chuong 1 - khai quat ctn

24
1 BNÔNG NGHIP VÀ PTNT BGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HC THY LI BMÔN ĐỊA KTHUT BÀI GING MÔN HC CÔNG TRÌNH NGM Biên son: PGS.TS. Nghiêm Hu Hnh HÀ NI 2012

Upload: ngovanlinh

Post on 07-Dec-2014

119 views

Category:

Documents


10 download

TRANSCRIPT

Page 1: Chuong 1 - Khai Quat CTn

1

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

BỘ MÔN ĐỊA KỸ THUẬT

BÀI GIẢNG MÔN HỌC

CÔNG TRÌNH NGẦM

Biên soạn: PGS.TS. Nghiêm Hữu Hạnh

HÀ NỘI 2012

Page 2: Chuong 1 - Khai Quat CTn

2

MỤC LỤC

Mục Trang

Chương 1

Khái quát về công trình ngầm

3

1.1 Giới thiệu chung 3

1.2 Sơ lược về lịch sử xây dựng công trình ngầm 3

1.3 Một số khái niệm 11

Chương 2

Tính toán ổn định công trình ngầm

24

2.1 Công tác khảo sát dự án 24

2.2 Ổn định của công trình ngầm đào bằng phương pháp đào mở 39

2.3 Ổn đinh của công trình ngầm đào bằng phương pháp đào kín 66

Chương 3

Một số phương pháp pháp thi công công trình ngầm

82

3.1 Thi công công trình ngầm theo phương pháp đào mở 82

3.2 Thi công công trình ngầm theo phương pháp đào kín 115

Chương 4

Quan trắc công trình ngầm

144

4.1 Quan trắc hố đào và công trình lân cận 144

4.2 Quan trắc đánh giá và đo đạc đường hầm 151

Tài liệu tham khảo 167

Page 3: Chuong 1 - Khai Quat CTn

3

Chương 1

Khái quát về công trình ngầm

1.1 Giới thiệu chung

Công trình ngầm là công trình nằm trong lòng đất.

Theo mục đích sử dụng, có thể phân chia như sau:

Công trình ngầm giao thông: hầm đường sắt, hầm đường ô tô xuyên núi,

hầm cho người đi bộ, tầu điện ngầm, hầm vượt sông.

Công trình thủy lợi ngầm: hầm công trình thủy điện, hầm dẫn nước tưới

tiêu, hầm cấp thoát nước, hầm đường thủy

Công trình ngầm đô thị: hầm giao thông đô thị (hầm ở nút giao thông, hầm

cho người đi bộ, hầm tầu điện ngầm…) hầm cấp thoát nước, hầm cáp thông tin,

năng lượng (collector), gara ngẩm, hầm nhà dân dụng, hầm nhà xưởng, gara

ngầm, các công trình công công (cửa hàng, nhà hát, phố ngầm…)

Công trình ngầm khai khoáng: hầm chuẩn bị, hầm vận tải, hầm khai thác,

hầm thong gió…

Công trình đặc biệt: Hầm chứa máy bay, tầu thuyền, kho tàng, nhà máy…

Theo kích thước, công trình ngầm có thể được chia ra thành:

Công trình ngầm tiết diện nhỏ: bề ngang sử dụng l < 4m,

Công trình ngầm tiết diện trung bình: bề ngang sử dụng 4m < l <10m,

Công trình ngầm tiết diện lớn: bề ngang sử dụng l > 10m

Theo phương pháp thi công có thể chia ra:

Công trình ngầm thi công theo phương pháp đào mở,

Công trình ngầm thi công theo phương pháp đào kín

Công trình ngầm thi công theo phương pháp hạ chìm.

Page 4: Chuong 1 - Khai Quat CTn

4

1.2 Sơ lược về lịch sử xây dựng công trình ngầm

Từ lâu, trước công nguyên, ở Babilon, Ai cập, Hy Lạp, La Mã các công

trình ngầm đã được khai đào với mục đích khai khoáng, xây lăng mộ, nhà thờ,

cấp nước, giao thông. Một số công trình còn giữ nguyên được cho đến ngày nay.

Công trình ngầm được coi là lâu đời nhất trên thế giới là đường hầm xuyên qua

sông Eupharate ở thành phố Babilon được xây dựng vào khoảng năm 2150 trước

Công Nguyên. Vào những năm 700 trước Công Nguyên, một đường hầm dẫn

nước đã được xây dựng ở đảo Samosaite, HyLạp. Hầu hết các hầm cổ xưa được

xây dựng trong nền đá cứng, có dạng vòm giống như các hang động tự nhiên,

không cần vỏ chống. Thi công hầm bằng công cụ thô sơ như choòng, xà beng và

phương pháp nhiệt đơn giản: đốt nóng gương hầm, sau đó làm lạnh bằng nước.

Vào cuối thời kỳ Trung Cổ, việc mở rộng giao thương đã thúc đẩy phát

triển các đường hầm giao thông. Hầm đường thủy đầu tiên trên thế giới dài 160m

được xây dựng tại Pháp từ năm 1679 đến năm1681. Sự xuất hiện của đường sắt

đã thúc đẩy phát triển hầm đường sắt, những hầm đường sắt đầu tiên dài 1190m

được xây dựng trong những năm 1826- 1830 trên tuyến đường Liverpool –

Manchester ở Anh. Cùng thời gian này người ta cũng đã xây dựng các hầm

đường sắt ở Pháp và các nước Châu Âu khác. Công nghệ khai đào thời kỳ này

chủ yếu là khoan tay và thuốc nổ đen. Việc phát minh ra thuốc nổ Dinamite

(1866) cùng với áp dụng máy khoan đập xoay đã tạo nên bước ngoặt trong xây

dựng công trình ngầm như xây dựng các đường hầm xuyên qua dãy Alpe nối

Pháp, Ý và Thụy Sỹ. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, người ta đã xây

dựng được 26 đường hầm giao thông có chiều dài lớn hơn 5km, trong đó có hầm

dài nhất thế giới là hầm Sinplon, dài 19780m. Vật liệu vỏ hầm chủ yếu là đá hộc

vữa vôi hoặc vữa xi măng. Mãi đến những năm 70 của thế kỷ 20 bê tông mới trở

thành vật liệu chủ yếu trong xây dựng công trình ngầm.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhịp độ xây dựng hầm giảm đi vì hệ

thống đường sắt đã tương đối hoàn chỉnh ở các nước châu Âu.

Cùng với hầm xuyên núi, hầm dưới nước cũng được xây dựng với mục

đích giao thông đường sắt và đường bộ. Hầm dưới nước được xây dựng băng

phương pháp khiên đào kết hợp với khí nén có vỏ hầm là các tấm lắp ghép bằng

gang đúc sẵn (vì chống chu bin). Khiên hầm được sử dụng lần đầu tiên vào năm

1825 trong xây dựng đường hầm qua sông Thames ở Anh. Chỉ riêng ở New

Page 5: Chuong 1 - Khai Quat CTn

5

York đã có 19 hầm lớn dưới nước. Hầm dưới nước trên tuyến đường sắt đi dưới

vịnh Simonosec, Nhật Bản (1936-1941) dài 6330m. Những năm gần đây, người

ta đã xây dựng những đường hầm dưới nước xuyên biển dài kỷ lục, như hầm qua

vịnh Suga Nhật Bản dài 36,2km, hàm qua eo biển Manche nối Anh và Pháp dài

gần 40km.

Một phương pháp được sử dụng để thi công hầm dưới nước là phương

pháp hạ chìm đoạn hầm đã được đúc sãn vào hào ở dưới nước, sau đó lấp đất trở

lại. Phương pháp hạ chìm này đã khắc phục được việc sử dụng khí nén ảnh

hưởng đến sức khỏe người thợ, hạ giá thanh, rút ngắn thời giant hi công.

Tuyến đường tầu điện ngầm ở Luân Đôn, Anh vận hành năm 1853 là

tuyến tầu điện ngầm đầu tiên trên thế giới, mở đầu thời ký xây dựng các hệ thống

tầu điện ngầm trên các than phố lớn của thế giới. Đến nay đã có trên 100 hệ

thống tầu điện ngầm ở trên 30 nước.

Từ những năm cuối thế kỷ 20, hầm thủy lợi đã được phát triển với quy mô

lớn, đặc biệt là hầm thủy điện. Trên thế giới đã có trên 350 nàh máy thủy điện và

thủy tích điện ngầm với công suất trên 40 triệu kw. Ở Liên Xô, Mỹ và nhiều

nước khác các gian máy thường có diện tích ngang từ 200m2 đến 500m2, chiều

dài từ 40m đến 200m, chiều cao đến 40m-50m.

Ở Việt Nam, hầm giao thông thuỷ Rú Cóc được xây dựng năm 1930 ở xã

Nam Sơn, huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An, hầm ngầm xuyên qua núi giúp cho

thuyền bè đi lại từ phía thượng lưu xuống hạ lưu sông Lam để tránh đập nước Đô

Lương. Một số hầm đường sắt cũng được xây dựng mà điển hình hầm đường sắt

Phước Tượng trên đèo Hải Vân thuộc địa phận Thừa Thiên -Huế.

Trong những năm chiến tranh, chỉ đào một số ít hầm ngắn để làm kho

quân trang, quân dụng hoặc hầm trú ẩn cho người và hệ thống kỹ thuật. Điển

hình là hệ thống hầm hào gồm các đường hầm ngầm dài hàng km nằm trong lòng

đất Vĩnh Mốc, Củ Chi.

Một loại hầm được xây dựng phổ biến ở Việt Nam là hầm lò để khai thác

Than và Khoáng sản.

Vào đầu thế kỷ 20 một số đường hầm đã được xây dựng trên tuyến đường

sắt Bắc Nam như hầm Dốc Xây ở Ninh Bình với chiều dài khoảng 100m. trong

giao thông đường sắt đã xây dựng được 41 hầm với tổng chiều dài 11,900m. Sự

phát triển giao thông, thủy điện đã thúc đẩy việc xây dựng đường hầm ở nước ta

Page 6: Chuong 1 - Khai Quat CTn

6

trong hơn một thập kỷ gần đây. Tháng 5 năm 2002 hầm A Roàng I dài 453m trên

đường Hồ Chí Minh được hoàn thành. Tháng 6 năm 2005 hầm đường bộ Hải

Vân có chiều dài 6290m được đưa vào sử dụng đã rút ngắn đoạn đường đèo từ

21 km xuống còn 12km so với tuyến đường đèo cũ. Từ dự án hầm đường bộ Hải

Vân, công nghệ tiên tiến trong xây dựng hầm của Nhật Bản đã được kỹ sư Việt

Nam áp dụng để thiết kế, thi công 495m hầm đường bộ Đèo Ngang rút ngắn

tuyến đường đèo từ hơn 7km xuống còn 2,5km.

Hình 1.1. Hầm Hải Vân nhìn từ cửa hầm phía Bắc

Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng ngầm đô thị cũng đã được

chú ý, đặc biệt ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

- Tháng 11 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định về Xây dựng ngầm

đô thị. Đây là khung pháp lý cho quy hoạch, xây dựng, bảo trì, khai thác và quản

lý không gian ngầm đô thị.

- Bộ Xây dựng đã ra văn bản trình Thủ tướng Chính phủ về việc bắt buộc phải có

thiết kế tầng hầm cho nhà cao tầng ở Hà Nội

Trong giai đoạn 1990-2000, phần lớn các nhà cao tầng xây dựng ở khu vực

Hà Nội được xây dựng không có tầng ngầm hoặc chỉ với 1-2 tầng ngầm. Các

công trình không có tầng ngầm thường là các chung cư được xây dựng ở các khu

đô thị mới trong khi các nhà cao tầng xây chen trong khu vực đô thị cũ thường

chỉ có 1 tầng ngầm. Trong giai đọan từ năm 2000 đến nay yêu cầu về sử dụng

tầng ngầm ngày càng tăng, chủ yếu là để xe 4 bánh cho các văn phòng và dân cư

sống trong các nhà cao tầng. Điển hình trong số các công trình có nhiều tầng

ngầm là tòa nhà Pacific Place tại 83B Lý Thường Kiệt với 5 tầng ngầm thi công

Page 7: Chuong 1 - Khai Quat CTn

7

trong điều kiện xây chen và nút giao thông ngầm Kim Liên. Bảng 1.1 giới thiệu

một số công trình có trên 2 tầng ngầm được xây dựng ở Hà Nội trong thời gian

gần đây.

Bảng 1.1. Danh mục một số công trình đã xây dựng

trong thời gian gần đây ở Hà Nội

TT Tên công trình Số tầng hầm Đặc điểm thi công tầng hầm

1 Văn phòng và chung cư 27

Láng Hạ

2 - Tường barrette

- Đào hở, chống bằng dàn thép

2 Trụ sở kho bạc NN 32 Cát

Linh

2 - Tường barrette

- Top – down

3 Toà nhà 70-72 Bà Triệu 2 - Tường barrette

- Top – down

4 VP và Chung cư 47 Huỳnh

Thúc Kháng

2 - Tường barrette

- Top – down

5 Toà nhà Vincom 191 Bà

Triệu

2 - Tường barrette

- Top – down

6 Chung cư cao tầng 25 Láng

hạ

2 - Tường barrette

- Top – down

7 TT Viễn thông VNPT 57

Huỳnh Thúc Kháng

2 - Tường barrette

- Không chống

8 Toà nhà tháp đôi HH4 Mỹ

Đình

2 - Tường barrette

- Đào hở, chống bằng dàn thép

9 Trụ sở văn phòng 59 Quang

Trung

2 - Tường barrette

- Top – down

10 Ocean Park số 1 Đào Duy Anh - Tường bê tông thường

- Cọc xi măng đất

11 Toà nhà Vietcombank 2 - Tường barrette

- Neo trong đất

12 Pacific Place 83 Lý Thường

Kiệt

5 - Tường barrette

- Top – down

13 M5 TOWER 2-5 - Tường barrette

- Top – down

14 Tháp BIDV 3 Tường barrette

Văng chống thép

15 Hanoi Tower 5 - Tường barrette

- Top – down

16 Keangnam 3 - Tường barrette

- Neo trong đất

17 Nút giao thông ngầm Kim

Liên

Cèt ®¸y

mãng:-13 m

- Tường cừ Larsen

- Văng chống thép

Trong xây dựng thuỷ điện ở Việt Nam, giải pháp đường hầm được sử

dụng ở rất nhiều nhà máy thuỷ điện như Hoà Bình, Sơn La, A Vương, Đại Ninh,

Page 8: Chuong 1 - Khai Quat CTn

8

Bản Vẽ, Bắc Bình, Đồng Nai, Buôn Kuốp và nhiều nhà máy thuỷ điện khác. Đặc

biệt đối với các nhà máy thuỷ điện được xây dựng tại miền Trung thì đường hầm

được coi là giải pháp tối ưu để đảm bảo cho việc lựa chọn vị trí xây dựng đập

dâng và nhà máy.

Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình được khởi công xây dựng từ năm 1979

khánh thành năm 1984 với 8 tổ máy có tổng công suất 1920MW, cho đến nay

vẫn là công trình thuỷ điện lớn nhất Đông Nam Á. Tổ hợp công trình ngầm nhà

máy thủy điện Hoà Bình dài 14 200m được bố trí như trên hình 1.4, gồm các hệ

thống:

- Hầm gian máy với 8 tổ máy, công suất mỗi tổ 240MW, có kích thước

rộng 22m, cao 53m (tính đến đáy ống hút), dài 280m.

- Hầm máy biến thế cao 20m, rộng 15m bố trí 8 máy biến áp đặt sông sông

với gian máy.

- Hầm dẫn nước: gồm 8 hầm với đường kính mỗi hầm D=8m, 3 hầm xả

nước tổ máy và hệ thống hầm thông gió, hầm cáp điện, hầm phục vụ thi công…

Danh mực một số công trình thủy điện có công trình ngầm ở nước ta được

nêu ở bảng 1.2.

Page 9: Chuong 1 - Khai Quat CTn

9

Hình 1.2. Sơ đồ tổ hợp ngầm nhà máy thủy điện Hoà Bình

Page 10: Chuong 1 - Khai Quat CTn

10

Bảng 1.2. Một số dự án thủy điện có xây dựng công trình ngầm ở nước ta

Tên công trình Tỉnh Công suất

(MW)

Chiều dài hầm

(km)

Đường kính trong

(m)

Yaly Gia Lai 720 2x3.85 7.0

Thượng Kon Tum Kontum 250 18 2.6

Bản Vẽ Nghệ An 320 2x0.8 7.5

An Khê -KaNak Gia Lai 163 3.075 4.50

Cửa Đạt Thanh Hoá 90 2x0.625 11.0

Sông Tranh 2 Quảng Nam 190 1.800 8.5

Quảng Trị Quảng Trị 70 5.60 3.0

Sông Ba Hạ Phú Yên 220 2x1.0 7.5

Sêrêpok 3 Đắk Lắk 220 2x0.60 8.0

ĐaMi Lâm Đồng 173 2.30 7.0

Thác Mơ Bình Phước 75 0.80 4.5

A Vương Quảng Nam 210 8.30 5.5

Eakrông Phú Yên 64 1.90 4.5

Đại Ninh Lâm Đồng 300 11.26 45

Buôn Kuốp Đắc Lắc 280 2x4.37 7.0

Huội Quảng Sơn La 540 4.0 7.5

Sêkaman3 Lào 250 7.0 4.0

ZaHưng Quảng Nam 28 1.70 5.0

Đăk Mi1 Quảng Nam 250 10.0 5.0

Bắc Bình Bình Thuận 33 2.50 4.5

Hủa Na Nghệ An 180 4.00 7.0

Ayun thượng 1A Gia Lai 12 3.6 3.25

Page 11: Chuong 1 - Khai Quat CTn

11

1.3 Một số khái niệm

Hiện có rất nhiều phương pháp đào hầm, có thể chia thành 2 nhóm

phương pháp chính sau đây: Phương pháp đào và lấp (đào mở) và phương pháp

đào kín. Mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm nhất định và tuỳ

từng điều kiện địa chất, hiện trường, khả năng công nghệ cụ thể mà có thể vận

dụng hợp lý.

Phương pháp đào mở khá thông dụng song ngày càng trở nên khó chấp

nhận đối với việc thi công hầm ở các đô thị có mật độ công trình dày đặc và gây

cản trở cho lưu thông xe cộ ở khu vực công trường. Ngoài ra phương pháp đào

mở có chi phí khá cao do phải sử dụng hệ thống chống giữ thành hố đào.

1.3.1 Xây dựng công trình ngầm bằng phương pháp đào mở

3.1.1.1. Khái quát

Trong phương pháp đào mở, đất được đào lên theo cách lộ thiên từ mặt đất,

tạo không gian cho công trình ngầm, sau đó đất được đắp lại (cut - and - cover

construction). Phương pháp này thường được dùng để thi công những loại CTN

đặt nông (giới hạn trong phạm vi 5 - 15m, có khi đến 20 m từ cốt mặt đất).

Thông thường, các đường vượt ngầm ngắn, hệ thống côlectơ để đặt mạng lưới kỹ

thuật đô thị (cáp điện, động lực, cáp thông tin, ống cấp khí đốt, ống cấp và thoát

nước ...) gara ô tô 1 - 2 tầng ngầm, đường và ga tàu điện nông, các công trình

văn hoá giải trí, kho thực phẩm hoặc các mương - ống công nghệ trong công

nghiệp... thường thi công trong các hố/hào lộ thiên - đào mở.

Trong đô thị, phương pháp đào mở thường chủ yếu được áp dụng cho một

số loại hình công trình sau:

Các đường ngầm giao thông cơ giới đặt nông

Các đường hầm giao thông cơ giới trong các đô thị được dựng để:

- Phân nhánh đi lại ở các mức khác nhau tại các nút giao thông hoặc tại các

phân nhánh của tuyến đường chính.

- Tăng hoặc phân đều khả năng thông thoát của một số đoạn tuyến chính;

- Tăng cường cấu trúc quy hoạch của mạng lưới tuyến phố;

- Xây dựng các đoạn đường lên xuống, các bến xe và gara ngầm, các trung

tâm thương mại, kho, nhà ga, cảng hàng không v.v…

Page 12: Chuong 1 - Khai Quat CTn

12

Các đường trục ô tô ngầm

Các đường ngầm giao thông cơ giới riêng biệt tương đối ngắn đặt nông làm

tăng khả năng thông xe của đường trục và tạo được trật tự cho chuyển động của

các phương tiện giao thông trên mặt đất ở những vùng lân cận đô thị. Phát triển

mạng lưới các đường ngầm đủ dài tạo khả năng đảm bảo phục vụ quá cảnh cho

dòng giao thông lớn qua vùng trung tâm đô thị.

Tại các lối chính của đường trục ôtô ngầm cũng như qua những khoảng

nhất định theo chiều dài, cần phải bố trí lối vào và lối lên mặt đất. Dọc tuyến

đường trục ngầm tại các vị trí tiếp nối và giao nhau nên xây dựng các tổ hợp

ngầm lớn bao gồm cả bến đỗ và gara.

Các bến đỗ ôtô, gara và các tổ hợp ngầm, tầng hầm nhà cao tầng

Vì các điểm đỗ xe ngoài trời trên mặt đất chiếm nhiều chỗ nên tốt hơn là

xây dựng các bến đỗ nhiều tầng và gara sức chứa lớn. Tuy nhiên, xây dựng các

bến đỗ và gara như vậy tại các vùng trung tâm đô thị sẽ gặp những khó khăn nhất

định liên quan đến việc thiếu quỹ đất trống hoặc giá thành đất cao. Do đó xây

dựng các bến đỗ, gara ngầm và nửa ngầm ngoài phạm vi tuyến phố sẽ rất hiệu

quả. Chúng chiếm diện tích giới hạn và giải phóng được phần đất đô thị để xây

dựng nhà và các công trình khác.

Do tồn tại nhiều dạng bến đỗ và gara khác nhau về công dụng, địa điểm xây

dựng chiều sâu chôn ngầm, sức chứa, sơ đồ quy hoạch, số lượng tầng, đặc điểm

kết cấu v.v… việc lựa chọn dạng bến đỗ và gara ngầm được quyết định chủ yếu

bằng các điều kiện giao thông và xây dựng đô thị cụ thể, cũng như sự luận giải

về kinh tế. Ở Tokyo, hầu như các tòa nhà cao tầng đều có 8 tầng ngầm mở rộng

liên kết với xung quanh qua các phố tiếp giáp. Các tổ hợp ngầm đang được tạo

lập. Một tổ hợp ngầm 5 tầng dài 735m, rộng 44m đã được xây dựng dưới nhà ga

đường sắt Tokyo. Tầng hầm đầu tiên dành cho người đi bộ, tầng thứ hai dành

cho các trang bị kỹ thuật, các thiết bị thông khí,kiểm soát..., tầng thứ 3 dùng cho

các dịch vụ bán vế, tra cứu, cafe, nhà hàng..., tầng thứ tư dùng để phân phối, kết

nối cầu thang máy với các tầng khác, tầng thứ 5 bố trí đường sắt. Hàng ngày có

trên 200.000 người lui tới tổ hợp này. Ở Tokyo đã xây dựng 5 tuyến phố ngầm

dài 640m, đặt sâu 8m dưới mặt đất. Trong không gian ngầm này bố trí các cửa

hàng, quán caffe, rạp chiếu phim...

Đường ngầm bộ hành

Page 13: Chuong 1 - Khai Quat CTn

13

Khi giải quyết các vấn đề giao thông trong các đô thị lớn người ta sử dụng

cả các biện pháp trật tự hóa giao thông bộ hành, tạo lập những đường đi bộ riêng,

tách khỏi các phương tiện giao thông, thuận lợi và dễ dàng cho người đi bộ, đảm

bảo sự liên hệ với các trung tâm đô thị lớn. Khi tổ chức hệ thống đường bộ hành

trong đô thị tất yếu xuất hiện sự cần thiết cắt qua các đường trục ôtô, đường sắt

và các đường giao thông. Mặc dù có nhiều biện pháp đảm bảo điều kiện an toàn

trong trường hợp xây dựng đường vượt trên mặt đất (đèn tín hiệu, đường kẻ,

hàng rào trên hành lang, đảm bảo an toàn, các chỉ dẫn rõ ràng v.v…), nhưng

đường vượt như vậy không thể bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người qua đường.

Ngoài ra, khi vượt nổi không thể đảm bảo cho chuyển động các phương tiện giao

thông liên tục và có tốc độ cao trên đường trục. Do đó, trong các đô thị người ta

sử dụng rộng rãi đường vượt bộ hành ngoài phố dạng cầu và dạng đường ngầm.

Khi tổng kết việc xây dựng tàu điện ngầm ở Nga từ 1965 đến 1995,

A.B.Ivanhưc đã chỉ ra rằng phương pháp đào mở đã chiếm tỷ lệ đáng kể và đã

tăng từ 39% (25,3km/63,7km) trong những năm 1965-1970 lên 63%

(84,3km/141.6km) trong những năm 1991 - 1995 (xem hình 1.3). Sự tăng

trưởng này được giải thích là do công nghệ thi công đào mở phát triển nhanh khả

năng cẩu nâng lớn khi lắp các đốt công trình ngầm đúc sẵn. Trong nhiều đô thị ở

các nước SNG, nơi việc xây dựng tàu điện ngầm được bắt đầu chưa lâu, người ta

chỉ đặt các tuyến nông như ở Tasken, Minxk, Nôvôxibirxk, Nifni, Novgorod,

Xamara, Omxk... Tình hình như vậy cũng nhận thấy ở nhiều nước trên thế giới.

Ngay như ở những thành phố lớn của Nhật (Tokyo, Osaka...) hệ thống tàu điện

ngầm cũng dùng phương pháp đào mở, làm nắp (sàn mái của hầm) để giải quyết

giao thông thông suốt trên mặt đất và tiếp tục đào dưới nắp theo các đại lộ lớn

của đô thị.

Hình 1.3. Tỷ lệ độ dài các truyến đường tàu điện ngầm

đặt sâu và nông (phần gạch)

Page 14: Chuong 1 - Khai Quat CTn

14

Lựa chọn phương pháp thi công công trình ngầm theo phương pháp đào

mở hay đào ngầm, chủ yếu dựa trên sự phân tích kỹ lưỡng, thận trọng các yếu tố

sau: hiệu quả kinh tế - kỹ thuật, bảo đảm an toàn về môi trường và khả năng áp

dụng công nghệ hiện đại. Kinh nghiệm thế giới đã tổng kết rằng ưu điểm nổi bật

của phương pháp đào mở như sau:

- Có thể sử dụng máy làm đất và máy thi công khác nhau với mức cơ giới

hoá cao,

- Có thể thi công hố đào sát tới tường ngoài của công trình ngầm hiện hữu,

- Thi công chống thấm cho công trình ngầm đơn giản và có chất lượng.

Phương pháp đào mở sẽ có nhiều ưu việt khi công trình ngầm có diện tích

lớn trên mặt bằng và không sâu lắm và thường được chọn dùng trong những điều

kiện địa chất như :

a) Trong nền đất có đá lăn mồ côi, hay trong sỏi sạn;

b) Trong đất cát bão hoà nước đến độ sâu 6 - 7m;

c) Trong đất có độ ẩm tự nhiên đến độ sâu 10 - 11m;

d) Trong đất sét bão hoà nước đến độ sâu 10 - 12m;

e) Trong đất sét đến độ sâu 13 - 16m.

Những kiến nghị này có tính chất định hướng và trong điều kiện cụ thể,

dựa trên độ sâu tối ưu để dùng phương pháp này hay phương pháp khác. Với

những phương tiện cơ giới hiện đại trong việc đào và vận chuyển đất đã cho

phép trong thời gian ngắn đào được khá sâu và rất rộng. Do đó đôi khi người ta

chuyển từ phương pháp thi công đặc biệt (ví dụ như giếng chìm hoặc đào ngầm)

sang đào mở nhất là trong đất có độ ẩm tự nhiên thấp. Trong vùng xây mới (nơi

chưa có công trình xây dựng nhưng đã có qui hoạch ổn định) phương pháp đào

mở là phương pháp thích hợp nhất khi làm các loại công trình ngầm như colectơ,

lối vượt ngầm, ga ra ô tô, tàu điện ngầm vv...

Phương pháp đào mở cũng có những nhược điểm và hạn chế, nhất là khi

thi công trong vùng đô thị có dân cư đông đúc như:

- Chiếm đất nhiều, ồn và dễ gây ách tắc giao thông. Có thể hạn chế bớt

ảnh hưởng không tốt nói trên khi dùng phương pháp đào của ngành mỏ bằng

cách làm các tường vĩnh cửu của công trình ngầm trước, làm nắp của hầm đủ

chắc chắn để phương tiện giao thông đi lại trên đó và công tác khác trên mặt đất

cũng có thể thực hiện trên nắp công trình ngầm.

Page 15: Chuong 1 - Khai Quat CTn

15

- Trong đất sét yếu và đất bụi, việc đào hào sẽ bị hạn chế do phải duy trì

ổn định vách hố và đáy hố, nên đòi hỏi phải thi công nhanh gấp.

- Sự gò bó trong vạch tuyến khi phải bám theo đường phố hiệu hữu, đặc

biệt là bán kính cong nhỏ khi mở tuyến tàu điện ngầm. Một số nơi hào đào lấn

vào móng công trình hiện hữu làm cho nó kém đi về chịu lực hoặc biến dạng,

nên phải gia cường chống đỡ thêm, gây tốn kém.

- Tiến độ thi công và giá thành của phương pháp đào - lấp bởi có nhiều

việc phải làm thêm do những sai sót khi khảo sát điều tra hoặc đánh dấu vì chúng

chỉ được phát hiện lúc đào, di dời hoặc phải đặt lại hệ thống kỹ thuật đô thị hiện

đang khai thác (cáp điện, thông tin, ống cấp thoát nước... ) là vấn đề khá phức

tạp, kéo dài tiến độ thi công.

- Chuyển vị của đất và lún các công trình hiện hữu. Các phương pháp làm

giảm sự trồi đáy hay giảm đào lẹm cũng như sự thay đổi dòng chảy và mực nước

ngầm... đều dẫn đến những trở ngại trong tiến độ thi công và thay đổi giá thành.

Dùng neo đất, thanh chống có lắp kích để căng chỉnh là những giải pháp có hiệu

quả đối với công trình nhạy lún hoặc công trình cũ ở lân cận hố đào.

- Việc di dân để giải phóng mặt bằng dành chỗ cho công trình cũng như

cho sân bãi công trường xây dựng, tổ chức lại các tuyến giao thông, ồn, chấn

động, bụi... khi thi công thường là những vấn đề xã hội - kinh tế khó giải quyết

nhanh gọn để công trình khởi công đúng hạn.

3.1.1.2 Các kết cấu chắn giữ thành hố đào

Dưới đây là một số hệ kết cấu chống giữ thường được sử dụng trong công

nghệ đào mở.

1. Đào không cần chống giữ thành. Trong điều kiện đất trống trải và đủ

rộng (ví dụ vùng ngoại thành) thì cho phép đào hố với độ dốc tự nhiên mà không

cần chống giữ thành hoặc chỉ cần bảo vệ mặt dốc bằng lớp xi măng lưới thép để

phòng mất ổn định. Yêu cầu chính là độ nghiêng thành hố đảm bảo được ổn định

và độ sâu không vượt qúa độ sâu giới hạn hgh=4c/, trong đó c là lực dính và là

dung trọng của đất.

2. Chống giữ thành bằng trụ đứng -ốp bản (Soldier piles with Lateral

laggings). Hệ chống giữ này gồm trụ/cọc (bằng thép hình hoặc bê tông cốt thép

đúc sẵn ) khoảng cách giữa các cọc xác định theo tính toán, thường từ 1,0-2,0m,

Page 16: Chuong 1 - Khai Quat CTn

16

thanh chống /văng chống ngang (có khi thay bằng neo đất ), dầm giữa ở lưng

tường và bản cài ngang bằng gỗ dày từ 7-10cm (có khi thay bằng bê tông phun).

Loại tường này dùng cho những hố móng không sâu (<12m), vùng đất khô ráo

hoặc phải hạ mực nước ngầm, thi công đơn giản: đóng hoặc ép các trụ quanh hố

đào, đào đất từng lớp dày khoảng 1m, cài bản gỗ ngang giữa các trụ/cọc, độn

bằng vật liệu rời sau lưng tường dể tạo phẳng mặt tường phía hố đào và đặt thanh

chống hoặc neo theo thiết kế. Trên hình 1.4 trình bày các cấu kiện của loại tường

vừa nêu còn trên hình 1.5 trình bày một ví dụ dùng loại tường này cho công trình

đường vượt ngầm trong đô thị ở Pháp.

Hình 1.4. Hệ kết cấu tường chống bằng

trụ đứng có bản cài ngang

Hình 1.5. Ví dụ về hệ tường

chắn gồm trụ/cọc đứng với bản cài

ngang bằng gỗ

3. Tường chắn bằng cọc bản. Các dạng cọc bản thường dùng hiện nay,

theo vật liệu có thể chia ra: Cọc bản bằng gỗ (ít dùng nên không trình bày); cọc

bản bằng bê tông cốt thép; cọc bản bằng thép; cọc bản bằng chất dẻo PVC.

a) Cọc bản BTCT (concrete sheet piles) gồm 2 loại: BTCT không ứng suất

trước và BTCT ứng suất trước. Loại cọc bản BTCT không ứng suất trước có cấu

tạo như trình bày trên hình 1.6 và loại cọc bản BTCT ứng suất trước xem hình

1.7. Loại tường bằng cọc bản bê tông cốt thép có độ cứng lớn, đầu cọc dịch

chuyển nhỏ, không bị ăn mòn nhanh, có thể được dùng như một kết cấu vĩnh

cửu.

Page 17: Chuong 1 - Khai Quat CTn

17

Hình 1.6. Cấu tạo cọc BTCT thường

của tường cừ

Hình 1.7. Một số hình dạng mặt cắt

ngang cọc bản BTCT ứng suất trước

b) Tường chắn bằng cọc cừ bản thép (steel sheet piles). Thường có 4 loại

cừ bản thép sau đây: Cừ thép bản phẳng: Ký hiệu SP-1, loại cừ này có mô men

kháng uốn không lớn, chiều dài chế tạo 8 - 22m; cừ máng thép : Ký hiệu SP-2,

chiều dài chế tạo 8 - 22m thường sử dụng cho các loại kết cấu chống thấm (đê

quai, móng đập) công trình xây dựng; cừ thép chữ Z : Ký hiệu SK-1, SK-2, SĐ-

5; cừ Larssen: Thường chế tạo 4 loại cừ: IV, V, VI, VII có chiều dài từ 8 - 22m

với liên kết móc rắn chắc, tạo ra mô men kháng uốn lớn, đây là loại cừ đang

được sử dụng phổ biến hiện nay.

Để ổn định tường cọc cừ bản thép, tuỳ theo bề rộng hố đào,mặt bằng và

điều kiện hiện trường mà dùng thanh chống ngang hoặc neo đất.

c) Tường chắn bằng cọc bản vật liệu nhựa composite. Trong những hố đào

nông dùng cho công trình ngầm đặt nông như colectơ, đường cấp thoát nước phụ

vv... hoàn toàn có thể dùng cọc bản nhựa composite để làm tường chắn; do loại

cọc này có tính chống xâm thực/ăn mòn tốt trong môi trưòng chua mặn (có thể

bền đến 30-50 năm), sản xuất công nghiệp, kiểm soát chất lượng dễ, nhẹ (nhẹ

hơn thép 70-75% và nhẹ hơn bê tông 40-50%), thuận tiện trong vận chuyển và

bảo quản, tăng mỹ quan cho công trình trong đô thị (tường kè chống xói lở vùng

ven biển, tường chắn đất, công trình cầu cảng...).

4. Tường chắn bằng hàng cọc. Như đã biết, cọc nhồi bê tông cốt thép hoặc

cọc nhồi bê tông cốt thép kết hợp với cọc xi măng đất có thể dùng để làm tường

chắn thành hố đào. Như đã trình bày trên đây, trong một số trường hợp có thể có

thể kết hợp cọc xi măng đất để ngăn nước còn cọc nhồi bê tông cốt thép để chịu

lực.

Page 18: Chuong 1 - Khai Quat CTn

18

5. Tường liên tục trong đất. Tường liên tục trong đất có thể thi công bằng

phương pháp đổ bê tông tại chỗ hoặc lắp những tấm tường bê tông cốt thép đúc

sẵn vào hào đào sẵn. Có 3 giai đoạn cơ bản để thi công tường: làm tường dẫn,

đào hào, lắp dựng tấm cốt thép và đổ bê tông (hoặc lắp tấm bê tông cốt thép đúc

sẵn ) vào hào. Công nghệ đổ bê tông tường toàn khối quyết định bởi kết cấu của

tường, kiểu máy đào hào và những điều kiện địa chất công trình của nơi thi công.

Căn cứ vào điều kiện đất nền, trang bị và khả năng kỹ thuật cũng như một

số yêu cầu về môi trường và an toàn cao của công trình ở gần để chọn công nghệ

làm tường trong đất bằng phương pháp đúc sẵn - lắp ghép - toàn khối hoá (tức

vừa có đúc sẵn vừa có đổ bê tông tại chỗ). Có thể kết hợp các tấm tường với trụ

đúc sẵn hoặc trụ đổ tại chỗ để liên kết chúng lại với nhau tạo thành tường đúc

sẵn kiểu sườn theo công nghệ Panosol (của hãng Soletanche) và công nghệ

Prefasil (của hãng Bachy).

6. Kết cấu phụ trợ của tường chắn hố đào. Trong những hố đào nông và

nền đất tốt với độ sâu thích hợp thì tường chắn có thể làm việc như dầm con sơn

và đủ cứng để tự ổn định, còn ở những hố đào sâu thì cần có kết cấu phụ trợ để

giữ tường. Hệ thống chắn giữ thành hố đào sâu do hai bộ phận tạo thành, một là

tường chắn hai là thanh chống bên trong hoặc là thanh neo vào đất bên ngoài.

Chúng cùng với tường chắn sẽ tăng thêm ổn định tổng thể của kết cấu chẵn giữ,

không những có liên quan tới độ an toàn của hố đào và công việc đào đất, mà

còn có ảnh hưởng rất lớn tới giá thành và tiến độ của công trình hố đào

1.3.2. Xây dựng công trình ngầm bằng phương pháp đào kín

Theo phương pháp đào kín, có những phương pháp thi công hầm như sau:

Phương pháp khoan nổ truyền thống và NATM.

Phương pháp khiên đào (SM).

Phương pháp khoan đào (TBM).

Phương pháp kích đẩy (pipe jacking).

Các phương pháp đặc biệt (phương pháp làm lạnh, phương pháp nổ

ép,...)

Page 19: Chuong 1 - Khai Quat CTn

19

1.3.2.1 Phương pháp khoan nổ truyền thống và NATM

Phương pháp khoan nổ truyền thống hay còn gọi là phương pháp mỏ được

sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực xây dựng hầm và công trình ngầm do khả năng

áp dụng cho nhiều loại công trình ngầm khác nhau như hầm giao thông, thuỷ

điện, tầng ngầm, ... với những hình dạng và kích thước hình học phức tạp, và xây

dựng trong đất đá cứng và cứng vừa.

Đây là phương pháp lâu đời nhất, có lịch sử phát triển cùng với lịch sử

phát triển của ngành mỏ và đã đạt được những thành công đáng kể trong thế kỉ

20. Thành công lớn nhất của phương pháp khoan nổ chính là sự ra đời và phát

triển của phương pháp thi công hầm mới của Áo – NATM, ra đời trong những

năm 60 của thế kỉ 20 và nhanh chóng trở thành một trào lưu trong lĩnh vực xây

dựng hầm và công trình ngầm của hầu hết các quốc gia trên thế giới và cho đến

nay vẫn chưa mất tính thời sự do các lợi ích của nó mang lại. NATM kết hợp

dùng các bulông neo đá và bê tông phun – chủ yếu dùng để đào hầm trong đá

cứng, đang được ứng dụng trong thi công hầm đô thị, sau gần 4 thập niên phát

triển liên tục và được đúc kết, đã đạt tới độ hoàn thiện đáng tin cậy. Do vậy chỗ

đứng của nó được đảm bảo trong giới chuyên môn hầm.

1.3.2.2 Phương pháp đào hầm bằng cơ giới hoá (TBM và SM)

Trẻ hơn về tuổi đời, song hành với NATM là sự phát triển mạnh mẽ của

phương pháp thi công hầm cơ giới hoá. Những thiết bị cơ giới hoá đào đất để

làm hầm khá đa dạng, kể từ loại máy xúc có trang bị răng xới, các thiết bị thuỷ

lực và các máy đào hầm đa năng (roadheaders) cho đến các TBM có cấu tạo

khác nhau. Ngày nay, TBM là phương pháp đào hầm phổ biến nhất. Loại thiết bị

đa dụng Roadheader khá hữu ích ở nhiều trường hợp khi sử dụng TBM không có

hiệu quả về mặt chi phí.

Mặc dầu có nhiều loại phương tiện kỹ thuật đang thịnh hành, song TBM,

thiết bị chuyên dùng, có thể cơ giới hoá được toàn bộ các khâu: đào, chống đỡ,

thi công áo hầm và chuyển vận đất thải, đã được công nhận là một trong những

đột phá quan trọng về công nghệ thi công hầm.

Kỹ thuật đào hầm bằng khiên (SM), một biến thể của TBM đã được phát

triển theo một chiều hướng mà việc ứng dụng hiện nay cho phép thi công an toàn

Page 20: Chuong 1 - Khai Quat CTn

20

ngay cả trong điều đất rất mềm yếu, có ngậm nước như các loại đất trầm tích.

Khi thi công sẽ có hiện tượng lún bề mặt đáng kể trong các trường hợp mà độ

dày tầng đất phủ là nhỏ. Tuy nhiên bằng biện pháp dùng vữa phun được kiểm

soát tốt để chèn lấp vào khe hổng sau vỏ hầm (backfill) thì vẫn có thể kiềm chế

lún ở mức độ nhỏ, và tránh được những phương hại nghiêm trọng đối với các

công trình lân cận.

Trong công nghệ đào hầm dùng khiên thì lớp vỏ hầm được thi công bằng

cách lắp ghép các cấu kiện (segments) chế sẵn. Một số lượng nào đấy các cấu

kiện đúc sẵn trong một công xưởng sẽ được vận chuyển và tập kết tạm thời ở

một kho bãi gần công trường. Đảm bảo có được một không gian sân bãi như vậy

không phải là dễ dàng, thậm chí trong một giai đoạn tạm thời, ở một khu vực có

mật độ công trình dày đặc.

Đối với các vỏ hầm thi công bằng cấu kiện lắp ghép, những phương pháp

thiết kế khác nhau, được đề nghị dùng cho các điều kiện đất đai và nước ngầm

khác nhau, đều đảm bảo được cường độ cơ lý của lớp vỏ ở hầu hết các trường

hợp. Khả năng phòng nước (warter-stopping) của vỏ hầm được đảm bảo bằng

cách dùng các vật liệu hàn và trám kín khe nối giữa các mảnh cấu kiện. Tuy

nhiên việc làm kín nước lâu dài khó khăn hơn; nếu thật cần thiết thì phải dùng

đến lớp áo thứ cấp (secondary), đôi khi còn phải được gia cường thêm bằng các

thanh cốt thép.

Một số đánh giá về phương pháp làm vỏ hầm lắp ghép cho rằng giá thành

của các mảnh cấu kiện là cao, ngoài ra còn thể phải làm thêm lớp áo thứ cấp, và

các chi phí về vận chuyển cấu kiện và thuê sân bãi, nên việc thi công là tốn kém.

Trong thập niên vừa qua, giải pháp thay thế vỏ hầm lắp ghép nói trên là công

nghệ đổ bê tông vỏ hầm theo kiểu ép đẩy (extruded concrete lining- ECL) đã

được phát triển ở châu Âu, đặc biệt là ở Đức. Đây là kỹ thuật thi công vỏ hầm

bằng cách bơm đẩy bê tông thường hoặc bê tông cốt sợi thép vào khe hổng giữa

bề mặt hang đào và ván khuôn bên trong hầm.

1.3.2.3 Phương pháp kích đẩy (pipe jacking)

Phương pháp kích đẩy là một kĩ thuật đào ngầm được sử dụng cho các

công trình ngầm là đường ống kĩ thuật, thi công bằng cách đẩy các đoạn ống có

chiều dài nhất định. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu cho các đường hầm

Page 21: Chuong 1 - Khai Quat CTn

21

có đường kính nhỏ đặt ở chiều sâu không lớn lắm và xây dựng tại những nơi mà

phương pháp đào hở không thích hợp. Bản chất phương pháp là vì chống tubin

kín được lắp đặt vòng nọ tiếp vòng kia trong khoang chuyên dùng cách xa gương

hầm. Cùng trong khoang đó kích ép vì chống vào gương hầm theo tiến trình đào

đất. Để giảm ma sát vì chống với khối đất, không gian phía sau tubin được bơm

vữa sét.

Hình 1.8. Mở đường hầm bằng phương pháp kích đẩy

1. Dao 2. Khoang làm việc 3. Tấm chắn cửa miệng hầm

4. Đơn nguyên mới bố trí 5.Kích

Phương pháp kích đẩy còn được sử dụng khi lắp đặt ống qua khối đắp

đường sắt và đường ô tô. Khi kích đẩy ống đường kính tới 900mm, để đào đất

trong gương sử dụng máy guồng xoắn.

Phương pháp xuyên được sử dụng để lắp đặt ống đường kính tới 800mm

dưới khối đắp và nền đường. Khác với phương pháp kích đẩy, trong phương

pháp này khối đất nằm trong ống xuyên không lấy ra mà bị ép sang bên. Phương

pháp xuyên được sử dụng trong 2 phương án: kéo bằng tời (h.8.9a) và kích đẩy

(h.8.9b). Lực cần thiết để ép ống đường kính 0,5m trong đất cát- sét và trong đất

đắp vào khoảng 150-1500KN phụ thuộc vào độ chặt hoặc độ sệt.

Page 22: Chuong 1 - Khai Quat CTn

22

Hình 1.9. Lắp đặt ống dưới khối đắp bằng phương pháp xuyên:

a- dùng tời kéo, b- kích đẩy

1.3.2.4 Các phương pháp đặc biệt (Phương pháp làm lạnh, Phương pháp nổ

ép,...)

a. Giếng chìm hơi ép

Phương pháp giếng chìm hơi ép được sử dụng khi xây dựng móng sâu

dưới thiết bị nặng và trụ cầu, khi mở giếng mỏ, đào hầm ngang. Điểm đặc biệt

của phương pháp giếng chìm hơi ép là làm kín một phần thể tích nào đó lân cận

gương hầm của hầm đào và tạo nên trong đó áp lực khí nén bằng áp lực nước

ngầm và ngăn cản nước ngập vào gương hầm, xói mòn đất và cát chảy (hình

1.10).

Hình 1.10. Giếng hơi ép

a- khi xây dựng móng sâu với sự cơ giới hoá thuỷ lực, b- khi mở giếng đứng có thùng

nâng, c- khi mở tuy nen có toa gòong (Ш- cửa cống)

b. Đông lạnh đất

Page 23: Chuong 1 - Khai Quat CTn

23

Phương pháp đông lạnh sơ bộ đất được sử dụng khi đào hầm, hạ giếng,

mở lò đứng và tuy nen trong đất cát chảy no nước. ưu điểm của phương pháp là:

loại trừ được toàn bộ dòng chảy và nguy cơ cát chảy; nhược điểm- khó khăn

trong việc đào đất đông lạnh, giá thành đông lạnh cao, nhiệt độ âm trong gương

hầm. Vữa đông lạnh thường sử dụng vữa nước (muối) can xi clo rua độ chặt 1,23

- 1,25g/cm3, nhiệt độ đông lạnh của nó bằng –28…-350C. Muối thực hiện chức

năng vận chuyển clo: trong lỗ khoan đông lạnh nó hấp thụ nhiệt ở đất, còn trên

trạm đông lạnh nó thải nhiệt tự làm lạnh bản thân. Việc nhận được nhiệt độ thấp

trên các trạm đông lạnh là dựa trên nguyên tắc bay hơi nước khi nhiệt độ chất

lỏng thấp - các chất làm lạnh (amôniac, CO2, phreon). Trên thiết bị đông lạnh

chất làm lạnh thường hay dùng hơn cả là amôniac.

c. Phun vữa

Công tác phun vữa quá trình bơm vữa xi măng (xi măng hoá), vữa sét (sét

hoá), bi tum (bi tum hoá) hoặc nhựa tổng hợp (nhựa hoá) để loại trừ tính thấm

nước vào đất đá.

Ximăng hoá - là biện pháp phun vữa phổ biến nhất. Nó phun hiệu quả cho

khoáng chất đá nứt nẻ, sỏi cuội không lẫn sét. Bơm vữa xi măng vào khối đất

được tiến hành qua lỗ khoan phun xi măng có trang bị thiết bị bơm. Khoảng cách

giữa các lỗ khoan xi măng hoá là 1,5-3 m.

d. Thi công công trình ngầm bằng phương pháp nổ ép tạo buồng.

Trong đất đá dính như: đất sét, á sét... có thể áp dụng phương pháp nổ ép

để xây dựng những công trình ngầm theo sơ đồ hình 1.11

Hình 1.11. Thi công hầm ngang bằng nổ ép tạo khoang.

Page 24: Chuong 1 - Khai Quat CTn

24

Thực chất nổ ép là khoan các giếng khoan và đặt vào đó các lượng thuốc

nổ, nút chặt và nổ. Sau khi nổ đất đá bị ép lại tạo thành những khoang sử dụng

làm công trình ngầm. Sử dụng các trạm khoan chuyên ngành có thể khoan các

giếng khoan thẳng đứng, nằm ngang hoặc nằm nghiêng.