chương 9 _ Điều hoà quá trình phiên mã_ bài dịch sinh học phân tử_chị lịch
TRANSCRIPT
Họ tên: Nguyễn Thị Lịch
Lớp: K50A- Sinh học
Môn chuyên đề: Vi sinh vật học phân tử.
Chương 10. ĐIỀU HOÀ PHIÊN MÃ Ở ERKARYOTE
NỘI DUNG:
1. Điều hoà phiên mã ở Eukaryote phức tạp hơn so với Prokaryote.
Các lý thuyết chung về điều hoà phiên mã được áp dụng cho cả Eukaryote và
Prokaryote. Trước khi đi vào nghiên cứu điều hoà phiên mã ở Eukaryote cần xem lại các
lý thuyết về điều hoà phiên mã ở chương trước. Tuy nhiên điều hoà phiên mã ở
Eukaryote đặc biệt là ở sinh vật đa bào là phức tạp hơn ở Prokaryote. Sinh vật nhân
chuẩn ở mức thang tiến hoá càng cao thì càng có nhiều gen hơn so với vi khuẩn và điều
hoà biểu hiện gen trong các sinh vật này là khác nhau ở các mô khác nhau của cơ thể và
khác nhau tuỳ từng giai đoạn phát triển của cơ thể. Khi quá trình phiên mã xảy ra, trước
tiên ADN phải được bộc lộ cho các yếu tố phiên mã gắn vào. Nói chung sự biểu hiện gen
ở Eukaryote cần các yếu tố hoạt hoá. Các yếu tố này sẽ đính vào vùng ADN phía trước
promoter hoặc đính vào các enhancer (trình tự tăng cường) có thể cách xa promoter tới
vài kb như đã đề cập trong chương 6. Hơn thế nữa, các enhancer ở Eukaryote có thể nằm
sau gen đích và điều hoà gen đó.
Gen ở Eukaryote cô lập trong nhân tế bào. Các yếu tố điều hoà có bản chất là
protein, nên chúng có nguồn gốc từ tế bào chất; để điều hoà được gen thì chúng phải
được đưa vào nhân tế bào. Mặc dù ADN ở Prokaryote và Eukaryote đều cô đặc trong
trạng thái liên kết với protein nhưng ở Eukaryote, ADN có mức độ cô đặc cao hơn trong
cấu trúc các nucleosome và ADN ở Eukaryote thì liên kết với protein là histon. Một số
phần ADN thường cuộn chặt trong cấu trúc dị nhiễm sắc vì vậy nó không thể tương tác
với RNA polymerase (hình 10.01). Do đó cả RNA polymerase và các yếu tố phiên mã
khó có thể tiến được vào ADN ở vùng dị nhiễm sắc.
1
Hình 10.01. Ở Eukaryote, RNA khó có thể tiếp cận với gen. Ở tế bào Eukaryote có sự ngăn cách
giữa nhân và tế bào chất do đó các yếu tố phiên mã tạo thành ở tế bào chất cần được vận chuyển
vào trong nhân. ADN ở trong nhân thường ở trạng thái cô đặc cao và rất khó tiếp cận.
2. Các yếu tố phiên mã đặc biệt điều hoà gen mã hoá protein.
Mục này sẽ bàn về điều hoà gen mã hoá protein – gen được phiên mã bởi RNA
polymerase II. Như đã nói ở chương 6, để biểu hiện các gen này cũng cần các yếu tố
phiên mã chung. Ngoài ra cũng cần cả các yếu tố phiên mã đặc biệt – các yếu tố mà chỉ
ảnh hưởng tới các gen nhất định, cần để trả lời cho những kích thích hoặc tín hiệu đặc
biệt. Các yếu tố phiên mã có thể đính vào các yếu tố nằm phía trước promoter hoặc đính
vào các enhancer nằm rất xa promoter.
Các yếu tố phiên mã đặc biệt có những đặc điểm chung sau:
1. Chúng cần để trả lời cho một kích thích yêu cầu một hay một vài gen nào đó
phải được bật mở.
2. Không giống như hầu hết các protein, yếu tố phiên mã có thể đi vào nhân – nơi
cư trú của gen.
3. Chúng nhận ra và đính vào trình tự đặc biệt trên ADN.
4. Chúng cũng liên kết được với bộ máy phiên mã một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp.
Một số protein gắn với ADN (DNA-binding protein) có thể trả lời trực tiếp tới một
tín hiệu kích thích (trường hợp này phổ biến ở Prokaryote). Tuy nhiên ở sinh vật bậc cao,
các yếu tố phiên mã tách biệt với các tín hiệu kích thích, nghĩa là nó chỉ đáp ứng một
cách gián tiếp các kích thích thông qua một vài bước trung gian.
2
Protein gắn với ADN và tác dụng của nó tới quá trình phiên mã sẽ được xem xét sau
đây.
Các yếu tố phiên mã thường cấu trúc với ít nhất 2 vùng (domain): một vùng gắn
với ADN và một vùng tương tác với bộ máy phiên mã. Điều này đã được chứng minh
bằng thực nghiệm. Người ta sử dụng các protein lai nhân tạo chứa vùng gắn được với
ADN của một protein này và vùng hoạt động của một protein khác (hình 10.02). Protein
lai chứa vùng gắn với ADN của một protein có nguồn gốc từ vi khuẩn và vùng hoạt động
của yếu tố hoạt hoá gen Gal 4 của nấm men. Protein sẽ không còn khả năng hoạt hoá
phiên mã đối với promoter bình thường của nấm men được nữa. Tuy nhiên nó lại có thể
hoạt hoá phiên mã đối với promoter nhân tạo có trình tự nhận biết của protein vi khuẩn
được chèn vào. Protein gắn với ADN ở vi khuẩn được sử dụng trong thí nghiệm này là
Lex A, thực tế Lex A là một yếu tố kìm hãm (repressor).
3. Phức hệ trung gian truyền tín hiệu tới RNA polymerase.
Ở Prokaryote, yếu tố xich- ma giúp RNA polymerase nhận ra promoter còn các yếu
tố hoạt hoá giúp RNA polymerase gắn được vào promoter. Ở Eukaryote, thì các yếu tố
phiên mã chung đảm nhiệm cả 2 chức năng nhận diện và gắn vào promoter. Các yếu tố
hoạt hoá ở Eukaryote như là các yếu tố hỗ trợ RNA polymerase di chuyển lên phía trước
kể từ vị trí promoter trong quá trình phiên mã. Một vài yếu tố hoạt hoá ở Eukaryote có
thể liên kết với các yếu tố phiên mã chung như TFIIB, TFIID và TFIIH. Tuy nhiên, nó
chưa đủ để khởi động quá trình phiên mã.
Các yếu tố trung gian là các phức protein có khả năng gắn với phần phía trên của
RNA polymerase II do RNA polymerase có các vị trí đặc hiệu gắn cho các yếu tố này đặc
biệt đối với các yếu tố có khả năng liên kết với các enhancer (hình 10.03). Các yếu tố
trung gian gồm khoảng 20 protein tiểu đơn vị và nhận các tín hiệu từ các yếu tố hoạt hoá
(activator). Chính xác hơn là nó kết hợp các tín hiệu từ nhiều yếu tố hoạt hoá và kìm hãm
sau đó gửi kết quả tín hiệu tới RNA polymerase II. Một số tiểu đơn vị của yếu tố trung
gian hoạt động theo kiểu điều hoà dương tính trong khi số còn lại có chức năng điều hoà
âm tính.
3
Hình 10.02. Các yếu tố phiên mã có 2 vùng độc lập.
A) Một vùng chứa yếu tố phiên mã của gen Gal 4 thường gắn được vào trình tự nhận biết trên
gen Gal 4 còn vùng kia gắn với bộ máy phiên mã.
B) Nếu trình tự nhận biết của Gal 4 được thay thế bằng trình tự nhận biết của Lex A thì yếu tố
phiên mã sẽ không nhận ra ADN do đó không gắn được vào đó.
C) Một protein nhân tạo gồm vùng gắn với trình tự nhận biết của Lex A và vùng chứa yếu tố
hoạt hoá gen Gal 4. Protein này sẽ không nhận ra trình tự nhận biết của Gal 4;
D) Nhưng nó sẽ nhận ra và gắn vào trình tự nhận biết của Lex A và hoạt hoá quá trình phiên mã.
Bởi vì vùng chứa yếu tố hoạt hoá gen Gal 4 sẽ hoạt động độc lập với vùng nhận biết – nó
hoạt hoá phiên mã xảy ra miễn là nó được gắn với ADN.
Phức hệ trung gian bao gồm một lõi – lõi giống nhau ở cả nấm men và sinh vật nhân
chuẩn bậc cao hơn. Gắn với lõi là các tiểu đơn vị khác – các tiểu đơn vị có đặc điểm là rất
khác nhau giữa các sinh vật cũng như trong các mô khác nhau của cùng một cơ thể sinh
vật. Rất nhiều các protein trung gian đã được xem như là các protein đồng hoạt hoá (co-
activator) trước khi chúng được biết là thuộc về phức hệ này.
4. Chức năng khác nhau của các trình tự tăng cường và cách li đối với ADN
Các enhancer có thể xuất hiện ở khoảng cách xa từ vài kb trước hoặc sau promoter
mà nó điều hoà. Do cấu trúc vòng (loop) của ADN nên các protein hoạt hoá liên kết với
enhancer có thể cũng liên kết được với bộ máy phiên mã thông qua phức hệ trung gian
như đã nói ở trên (hình 10.03).
Cơ chế tạo cấu trúc vòng cũng cho phép các enhancer có khả năng điều hoà một vài
gen lân cận. Nhưng bằng cách nào mà enhancer không thể điều hoà được các gen ở xa
hơn trên NST. Người ta cho rằng các gen đó lại được điều hoà bởi các enhancer khác
gần gen hơn. Dường như đã có sự phân chia NST thành từng vùng có sự kiểm soát và
4
điều hoà riêng, người ta đã phát hiện được yếu tố đóng vai trò trong sự phân chia đó là
các trình tự đặc biệt trên ADN được gọi là các trình tự cách li hay “yếu tố ranh giới”
(boundary element) (hình 10.04). Một enhancer mất tác dụng điều hoà một gen nếu có
trình tự cách li nằm giữa trình tự enhancer và gen mà nó điều hoà.
Hình 10.03. Các protein hoạt hoá và các yếu tố trung gian.
A) Sự tạo thành cấu trúc vòng của ADN cho phép các yếu tố hoạt hoá đã gắn vào enhancer có
thể tiếp cận tới bộ máy phiên mã.
B) Phức hệ trung gian cho phép sự liên hệ giữa các yếu tố tăng cường và các yếu tố kìm hãm với
RNA polymerase.
Minh hoạ một cấu trúc vòng ADN chứa 1 trình tự enhancer có tác dụng lên cả 2 gen
X và Y. Các trình tự cách li ở 2 bên nút của cấu trúc vòng được nhận biết bởi IBP
(insulator binding protein) một loại protein có thể gắn vào trình tự cách li, do đó ngăn cản
enhancer không thể tác dụng tới các vùng ADN nằm bên ngoài cấu trúc loop này.
Hình 10.04. Các trình tự cách li hạn chế giới hạn hoạt động của enhancer.
5
Trình tự cách li là vùng ADN bao gồm một những nhóm các trình tự có thể liên kết
với loại protein đặc biệt gọi là “ngón tay kẽm” ( zinc-finger proteins) hay còn gọi là các
protein gắn với trình tự cách li IBPs (insulator binding proteins). Ở động vật có xương
sống, protein loại này phổ biến là CTCF (CCCTC-binding Factor) hay yếu tố gắn với
trình tự CCCTC. Các protein này sẽ liên kết với các trình tự cách li và phong tảo hoạt
động của enhancer. ( Trong một số sinh vật như ruồi giấm Drosophila, không chỉ có các
trình tự cách li cố định mà còn có các trình tự cách li di động. Một ví dụ cho yếu tố cách
li di động chính là retrotransposon (gen nhảy thông qua sự phiên mã ngược) chúng có
khả năng di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác trong hệ gen. (đọc chương 15).
Trong một số trường hợp, phải kể đến là ở các động vật có xương sống, các trình tự
cách li có thể được chuyển hoá giữa 2 dạng hoạt động và không hoạt động. Các trình tự
cách li giàu GC thì có thể các trình tự CG này bị metyl hoá. Khi yếu tố cách li bị metyl
hoá thì nó không còn có thể liên kết với protein CTCF nữa do đó yếu tố cách li không
hoạt động (hình 10.05). Gen Igf2 (mã hoá yếu tố sinh trưởng II giống insulin – insulin-
like growth factor II) và gen H19 kế cận gen Igf2 và có cùng chiều phiên mã. Bản sao
của gen Igf2 có nguồn gốc từ mẹ ở trạng thái bình thường là không hoạt động nhưng bản
sao của gen này có nguồn gốc ằư bố thì hoạt động. Ngược lại đối với bản sao gen H19 có
nguồn gốc từ mẹ ở trạng thái bình thường là hoạt động trong khi đó bản sao từ bố là bất
hoạt. Đó là bởi vì sự khác nhau về vị trí metyl hoá trên NST có nguồn gốc từ bố và mẹ.
(ví dụ là cơ chế đánh dấu gen sẽ được đề cập sau).
Hình 10.05. Mối liên quan giữa sự metyl hoá các trình tự cách li và khả năng liên kết với protein của
chúng.
6
A) Gen Igf2 cách xa yếu tố tăng cường.
B) Khi trình tự cách li không bị metyl hóa thì chúng có thể liên kết được với protein CTCF do
đó trình tự tăng cường chỉ ảnh hưởng tới gen H19.
C) Khi trình tự cách li và gen H19 bị metyl hoá, các protein CTCF không còn gắn được vào các
trình tự cách li này do đó cho phép enhancer có thể hoạt hoá gen Igf2.
Nguyên nhân để gọi các trình tự cách li là yếu tố ranh giới bởi vì chúng hình thành
nên ranh giới với các vùng dị nhiễm sắc. Ngoài việc cản trở hoạt động của các enhancer
thì các trình tự cách li cũng ngăn cản sự lan rộng ra của các cấu trúc dị nhiễm sắc và việc
làm tắt gen (xem sau).
Hình 10.06. Các vùng ADN có cấu trúc loop nằm giữa các vùng MAR (matrix
attachment region – vùng đính với chất nền)
Mặc dù trên ADN có rất nhiều cấu trúc loop nhưng chỉ có cấu trúc loop được vẽ trên
hình là bắt nguồn từ một vùng đính với giá đỡ (nuclear scafford). Các vùng đính với chất
nền chứa các protein gắn với chất nền (MAR protein) giúp ADN cố định vào giá đỡ.
5. Các vùng đính với chất nền cho phép ADN tạo vòng.
Ở cả vi khuẩn và Eukaryote, ADN được sắp xếp thành các cấu trúc loop lớn, đính
từng quãng vào giá đỡ (chromosomal scaffold) (xem chương 4). Ở vi khuẩn, cấu trúc
loop bao gồm khoảng 40 kbp trong khi ở sinh vật Eukaryote cấu trúc này khoảng 60kbp
có khi dài hơn.
Trong suốt kì trung gian, một mạng lưới các protein dạng sợi - chất nền của nhân tế
bào xuất hiện ở bên trong màng tế bào. Vị trí ADN đính vào các protein của chất nền
được gọi là các vùng đính với chất nền hay MARs. Bởi vì các vị trí ADN đính với giá đỡ
trong suốt quá trình sao chép ADN cũng giống với vị trí chúng gắn kết với chất nền trong
suốt gian kì, do đó chúng cũng còn được gọi là các vùng đính với giá đỡ hay SARs.
7
Các vị trí MAR hay SAR có chiều dài từ 200-1000 bp và giàu AT (70% AT) nhưng
không cố định. ADN có nhiều đoạn bị bẻ cong mang tính di truyền (đọc chương 4) và do
đó các protein nhân tế bào liên kết với với các vùng MAR nhận ra các chỗ ADN bị bẻ
cong này dễ hơn là nhận biết một trình tự đặc biệt. Topoisomerase II sẽ nhận biết vị trí
bên cạnh các vị trí MAR, vì vậy mà việc hình thành các cấu trúc siêu xoắn ở từng cấu
trúc loop được điều khiển một cách độc lập với nhau. Các trình tự tăng cường và các yếu
tố điều khiển thường liên quan đến các vị trí MAR này. Trong trường hợp cấu trúc lại
nhiễm sắc (xem phần sau) thì cũng bắt đầu từ một vị trí MAR và ảnh hưởng tới toàn bộ
cấu trúc loop đó. (hình 10.06).
Trong các thực vật và động vật chuyển gen, nếu gen được chuyển mà nằm giữa 2 vị
trí MAR thì sẽ đảm bảo cho việc biểu hiện gen thành công bởi vì vùng nhiễm sắc này có
khả năng bật mở cho quá trình phiên mã xảy ra.
6. Điều hoà âm tính trong phiên mã ở Eukaryote.
Việc điều hoà âm tính đơn giản thông qua các chất kìm hãm chỉ thường thấy ở
Prokaryote nhưng hiếm gặp ở Eukaryote (chỉ thấy ở các sinh vật Eukaryote đơn bào
chẳng hạn ở nấm men là một ví dụ). Mặc dù ở sinh vật Eukaryote hiếm thấy các chất kìm
hãm nhưng lại không có nghĩa là ít thấy kiểu điều hoà âm tính ở Eukaryote. Mà trái lại ở
các sinh vật bậc cao đã phát hiện thấy một số kiểu điều hoà âm tính còn có vai trò sống
còn đối với sinh vật hơn là các kiểu điều hoà phức tạp khác. Nói chung điều hoà âm tính
ở Eukaryote theo kiểu ức chế hoặc ngăn cản các protein hoạt hoá.
Hình 10.07. Blook các vị trí CAAT box ở nhím biển.
A) Trước khi phiên mã diễn ra thì cần một số các yếu tố gắn vào các yếu tố phiên mã thích hợp.
B) Khi một protein thay thế là CDP gắn vào CAAT box làm cho các CTF không còn có vị trí
gắn nữa thì quá trình phiên mã không thể diễn ra. Bởi nó đã ngăn cản sự lắp ráp của bộ máy
phiên mã và ngừng biểu hiện gen liên quan.
Cách dễ thấy nhất để ức chế một protein hoạt hoá là bất hoạt vùng nhận biết trên
ADN của nó, do đó mà nó không thể gắn vào ADN được nữa. Một ví dụ minh hoạ cho
8
vấn đề này là hộp CAAT trong vùng promoter của gen sinh vật Eukaryote. Hoạt hoá gen
H2B trong tế bào tinh hoàn của nhím biển ngoài những yếu tố khác thì cần protein hoạt
hoá CTF phải được gắn vào trình tự CAAT. Tuy nhiên một loại protein thay thế là CDP
cũng có khả năng gắn vào trình tự CAAT do đó ngăn cản các protein hoạt hoá gắn vào vị
trí này. Cơ chế này cũng xuất hiện trong mô phôi và ngăn cản các biểu hiện trước tuổi
trưởng thành của các gen biệt hoá tinh hoàn. Sự hiện diện của các protein CDP ngăn cản
sự lắp ráp của bộ máy phiên mã, tuy nhiên cần chú ý rằng CDP không ngăn cản RNA
polymerase gắn vào ADN giống như các chất kĩm hãm ở vi khuẩn (hình 10.07).
Một ví dụ khác về điều hoà âm tính cụm gen cần thiết để biệt hoá các tế bào mô
cơ liên quan tới các yếu tố phiên mã MyoD. MyoD chỉ được sản sinh ra trong tế bào có
định hướng biệt hoá thành mô cơ. MyoD là một protein thuộc lớp bHLH ( basic helix-
loop-helix : cấu trúc cơ bản là xoắn – vòng - xoắn). Như đã nói ở chương 7, cấu trúc này
khá phổ biến trong các protein có khả năng gắn vào ADN.
Hình 10.08. MyoD và các chất tạo phức với nó.
A) Cả MyoD và E12 đều có vùng cơ sở để đính vào ADN. Do đó khi MyoD tạo phức với E12 thì
phức này có thể gắn vào ADN.
B) Trái lại, protein Id thiếu vùng cơ sở. Khi MyoD tạo phức với Id thì phức này không gắn được
vào ADN.
Các protein HLH thường chỉ gắn được với ADN khi tồn tại ở dạng phức kép dimer.
Nếu cả 2 protein thuộc dimer có một vùng cơ bản thì phức có thể gắn được vào ADN.
Các protein HLH thường ở dạng dị phức kép gồm một protein bHLH đặc trưng cho mô
và một trong số các protein bHLH biểu hiện chung hơn được gọi là các protein E. Bản
thân các MyoD tạo thành dimer rất ít. Để có thể gắn được vào ADN, MyoD phải hình
thành các dị phức dimer với E12 hoặc E47. Hai protein này cũng là các protein bHLH –
sản phẩm của quá trình cắt nối luân phiên của cùng một gen là E2A. Chúng giống cả về
9
hình dạng và cấu trúc với protein MyoD nhưng không giống như MyoD là chúng được
biểu hiện trong tất cả các mô. Dị phức MyoD/E12 hay MyoD/E47 gắn vào trình tự
CAAATG trên ADN và hoạt hoá các gen biệt hoá mô cơ.
Các protein HLH khác thiếu vùng cơ bản do đó không thể gắn vào ADN. Ví dụ là
protein Id. Id có thể liên kết với MyoD và E12 (hoặc E47) tạo thành dị phức kép nhưng
dị phức này không thể gắn được vào ADN (hình 10.08). Vì vậy sự hiện diện của protein
này ngăn cản quá trình biệt hoá. Do đó Id đóng vai trò là chất tham gia vào điều hoà âm
tính nhưng nó lại không gắn trực tiếp vào ADN như các chất kìm hãm. Protein này xuất
hiện nhiều trong các nguyên bào sợi, có vai trò trong việc thay đổi hoạt động của MyoD.
Trong suốt quá trình biệt hoá nguyên bào sợi, nồng độ Id giảm do đó cho phép MyoD
hoạt động bình thường.
7. Cấu trúc dị nhiễm sắc gây trở ngại việc can thiệp tới ADN ở Eukaryote.
Ở vi khuẩn, ADN luôn được bộc lộ để RNA polymerase và các protein hoạt hoá có
thể tiến vào. Tuy nhiên, ở Eukaryote, ADN bị cuốn xung quanh histon hình thành nên
cấu trúc nucleosome như đã nói ở chương 4. Các nucleosome lại tiếp tục cuộn lại hình
thành cấu trúc xoắn - sắp xếp xít nhau nhờ các liên kết của các protein histon. ADN được
đóng gói rất chặt còn được gọi là cấu trúc dị nhiễm sắc và không được phiên mã bởi các
RNA polymerase không thể liên kết được với promoter. Nhìn chung các đoạn ADN có
thể nhìn thấy trong ảnh hiển vi điện tử là các vùng dị nhiễm sắc trong khi các đoạn mờ
nhạt lại là vùng nhiễm sắc thật (hình 10.09).
Loại protein histon làm nhiệm vụ nối (H1) có “2 cánh tay” xuất phát từ vùng trung
tâm của quả cầu (do histon có hình cầu). Vùng trung tâm của H1 nối với thể nhân
(nucleosome) của chính nó còn “2 cánh tay” nối với các nucleosome ở 2 bên cạnh, tuy
nhiên sự xếp sắp chính xác ra sao còn chưa rõ. Các histon tạo thành cấu trúc lõi
nucleosome (H2A, H2B, H3, H4) có phần chính gồm khoảng 80 axit amin và một đầu tận
cùng N có khoảng 20 axit amin nằm ở phía ngoài lõi. Mối tương tác do các đầu tận cùng
tạo ra này được xem là quan trọng trong việc tập hợp các cấu trúc nucleosome cũng như
mức độ cuộn xoắn của nhiễm sắc chất.
10
Hình 10.09. Cấu trúc dị nhiễm sắc lấn át nhiễm sắc thật.
Hình vẽ nhân tế bào có các vùng dị nhiễm sắc được đóng gói chặt và các vùng nhiễm sắc thật được đóng
gói ở mức độ lỏng lẻo hơn. Ảnh hiển vi điện tử là nhân tế bào thần kinh của côn trùng. Chú ý: nhân con
(màu nâu), ADN cô đặc (màu đỏ đậm) ở trong nhân tế bào và mitochondra??? …..(màu hồng) ở ngoài tế
bào chất.
Hình 10.10. Acetyl hoá các đuôi histon làm cho các nucleosome không thể liên kết được với nhau.
A) Các nucleosome được sắp xếp gần nhau được làm bền bởi các liên kết của đuôi
B) Khi đuôi của H4 bị metyl hoá, nó không gắn vào các histon của một nucleosome bên cạnh được
nữa. Do đó mối liên kết với các nucleosome bên cạnh không được hình thành. (Histon H1 gắn
vào DNA linker (DNA nối) giữa các nucleosome nhưng nó không được thể hiện rõ trên hình).
Phần đuôi histon có một số đầu Lysine có thể được thêm vào hoặc loại đi nhóm
acetyl. Tất cả 4 loại histon lõi đều có thể bị acetyl hoá đặc biệt đối với H3 và H4. Cấp độ
acetyl hoá thường liên quan đến trạng thái khác nhau của nucleosome, và do đó ảnh
hưởng đến sự biểu hiện của gen. Các histon không bị acetyl hoá hình thành nên cấu trúc
cô đặc - dị nhiễm sắc trong khi các histon bị acetyl hoá hình thành các nhiễm sắc có mức
độ cô đặc thấp hơn. Chú ý là các cấu trúc nucleosome không liên kết được với nhau khi
bị acetyl hoá do đó sự kết cụm của chúng trở nên lỏng lẻo (hình 10.10).
Enzym histone acetyl transferase (HAT) làm nhiệm vụ thêm nhóm acetyl và histone
deacetylase (HDAC) làm nhiệm vụ loại nhóm acetyl. Ví dụ protein CBP và p300 tham
gia điều khiển chu trình tế bào và biệt hoá tế bào. Một số protein co-repressor (đồng kìm
11
hãm) cũng là các enzym histone deacetylase. Các protein co-activator và co-repressor
bản thân nó không gắn vào DNA mà nó gắn trực tiếp vào các yếu tố phiên mã – các yếu
tố này đã gắn vào DNA rồi. (hình 10.11).
Sau khi đã loại bỏ liên kết giữa các nucleosome nhờ acetyl hoá histon thì tiếp theo
cần làm cho DNA được bộc lộ ra, điều này được thực hiện nhờ phức hệ tái cấu trúc
nhiễm sắc chất. Có 2 kiểu tái cấu trúc nhờ phức hệ. Kiểu 1 chúng có thể khiến cho các
nucleosome trượt dọc theo phân tử DNA do đó bộc lộ các trình tự DNA để phiên mã.
Kiểu 2 chúng sắp xếp lại các histon để tái cấu trúc nucleosome hình thành các cấu trúc
lỏng lẻo hơn cho phép các trình tự DNA được bộc lộ ra. Trong đó năng lượng dùng cho
tái cấu trúc lấy từ ATP.
Hình 10.11. Acetyl hoá và deacetyl hoá histon.
A) Acetyl hoá các đuôi histon được thực hiện bởi các protein đồng hoạt hoá gọi là histone
acetyl transferase (HAT).
B) Deacetyl hoá các đuôi histon được thực hiện bởi các phức kìm hãm bao gồm cả tiểu đơn vị
gắn với ADN và một tiểu đơn vị có hoạt tính deacetylase.
Có 2 họ phức hệ tái cấu trúc nhiễm sắc chất. Phức hệ lớn là Swi/Snf gồm có 8-12
protein và gắn chặt với DNA (hình 10.12). Swi/Snf có cả chức năng làm trượt và tái cấu
trúc. Cụ thể phức Swi/Snf kết hợp 2 nucleosome thành một nucleosome mới, lỏng lẻo
hơn. Phức hệ nhỏ là ISWI gồm 2-6 polypeptit có thể làm trượt các nucleosome nhưng
không thể tái cấu trúc nucleosome. Chúng thường gắn vào histon chứ không phải DNA
(hình 10.12). ( Các yếu tố Swi liên quan tới kiểu tiếp hợp, còn Snf liên quan tới đột biến
không đồng hóa được sucrose. Cả 2 đều được tìm thấy đầu tiên ở nấm men)
Các yếu tố phiên mã gắn vào phức hệ tái cấu trúc nhiễm sắc chất mục đích là để
kéo căng DNA cần thiết cho việc bọc lộ trình tự. Chi tiết các bước gắn của các yếu tố
phiên mã, enzym histone acetyl transferase và phức hệ tái cấu trúc là khác nhau đối với
12
các promoter khác nhau. Vắn tắt các bước chung của quá trình hoạt hoá một gen ở
Eukaryote như sau:
1. Một yếu tố phiên mã nào đó gắn vào ADN
2. Enzym histone acetyl transferase gắn vào yếu tố phiên mã.
3. HAT acetyl hoá các histon kế cận nhau làm cho các mối liên kết của histon bị
lới lỏng.
4. Phức hệ tái cấu trúc nhiễm sắc chất làm trượt hoặc tái cấu trúc nucleosome,
cho phép ADN được bộc lộ.
5. Các yếu tố phiên mã khác gắn vào ADN
6. RNA polymerase gắn vào ADN
7. Quá trình phiên mã được khởi động khi xuất hiện một tín hiệu dương tính được
truyền tới thông qua phức hệ trung gian từ một hay nhiều các yếu tố phiên mã
đặc biệt.
Hình 10.12. Gây trượt và tái cấu trúc nucleosome.
A) Gây trượt các cấu trúc nucleosome liên quan tới việc ADN và promoter được bộc lộ ra.
B) Một phức hệ tái cấu trúc như Swi/Snf có thể kết hợp 2 cấu trúc nucleosome và lới lỏng ADN
khiến ADN được bộc lộ.
Ví dụ gen HO của nấm men mã cho enzym endonuclease cần cho việc bật mở kiểu
sinh sản hữu tính ở nấm men. Đầu tiên, các yếu tố phiên mã Swi5p gắn vào ADN. Sau đó
phức hệ Swi/Snf gắn vào Swi5p. SAGA một loại enzym histone acetyl transferase có thể
gắn vào chỉ khi có mặt phức hệ Swi/Snf. Tiếp theo các protein histon ở vùng promoter bị
acetyl hoá. Nó cho phép một yếu tố phiên mã là SBF gắn vào ADN. Tiếp tục nó cho phép
các yếu tố phiên mã chung gắn vào, cuối cùng là sự gắn vào của RNA polymerase (hình
10.13)
8. Metyl hoá ADN ở Eukaryote điều hoà biểu hiện gen.
13
Quá trình metyl hoá các cặp bazơ trong phân tử ADN có ở cả Prokaryote và
Eukaryote mặc dù mục đích là khác nhau ở mỗi loại sinh vật này. (Ở Prokaryote, metyl
hoá là để nhận biết sợi đơn ADN mới được tổng hợp đã được thảo luận ở chương 14. Còn
ở Eukaryote, sợi ADN mới được tổng hợp được nhận biết bằng một cách khác chưa được
biết rõ). Tuy nhiên ở nhiều sinh vật Eukaryote metyl hoá ADN là một dấu hiệu điều hoà
hoạt động gen.
Hình 10.13. Các bước hoạt hoá gen ở promoter HO
A) gen endonuclease HO của nấm men bị đóng do cấu trúc nucleosome.
B) Yếu tố phiên mã Sw5p gắn vào ADN
C) Sau đó là phức hệ Swi/Snf gắn vào Swi5p.
D) Các nucleosome được tái cấu trúc lại cho phép SAGA gắn vào phức hệ Swi/Snf và một
nucleosome.
E) Khi các histon bị acetyl hoá không còn liên kết với nhau thì SBF gắn vào.
F) Bộ máy phiên mã đính vào.
Metyl hoá ADN rất hiếm gặp ở Eukaryote bậc thấp. Các động vật bậc cao, 10%
cystein bị metyl hoá và ở các thực vật bậc cao hơn tới 30% cystein bị metyl hoá. Trong
các sinh vật đa bào, metyl hoá ADN là một dấu hiệu biểu hiện gen liên quan tới sự biệt
hoá của mô tế bào. Trình tự nhận biết cho sự metyl hoá rất ngắn, ở động vật thường là
CG còn ở thực vật là CNG. Có 2 kiểu enzym metyl hoá. Enzym duy trì sự metyl hoá
maintenance metylase có chức năng thêm nhóm metyl vào sợi ADN mới được tổng hợp ở
14
vị trí đối diện với nhóm metyl trên chuỗi cũ- sợi ADN làm khuôn. Điều này đảm bảo cho
sự metyl hoá được di truyền lại trong suốt quá trình phân chia tế bào. Còn enzym de novo
metylase lại làm thay đổi kiểu metyl hoá do nó có khả năng thêm vào nhóm metyl mới và
de novo demetylase thì loại đi nhóm metyl.
Metyl hoá ở Eukaryote làm tắt biểu hiện của gen. Ở động vật, khoảng một nửa số
gen là phân bố gần vị trí đảo CG (nhiều trình tự CG kế tiếp nhau). Gen quản gia là gen
biểu hiện ở tất cả các mô tế bào có các đảo CG không bị metyl hoá. Trái lại các đảo CG
của các gen đặc biệt cho mô thì đảo GC không bị metyl hoá chỉ ở các mô mà gen đó được
biểu hiện. Sự duy trì kiểu metyl hoá đảm bảo sự biểu hiện của gen được duy trì không đổi
trong tất cả các tế bào của một mô nào đó. Ở thực vật, các yếu tố nhảy cũng bị bất hoạt
do metyl hoá. Maintenance
Hình 10.14. Điều chỉnh sự metyl hoá ADN ở Eukaryote
Ba enzym có vai trò điều khiển sự metyl hoá ADN. De novo metylase thêm nhóm
metyl vào các đảo GC mới. Maintenance metylase thêm nhóm metyl vào sợi mới tổng
hợp. Demetylase thì loại đi nhóm metyl.
9. Tắt gen gây ra bởi sự metyl hoá ADN.
Tắt gen là một thuật ngữ khá mơ hồ nó liên quan đến sự biểu hiện của một số
lượng tương đối lớn các gen không theo kiểu đặc biệt nào. Sự tắt gen tương đối hạn chế
đã được biết đến ở vi khuẩn (xem chương 9). Tuy nhiên sư tắt gen là tương đối phổ biến
ở Eukaryote nó liên quan tới sự thay đổi của cả ADN và histon. Tắt gen ảnh hưởng đến
từng gen riêng biệt, một cụm gen, một vùng của NST hoặc thậm chí toàn bộ NST. Một ví
dụ rõ nét nhất là tắt gen trên toàn bộ NST X ở tế bào động vật có vú.
15
Hình 10.15. Tắt gen bắt đầu do sự metyl hoá.
A) Các vùng CG trên ADN
B) Bị metyl hoá
C) MeCP khi liên kết vào vùng metyl hoá thì
D) HDAC sẽ liên kết với cả MeCP và ADN
E) Và F) Các trình tự trong đó các đuôi histon bị deacetyl hoá và các nucleosome bị liên kết lại
với nhau do đó hình thành cấu trúc dị nhiễm sắc.
Tắt gen liên quan đến sự metyl hoá cystosine ở trình tự 5’-CG-3’ của ADN
Eukaryote. Đôi khi 5’-CNG-3’ cũng bị metyl hoá. Nhóm metyl án ngữ ở khe chính của
ADN do đó cản trở sự bám vào ADN của các yếu tố phiên mã. Ngoài ra, trình tự CG bị
metyl hoá được nhận biết bởi protein bám metylcytosine (MeCP). Khi MeCP bám vào nó
lại được nhận biết bằng các protein khác loại nhóm acetyl khỏi histon (đặc biệt với H4).
Nó làm cho ADN bị cô đặc để hình thành cấu trúc dị nhiễm sắc, không cho quá trình
phiên mã có thể diễn ra. (hình 10.15). Các gen trong các vùng đó sẽ bị tắt hoàn toàn.
Kiểu metyl hoá ở sinh vật trưởng thành và ở các tế bào đã biệt hoá được sao lại
sau mỗi lần phân chia tế bào do hoạt động của enzym duy trì nhóm metyl. Enzym de
novo metylase và demetylase thay đổi kiểu metyl hoá khi cần thiết đặc biệt trong quá
trình phát triển. Sau khi trứng được thụ tinh để hình thành hợp tử, các kiểu metyl hoá của
16
hầu hết các ADN đều bị xoá. Các kiểu mêtyl hóa mới được hình thành trong quá trình
biệt hoá mô. Những gen mà promoter của nó bi metyl hoá thì sẽ bị tắt hoàn toàn.
10. Đánh dấu di truyền ở Eukaryote là do sự metyl hoá ADN.
Đánh dấu di truyền xảy ra khi các kiểu metyl hoá từ giao tử không bị xoá mà đi
vào hợp tử và ảnh hưởng đến biểu hiện của gen ở sinh vật mới. Nó thường chỉ có ở một
vài gen đã được biết ở động vật có vú, nấm và thực vật. Đánh dấu gen là cơ chế đảm bảo
một trong số 2 allen của gen trong tế bào lưỡng bội được biểu hiện. Bản sao thứ hai của
gen thì bị tắt do bị metyl hoá. Sự chọn lọc để chỉ một allen được biểu hiện là phụ thuộc
vào nguồn gốc bố mẹ.
Sự metyl hoá diễn ra trong suốt quá trình hình thành giao tử. Hầu hết các gen
trong trứng và tinh trùng bị bất hoạt do sự metyl hoá. Tuy nhiên một số gen lại duy trì
hoạt động và có một vài điểm khác biệt giữa kiểu metyl hoá của giao tử đực và cái. Nó
gây ra một sự khác biệt ban đầu trong biểu hiện của các allen từ bố và mẹ. Khi phôi phát
triển, các kiểu metyl hóa sẽ bị xoá và hệ gen lập trình lại trong quá trình phát triển (hình
10.16).
Chỉ khoảng có 20 gen không bị đánh dấu đã được biết ở chuột và chúng có
khuynh hướng co thành cụm. Ví dụ IGF-II từ bố là được biểu hiện trong khi allen từ mẹ
thì không. Thường thường các allen của bố được biểu hiện trong hợp tử. Một ví dụ về
biểu hiện của allen mẹ là IGF-IIR, là thụ thể của IGF-II.
Hình 10.16. Đánh dấu gen và sự phát triển của cá thể.
Hai bản copy của cùng một gen có nguồn gốc từ cặp bố mẹ thường không có kiểu metyl hoá giống
nhau.
17
A) Gen Igf2 từ mẹ có nhóm metyl do đó bị bất hoạt trong khi gen không bị metyl hoá từ
bố lại hoạt động.
B) Sau khi thụ tinh, phôi có một bản hoạt động và một bản không hoạt động của gen
Igf2.
C) Hầu hết các kiểu metyl hoá sẽ được lập trình lại ở giai đoạn sớm của phôi nhưng có một
vài bản sao của gen nào đó lại không bị lập trình lại dẫn đến hiện tượng đánh dấu gen.
11. Bất hoạt nhiễm sắc thể giới tính X ở động vật có kiểu gen XX
Bất hoạt nhiễm sắc thể X là một dạng đặc biệt của hiện tượng đánh dấu gen phát
hiện ở động vật. Con cái có 2 NST X trong khi con đực chỉ có 1 NST X và một NST Y
ngắn. Vì vậy con cái có 2 bản copy của hầu hết các gen nằm trên NST X trong khi con
đực chỉ có một bản sao. Tiến hoá đã phát triển rất nhiều cơ chế đền bù số lượng gen với
mục đích để tránh có sự hơn kém về số lượng gen được biểu hiện ở 2 giới.
Ở giun tròn như C.elegans, mức độ biểu hiện của các gen trên cả 2 NST X là ½.
Trái lại ở côn trùng như Drosophila mức độ biểu hiện của các gen trên 1 NST X ở con
đực được tăng gấp đôi. Ở động vật có vú, một trong 2 cặp NST X ở tế bào con cái bị bất
hoạt (ngoại trừ một vài locus là không bị bất hoạt nó liên quan đến các vùng NST thường
giả). Ở giun và côn trùng, phức hệ protein đặc biệt gắn vào NST X chịu trách nhiệm làm
tăng hoặc giảm sự phiên mã của gen trên NST X. Ở động vật có vú, cơ chế bất hoạt chỉ
một NST X liên quan đến RNA không mã hoá.
Ở C. elegans, con đực không có NST Y mà chỉ có một X (trường hợp này là XO).
Ngoài ra ở các động vật lưỡng tính có cả cơ quan sinh dục đực và cái thì sự bù trừ số
lượng gen biểu hiện phụ thuộc vào protein Sdc2, protein này chỉ biểu hiện ở động vật có
kiểu gen XX. Protein này sẽ đính vào vùng đặc biệt trên NST X và phức bù trừ số lượng
gồm có 6 protein lắp ráp vào Sdc2 và giảm sự biểu hiện của gen. Cơ chế này thường gặp
ở Drosophila đặc biệt ở C.elegans. Ở ruồi, một protein là Msl2 chỉ biểu hiện ở giới XY có
thể gắn vào 1 trình tự đặc hiệu trên NST X. Phức hệ bù trừ số lượng gen sẽ lắp ráp xung
quanh protein này và tăng sự biểu hiện của gen. Phức hệ này ở Drosophila gồm 2 RNA
không mã hoá và một số các protein khác.
Ở động vật có vú, bất hoạt NST X được điều khiển bởi sự metyl hoá của gen Xist
nằm trên NST X. Gen Xist trên NST X nào hoạt động thì NST đó bị bất hoạt do bị metyl
hoá. Một khi 1 NST X đã bị bất hoạt rồi thì nó sẽ được duy trì qua các lần phân chia tế
bào, vì vậy chỉ một NST X sẽ hoạt động trong các tế bào. Sự biểu hiện của gen X được
điều khiển bởi RNA antisense (đối mã) là Tsix nó được phiên mã từ locus của gen Xist
nhưng theo chiều ngược với chiều phiên mã của gen Xist. Tuy nhiên thời điểm biểu hiện
của RNA Tsix rất khác nhau ở các loài động vật có vú khác nhau mặc dù Tsix ở tất cả các
18
loài đều có liên quan tới sự lựa chọn NST X nào là bất hoạt nhưng vai trò của nó còn
chưa rõ.
Sự biểu hiện của gen Xist gây ra sự bất hoạt NST X mang gen đó. Một loai RNA
không được dịch mã trong thời gian dài được phiên mã từ gen Xist. RNA Xist sẽ bao phủ
toàn bộ NST X bất hoạt. Quá trình này diễn ra bắt đầu từ vị trí gen Xist sau đó lan ra toàn
bộ NST theo cả 2 hướng, ADN bị chuyển sang dạng không hoạt động- dị nhiễm sắc (hình
10.17). NST X bị cô đặc có thể được nhìn thấy trong tế bào động vật có vú và được gọi là
thể barr. Sự xuất hiện hay vắng mặt của thể barr được sử dụng để kiểm tra giới tính của
vận động viên thể thao.
Nếu một gen Xist hoạt động được chèn vào một NST khác thì nó chỉ bị bất hoạt
một phần. Nó giải thích cho giả thiết là cần có thêm yếu tố khác để bất hoạt NST X.
( NST X có nhiều hơn 2 lần các yếu tố LINE-1 trên một đơn vị chiều dài so với các NST
khác do đó bằng cách nào đó nó đã thúc đẩy sự gắn vào của RNA Xist. Một giả thiết còn
đang tranh cãi cho rằng nhiều yếu tố LINEs tích luỹ trên NST X là bởi vì chúng thường
không hoạt động).
Cơ chế bất hoạt trên mới chỉ được biết đến một phần. Sau khi RNA Xist gắn vào ,
nó kéo theo một số protein khác có vai trò bất hoạt phiên mã và hình thành cấu trúc dị
nhiễm sắc. Histon của NST X bất hoạt bị biến đổi. Đầu tiên là histon 3 bị metyl hoá ở
Lys7 thay vì ở Lys4 như ở các nhiễm sắc chất hoạt động. Tiếp theo, histon H4 bị mất đi
nhóm acetyl. Sau đó, một loại histon bất thường là macro H2A- một loại H2 nhưng có
một vùng thêm vào ở đầu C, nó chỉ xuất hiện ở NST X bất hoạt. Cuối cùng, xuất hiện sự
metyl hoá các đảo CpG dọc NST. Một khi sự tắt gen đã xuất hiện, RNA Xist không cần
tồn tại nữa.
Trong một số ít trường hợp khi có 2 hay nhiều NST X cùng xuất hiện trong một cơ
thể, thì chỉ có 1 NST X duy nhất hoạt động. Hơn nữa, chuột chỉ có 1 NST X mà không có
NST Y là đủ khoẻ mạnh và có thể sinh sản, do đó có thêm NST X thứ 2 là không cần
thiết. Ở thú có túi, NST X từ bố luôn luôn bất hoạt. Ở những động vật có vú khác, sự lựa
chọn NST X hoạt động là ngẫu nhiên. Hơn thế nữa, NST X hoạt động rất khác nhau trong
các dòng tế bào khác nhau. Do đó ở con cái có sự phức tạp về mặt di truyền, mhững allen
khác nhau từ cùng một gen trên NST X được biểu hiện ở các vùng khác nhau trong các
mô. Nó được minh hoạ bằng màu sắc da ở con chuột cái di hợp về đột biến màu da ở các
gen liên kết NST X. (hình 10.18).
Ở bất kì tế bào nào, chỉ có 1 NST X là hoạt động và do đó chỉ có 1 trong 2 allen là
biểu hiện. Sự di truyền từ một tế bào tổ tiên nào đó vẫn được thể hiện và hình thành da
19
có màu giống nhau. Vì vây một vài vùng da là của thể hoang dai, vùng khác lại là thể đột
biến. Hậu quả tương tự có thể thấy ở meo calico. (hình 10.18)
Hình 10.7. Bất hoạt NST X liên quan đến gen Xist và RNA Xist.
A) Bình thường cả 2 NST của X phiên mã RNA Xist từ gen Xist.
B) NST X duy trì hoạt động có vùng gen Xist bị metyl hoá. RNA Xist bao ngoài NST X kia
làm bất hoạt nó.
C) NST X bất hoạt ở trạng thái metyl hoá toàn bộ trừ vùng chứa gen Xist. Điều này gây ra
NST X chuyển sang dạng dị nhiễm sắc. Chỉ có gen X duy trì hoạt động.
Hình 10.18. Bất hoạt NST X gây ra các vùng màu da khác nhau trên chuột.
Một con chuột cái dị hợp tử về một gen liên kết trên NST X liên quan đến màu lông.
20
A) Tất cả các tế bào chứa 2 NST X, một NST X chứa bản copy (+) biểu hiện chức năng của gen
màu lông, còn NST X còn lại chứa bản copy (-) kìm hãm biểu hiện của gen màu lông.
B) Trong quá trình phát triển, 1 NST X bị bất hoạt một cách ngẫu nhiên trong tế bào nguyên thuỷ.
Từng tế bào nguyên thuỷ sẽ phân chia tạo nên những mảng tế bào lông màu khác nhau trên
chuột.
C) Kết quả là sự pha trộn màu sắc lông. Vùng đột biến (màu lông trắng) được biểu hiện khi NST X
hoạt động là mang bản copy không biểu hiện của gen màu lông. Các vùng tối được biểu hiện khi
NST X hoạt động mang allen kiểu dại.
Hình 10.19. Mèo khoang.
Màu lông khoang chỉ thấy ở mèo cái. Bởi gen qui định màu lông là trên NST X. Nếu mèo cái là dị
hợp tử có cả allen kiểu dại và đột biến thì sự bất hoạt ngẫu nhiên của NST X sẽ cho màu lông khoang.
Màu trắng là bởi các tế bào ở đó có NST X bất hoạt chứa allen đột biến.
==The end===
21