“chuyên gia” và những phán ... - tài nguyên số · văn bản được công bố ở...

18
Tác phm dch DC-12 Vđánh giá sdng công qu“Chuyên gia” và nhng phán xét giá trKornai János Nguyn Quang A dch

Upload: habao

Post on 29-Aug-2019

212 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Tác phẩm dịch DC-12

Về đánh giá sử dụng công quỹ

“Chuyên gia” và những phán xét giá trị

Kornai János

Nguyễn Quang A dịch

© 2011 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách

Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tác phẩm dịch DC-12

Về đánh giá sử dụng công quỹ

“Chuyên gia” và những phán xét giá trị

Kornai János

Nguyễn Quang A1 dịch

Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của người dịch và VEPR.

1 Email: [email protected]

Mục lục

Dẫn nhập………………………………………………………………………………………….1

Tiền riêng và tiền công, điều phối thị trường và điều phối quan liêu…………………………….3

Các quyết định kỹ trị không mang giá trị…………………………………………………………7

Phục vụ các lợi ích……………………………………………………………………………….10

Về đánh giá sử dụng công quỹ“Chuyên gia” và những phán xét giá trị*

Kornai János

Dẫn nhập

Tại Hungary được bàn luận nhiều về liệu người ta có sử dụng đúng tiền của những người đóng thuế,

“tiền công cộng”, hay không. Thường không chỉ là về tiền của những người đóng thuế Hungary, mà cả

tiền từ nguồn nước ngoài nào đó, thí dụ từ các quỹ khác nhau của Liên minh Châu Âu (EU). Trong tất

cả các nước, nhiều người, trước hết là các chính trị gia và các quan chức nhà nước có thẩm quyền, tham

gia vào việc quyết định phải sử dụng tiền công cộng như thế nào. Bên cạnh đó có nhóm chuyên gia ở

mức độ nào đó tách biệt khỏi các nhà ra quyết định, nhóm đó tuy không được trao thẩm quyền quyết

định, nhưng có nhiệm vụ một mặt là chuẩn bị quyết định và mặt khác là đánh giá các hoạt động xảy ra

sau quyết định. Thực ra, việc chuẩn bị quyết định cũng là một loại đánh giá đặc biệt: phải đối sánh các

khả năng lựa chọn khả dĩ có thể được tính đến và thông báo cho các nhà ra quyết định về các hệ quả dự

kiến của từng quyết định cụ thể, về các thuận lợi và bất lợi của các lựa chọn khả dĩ khác nhau. Các

chuyên gia đảm nhiệm lĩnh vực rất quan trọng và đầy trách nhiệm này, được gọi chung là các chuyên

gia đánh giá (tiếng Anh là appraisal). Đấy là đội ngũ chuyên gia đông đảo ở tất cả các nước; một phần

họ làm việc trong lĩnh vực công, một phần khác trong lĩnh vực kinh doanh-doanh nghiệp, một phần thứ

ba trong số họ làm việc ở các tổ chức khác nhau không thuộc chính phủ cũng chẳng thuộc lĩnh vực

kinh doanh. Với đa số những người này việc đánh giá trở thành nghề chính của họ. Đa số họ là các nhà

kinh tế, có thể có trình độ luật gia, nhưng việc đánh giá trước hay sau từng hoạt động được tài trợ bằng

tiền công cộng không chỉ cần đến những cân nhắc kinh tế học hay luật học. Phải cân nhắc các tác động

chính trị, xã hội và văn hóa, phải sử dụng các kết luận không chỉ của khoa học kinh tế và khoa học luật

mà cả của chính trị học, xã hội học và tâm lý học xã hội nữa. Khi đánh giá trước hay sau từng quyết

định phải cân nhắc sâu sắc các khía cạnh đạo đức của hành động nữa – ở mức độ ấy chuyên gia tham

gia đánh giá cũng phải thành thạo về các vấn đề triết học chính trị và đạo đức học.

Các chuyên gia đánh giá nhiều lần tổ chức các cuộc gặp mặt, để nâng cao trình độ công việc khó

* A közpénzek felhasználásának értékeléséről – A “szakember” és az értékitéletek, Mozgó Világ 2010/11 tr. 30-38 (Nguyễn Quang A dịch)

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

khăn của họ bằng việc trao đổi suy nghĩ và kinh nghiệm. Cục Phát triển Quốc tế đã tổ chức một cuộc

gặp mặt đáng chú ý ở Hungary vào ngày 6 và 7 Tháng Năm 2010, Hội nghị quốc tế về Đánh giá và

Phương pháp luận. Những người tổ chức đã mời tôi trình bày báo cáo khai mạc. Đáng tiếc vì mắc bệnh

đích thân tôi đã không đến được hội nghị, nhưng tôi đã chuẩn bị bài trình bày. Theo dự kiến ban đầu,

bài trình bày và cùng với các tư liệu khác của hội nghị sẽ được xuất bản trong một tập kỷ yếu. Số phận

của tập kỷ yếu chưa chắc chắn – vì thế tôi tận dụng cơ hội để công bố nội dung muốn nói của mình trên

các cột báo của Mozgó Világ (Thế giới Chuyển động).

Văn bản được công bố ở đây không được trang bị bằng bộ máy quen thuộc của tiểu luận khoa học

(với việc giới thiệu các tiền đề tài liệu tham khảo, với các chú thích và dẫn chiếu). Tôi giữ nguyên đặc

trưng của bản gốc: nghĩa là, đây là một bài trình bày khởi động tranh luận của một hội nghị chuyên

môn.

Những nhận xét của tôi được chuẩn bị cho một hội nghị ở Budapest – nhưng tôi không bày tỏ ý kiến

về các vấn đề của nước Hungary. Tôi diễn đạt điều mình muốn nói sao cho chúng thảo luận các vấn đề

đánh giá của tất cả các chương trình được tài trợ toàn bộ hay một phần bằng tiền công cộng (từ tiền

công cộng được hình thành ở trong nước hay do các tổ chức quốc tế cung cấp) với đòi hỏi khái quát

hóa.1

Tôi coi là nghĩa vụ của mình để cảnh báo bạn đọc ngay lúc mở đầu: có nhiều ngàn chuyên gia

chuyên ngành hoạt động trong lĩnh vực đánh giá việc sử dụng tiền công cộng – và tôi không thuộc đội

ngũ này. Chuyên ngành của tôi – lý thuyết kinh tế học nói chung, so sánh các hệ thống, các vấn đề kế

hoạch, cải cách nhà nước phúc lợi, vân vân – tuy có quan hệ với lĩnh vực này và đôi nơi có những sự

chồng lấn, nhưng vẫn có thể coi là lĩnh vực khác. Khi tôi nhận lời mời và chuẩn bị bài trình bày của

mình tôi đã cố gắng đọc vài công trình trong vô vàn tài liệu tham khảo và đã nói chuyện với các đồng

nghiệp Hungary về kinh nghiệm của họ.2 Thế nhưng cuối cùng tôi vẫn phải khẳng định: ở đây, bây giờ

là một người ngoài thử nêu ý kiến về các vấn đề mà những người tham dự hội nghị và các chuyên gia

hành nghề chuyên nghiệp về đánh giá hiểu kỹ hơn tôi từ bên trong. Nhưng có lẽ chính điều này cũng có

thể có lợi nào đó: đôi khi người ngoài với con mắt mới tinh có thể nhận thấy cái gì đó mà con mắt của

1 Tôi không muốn giới hạn những giãi bày của mình chỉ ở việc phân tích sự phân bổ các nguồn lực do EU tài trợ. Nhiều tổ chức quốc tế (khu vực hay toàn cầu) tài trợ các khoản hỗ trợ tài chính cho nhiều loại mục đích, theo các quá trình khác nhau. Tôi cố gắng sao cho các nhận xét và các kiến nghị của mình có giá trị cho nhóm càng rộng càng tốt của các tổ chức quốc tế.

2 Tôi cảm ơn các bình luận có giá trị của Ember László, Gyene Gyöngyvér, Kenyeres Kinga, Soproni-Harsztyánszki Dorottya và Szűrszabó Péter cho một phiên bản sớm hơn của bản thảo. Tất nhiên tác giả chịu trách nhiệm hoàn toàn về văn bản được công bố ở đây.

2

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

người bên trong đã quá quen, và vì thế cũng chẳng nhìn ra.

Tôi đã có thể phải coi là hiển nhiên rằng người ta sử dụng phương pháp luận giống nhau nghiêm

ngặt liên quan đến từng chương trình khi [đánh giá] sơ bộ (ex ant) lúc chuẩn bị quyết định và khi đánh

giá sau, bổ khuyết (ex post) [đối với quyết định đã được thực hiện]. Trong con mắt của tôi sự thật tầm

thường là: cái về sau cần cân nhắc, đã phải được cân nhắc khi chuẩn bị quyết định. Nếu xảy ra diễn

biến nào đó ảnh hưởng đến kết quả, mà người ta đã không chú ý đến khi chuẩn bị quyết định, thì điều

này chứng tỏ: ban đầu người ta đã để sót không cân nhắc quan điểm quan trọng nào đó, đã xác định tồi

sự không chắc chắn, các rủi ro và các diễn biến bất ngờ. Trong phần lớn trình bày của mình tôi không

đặt ra sự khác biệt giữa các quan điểm của sự đánh giá ex ant và đánh giá ex post. Các nhận xét của tôi

liên quan cả đến đánh giá trước lẫn đánh giá sau. Ở nơi tôi phân biệt giữa hai pha đánh giá, ở đó tôi sẽ

lưu ý riêng một cách nhấn mạnh.

Tiền riêng và tiền công, điều phối thị trường và điều phối quan liêu

Chủ đề của hội nghị liên kết chặt chẽ đến lĩnh vực vấn đề, mà được cả kinh tế học lẫn các môn thân cận

là khoa học chính trị và xã hội học xem xét rất nhiều: mối quan hệ thị trường và nhà nước thế nào, các

đặc trưng thực sự và đáng mong muốn của mối quan hệ này là gì. Trong lĩnh vực vấn đề này tôi cảm

thấy mình thông thạo, vì từ hàng thập kỷ nay nó đã làm tôi bận tâm mạnh mẽ.

Chỉ có Robinson đã có thể hoạt động (trong một thời gian) trong sự tách biệt hoàn toàn – những

người khác hợp tác với nhau, hay đấu tranh chống lại nhau. Cần điều phối các hoạt động của họ. Nhiều

loại cơ chế điều phối hoạt động cạnh nhau, và một phần kết hợp với nhau. Trong số đó tôi nhấn mạnh

hai cơ chế: điều phối thị trường và điều phối quan liêu. Trong bài viết này tôi không thể trình bày chi

tiết các nét đặc trưng của hai loại cơ chế này, những khác biệt căn bản giữa chúng.3

Hoạt động của những người tham dự hội nghị thuộc về lĩnh vực của “điều phối quan liêu”. Các công

chức nhà nước, hay các viên chức của các tổ chức nhà nước, là các cộng sự của bộ máy dọc có tính nhà

nước. Họ nhận các chỉ thị từ các cấp trên của mình, và phải báo cáo về việc thực hiện chúng cho các

thượng cấp. Lương của họ được trả từ tiền công cộng. Họ tham gia vào việc phân bổ các khoản tiền

công cộng, dù khi chuẩn bị các quyết định hay khi đánh giá bổ khuyết sau khi thực hiện các quyết

3 Những người muốn tìm hiểu chi tiết hơn các suy nghĩ của tôi liên quan đến vấn đề này, hãy đọc các chương thảo luận chủ đề này của cuốn “Hệ thống xã hội chủ nghĩa” (NXB, Văn hóa thông tin, 2002) của tôi.

3

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

định.4

Ngôn ngữ thông thường nhiều khi dùng từ “quan liêu” với nghĩa xấu. Trong từ vựng của tôi không

có chút nghĩa xấu nào được gắn cho từ này, mà tôi dùng theo nghĩa của nhà khoa học xã hội Đức vĩ đại,

Max Weber.

Có người tin: thị trường là cơ chế điều phối hoạt động tuyệt vời – hãy để nó yên. Nơi nào cơ chế

điều phối quan liêu nhúng mũi vào ở đó nó chỉ gây rắc rối. Tôi không chấp nhận quan điểm này.

Có người tin: thị trường là nhà điều phối bất công, mù quáng, đỏng đảnh – xấu một cách vô vọng.

Chỉ có nhà nước anh minh và nhân từ mới có thể giúp con người. Tôi cũng chẳng chấp nhận quan điểm

này.

Tôi xem xét cả hai cơ chế điều phối mà không có các ảo tưởng. Cả hai đều có các tính chất thuận lợi

và bất lợi – nhưng trong mọi hoàn cảnh, đấy là các tính chất bẩm sinh, vốn có của chúng. Có nhiều loại

thất bại thị trường và có nhiều loại thất bại chính quyền.

Sau những điều này có lẽ có một kết luận đơn giản. Phải kết hợp cả hai loại cơ chế và khi đó chúng

cùng nhau sửa chữa các lỗi của nhau. Hãy để thị trường hoạt động rộng rãi – nhưng nhà nước phải điều

tiết thị trường. Và nhà nước không chỉ điều chỉnh thị trường mà bản thân nó cũng thực hiện việc điều

phối: chia các khoản tiền công cộng, thực hiện các khoản đầu tư và vân vân. Hai loại cơ chế điều phối

bổ sung cho nhau một cách may mắn.

Hoặc đúng, hoặc không.

Trong trường hợp đúng, điều phối quan liêu sửa các lỗi do cơ chế thị trường gây ra và lấp chỗ trống

nơi hoạt động của thị trường bỏ lại.

Nhưng trong trường hợp xấu, hai loại cơ chế kết hợp với nhau theo cách, làm yếu các tính chất tốt

của nhau, trong khi có lẽ cũng không làm giảm bớt các nét xấu của nhau.

Có thể hình thức kết hợp hoạt động tồi hơn so với giả như bất cứ hình thức nào chiếm ưu thế một

cách “thuần khiết”.

Dường như tôi đã khởi hành từ quá xa, thế mà tôi tin chắc rằng tôi đã đụng đến một trong những vấn

đề quan trọng nhất của chủ đề của hội nghị ở đây. Nếu giả như tôi phải đưa ra quyết định về việc sử

dụng tiền công cộng, hay sau đó phải đưa ra lập trường: họ đã sử dụng tiền công cộng tốt hay không,

thì họ phải thuyết phục tôi về: thực sự có cần đến tiền công cộng cho nhiệm vụ này hay không? Có thật

4 Có thể các cộng sự của các hãng tư nhân, như các công ty tư vấn, cũng có thể tham gia vào các cuộc thảo luận, mà công việc của chúng do bộ máy quan liêu đặt hàng, bộ máy nhà nước chi trả và quyết định về việc chấp nhận chúng, như thế trong chừng mực ấy công việc của họ ngấm vào sự điều phối quan liêu.

4

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

là sáng kiến tư nhân, các lợi ích kinh doanh (hay [các] cơ chế điều phối thứ ba vẫn chưa được nhắc tới

đến nay, sự hăng say dân sự, sự liên kết tự nguyện, chủ nghĩa vị tha) đã không thể giải quyết nhiệm vụ

này? Vì sao phải cấp hỗ trợ nhà nước cho các doanh nghiệp định hướng lợi nhuận? Vì sao phải dùng

tiền công cộng để lập các tổ chức nhằm thực hiện các chức năng mà các tổ chức đó có thể hình thành

một cách tự phát, theo sáng kiến tư nhân, với hy vọng lợi nhuận? Vì sao phải ủng hộ bằng tiền công

cộng các chương trình văn hóa hay thể thao, hay vì sao phải bằng tiền công cộng để cung cấp hoàn toàn

miễn phí các dịch vụ mà phần lớn người dân sẵn sàng và có khả năng chi trả? Có lẽ có thể thuyết phục

rằng trong các trường hợp như vậy vì những cân nhắc nhất định thực sự cần đến việc chi tiền công

cộng. Đồng ý – khi đó hãy thuyết phục tôi về điều này, nhưng với lập luận nghiêm túc! Câu trả lời

không hiển nhiên – và đừng có ai thử tạo ấn tượng cứ như có câu trả lời tầm thường, có thể chấp nhận

được mà không cần suy nghĩ, và hầu như đúng một cách tự động cho các tình thế lưỡng nan rất khó xử

này.

Kinh tế học đã khám phá ra một cách ngay thẳng các biến thể khác nhau của những thất bại thị

trường:

Tác động của từng hành động không được nội bộ hóa hoàn toàn trong tính toán riêng của những

người tham gia. Sự cưỡng bức hành chính và/hoặc khuyến khích bằng tiền công cộng có thể thúc đẩy

sự lưu ý đến các ảnh hưởng ngoại lai. Cũng bõ công nhấn mạnh vài trường hợp đặc biệt của các tác

động ngoại lai.

Một số tác động của các hành động ngày hôm nay – về phía cả các khoản lời và lợi thế, cả các

khoản lỗ và những hy sinh – chỉ xuất hiện với một thời gian trễ, trong khi những người tham gia cơ chế

thị trường chỉ cảm nhận các hành động nhanh ngay lập tức hay có độ trễ ngắn. Vì thế, có thể có lý do

chính đáng để hỗ trợ bằng tiền công cộng các chương trình mà tác động có lợi của chúng trước hết các

thế hệ sau sẽ được hưởng. (Tại điểm này tôi không thể nhịn được để rẽ khỏi dòng tư duy này một chút.

Nếu một mục đích của việc ném tiền công quỹ thực sự là để kích thích việc đạt các kết quả sẽ xuất hiện

sau 5 hay 25 năm nữa – thì phải chăng việc đạt hiệu quả của ý định này sẽ được giúp đỡ bao nhiêu bởi

sự đánh giá mà người ta sẽ thực hiện chưa đầy vài năm sau khi khởi động từng dự án? Tác động tâm lý

của việc xem xét lại gấp rút sẽ đúng là ngược lại. Phải nhanh chóng tạo ra các kết quả ngoạn mục để

người đánh giá được hài lòng. Việc đánh giá tương đối sớm – dù người ta muốn thế một cách có chủ ý,

hay dù ngược với các ý định đã được tuyên bố – sẽ chống lại việc tôn trọng các lợi ích dài hạn thật sự!)

Loại quan trọng và được biết khá kỹ khác của tác động ngoại lai là: tác động “nhân đạo” không thể

5

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

trình bày trực tiếp bằng tiền được. Nhiều thứ có thể liệt kê vào loại này: từ việc hỗ trợ những người gặp

tai họa đến việc củng cố phẩm giá con người, từ phổ biến các giá trị tinh thần đến bảo tồn các truyền

thống cao quý. Ở đây, việc cơ chế quan liêu với sự trợ giúp của tiền công cộng thử bù lại hoạt động

phân bổ của cơ chế thị trường là chính đáng.

Thế nhưng có thể đi đến đâu và không được phép đi đến đâu trong vai trò bù trừ hay chỉnh sửa này?

Đặc biệt đối với các hoạt động mà trong đó nhà khởi nghiệp kinh doanh, vốn tư nhân, cơ chế thị trường

có thể xuất hiện một cách tự phát?

Nếu nhà phân bổ nhất quyết quyết định: hỗ trợ tiền công cộng cho sản phẩm hay nhóm sản phẩm,

dịch vụ hay nhóm dịch vụ nào đó được nhấn mạnh - thì người đó đã tiến hành lựa chọn. Trao thuận lợi

cho một hướng hoạt động khả dĩ, đối lại các hướng khác cạnh tranh trực tiếp hay gián tiếp với hướng

đó. Có chắc là chọn đúng? Đối với cá nhân tôi, người dễ mến là người mà tôi cảm thấy: không ngạo

mạn, không quả quyết, không nghĩ rằng quan chức hay thành viên ban thẩm định hay chủ tịch hội đồng

những người ra quyết định là những người ex officio ([do có chức nên]đương nhiên) thông minh hơn

thị trường, hơn người chủ chịu rủi ro của đồng tiền riêng của mình, hơn nhà kinh doanh mang vốn vật

chất và tinh thần của mình ra thương trường, hơn nhà khởi xướng sáng kiến. Liệu có chắc không – với

tư cách thành viên hội đồng – rằng người đó đồng ý cấp tiền công cộng cho hai sinh viên trường

Stanford những người đã muốn phát triển một công cụ tìm kiếm hiệu quả trên Internet? Google đã

trưởng thành từ ý tưởng không mấy hào nhoáng của họ.

Việc chia chác tiền công cộng một mặt có thể chỉnh sửa các lỗi và các thất bại của thị trường mù

quáng. Mặt khác nó có thể đưa sự méo mó unfair, không đúng đắn vào cạnh tranh thị trường. Có thể

biến những người được bơm tiền công cộng thành người thoải mái, buông thả. Những người được

chiếu cố nhận ra rằng chạy chọt lấy tiền nhà nước có lợi hơn việc đứng vững trên thương trường. Hình

thành sự “săn tiền tô – rent seeking” được biết đến rất kỹ trong kinh tế học.

Tôi không – người khác cũng chẳng – biết đưa ra công thức cho việc phải quyết định thế nào.

Không có đường ranh giới có hiệu lực một lần và mãi mãi giữa các lĩnh vực, mà trong đó việc chia

chác tiền công cộng có lý do chính đáng và không chính đáng. Mỗi quyết định đi cùng với các thế

lưỡng nan khó xử. Tôi chỉ muốn bảo vệ chống lại sự gạt bỏ các lập trường cực đoan, các mâu thuẫn

khó khăn bằng các khẩu hiệu rẻ tiền (chống thị trường hay chống cơ chế quan liêu), với sự nhẹ dạ và

với sự suy nghĩ nông cạn mà thôi.

6

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

Các quyết định kỹ trị không mang giá trị?

Cả trong báo giới và trong giới chính trị, cả trong bộ máy của các nhà chức trách có thẩm quyền, nhiều

lần vang lên lời đòi hỏi rằng phải giao phó việc phân bổ tiền công cộng cho “các quyết định chuyên

nghiệp”.

Đây là đòi hỏi dễ nghe, và – khi nghe lần đầu – có thiện cảm trong con mắt của những người đã

ngán đến phát nôn vì việc chính trị hóa thái quá mọi vấn đề nhỏ và lớn. Thế mà tôi vẫn chống lại đòi

hỏi này, vì tôi cho là ảo tưởng hoàn toàn.

Về điều phối các hoạt động con người và phân bổ các nguồn lực vật chất chỉ có thể quyết định theo

“các quan điểm chuyên môn” bên trong một hệ thống giá trị cho trước. Nếu hội đồng ra quyết định của

một doanh nghiệp tư nhân định hướng lợi nhuận lựa chọn giữa các phương án đầu tư, thì đối với nó về

cơ bản đã có một giá trị chính định hướng cho sự lựa chọn rồi, cụ thể là nâng cao lợi nhuận của doanh

nghiệp. (Chúng ta phải nói thêm: ngay cả khi đó một phân tích cẩn trọng hơn vẫn lo âu một cách chính

đáng: phải chăng trước hết phải phục vụ lợi ích của các cổ đông lớn ít biến đổi, có lẽ của gia đình sáng

lập, hay lợi ích của các cổ đông nhỏ thay đổi nhanh hơn? Trước hết là lợi ích của những người chủ sở

hữu, hay đúng hơn là lợi ích của các nhà quản lý? Và phải chăng người ta có thể kỳ vọng ở một hãng

nghiêm túc, mà chỉ vì “public image – hình ảnh công chúng” đã hình thành của nó, rằng từ nhiều quan

điểm nó vượt qua được các lợi ích lợi nhuận hẹp của mình?)

Có thể nói còn đúng hơn rất nhiều về phân bổ các khoản tiền công cộng: không có quyết định không

mang tính giá trị (value free). Trường hợp tương đối hiếm, nhưng có xảy ra, là khi ra quyết định người

ta công khai chỉ ra họ đã quyết định phục vụ các giá trị nào. Thường xuyên hơn nhiều – tuy về sự lựa

chọn dựa trên các giá trị ngầm định – các giá trị được che dấu. Chúng bị ẩn dấu, bởi vì những người

chuẩn bị quyết định, người ra quyết định và muộn hơn người xem xét lại quyết định bản thân họ chẳng

hiểu rõ ràng mối quan hệ giữa một mặt là chương trình, hành động và mặt khác là các giá trị cuối cùng.

Không được phép đòi hỏi các chuyên gia phân bổ công quỹ rằng theo tinh thần kỹ trị họ hãy đạt đến

đề nghị gợi ý dứt khoát, vô điều kiện của một quyết định nào đó, và bằng cách này họ tiết kiệm cho

những người phải ra quyết định khỏi nỗi lo lựa chọn thực sự của họ về giá trị. Nghĩa vụ của các chuyên

gia chuẩn bị quyết định (và tương tự của các nhà phân tích đánh giá sau [ex post] các quyết định) là

phải chỉ ra các mối quan hệ giữa một mặt là các lựa chọn hành động khả dĩ và mặt khác là các giá trị

7

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

cuối cùng và các mục tiêu chính trị. Trong các khảo sát ex ante phải chỉ ra các mối quan hệ này liên

quan đến các lựa chọn khả dĩ có thể chọn thực sự. Trong các khảo sát ex post, phải đối sánh các hoạt

động thực sự đã hoàn tất với các hoạt động đối-thực (kontrafatuális, counterfactual). Đúng là, các hoạt

động đối-thực chỉ là các kiến trúc tinh thần, nhưng có thể dựa trên cơ sở của những kinh nghiệm của

các nước khác, hay có thể bằng sự nghiên cứu các sự kiện tương tự đã diễn ra trong quá khứ.

Tôi thử làm sáng tỏ vấn đề được thảo luận một cách trừu tượng cho đến lúc này bằng một thí dụ do

tôi biên soạn chỉ cho mục đích minh họa.

Trong một nước bằng một chương trình nhiều năm người ta muốn cải thiện tình hình của một sắc

tộc thiểu số, chẳng hạn tình hình của những người gipsy ở nhiều nước đông Âu. Kho công cụ được biết

rõ và khá quen thuộc, các nỗ lực khác nhau trong lĩnh vực về công ăn việc làm, giáo dục, tạo dư luận

xã hội, phân phối thu nhập và cứu trợ vân vân. Hiếm khi người ta nói (có lẽ do có vẻ quá hiển nhiên) về

các mục đích của các nỗ lực đó là gì. Tôi liệt kê một số mục tiêu, nói cách khác một số giá trị cuối

cùng, mà sự phụng sự chúng có thể được chúng ta đặt ra:

– Sự bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng, mỗi người đều có quyền để người khác tôn trọng phẩm

giá của mình và được sống một cách xứng đáng.

– Cải thiện các điều kiện sống về vật chất, cuộc sống yên bình.

– Tự do. Mọi người đều có quyền sống theo cách lựa chọn của mình – miễn là việc đó không gây

ra sự hạn chế tự do của những người khác.

– Sự tự chủ cá nhân. Không được phép ức hiếp người đó, nhưng ngay cả việc giám hộ người đó

cũng chẳng đúng.

– Xây dựng cộng đồng dân tộc. Phải đặt lợi ích cá nhân dưới lợi ích dân tộc.

– Công việc tử tế, nghĩa vụ hoàn thành tốt.

– Sự hiểu biết, trở thành “người có văn hóa”.

– Bảo vệ sở hữu tư nhân, củng cố an ninh công cộng.

Không phải là nhiệm vụ của bài viết của tôi để bày tỏ lập trường về các giá trị cuối cùng này. Tôi

muốn cho thấy rằng ở đây phải sử dụng các công cụ để phục vụ các mục tiêu giá trị một phần tương

hợp với nhau, một phần mâu thuẫn với nhau.

Người thực sự tham gia vào việc phân bổ tiền công cộng nhất thiết phải làm rõ: muốn đẩy mạnh

việc thực hiện các mục tiêu nào, muốn thúc đẩy việc đạt được các giá trị cuối cùng nào. Hãy tiếp tục thí

8

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

dụ nêu trên: đánh giá chương trình nhà nước nhằm cải thiện tình hình của dân gipsy. Những lựa chọn

giá trị ẩn náu ở đâu?

Chúng ta muốn cải thiện tình hình vật chất của người dân gipsy. Đúng – nhưng tình hình của nhóm

nào bên trong dân cư gipsy hãy được cải thiện nhanh hơn? Chúng ta muốn thúc đẩy nhanh nhất sự cải

thiện của những người nào? Những người mà đến nay cũng đã hội nhập tốt nhất vào xã hội? Hay

ngược lại, những người hòa nhập ít nhất để trong tương lai họ thích nghi nhanh hơn? Nói chung, quan

trọng đến mức nào để họ hòa nhập? Chẳng phải tốt hơn là nên cố gắng để họ được sống riêng một cách

yên bình?

Cũng xuất hiện những thế lưỡng nan đạo đức phát sinh trong các lĩnh vực khác của tái phân phối.

Phải hỗ trợ ai? Phải hỗ trợ những người khéo nhất, những người chăm chỉ nhất, những người thông

minh nhất để họ nêu tấm gương cho những người khác? Hay những người ở trong tình trạng bất lợi

nhất, những người cần nhất đến sự trợ giúp từ công quỹ?

Nếu tình hình dân số của cả nước có đặc trưng là sự tăng dân số thấp, thì phải chăng cần thúc đẩy để

chí ít ở các sắc tộc ít người có sự tăng dân số nhanh hơn, và như thế đóng góp tốt hơn cho sự gia tăng

tổng dân số? Hay ngược lại, ở đó cần ngăn lại, tức là phải thúc đẩy để thay đổi cơ cấu sắc tộc thiểu số

của toàn dân cư, để cho tỷ lệ dân cư phi-gipsy tăng lên? Vấn đề này quan hệ ra sao với các loại giá trị

cuối cùng như sự bình đẳng giữa mọi người hay việc xây dựng cộng đồng dân tộc?

– Những quan điểm an ninh công cộng có tầm quan trọng chính yếu hay thứ yếu đến mức nào?

Việc bảo vệ tài sản của người dân phi-gipsy cần bao nhiêu nguồn lực (mà có thể lấy đi nguồn lực để

thực hiện các mục đích khác của nhóm vấn đề rộng này)?

– Phải tôn trọng sự tự chủ đến mức nào ở các sắc tộc thiểu số (kể cả sự chấp nhận các lựa chọn

sai lầm của cá nhân)? Hay cần giám hộ họ đến mức nào? Hay có thể ra lệnh đến mức nào – bởi vì thực

ra mục đích thật sự là việc bảo vệ lợi ích của đa số dân cư phi-gipsy, bảo vệ sự an ninh, yên bình và tài

sản của họ?

Việc tách các trường học có thể phục vụ tốt cho một mục đích, trong khi lại có thể cản trở việc đạt

một mục tiêu khác. Hay việc đặt các điều kiện cho việc cấp hỗ trợ phục vụ tốt cho các mục tiêu nào đó,

nhưng đồng thời lại mâu thuẫn với các giá trị khác.

Chẳng ai có thể đòi hỏi rằng các chuyên gia dính líu đến phân bổ công quỹ và đến việc đánh giá

trước cũng như đánh giá sau phân bổ hãy trở thành các triết gia đạo đức chuyên nghiệp. Không phải là

nhiệm vụ của họ để nêu ra các giá trị đáng mong muốn, cần theo đuổi. Nhưng phải đòi hỏi ở họ rằng họ

9

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

phải am hiểu cái nghề (hay khoa học hoặc nghệ thuật) để chỉ ra một cách rõ ràng mối quan hệ giữa một

mặt là các công cụ (loại sử dụng công quỹ xác định, loại hoạt động nhà nước cụ thể) và mặt khác là các

mục đích, các giá trị cuối cùng.

Tôi phải gắn thêm một nhận xét vào lập luận trên. Khi tôi liệt kê các giá trị khác nhau mà chúng ta

có thể nỗ lực để thực hiện, tôi chỉ đưa vào danh mục các mục đích cao quý. Ngay giữa các mục đích

cao thượng này cũng có các xung đột, ngoài các lý do khác chỉ riêng việc đặt ưu tiên cho một mục đích

thì sẽ lấy đi nguồn lực phục vụ cho các mục đích khác cũng là một lý do gây xung đột. Nhưng hãy là

những người thực tế! Bên cạnh các mục đích cao cả, như củng cố cộng đồng dân tộc hay sự tự chủ cá

nhân, suy nghĩ của phần đáng kể dân chúng cũng bị ảnh hưởng bởi các ý thức hệ ghê tởm, “các giá trị”

ti tiện, các mục đích thấp kém: sự căm thù chủng tộc, ý thức hệ thù địch và phân biệt chủng tộc, sự

khinh bỉ người khác hay sự kiêu căng giai cấp. Khi sự đánh giá trước hay sau thử phân tích: từng

chương trình hay hành động dùng công quỹ thực sự phục vụ các mục đích nào – phải tỉnh táo chú ý

xem nó có vô tình hay hữu ý cũng phục vụ cho các mục đích thấp hèn, có “giá trị” tiêu cực hay không.

Nếu nhận thấy điều đó, thì phải có nghĩa vụ lên tiếng mạnh mẽ một cách gay gắt để lưu ý những người

ra quyết định.

Phục vụ các lợi ích

Chương trước của bài viết này và lập luận tiếp theo đây liên quan mật thiết với nhau và ở mức độ nào

đó hòa lẫn vào nhau. Chí ít ở mức làm rõ khái niệm, tôi muốn tách biệt hai nhóm vấn đề:

Nhóm thứ nhất: các giá trị được hành động phục vụ. Nhóm thứ hai: các lợi ích được hành động phục

vụ. Chúng ta tiếp cận các thế lưỡng nan lựa chọn theo quan điểm đạo đức học trong nhóm thứ nhất và

theo quan điểm tâm lý học kinh tế trong nhóm vấn đề thứ hai. Trên giấy, trong các lập luận lý thuyết, có

thể tưởng tượng được rằng những người hoạt động trong bộ máy nhà nước [nên] là những người hoàn

toàn duy lý, vô tư, được miễn dịch khỏi những sự xui khiến của mọi lợi ích cá nhân hay lợi ích một

phần. Thực tế là khác, ở đấy những người bằng xương bằng thịt làm việc.

Có xảy ra là, các lợi ích cá nhân dẫn dắt quan chức tham gia phân bổ tiền công cộng trong các hành

động của mình vì được những người xin tiền công cộng đút lót. Tham nhũng phát sinh ở khắp nơi. Báo

giới, đời sống chính trị, dư luận và khoa học, với thẩm quyền đã bàn đến nó rất nhiều – và trong tiểu

luận này tôi chẳng có gì để nói thêm vào.

10

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

Tham nhũng vi phạm pháp luật, phải đứng lên chống lại nó ở mọi cấp của điều tra hình sự và bộ

máy tư pháp. Cái tôi muốn bàn đến không thuộc vào lĩnh vực điều tra tội phạm: hành động của các

công chức, trong đó có những người tham gia phân bổ công quỹ, bị các lợi ích một phần chi phối (một

cách có ý thức và chủ ý, hoặc ở chừng mực nào đó vô ý mà không có các ý định được xác định từ

trước). Ảnh hưởng có thể mạnh hay yếu, có thể tạo ra sự thiên vị cực đoan hoặc chỉ gây ra sự thiên vị

chừng mực – nhưng sự phân tích kỹ lưỡng có thể phát hiện ra các tác động do các lợi ích dẫn dắt trong

rất nhiều hoạt động.

Mỗi cộng sự thường đồng nhất mình với tổ chức làm việc của mình. Nếu hoạt động ở cơ quan chịu

trách nhiệm về khu vực nông nghiệp, thì mong muốn rằng các cơ quan cấp trên vừa lòng với cơ quan

mình. Thế nhưng nếu cũng người đó được chuyển sang cơ quan bảo vệ môi trường, thì lòng trung

thành mau chóng gắn anh ta với tổ chức mới. Anh ta chiến đấu trước đó vì các lợi ích nông nghiệp, còn

sau đó thì vì các lợi ích môi trường. Nếu cơ quan anh ta bị chỉ trích, anh ta kiên quyết bảo vệ “danh dự

quân nhân”.

Hãy thử cụ thể hóa hiện tượng hoàn toàn tổng quát này cho các tổ chức phân bổ công quỹ do tổ

chức quốc tế nào đó cung cấp. Cho trước một nước thành viên được tưởng tượng nào đó, và cơ quan

của nước đó chịu trách nhiệm phân bổ tiền công cộng do tổ chức quốc tế đó cung cấp. Lợi ích của cơ

quan đó: kiếm được càng nhiều tiền càng tốt từ tổ chức quốc tế ấy. Thật tiếc nếu để mất dù chỉ một

euro mà có thể được chi tiêu ở trong nước. Nếu hóa ra là, đã có tiền, nhưng họ không phân bổ hết, thì

vì chuyện đó cơ quan có thể bị chỉ trích. Các lợi ích tạo ra cách ứng xử xác định: thúc giục việc ra

quyết định! Có thể cũng phải quyết định ngay cả khi công việc chuẩn bị chưa được chu đáo và thận

trọng. Hãy làm sao cho ổn về hình thức, và để cho công việc tiến triển.

Giữa chừng các áp lực khác cũng đè nặng lên những người chuẩn bị quyết định: các nhóm lợi ích

riêng gợi ý các lập trường của họ, tất nhiên với lập luận, được hỗ trợ bằng việc viện đến lợi ích công.

Những gợi ý có tác động không thể tránh khỏi lên suy nghĩ của các chuyên gia. Việc này đặc biệt dễ

dàng xảy ra khi, nếu các mối quan hệ cá nhân, đồng nghiệp hay trí tuệ gắn họ với nhóm lợi ích. Chắc

chắn có một chuyên gia nông nghiệp tham gia [vào việc chuẩn bị] quyết định cũng có ảnh hưởng đến

nông nghiệp. Cội nguồn gắn kết nhiều trong số những người đó với làng xóm, với thế giới nông dân,

hay thời gian học tại các đại học nông nghiệp và muộn hơn thời gian làm việc tại các cơ quan nông

nghiệp và các mạng lưới quan hệ bạn bè và đồng nghiệp được hình thành ở đó. Chẳng hề có chuyện

tham nhũng ở đây, theo nghĩa pháp lý của nó, mà chỉ là sự thiên vị và ảnh hưởng.

11

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

Các lợi ích chính trị có thể có vai trò. Tùy thuộc vào chính sách nhân sự của chế độ chính trị, mà

thực tiễn bổ nhiệm chính trị thấm sâu đến thế nào từ các chức vụ cao nhất trở xuống đến các địa vị cấp

thấp. Nhưng ngay cả đối với người, mà việc bổ nhiệm không phải là hành động chính trị công khai,

cũng muốn thân thiện với những người cấp trên của mình, với những người mà sự nghiệp, việc bổ

nhiệm, thăng chức hay giáng chức của người đó phụ thuộc vào các quyết định mang tính chính trị.

Đi cùng với sự phân bổ tiền công cộng là các tính toán kinh tế. Người đệ đơn xin tiền công cộng biết

rằng khả năng thành công sẽ cao hơn, nếu với chi tiêu tương đối ít nhưng hứa hẹn thành quả lớn. Điều

này dẫn đến việc họ ước lượng thấp chi phí dự kiến một cách có hệ thống và đánh giá cao một cách có

hệ thống các kết quả kỳ vọng. Người ra quyết định ở mức chấp thuận đơn xin, biết rằng lợi ích của

người xin là để đánh lạc hướng mình, nhưng không biết người xin nào làm méo mó số liệu đến mức

nào. Anh ta quyết định bằng cách nào đấy [trong hoàn cảnh đó].

Trong pha tiếp theo các quyết định bộ phận, khi ở cấp cao hơn người ta làm việc với các số liệu tổng

hợp, tổng hợp các tính toán của các quyết định bộ phận (chẳng hạn, tổng chi phí của tất cả các dự án

được tài trợ từ công quỹ của một địa phương), người ra quyết định ở cấp cao hơn trở thành kẻ đồng lõa

một cách không thể tránh khỏi trong việc làm méo mó thông tin. Các số liệu tổng hợp của anh ta bị

méo mó và anh ta chuyển tiếp các số liệu này lên trên – thí dụ, cho việc chuẩn bị các quyết định ở cấp

toàn quốc, hay còn cao hơn nữa cho việc chuẩn bị quyết định ở mức tổ chức quốc tế. Người đi xin tiền

công cộng, ở bất cứ cấp nào, nhờ đến người chia chác tiền công cộng ở cấp trên mình, có quan tâm đến

việc làm méo thông tin một cách có hệ thống.

Nếu lợi ích của toàn bộ một nước là để nhận được càng nhiều tài trợ càng tốt từ một tổ chức quốc tế

nào đó – thì những người đại diện cho lợi ích này ngấm ngầm ghi nhận: tổng nhu cầu liên quan đến tài

trợ dựa trên các tính toán từng phần được xây dựng trên thông tin bị làm méo mó một cách có hệ thống.

Hình thành thế lưỡng nan đạo đức sâu sắc và hết sức dày vò. Một mặt là lợi ích quốc gia (tài trợ từ tổ

chức quốc tế đó hãy đến nước chúng ta càng nhiều càng tốt, chứ không phải nước khác). Mặt khác là

mệnh lệnh đạo đức của tính đứng đắn, sự thành thật, tính khách quan và sự không thiên vị. Giả sử rằng

các nhà phân bổ công quỹ của nước “A” có thiên hướng thực hiện các mệnh lệnh đạo đức nêu trên. Đấy

là việc hay và đáng khen ngợi. Thế nhưng, trong đầu óc họ có thể nảy sinh ý nghĩ: các nước có yêu cầu

khác hiển nhiên không làm vậy, bởi vì lợi ích của họ là làm méo mó thông tin. Nước ngu ngốc ngay

thẳng đứng dưới, còn các nước “khôn khéo” đứng trên trong cuộc cạnh tranh vì tiền được chia chác từ

tổ chức quốc tế ấy.

12

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

Và bây giờ chúng ta hãy nhảy sang pha kiểm tra sau. Khi đó một phần của những méo mó ban đầu

được lộ ra. Vô số báo cáo chứng tỏ rằng người ta đã đánh giá thấp một cách có hệ thống các khoản chi

phí trong các tính toán sơ bộ. Có thể kỳ vọng đến mức nào rằng sự đánh giá sau (ex post) sẽ để lộ ra các

điểm yếu của sự đánh giá trước (ex ant)? Nhiều thứ làm cho việc làm rõ gặp khó khăn.

– Tối thiểu cần là, sự kiểm tra trước và sau có thể so sánh được với nhau; chúng hãy dựa vào các

tập dữ liệu giống nhau, các chỉ số giống nhau, các công thức tính toán giống nhau. Điều kiện này đa

phần bị thiếu.5

– Giảm bớt khó khăn cho khảo sát sau không thiên vị, nếu các chuyên gia tiến hành các phân tích

sau (ex post) tách biệt về mặt tổ chức với những người đã tham gia chuẩn bị quyết định (các chuyên gia

đánh giá ex ant). Nhưng sự tách biệt này chỉ là tương đối nếu họ có cùng thượng cấp. Hãy xem xét cấu

trúc tổ chức, trong đó người ta tập trung các chương trình phát triển vào thẩm quyền của một cơ quan.

Một vụ của cơ quan đó chuẩn bị quyết định phân bổ, và một vụ khác chỉ đạo việc đánh giá sau. Thủ

trưởng chính của cả hai vụ đó cùng là một người hay một hội đồng tập thể (một hội đồng hay một ủy

ban) . Liệu chúng ta có kỳ vọng ở các “chuyên gia đánh giá sau”: hãy vạch trần rằng thủ trưởng chính

đã quyết định sai lầm trong pha “trước”? Những người đánh giá sau khó có thể cưỡng lại bản năng (hay

áp lực) rằng “hãy bảo vệ danh dự quân nhân”, hãy đứng lên bảo vệ uy tín của cơ quan, và đừng hủy

hoại danh tiếng tốt đẹp của cơ quan.

Nếu là về đánh giá sau của cả nước, thì sự phân tích này trở thành chuyện danh dự quốc gia. (Tôi sử

dụng tên nước tưởng tượng). “Chúng ta “những người Ingus” tuyên bố công khai rằng: chúng ta đã

không chi tiêu khéo số tiền nhận được từ tổ chức quốc tế, trong khi họ “những người Kászmán” đã làm

tốt. Kết quả thi của họ sở dĩ đã tốt hơn, bởi vì họ chắc là đã lờ đi không nói về các quyết định sai lầm.

Còn chúng ta lại vạch áo cho người xem lưng, lại phơi bày sự nhơ bẩn quốc gia? Đấy sẽ có thể là cách

ứng xử phản dân tộc”.

Liệu có giải pháp thực tiễn cho việc loại bỏ những khó khăn được mô tả ở trên? Không phải sự

nhầm lẫn con người, mà là bản thân tình hình gây ra những sai lầm của sự đánh giá. Tôi không chỉ ra

những sai lầm ngẫu nhiên do do sự hời hợt, cũng chẳng phải do các hạn chế của sự hiểu biết gây ra, mà

5 Tất nhiên ngay cả khi đó cũng không được phép từ bỏ việc đánh giá sau, nếu với độ nghiêm túc cần thiết không thể so sánh được với đánh giá trước được thực hiện với cùng phương pháp luận (hay với phương pháp luận rất giống nhau). Chúng ta có thể kỳ vọng ở khảo sát sau rằng nó không chỉ đánh giá việc thực hiện chương trình mà còn đánh giá cả phương pháp luận của sự đánh giá trước nữa dưới ánh sáng của những kinh nghiệm thực tiễn.

(Người dịch chua thêm, hay một đảng).

13

Kornai János: Về đánh giá sử dụng công quỹ

là những sự méo mó do các lợi ích gây ra một cách có hệ thống.6

Để kết thúc các lập luận của mình một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh: tôi không coi là nhiệm vụ của

mình để đưa ra các chỉ dẫn cho việc đánh giá trước và đánh giá sau của việc phân bổ công quỹ. Tôi

muốn nêu ra các câu hỏi, chỉ ra các thế lưỡng nan, làm sáng tỏ những khó khăn của việc đánh giá – với

hy vọng rằng việc này sẽ thúc đẩy tranh luận và việc xem xét lại kỹ lưỡng các vấn đề.

6 Một người đọc phiên bản bản thảo sớm hơn của tôi đã nêu ra một câu hỏi đáng suy ngẫm: “sự kiểm soát của xã hội dân sự có vai trò thế nào để giảm bớt các lỗi hệ thống phụ thuộc vào tình thế?” Nếu các tổ chức xã hội dân sự xem xét và đánh giá với con mắt sắc bén và với sự xuất hiện cương quyết, thì ở mức độ nào đó chúng có thể làm giảm bớt những sự thiên vị được mô tả ở trên. Thế nhưng cũng phải tính đến rằng bản thân mỗi tổ chức xã hội dân sự cũng đại diện cho các lợi ích riêng: chúng được tổ chức để phục vụ một nghề nghiệp, một thế hệ, một vùng, một nhóm người nào đó (thí dụ một nhóm người mắc bệnh nào đó), hay một mục đích xác định nào đó (thí dụ, bảo vệ môi trường). Trong chừng mực ấy bản thân các tổ chức xã hội dân sự cũng nhất thiết thiên vị, không vô tư.

14