quyền kiểm soát quan hệ ngoại giao của Việt Nam, mọi việc giao thiệp với
nƣớc ngoài, kể cả với Trung Quốc đều do Pháp nắm…[43; tr.46].
Việc ký kết Hiệp ƣớc Harmand giữa triều đình Huế và Pháp đã vấp phải sự
phản ứng kịch liệt của Trung Quốc. Tuy nhiên, Pháp xem những phản ứng của Trung
Quốc là hoàn toàn vô nghĩa và không có giá trị. Trƣớc sức mạnh của Pháp, mặc dù
phản đối nhƣng Trung Quốc vẫn thực thi chính sách đối ngoại tƣơng đối “nhẹ
nhàng” và mềm dẻo với Pháp nhằm hy vọng có thể vớt vát một số quyền lợi ở Việt
Nam. Do vậy, đến ngày 11/5/1884, một bản hiệp định đƣợc ký kết giữa Pháp và
Trung Quốc, trong đó quy định Pháp sẽ đảm bảo và nếu cần sẽ bảo vệ biên giới phía
Nam của Trung Quốc; đổi lại, Trung Quốc sẽ rút quân khỏi Bắc Kỳ[43; tr.46].
Những nhƣợng bộ của Trung Quốc lại tạo thêm cơ hội cho Pháp gây áp lực
mạnh hơn đối với triều đình Huế. Đến tháng 6/1884, Pháp lại ép buộc triều đình Huế
ký thêm Hiệp ước Patenôtre(1)
(còn gọi là Hòa ƣớc Giáp Thân) với một số điều
khoản nhằm xoa dịu những phản ứng của nhà Thanh. Trung Quốc không thỏa mãn
với những sửa đổi đó, bởi vì vẫn muốn tiếp tục duy trì quyền lợi của mình ở Việt
Nam. Triều đình Mãn Thanh đã ra lệnh đóng cửa biên giới Vân Nam đối với thƣơng
gia Pháp làm cho những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Pháp lại tiếp diễn. Đến ngày
20/4/1884, Đại biện lâm thời Hoa Kỳ tại Bắc Kinh J.R.Young đã gọi điện khẩn cấp
về Washington chuyển “lời đề nghị thứ hai” của Trung Quốc, yêu cầu Hoa Kỳ giúp
Trung Quốc nối lại thƣơng lƣợng với Pháp. Cũng nhƣ lần trƣớc, Pháp lại bác bỏ đề
nghị này của Trung Quốc và cáo buộc phía Trung Quốc vi phạm hiệp ƣớc (ký ngày
(1)
Hiệp ƣớc Patenôtre gồm 19 điều khoản, trong đó có 17 điều khoản tƣơng tự nhƣ Hiệp ƣớc Hardmand và 2
điều khoản mới, đó là: 1. Chia Việt Nam ra làm 3 xứ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ
(Cochinchine) dƣới 3 chế độ khác nhau: Nam Kỳ là xứ thuộc địa của Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ
của Pháp; 2. Trả các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh từ Bắc Kỳ và tỉnh Bình Thuận từ Nam Kỳ về lại
Trung Kỳ[134].
107
11/5/1884), đòi bồi thƣờng chiến phí 40 triệu USD và nếu Trung Quốc không chấp
nhận thì trong vòng một tuần, Pháp sẽ đánh chiếm đất đai của Trung Quốc. Trƣớc lời
đe dọa của Pháp, Trung Quốc lại đề nghị Hoa Kỳ đứng ra làm trung gian hòa giải.
Ngày 30/7/1884, J.R.Young gọi về Washington chuyển “lời đề nghị thứ ba” của
Trung Quốc, nhờ Hoa Kỳ bằng những nỗ lực ngoại giao của mình giúp Trung Quốc
nối lại mối quan hệ với Pháp song Pháp vẫn tỏ thái độ cứng rắn và tuyên bố thẳng
thừng là không cần đến vai trò trung gian của nƣớc thứ ba.
Những căng thẳng trong quan hệ Pháp – Trung lên đến đỉnh điểm khi hai
nƣớc phải giải quyết bằng cuộc chiến tranh vào tháng 8/1884. Do chủ trƣơng muốn
tránh xung đột lớn với Pháp nên triều đình Mãn Thanh vẫn tiếp tục đề nghị Hoa Kỳ
thực hiện “vai trò ngoại giao trung gian”, giúp Trung Quốc giải quyết cuộc xung
đột với Pháp. Ngày 13/9/1884, căn cứ vào thái độ thăm dò gián tiếp của các quan
chức Pháp, Ngoại trƣởng Hoa Kỳ Frelinghuysen đề nghị Đại biện lâm thời tại Bắc
Kinh Young tìm hiểu thêm một lần nữa để khẳng định việc Trung Quốc mong muốn
thỏa hiệp với Pháp thông qua sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. J.R.Young đã chuyển thông
báo này cho Tƣớng Stahel – Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Thƣợng Hải [43; tr.48] và đề
nghị Tƣớng Stahel hỏi Khâm sứ Pháp tại Việt Nam Patenôtre rằng Pháp đòi hỏi điều
gì tƣơng đƣơng với việc bồi thƣờng chiến phí. Đến ngày 27/9/1884, Trung Quốc đã
phản đối gay gắt lời cáo buộc của Pháp về việc vi phạm Hiệp ƣớc 1884 và cũng từ
chối luôn việc bồi thƣờng 40 triệu USD chiến phí cho Pháp.
Do sự mâu thuẫn của triều đình Mãn Thanh vừa muốn giải quyết những căng
thẳng với Pháp bằng chiến tranh, lại vừa muốn Hoa Kỳ làm trung gian hòa giải để có
thể vớt vát đƣợc một số quyền lợi tại Việt Nam nên đã làm cuộc chiến tranh Trung –
Pháp dùng dằng mãi cho đến khi Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và thương mại(1)
giữa
Pháp và Trung Quốc (còn gọi là Hiệp ƣớc Thiên Tân) đƣợc ký kết vào ngày
9/6/1885.
Nhƣ vậy, sự căng thẳng trong mối quan hệ Pháp – Trung xoay quanh vấn đề
Việt Nam đã dẫn đến vai trò ngoại giao trung gian của Hoa Kỳ song Hoa Kỳ đã
(1)
Hiệp ƣớc Thiên Tân với 10 điều khoản có những nội dung quan trọng nhƣ sau: nhà Thanh cam kết thừa
nhận quyền thống trị của Pháp ở Việt Nam; tôn trọng thỏa thuận giữa Pháp và Việt Nam; tiếp tục duy trì quan
hệ hữu hảo với Việt Nam thông qua Pháp; hai bên tìm cách cải thiện quan hệ hữu hảo và thƣơng mại giữa hai
nƣớc [139].
108
không thành công trong vai trò này. Có thể lý giải sự thất bại này của Hoa Kỳ theo 2
hƣớng sau đây:
Thứ nhất, vào thời gian này, Hoa Kỳ chƣa có tham vọng bành trƣớng lãnh thổ
ở Đông Nam Á mà chỉ tập trung chen chân vào Trung Quốc và chuẩn bị bắt đầu cho
“cuộc đua đường dài” với Nhật Bản ở khu vực Viễn Đông. Do đó, mặc dù Đại biện
lâm thời Hoa Kỳ tại Bắc Kinh J.R.Young luôn thúc giục Hoa Kỳ đứng ra làm trung
gian hòa giải những căng thẳng giữa Pháp và Trung Quốc nhƣng về cơ bản, Chính
phủ Hoa Kỳ vẫn không mặn mà với công việc này.
Thứ hai, những nỗ lực làm trung gian hòa giải giữa Pháp và Trung Quốc của
Hoa Kỳ bị thất bại là do thái độ cƣơng quyết của Pháp, với ý đồ bên trong là muốn
độc chiếm toàn bộ Việt Nam và Đông Dƣơng cho nên cả ba lần Trung Quốc đề nghị
Hoa Kỳ đứng ra làm trung gian thì đều bị Pháp từ chối thẳng thừng.
3.4. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với một số nƣớc ở châu Âu
3.4.1. Đối với Anh
Hoa Kỳ và Vƣơng quốc Anh dù có nhiều điểm gần gũi song quan hệ giữa hai
quốc gia này đã trải qua vô vàn sóng gió từ khi 13 bang thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố
thành lập Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ (1776), chính thức tách ra khỏi nƣớc Anh. Từ
năm 1815 trở đi, phần lớn những tranh chấp ngoại giao lớn giữa Mỹ và Anh đều
đƣợc giải quyết một cách ổn thỏa, ngoại trừ vấn đề thu phí ở kênh đào Panama.
Sau cuộc Nội chiến, bối cảnh quốc tế và tình hình nội tại của Hoa Kỳ đã tạo
cơ hội cho Hoa Kỳ và Anh giải quyết những mâu thuẫn và bất đồng thông qua các
cuộc hòa giải bằng phƣơng thức trọng tài mà trọng tâm là vấn đề tàu lớp Alabama,
giải quyết tranh chấp buôn bán lông hải cẩu ở biển Bering, phân định đƣờng biên
giới ở Venezuela và Alaska. Do vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Anh
trong giai đoạn này cũng xoay quanh các vấn đề nói trên.
Trƣớc hết, đối với vấn đề tàu lớp Alabama, sau khi cuộc Nội chiến Mỹ kết
thúc, do tác động của tình hình quốc tế đã tạo nguy cơ đƣa nƣớc Anh bƣớc vào một
cuộc chiến tranh hàng hải mới. Ở Viễn Đông, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Nhật Bản đã
làm cho nhiều cƣờng quốc thực dân có chỗ đứng tại khu vực này hết sức lo ngại. Ở
châu Âu, các vấn đề có liên quan đến chiến tranh giành thuộc địa, sự thống nhất
nƣớc Đức và sự suy yếu của đế quốc Ottoman đã tạo ra những nguy cơ tiềm tàng có
thể bùng nổ chiến tranh bất cứ lúc nào. Trong cuộc Nội chiến Mỹ, chính phủ của Thủ
109
tƣớng Anh lúc này là Palmerston(1)
đã thể hiện lập trƣờng ủng hộ phe ly khai miền
Nam bởi hai lý do quan trọng: Thứ nhất, vì sợ giai cấp tƣ sản miền Bắc nếu giành
đƣợc thắng lợi sẽ trở thành kình địch đối với Anh trong việc tranh đoạt thị trƣờng thế
giới; thứ hai, nguồn nguyên liệu bông từ miền Nam Hoa Kỳ đang đóng vai trò rất
quan trọng đối với nền công nghiệp nƣớc Anh. Do đó, chính sách của Anh lúc này là
giúp đỡ phe miền Nam bằng cách đóng tàu thủy mà tiêu biểu là tàu lớp Alabama để
chống lại miền Bắc. Các con tàu này đƣợc đóng bởi Công ty John Laird Sons and
Company có trụ sở tại Birkenhead, Wirral (gần thành phố Liverpool) vào năm 1862.
Chính những con tàu lớp Alabama đã phá hủy 65 tàu buôn, gây ra những tổn thất
không nhỏ đối với nền thƣơng mại của phe miền Bắc [80; tr.5].
Sau cuộc Nội chiến, Hoa Kỳ đã đòi Anh phải bồi thƣờng các tổn thất khi tàu
buôn của họ bị đánh đắm và cáo buộc Anh vi phạm tính trung lập khi nƣớc này can
thiệp quá sâu vào cuộc Nội chiến. Tháng 4/1869, Thƣợng nghị sĩ Charles Sumner –
Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thƣợng viện Hoa Kỳ đã nói rằng, Hoa Kỳ đang phải gánh
chịu “mối bất bình khổng lồ về những gì đất nước chúng ta đã phải chịu đựng bao
năm qua” và “Anh không chỉ phải trả các tổn phí gây ra bởi sự phá hoại của các
tuần dương (của Anh), chi phí bỏ ra để đuổi bắt chúng, thiệt hại của ngành giao
thương đường biển của Hoa Kỳ mà còn phải có trách nhiệm trả một nửa con số
chiến phí 4 tỷ USD” [77; tr.406]. Mục tiêu bài phát biểu của Sumner là nhằm tạo ra
dƣ luận ở hai nƣớc Hoa Kỳ và Anh rằng, chỉ có việc Anh nhƣợng lại Canada cho
Hoa Kỳ mới có thể làm dịu tình hình căng thẳng(2)
. Đến mùa hè năm 1870, Anh đã
buộc phải có động thái nhún nhƣờng Hoa Kỳ khi Quốc hội nƣớc này thông qua một
đạo luật nhằm ngăn chặn việc đóng mới, sửa chữa, trang bị hay thuê nhân công cho
các tàu tƣơng tự nhƣ tàu Alabama. Tuy nhiên, lý do chính mà Anh muốn hòa giải với
Hoa Kỳ là do tình hình châu Âu đang dần xấu đi: Chiến tranh Pháp – Phổ đã bùng nổ
(1870) và việc Nga bãi bỏ Hiệp ƣớc Paris về sự ổn định tại biển Đen vào ngày
(1)
Henry John Temple Palmerston (1784 – 1865) từng hai lần làm Thủ tƣớng Anh vào các năm 1855 – 1858 và
1859 – 1865. Ông là ngƣời có công lao rất lớn đối với sự bành trƣớng và mở rộng thuộc địa của Anh ở Viễn
Đông, Ottoman và châu Phi. Ngoài ra, ông còn có nhiều hoạt động quan trọng nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của
Pháp ở châu Âu khi dùng các thủ đoạn ngoại giao để buộc Pháp không thể thôn tính Bỉ và phá vỡ một liên
minh chống Anh do Pháp đứng đầu (1830).
(2) Sau cuộc Nội chiến, những ngƣời theo chủ nghĩa bành trƣớng ở Mỹ lại có cơ hội để rêu rao thuyết “bành
trướng định mệnh”, rằng Canada hiển nhiên thuộc về Mỹ.
110
13/10/1870 đã đƣa đến cho Anh một nguy cơ nhãn tiền, đó là nếu chiến tranh với
Nga nổ ra, Anh sẽ không thể nắm đƣợc tính trung lập của Hoa Kỳ, hay ít nhất là Nga
có thể xây dựng các tàu tuần dƣơng lớp Alabama tại các hải cảng của Hoa Kỳ [77;
tr.407]. Sau các cuộc đàm phán giữa hai nƣớc mà không đem lại kết quả, năm 1871,
một tòa án quốc tế đã đƣợc triệu tập ở Geneve (Thụy Sĩ). Đại diện của Hoa Kỳ trong
cuộc phân xử này là Charles Francis Adams (lúc này là Đại sứ Hoa Kỳ tại Anh) và
đại diện của Anh là Sir Alexander Cockburn (Chánh án Tối cao Pháp viện Anh). Tòa
án Geneve đã phán xử Anh phải bồi thƣờng cho Hoa Kỳ 15,5 triệu USD cho những
tổn thất mà Hoa Kỳ đã phải gánh chịu do các con tàu lớp Alabama gây ra [77;
tr.412].
Cuộc phân xử lớn thứ hai trong quan hệ Hoa Kỳ - Anh thời gian này liên quan
tới những tranh chấp của hai nƣớc trong việc săn bắt hải cẩu để lấy lông ở biển
Bering. Lông hải cẩu rất quý giá nên việc săn bắt gia tăng làm số lƣợng của chúng
càng ngày càng cạn kiệt. Đến cuối thế kỷ XIX, các đàn hải cẩu lớn gần nhƣ đã biến
mất hoàn toàn, trừ một số vùng ở Bắc Thái Bình Dƣơng, các đảo trên biển Bering,
mà nhiều nhất là ở nhóm đảo Pribilof, phía Bắc quần đảo Aleut (thuộc Hoa Kỳ sau
vụ mua lại Alaska năm 1867). Tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Anh bùng phát khi Anh
phản đối Hoa Kỳ bắt giữ tàu săn bắt hải cẩu của Canada trên biển Bering. Ngoại
trƣởng Hoa Kỳ John W.Foster đã biện luận rằng: “Biển Bering, với mọi quyền hạn
thừa kế từ Nga hoàn toàn nằm trong vùng tài phán và chủ quyền của Hoa Kỳ” và
“những con hải cẩu đó không phải là động vật vô chủ mà là động vật nội địa đi ra
khỏi lãnh thổ Mỹ, do đó là chủ thể của luật động vật nội địa, thậm chí khi nó đi rất
xa khỏi vùng lãnh hải Hoa Kỳ.”[77; tr.415]. Ngay sau đó, Chính phủ Hoa Kỳ đã cho
đóng cửa biển Bering, không cho phép tàu bè qua lại ở vùng biển này và thực hiện
các cuộc tuần tra trên biển nhằm ngăn chặn tàu nƣớc ngoài vào săn bắt hải cẩu; đồng
thời cũng thể hiện quyền chủ quyền của Hoa Kỳ tại vùng biển này. Tranh chấp Hoa
Kỳ - Anh liên quan đến vấn đề săn bắt hải cẩu lấy lông ở biển Bering chỉ đƣợc giải
quyết dứt điểm vào ngày 7/7/1911, khi Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản và Nga ký Công ước
về bảo vệ hải cẩu ở Bắc Thái Bình Dương nhằm kiểm soát ngành săn bắt và phân
chia sản lƣợng săn bắt hải cẩu theo tỷ lệ quy ƣớc giữa từng nƣớc[77; tr.415].
Bên cạnh các vấn đề trên, chính sách của Hoa Kỳ đối với Anh còn liên quan
đến vấn đề tranh chấp biên giới giữa Venezuela và Guyana thuộc Anh. Guyana
vốn là thuộc địa của Anh, từ lâu đã có tranh chấp về biên giới chung với Venezuela.
111
Nguồn gốc của những tranh chấp này có từ thời thuộc địa, khi mà khu vực này trƣớc
đó là một vùng đất hoang, nhiều nguy hiểm và vô giá trị. Năm 1840, Anh đã cử
ngƣời đi khảo sát vùng đất này, điều này đe dọa chủ quyền của Venezuela với sông
Orionco. Ngay lập tức, Venezuela lên tiếng phản đối, thậm chí ngay cả khi Thủ
tƣớng Anh lúc này là Lord Aberdeen đề ra một kế hoạch nhằm không đụng tới sông
Orionco mà thay vào đó chia cho Anh một phần lãnh thổ tƣơng đƣơng với phần lãnh
thổ ở nội địa[77; tr.417]. Cuối cùng, sau nhiều lần đàm phán không thành công,
Venezuela đã chấp nhận lời đề nghị của Anh song vào thời điểm này, tại lƣu vực
sông Orionco đã tìm thấy mỏ vàng nên Anh liền “trở mặt”. Do vậy, Venezuela đã
đòi phải đƣợc phân xử bằng một tòa án quốc tế. Hoa Kỳ cũng bày tỏ ủng hộ đề xuất
này song Anh từ chối mọi sự phân xử, trừ khi Venezuela từ bỏ mọi vùng đất phía
Đông đƣờng Schomburgk(1)
. Đáp trả lại những đòi hỏi quá đáng của Anh, năm 1887,
Venezuela cắt đứt quan hệ ngoại giao với Anh. Venezuela đã tìm cách giành đƣợc sự
ủng hộ của Hoa Kỳ và dùng báo chí để chỉ trích Anh là những kẻ xâm lƣợc dã man
để chống lại những nƣớc nhỏ yếu hơn. Về phía Hoa Kỳ, Ngoại trƣởng Walter
Q.Gresham đã tuyên bố phải giải quyết triệt để vấn đề biên giới giữa Venezuela và
Guyana [77; tr.416] và ngƣời kế nhiệm ông là Richard Olney theo đề nghị của Tổng
thống G.Cleveland đã đƣa ra một đề xuất vào ngày 20/7/1895 dƣới dạng thông điệp
tới đại sứ Hoa Kỳ ở London, yêu cầu Anh tham gia vào phân xử theo Học thuyết
Monroe. Tuy nhiên, Anh đã không đồng ý với yêu cầu này của Hoa Kỳ. Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ nghi ngờ những âm mƣu của Anh ở Trung Mỹ và Pháp ở Brazil nhằm
thay đổi những quyền lợi của ngƣời châu Âu tại các thuộc địa ở Mỹ Latinh. Hải quân
hoàng gia Anh đã đổ quân vào Nicaragua và buộc nƣớc này phải bồi thƣờng 360.000
USD vì lý do Lãnh sự Anh tại đây bị lăng mạ [68; tr.730]. Sự lo lắng của Hoa Kỳ
càng tăng thêm khi nhận ra rằng, nếu Anh giành đƣợc chiến thắng trong vụ tranh
chấp với Venezuela thì nƣớc này sẽ kiểm soát hoàn toàn sông Orionco và giành đƣợc
nhiều quyền ƣu tiên về giao thƣơng trong lƣu vực con sông này. Trong một tuyên bố
của mình, Ngoại trƣởng Mỹ R.Olney đã đe dọa Anh rằng: “Những nguồn lực vô tận
kết hợp với vị trí chiến lược tách biệt là chủ nhân của địa thế và không có bất kỳ một
thế lực nào có thể chống lại hoặc gây hại cho họ được” [68; tr.731]. Tổng thống
(1)
Đƣờng Schomburgk nằm dọc theo lƣu vực sông Orionco – ranh giới tự nhiên giữa Venezuela và Guiana.
112
Cleveland cũng nói rằng, nếu ngƣời Anh từ chối phân xử, Hoa Kỳ sẽ áp đặt một
đƣờng biên giới và giữ vững nó bằng quân sự nếu cần thiết.
Đến năm 1899, dƣới áp lực của Hoa Kỳ, Anh và Venezuela đã đồng ý phân
xử. Theo đó, các vấn đề chính, nhƣ tuyên bố chủ quyền hay quyền lợi quốc gia có
thể đƣợc đƣa ra xét xử bởi một tòa án gồm 6 thẩm phán, 3 từ mỗi bên tham gia, với
yêu cầu cần tối thiểu 5 ngƣời đồng ý để đƣa ra phán quyết. Trong trƣờng hợp không
đƣa ra đƣợc phán quyết, không đƣợc bên nào dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực
cho đến khi có sự hòa giải của một lực lƣợng trung gian mà một hay cả hai bên đề
xuất [77; tr.422]. Tuy nhiên, thái độ thực tâm hợp tác của Anh trong vấn đề tranh
chấp biên giới giữa Venezuela và Guyana còn có gốc rễ sâu xa của nó. Trong thời
gian này, Anh đang lo sợ bởi sự trỗi dậy mạnh mẽ của nƣớc Đức sẽ liên kết với
những đối thủ của Anh tại châu Âu lục địa để lật đổ đế chế Anh và tại Nam Phi, Anh
đang gây ra cuộc chiến tranh với ngƣời Boer. Đứng giữa hai thế lực Hoa Kỳ và Đức,
Thủ tƣớng Anh lúc đó là Salisbury đã khôn ngoan chọn cách giảng hòa với Hoa Kỳ.
Trong thời gian Tổng thống G.Cleveland và T.Roosevelt nắm quyền, giữa
Hoa Kỳ và Anh lại nảy sinh những mâu thuẫn mới xung quanh vấn đề tranh
chấp biên giới giữa Alaska của Hoa Kỳ và Canada (lúc này vẫn đang là vùng tự
trị của Anh). Năm 1867, Nga đã bán cho Hoa Kỳ vùng đất Alaska với giá 7,2 triệu
USD. Về biên giới Alaska, theo hiệp ƣớc giữa Anh và Nga đƣợc ký kết vào năm
1825, quy định rằng: “từ đầu kênh Portland lên phía Bắc tới kinh độ 141 Tây dọc
theo đỉnh của dãy núi chạy song song với bờ biển nhưng tại nơi mà khoảng cách tới
biển lớn hơn 10 dặm, giới hạn của khu vực thuộc sở hữu của Anh và phần bờ biển
thuộc Nga sẽ được phân định bằng một đường song song với vùng uốn quanh của bờ
biển và không được cách nó hơn 10 dặm”[77; tr.424]. Mặc dù sau đó có một vài
tranh chấp nhỏ xảy ra nhƣng về cơ bản, đến năm 1898, chính quyền Anh ở vùng tự
trị Canada (Domination of Canada) đã đồng ý chủ quyền của Nga và thừa kế chủ
quyền từ Nga là Hoa Kỳ dọc toàn bộ bờ biển, thừa nhận quyền hành pháp của Hoa
Kỳ tại đây. Tuy nhiên, đến tháng 6/1898, khi mà vàng đã đƣợc phát hiện ở Klondike
(thuộc Alaska) thì Canada ngay lập tức tuyên bố chủ quyền ở khu vực này, mặc dù
tất cả các bản đồ của Anh đều chỉ rất rõ rằng khu vực này thuộc quyền quản lý của
Nga hay Hoa Kỳ. Tuyên bố này của Canada chỉ dựa vào một sức nặng duy nhất là
một cƣờng quốc (Anh) sẽ đồng ý và ủng hộ và dựa vào đây để đƣa ra phân xử: nếu
113
Anh thua trong cuộc phân xử này, họ cũng sẽ không mất mát gì và nếu phán quyết
đƣa ra bất lợi cho Hoa Kỳ thì ngƣời Canada sẽ thu lợi từ tuyên bố phi lý đó.
Chính quyền của Tổng thống Cleveland đề nghị với Anh thông qua một hội
đồng cấp cao đƣợc thành lập chung, đƣa vấn đề này ra phân xử tại một hội đồng gồm
6 thẩm phán, mỗi bên 3 ngƣời và một kết quả đƣợc đa số chọn lựa sẽ quyết định vấn
đề [77; tr.426]. Tuy nhiên, Canada lại muốn phân xử theo một hƣớng khác, có sự
tham gia của các cƣờng quốc trung lập và nhấn mạnh rằng, bất kể kết quả cuộc phân
xử đi tới đâu, cảng Pyramid(1)
– hành lang cắt ngang phía Nam Alaska phải thuộc về
họ. Đến năm 1901, khi T.Roosevelt lên làm tổng thống, ông cho rằng “tuyên bố của
Canada là lố bịch và không có lý do gì để phân xử cả. Hoa Kỳ có mọi quyền hạn và
hoàn toàn đủ khả năng để phòng thủ khu vực này”[77; tr.426]. Tuy nhiên, nhằm bày
tỏ thái độ thân thiện với Anh và cũng giúp cho Anh mƣu tìm một con đƣờng hòa
bình để thoát khỏi tình huống khó xử này, Tổng thống T.Roosevelt đã đồng ý phân
xử bằng một hiệp định đƣợc ký kết vào ngày 3/1/1903: một ủy ban gồm 6 thẩm phán,
3 ngƣời từ mỗi nƣớc và cần ít nhất 4 ngƣời đồng ý để phân định thắng thua. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc sẽ không có một bên thắng trừ khi ít nhất một thẩm phán
xét ngƣợc lại với tuyên bố của nƣớc mình. Thủ tƣớng Canada Wildrid Laurier đã
nhận ra điểm yếu của mình trong cuộc phân xử này và đã rất mừng khi đƣợc hợp tác
với Anh để thoát khỏi cuộc “phân xử vờ” này. Sau đó, ủy ban phân xử đã đƣa ra
quyết định cuối cùng: Klondike thuộc quyền quản lý của Hoa Kỳ, trao cho Canada
hai trong bốn hòn đảo đang tranh chấp ở vùng phía Nam Alaska[77; tr.427].
Nhƣ vậy, kể từ sau cuộc Nội chiến, do những tác động của tình hình thế giới,
chính sách của Hoa Kỳ đối với Anh đã có những thay đổi căn bản. Về phía Hoa Kỳ,
từ sau Nội chiến, nền sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy Mỹ bành trƣớng
ra bên ngoài mà tiêu biểu nhất là ở khu vực Mỹ Latinh – nơi Anh có nhiều quyền lợi.
Đặc biệt, từ sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, Hoa Kỳ trở
thành đối thủ đáng gờm với Anh trong việc tranh giành thuộc địa. Do vậy, tại những
khu vực thuộc phạm vi ảnh hƣởng của Anh nhƣ biển Bering, Venezuela và
Guiana…, Hoa Kỳ đã sử dụng Học thuyết Monroe nhằm buộc Anh phải có những
nhƣợng bộ. Về phía Anh, từ giữa thế kỷ XIX, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nƣớc Đức ở
châu Âu lục địa và Nhật Bản tại Thái Bình Dƣơng đã khiến cho Anh không thể
không cân nhắc những tranh chấp có liên quan tới Hoa Kỳ. Kết quả là những vụ
(1)
Cảng Pyramid nằm trong vịnh Pyramid, gần biên giới với Canada hiện nay.
114
tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Anh trong thời gian này đa phần đều đƣợc giải quyết
bằng con đƣờng hòa bình thông qua các cuộc phân xử đƣợc thiết lập bởi các tòa án
quốc tế. Đây chính là điểm hết sức đặc biệt trong chính sách và quan hệ giữa hai
cƣờng quốc này kể từ sau cuộc Nội chiến.
3.4.2. Đối với các bên tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
Chiến tranh thế giới thứ nhất là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế -
chính trị của chủ nghĩa tƣ bản thế giới vào những năm đầu thế kỷ XX. Quy luật phát
triển không đều giữa các nƣớc đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội.
Một số nƣớc đi vào con đƣờng TBCN muộn nhƣng nhờ biết phát huy lợi thế riêng và
tận dụng đƣợc những thành tựu khoa học – kỹ thuật mang lại nên đã có tốc độ tăng
trƣởng nhảy vọt, vƣợt qua các nƣớc tƣ bản cũ. Vào đầu những năm 1860, Anh và
Pháp đứng đầu và thứ hai trong sản xuất công nghiệp thế giới nhƣng đến năm 1913,
địa vị này nhƣờng lại cho Mỹ và Đức[47; tr.286]. Sự phát triển ấy kéo theo nhu cầu
mở rộng thị trƣờng, làm nảy sinh các cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nƣớc đế quốc
để giành giật thị trƣờng, thuộc địa và phân chia lại thế giới. Trong số đó, đế quốc
Đức đƣợc xem là hung hăng nhất vì Đức có tiềm lực kinh tế và quân sự nhƣng lại có
ít thuộc địa. Từ đó, châu Âu hình thành hai thế lực chống đối nhau: một bên là Đức,
Áo – Hung và Thổ Nhĩ Kỳ; một bên là Anh, Pháp, Nga.
Mặc dù là một nƣớc đế quốc đang lên, cũng thèm khát thuộc địa và thị trƣờng
không kém gì Đức song Hoa Kỳ đã không hành động nhƣ ngƣời Đức mà luôn giữ
một thái độ chừng mực trong quan hệ với các bên tham chiến, chờ đợi thời cơ và
những thay đổi của cuộc chiến nhằm đoạt đƣợc những quyền lợi lớn nhất. Vì lẽ đó,
khi tìm hiểu chính sách của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, chúng ta
thấy đƣợc một sự không nhất quán trong thái độ của Hoa Kỳ với các bên tham chiến;
trái lại, luôn có sự thay đổi phù hợp với thực tế và tƣơng quan lực lƣợng nhằm đảm
bảo tối đa quyền lợi của Hoa Kỳ.
3.4.2.1. Chính sách trung lập của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
Ngày 28/6/1914, Hoàng thái tử của đế quốc Áo – Hung là Francis Ferdinand
bị Gavrillo Princip, một ngƣời Serbia 19 tuổi theo chủ nghĩa dân tộc ám sát tại
Sarajevo đã làm bùng phát những nguyên nhân gây nên Chiến tranh thế giới thứ
nhất. Lúc bấy giờ không ai ở Mỹ nghĩ rằng một vụ ám sát xa xôi nhƣ vậy sẽ lôi kéo
Hoa Kỳ vào một cuộc chiến tranh đẫm máu ở châu Âu. Bởi lẽ, tƣ tƣởng trung lập của
Hoa Kỳ vào thời điểm này vẫn còn rất mạnh mẽ.
115
Những bài học lịch sử về tính trung lập và lợi ích của nó trong chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ sau lập quốc dƣờng nhƣ vẫn còn nguyên giá trị. Nguyên
tắc của T.Jefferson là tạo “tình hữu nghị chân thành với mọi quốc gia nhưng từ chối
mọi cuộc liên kết tai hại” [57; tr.413] vẫn chƣa mất sức thu hút và mãnh lực của nó.
Và khi những cuộc giao tranh đầu tiên giữa hai phe Liên minh (Đức, Áo - Hung) và
Hiệp ƣớc (Anh, Pháp, Nga) xảy ra thì phản ứng chung của Mỹ là giữ một thái độ triệt
để trung lập. Tháng 8/1914, trong một tuyên bố chính thức đáp lại những sự kiện bi
thảm ở châu Âu, Tổng thống W.Wilson đã nói rằng: “người Mỹ phải giữ thái độ
trung lập trong thực tế cũng như về danh nghĩa trong những ngày này để thử thách
linh hồn con người…Chúng ta phải công bằng trong suy nghĩ cũng như trong hành
động, phải đặt một sự kiềm chế lên trên tình cảm của mình cũng như trong từng sự
giao dịch để đừng bị hiểu là có sự thiên vị cho bên này đối với cuộc chiến trước bên
kia” [68; tr.838]. Thực tế cho thấy, xuất phát từ truyền thống dân tộc là một ngƣời
Anh, Wilson đã xem nƣớc Đức thô bạo, quân phiệt là mối đe dọa rất lớn đến hòa
bình thế giới. Quan điểm này có lẽ đã không đủ mạnh để thúc đẩy Wilson tham gia
ngay lập tức cuộc chiến tranh với Đức, song chắc chắn có quyết định đến việc tránh
va chạm với nƣớc Anh trên cơ sở quyền trung lập của Hoa Kỳ. Việc tránh đối đầu
với hai phe trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực ra không phải chỉ có nguyên
nhân gắn bó chặt chẽ với Anh về dân tộc và văn hóa hay ý thức “bảo vệ nền văn
minh” trƣớc nguy cơ hủy diệt của ngƣời Đức mà cái chính yếu trong việc thực hiện
chính sách này là những quyền lợi về thƣơng mại khi Mỹ tiến hành đồng thời buôn
bán với hai bên tham chiến nhằm thu lợi một cách lớn nhất.
Cuộc chiến tranh đã nhanh chóng tác động mạnh mẽ đến Hoa Kỳ. Cho đến
năm 1915, “nền công nghiệp Mỹ mới bị chao đảo nhẹ đã hưng thịnh trở lại nhờ
những đơn đặt hàng về quân trang vũ khí từ các nước đồng minh phương Tây”[103;
tr.224]. Cả hai phe đều tìm cách để làm dao động quan niệm của ngƣời Mỹ, phe Hiệp
ƣớc ủng hộ cho sự can thiệp, phe Liên minh lại ủng hộ thái độ trung lập của Hoa Kỳ.
Hàng triệu ngƣời Mỹ đƣợc sinh ra tại một trong số các quốc gia tham chiến và thấy
rằng họ không thể tránh khỏi sự cam kết về ý thức hệ và cảm xúc của mình. Những
ngƣời đến từ nƣớc Anh, Scotland và xứ Wales luôn giữ nguyên cảm giác yêu mến
với Vƣơng quốc Anh và hy vọng rằng, Anh sẽ vẫn giữ nguyên ngôi vị “nữ hoàng
biển cả”. Ngƣợc lại, một số ngƣời Mỹ gốc Đức vẫn còn những sự gắn kết mạnh mẽ
đối với “quê cha đất tổ” và hết lòng ủng hộ phe Liên minh. Đây cũng chính là một
116
trong những nguyên nhân tác động đến việc thực hiện chính sách ngoại giao trung
lập của chính quyền Wilson trong những năm đầu của cuộc chiến. Mặt khác, việc
thực hiện chính sách ngoại giao trung lập trong chiến tranh sẽ góp phần làm cho Hoa
Kỳ thêm lớn mạnh, nhất là về kinh tế và quân sự, trong khi các nƣớc tham chiến dù
thắng hay bại đều bị suy yếu. Đó thực sự là một chính sách đạt đƣợc quyền lợi kép,
vừa bảo vệ đƣợc đất nƣớc khỏi sự tàn phá của chiến tranh, vừa lợi dụng cuộc chiến
để làm giàu và tận dụng thời gian hòa bình để xây dựng quân đội.
Tuy vậy, chủ trƣơng trung lập của Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã
không thể tồn tại đƣợc lâu khi từ năm 1915, Đức bắt đầu thực hiện cuộc chiến tàu
ngầm. Vũ khí chủ yếu của hải quân Đức trong cuộc chiến tàu ngầm là loại tàu U –
boat, một loại tàu ngầm nhỏ đƣợc trang bị ngƣ lôi và một súng máy nhỏ trên boong.
U – boat có thể tiếp cận đƣợc mục tiêu mà không bị phát hiện và nhấn chìm chúng
mà không cần báo trƣớc [68; tr.849]. Tháng 2/1915, Chính phủ Đức ra thông báo sẽ
cho phép các tàu ngầm của mình nhấn chìm tất cả những chiếc tàu mà nó tìm thấy
trong khu vực có chiến tranh bao quanh quần đảo Anh.
Bộ Ngoại giao Mỹ ngay lập tức lên án chính sách của Đức và tuyên bố rằng
Chính phủ Đức có thể phải chịu “trách nhiệm giải trình nghiêm khắc” đối với bất kỳ
hành động nào gây thiệt hại đến ngƣời Mỹ hoặc tài sản của họ. Tháng 5/1915, chiếc tàu
chở khách Lusitania bị tàu ngầm Đức nhấn chìm ở ngoài khơi vùng biển Ailen, làm thiệt
mạng 1198 ngƣời, trong đó có 128 ngƣời Mỹ(1)
. Trƣớc khi tàu Lusitania rời cảng New
York, nhà cầm quyền Đức đã khuyên ngƣời Mỹ nên tránh các chuyến tàu của bên tham
chiến nhƣng sự tấn công thực sự đã xảy ra hoàn toàn mà không có sự báo trƣớc. Làn
sóng phản đối Đức ở Hoa Kỳ dấy lên mạnh mẽ đến nỗi ngƣời ta có nghĩ đến việc Hoa
Kỳ có thể tham gia chiến tranh. Tuy nhiên, Tổng thống Wilson vẫn chƣa sẵn sàng làm
việc đó, ông chỉ cố gắng dùng những lời lẽ cảnh báo nghiêm khắc để buộc Đức từ bỏ
những thủ đoạn chiến tranh bất hợp pháp đã cƣớp mất tính mạng của những thƣờng dân
vô tội. Ngày 13/5/1915, Wilson gửi một bức thƣ cho Chính phủ Đức về việc yêu cầu
một lời xin lỗi cho hành động tàn bạo của nƣớc này và buộc Đức phải từ bỏ những cuộc
tấn công sắp tới vào các tàu buôn, tàu hành khách và phải chịu trách nhiệm về bất cứ sự
xâm phạm quyền lợi của ngƣời Mỹ trên các vùng biển [68; tr.851].
Lo ngại Mỹ có thể tuyên chiến và nhằm tránh né điều đó, Đức đã ra lệnh cho
các thuyền trƣởng tàu ngầm phải thực hiện cảnh báo tàu viễn dƣơng, thậm chí cả khi
(1)
Trƣớc đó, tàu Falaba của Anh cũng bị tàu ngầm Đức tấn công, làm 1 công dân Mỹ thiệt mạng.
117
các tàu đó mang cờ của đối phƣơng trƣớc khi bắn vào các tàu này. Song vào ngày
19/8/1915, tàu Arabic của Anh lại bị tàu ngầm Đức đánh đắm mà không đƣợc cảnh
báo trƣớc. Thêm vào đó, tháng 3/1916, hải quân Đức đã tấn công tàu Sussex của
Pháp bằng ngƣ lôi, làm bị thƣơng một số ngƣời Mỹ đã làm cho làn sóng chống Đức
dâng cao, đe dọa đến sự “trung lập” của Hoa Kỳ. Vì vậy, Tổng thống Wilson đã ra
tối hậu thƣ cho Đức rằng Hoa Kỳ sẽ cắt đứt quan hệ ngoại giao với nƣớc này trừ khi
Đức từ bỏ cuộc chiến tàu ngầm. Với thái độ cứng rắn của Hoa Kỳ, Đức buộc phải
nhƣợng bộ, cuộc chiến tàu ngầm của Đức đƣợc hạn chế trong một thời gian.
Tuy nhiên, đến ngày 22/1/1917, Chính phủ Đức lại ra tuyên bố bắt đầu trở lại
cuộc chiến tàu ngầm. Ngày 31/7/1917, Đại sứ quán Đức tại Washington D.C thông
báo cho Ngoại trƣởng Hoa Kỳ Robert Lansing rằng Đức có thể sẽ chỉ đạo cho các
tàu ngầm U–boat của mình để nhấn chìm mà không cần báo trƣớc cho mọi con tàu,
cả tàu địch lẫn tàu của phe trung lập, tìm thấy ở vùng bờ biển phía Đông Địa Trung
Hải và tại những hải phận xung quanh Anh, Pháp và Ý[68; tr.856]. Thực hiện lời hứa
của mình, Wilson đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đức. Tuy vậy, ông vẫn cố gắng
né tránh một cuộc xung đột xảy ra trong tƣơng lai với Đức, khi từ chối lời khuyên
của Ngoại trƣởng Lansing để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh. Mọi sự hy vọng của
Wilson về việc tránh đụng đầu với Đức đã tiêu tan khi vào tháng 3/1917, bức điện tín
Zimmermann đƣợc phát giác. Đây là một bức thƣ ngắn bí mật do Ngoại trƣởng Đức
Arthur Zimmermann gửi cho Công sứ Đức tại Mexico đề nghị rằng nếu Hợp chúng
quốc Hoa Kỳ và Đức đánh nhau thì Mexico nên tự mình liên minh với Đức và giúp
thuyết phục Nhật Bản xoay chuyển lòng trung thành của mình với phe Liên minh.
Trong trƣờng hợp chiến thắng, Mexico có thể đƣợc ban thƣởng bằng những vùng đất
đã mất của mình ở Texas, New Mexico và Arizona [68; tr.857]. Việc tiết lộ bức điện
tín Zimmermann đã gây ra phản đối dữ dội của ngƣời Mỹ đối với nƣớc Đức, cộng
thêm những thiệt hại về thƣơng mại do cuộc chiến tàu ngầm đã thúc đẩy Hoa Kỳ
tham gia chiến tranh, chấm dứt thái độ trung lập trong quan hệ giữa các phe vào thời
kỳ đầu của cuộc chiến. Ngày 2/4/1917, Tổng thống Wilson tuyên bố trƣớc Quốc hội
rằng: “Cuộc chiến tranh đường thủy chống buôn bán hiện tại của Đức là một cuộc
chiến tranh chống nhân loại. Đó là cuộc chiến tranh chống lại tất cả các dân tộc.
Hoa Kỳ chấp nhận cuộc chiến này với mục đích thù địch vì Hoa Kỳ hiểu rằng, chúng
ta không bao giờ có thể kết bạn được với một chính phủ như vậy, với những đường
lối như vậy…Chúng ta vui mừng chiến đấu cho nền hòa bình thế giới, cho tự do của
118
nhân dân thế giới, trong đó có cả cho nhân dân Đức.Chúng ta phải tạo ra sự an toàn
cho một thế giới dân chủ. Hòa bình của thế giới phải được xây dựng trên nền tảng tự
do về chính trị” [11; tr.818 – 819]. Đến ngày 4/4/1917, Thƣợng viện Hoa Kỳ thông
qua tuyên bố chiến tranh của Wilson.
Việc tham chiến của Hoa Kỳ đã đƣợc biện hộ một cách thật khó cƣỡng lại. Đó
chính là hình mẫu của một nƣớc Hoa Kỳ tự do và yêu chuộng tự do, vì hòa bình và vì
quyền con ngƣời trên thế giới. Tuy nhiên, hình mẫu ấy đã đƣợc tạo ra chỉ để che
khuất đi những toan tính và tham vọng của Hoa Kỳ. Thực tế cho thấy, Hoa Kỳ tham
chiến không chỉ để bảo vệ hòa bình thế giới hay bảo vệ sự an toàn cho thế giới dân
chủ mà chỉ là để đảm bảo những khoản lợi nhuận kếch xù, cái đã bị cuộc chiến tàu
ngầm của Đức phá hoại. Bởi lẽ, trƣớc khi tham chiến, Hoa Kỳ đã “bán cho các nước
Liên minh hơn 2 tỷ USD thiết bị quân sự, giá trị thực phẩm và hàng tiêu dùng cho
nhân dân lại càng cao hơn nhiều” [44; tr.242]. Hoa Kỳ chƣa bao giờ có đƣợc một thị
trƣờng rộng lớn với sức mua mạnh mẽ nhƣ vậy. Đây chính là nền tảng đảm bảo cho
sự phồn vinh của kinh tế - xã hội Mỹ, nó bắt buộc Hoa Kỳ phải tham chiến để giành
lại nhiều lợi ích to lớn hơn nữa.
Nhƣ vậy, xuất phát từ lợi ích kinh tế, Hoa Kỳ đã tiếp tục thực hiện chính sách
ngoại giao trung lập truyền thống của mình trong giai đoạn đầu của Chiến tranh thế
giới thứ nhất, đứng bên ngoài cuộc chiến nhằm thu lợi từ hoạt động buôn bán của cả
hai phe. Tuy nhiên, khi cuộc chiến diễn biến theo chiều hƣớng bất lợi, Hoa Kỳ lập
tức nhảy vào nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi và thông qua chiến tranh, tìm kiếm
nhiều hơn quyền lợi của mình trên thế giới. Điều đó thể hiện rất rõ tính linh hoạt,
năng động, hiệu quả và đầy biến hóa trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ - một
chính sách thực dụng, coi trọng hiệu quả và lợi ích đạt đến.
3.4.2.2. Chương trình 14 điểm (The Fourteen Points) của W.Wilson
Sự tham chiến của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã thúc đẩy
nhanh chóng cán cân lực lƣợng trên tất cả các mặt trận ở châu Âu. Lực lƣợng quân
đội Hoa Kỳ, do tƣớng John J.Pershing chỉ huy đã đóng vai trò đắc lực góp phần đánh
bại liên quân Đức – Áo – Hung bằng việc tham gia vào các trận đánh ở Chateau
Thiery (9/1918) và cuộc tấn công Meuse – Argone (9/11/1918). Những cuộc tấn
công này đã buộc Đức phải ký kết hiệp ƣớc đầu hàng tại khu rừng Compiègne gần
Paris vào ngày 11/11/1918.
119
Trƣớc đó, trong bài diễn văn đọc tại Quốc hội vào ngày 8/1/1918, Tổng thống
Wilson đã đƣa ra Chƣơng trình 14 điểm (The Fourteen Points) mà theo ông, đó là
“cơ sở duy nhất để có thể thiết lập hòa bình” với nội dung:
1. Những hòa ƣớc công khai, đàm phán công khai, sau đó không còn một hiệp
ƣớc quốc tế riêng tƣ bất kỳ nào, kể cả vấn đề ngoại giao phải luôn luôn tiến
hành một cách chân thật và trƣớc mắt công chúng.
2. Tự do hoàn toàn trong việc giao thông trên biển, ngoài hải phận của các
quốc gia, trong thời bình cũng nhƣ trong thời chiến trừ khi biển cả bị phong
tỏa toàn diện hay từng vùng do sự quyết định của các nƣớc hay theo hiệu lực
của việc thi hành các thỏa ƣớc quốc tế.
3. Bãi bỏ càng triệt để càng tốt, tất cả những hàng rào kinh tế, thiết lập các
điều kiện thƣơng mại bình đẳng giữa các quốc gia đã công nhận hòa bình và
cùng nhau đoàn kết để duy trì hòa bình.
4. Đề ra những áp lực đảm bảo thích đáng việc cắt giảm lực lƣợng vũ trang
đến mức thấp nhất phù hợp với yêu cầu phòng thủ.
5. Điều chỉnh công bằng, vô tƣ, thẳng thắn trong việc phân xử các cuộc tranh
chấp về thuộc địa trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc là việc xác định tất cả những
vấn đề chủ quyền, quyền lợi của nhân dân liên hệ, phải tƣơng xứng với những
đòi hỏi chính đáng của chính phủ quốc gia đứng ra nhờ phân xử.
6. Triệt thoái các lực lƣợng ngoại quốc ra khỏi lãnh thổ Nga và giải quyết các
vấn đề quan hệ đến nƣớc Nga theo tinh thần hợp tác tốt đẹp và tự do nhất của
các quốc gia tự do trên thế giới, đảm bảo cho Nga một cơ hội tự quyết định
việc phát triển chính trị và chính sách quốc gia mà không bị một nƣớc nào can
thiệp hay cản trở. Chân thành tiếp nhận nƣớc Nga vào đại gia đình những
quốc gia tự do dƣới những chế độ riêng biệt tùy ý Nga chọn lựa và trên tất cả
sự tiếp nhận nồng hậu, hết sức viện trợ những gì mà Nga có thể cần và mong
muốn. Sự đỗi đãi của các quốc gia bạn bè sẽ giành cho Nga những tháng tới
sẽ là một thử thách chua cay cho thiện chí của các nƣớc này, cho sự am hiểu
rằng nhu cầu của Nga khác biệt với quyền lợi của chính họ, và cho cảm tình
sáng suốt và vị tha của họ.
7. Quân đội nƣớc ngoài, theo sự thỏa thuận của các bên, phải rút khỏi Bỉ. Bỉ
phải đƣợc phục hƣng và không bị một nƣớc nào can thiệp để giới hạn chủ
quyền chung hƣởng với các nƣớc tự do khác.
120
8. Toàn thể lãnh thổ Pháp phải đƣợc giải phóng và những phần bị xâm lấn
(Alsace – Lorraine) đƣợc trả lại cho Pháp. Những thiệt hại mà nƣớc Phổ gây
cho Pháp năm 1871 về vấn đề Alsace – Lorraine, đã khiến nền hòa bình thế
giới bất định trong gót 50 năm, phải đƣợc hiệu chính, để cho nền hòa bình
một lần nữa đƣợc đảm bảo vì quyền lợi của toàn thể nhân loại.
9. Điều chỉnh lại đƣờng biên giới Italia dọc theo những đƣờng ranh giới có
tính quốc gia dân tộc có thể nhận ra một cách dễ dàng.
10. Những dân tộc Áo – Hung mà chúng ta hy vọng quốc gia họ đƣợc bảo vệ
và đảm bảo phải đƣợc hƣởng những cơ hội tự do nhất trong việc phát triển
nền tự trị.
11. Ở Rumani, Serbia và Montenegro, các lực lƣợng nƣớc ngoài phải rút đi,
những lãnh thổ bị chiếm đóng đƣợc phục hồi, Serbia phải đƣợc tự do lƣu
thông ra biển. Những mối bang giao giữa các quốc gia vùng Balkan phải đƣợc
quyết định bằng những cuộc thƣơng nghị thân hữu căn cứ vào những tuyến
quốc gia do những minh ƣớc lịch sử quy định, những đảm bảo quốc gia về
nền độc lập chính trị và nền kinh tế, sự toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia
vùng Balkan cũng phải đƣợc đề cập đến bằng thƣơng nghị.
12. Trao cho Thổ Nhĩ Kỳ chủ quyền phần lãnh thổ của Đế chế Ottoman,
nhƣng trao quyền tự trị cho các dân tộc dƣới quyền thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ;
cho phép tàu thuyền của mọi quốc gia đƣợc tự do qua lại eo biển Dardanelles.
13. Một quốc gia Ba Lan độc lập phải đƣợc thiết lập và phải bao gồm những
lãnh thổ có dân Ba Lan ở, phải đƣợc đảm bảo về sự lƣu thông ra biển một
cách chắc chắn và nền độc lập kinh tế cùng sự toàn vẹn lãnh thổ phải đƣợc
đảm bảo bằng hiệp ƣớc quốc tế.
14. Cần phải dựa trên những hòa ƣớc nhất định mà thành lập một tổ chức
chung của các dân tộc để cung cấp cho các dân tộc, lớn cũng nhƣ nhỏ, những
sự đảm bảo tƣơng hỗ về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ [68; tr.872].
Chƣơng trình 14 điểm của Wilson đã phản ánh quan điểm của Mỹ trong việc
giải quyết vấn đề sau chiến tranh, lập lại một trật tự thế giới mới có lợi cho Hoa Kỳ.
14 điểm của Wilson đƣa ra thực sự gây ấn tƣợng sâu sắc cho các nƣớc thuộc địa và
nửa thuộc địa song hoàn toàn không phải là văn kiện có tính nhân đạo mà thế giới đã
hiểu và kỳ vọng. Đi sâu phân tích một số điểm của Chƣơng trình 14 điểm sẽ giúp
chúng ta nhận thấy rõ đƣợc điều này. Ở điểm 3, việc đề nghị “bãi bỏ triệt để các
121
hàng rào kinh tế, thiết lập các điều kiện thương mại bình đẳng” không nằm ngoài
mục đích vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Wilson đã có một tầm nhìn xa trông rộng – có lẽ
vì thế mà ông đƣợc nhân dân Mỹ bầu chọn (năm 1962) là tổng thống thứ 4 trong số 5
vị tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ (Wilson xếp trên T.Jefferson, dƣới A.Lincoln,
G.Washington và F.D.Roosevelt). Chiến tranh chấm dứt, dù là bại trận hay thắng
trận đều bị tàn phá nặng nề, việc khắc phục hậu quả chiến tranh chính là cơ hội to lớn
cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ. Do đó, thực hiện bình đẳng thƣơng mại, xóa bỏ các
hàng rào kinh tế giữa các nƣớc chắc chắn sẽ giúp cho hàng hóa Hoa Kỳ, các nhà đầu
tƣ thâm nhập sâu hơn vào kinh tế các nƣớc, nhất là khi các nƣớc châu Âu đang nợ
Hoa Kỳ trên 10 tỷ USD qua cuộc chiến tranh này[65; tr.94]. Ở điểm 4, việc Mỹ đề
nghị “giảm thiểu sự vũ trang đến mức thấp nhất phù hợp với sự an toàn trong nước”
đã cho phép Mỹ đạt đƣợc nhiều điều lợi: “vừa lừa bịp được dư luận về tính chất yêu
chuộng hòa bình của Chính phủ Hoa Kỳ, vừa tạo ra khả năng cho Mỹ gây sức ép với
các nước khác nhượng bộ để cho Mỹ giành ưu thế, lớn nhất là về mặt quân sự” [65;
tr.93]. “Phù hợp với yêu cầu phòng thủ” thực sự là một thủ đoạn khôn khéo, bởi
nƣớc lớn – quân đội phải nhiều, bờ biển dài – hải quân phải mạnh. Cứ thế, theo tỷ lệ
thuận này, Mỹ sẽ đạt đƣợc sức mạnh tối ƣu về quân sự so với các nƣớc tƣ bản khác
có đất hẹp, biển ít nhƣ Anh, Pháp, Tây Ban Nha. Ở điểm 5, “một sự hiệu chỉnh công
bằng tuyệt đối về tất cả các yêu sách của thuộc địa, đưa ra sức nặng tương đương
với quyền lợi của các dân tộc thuộc địa và những yêu sách hợp tình hợp lý của chính
phủ đế quốc”, ngôn ngữ lập lờ của đề nghị này cho phép Hoa Kỳ “vừa làm hài lòng
các dân tộc bị áp bức, lừa phỉnh và mua chuộc họ, tạo ưu thế chính trị cho lá cờ Mỹ;
đồng thời không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của thế giới tư bản, trong đó có Mỹ”
[65; tr.93]. Không ai có thể định nghĩa đƣợc thế nào là “điều chỉnh công bằng”, nhất
là việc “điều chỉnh” ấy không bị ràng buộc bởi bất cứ thời gian nào. Hơn nữa, khi
chiến tranh kết thúc sẽ tăng cƣờng nguyện vọng tự quyết của các dân tộc thuộc địa
và thúc đẩy phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đó sẽ là một đòn đánh mạnh
vào các liệt cƣờng châu Âu – những nƣớc có nhiều thuộc địa rộng lớn. Khi đó, với
quan điểm “điều chỉnh công bằng”, Hoa Kỳ sẽ dễ dàng can thiệp và thâm nhập các
nƣớc nhƣợc tiểu – là nơi cung cấp nguyên liệu, thị trƣờng cho nền kinh tế Hoa Kỳ.
Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất của chủ nghĩa đế quốc khi gây ra chiến
tranh chỉ để phân chia lại thị trƣờng, thỏa mãn tham vọng bành trƣớng kinh tế của
các tập đoàn lũng đoạn Mỹ. Tính thực dụng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
122
đƣợc thể hiện rất rõ nét trong những điểm này. Sự “lơ lửng”, “nước đôi” trong ngôn
ngữ ngoại giao đã trở thành truyền thống xuyên suốt chính sách đối ngoại của Mỹ.
Mặc dù mang tới bàn thƣơng lƣợng ở Versailles Chƣơng trình 14 điểm song
Wilson đã phải nhiều lần làm trái với các nguyên tắc mà ông đã đƣa ra để đạt đƣợc
một hiệp ƣớc cuối cùng cho vấn đề sau chiến tranh. Năm 1919, Hòa ƣớc Versailles
đƣợc ký kết, quy trách nhiệm hoàn toàn cho Đức về cuộc chiến tranh. Hòa ƣớc cũng
xóa bỏ các thuộc địa của Đức, cấp cho Pháp thêm phần đất có vỉa than Saar và miền
Alsace – Lorraine, trả lại cho Ba Lan miền Posnanie và Pomeranie, buộc Đức phải
bồi thƣờng thiệt hại chiến tranh 15 tỷ USD cộng với một khoản không xác định trong
tƣơng lai. Hòa ƣớc này cũng quy định sự thành lập của Hội Quốc Liên (League of
Nations). Tuy nhiên, Hòa ƣớc Versailles sau nhiều lần thảo luận kéo dài đến tháng
3/1920 đã không đƣợc Thƣợng viện phê chuẩn, điều đó có nghĩa là bác bỏ cả việc
Mỹ tham gia Hội Quốc Liên. Đến năm 1921, Mỹ và Đức đã ký kết một hiệp ƣớc
riêng rẽ, chính thức chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai nƣớc.
Việc Thƣợng viện Hoa Kỳ không thông qua Hòa ƣớc Versailles đã thúc đẩy
Hoa Kỳ nhanh chóng quay trở về với truyền thống biệt lập, một xu thế “không phù
hợp với vị trí của họ trên thế giới trong thế kỷ XX và cũng không mở ra điều gì tốt
đẹp cho Hoa Kỳ và Hội Quốc Liên. Sự vắng mặt của nước Mỹ thực tế đã làm cho tổ
chức này trở nên bất lực” [44; tr.250]. Sự rút lui này thực chất không phải đơn thuần
là sự thắng thế của chủ nghĩa biệt lập truyền thống mà là để đạt đƣợc nhiều lợi ích
hơn khi Hoa Kỳ đứng ngoài sự ràng buộc của Hòa ƣớc Versailles. Hòa ƣớc
Versailles với nội dung cơ bản đề cập đến châu Âu song quyền lợi của Hoa Kỳ
không phải chỉ đơn thuần đòi hỏi có thể. Cái quyết định nhất, cơ bản nhất đƣa đến
việc Quốc hội Hoa Kỳ phủ nhận thành công của Wilson chính là do tính chất thiếu
toàn diện, thiếu mềm dẻo khi giải quyết vấn đề. Đúng nhƣ Howard Cincotta trong
cuốn “Khái quát về lịch sử nước Mỹ” đã nhận xét rằng: “một phần nào có sự phán
đoán, suy xét hời hợt mà Tổng thống Wilson đã phạm phải sai lầm chính trị khi thất
bại trong việc giành quyền lãnh đạo Đảng Cộng hòa đối lập trong Quốc hội, đồng
thời Wilson cũng thiếu đi những nhượng bộ, thậm chí ôn hòa vốn rất cần thiết để đạt
được sự chuẩn y từ phía Thượng viện mà phe Cộng hòa chiếm đa số” [8; tr.247].
Wilson muốn hƣớng đến một tham vọng nhƣng lại thiếu đi tính toàn diện và mềm
dẻo cần thiết. Sai lầm của Wilson là ở chỗ, “ông ta làm một việc kể ra không cần làm
đó là khẳng định lại sự khống chế của Mỹ ở châu Âu. Wilson đòi hỏi những điều đã
123
có sẵn chứ không phải những cái chưa có. Gần 240.000 người Mỹ chết ở châu Âu và
hơn 10 tỷ USD lục địa này nợ Hoa Kỳ mặc nhiên cho Mỹ có đặc quyền đó (riêng 3
nước mạnh nhất châu Âu – những địch thủ tiềm tàng của Mỹ - nợ Mỹ là: Anh – 4,2 tỷ
USD, Pháp – 3,4 tỷ USD, Italia – 1,6 tỷ USD) [65; tr.93]. Cái mà Hoa Kỳ cần lúc đó
là khu vực Thái Bình Dƣơng, là thị trƣờng Trung Quốc rộng lớn, là sức mạnh trên
biển, hạn chế và ngăn chặn sự trỗi dậy của Nhật Bản. Mặt khác, một điều mà chúng
ta phải lƣu ý đó chính là tính chất khôn khéo, xảo quyệt của các chiến lƣợc đối ngoại
của Hoa Kỳ. Việc không công nhận Hòa ƣớc Versailles vừa có lợi ở chỗ tuyên
truyền cho “chủ nghĩa biệt lập”, cho tính trung lập của Hoa Kỳ, và nhƣ vậy, những
lời tuyên bố tham gia chiến tranh để “chiến đấu cho nền hòa bình thế giới, cho tự do
của nhân dân thế giới” của Hoa Kỳ sẽ đƣợc nhìn nhận nhƣ là một kiểu mẫu của
“người đấu tranh vì quyền con người”. Điều này rõ ràng có giá trị rất lớn cho Hoa
Kỳ về mặt chính trị, tuyên truyền. Đồng thời, việc rút ra khỏi sự ràng buộc của Hòa
ƣớc Versailles đã tạo nên một ƣu thế hết sức có lợi cho Mỹ về sức mạnh ngoại giao,
“nó sẽ gây ra một sức ép tác động trở lại tình hình châu Âu – một hiệp ước “hòa
bình” không có Hoa Kỳ tham gia sẽ luôn ở trạng thái thường xuyên bị đe dọa. Sự ổn
định của một châu Âu thống nhất trong thù nghịch sẽ rất mong manh nếu không có
vai trò của Mỹ” [65; tr.95]. Sau cùng, việc Hoa Kỳ ký các hiệp ƣớc riêng rẽ với các
nƣớc bại trận Đức, Áo – Hung vào tháng 8/1921 đã phản ánh mƣu đồ của Hoa Kỳ.
Nếu tham gia vào Hội Quốc Liên, Hoa Kỳ sẽ chịu sự ràng buộc của tổ chức này và dĩ
nhiên, Hoa Kỳ sẽ không có đƣợc những cam kết nói trên.
Tiểu kết
Nhƣ vậy, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 – 1918 đã thể hiện rõ
mƣu đồ vƣơn lên thống trị thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, do tình hình nội tại lẫn những
tác động bên ngoài, chính sách đối ngoại mà giới lãnh đạo Mỹ thực thi đã có những
điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ.
Trong thời kỳ 1865 – 1898, do còn vƣớng bận nhiều vấn đề nghiêm trọng ở
trong nƣớc: sự tàn phá khủng khiếp do cuộc Nội chiến để lại, mâu thuẫn chủng tộc
vẫn còn diễn ra dai dẳng…nên Hoa Kỳ chƣa hội đủ sức mạnh cần thiết để có thể thực
thi chính sách đối ngoại bành trƣớng. Tại khu vực Mỹ Latinh, chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ đối với khu vực này chỉ là sự tiếp nối và mở rộng Học thuyết Monroe
đƣợc đề xƣớng trƣớc đó (1823). Tuy vậy, vẫn phải khẳng định rằng, trong thời gian
từ sau Nội chiến đến trƣớc năm 1898, Hoa Kỳ đã thể hiện vị thế của mình một cách
124
rõ ràng hơn trƣớc các cƣờng quốc châu Âu đang khống chế khu vực Mỹ Latinh.
Trong thời kỳ này, chính sách phản đối sự can thiệp của các cƣờng quốc châu Âu
vào khu vực Mỹ Latinh đã không còn mang tính phòng vệ nhƣ trƣớc mà đã có thực
chất hơn. Năm 1867, Hoa Kỳ đã ép Pháp phải rút quân ra khỏi Mexico. Trong cuộc
tranh chấp lãnh thổ giữa Venezuela và Guiana, Hoa Kỳ cũng đã có những hành động
buộc Anh phải có sự nhƣợng bộ nhất định. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ đã có những hoạt
động nhằm tập hợp lực lƣợng, quy tụ các nƣớc Mỹ Latinh vào quỹ đạo chi phối của
Hoa Kỳ, tiêu biểu là việc Mỹ đứng ra thành lập Liên minh Pan – Mỹ vào năm 1889.
Còn tại châu Á, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với khu vực này thời kỳ
1865 - 1898 chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm những lợi ích về thƣơng mại chứ chƣa có
hành động nào đáng kể để có thể thiết lập phạm vi ảnh hƣởng tại khu vực này. Tiêu
biểu là những hành động can thiệp của Hoa Kỳ ở Nhật Bản, ép buộc Trung Quốc và
Xiêm ký các hiệp ƣớc thƣơng mại…
Sự thắng lợi của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha vào năm
1898 là bƣớc khởi đầu vô cùng thuận lợi cho tham vọng vƣơn đến quyền lực thế giới
của Hoa Kỳ. Từ đây, một cƣờng quốc mới xuất hiện, bắt đầu tham gia vào quá trình
tranh đoạt thị trƣờng thế giới với các cƣờng quốc cũ ở châu Âu.
Tại khu vực Mỹ Latinh, với việc thực thi chính sách “Cây gậy lớn” và
“Ngoại giao dollar”, gắn Tu chính án Platt vào Hiến pháp Cuba và một loạt các
hành động can thiệp quân sự vào nhiều nƣớc ở khu vực Mỹ Latinh, Hoa Kỳ không
những làm cho các cƣờng quốc thực dân châu Âu có chỗ đứng tại khu vực này phải
run sợ mà còn từng bƣớc nắm chắc các nƣớc Mỹ Latinh cả về kinh tế, chính trị lẫn
văn hóa và mô hình xã hội.
Tại khu vực châu Á, Hoa Kỳ ngày càng hiện diện rõ sức mạnh của mình tại
khu vực này sau khi chiếm đƣợc Philippines (kết quả của cuộc chiến tranh Mỹ - Tây
Ban Nha). Đối với Nhật Bản, bên cạnh việc xúi giục và giúp đỡ Nhật tiến hành các
cuộc chiến tranh xâm lƣợc ở Đài Loan và Trung Quốc thì ngay sau khi các cuộc
chiến tranh đó kết thúc, Hoa Kỳ liền nhảy vào làm “người hòa giải” để có thể kiếm
chác một vài lợi ích về cho mình. Tại Trung Quốc, sau khi đã đánh bại Tây Ban Nha,
Hoa Kỳ ngay lập tức đòi hỏi sự công bằng trong thƣơng mại cũng nhƣ các quyền lợi
về chính trị, quân sự với các cƣờng quốc khác ở Trung Quốc mà đỉnh điểm chính là
công hàm “Mở cửa” do Ngoại trƣởng John Hay tuyên bố năm 1899.
125
Đối với các cƣờng quốc châu Âu, nhất là Anh, trong thời kỳ 1865 – 1918,
mặc dù giữa hai nƣớc có nhiều vấn đề khúc mắc song xuất phát từ sự cân nhắc lợi
ích bên trong lẫn bên ngoài của cả Hoa Kỳ và Anh, các vấn đề khác biệt còn tồn tại
giữa hai nƣớc đã đƣợc giải quyết một cách êm thấm. Trong quan hệ với Anh thời kỳ
này, Hoa Kỳ cũng đã tỏ rõ đƣợc sức mạnh và quyền lực của mình, nhiều vấn đề buộc
Anh phải nhƣợng bộ.
Còn trong giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ nhất, do tác động của
những lợi ích kinh tế, Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện chính sách ngoại giao “trung lập”,
đứng bên ngoài cuộc chiến nhằm thu lợi từ hoạt động buôn bán giữa hai phe. Tuy
nhiên, khi chiến tranh đi đến hồi kết và nhất là khi Đức leo thang cuộc chiến tàu
ngầm, làm thiệt hại đến hoạt động buôn bán của Mỹ, ngay lập tức Hoa Kỳ nhảy vào
cuộc chiến nhằm bảo vệ và tìm kiếm quyền lợi lớn nhất cho mình. Qua đây, chúng ta
cũng phần nào hiểu rõ bản chất của nền ngoại giao Hoa Kỳ - thực dụng, linh hoạt và
đầy biến hóa.
126
Chƣơng 4.
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
THỜI KỲ 1865 – 1918
4.1. Tổng quan kết quả chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 – 1918
4.1.1. Những kết quả đạt đƣợc
Trải qua hơn nửa thế kỷ phát triển đất nƣớc sau Nội chiến, cùng với sự trỗi
dậy mạnh mẽ về kinh tế, chính trị; sự gia tăng ảnh hƣởng quốc tế không ngừng thông
qua quá trình thực thi chính sách đối ngoại thời kỳ 1865 – 1918 đã đƣa đến cho Hoa
Kỳ những kết quả và thành tựu hết sức to lớn trên nhiều phƣơng diện. Các thành tựu
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế
giới thứ nhất, bên cạnh việc kế thừa kết quả của chính sách đối ngoại trong thời kỳ
trƣớc, đã đƣợc phát triển theo chiều hƣớng sâu sắc hơn, hiệu quả hơn, cụ thể là:
Thứ nhất, Hoa Kỳ đã gạt dần ảnh hưởng của các cường quốc châu Âu,
khẳng định được ưu thế tuyệt đối tại khu vực Mỹ Latinh và từng bước biến khu
vực này thực sự trở thành “sân sau” của mình.
Với các chính sách và biện pháp ngoại giao mà Hoa Kỳ đã sử dụng tại Mỹ
Latinh, khu vực này dần trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Sau ngày lập quốc,
Hoa Kỳ đã rất thèm muốn mở rộng ảnh hƣởng đến những nƣớc láng giềng phƣơng
Nam. Tuy nhiên, sự hiện diện của các nƣớc châu Âu nhƣ Anh, Pháp, Tây Ban Nha,
Nga…ở Tây bán cầu, cộng thêm vào đó là thực lực trong nƣớc chƣa đủ mạnh nên
Mỹ chƣa có hành động nào đáng kể đối với khu vực Mỹ Latinh. Chỉ sau khi giành
đƣợc chiến thắng trƣớc Tây Ban Nha (1898) – một trong những cƣờng quốc thực dân
có nhiều lợi ích tại Mỹ Latinh, Hoa Kỳ mới bắt đầu có đủ điều kiện lẫn cơ sở để thực
thi một chính sách đối ngoại mạnh mẽ hơn bằng đƣờng lối can thiệp trực tiếp vào
khu vực này. Trong thời kỳ từ sau Nội chiến đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới
thứ nhất, Hoa Kỳ đã áp dụng một loạt các chính sách ngoại giao nhằm từng bƣớc
nắm chắc Mỹ Latinh. Bƣớc đầu tiên, Hoa Kỳ đòi gắn Tu chính án Platt vào Hiến
pháp Cuba, biến quốc gia này thành thuộc địa kiểu mới của Hoa Kỳ. Tiếp sau đó,
chính sách “Cây gậy lớn” và “Ngoại giao Dollar” đƣợc đề ra nhằm bảo vệ những
lợi ích của Hoa Kỳ ở Mỹ Latinh và một số khu vực khác trên thế giới trƣớc nguy cơ
các khu vực này sẽ rơi vào tay của các cƣờng quốc châu Âu, tiêu biểu có các sự kiện:
vụ chuyển nhƣợng quyền xây dựng và quản lý kênh đào Panama (1903), can thiệp
127
vào Santo Domingo (Cộng hòa Dominica), Honduras…Ngoài ra, Hoa Kỳ còn đem
quân đội can thiệp trực tiếp vào nhiều quốc gia Mỹ Latinh nhƣ Mexico, Nicaragua,
Bolivia… Các công cụ, thiết chế, biện pháp ngoại giao đã đƣợc các đời tổng thống
Hoa Kỳ nối tiếp nhau huy động một cách tối đa nhất, vận dụng hiệu quả nhất để
nhằm khống chế và độc chiếm khu vực Mỹ Latinh. Có thể khẳng định rằng, cho đến
thập niên 20 của thế kỷ XX, Hoa Kỳ đã hoàn toàn làm chủ Mỹ Latinh và nắm chắc
khu vực này trong phạm vi ảnh hƣởng của Hoa Kỳ - điều mà trƣớc đó 100 năm,
Tổng thống James Monroe đã từng đề ra và hƣớng đến!
Với việc giành phần thắng trƣớc Tây Ban Nha vào năm 1898 đã báo hiệu một
“ngôi sao mới” xuất hiện trên bầu trời đế quốc, chính thức xác lập vị thế cƣờng quốc
của Hoa Kỳ. Sự hiện diện của cƣờng quốc này cũng báo trƣớc một thế kỷ đầy bất an
và chiến tranh, những sự thay đổi về lãnh thổ cùng vô số những sự kiện trọng đại về
chính trị, kinh tế và những biến động xã hội. Cùng với Đức và Nhật Bản, sự có mặt
của Hoa Kỳ nhƣ là một cƣờng quốc sẽ làm thay đổi trật tự vốn lâu nay đƣợc thiết lập
và thống trị bởi các cƣờng quốc thực dân cũ. Sự có mặt của các nƣớc châu Âu ở khu
vực Mỹ Latinh sẽ là mối nguy hại to lớn cho Mỹ trên nhiều phƣơng diện. Mặt khác,
trên đà phát triển sau khi giành đƣợc độc lập, ―khát vọng‖ của Hoa Kỳ muốn biến
Mỹ Latinh, vốn trở thành các nƣớc độc lập vào thập niên 20 của thế kỷ XIX, thành
―sân sau‖ của mình ngày càng lớn dần. Hoa Kỳ coi sứ mạng duy nhất của họ là trở
thành tấm gƣơng cho cả thế giới noi theo, nhằm truyền bá nền tự do dân chủ và thực
hiện chính sách đối ngoại không giống bất kỳ quốc gia nào. Việc đề ra các chính
sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với khu vực Mỹ Latinh tính từ thời điểm tuyên bố
Học thuyết Monroe (1823) và đặc biệt là sau Nội chiến đến 1918 đã từng bƣớc biến
Hoa Kỳ trở thành một “đế quốc độc quyền” Tây bán cầu, tạo tiền đề vững chắc cho
đế quốc này lũng đoạn chính trƣờng thế giới trong thế kỷ XX và cả những năm đầu
thế kỷ XXI.
Thứ hai, Hoa Kỳ bắt đầu giành được những lợi ích quan trọng tại khu vực
châu Á, nhất là vấn đề mở rộng thị trường tại đây.
Hoa Kỳ đã tăng cƣờng sự hiện diện ở khu vực châu Á và sớm khẳng định họ
là một cƣờng quốc CA-TBD thực sự ngay từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bằng
những can dự ngoại giao cụ thể, Hoa Kỳ đã từng bƣớc thể hiện vị trí cƣờng quốc đối
với cả khu vực nói chung và từng nƣớc nói riêng.
128
Đối với Nhật Bản, các cuộc chiến tranh do nƣớc này gây ra vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX (với Đài Loan năm 1874, với Trung Quốc năm 1894 – 1895 và
với Nga năm 1904 – 1905) đều có sự giúp đỡ ngấm ngầm của Hoa Kỳ thông qua các
cố vấn hay vai trò trung gian hòa giải nhằm mục tiêu là tìm kiếm lợi ích thƣơng mại
ở vùng Viễn Đông. Đến đầu thế kỷ XX, nhận thấy sự lớn mạnh của Nhật sẽ là nguy
cơ gây tổn hại đối với các giao dịch và cơ sở thƣơng mại cũng nhƣ phạm vi ảnh
hƣởng của mình, Hoa Kỳ đã thực hiện các chiến lƣợc nhằm ngăn chặn và cô lập Nhật
Bản.
Đối với Trung Quốc, chính Tổng thống T.Roosevelt và Ngoại trƣởng
H.C.Lodge đã ý thức rất rõ về lợi ích khổng lồ trong quan hệ buôn bán của Hoa Kỳ
với Trung Quốc. H.C.Lodge biết rất rõ các lợi ích về mặt hàng dệt may của Hoa Kỳ
khi hƣớng đến thị trƣờng châu Á, đặc biệt là ở Trung Quốc. Nhà sử học Marilyn
Young từng viết trong cuốn “The Rhetoric of Empire” (Sự hùng biện của Đế chế)
rằng: “…việc công ty American China Development mở rộng ảnh hưởng của Mỹ tại
Trung Quốc với các lý do thương mại và những chỉ thị của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
đối với các phái viên tại Trung Quốc nhằm triển khai tất cả các biện pháp ngoại
giao thích hợp bảo đảm mở rộng các lợi ích của Mỹ tại Trung Quốc” [75; tr.365].
Sau khi giành đƣợc quyền quản lý Philippines từ tay Tây Ban Nha, Hoa Kỳ đã có
một bàn đạp vững chắc để có thể tiến sang Trung Quốc – một thị trƣờng béo bở đang
bị tranh giành bởi các cƣờng quốc thực dân châu Âu. Để thực hiện tham vọng bành
trƣớng của mình tại Trung Quốc, Mỹ đã “kết bạn” với các cƣờng quốc khác (trƣớc
năm 1899) và tự mình tuyên bố thi hành chính sách “Mở cửa” Trung Quốc (từ năm
1899). Nhờ việc thực thi chính sách “Mở cửa”, Mỹ trở thành một trong ba nhà đầu
tƣ lớn nhất tại Trung Quốc (đứng sau Anh và Nhật Bản). Mặc dù các cƣờng quốc
châu Âu đều không muốn sự có mặt của Hoa Kỳ tại Trung Quốc song tất cả đều
không dám công khai thách thức chính sách “Mở cửa”. Vì vậy, nhà sử học Adams
Brucker đã gọi chính sách ”Mở cửa” là “một trong những hòn đá tảng vĩ đại” trong
lịch sử nƣớc Mỹ.
Ở các nƣớc Đông Nam Á nhƣ Thái Lan, Philippines và Việt Nam, Mỹ cũng
đã sử dụng nhiều cách thức khác nhau nhằm tạo lập cho mình những lợi ích về
thƣơng mại, lãnh thổ tại các nƣớc này.
129
Thứ ba, Hoa Kỳ đã từng bước vươn đến quyền lực thế giới, đuổi kịp và
cùng Anh dẫn dắt nền chính trị thế giới trong giai đoạn tiếp theo.
Kể từ sau Nội chiến, với sự phát triển kinh tế TBCN mạnh mẽ đã đƣa Hoa Kỳ
nhanh chóng trở thành một cƣờng quốc kinh tế hàng đầu của thế giới. Thêm vào đó,
sự thúc ép của tƣ tƣởng xã hội đối với giới chính trị Hoa Kỳ đã làm cho tham vọng
của nƣớc này ngày càng đƣợc cụ thể hóa. Thực tế hoạt động đối ngoại của Hoa Kỳ
trong những năm sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất đã cho
thấy Hoa Kỳ không chỉ giới hạn sự bành trƣớng thế lực ở khu vực Mỹ Latinh thông
qua các chính sách cụ thể nhƣ đã chỉ ra ở chƣơng hai mà đất nƣớc này còn tìm kiếm
vị thế to lớn hơn ở các khu vực khác. Sau hơn 50 năm theo đuổi các lợi ích ở châu Á,
Hoa Kỳ đã từng bƣớc hiện diện ở khu vực này với tƣ cách là một cƣờng quốc khu
vực mà bất cứ một động thái ngoại giao nào ở đây đều phải tính tới nhân tố Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ đã đi từ chính sách “kết bạn” khi thực lực chƣa đủ mạnh (trƣớc 1898) đến
chỗ tự mình đề ra những chính sách cụ thể nhằm ngăn chặn và buộc các nƣớc khác
phải tuân thủ theo lập luận của Hoa Kỳ (sau 1898). Điều đó cho thấy Hoa Kỳ đã
khẳng định đƣợc vị thế quốc tế cực kỳ quan trọng và là nƣớc đóng vai trò “cường
quốc” ở khu vực CA-TBD.
Không chỉ khẳng định vị thế mạnh mẽ tại Mỹ Latinh và châu Á, đối với các
vấn đề ở châu Âu, Hoa Kỳ đã có những tính toán sát hợp và uyển chuyển với thực tế
diễn tiến của hoàn cảnh. Trong quan hệ với nƣớc Anh, Hoa Kỳ đã từng bƣớc tỏ rõ
sức mạnh và buộc Anh phải nhƣợng bộ trong các vấn đề cụ thể nhƣ vấn đề tàu lớp
Alabama, giải quyết tranh chấp buôn bán lông hải cẩu ở biển Bering, phân định
đƣờng biên giới ở Venezuela và Alaska. Sự tìm kiếm và vƣơn đến quyền lực thế giới
của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đã giúp cho nƣớc này
đứng bên ngoài cuộc chiến nhằm thu lợi từ hoạt động buôn bán giữa hai phe trong
giai đoạn đầu của cuộc chiến thông qua chính sách ngoại giao trung lập. Tuy nhiên,
khi hoàn cảnh thay đổi, ngay lập tức Hoa Kỳ tham gia vào cuộc chiến và trở thành
nƣớc thắng trận có tiếng nói mạnh mẽ nhất sau chiến tranh.
Nhƣ vậy, có thể thấy chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến
kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918) đã tạo nên sự chuyển biến mạnh
mẽ, làm cho vị thế quốc tế của Hoa Kỳ thay đổi từ chỗ chịu sự chi phối của luật chơi
đến chỗ định ra luật chơi trong quan hệ quốc tế. Điều này đƣợc thể hiện rõ nét trong
rất nhiều vấn đề quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
130
4.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu nói trên, trong quá trình thực thi chính sách đối
ngoại thời kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865-
1918), Hoa Kỳ vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Trên thực tế, việc
thực thi chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong một số trƣờng hợp đã tạo nên sự thù
ghét của nhân dân các nƣớc bị phụ thuộc vào Mỹ. Điều này đặc biệt nổi rõ trong
quan hệ giữa Mỹ với các nƣớc Mỹ Latinh nhƣ Cuba, Mexico, Nicaragua. Với những
chính sách can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nƣớc láng giềng phƣơng
Nam đã tạo nên sự chống đối mạnh mẽ của nhân dân ở khu vực này. Từ một nƣớc
đấu tranh chống thực dân, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, Hoa Kỳ đã trở
thành một nƣớc vì lợi ích quốc gia dân tộc đã thực thi chính sách đối ngoại bành
trƣớng ra các nƣớc khác mặc dù với hình thức và biện pháp khác với các nƣớc thực
dân trƣớc đây. Điều đó làm cho tâm lý chống Mỹ này ngày một nhiều hơn, buộc các
nhà lãnh đạo Hoa Kỳ phải liên tục thay đổi chính sách nhằm giữ cho đƣợc khu vực
Mỹ Latinh nằm trong vòng ảnh hƣởng của ngƣời Mỹ.
Đồng thời với đó, nhiều chính sách đối ngoại đối với các khu vực khác đã
không phát huy đƣợc hiệu quả, buộc các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ phải từ bỏ những
tham vọng ở châu Âu, quay trở về “chủ nghĩa trung lập” ở Mỹ Latinh và CA-TBD,
nơi gắn bó thiết thân và phản ánh lợi ích thực tế cũng nhƣ thực lực hiện có của Hoa
Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều này có thể đƣợc minh chứng thông qua
chính sách của Hoa Kỳ đối với các vấn đề ở châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất. Tại châu Âu, Hoa Kỳ đã có “một cuộc phiêu lưu” đầy tham vọng khi đề xƣớng
Chƣơng trình 14 điểm sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Tuy nhiên,
Chƣơng trình 14 điểm của W.Wilson với nội dung đậm đặc chủ nghĩa lý tƣởng
(ngƣời Mỹ vốn tôn sùng chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa thực dụng) nên nó đã nhanh
chóng bị bác bỏ bởi Quốc hội vào năm 1920. Hơn nữa, vào thời điểm đó, Hoa Kỳ
vẫn chƣa đủ sức để có thể tạo nên sức ép buộc các nƣớc châu Âu phải tuân theo
chính sách của Hoa Kỳ. Anh và Pháp vẫn là những cƣờng quốc có tiếng nói rất quan
trọng trên thế giới nói chung và ngay chính trên châu Âu nói riêng. Do vậy, Hoa Kỳ
đã không thể hiện thực hóa đƣợc Chƣơng trình 14 điểm và đã Ủy ban đối ngoại
Thƣợng viện Hoa Kỳ đã phủ quyết những văn bản mà Tổng thống W.Wilson ký kết
tại Paris năm 1919. Thay vào đó, Hoa Kỳ đã ký kết các hiệp ƣớc riêng rẽ với các
quốc gia châu Âu vào năm 1921, quay trở về với truyền thống biệt lập trên cơ sở
131
thực lực của Hoa Kỳ ở Mỹ Latinh – nơi phản ánh lợi ích quốc gia và ở châu Á – nơi
chứa đựng những lợi ích cốt lõi của Hoa Kỳ. Đây có thể đƣợc coi là thất bại lớn nhất
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 – 1918.
4.2. Đặc điểm
Nghiên cứu chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ 1865 – 1918, bƣớc
đầu chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 – 1918 đã thể hiện
một cách toàn diện bản chất thực dụng, linh hoạt với mục đích tối thượng là lợi
ích quốc gia. Dƣới tác động của nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngoài, chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn nói trên luôn có những điều chỉnh cho phù hợp với
sự biến chuyển của thời cuộc.
Đối với khu vực Mỹ Latinh, nếu nhƣ trong thời kỳ trƣớc Nội chiến, chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ mới chỉ dừng lại ở những tuyên bố, những học thuyết
mang tính chất phòng vệ nhằm bảo vệ những lợi ích của Hoa Kỳ tại khu vực này thì
trong thời kỳ sau Nội chiến, đặc biệt là từ sau chiến thắng “bé nhỏ nhưng rực rỡ”
trƣớc Tây Ban Nha, giới lãnh đạo Hoa Kỳ chủ trƣơng thực thi chính sách đối ngoại
mạnh mẽ hơn bằng cách can thiệp trực tiếp vào khu vực Mỹ Latinh. Dựa vào Học
thuyết Monroe, ngay sau Nội chiến, Mỹ đã buộc Pháp phải rút quân khỏi Mexico
(năm 1867). Sau cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha (1898), Hoa Kỳ đã tiếp tục có
những cơ sở xác đáng để thực thi chính sách can thiệp trực tiếp vào Mỹ Latinh thông
qua việc gắn Tu chính án Platt vào Hiến pháp Cuba, đƣa đảo quốc này từ chỗ bị
thống trị bởi thực dân Tây Ban Nha nay lại rơi vào sự thống trị của Hoa Kỳ. Kế thừa
những di sản từ Học thuyết Monroe, giới chính khách Mỹ tiếp tục phát triển thêm
một bƣớc với việc thực thi chính sách “Cây gậy lớn” và “Ngoại giao dollar”. Hoa
Kỳ đã đạt tới cái gọi là “châu Mỹ của người Mỹ” nhƣ mong muốn bằng những can
thiệp thô bạo vào Mexico, Haiti, Dominica, Bolivia, Nicaragua và tổ chức các Hội
nghị Liên Mỹ nhằm thâu tóm mọi quyền lực ở Mỹ Latinh về cho nƣớc Mỹ.
Đối với khu vực châu Á, trong thời gian từ 1865 đến cuối thế kỷ XIX, do thực
lực bên trong còn hạn chế, cộng thêm vào đó là “sự lấn át” của các cƣờng quốc thực
dân châu Âu nên Mỹ chỉ thực hiện tham vọng bành trƣớng của mình ở châu Á theo
hai cách: Thứ nhất, trợ giúp hay làm vai trò trung gian hòa giải trong các cuộc tranh
chấp ở khu vực nhằm tìm kiếm và bảo vệ các lợi ích thương mại của Mỹ tại châu Á.
Có thể thấy rõ điều này qua chính sách của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản trong ba cuộc
132
chiến tranh mà Nhật Bản tiến hành ở Đài Loan (1874), Trung Quốc (1894 – 1895) và
với Nga (1904 - 1905). Những cố gắng của Mỹ trong vai trò trung gian hòa giải giữa
Pháp và nhà Thanh xung quanh vấn đề tranh chấp phạm vi ảnh hƣởng ở Việt Nam dù
thất bại nhƣng cũng đã thể hiện rõ mục tiêu của Hoa Kỳ trong vai trò này là đảm bảo
các lợi ích thƣơng mại của Hoa Kỳ ở Trung Quốc không bị tổn hại do cuộc chiến
tranh giữa Pháp và Trung Quốc gây ra; Thứ hai, Hoa Kỳ đã hợp tác và theo chân các
nước đế quốc khác ở châu Á nhằm thiết lập và mở rộng các quyền lợi về thương mại
và phạm vi ảnh hưởng. Cách thức này đƣợc Hoa Kỳ thực thi ở Trung Quốc. Theo sau
các đế quốc có thế lực ở Trung Quốc, Hoa Kỳ đã ép nhà Thanh phải tiếp tục ký với
mình Điều bổ sung cho Hiệp ƣớc Thiên Tân vào năm 1868 và phối hợp với Anh,
Nhật Bản tiến hành nhiều cuộc xâm chiếm ở biên giới phía Đông và Tây Nam Trung
Quốc.
Sau khi giành đƣợc thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha (1898),
Hoa Kỳ trở thành một trong những cƣờng quốc hàng đầu trên thế giới. Do vậy, chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với châu Á không theo chiều hƣớng nhƣ giai đoạn
trƣớc nữa mà tự tuyên bố và thực thi các chính sách đối ngoại của mình. Với một vị
thế mới, giờ đây Hoa Kỳ không còn phải trợ giúp Nhật Bản nữa mà chuyển sang
chiến lƣợc kiềm chế, ngăn chặn sự bành trƣớng của Nhật Bản tại khu vực Viễn Đông
và tiến thêm một bƣớc thực hiện chính sách “Mở cửa” đối với Trung Quốc, đòi hỏi
những quyền lợi ở nƣớc này ngang bằng với các cƣờng quốc châu Âu. Ngoài ra, Hoa
Kỳ còn thay thế Tây Ban Nha làm “người cai trị” Philippines, biến đảo quốc này
thành thuộc địa kiểu mới.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, do những lợi ích to lớn về kinh tế, Hoa
Kỳ chủ trƣơng thực hiện chính sách ngoại giao biệt lập truyền thống trong giai đoạn
đầu của cuộc chiến nhằm thu lợi từ hoạt động buôn bán của cả hai phe. Tuy nhiên,
khi nƣớc Đức thực hiện cuộc chiến tàu ngầm gây nhiều tổn thất cho Hoa Kỳ, Hoa Kỳ
lập tức nhảy vào cuộc chiến nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi và thông qua chiến
tranh, tìm kiếm nhiều hơn lợi ích của Mỹ trên thế giới. Đến năm 1920, sau nhiều lần
thảo luận, Thƣợng viện Hoa Kỳ đã bác bỏ Hòa ƣớc Versailles bởi nếu tham gia hòa
ƣớc này thì Hoa Kỳ khó có thể đạt đƣợc những quyền lợi và tham vọng của họ do
những định chế và nguyên tắc mà Hòa ƣớc Versailles đã đề ra.
Thứ hai, quá trình hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
trong thời kỳ 1865 - 1918 luôn hướng tới mục tiêu xuyên suốt và quan trọng là
133
thực hiện tham vọng bành trướng nhưng chưa đủ thực lực để đạt được mục tiêu
đó. Hoa Kỳ thoát ra khỏi cuộc Nội chiến với những cơ hội mới mẻ, sự thống nhất về
mặt nhà nƣớc, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế…đã cho phép ngƣời Mỹ có
những khát vọng to lớn đối với khu vực láng giềng Mỹ Latinh. Sau khi chiến tranh
với Tây Ban Nha kết thúc với phần thắng nghiêng về Mỹ, theo những điều khoản do
Hiệp định Paris quy định, Tây Ban Nha buộc phải từ bỏ mọi quyền hành của mình ở
Cuba; nhƣợng lại đảo Puerto Rico, Guam, các đảo ở quần đảo Mariana và các đảo
khác ở khu vực Tây Ấn mà nƣớc này đã kiểm soát trƣớc chiến tranh cho Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ cũng sẽ giành quyền quản lý Philippines sau khi trả cho Tây Ban Nha 20
triệu USD. Đến thập niên đầu của thế kỷ XX, Hoa Kỳ lại tiếp tục đẩy mạnh chính
sách đối ngoại bành trƣớng của mình tại khu vực Mỹ Latinh bằng các cách thức khác
nhau, rất đa dạng và linh hoạt. Tổng thống T.Roosevelt với chính sách “Cây gậy
lớn” đã can thiệp và dính líu trực tiếp tới một loạt các quốc gia Mỹ Latinh. Tổng
thống W.H.Taft với chính sách “Ngoại giao Dollar” về danh nghĩa là giúp cho các
nƣớc Mỹ Latinh tránh đƣợc nạn nợ nƣớc ngoài và khủng hoảng tài chính song sự
thực là hất cẳng các nhà đầu tƣ của châu Âu và thay vào đó là các tập đoàn của Mỹ.
Việc làm này sẽ giúp cho “con rết tư bản” Mỹ cắm rễ sâu vào nền kinh tế khu vực
Mỹ Latinh; đồng thời, nó cũng đem lại cho nƣớc Mỹ sức nặng chính trị tại khu vực
này.
Tại khu vực châu Á, mặc dù trong thời kỳ 1865 – 1918, Hoa Kỳ mới chỉ dừng
lại ở việc tìm kiếm các lợi ích về thƣơng mại song cũng đã để lại nhiều điểm nhấn
quan trọng. Đối với Nhật Bản, các cuộc chiến tranh giữa nƣớc này với Đài Loan,
Trung Quốc và Nga vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX đều có
sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ. Thông qua việc giúp đỡ Nhật Bản, Hoa Kỳ đã đạt đƣợc những
thành công bƣớc đầu trong mục tiêu tìm kiếm lợi ích thƣơng mại ở vùng Viễn Đông.
Đến đầu thế kỷ XX, nhận thấy sự lớn mạnh của Nhật Bản sẽ là mối nguy hại đối với
các giao dịch và cơ sở thƣơng mại của Mỹ tại châu Á, Hoa Kỳ liền thực thi chiến
lƣợc nhằm ngăn chặn và cô lập Nhật Bản. Tại Trung Quốc, để thực hiện tham vọng
bành trƣớng của mình, trong thời kỳ đầu khi mới đặt chân đến châu Á, Hoa Kỳ đã sử
dụng kế sách “làm bạn nhỏ” với các cƣờng quốc khác (trƣớc năm 1899) để đạt đƣợc
nhiều quyền lợi về thƣơng mại tại quốc gia này. Sau chiến thắng trƣớc Tây Ban Nha
vào năm 1898, Hoa Kỳ đã hội đủ thực lực để có thể thực thi chính sách đối ngoại độc
lập nên đã tự tuyên bố thi hành chính sách “Mở cửa” Trung Quốc, buộc nhiều cƣờng
134
quốc châu Âu phải nhún nhƣờng. Ở các nƣớc Đông Nam Á nhƣ Thái Lan,
Philippines, Hoa Kỳ cũng đã có nhiều cách thức khác nhau nhằm tạo lập cho mình
những lợi ích về thƣơng mại, lãnh thổ tại các nƣớc này.
Tham vọng bành trƣớng của Hoa Kỳ còn đƣợc thể hiện rất rõ nét trong Chiến
tranh thế giới thứ nhất. Mặc dù Tổng thống Wilson tuyên bố trƣớc Quốc hội
(2/4/1917) rằng: “Chúng ta vui mừng chiến đấu cho nền hòa bình thế giới, cho tự do
của nhân dân thế giới, trong đó có cả cho nhân dân Đức. Chúng ta phải tạo ra sự an
toàn cho một thế giới dân chủ. Hòa bình của thế giới phải được xây dựng trên nền
tảng tự do về chính trị” [11; tr.818 – 819] song khác xa với những lời lẽ hoa mỹ, giả
tạo ấy, Chƣơng trình 14 điểm do chính Tổng thống Wilson đề xuất sau khi chiến
tranh kết thúc thực chất là một kế hoạch bành trƣớng của Mỹ nhằm giành quyền
thống trị thế giới, phá vỡ trật tự thế giới cũ do các cƣờng quốc châu Âu đứng đầu để
Mỹ có thể thực hiện tham vọng lãnh đạo thế giới.
Thứ ba, xuyên suốt chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ nói chung và thời kỳ
1865 – 1918 nói riêng, chúng ta đều nhận thấy giới lãnh đạo Mỹ luôn tạo ra được
“cái cớ” hoặc khung pháp lý hợp lẽ hợp tình trước khi Hoa Kỳ thực thi một chính
sách đối ngoại nào đó đối với một hay nhiều thực thể chính trị.
Những “cái cớ” đó sẽ giúp cho Hoa Kỳ đƣờng hoàng thực thi chính sách đối
ngoại của mình mà không cần đếm xỉa đến những chỉ trích, lên án của các cƣờng
quốc địch thủ hay các đối tƣợng mà Mỹ tiến hành chính sách đối ngoại. Trong thời
kỳ 1865 – 1918, có nhiều sự kiện Hoa Kỳ đã tạo ra lý do xác đáng cho mình để có
thể thực thi chính sách đối ngoại. Cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha vào năm 1898
là một minh chứng tiêu biểu. Sự kiện tàu Maine nổ tại cảng Havana vào ngày
15/2/1898 cho đến nay vẫn là một bí ẩn chƣa có câu trả lời song Hoa Kỳ vẫn tuyên
bố Tây Ban Nha chính là thủ phạm. Cuối cùng, với sự cổ súy của các bài báo giật
gân, Hoa Kỳ đã tiến hành cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha và giành đƣợc thắng lợi
rực rỡ, thu đƣợc nhiều lợi ích to lớn từ cuộc chiến tranh này. Năm 1907, sự gia tăng
nhập cƣ của ngƣời Nhật Bản vào Hoa Kỳ đã tạo cho Hoa Kỳ “cái cớ” cần thiết để
Tổng thống T.Roosevelt yêu cầu Nhật Bản phải ký kết “Thỏa thuận giữa các quý
ông”. Đây là một sự tiếp nối những chính sách mà Hoa Kỳ thực thi nhằm kiềm chế
và ngăn chặn sự trỗi dậy của Nhật Bản ở khu vực CA-TBD. Trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914 – 1918), những vụ tấn công bởi tàu ngầm Đức vào các tàu chở
khách Lusitania của Anh (tháng 5/1915), Sussex của Pháp (tháng 3/1916) làm nhiều
135
ngƣời Mỹ đi trên hai chiếc tàu này thiệt mạng và bị thƣơng song Tổng thống
W.Wilson vẫn cảm thấy chƣa sẵn sàng để tuyên bố tình trạng chiến tranh với nƣớc
Đức. Ông chỉ cố gắng dùng những lời lẽ cảnh báo nghiêm khắc để buộc Đức từ bỏ
những thủ đoạn chiến tranh bất hợp pháp. Tuy nhiên, căng thẳng trong quan hệ giữa
Hoa Kỳ và Đức lên đến đỉnh điểm khi bức điện tín Zimmermann đƣợc phát giác vào
tháng 3/1917. Nó đã tạo ra làn sóng chống Đức dữ dội trong dân chúng Mỹ và cũng
là “cái cớ” cần và đủ để Hoa Kỳ tuyên bố cuộc chiến tranh với nƣớc Đức nói riêng
và phe Hiệp ƣớc nói chung. Nghệ thuật tạo ra “cái cớ” trong chính sách đối ngoại đã
đƣợc giới lãnh đạo Hoa Kỳ tiếp nối trong các thời kỳ sau đó, tiêu biểu nhƣ trong
Chiến tranh thế giới thứ hai với sự kiện Nhật Bản đánh úp căn cứ Trân Châu Cảng
của Hoa Kỳ (tháng 12/1941), chiến tranh Triều Tiên (1953), cuộc khủng hoảng tên
lửa Cuba (tháng 10/1962) và sự kiện vịnh Bắc Bộ trong Chiến tranh Việt Nam vào
năm 1964.
Thứ tư, chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ 1865 – 1918 là một quá trình
phát triển liên tục, phản ánh sự tiến triển đi lên về mọi phương diện của nước Mỹ
trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX – thời điểm nước Mỹ bắt đầu
khẳng định quyền lực của mình tại khu vực Mỹ Latinh, từng bước đặt nền tảng
cho nước Mỹ vươn tầm và khẳng định quyền lực thế giới ở châu Á và châu Âu.
Sau cuộc Nội chiến, nƣớc Mỹ bắt đầu bƣớc vào thời kỳ thống nhất về kinh tế, chính
trị trong phạm vi toàn liên bang. Chính sự thống nhất đó đã tạo điều kiện cho chủ
nghĩa tƣ bản Mỹ có bƣớc phát triển vô cùng mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian ngắn,
từ một quốc gia nông nghiệp, Mỹ nhanh chóng trở thành một quốc gia công nghiệp
hàng đầu thế giới. Cùng với sự phát triển về kinh tế, các tổ chức tƣ bản độc quyền và
lũng đoạn nhà nƣớc xuất hiện ngày càng nhiều ở Mỹ đã làm nảy sinh những quan
tâm đến thị trƣờng bên ngoài nƣớc Mỹ. Việc tìm kiếm thị trƣờng mới ở nƣớc ngoài
đƣợc Hoa Kỳ xem nhƣ là một phƣơng thuốc bách bệnh có tính sống còn và là giải
pháp cho mọi vấn đề nảy sinh trong nƣớc do quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng
ở Hoa Kỳ đƣa lại. Sự phát triển kinh tế đã kéo theo nhiều biến động về chính trị - xã
hội của nƣớc Hoa Kỳ: sự sắp đặt quyền lực của chính phủ liên bang lên toàn bộ lãnh
thổ, những nỗ lực của giới lãnh đạo Hoa Kỳ nhằm giải phóng nô lệ, Thuyết Chủng
tộc ƣu việt, Luận thuyết Darwin xã hội tiếp tục thịnh hành rộng rãi trong tƣ tƣởng
ngƣời Mỹ hay việc đề xƣớng xây dựng một lực lƣợng hải quân lớn mạnh…đã tạo
nên những tiền đề thuận lợi cho nƣớc Mỹ có đầy đủ sức mạnh nội lực để có thể thực
136
thi chính sách đối ngoại của mình từ sau cuộc Nội chiến. Cuộc chiến tranh Mỹ - Tây
Ban Nha (1898), chính sách “Mở cửa” Trung Quốc (1899 – 1900), chính sách “Cây
gậy lớn” và “Ngoại giao Dollar” là những nấc thang đƣa Mỹ đến gần với tham vọng
phân chia lại thế giới, vừa khống chế đƣợc các nƣớc Mỹ Latinh về quân sự, kinh tế,
tài chính, biến những nƣớc này trở thành nơi cung cấp nguyên liệu và thị trƣờng cho
hàng hóa Hoa Kỳ, vừa làm suy yếu những cƣờng quốc thực dân châu Âu cũ.
Thứ năm, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ 1865 – 1918 gắn
chặt với vai trò của các tổng thống và các chính khách. Tại Mỹ Latinh, những
chính sách đối ngoại mà Hoa Kỳ thực thi ở khu vực này đều in đậm dấu ấn của các
đời tổng thống. Chính sách “Cây gậy lớn” gắn liền với Tổng thống T.Roosevelt,
chính sách “Ngoại giao Dollar” lại gắn liền với Tổng thống W.H.Taft…
Nếu nhƣ ở Mỹ Latinh, các tổng thống Mỹ là những ngƣời có tầm ảnh hƣởng
rất lớn đối với các chiến lƣợc và chính sách đối ngoại thì ở châu Á lại có một điểm
đặc biệt, đó là sự đóng góp của các nhà ngoại giao và cố vấn Mỹ. Trong cuộc chiến
tranh xâm lƣợc Đài Loan vào năm 1874, Tƣớng Charles Legendre – Cố vấn Bộ
Ngoại giao Nhật Bản đã có những đóng góp trong việc vạch ra kế hoạch tác chiến
cho quân đội Nhật Bản. Sau khi cuộc chiến này kết thúc, Đại biện lâm thời Mỹ tại
Bắc Kinh S.W.William chính là ngƣời làm trung gian hòa bình để Nhật và Trung
Quốc ký kết Hiệp ƣớc Bắc Kinh (tháng 10/1874) với nhiều điều khoản có lợi cho
Nhật. Còn tại Xiêm, Cố vấn Mỹ Edward H.Strobel cũng đã đóng vai trò quan trọng,
dẫn đến việc ký kết Hiệp ƣớc Pháp – Xiêm vào năm 1907…
Thứ sáu, trên cơ sở mục tiêu xuyên suốt là thực thi chính sách bành
trướng, Hoa Kỳ đã có những chính sách và mục tiêu khác nhau đối với từng khu
vực. Điều này càng đƣợc thể hiện rất rõ nét khi Hoa Kỳ thoát ra khỏi cuộc Nội chiến,
có đầy đủ thực lực để có thể vƣơn ra bên ngoài. Đối với Mỹ Latinh, Hoa Kỳ đã dần
biến Mỹ Latinh thành khu vực “sân sau“ của mình. Khu vực Mỹ Latinh từ lâu vốn là
phạm vi ảnh hƣởng truyền thống của các cƣờng quốc thực dân châu Âu. Tuy nhiên,
điều đó đã thay đổi khi Tổng thống J.Monroe tuyên bố thực thi học thuyết mang tên
mình rằng “châu Mỹ của người châu Mỹ“. Và cho đến khi đánh bại đƣợc đế quốc
già cỗi Tây Ban Nha (1898), Hoa Kỳ lại càng có cơ hội để thực hiện chiến lƣợc đối
ngoại bành trƣớng của mình tại khu vực này. Những thành quả đã giành đƣợc từ
cuộc chiến tranh này (điều khoản nhƣợng lại Cuba, Puerto Rico) đã tạo cho Hoa Kỳ
những bƣớc chân vững chắc đầu tiên tại Mỹ Latinh, để rồi từ đây, Mỹ liên tục có
137
những hành động can thiệp trực tiếp vào các quốc gia khu vực này, giành đƣợc nhiều
lợi ích to lớn; đồng thời, cũng gạt bỏ dần ảnh hƣởng của các cƣờng quốc châu Âu ra
khỏi Mỹ Latinh. Cũng phải khẳng định rằng, việc loại bỏ thành công thế lực của các
cƣờng quốc châu Âu tại Mỹ Latinh chính là cú bứt phá ngoạn mục trong chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ, góp phần định hình nên chính sách đối ngoại của nƣớc này và
thúc đẩy Mỹ mở rộng bành trƣớng ở các khu vực khác trên thế giới.
Trên cơ sở những thành công có đƣợc tại Mỹ Latinh, Hoa Kỳ đã dần mở rộng
phạm vi ảnh hƣởng của mình sang khu vực châu Á. Việc thôn tính đƣợc Philippines
sau khi Hiệp định Paris đƣợc ký kết (10/12/1898) đã trở thành bàn đạp cho Mỹ tiến
sang châu Á – châu lục giàu có về tài nguyên thiên nhiên nhƣng đã đƣợc phân chia
xong phạm vi ảnh hƣởng bởi các cƣờng quốc đi trƣớc nhƣ Anh, Pháp, Hà Lan, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha...Đứng trƣớc hoàn cảnh nhƣ vậy, những cƣờng quốc trẻ nhƣ
Hoa Kỳ, Nhật Bản...sẽ phải đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn. Để giành đƣợc
những ƣu thế lớn về thƣơng mại tại châu Á, đặc biệt là ở Trung Quốc, Hoa Kỳ đã
khôn ngoan tuyên bố thực thi chính sách “Mở cửa“ (1899) tại quốc gia đông dân
nhất thế giới này. Lần đầu tiên trong lịch sử, các cƣờng quốc thực dân châu Âu đã
buộc phải thừa nhận vị trí và quyền lợi của Hoa Kỳ tại khu vực quan trọng này.
Ngoài ra, trong thời kỳ 1865 – 1918, Hoa Kỳ còn giành đƣợc nhiều lợi ích quan
trọng tại Philippines, Thái Lan và kiềm chế đƣợc sự trỗi dậy của Nhật Bản.
Còn tại châu Âu, mặc dù tầm ảnh hƣởng của Hoa Kỳ tại châu lục này không
mạnh mẽ nhƣ ở Mỹ Latinh hay châu Á song Mỹ cũng đã bƣớc đầu xác lập đƣợc vị trí
của mình, kiềm tỏa đƣợc sức mạnh của nhiều cƣờng quốc châu Âu (nổi bật là Anh),
nhất là vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự tham chiến của Hoa Kỳ
trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đóng vai trò quan trọng vào sự thắng lợi của
phe Hiệp ƣớc trên chiến trƣờng châu Âu, dẫn đến sự kết thúc của cuộc chiến tranh
này. Chính điều đó đã tạo nên sự nể trọng ở một mức độ nhất định của các quốc gia
châu Âu giành cho Hoa Kỳ. Chƣơng trình 14 điểm do Tổng thống W.Wilson đề xuất
sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc (1918) mặc dù bị đổ bể song phải thừa
nhận rằng, thông qua Chƣơng trình 14 điểm, Hoa Kỳ đã tạo dựng cho mình tiếng nói
ngang bằng với các cƣờng quốc châu Âu, nhiều quốc gia hùng mạnh tại châu lục này
đã buộc phải kiêng dè sức mạnh của Hoa Kỳ trên trƣờng quốc tế.
138
4.3. Tác động của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ
4.3.1. Đối với Hoa Kỳ
Thứ nhất, những chính sách đối ngoại mà Hoa Kỳ thực thi trong thời kỳ
1865 – 1918 đã có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Mỹ. Chính việc thực
thi chính sách đối ngoại bành trƣớng đã đem lại cho nƣớc Mỹ một thị trƣờng tiêu thụ
hàng hóa rộng lớn hơn. Ƣu thế thƣơng mại của một nền công nghiệp sản xuất hàng
hóa ngày càng phát triển của Hoa Kỳ đã hiện diện rộng khắp từ Mỹ Latinh đến các
nƣớc châu Á và đặc biệt là Trung Quốc sau khi Hoa Kỳ tuyên bố chính sách “Mở
cửa“ thị trƣờng này. Đến năm 1893, hoạt động thƣơng mại của Mỹ đã vƣợt tất cả các
quốc gia trên thế giới (trừ nƣớc Anh). Rất nhiều mặt hàng, đặc biệt là các sản phẩm
mũi nhọn của ngành nông nghiệp nhƣ thuốc lá, bông, lúa mỳ từ lâu đã phụ thuộc vào
thị trƣờng quốc tế để phát triển. Đến năm 1895, các khoản đầu tƣ mới của các nhà tƣ
bản Mỹ ở nƣớc ngoài đã đạt 1 tỷ USD [75; tr.366]. Dầu lửa trở thành ngành xuất
khẩu lớn của Hoa Kỳ vào những thập niên 1880, 1890. Đến năm 1891, Công ty
Standard Oil chiếm tới 90% thị trƣờng xuất khẩu dầu lửa của Mỹ và kiểm soát 70%
thị trƣờng thế giới. Dầu lửa trở thành một trong hai sản phẩm xuất khẩu hàng đầu của
Hoa Kỳ ra thị trƣờng thế giới, sau bông vải. Cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha và
thái độ trung lập của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất nhằm thu lợi từ hoạt
động buôn bán giữa hai phe Liên minh và Hiệp ƣớc đã tạo ra nhiều việc làm mới cho
ngƣời lao động và đẩy mức sống của ngƣời dân Hoa Kỳ lên mức cao hơn. Trong
Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hoa Kỳ đã bán cho các nƣớc Liên minh hơn 2 tỷ USD
thiết bị quân sự, giá trị thực phẩm và hàng tiêu dùng. Cũng chính từ những lợi ích
này đã làm cho vị thế của Hoa Kỳ không ngừng tăng lên. Hoa Kỳ đã trở thành nƣớc
giàu mạnh nhất sau cuộc chiến và và chủ nợ của các nƣớc đế quốc châu Âu. Trên cơ
sở đó, Hoa Kỳ đã buộc các nƣớc phải phụ thuộc kinh tế vào Mỹ và chuyển hóa sự
phụ thuộc ấy trong nhiều vấn đề quốc tế khác nhƣ việc thành lập Hội Quốc liên, ký
kết Hòa ƣớc Versailles sau chiến tranh hay buộc các nƣớc lớn trên thế giới nhƣ Anh,
Pháp, Nhật Bản, Italia phải chấp nhận những điều kiện của Hoa Kỳ trong Hội nghị
quốc tế ở Washington trong những năm 1921 – 1922.
Thứ hai, chính sách đối ngoại trong thời kỳ 1865 – 1918 đã hướng Hoa Kỳ
vào việc xây dựng một lực lượng hải quân lớn mạnh, hoàn thiện bộ máy quân sự,
góp phần tạo nên sức mạnh có tính răn đe của Hoa Kỳ. Sau cuộc Nội chiến, lực
lƣợng hải quân Mỹ chỉ đứng hàng thứ 12 trên thế giới, sau cả Thổ Nhĩ Kỳ, Trung
139
Quốc, Áo – Hung. Trong số 90 tàu chiến của Mỹ thời bấy giờ vẫn còn đến 38 chiếc
tàu vỏ gỗ [14; tr.60]. Để thực hiện thành công chiến lƣợc bành trƣớng thì trƣớc hết,
Mỹ phải nhanh chóng xây dựng một lực lƣợng hải quân vững mạnh và kiểm soát mặt
biển. Từ năm 1890, Mỹ mới bắt đầu chú trọng xây dựng một hạm đội tàu chiến lớn
để có thể chống đỡ chính sách tham vọng của các cƣờng quốc châu Âu. Sức mạnh
của “học thuyết hải quân mới” của Hoa Kỳ đƣợc khởi nguồn từ ý tƣởng của Đại úy
T.Mahan trong tác phẩm “Uy lực của sức mạnh biển cả đến lịch sử” (1890). Chính
Mahan đã kêu gọi Mỹ phải nhanh chóng xây dựng lực lƣợng hải quân hùng mạnh.
Nhận thấy tầm quan trọng của hải quân đối với quá trình bành trƣớng và sự hối thúc
bởi ý tƣởng của Mahan, trong suốt thập niên 90 của thế kỷ XIX, Hoa Kỳ đã tiến hành
đóng nhiều loại tàu tuần tra hạng nặng. Đến cuối thập niên 90, chƣơng trình xây
dựng lực lƣợng hải quân đã thành lập đƣợc một hạm đội tàu lớn gồm 17 chiếc tàu
chiến sƣờn thép, 6 chiếc tuần dƣơng hạm bọc thép và nhiều tàu hiện đại khác [68;
tr.722]. Chính lực lƣợng hải quân và thủy quân lục chiến Mỹ sau này đã can thiệp
trực tiếp vào Haiti, Santo Domingo, Cuba, Nicaragua và các nơi khác trong vùng
biển Caribbean để ngăn chặn sự can thiệp của các cƣờng quốc châu Âu. Vào năm
1902, trƣớc sự phong tỏa của Anh và Đức ở Venezuela, Hoa Kỳ đã điều động lực
lƣợng hải quân ở vùng biển Caribbean do Đô đốc George Dewey chỉ huy nhằm gây
áp lực với Anh và Đức.
Còn tại Viễn Đông, sau năm 1898, lực lƣợng hải quân Mỹ cũng đã đóng vai
trò quan trọng trong quá trình cạnh tranh với các cƣờng quốc khác ở Trung
Quốc. Việc đặt cơ sở hạm đội chính tại Vịnh Subic (Philippines) sẽ là bàn đạp giúp
Mỹ tiến vào bờ biển Trung Quốc nhằm khống chế lực lƣợng hải quân của các liệt
cƣờng châu Âu ở vùng biển phía Bắc châu Á.
Sau chiến thắng của Nhật Bản trong Chiến tranh Nga - Nhật (1904 -1905),
triển vọng hải quân của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dƣơng có sự thay đổi triệt để, nhất là
khi Nhật Bản trở thành một cƣờng quốc hùng mạnh, có thể làm tổn hại đến những lợi
ích của Mỹ tại khu vực châu Á. Năm 1907, Tổng thống Theodore Roosevelt ra lệnh
điều động 16 tàu chiến của Hạm đội Đại Tây Dƣơng sang Thái Bình Dƣơng. Điều
này đã chứng tỏ Hoa Kỳ sẽ tập trung sức mạnh vào Thái Bình Dƣơng, là chỉ dấu cho
Nhật Bản và thế giới thấy rằng Thái Bình Dƣơng là một khu vực mà hải quân Mỹ sẽ
đóng vai trò quan trọng. Trong các thời kỳ lịch sử sau đó, trên cơ sở vị thế quốc tế
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hoa Kỳ tiếp tục chiến lƣợc phát triển công nghiệp
140
quân sự và các binh chủng quan trọng khác của quân đội nhằm mục đích tạo nên sức
mạnh răn đe hiệu quả, phục vụ cho tham vọng bá chủ thế giới của đất nƣớc này.
Thứ ba, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 – 1918 đã tạo ra sự
tác động to lớn đến lâm lý – xã hội Hoa Kỳ, đưa đến sự hình thành “định mệnh
hiển nhiên“ rằng tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế là nhiệm vụ của Hoa Kỳ.
Điều đó cũng góp phần tạo nên đặc tính đối ngoại nƣớc lớn của Hoa Kỳ trong các
giai đoạn tiếp theo. Mặc dù chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đƣợc thiết lập trên cơ
sở sự thúc ép của tƣ tƣởng bành trƣớng trong xã hội Mỹ, song đến lƣợt nó, chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ lại càng làm cho tâm lý và tƣ tƣởng đế quốc mạnh mẽ và
trở thành “định mệnh hiển nhiên“ đối với nhiều tầng lớp xã hội Mỹ. Đây chính là sự
kết hợp song trùng và vô cùng hoàn hảo, góp phần tạo nên sự thành công trong chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ giai đoạn này. Trong thời gian Hoa Kỳ thực thi chính
sách “Mở cửa” Trung Quốc, mặc dù báo New York Journal of Commerce vốn đƣợc
xem là một tờ báo cổ vũ cho hòa bình, chống chủ nghĩa đế quốc và thúc đẩy việc
phát triển thƣơng mại trong một thế giới tự do buôn bán, nhƣng do “cơn sốt bành
trướng” đang bùng nổ mạnh mẽ ở Hoa Kỳ lúc bấy giờ, tờ báo này liền quay ngoắt
sang lập trƣờng ủng hộ Hoa Kỳ giành quyền lợi ở Trung Quốc, rằng “tự do tiếp cận
thị trường Trung Quốc có thể giải quyết được vấn đề sản phẩm dư thừa…” cho nền
kinh tế của nƣớc Mỹ. Từ sự thúc ép và ủng hộ của dƣ luận đối với các vấn đề quốc tế
gắn liền với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ nên ở Mỹ đã dần dần hình thành một
cung cách thiết lập chính sách đối ngoại thông qua việc “vận động hành lang“
(lobby) của giới chính trị Mỹ. Đây là một trong những hình thức thƣờng thấy trong
vận động chính sách đƣợc giới chính trị gia Hoa Kỳ sử dụng khi đề ra và thực thi các
chính sách đối ngoại cũng nhƣ thƣơng mại và nhiều vấn đề quan trọng khác.
4.3.2. Đối với các nƣớc chịu ảnh hƣởng của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ
4.3.2.1. Đối với các nƣớc Mỹ Latinh
Thứ nhất, những chính sách đối ngoại mà Hoa Kỳ thực thi từ sau Nội
chiến đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù biến khu vực Mỹ
Latinh thành thuộc địa kiểu mới song cũng đưa lại một số tác động tích cực đối
với các nước Mỹ Latinh. Với việc thực thi chính sách can thiệp trực tiếp vào Mỹ
Latinh, Hoa Kỳ đã nắm hầu hết các nguồn tài nguyên và kiểm soát việc buôn bán tại
khu vực này. Mía trồng của Cuba cũng ít nhiều nằm trong tay ngƣời Mỹ, hay nhƣ các
nguồn lợi khác của các nƣớc khu vực châu Mỹ Latinh cũng có sự tham gia của ngƣời
141
Mỹ nhƣ: thịt bò ở Argentina, cà phê ở Brazil... Hoa Kỳ tự cho phép mình coi vùng
biển Caribbean là “một Địa Trung Hải” của ngƣời Mỹ. Nguồn nguyên liệu và thị
trƣờng này là một động lực thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của công nghiệp Hoa Kỳ.
Điều đó giúp Hoa Kỳ ngày càng củng cố đƣợc tiềm lực, tăng cƣờng hơn nữa sức
mạnh của mình trƣớc, trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy vậy, những
chính sách và biện pháp mà Hoa Kỳ thực hiện tại Mỹ Latinh cũng đã làm cho nền
kinh tế của các quốc gia trong khu vực này cũng có những chuyển biến tích cực. Tại
Cuba, đã có khoảng 30 – 50 triệu USD của các nhà tƣ bản Mỹ đầu tƣ vào đồn điền và
hệ thống đƣờng sắt, khai thác mỏ và các hoạt động kinh doanh khác. Kim ngạch
thƣơng mại song phƣơng giữa Hoa Kỳ và Cuba năm 1889 chỉ khoảng 64 triệu USD
nhƣng đến năm 1893 đã tăng lên 103 triệu USD [75; tr.368]. Các hoạt động này cũng
đƣợc Hoa Kỳ tiến hành tƣơng tự đối với nhiều nƣớc ở Mỹ Latinh. Rõ ràng, những
con số nói trên ít nhiều có những tác động đến sự chuyển biến cơ cấu kinh tế, thay
đổi bộ mặt và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa (dù còn yếu ớt) của các nƣớc trong
khu vực Mỹ Latinh. Về góc độ chính trị, với tinh thần ―Liên Mỹ‖ thông qua cơ chế
Hội nghị Liên Mỹ, dù muốn dù không chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, Hoa Kỳ là
quốc gia khởi xƣớng cho ý tƣởng đó trở thành hiện thực bằng việc thành lập Liên
minh Pan – Mỹ vào năm 1889. Đây là tổ chức hợp tác về kinh tế đầu tiên ở khu vực
Mỹ Latinh và là tiền thân của Tổ chức các quốc gia châu Mỹ ngày nay – tổ chức
đóng vai trò thúc đẩy việc hợp tác và liên kết khu vực ở châu Mỹ.
Thứ hai, những chính sách đối ngoại mà Hoa Kỳ đã thực thi tại khu vực
Mỹ Latinh như “Cây gậy lớn”, “Ngoại giao dollar”, can thiệp trực tiếp vào Cuba,
Nicaragua hoặc Philippines… đã tạo nên tâm lý chống Mỹ, ghét Mỹ, làm nảy sinh
nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở nhiều
nước. Sự đấu tranh ấy của nhân dân các nƣớc chịu sự chi phối của Hoa Kỳ đã buộc
giới cầm quyền Mỹ phải thay đổi chính sách cho phù hợp. Chính sự can thiệp, thâu
tóm về kinh tế và gia tăng ảnh hƣởng thông qua các tập đoàn, các công ty Mỹ đã làm
xuất hiện cao trào đấu tranh của công nhân các nƣớc Mỹ Latinh nhƣ ở
Argentina, riêng năm 1919 đã diễn ra 367 cuộc bãi công với 306.000 ngƣời tham gia.
Ở Brazil, làn sóng bãi công tiếp diễn trong suốt năm 1920 đã buộc chính phủ phải có
một số nhƣợng bộ (nhƣ thực hiện chế độ ngày làm 8 giờ và nâng cao tiền lƣơng cho
công nhân). Còn tại Cuba, do chính sách can thiệp trực tiếp trên mọi phƣơng diện
của Hoa Kỳ tại quốc đảo này đã làm cho tƣ tƣởng chống Mỹ dâng cao, tạo ra một thế
142
hệ lãnh đạo phong trào chống Mỹ tại Cuba trong những năm 50, 60 của thế kỷ XX
nhƣ Che Guevara, Fidel Castro. Ở các nƣớc Mỹ Latinh khác, chính đảng vô sản và
các tổ chức công đoàn lần lƣợt đƣợc thành lập nhằm lãnh đạo phong trào công nhân
và nhân dân lao động chống đế quốc Mỹ và các lực lƣợng thân Mỹ ở trong nƣớc.
4.3.2.2. Đối với các nƣớc châu Á
Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ 1865 – 1918 đã
làm cho một số nước ở châu Á đã trở thành thuộc địa kiểu mới hoặc phụ thuộc
vào Hoa Kỳ. Philippines chính là dẫn chứng tiêu biểu nhất cho nhận định này. Sau
khi giành đƣợc thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, Hoa Kỳ có đƣợc
những thuộc địa đầu tiên nhƣ Puerto Rico, Guam. Tại châu Á, Hoa Kỳ đã trả cho
Tây Ban Nha 20 triệu USD để nƣớc này nhƣợng lại Philippines. Nhƣ vậy,
Philippines từ chỗ là thuộc địa của Tây Ban Nha dần biến thành thuộc địa kiểu mới
của Hoa Kỳ. Mặc dù cho phép Philippines đƣợc lập Hội đồng lập pháp (1902) nhƣng
hệ thống chính quyền của nƣớc này vẫn thuộc quyền kiểm soát của Mỹ. Những năm
sau đó, Hoa Kỳ tiếp tục áp dụng nhiều phƣơng cách nhằm chinh phục ngƣời
Philippines bằng cách đƣa ra luật cải cách đất đai, lập chính quyền tự trị địa phƣơng
và cải thiện các điều kiện giáo dục. Đến năm 1935, Hoa Kỳ cho Philippines đƣợc
hƣởng quy chế độc lập dƣới hình thức Khối Thịnh vƣợng chung (Commonwealth)
trong thời hạn 10 năm thông qua Đạo luật Tydings – McDuffie (năm 1934). Theo đó,
sẽ thiết lập một chính quyền tự quản tại Philippines do Tổng thống Manuel L.Quezon
đứng đầu nhƣng mọi quyền quyết định về an ninh, quốc phòng, ngoại giao, kinh tế
vẫn do Mỹ nắm. Philippines chỉ thoát khỏi tình trạng nô dịch của Hoa Kỳ khi nƣớc
này đƣợc Quốc hội Hoa Kỳ công nhận độc lập vào ngày 4/7/1946.
Còn tại Trung Quốc, chính sách “Mở cửa“ đã đƣa đến cho Hoa Kỳ những lợi
ích vô cùng to lớn tại quốc gia đông dân nhất thế giới này nhƣng trái lại, nó đã làm
cho tình hình Trung Quốc ngày càng thêm phức tạp. Mở đầu Công hàm “Mở cửa“,
Ngoại trƣởng J.Hay đã khẳng định rằng: “thừa nhận việc các cường quốc không
được dùng bất kỳ phương thức nào can thiệp với bất kỳ hải cảng mở hay bất kỳ
quyền được thụ hưởng trong bất cứ phạm vi lãnh thổ thuê mướn nào hay những vùng
được gọi là “phạm vi ảnh hưởng” thuộc Trung Quốc“ [77; tr.484 – 485]. Đi sâu
phân tích ở điểm này, chúng ta có thể thấy đƣợc rằng mong muốn của Hoa Kỳ là các
cƣờng quốc châu Âu không đƣợc mở rộng thêm “phạm vi ảnh hưởng“ của mình ở
Trung Quốc, hay nói cách khác đi là không đƣợc xâm phạm thêm lãnh thổ đang
143
thuộc quyền quản lý của nhà Thanh. Tuy nhiên, những kiến nghị của John Hay đều
chỉ nhằm vào những quyền lợi của Hoa Kỳ tại Trung Quốc. Những lời lẽ trong công
hàm “Mở cửa“ mang đầy tính thực dụng của giới chính khách Mỹ, “thừa nhận“ sự
độc lập của Trung Quốc song trên thực tế là mở đƣờng cho Hoa Kỳ vào thị trƣờng
rộng lớn này. Nhƣ vậy, việc tuyên bố Công hàm “Mở cửa“ của Ngoại trƣởng J.Hay
đã góp một phần không nhỏ làm cho tình hình Trung Quốc ngày càng rối ren, “chiếc
bánh ngọt Trung Quốc“ đã bị chia năm xẻ bảy giờ lại phải cắt thêm một phần cho
Hoa Kỳ. Sau khi chính sách “Mở cửa“ đƣợc đề xuất, liên tiếp là những cuộc khởi
nghĩa của nhân dân Trung Quốc bùng nổ, đặc biệt vào năm 1900, nổ ra phong trào
Nghĩa Hòa Đoàn buộc nhà Thanh phải cầu cứu sự giúp sức của liên quân Tám nƣớc
(Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nga, Italia, Áo và Hoa Kỳ).
Thứ hai, sự lớn mạnh của Nhật Bản từ giữa thế kỷ XIX có nguyên do từ
cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân mà nước này đã thực hiện song sự lớn mạnh ấy
nếu không có sự giúp sức từ Hoa Kỳ thì không thể hoàn thiện được. Điều này đƣợc
minh chứng rõ ràng thông qua 3 cuộc chiến tranh mà Nhật Bản tiến hành. Với tƣ cách
là “người“ làm vai trò trung gian hòa giải (trong thực tế, Mỹ thông qua vai trò này
nhằm tìm kiếm những lợi ích về thƣơng mại tại khu vực châu Á), Hoa Kỳ đã góp phần
tiếp tay cho Nhật Bản thực thi chính sách bành trƣớng tại Đông Á của họ. Đầu tiên,
cuộc chiến tranh với Đài Loan vào năm 1874 đã đƣa đến cho Nhật Bản nhiều quyền
lợi tại hòn đảo này sau khi ký kết Hiệp ƣớc Bắc Kinh (tháng 10/1874). Chính Đại biện
lâm thời Mỹ ở Bắc Kinh S.W.William đã có công rất lớn trong việc ký kết hiệp ƣớc
này. Trong cuộc chiến tranh Trung – Nhật (1894 - 1895), chính việc tạo điều kiện cho
gián điệp Nhật Bản hoạt động hay che giấu những hành động tàn bạo của ngƣời Nhật
của Hoa Kỳ đã góp phần vào chiến thắng của nƣớc này trƣớc triều đình Mãn Thanh.
Khi cuộc chiến tranh này kết thúc, cùng chính ngƣời Mỹ đã đứng ra làm trung gian
hòa giải để Nhật Bản và nhà Thanh ký Hiệp ƣớc Shimonoseki (tháng 4/1895), đƣa đến
cho nƣớc Nhật hai vùng lãnh thổ Triều Tiên và Đài Loan. Còn trong cuộc chiến tranh
Nga – Nhật (1904 – 1905), với vai trò “nghị hòa“ của Hoa Kỳ, Hòa ƣớc Portsmouth
đƣợc ký kết vào ngày 5/9/1905, đƣa lại cho Nhật Bản tất cả quyền lợi của Nga ở bán
đảo Liêu Đông, quyền quản lý và kinh doanh tuyến đƣờng sắt Nam Mãn Châu, vùng
Nam đảo Sakhalin và đƣợc toàn quyền hành động ở Triều Tiên. Nhƣ vậy, mặc dù
không mong muốn sự lớn mạnh của Nhật Bản song Hoa Kỳ buộc phải chấp nhận sự
thực đó, chí ít là trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Những
144
ham muốn về lợi ích to lớn mà ngƣời Mỹ nhìn thấy ở châu Á sẽ khó mà thực hiện
đƣợc trong bối cảnh sau cuộc Nội chiến, Hoa Kỳ chƣa đủ tiềm lực để có thể bành
trƣớng nhiều hơn sang châu lục này. Do vậy, việc hợp tác theo kiểu “cộng sinh“, cùng
có lợi với Nhật Bản đã trở thành sách lƣợc của Hoa Kỳ trong giai đoạn này nhằm tạo
dựng cho mình một chỗ đứng, dù chƣa thật sự vững vàng tại khu vực châu Á. “Sự
dung dưỡng“ (không nằm trong ý muốn) của Hoa Kỳ đối với những hành động bành
trƣớng của Nhật Bản trong giai đoạn từ sau Nội chiến đến những năm đầu của thế kỷ
XX sẽ khiến Mỹ phải trả giá trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 –
1945), đặc biệt là sự kiện Nhật Bản đánh úp căn cứ hải quân của Mỹ ở Trân Châu
Cảng và tấn công nhƣ vũ bão vào quân Mỹ - Anh và Hà Lan trong những năm đầu của
Chiến tranh thế giới thứ hai tại khu vực Thái Bình Dƣơng.
4.3.2.3. Đối với các nƣớc châu Âu
Thứ nhất, sự có mặt của Hoa Kỳ với vị thế là một cường quốc đã tạo ra
những thay đổi quan trọng trong quan hệ quốc tế những năm cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha vào năm 1898,
Hoa Kỳ đã giành đƣợc những lợi ích to lớn, lần đầu tiên sở hữu thuộc địa. Hoa Kỳ lúc
này trở thành một đế quốc đầy đủ trong con mắt của thế giới. Những chính sách đối
ngoại mà Hoa Kỳ thực thi ở khu vực Mỹ Latinh, CA-TBD và trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất bƣớc đầu đã làm cho trật tự cũ đƣợc tạo lập bởi các cƣờng quốc châu Âu
dần đi đến sự phá vỡ. Các cƣờng quốc châu Âu giờ đây chí ít phải tính đến yếu tố Hoa
Kỳ khi thực thi một chính sách hay chiến lƣợc đối ngoại nào đó. Tây Ban Nha sau thất
bại trong chiến tranh với Hoa Kỳ đã không còn giữ đƣợc vị trí nhƣ trƣớc nữa. Phần lớn
khu vực Mỹ Latinh vốn là thị trƣờng và nằm trong phạm vi ảnh hƣởng truyền thống
của Tây Ban Nha nay đã chuyển sang cho Hoa Kỳ. Đƣợc sự cổ súy sau chiến thắng
trƣớc Tây Ban Nha, đặc biệt là điều khoản nhƣợng lại Philippines đã trở thành bàn đạp
cho Mỹ tiến sang CA-TBD. Năm 1899, chính sách “Mở cửa” Trung Quốc ra đời đã
đƣa Mỹ trở thành một trong những nhân vật chính trong cuộc đua với các cƣờng quốc
châu Âu tại khu vực CA-TBD, nơi vốn đƣợc coi là khu vực ảnh hƣởng truyền thống
của các cƣờng quốc này. Lần đầu tiên, Hoa Kỳ đã buộc các cƣờng quốc mạnh phải
thừa nhận quyền lợi và vị trí của mình tại khu vực mang tính sống còn, đặc biệt là
Nhật Bản đã phải luôn luôn tính đến nhân tố Hoa Kỳ trong các tính toán chiến lƣợc
của họ tại CA-TBD. Còn trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, sự tham chiến của Mỹ đã
đóng vai trò quyết định dẫn đến sự thất bại của phe Hiệp ƣớc. Mặc dù Chƣơng trình 14
145
điểm của Tổng thống Wilson (đƣợc xem là quan điểm chính thức của Hoa Kỳ) và các
hiệp ƣớc ký kết tại Hội nghị Versailles không đƣợc Thƣợng viện phê chuẩn song qua
đây cũng chứng tỏ đƣợc vị thế và vai trò của Mỹ đối với các vấn đề quốc tế. Những
kết quả đạt đƣợc từ việc thực thi chính sách đối ngoại giai đoạn 1865 – 1918 sẽ là tiền
đề quan trọng để Hoa Kỳ vƣơn lên trở thành một trong hai siêu cƣờng duy nhất (cùng
với Liên Xô) sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thứ hai, trong quan hệ với nước Anh – đế quốc số một thế giới thời kỳ này,
Hoa Kỳ đã từng bước giành được những lợi ích quan trọng tại những khu vực
thuộc phạm vi ảnh hưởng của Anh, làm cho ảnh hưởng của Anh trên nhiều khu
vực dần dần giảm sút. Đầu tiên, trong vấn đề tàu lớp Alabama, Hoa Kỳ đã buộc Anh
phải bồi thƣờng 15,5 triệu USD cho những thiệt hại về nhân mạng và tài sản của các
thƣơng thuyền Mỹ trong cuộc Nội chiến Nam – Bắc. Còn trong vấn đề giải quyết
tranh chấp biên giới giữa Venezuela và Guyana, sau khi nhận đƣợc những yêu cầu từ
Venezuela, Hoa Kỳ đã yêu cầu Anh tham gia vào phân xử theo Học thuyết Monroe.
Tuy nhiên, lúc đầu Anh đã từ chối thẳng thừng đề nghị này của Hoa Kỳ. Về phía
Hoa Kỳ, nƣớc này nhận thấy rõ rằng nếu Anh giành đƣợc chiến thắng trong vụ tranh
chấp với Venezuela thì nƣớc này sẽ kiểm soát hoàn toàn sông Orionco và giành đƣợc
nhiều quyền lợi về buôn bán trong lƣu vực con sông này. Điều này gây ra nhiều hệ
lụy đối với nền thƣơng mại Mỹ đang ngày một phát triển tại khu vực Mỹ Latinh.
Trƣớc sự phản đối của Anh, Tổng thống Cleveland đã nói rằng, nếu Anh từ chối
phân xử, Hoa Kỳ sẽ áp đặt một đƣờng biên giới và giữ vững nó bằng các biện pháp
quân sự nếu cần thiết. Cuối cùng, năm 1899, dƣới những áp lực từ Hoa Kỳ, Anh đã
buộc phải đồng ý phân xử. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn buộc Anh phải nhƣợng bộ nhiều
quyền lợi khác tại biển Bering, Alaska...
Tiểu kết chƣơng 3.
Việc thực thi chính sách đối ngoại từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1865 – 1918) đã tạo ra cho Hoa Kỳ những thành tựu vô cùng to
lớn, đƣa nƣớc Mỹ từ chỗ chịu sự chi phối của các cƣờng quốc lớn đến chỗ chi phối
quan hệ quốc tế trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Để có đƣợc điều
đó, Hoa Kỳ đã luôn luôn thay đổi chiến lƣợc, sách lƣợc ngoại giao một cách đa dạng,
linh hoạt, thực dụng song mục tiêu và lợi ích hƣớng đến của các chính sách là không
bao giờ thay đổi. Đặc điểm này vẫn còn hiện diện trong nền ngoại giao Hoa Kỳ cho
đến tận ngày nay với nguyên ý nghĩa và giá trị của nó.
146
KẾT LUẬN
Từ những điều trình bày ở trên về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội
chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1865 – 1918), chúng tôi có thế rút
ra một số kết luận nhƣ sau:
1. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong 53 năm (1865 – 1918) luôn nhằm
mục tiêu xuyên suốt là hƣớng đến việc hiện thực hóa tham vọng bành trƣớng, mở
rộng ảnh hƣởng của Hoa Kỳ ra thế giới xung quanh. Dƣới tác động của nhiều nhân tố
nhƣ thực lực bên trong và hoàn cảnh lịch sử bên ngoài, chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đã đƣợc điều chỉnh cho phù hợp và đạt đƣợc những kết quả ở mức độ khác nhau.
Trong giai đoạn 1865 – 1898, khi thực lực bên trong chƣa đủ mạnh, Hoa Kỳ
mới chỉ dừng lại ở việc tiếp nối, mở rộng và làm sâu sắc hơn Học thuyết Monroe
đƣợc đề xƣớng trƣớc đó (1823). Hoa Kỳ đã từng bƣớc thể hiện vị thế một cách rõ
ràng hơn trƣớc các cƣờng quốc châu Âu, phản đối sự can thiệp của họ vào khu vực
Mỹ Latinh một cách thực chất hơn và không còn mang tính phòng vệ nhƣ trƣớc, nhƣ:
ép Pháp phải rút quân ra khỏi Mexico năm 1867; buộc Anh phải có sự nhƣợng bộ
nhất định trong tranh chấp lãnh thổ giữa Venezuela và Guyana; tập hợp lực lƣợng,
quy tụ các nƣớc Mỹ Latinh vào quỹ đạo chi phối của Hoa Kỳ bằng cách thành lập
Liên minh Pan – Mỹ vào năm 1889. Còn tại châu Á, chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với khu vực này mới chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm những lợi ích về thƣơng
mại chứ chƣa có hành động nào đáng kể để có thể thiết lập phạm vi ảnh hƣởng tại
đây.
Bƣớc sang giai đoạn 1898 – 1918, đặc biệt là thắng lợi của Hoa Kỳ trong cuộc
chiến tranh với Tây Ban Nha (1898) đã tạo ra cơ sở và vị thế vô cùng quan trong cho
tham vọng vƣơn đến quyền lực thế giới của Hoa Kỳ. Từ đây, Hoa Kỳ - một đế quốc
mới xuất hiện, bắt đầu tham gia vào quá trình bành trƣớng, tranh đoạt thị trƣờng thế
giới vốn rất sôi động trong thời điểm này. Tại khu vực Mỹ Latinh, Hoa Kỳ đã thể
hiện thực lực mạnh mẽ hơn bằng việc thực thi chính sách “Cây gậy lớn” và “Ngoại
giao dollar”, gắn Tu chính án Platt vào Hiến pháp Cuba và một loạt các hành động
can thiệp quân sự vào nhiều nƣớc ở khu vực Mỹ Latinh khác, thực sự biến khu vực
Mỹ Latinh thành “sân sau”. Tại châu Á, Hoa Kỳ gia tăng sự ảnh hƣởng sau khi
chiếm đƣợc Philippines từ tay Tây Ban Nha, đòi hỏi quyền lợi ngang bằng trong
thƣơng mại, chính trị…với các cƣờng quốc khác ở Trung Quốc thông qua chính sách
147
“Mở cửa” (1899). Đối với Nhật Bản, Hoa Kỳ đóng vai trò không chỉ là “người hòa
giải” để có thể kiếm chác một vài lợi ích về cho mình mà còn tìm cách ngăn chặn thế
lực đang lên này. Đối với các cƣờng quốc châu Âu, đặc biệt là Anh, Hoa Kỳ cũng đã
tỏ rõ đƣợc sức mạnh, nhiều vấn đề buộc Anh phải nhƣợng bộ… Kết quả cuối cùng
của việc thi hành chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1865 – 1918 đã
tạo ra cho Hoa Kỳ một vị thế quốc tế mới: Hoa Kỳ thực sự trở thành một cƣờng quốc
mạnh mẽ, tham gia hoạch định các cơ chế quan hệ quốc tế và trở thành một trong
những nƣớc có ảnh hƣởng lớn đến hòa bình, an ninh và ổn định của thế giới.
2. Dù ở bất cứ thời kỳ nào, mục đích chiến lƣợc trong chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ là lợi ích quốc gia trên hết. Đây là đích nhắm xuyên suốt, không bao giờ
thay đổi cho dù sách lƣợc ngoại giao của Hoa Kỳ luôn luôn thay đổi cho phù hợp với
tình hình. Thực tế phát triển của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ qua các giai đoạn 1865
– 1898 và 1898 – 1918 đã cho thấy điều này. Khi điều kiện chƣa cho phép, nhất là
khi sức mạnh quốc gia chƣa đủ mạnh và hoàn cảnh bên ngoài chƣa thuận lợi, Hoa
Kỳ không vội vàng trong việc mở rộng ảnh hƣởng ra quá xa mà chỉ tập trung vào các
khu vực có lợi ích chiến lƣợc, phù hợp với Hoa Kỳ vào thời điểm ấy nhƣ khu vực
Mỹ Latinh. Sau khi giành chiến thắng trong chiến tranh vơi Tây Ban Nha (1898),
Hoa Kỳ bƣớc ra khỏi cuộc chiến này với tƣ cách là nƣớc thắng trận, cộng với sức
mạnh kinh tế thƣơng mại và quân sự, Hoa Kỳ đã đẩy mạnh sự can dự một cách thực
chất ra các khu vực khác xa hơn nhƣ châu Á và châu Âu bằng các hành động cụ thể
nhƣ đã phân tích ở trên. Điều này cũng thể hiện một đặc điểm xuyên suốt trong lịch
sử ngoại giao Hoa Kỳ: sách lƣợc đối ngoại luôn luôn linh hoạt nhƣng mục đích đối
ngoại không bao giờ thay đổi – đó chính là lợi ích quốc gia, lợi ích của giai cấp tƣ
sản Hoa Kỳ trên trên bình diện thế giới.
3. Trong quá trình đề ra và thực thi chính sách đối ngoại thời kỳ 1865 – 1918,
Hoa Kỳ luôn luôn chiếm ƣu thế trong tƣơng quan với các nƣớc chịu sự chi phối
chính sách của Hoa Kỳ. Điều này xuất phát từ thực tế Hoa Kỳ hầu nhƣ là nƣớc có
sức mạnh lớn hơn các nƣớc khác khi xét về các phƣơng diện nhƣ tiềm lực kinh tế
thƣơng mại, tiềm lực quân sự, diện tích lãnh thổ, dân số, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
chiến lƣợc và vị thế của Hoa Kỳ trong quan hệ quốc tế. Do vậy, các chính sách đối
ngoại mà Hoa Kỳ đƣa ra đều có thiên hƣớng áp đặt, ép buộc các nƣớc phải chấp
nhận dù không mong muốn, nhƣ trƣờng hợp Cuba, các nƣớc Mỹ Latinh, “Mở cửa”
Trung Quốc,… Tuy nhiên, trong một vài trƣờng hợp, Hoa Kỳ không phải lúc nào
148
cũng sử dụng sức mạnh của mình để áp chế các nƣớc khác mà phải tôn trọng và thừa
nhận vị thế của Anh hoặc phần nào đó là Nhật Bản trong giải quyết các vấn đề tranh
chấp lẫn nhau.
4. Về mặt cấp độ, trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời kỳ 1865 –
1918, Mỹ Latinh đƣợc chính giới Hoa Kỳ xác định là khu vực mang lợi ích cốt lõi.
Hoa Kỳ luôn quan tâm và tìm mọi biện pháp để đảm bảo cho Mỹ Latinh luôn là “sân
sau” của họ. Khi thực lực ngày càng tăng, Hoa Kỳ tìm cách gia tăng phạm vi ảnh
hƣởng đến các khu vực khác mà trƣớc hết là ở châu Á, nơi chứa đựng nhiều nguồn
lợi về thị trƣờng cho nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của Hoa Kỳ sau Nội chiến.
Trên cơ sở khẳng định sức mạnh ở các khu vực cận biên, Hoa Kỳ đẩy mạnh sự can
dự vào khu vực châu Âu, tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế lớn ở châu lục này
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, đến thời điểm sau 1918, Hoa Kỳ vẫn
chƣa đủ sức để khuynh loát các nƣớc tại đây.
5. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1865 – 1918) mang đậm dấu ấn của các vị tổng thống cũng nhƣ các
cá nhân phụ trách hoạt động ngoại giao – những ngƣời có tác động sâu sắc đến việc
định hình chính sách đối ngoại. Trong thời kỳ 1865 – 1918, hầu hết các tổng thống
lên cầm quyền đều đã đề ra những chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế phát triển
và những lợi ích quốc gia - dân tộc cần đạt đến, nhƣ Tổng thống T.Roosevelt đề ra
chính sách “Cây gậy lớn”, W. Taft đƣa ra chính sách “Ngoại giao Dollar”,
W.Wilson với Chƣơng trình 14 điểm…
Nếu ở Mỹ Latinh, các tổng thống Mỹ là những ngƣời có tầm ảnh hƣởng rất
lớn đối với các chiến lƣợc và chính sách đối ngoại thì ở châu Á lại có một điểm đặc
biệt, đó là sự đóng góp của các nhà ngoại giao và cố vấn Mỹ. Trong cuộc chiến tranh
xâm lƣợc Đài Loan vào năm 1874, Tƣớng Charles Legendre – Cố vấn Bộ Ngoại giao
Nhật Bản đã có những đóng góp trong việc vạch ra kế hoạch tác chiến cho quân đội
Nhật. Sau khi cuộc chiến này kết thúc, Đại biện lâm thời Mỹ tại Bắc Kinh
S.W.William chính là ngƣời làm trung gian hòa bình để Nhật và Trung Quốc ký kết
Hiệp ƣớc Bắc Kinh (tháng 10/1874) với nhiều điều khoản có lợi cho Nhật. Còn trong
cuộc xung đột Pháp – Thanh liên quan đến Việt Nam, mặc dù Mỹ đã không thành
công trong vai trò nghị hòa nhƣng Đại biện lâm thời Mỹ tại Bắc Kinh John Rusell
Young chính là ngƣời góp công lớn cho những nỗ lực này của Mỹ. Còn tại Xiêm, Cố
149
vấn Mỹ Edward H.Strobel cũng đã đóng vai trò quan trọng, dẫn đến việc ký kết Hiệp
ƣớc Pháp – Xiêm vào năm 1907….
6. Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, những thực tế lịch sử từ chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn đƣợc đề cập vẫn luôn là những bài học lịch sử
có ý nghĩa đối với các nƣớc trong quan hệ với siêu cƣờng này. Đối với Hoa Kỳ, để
đảm bảo lợi ích quốc gia, ngƣời Mỹ luôn thay đổi phƣơng cách đạt đến và không từ
một biện pháp nào (linh hoạt, hai mặt…) nhằm đảo bảo lợi ích lớn nhất – điều không
bao giờ thay đổi cho dù nền chính trị Hoa Kỳ đƣợc lãnh đạo bởi bất cứ đảng phái
nào. Vì vậy, trong bối cảnh quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ hiện tại,
bên cạnh việc tận dụng những thế mạnh, vị thế mà Hoa Kỳ đƣa lại, Việt Nam cũng
cần hết sức tỉnh táo để không bị lệ thuộc một chiều vào Hoa Kỳ nhằm đảm bảo sự
phát triển ổn định trên cơ sở độc lập, tự chủ, cùng tôn trọng lẫn nhau.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Dƣơng Quang Hiệp (2009), ―Chính sách của Mỹ trong quan hệ với Pháp thời kỳ
1789 – 1815‖, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 10(139), ISSN 0868-3654.
2. Dƣơng Quang Hiệp (2010), ―Nền tảng của việc bành trƣớng ra thế giới của nƣớc
Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX‖, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số
07(148), ISSN 0868-3654.
3. Dƣơng Quang Hiệp (2011), ―Nền tảng của việc bành trƣớng ra thế giới của Hoa
Kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX‖, trong sách Các vấn đề nghiên cứu
về Hoa Kỳ, Nxb.Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
4. Dƣơng Quang Hiệp (2014), ―Từ chính sách mở cửa Trung Quốc hiểu thêm về tính
thực dụng trong chính sách đối ngoại của Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX‖, trong
sách Những khía cạnh lịch sử - văn hóa Việt Nam và thế giới, (tái bản lần thứ ba),
Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Dƣơng Quang Hiệp (2014), ―Chính sách của Mỹ đối với Cuba qua Tu chính án
Platt (1901-1934)‖, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 04(193), ISSN 0868-3654.
6. Dƣơng Quang Hiệp (2014), ―Vị trí chiến lƣợc của Philippines trong chính sách đối
ngoại của Mỹ giai đoạn 1898 - 1991‖, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số
10(23), ISSN 0866-7314.
7. Dƣơng Quang Hiệp (2014), ―Chính sách can thiệp của Mỹ đối với khu vực Mỹ
Latinh trong ba thập niên đầu thế kỷ XX‖, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trƣờng
Đại học Khoa học Huế, số 2(2014), ISSN 2354-0850.
8. Dƣơng Quang Hiệp (2015), ―Chính sách can thiệp của Mỹ đối với khu vực Mỹ
Latinh trong ba thập niên đầu thế kỷ XX‖, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 06(207),
ISSN 2354-0745.
9. Dƣơng Quang Hiệp (2016), ―Các cuộc phân xử bằng phƣơng thức trọng tài trong
quan hệ Hoa Kỳ - Anh những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX‖, Tạp chí Khoa
học Đại học Huế (Giấy xác nhận đăng trong chuyên san Khoa học Xã hội Nhân văn
năm 2016, ngày 8/6/2016 của Tạp chí Khoa học – Đại học Huế).
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Michel Beaud (2002), “Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ 1500 đến 2000”, Nxb.Thế
giới, Hà Nội.
2. Fernand Braudel (2004), “Tìm hiểu các nền văn minh trên thế giới”, Nxb.Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
3. Hồ Châu (1996), ―Vấn đề nợ nƣớc ngoài của các nƣớc Mỹ Latinh‖, Châu Mỹ ngày
nay, số 1.
4. Vƣơng Kính Chi (2000), “Lược sử nước Mỹ”, Nxb.Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
5. Noam Chomsky (1995), “Chú Sam thực sự muốn gì”, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
6. Cao Minh Chơng (1998), ―Cuộc chiến tranh Philippin (1896 - 1898) – một trăm
năm nhìn lại‖, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1.
7. Cao Minh Chơng (1998), ―Cuộc chiến tranh Philippin – Mỹ 1899 – 1903‖, Nghiên
cứu Đông Nam Á, số 3.
8. Howard Cincotta (2000), “Khái quát về lịch sử nước Mỹ”, bản dịch (Lƣu tại Đại
sứ quán Hoa Kỳ).
9. Pam Cornelison, Ted Yanak (2005), “Những sự kiện lớn trong lịch sử Hoa Kỳ”,
Nxb.Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
10. Cơ quan Thông tin Mỹ (2006), “Lược sử nước Mỹ”, Nxb.Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh.
11. William A. Degregorio (1998), “42 đời tổng thống Hoa Kỳ”, Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Robert B.Downs (2003), “Những tác phẩm biến đổi thế giới”, Nxb.Lao động, Hà
Nội.
13. Nguyễn Ngọc Dung (2008), ―Những chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của
Hoa Kỳ giai đoạn 1870 – 1900‖, Châu Mỹ ngày nay, số 4.
14. Nguyễn Ngọc Dung (2010), ―Những cơ sở phát triển chủ nghĩa quốc gia – dân tộc
Mỹ từ sau Nội chiến đến trƣớc Chiến tranh thế giới lần I‖, Châu Mỹ ngày nay, số 3.
152
15. Duroselle J.B (1994), “Lịch sử ngoại giao từ 1919 đến nay”, Học viện Quan hệ
quốc tế, Hà Nội.
16. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại
sứ quán Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Phòng Thông tin Văn hóa (2003), “Tiếp cận
nghiên cứu Hoa Kỳ học và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
quốc tế, Hà Nội.
17. Hoàng Thị Điệp (1983), “Châu Mỹ Latinh và chính sách của Mỹ trong thời lịch
sử cận đại”, Luận văn Thạc sĩ sử học, Đại học Sƣ phạm Hà Nội I.
18. Vƣơng Hiểu Đức (2001), ―Một số suy nghĩ về chủ nghĩa cô lập trong lịch sử
nƣớc Mỹ‖ Châu Mỹ ngày nay, số 4.
19. Fabían Escalande (2004), “Fidel – Cuộc đối đầu 10 đời tổng thống Mỹ và những
âm mưu ám sát của CIA”, Nxb.Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Jean-Pierre Fichou (1999), “Văn minh Hoa Kỳ”, Nxb.Thế giới, Hà Nội.
21. Eric Foner (2003), “Lịch sử mới của nước Mỹ”, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Eric Foner (2009), “Lược sử nước Mỹ thời kỳ Tái thiết 1863 – 1877”, Nxb.Khoa
học xã hội, Hà Nội.
23. Lê Thu Hằng (1999), ―Xu hƣớng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong lịch
sử‖, Châu Mỹ ngày nay, số 5.
24. Học viện nghiên cứu Mexico (2005), “Lịch sử giản yếu Mexico”, Nxb.Thế giới,
Hà Nội.
25. Nguyễn Quốc Hùng (1995), ―Franklin D.Roosevelt và Chiến tranh thế giới thứ II
(1939 – 1945)‖, Châu Mỹ ngày nay, số 2.
26. Lê Quang Huy (2000), “Đôi điều cần biết về nước Mỹ”, Nxb.Thành phố Hồ Chí
Minh.
27. Nguyễn Lan Hƣơng (2006), ―Tóm tắt chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với Mỹ
Latinh từ Tổng thống F.D.Roosevelt cho tới Tổng thống William Jefferson Clinton‖,
Châu Mỹ ngày nay, số 10.
28. Nguyễn Lan Hƣơng (2008), ―Nguồn gốc lịch sử của Học thuyết ―Sứ mệnh bành
trƣớng‖ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ‖, Châu Mỹ ngày nay, số 10.
29. Nguyễn Lan Hƣơng (2008), ―Các luận điểm và biểu hiện của Học thuyết ―Sứ mệnh
bành trƣớng‖ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ‖, Châu Mỹ ngày nay, số 11.
153
30. Nguyễn Thái Yên Hƣơng (2001), ―Văn hóa Mỹ và việc hình thành chính sách đối
ngoại Mỹ‖, Châu Mỹ ngày nay, số 11.
31. Nguyễn Thái Yên Hƣơng (2003), “Quá trình hình thành liên bang Mỹ và những
đặc điểm xã hội, văn hóa Mỹ”, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học
Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
32. Nguyễn Thái Yên Hƣơng (Cb) (2005), “Can thiệp nhân đạo trong chính sách đối
ngoại của Mỹ”, Nxb.Thế giới, Hà Nội.
33. Nguyễn Thái Yên Hƣơng, Đỗ Minh Tuấn (Cb) (2011), “Các vấn đề nghiên cứu
về Hoa Kỳ”, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
34. Bruce W. Jentleson (2004), ―Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ - Động cơ lựa
chọn trong thế kỉ XXI”, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Paul Kennedy (1992), “Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc”,
Nxb.Thông tin lý luận, Hà Nội.
36. Lý Thắng Khải (2004), “Nội tình 200 năm Nhà Trắng”, Nxb.Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
37. Henry Kissinger (1997), “Những vấn đề trung tâm trong đường lối đối ngoại của
Mỹ”, Bản dịch tiếng Việt lƣu tại Thƣ viện Quân đội.
38. Văn Lạc (1963), ―Quá trình xâm lƣợc của Mỹ vào Cuba từ hơn một thế kỷ nay―,
Nghiên cứu lịch sử, số 47.
39. Phạm Quang Minh (2014), “Quan hệ quốc tế ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương”, Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
40. Angélica Montes (2008), ―Sức mạnh Mỹ tại Mỹ Latinh: Từ Học thuyết Monroe
đến việc kiểm soát kênh đào Panama‖, Châu Mỹ ngày nay, số 12.
41. Phạm Xuân Nam (1968), ―Một trăm năm đấu tranh vì độc lập tự do của nhân dân
Cuba anh hùng‖, Nghiên cứu lịch sử, số 115.
42. Nguyễn Thị Nga (2004), ―Chủ nghĩa biệt lệ trong chính sách đối ngoại Mỹ‖
Châu Mỹ ngày nay, 3(72).
43. Phạm Thu Nga (2002), “Quan hệ Việt – Mỹ 1939 – 1945”, Nxb.Đại học Quốc
gia Hà Nội.
44. Nguyễn Nghị - Lê Minh Đức (1994), “Lịch sử nước Mỹ”, Nxb.Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
154
45. Hữu Ngọc (2006), “Hồ sơ văn hóa Mỹ”, Nxb.Thế giới, Hà Nội.
46. Niên biểu sự kiện lịch sử Hoa Kỳ giai đoạn 1900 – 1949, Bản tiếng Anh lƣu tại
Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội.
47. Vũ Dƣơng Ninh, Nguyễn Văn Hồng (1998), “Lịch sử thế giới cận đại”,
Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
48. Vũ Dƣơng Ninh (Cb) (2005), “Lịch sử quan hệ quốc tế từ đầu thời Cận đại đến
kết thúc Thế chiến II”, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
49. Vũ Dƣơng Ninh (Cb), Phan Văn Ban, Nguyễn Văn Tận (2005), “Lịch sử quan hệ
quốc tế - tập 1”, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
50. Vũ Dƣơng Ninh (2006), “Lịch sử thế giới cận đại”, Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
51. Vũ Dƣơng Ninh (Cb) (2006),“Một số chuyên đề lịch sử thế giới (tập II)”,
Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
52. N.I.Nozemsew (1961), “Chính sách đối ngoại của Mỹ”, Nxb.Sự thật, Hà Nội.
53. William Plaft (2002), ―Vấn đề bá quyền của Mỹ‖, Châu Mỹ ngày nay, số 6.
54. F.I.Pôlianxki (1978), “Lịch sử kinh tế các nước ngoài Liên Xô thời kỳ đế quốc
chủ nghĩa (những năm 1870 – 1917)”, Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội.
55. Lê Văn Quang (2002), “Lịch sử quan hệ quốc tế (1917 – 1945)”, Nxb.Giáo dục,
Hà Nội.
56. Nguyễn Huy Quý (2005), “Chiến tranh thế giới thứ hai”, Nxb.Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
57. France L.Schoell (1970), “Lịch sử Hoa Kỳ”, Việt Nam khảo dịch xã, Sài Gòn.
58. Sterling Seagrave & Peggy Seagrave (2003), “Bí mật triều đại Yamato”,
Nxb.Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.
59. Phạm Minh Sơn (2008), ―Chính sách đối ngoại của một số nước lớn trên thế
giới”, Nxb.Lý luận Chính trị, Hà Nội.
60. Hà Tá (1961), “Châu Mỹ Latinh đấu tranh cho độc lập dân tộc và dân chủ”,
Nxb.Sự thật, Hà Nội.
61. Nguyễn Anh Thái (2003) (cb), “Lịch sử thế giới hiện đại 1945 – 1995”,
Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
62. Trần Thiện Thanh (2007), ―Chính sách đối ngoại của Mỹ giai đoạn 1865 –
1904‖, Châu Mỹ ngày nay, số 4.
155
63. Trần Thiện Thanh (2008), “Chính sách đối ngoại của Mỹ đối vói Nhật Bản trong
nửa đầu thế kỷ XX“, Luận án tiến sĩ lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội &
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
64. Trần Thiện Thanh (2009),“Nhật Bản trong chính sách đối ngoại của Mỹ trước
năm 1905”, Châu Mỹ ngày nay, số 102 (139).
65. Hà Văn Thịnh (1991), “Vài ý kiến về giáo trình lịch sử thế giới hiện đại (giai
đoạn 1918 – 1923, phần TBCN)”, Thông tin khoa học 91 (7), Trƣờng Đại học Tổng
hợp Huế.
66. Hà Văn Thịnh (2004), “Những đặc điểm của sự hình thành dân tộc Mỹ (1609 -
1789)”, Kỷ yếu Hội nghị Thông báo khoa học năm 2004, Khoa Lịch sử, Trƣờng Đại
học Khoa học Huế và Phân viện nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật miền Trung, Huế.
67. Đỗ Minh Tuấn (2005), ―Vai trò của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh‖, Châu Mỹ ngày
nay, số 11.
68. Irwin Unger (2009), “Lịch sử Hoa Kỳ - Những vấn đề quá khứ”, Nxb.Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
69. Nguyễn Khánh Vân (2008), “Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Mỹ Latinh từ
sau Chiến tranh Lạnh đến nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà
Nội.
70. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Châu Mỹ (2005), “Khái quát
Lịch sử Mỹ Latinh”, Hà Nội.
71. Đỗ Vũ (1969), “Châu Mỹ Latinh giữa gấu và diều hâu”, Nxb.Thái độ, Sài Gòn.
72. Phạm Xanh (2006),“Góp phần tìm hiểu lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ”,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Hoàng Thị Hải Yến (2013), ―Một số vấn đề trong quan hệ Nhật Bản – Mỹ nửa
cuối thế kỷ XIX‖, Châu Mỹ ngày nay, số 4.
74. Hoàng Thị Hải Yến (2013), ―Quan hệ Nhật Bản – Mỹ trong vấn đề ngƣời Nhật
nhập cƣ vào Mỹ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX‖, Châu Mỹ ngày nay, số 10.
75. Howard Zinn (2010), “Lịch sử dân tộc Mỹ“, Nxb.Thế giới, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
76. “American Merchants – US Congress”, US House Document, No 40, 16th
Congress, 1st Session, Serial Number 364.
156
77. Samuel Flagg Bemis (1949), “A Diplomacy history of the United States”, Henry
Holtand Company, New York.
78. David L.Bender (1995), “Reconstruction opposing viewpoints”, Greenhaven
Press, Inc, San Diego, CA.
79. Alan Brinkley (1997), “The Unfinished Nation – a Consice History of the
American People”, The McGraw – Hill Companies, Inc, New York.
80. “C.S.S Alabama Artifacts Exhibit at U.S Naval Museum Opens with All – Star
Franco – American Reception”, The Cofederate Naval Historical Society, Inc, 710
Ocran Road, White Stone, Virginia, USA.22578.
81. Jaw – ling Joanne Chang (1986), “United States – China Normalization: An
Evalution of Foreign Policy Decision Making”, School of Law University of
Maryland.
82. George B.Clark (2010), “Battle History of The United States Marine Corps, 1775
– 1945”, McFarland & Company Inc Publisher, Box 611, Jefferson, North Carolina
28640.
83. Jerald A.Comb (1986), “The History of American Foreign Policy”, Alfred
A.Knoff, New York.
84. Micheal P.Conzen (1997), “American History”, Worth Publishers, New York.
85. Janet Duistman Cornelius (1991), “When I can Read My Title Clear: Literacy,
Slavery and Religion in the Antebellum South”, University of South Carolina Press.
86. Robert Eskildsen (2010), “Suitable Ships and the hard work of Imperialism
Evaluting the Japaneses Navy in the 1874 – Invasion of Taiwan”, Asian Cultural
Studies Publications, International Christian University, Vol.36.
87. Christine Haight Farley (2013), “The Pan – American Trademark Convention of
1929: A Bold Vision of Extraterritorial Meets Current Realities”, American
University – Washington College Law.
88. Sydney Fine & Gerald S.Boown (1965), “The American Past: Confliccting
Interpretations of the Great Issues”, The Macmillan Company, NY.
89. Paul Finkelman (2009), “Race, Federalism and Diplomacy: The Gentlemen’s
Agreement A Century Later”, Osaka University Law Review, No.56.
157
90. William Greenleaf (1968), “American Economic Development since 1860 –
Documentary History of United States”, University of South Carolina press,
Columbia.
91. Jürgen Haacke (2003), “ASEAN’S Diplomatic and Security Culture: Origins,
development and prospects”, Routledge Curzon, Taylor & Francis Group, London
and New York.
92. William P.Hoar (1984), “Architects of Conspiracy An Intriiguing History”,
Public by Western Islands.
93. James A. Henretta, David Brody, Lynn Dumenil, Susan Ware (2004),
“America’s History”, Bedford/ St. Martin’s, Boston & New York.
94. Hans H.Indorf (1982), “Thai – American Relations”, Excutive Publications, PTE
LTD.
95. George F.Kennan (1951), “American Diplomacy 1900 – 1950”, The University
of Press, Chicago, Illinois.
96. George F.Kennan (1992), “American Diplomacy Expanded Edition”, The
University of Chicago Press, Chicago and London.
97. Lester.D.Langley (1983), “The Banana war: United States Intervention in the
Caribbean, 1898 – 1934”, Kentucky University, Lexington.
98. Library of Congress, “Consul Menaced Galdera at Managua Seeks Refuge from
Zelaya, go to American legation”, The Citizen, Wednesday, December 1, 1909.
99. Library of Congress, “Rebel Capture Three Town”, Los Angeles Herald,
Wednesday Morning, December 15, 1909.
100. Robert Hopkins Miller (1990), “The United States and Viet Nam 1787 – 1941”,
National Defense University Press, Washington D.C.
101. Norihito Mizuno (2009), “Qing China’s Reaction to the 1784 Japanese
Expedition to the Taiwanese Aboriginal Territories”, Akita International University,
Sino – Japanese Studies, Vol.6, Article 8.
102. Mac Nair (1967), “Mordern Chinese History: Selected Readings”, Vol.2,
Paragon Book Reprint, NY.
103. Office of International Information Programs (1994), “At Outline of American
History”, United States Department of States.
158
104. Kenichi Ohno (2006), “The Economic Development of Janpan – The Path
Traveled by Japan as a Developing Country”, Yuhikaku Publishing Co.Ltd, Tokyo.
105. Peter J.Parish (1975), “The American Civil War”, Holmes & Meier, New York.
106. James M.Mc Pherson (1992), “Ordeal by Fire, Volume One: The Coming of
War”, Priceton University.
107. Howard H.Quint, Dean Albertson, Mitton Cantor (1968), “Main Problems in
American History – Volume I”, University of Massachusetts.
108. Howard H.Quint, Dean Albertson, Mitton Cantor (1968), “Main Problems in
American History – Volume II”, University of Massachusetts.
109. Royal Thai Embassy, Washington D.C (2009), “The Eagle and the Elephant,
Thai-American Relations Since 1833”, Fifth Edition published by the Royal Thai
Embassy, Washington D.C, USA, Printed in Thailand.
110. Jordan Sand (2009), “Gentlemen’s Agreement, 1908: Fragments for a Pacific
History”, Georgetown University Press, Washington D.C.
111. John Y.Simon (2008), “The Paper of Ulysses S.Grant”, Vol.29: October 1,
1878 – September 30, 1880, Southern Illinois University Press
112. Peter N.Stearns (1988), “Documents in World history – Volume II: The Modern
Centuries: From 1500 to the prensent”, Harper & Row, Publishers, NY.
113. Josiah Strong (1885), “Our Country: Its Possible Future and Its Present
Crisis”, The Baker & Taylor Co. 9 Born St. New York.
114. Hoang Anh Tuan (2007), “Silk for Silver: Dutch – Vietnamese Relations, 1637 -
1700”, Brill, Boston.
115. Federick Jackson Turner (1953), “The Frontier in American History”, Dover
Publications, Inc, New York.
116. University of Toronto Library (2008), “Casell’s History of the Russo –
Japanese War”, Cassell and Company Ltd.
117. ―Up the Sant Elias Alp – Success of the ―Times‖ Expedition to Alaska‖, The
New York Times, September 20, 1886.
118. Arthur Walworth (1969), “Woodrow Wilson (1969)”, Published by W W
Norton & Co Inc.
159
TÀI LIỆU INTERNET
119. ―Agreement Between the United States and Cuba for the Lease of Lands for
Coaling and Naval stations, February 23, 1903” trên http://avalon.law.
yale.edu/20th_century/dip_cuba002.asp.
120. ”Biographies of the Secretaries of State: James Gillespie Blaine” trên
http://www.history.state.gov/departmenthistory/people/blaine-james-gillespie.
121. “Franco – Japan Treaty” trên http://trove.nla.gov.au/ndp/del/ article/148
37331.
122. K. K. Kawakami, “The Russo-Chinese Conflict in Manchuria” trên
http://www.foreignaffairs.com/articles/69011/k-k-kawakami/the-russo-chinese-
conflict-in-manchuria.
123. “Letter to the Emperor of China from the President of The United States of
America”, July 12, 1843 trên http://www.Chinaforeignrelations.net/ node/231.
124. “Paris Treaty 1783” trên http://www.let.rug.nl/usa/documents/1776-1785/paris
-peace-treaty-1783.php#8.
125. “Philippines – American War, 1899 – 1902” trên https://history.state.gov/
milestones/1899-1913/war.
126. ”Platt admendment” trên http://www.latinamericastudies.org/cuba.platt-
admendment.htm.
127. “Russo-Japanese Treaties and Agreements” trên http://encyclopedia2.
thefreedictionary.com/RussoJapanese+Treaties+and+ Agreements.
128. “Secretary of State John Hay and the Open Door in China, 1899–1900” trên
http://history.state.gov/milestones/1899-1913/hay-and-china.
129. “Summary of the Treaty of Wanghia, Signed 3rd
, July, 1884” trên
http://trove.nla.gov.au/ndp/del/article/37153808.
130. “The Battle of Manila Bay – May 1, 1898” trên www.history.com/this-day-in-
history/the-battle-of-manila-bay.
131. “The Lansing – Ishii Agreement” trên http://www.fas.nus.edu.sg/hist/eia/
documents_archive/lansing-ishii.php.
132. “The Platt Admendment” tại http://www.Ourdocuments. gov/doc_large_
image.php?flash=true&doc=55.
160
133. “The Spanish – Cuban – American War – Battle of Manila Bay, May 1, 1898”
trên http://www.latinamericanstudies.org/manila-bay.htm.
134. “Treaty Between France and Annam, 1884” (Signed at Hué, 6th
June, 1884)
trên www.chinaforeignrelations.net/node/187.
135. “Treaty Between the United States of America and Cuba”, May 29, 1934 trên
http://avalon.law.yale.edu/20th_century/dip_cuba001.asp.
136. “Treaty of Friendship and Commerce between Siam and Great Britain”, Signed
at Bangkok, April 18, 1855 trên http://en.wikisource.org/wiki/ Bowring _Treaty.
137. “Treaty of Guadalupe Hildago” trên www.loc.gov/rr/program/bib
/ourdocs/guadalupe.html.
138. Treaty of Peace Between the United States and Spain; December 10, 1898 trên
Avalon.law.yale.edu/19th
_century/sp1898.asp.
139. “Treaty of Peace, Friendship and Commerce between France and China 1885”
trên http://www.chinaforeignrelations.net/node/164.
140. “Treaty of Shimonoseki” trên https://www.princeton.edu/~achaney/
tmve/wiki100k/docs/Treaty _of_Shimonoseki.html.
141. “Treaty of Tientsin (Tianjin) 1858” trên http://www.chinaforeignrelations
.net/node/144.
142. “Tydings – McDuffie Act” trên http://www.thecorpusjuris.com/laws/
constitutions/item/tydings-mcduffie-act.html.
P1
PHỤ LỤC
P2
PL 1. Tu chính án Platt (1903)
Whereas the Congress of the United States of America, by an Act approved
March 2, 1901, provided as follows:
Provided further, That in fulfillment of the declaration contained in the joint
resolution approved April twentieth, eighteen hundred and ninety-eight, entitled
"For the recognition of the independence of the people of Cuba, demanding that the
Government of Spain relinquish its authority and government in the island of Cuba,
and withdraw its land and naval forces from Cuba and Cuban waters, and directing
the President of the United States to use the land and naval forces of the United
States to carry these resolutions into effect," the President is hereby authorized to
"leave the government and control of the island of Cuba to its people" so soon as a
government shall have been established in said island under a constitution which,
either as a part thereof or in an ordinance appended thereto, shall define the future
relations of the United States with Cuba, substantially as follows:
"I.-That the government of Cuba shall never enter into any treaty or other
compact with any foreign power or powers which will impair or tend to
impair the independence of Cuba, nor in any manner authorize or permit any
foreign power or powers to obtain by colonization or for military or naval
purposes or otherwise, lodgement in or control over any portion of said
island."
"II. That said government shall not assume or contract any public debt, to
pay the interest upon which, and to make reasonable sinking fund provision
for the ultimate discharge of which, the ordinary revenues of the island, after
defraying the current expenses of government shall be inadequate."
"III. That the government of Cuba consents that the United States may exercise
the right to intervene for the preservation of Cuban independence, the
maintenance of a government adequate for the protection of life, property, and
individual liberty, and for discharging the obligations with respect to Cuba
imposed by the treaty of Paris on the United States, now to be assumed and
undertaken by the government of Cuba."
P3
"IV. That all Acts of the United States in Cuba during its military occupancy
thereof are ratified and validated, and all lawful rights acquired thereunder
shall be maintained and protected."
"V. That the government of Cuba will execute, and as far as necessary extend, the
plans already devised or other plans to be mutually agreed upon, for the sanitation
of the cities of the island, to the end that a recurrence of epidemic and infectious
diseases may be prevented, thereby assuring protection to the people and
commerce of Cuba, as well as to the commerce of the southern ports of the
United States and the people residing therein."
"VI. That the Isle of Pines shall be omitted from the proposed constitutional
boundaries of Cuba, the title thereto being left to future adjustment by treaty."
"VII. That to enable the United States to maintain the independence of Cuba, and
to protect the people thereof, as well as for its own defense, the government of
Cuba will sell or lease to the United States lands necessary for coaling or naval
stations at certain specified points to be agreed upon with the President of the
United States."
"VIII. That by way of further assurance the government of Cuba will embody the
foregoing provisions in a permanent treaty with the United States."
Nguồn: http://www.ourdocuments.gov/doc.php?flash=true&doc=55&page
=transcript.
PL 2. Hiệp ƣớc Thƣợng Hải (Shanghai Treaty) (1903)
TREATY BETWEEN THE UNITED STATES AND CHINA FOR THE
EXTENSION OF THE COMMERCIAL RELATIONS BETWEEN THEM
(Shanghai, October 8, 1903)
The United States of America and His Majesty the Emperor of China, being
animated by an earnest desire to extend further the commercial relations between
them and otherwise to promote the interests of the peoples of the two countries, in
view of the provisions of the first paragraph of Article XI of the final Protocol
signed at Peking on the seventh day of September, A.D. 1901, whereby the Chinese
P4
Government agreed to negotiate the amendments deemed necessary by the foreign
Governments to the treaties of commerce and navigation and other subjects
concerning commercial relations, with the object of facilitating them, have for that
purpose named as their Plenipotentiaries:—
The United States of America —
Edwin H. Conger, Envoy Extraordinary and Minister Plenipotentiary of the
United States of America to China —
John Goodnow, Consul-General of the United States of America at Shanghai
—
John F. Seaman, a Citizen of the United States of America resident at
Shanghai
And His Majesty the Emperor of China —
Lü Hai-huan, President of the Board of Public Works —
Sheng Hsüan-huai, Junior Guardian of the Heir Apparent. Formerly Senior
Vice-President of the Board of Public Works —who, having met and duly
exchanged their full powers which were found to be in proper form, have
agreed upon the following amendments to existing treaties of commerce and
navigation formerly concluded between the two countries, and upon the
subjects hereinafter expressed connected with commercial relations, with the
object of facilitating them.
Article I
In accordance with international usage, and as the diplomatic
representative of China has the right to reside in the capital of the United
States, and to enjoy there the same prerogatives, privileges and immunities as
are enjoyed by the similar representative of the most favored nation, the
diplomatic representative of the United States shall have the right to reside at
the capital of His Majesty the Emperor of China. He shall be given audience
of His Majesty the Emperor whenever necessary to present his letters of
credence or any communication from the President of the United States. At
all such times he shall be received in a place and in a manner befitting his
P5
high position, and on all such occasions the ceremonial observed toward him
shall be that observed toward the representatives of nations on a footing of
equality, with no loss of prestige on the part of either.
The diplomatic representatives of the United States shall enjoy all the
prerogatives, privileges and immunities accorded by international usage to
such representatives, and shall in all respects be entitled to the treatment
extended to similar representatives of the most favored nation.
The English text of all notes or dispatches from United States
officials to Chinese officials, and the Chinese text of all from Chinese
officials to United States officials shall be authoritative.
Article II
As China may appoint consular officers to reside in the United States
and to enjoy there the same attributes, privileges and immunities as are
enjoyed by consular officers of other nations, The United States may appoint,
as its interests may require, consular officers to reside at the places in the
Empire of China that are now or that may hereafter be opened to foreign
residence and trade. They shall hold direct official intercourse and
correspondence with the local officers of the Chinese Government within
their consular districts, either personally or in writing as the case may
require, on terms of equality and reciprocal respect. These officers shall be
treated with due respect by all Chinese authorities, and they shall enjoy all
the attributes, privileges and immunities, and exercise all the jurisdiction
over their nationals which are or may hereafter be extended to similar
officers of the nation the most favored in these respects. If the officers of
either government are disrespectfully treated or aggrieved in any way by the
authorities of the other, they shall have the right to make representation of
the same to the superior officers of their own government who shall see that
full inquiry and strict justice be had in the premises. And the said consular
officers of either nation shall carefully avoid all acts of offense to the officers
and people of the other nation.
P6
On the arrival of a consul duly accredited at any place in China
opened to foreign trade it shall be the duty of the Minister of the United
States to inform the Board of Foreign Affairs, which shall, in accordance
with international usage, forthwith cause the proper recognition of the said
consul and grant him authority to act.
Article III
Citizens of the United States may frequent, reside and carry on trade,
industries and manufactures, or pursue any lawful avocation, in all the ports
or localities of China which are now open or may hereafter be opened to
foreign residence and trade; and, within the suitable localities at those places
which have been or may be set apart for the use and occupation of foreigners,
they may rent or purchase houses, places of business and other buildings, and
rent or lease in perpetuity land and build thereon. They shall generally enjoy
as to their persons and property all such rights, privileges and immunities as
are or may hereafter be granted to the subjects or citizens of the nation the
most favored in these respects.
Article IV
The Chinese Government, recognizing that the existing system of
levying dues on goods in transit, and especially the system of taxation known
as likin, impedes the free circulation of commodities to the general injury of
trade, hereby undertakes to abandon the levy of likin and all other transit
dues throughout the Empire and to abolish the offices, stations and barriers
maintained for their collection and not to establish other offices for levying
dues on goods in transit. It is clearly understood that, after the offices,
stations and barriers for taxing goods in transit have been abolished, no
attempt shall be made to re-establish them in any form or any pretext
whatsoever.
The Government of the United States, in return, consents to allow a
surtax, in excess of the tariff rates for the time being in force, to be imposed
on foreign goods imported by citizens of the United States and on Chinese
P7
produce destined for export abroad or coastwise. It is clearly understood that
in no case shall the surtax on foreign imports exceed one and one-half times
the import duty leviable in terms of the final Protocol signed by China and
the Powers on the seventh day of September, A.D. 1901; that the payment of
the import duty and surtax shall secure for foreign imports, whether in the
hands of Chinese or foreigners, in original packages or otherwise, complete
immunity from all other taxation, examination or delay; that the total amount
of taxation, inclusive of the tariff export duty, leviable on native produce for
export abroad shall, under no circumstances, exceed seven and one-half per
centum ad valorem.
Nothing in this article is intended to interfere with the inherent right
of China to levy such other taxes as are not in conflict with its provisions.
Keeping these fundamental principles in view, the High Contracting
Parties have agreed upon the following method of procedure.
The Chinese Government undertakes that all offices, stations and
barriers of whatsoever kind for collecting likin, duties, or such like dues on
goods in transit, shall be permanently abolished on all roads, railways and
waterways in the nineteen Provinces of China and the three Eastern
Provinces. This provision does not apply to the native Customs offices at
present in existence on the seaboard, at open ports where there are offices of
the Imperial Maritime Customs, and on the land frontiers of China
embracing the nineteen Provinces and the three Eastern Provinces.
Wherever there are offices of the Imperial Maritime Customs, or
wherever such may be hereafter placed, native Customs offices may also be
established, as well as at any point either on the seaboard or land frontiers.
The Government of the United States agrees that foreign goods on
importation, in addition to the effective five per centum import duty as
provided for in the Protocol of 1901, shall pay a special surtax of one and
one-half times the amount of the said duty to compensate for the abolition
of likin, of other transit dues besides likin, and of all other taxation on
P8
foreign goods, and in consideration of the other reforms provided for in this
article.
The Chinese Government may recast the foreign export tariff with
specific duties, as far as practicable, on a scale not exceeding five per
centum ad valorem; but existing export duties shall not be raised until at least
six months’ notice has been given. In cases where existing export duties are
above five per centum, they shall be reduced to not more than that rate. An
additional special surtax of one-half the export duty payable for the time
being, in lieu of internal taxation of all kinds, may be levied at the place of
original shipment or at the time of export on goods exported either to foreign
countries or coastwise.
Foreign goods which bear similarity to native goods shall be
furnished by the Customs officers, if required by the owner, with a protective
certificate for each package, on the payment of import duty and surtax, to
prevent the risk of any dispute in the interior.
Native goods brought by junks to open ports, if intended for local
consumption, irrespective of the nationality of the owner of the goods, shall
be reported at the native Customs offices only, to be dealt with according to
the fiscal regulations of the Chinese Government.
Machine-made cotton yarn and cloth manufactured in China, whether
by foreigners at the open ports or by Chinese anywhere in China, shall as
regards taxation be on a footing of perfect equality. Such goods upon
payment of the taxes thereon shall be granted a rebate of the import duty and
of two-thirds of the import surtax paid on the cotton used in their
manufacture, if it has been imported from abroad, and of all duties paid
thereon if it be Chinese grown cotton. They shall also be free of export duty,
coast-trade duty and export surtax. The same principle and procedure shall
be applied to all other products of foreign type turned out by machinery in
China.
P9
A member or members of the Imperial Maritime Customs foreign
staff shall be selected by the Governors-General and Governors of each of
the various provinces of the Empire for their respective provinces, and
appointed in consultation with the Inspector General of Imperial Maritime
Customs, for duty in connection with native Customs affairs to have a
general supervision of their working.
Cases where illegal action is complained of by citizens of the United
States shall be promptly investigated by an officer of the Chinese
Government of sufficiently high rank, in conjunction with an officer of the
United States Government, and an officer of the Imperial Maritime Customs,
each of sufficient standing; and, in the event of it being found by the
investigating officers that the complain is well founded and loss has been
incurred, due compensation shall be paid through the Imperial Maritime
Customs. The high provincial officials shall be held responsible that the
officer guilty of the illegal action shall be severely punished and removed
from his post. If the complaint is shown to be frivolous or malicious, the
complainant shall be held responsible for the expenses of the investigation.
When the ratifications of this Treaty shall have been exchanged by
the High Contracting Parties hereto, and the provisions of this Article shall
have been accepted by the Powers having treaties with China, then a date
shall be agreed upon when the provisions of this Article shall take effect and
an Imperial Edict shall be published in due form on yellow paper and
circulated throughout the Empire of China setting forth the abolition of
all likintaxation, duties on goods in transit, offices, stations and barriers for
collecting the same, and of all descriptions of internal taxation on foreign
goods, and the imposition of the surtax on the import of foreign goods and on
the export of native goods, and the other fiscal changes and reforms provided
for in this Article, all of which shall take effect from the said date. The Edict
shall state that the provincial high officials are responsible that any official
P10
disregarding the letter or the spirit of its injunction shall be severely punished
and removed from his post.
Article V
The tariff duties to be paid by citizens of the United States on goods
imported into China shall be as set forth in the schedule annexed hereto and
made part of this Treaty, subject only to such amendments and changes as
are authorized by Article IV of the present convention or as may hereafter be
agreed upon by the High Contracting Parties hereto. It is expressly agreed,
however, that citizens of the United States shall at no time pay other or
higher duties on their imports into the United States than those paid by the
citizens or subjects of the most favored nation.
Conversely, Chinese subjects shall not pay higher duties on their
imports into the United States than those paid by the citizens or subjects of
the most favored nation.
Article VI
The Government of China agrees to the establishment by citizens of
the United States of warehouses approved by the proper Chinese authorities
as bonded warehouses at the several open Ports of China, for storage, re-
packing, or preparation for shipment of lawful goods, subject to such
necessary regulations for the protection of the revenue of China, including a
reasonable scale of fees according to commodities, distance from the custom
house and hours of working, as shall be made from time to time by the
proper officers of the Government of China.
Article VII
The Chinese Government, recognizing that it is advantageous for the
country to develop its mineral resources, and that it is desirable to attract
foreign as well as Chinese capital to embark in mining enterprises, agrees,
within one year from the signing of this Treaty, to initiate and conclude the
revision of the existing mining regulations. To this end China will, with all
expedition and earnestness, go into the whole question of mining rules; and,
P11
selecting from the rules of the United States and other countries regulations
which seem applicable to the condition of China, will recast its present
mining rules in such a way as, while promoting the interests of Chinese
subjects and not injuring in any way the sovereign rights of China, will offer
no impediment to the attraction of foreign capital nor place foreign capitalists
at a greater disadvantage than they would be under generally accepted
foreign regulations; and will permit citizens of the United States to carry on
in Chinese territory mining operations and other necessary business relating
thereto provided they comply with the new regulations and conditions which
will be imposed by China on its subjects and foreigners alike, relating to the
opening of mines, the renting of mineral land, and the payment of royalty,
and provided they apply for permits, the provisions of which in regard to
necessary business relating to such operations shall be observed. The
residence of citizens of the United States in connection with such mining
operations shall be subject to such regulations as shall be agreed upon by and
between the United States and China.
Any mining concession granted after the publication of such new
rules shall be subject to their provisions.
Article VIII
Drawback certificates for the return of duties shall be issued by the
Imperial Maritime Customs to citizens of the United States within three
weeks of the presentation to the Customs of the papers entitling the applicant
to receive such drawback certificates, and they shall be receivable at their
face value in payment of duties of all kinds (tonnage dues excepted) at the
port of issue; or shall, in the case of drawbacks on foreign goods re-exported
within three years from the date of importation, be redeemable by the
Imperial Maritime Customs in full in ready money at the port of issue, at the
option of the holders thereof. But if, in connection with any application for a
drawback certificate, the Customs authorities discover an attempt to defraud
the revenue, the applicant shall be dealt with and punished in accordance
P12
with the stipulations provided in the Treaty of Tientsin, Article XXI, in the
case of detected frauds on the revenue. In case the goods have been removed
from Chinese territory, then the consul shall inflict on the guilty party a
suitable fine to be paid to the Chinese Government.
Article IX
Whereas the United States undertakes to protect the citizens of any
country in the exclusive use within the United States of any lawful trade-
marks, provided that such country agrees by treaty or convention to give like
protection to citizens of the United States:—
Therefore the Government of China, in order to secure such
protection in the United States for its subjects, now agrees to fully protect
any citizen, firm or corporation of the United States in the exclusive use in
the Empire of China of any lawful trade-mark to the exclusive use of which
in the United States they are entitled, or which they have adopted and used,
or intend to adopt and use as soon as registered, for exclusive use within the
Empire of China. To this end the Chinese government agrees to issue by its
proper authorities proclamations, having the force of law, forbidding all
subjects of China from infringing on, imitating, colorably imitating, or
knowingly passing off an imitation of trade-marks belonging to citizens of
the United States, which shall have been registered by the proper authorities
of the United States at such offices as the Chinese Government will establish
for such purpose, on payment of a reasonable fee, after due investigation by
the Chinese authorities, and in compliance with reasonable regulations.
Article X
The United States Government allows subjects of China to patent
their inventions in the United States and protects them in the use and
ownership of such patents. The Government of China now agrees that it will
establish a Patent Office. After this office has been established and special
laws with regard to inventions have been adopted it will thereupon, after the
payment of the prescribed fees, issue certificates of protection, valid for a
P13
fixed term of years, to citizens of the United States on all their patents issued
by the United States, in respect of articles the sale of which is lawful in
China, which do not infringe on previous inventions of Chinese subjects, in
the same manner as patents are to be issued to subjects of China.
Article XI
Whereas the Government of the United States undertakes to give the
benefits of its copyright laws to the citizens of any foreign State which gives
to the citizens of the United States the benefits of copyright on an equal basis
with its own citizens:—
Therefore the Government of China, in order to secure such benefits
in the United States for its subjects, now agrees to give full protection, in the
same way and manner and subject to the same conditions upon which it
agrees to protect trade-marks, to all citizens of the United States who are
authors, designers or proprietors of any book, map, print or engraving
especially prepared for the use and education of the Chinese people, or
translation into Chinese of any book, in the exclusive right to print and sell
such book, map, print, engraving or translation in the Empire of China during
ten years from the date of registration. With the exception of the books,
maps, etc., specified above, which may not be reprinted in the same form, no
work shall be entitled to copyright privileges under this article. It is
understood that Chinese subjects shall be at liberty to make, print and sell
original translations into Chinese of any works written or of maps compiled
by a citizen of the United States. This article shall not be held to protect
against due process of law any citizen of the United States or Chinese subject
who may be author, proprietor, or seller of any publication calculated to
injure the well-being of China.
Article XII
The Chinese Government having in 1898 opened the navigable inland
waters of the Empire to commerce by all steam vessels, native or foreign,
that may be specially registered for the purpose, for the conveyance of
P14
passengers and lawful merchandise, citizens, firms, and corporations of the
United States may engage in such commerce on equal terms with those
granted to subjects of any foreign power.
In case either party hereto considers it advantageous at any time that
the rules and regulations then in existence for such commerce be altered or
amended, the Chinese Government agrees to consider amicably and to adopt
such modifications thereof as are found necessary for trade and for the
benefit of China.
The Chinese Government agrees that, upon the exchange of the
ratifications of this treaty, Mukden and Antung, both in the province of
Sheng-king, will be opened by China itself as places of international
residence and trade. The selection of suitable localities to be set apart for
international use and occupation and the regulations for these places set apart
for foreign residence and trade shall be agreed upon by the Governments of
the United States and China after consultation together.
Article XIII
China agrees to take the necessary steps to provide for a uniform
national coinage which shall be legal tender in payment of all duties, taxes,
and other obligations throughout the Empire by the citizens of the United
States as well as Chinese subjects. It is understood, however, that all
customs duties shall continue to be calculated and paid on the basis of the
Haikwan Tael.
Article XIV
The principles of the Christian religion, as professed by the Protestant
and Roman Catholic Churches, are recognized as teaching men to do good
and to do to others as they would have others do to them. Those who quietly
profess and teach these doctrines shall not be harassed or persecuted on
account of their faith. Any person, whether citizen of the United States or
Chinese convert, who, according to these tenets, peaceably teaches and
practices the principles of Christianity shall in no case be interfered with or
P15
molested therefor. No restrictions shall be placed on Chinese joining
Christian churches. Converts and non-converts, being Chinese subjects, shall
alike conform to the laws of China; and shall pay due respect to those in
authority, living together in peace and amity; and the fact of being converts
shall not protect them from the consequences of any offense they may have
committed before or may commit after their admission into the church, or
exempt them from paying legal taxes levied on Chinese subjects generally,
except taxes levied and contributions for the support of religious customs and
practices contrary to their faith. Missionaries shall not interfere with the
exercise by the native authorities of their jurisdiction over Chinese subjects;
nor shall the native authorities make any distinction between converts and
non-converts, but shall administer the laws without partiality, so that both
classes can live together in peace.
Missionary societies of the United States shall be permitted to rent
and to lease in perpetuity, as the property of such societies, buildings or lands
in all parts of the Empire for missionary purposes and, after the title deeds
have been found in order and duly stamped by the local authorities, to erect
such suitable buildings as may be required for carrying on their good work.
Article XV
The Government of China having expressed a strong desire to reform
its judicial system and to bring it into accord with that of Western nations,
the United States agrees to give every assistance to such reform and will also
be prepared to relinquish extra-territorial rights when satisfied that the state
of the Chinese laws, the arrangements for their administration, and other
considerations warrant it in so doing.
Article XVI
The Government of the United States consents to the prohibition by
the Government of China of the importation into China of morphia and of
instruments for its injection, excepting morphia and instruments for its
injection imported for medical purposes, on payment of tariff duty, and under
P16
regulations to be framed by China which shall effectually restrict the use of
such import to the said purposes. This prohibition shall be uniformly applied
to such importation from all countries. The Chinese Government undertakes
to adopt at once measures to prevent the manufacture in China of morphia
and of instruments for its injection.
Article XVII
It is agreed between the high contracting parties hereto that all the
provisions of the several treaties between the United States and China which
were in force on the first day of January, A.D. 1900, are continued in full
force and effect except in so far as they are modified by the present treaty or
other treaties to which the United States is a party.
The present treaty shall remain in force for a period of ten years,
beginning with the date of the exchange of ratifications and until a revision is
effected as hereinafter provided.
It is further agreed that either of the high contracting parties may
demand that the tariff and the articles of this convention be revised at the end
of ten years from the date of the exchange of the ratifications thereof. If no
revision is demanded before the end of the first term of ten years, then these
articles in their present form shall remain in full force for a further term of
ten years reckoned from the end of the first term, and so on for successive
periods of ten years.
The English and Chinese texts of the present Treaty and its three
annexes have been carefully compared; but, in the event of their being any
difference of meaning between them, the sense as expressed in the English
text shall be held to be the correct one.
This Treaty and its three annexes shall be ratified by the two High
Contracting Parties in conformity with their respective constitutions, and the
ratifications shall be exchanged in Washington not later than twelve months
from the present date.
P17
In testimony whereof, we, the undersigned, by virtue of our
respective powers, have signed this Treaty in duplicate in the English and
Chinese languages, and have affixed our respective seals.
Done at Shanghai, this eighth day of October in the year of our Lord
one thousand nine hundred and three, and in the twenty-ninth year of Kuang
Hsü eighth month and eighteenth day.
EDWIN H. CONGER [seal.]
JOHN GOODNOW [seal.]
JOHN F. SEAMAN [seal.]
Signatures and seal of Chinese Plenipotentiaries.
[LÜ HAI-HUAN]
[SHENG HSÜAN-HUAI]
PL 3. Thỏa thuận giữa các quý ông (Gentlements Agreement) (1907)
Whereas, by the act entitled ―An Act to regulate the immigration of aliens
into the United States‖, approved February 20, 1907, whenever the President is
satisfied that passports issued by any foreign government to its citizens to go to any
country other than the United States or to any insular possession of the United
States or to the Canal Zone, are being used for the purpose of enabling the holders
to come to the continental territory of the United States to the detriment of labor
conditions therein, it is made the duty of the President to refuse to permit such
citizens of the country issuing such passports to enter the continental territory of the
United States from such country or from such insular possession or from the Canal
Zone;
And Whereas, upon sufficient evidence produced before me by the
Department of Commerce and Labor, I am satisfied that passports issued by the
Government of Japan to citizens of that country or Korea and who are laborers,
skilled or unskilled, to go to Mexico, to Canada and to Hawaii, are being used for
the purpose of enabling the holders thereof to come to the continental territory of
the United States to the detriment of labor conditions therein;
P18
I hereby order that such citizens of Japan or Korea, to-wit: Japanese or
Korean laborers, skilled and unskilled, who have received passports to go to
Mexico, Canada or Hawaii, and come therefrom, be refused permission to enter the
continental territory of the United States.
It is further ordered that the Secretary of Commerce and Labor be, and he
hereby is, directed to take, thru Bureau of Immigration and Naturalization, such
measures and to make and enforce such rules and regulations as may be necessary
to carry this order into effect.
Theodore Roosevelt
The White House, March 14, 1907
Nguồn: http://www.encyclopedia.com/topic/Gentlemens_Agreement.aspx.
PL 4. Thỏa thuận Lansing – Ishii (Lansing Ishii Agreement) (1917)
NOTE FROM THE SECRETARY OF STATE TO THE JAPANESE
AMBASSADOR DEPARTMENT OF STATE,
Washington, NOV. 2, 1917.
Excellency:
I have the honor to communicate herein my understanding of the agreement
reached by us in our recent conversations touching the questions of mutual interest
to our governments relating to the republic of China.
In order to silence mischievous reports that have from time to time been
circulated it is believed by us that a public announcement once more of the desires
and intentions shared by our two governments with regard to China is advisable.
The governments of the United States and Japan recognize that territorial
propinquity creates special relations between countries, and, consequently, the
government of the United. States recognizes that Japan has special interests in
China, particularly in the part to which her possessions are contiguous.
The territorial sovereignty of China, nevertheless, remains unimpaired, and
the government of the United States has every confidence in the repeated
assurances of the Imperial Japanese government that while geographical position
gives Japan such special interests they have no desire to discriminate against the
P19
trade of other nations or to disregard the commercial rights heretofore granted by
China in treaties with other powers.
The governments of the United States and Japan deny that they have any
purpose to infringe in any way the independence or territorial integrity of China,
and they declare, furthermore, that they always adhere to the principle of the so-
called ―open door‖ or equal opportunity for commerce and industry in China.
Moreover, they mutually declare that they are opposed to the acquisition by
any government of any special rights or privileges that would affect the
independence or territorial integrity of China or that would deny to the subjects or
citizens of any country the full enjoyment of equal opportunity in the commerce
and industry of China.
I shall be glad to have Your Excellency confirm this understanding of the
agreement reached by us.
Accept, Excellency, the renewed assurance of my highest consideration.
(Signed) ROBERT LANSING.
His EXCELLENCY, VISCOUNT KIKUJIRO ISHII, Ambassador
Extraordinary and Plenipotentiary of Japan, on Special Mission.
Nguồn:http://www.fas.nus.edu.sg/hist/eia/documents_archive/lansing-
ishii.php.
P20
PL 5. CHÂN DUNG CÁC TỔNG THỐNG HOA KỲ TỪ NĂM 1861 ĐẾN
NĂM 1921
Từ trái qua phải: Abraham Lincoln, Andrew Johnson, Ulysses S. Grant, Rutherford
B. Hayes, James Garfield, Chester A. Arthur, Grover Cleveland, Benjamin
Harrison, William McKinley, Theodore Roosevelt, William H. Taft, Woodrow
Wilson.
P21
PL 6. DANH SÁCH BỘ TRƢỞNG NGOẠI GIAO HOA KỲ TỪ NĂM 1861
ĐẾN NĂM 1920
STT HỌ VÀ TÊN NHIỆM KỲ
01 William H. Seward 5/3/1861 – 4/3/1869
02 Elihu B. Washburne 5/3/1869 – 16/3/1869
03 Hamilton Fish 17/3/1869 – 12/3/1877
04 William M. Evarts 12/3/1877 – 7/3/1881
05 James G. Blaine 7/3/1881 – 19/12/1881
06 Frederick T. Frelinghuysen 19/12/1881 – 6/3/1885
07 Thomas F. Bayard, Sr. 7/3/1885 – 6/3/1889
08 James G. Blaine 7/3/1889 – 4/6/1892
09 John W. Foster 29/6/1892 – 23/2/1893
10 Walter Q. Gresham 7/3/1893 – 28/5/1895
11 Richard Olney 10/6/1895 – 5/3/1897
12 John Sherman 6/3/1897 – 27/4/1898
13 William R. Day 28/4/1898 – 16/9/1898
14 John Hay 30/9/1898 – 1/7/1905
15 Elihu Root 19/7/1905 – 27/1/1909
16 Robert Bacon 27/1/1909 – 5/3/1909
17 Philander C. Knox 6/3/1909 – 5/3/1913
18 William Jennings Bryan 5/3/1913 – 9/6/1915
19 Robert Lansing 24/6/1915 – 13/2/1920
Nguồn: http://www.state.gov/secretary/former/
P22
PL 7. Tàu USS.Maine
Tàu USS.Maine vào ngày 23/1/1898
Nguồn: http://www.loc.gov/rr/hispanic/1898/img/maine1.jpg
P23
PL 8. Bức điện tín của Ngoại trƣởng Đức Arthur Zimmermann
Bức điện tín Zimmermann của Ngoại trƣởng Đức Arthur Zimmermann gửi
Đại sứ Đức tại Mexico (tháng 3/1917) sau khi đƣợc giải mã đã chấm dứt thái
độ trung lập của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki /Zimmermann_Telegram#/media/
File:Zimmermann_Telegram.jpeg.