cổng thông tin điện tử bộ nn và ptnt - bỘ nÔng … · web view2.5. về quyền và...

40
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày tháng năm 2015 BÁO CÁO Thuyết minh đề xuất lập Dự án Luật Lâm nghiệp thay thế Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 Thực hiện Kế hoạch thực hiện Kết luận số 97-KL/TW ngày 15/5/2014 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ban hành kèm theo Quyết định số 458/QĐ-TTg ngày 09/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị lập dự án Luật Lâm nghiệp thay thế Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 với nội dung sau: I. TÊN LUẬT Tên Luật: Luật Lâm nghiệp. Lý do: Sửa đổi phạm vi điều chỉnh theo hướng Luật Lâm nghiệp điều chỉnh lâm nghiệp như một ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù, bao gồm các hoạt động về quản lý, bảo vệ, gây trồng, khai thác, chế biến, thương mại lâm sản và các dịch vụ liên quan đến rừng. II. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH 1. Bối cảnh Sau ba mươi năm đổi mới, mười năm từ thời điểm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 (Luật BV&PTR 2004) được ban hành, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; bộ mặt đất nước, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Sức mạnh của về mọi mặt của đất nước được nâng lên; quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội Việt Nam vẫn đang

Upload: others

Post on 26-Jan-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

BỘ NÔNG NGHIỆP

BỘ NÔNG NGHIỆP

VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hà Nội, ngày tháng năm 2015

BÁO CÁO

Thuyết minh đề xuất lập Dự án Luật Lâm nghiệp

thay thế Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004

Thực hiện Kế hoạch thực hiện Kết luận số 97-KL/TW ngày 15/5/2014 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ban hành kèm theo Quyết định số 458/QĐ-TTg ngày 09/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị lập dự án Luật Lâm nghiệp thay thế Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 với nội dung sau:

I. TÊN LUẬT

Tên Luật: Luật Lâm nghiệp.

Lý do: Sửa đổi phạm vi điều chỉnh theo hướng Luật Lâm nghiệp điều chỉnh lâm nghiệp như một ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù, bao gồm các hoạt động về quản lý, bảo vệ, gây trồng, khai thác, chế biến, thương mại lâm sản và các dịch vụ liên quan đến rừng.

II. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH

1. Bối cảnh

Sau ba mươi năm đổi mới, mười năm từ thời điểm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 (Luật BV&PTR 2004) được ban hành, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; bộ mặt đất nước, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Sức mạnh của về mọi mặt của đất nước được nâng lên; quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức như: kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực được huy động; kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm; chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp; phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường; chưa đạt được mục tiêu tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.

Để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, mỗi ngành kinh tế, trong đó có lâm nghiệp, cần tìm kiếm những khâu đột phá để tăng năng suất lao động, nâng cao giá trị sản xuất và xuất khẩu, tạo thêm việc làm và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành mình.

Trong bối cảnh chung đó, ngành lâm nghiệp đang đứng trước những cơ hội lớn:

Một là, những thành tựu, kinh nghiệm của gần 30 năm đổi mới (1986 - 2014) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước; nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng. GPD năm 2014 của Việt Nam đã tăng lên khoảng 3,5 lần, từ 49 tỷ USD lên 171 tỷ USD. Trong cơ cấu của nền kinh tế, nông - lâm - thủy sản tiếp tục giảm tỷ trọng từ mức 20.4% năm 2004 xuống còn 18.12% năm 2014; ngành lâm nghiệp đang có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực nông - lâm nghiệp là 6.85% - cao hơn mức tăng trưởng chung của khu vực và của cả nền kinh tế.

Hai là, nhận thức về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, trong đó thực hiện quản lý rừng theo nguyên tắc bền vững đã được nâng lên và thể hiện rõ nét trong chủ trương, chính sách phát triển lâm nghiệp; tài nguyên rừng nước ta đã và đang diễn biến theo xu thế phục hồi và phát triển trên phạm vi toàn quốc (diện tích rừng tăng từ 12,306 triệu ha năm 2004 lên 13,954 triệu ha vào năm 2013; tương ứng độ che phủ của rừng toàn quốc tăng từ 37% lên 41%, đạt 44-45% vào năm 2020) đã thể hiện cam kết chính trị và quyết tâm cao của Nhà nước trong việc phục hồi và phát triển rừng của đất nước sau một thời kỳ dài rừng đã bị tàn phá và suy thoái.

Ba là, thị trường nội địa tiêu thụ gỗ rừng trồng là rất lớn, thương mại gỗ và đồ gỗ trong nước và trên thế giới vẫn tiếp tục tăng trưởng, tạo cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp sản xuất đồ gỗ của Việt Nam, có nhu cầu cao về gỗ nguyên liệu trong nước, tạo ra thị trường và động lực cho việc phát triển rừng trong nước, đặc biệt là rừng trồng. Dự báo tăng trưởng đến năm 2020, thị trường nội địa và xuất khẩu có nhu cầu khoảng 9 triệu m3 sản phẩm, tương ứng khoảng 20 triệu m3 gỗ nguyên liệu.

Bốn là, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp tiếp tục phát triển ngày càng sâu rộng, đa dạng nhằm thu hút hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để thực hiện chương trình bảo vệ và phát triển rừng phục vụ mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.

Tuy nhiên, ngành lâm nghiệp Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức hết sức to lớn:

Thứ nhất, trong xu hướng biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay, Việt Nam được dự báo là một trong 5 nước chịu sự ảnh hưởng nặng nề của nước biển dâng. Tác động dài hạn của biến đổi khí hậu có thể dẫn đến thay đổi sinh cảnh gây ảnh hưởng đến đa dạng sinh học rừng, làm gia tăng sâu bệnh, cháy rừng và sa mạc hóa.

Thứ hai, bất cập giữa yêu cầu phát triển ngành lâm nghiệp nhanh, toàn diện và bền vững với các nguồn lực của ngành, đặc biệt là vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho ngành lâm nghiệp còn hạn chế. Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình (thấp), nên các nguồn vốn ODA cho lâm nghiệp cũng giảm, trong khi đó việc huy động các nguồn vốn xã hội hóa còn hạn chế.

Thứ ba, dân số gia tăng, nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp cho các mục đích khác vẫn tiếp tục tăng mạnh; tranh chấp đất đai giữa cây rừng, cây nông nghiệp ngắn ngày, cây công nghiệp lâu năm và có giá trị xuất khẩu cao... luôn luôn tồn tại; sự gia tăng nhu cầu gỗ là động cơ thúc đẩy các hoạt động khai thác, vận chuyển, buôn bán lâm sản bất hợp pháp vẫn là mối đe dọa lớn đối với các khu rừng tự nhiên giàu và trung bình, bất lợi cho việc thiết lập lâm phận ổn định.

Thứ tư, hiện nay ngành lâm nghiệp gặp khó khăn trong xây dựng quy hoạch và tuyển chọn giống phù hợp cho trồng rừng gỗ lớn, nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.

Thứ năm, ngành chế biến gỗ chủ yếu hướng tới xuất khẩu trong khi phải đáp ứng yêu cầu mới của các thị trường nhập khẩu, như Luật Lacey của Hoa Kỳ, FLEGT của Cộng đồng châu Âu về nguồn gốc, xuất xứ của gỗ hợp pháp. Đây là những thách thức lớn cho quản lý rừng sản xuất bền vững của Việt Nam.

2. Những tác động tích cực, tồn tại, hạn chế của Luật BV&PTR

Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6, Khóa XI ngày 03/12/2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2005. Luật đã thể hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng trong thời kỳ đầu đổi mới đất nước. Sau 10 năm thực hiện, Luật BV&PTR đã được triển khai tích cực, đi vào cuộc sống, tạo khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hành vi xã hội trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, thể hiện ở những mặt cơ bản sau:

Một là, Luật BV&PTR đã thể chế hóa các quan điểm phát triển lâm nghiệp của Đảng, tạo chuyển biến quan trọng trong phát triển lâm nghiệp, từ nền lâm nghiệp lấy quốc doanh là chủ yếu sang nền lâm nghiệp xã hội với nhiều thành phần kinh tế tham gia; từ chủ yếu dựa vào khai thác, lợi dụng rừng tự nhiên sang bảo vệ, nuôi dưỡng, gây trồng rừng, phân cấp quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Nhờ đó đã thúc đẩy, tạo cơ chế, chính sách phát triển nhanh chóng diện tích rừng từ 12,306 triệu ha năm 2004 lên 13,954 triệu ha vào năm 2013; tương ứng độ che phủ của rừng toàn quốc từ 37% lên 41%.

Quyền và trách nhiệm của chủ rừng được luật hóa, Nhà nước bảo đảm thực hiện, tạo cho chủ rừng gắn bó, yên tâm đầu tư bảo vệ rừng, phát triển sản xuất, kinh doanh, sử dụng có hiệu quả rừng và đất lâm nghiệp.

Hai là, trên cơ sở các quy định của Luật BV&PTR, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương đã ban hành trên 100 văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn, quy định chi tiết thi hành luật, bao quát toàn diện về quy hoạch, kế hoạch, bảo vệ và phát triển rừng; giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp; phân loại rừng; định giá rừng; thống kê, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến rừng; quy chế quản lý rừng, quản lý, khai thác lâm sản; quản lý giống cây trồng lâm nghiệp; cải tạo rừng tự nhiên nghèo kiệt; trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác; quản lý thực vật rừng, động vật rừng; tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm; xử lý hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ, phát triển rừng và quản lý lâm sản,...

Ba là, trên cơ sở quy định về các nguyên tắc của Luật BV&PTR, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tác động tích cực đến bảo vệ, phát triển rừng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, sử dụng đất, rừng có hiệu quả hơn, như: chính sách hỗ trợ trồng rừng sản xuất, phát triển lâm nghiệp bền vững, chi trả dịch vụ môi trường rừng; thí điểm cơ chế đồng quản lý rừng, tổ chức và quản lý bảo tồn, phát triển hệ thống rừng đặc dụng; hỗ trợ bảo vệ rừng tại cơ sở...

Bốn là, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng đã có nhiều chuyển biến tích cực, hệ thống tổ chức ngành lâm nghiệp từng bước được củng cố, tăng cường; chuyển căn bản từ quản lý bằng mệnh lệnh hành chính sang chủ yếu sử dụng công cụ pháp luật và các chính sách đòn bẩy kinh tế gắn với quy hoạch, kế hoạch, định hướng thị trường.

Tuy nhiên, quá trình thi hành Luật đã bộc lộ tồn tại, hạn chế như:

Một là, pháp luật BV&PTR và các pháp luật khác có liên quan quy định còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn, nhất là những quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của một số chủ thể quản lý rừng, về phân loại đất, phân loại rừng, quản lý đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng, quản lý hệ thống bảo tồn thiên nhiên là rừng đặc dụng,… thiếu thống nhất với một số Luật khác (như Luật Dân sự, Luật Đa dạng sinh học 2008,...). Quốc hội Khóa 13 mới thông qua Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, trong đó có nhiều chế định và quy định mới liên quan đến lâm nghiệp (quyền sở hữu rừng, quyền sử dụng rừng và thực hiện các quyền trong mối quan hệ với quyền sử dụng đất; các quy định về môi trường trong quản lý lâm nghiệp…).

Hai là, Luật BV&PTR chưa quy định rõ, đầy đủ chuỗi sản xuất lâm nghiệp, từ quản lý, bảo vệ, phát triển rừng đến khai thác, vận chuyển, chế biến, kinh doanh, thương mại lâm sản, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong hoạch định chính sách, đầu tư phát triển, nâng cao giá trị kinh tế của rừng và chưa đánh giá đúng thành quả của ngành lâm nghiệp; rừng và đất lâm nghiệp chiếm tới trên 50% diện tích cả nước, nhưng tổng giá trị GDP lâm nghiệp chỉ chiếm chưa đến 1% GDP quốc gia, một phần là do không đưa giá trị chế biến lâm sản và dịch vụ môi trường rừng vào thành quả của ngành lâm nghiệp.

Ba là, quy hoạch BV&PTR chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ với quy hoạch sử dụng đất, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chưa sát với thực tế và thường xuyên bị phá vỡ, việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch BV&PTR còn sai mục đích, kém hiệu quả; thanh tra, giám sát thi hành pháp luật chưa nghiêm, trong khi chế tài xử lý vi phạm pháp luật về BV&PTR còn thiếu và chưa đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi vi phạm, nên tình trạng phá rừng, khai thác vận chuyển lâm sản trái phép, lấn chiếm, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và đất lâm nghiệp trái pháp luật còn diễn ra phức tạp ở nhiều địa phương gây bức xúc trong xã hội và làm suy giảm tài nguyên rừng, nhất là rừng tự nhiên.

Bốn là, các quy định về phát triển rừng chưa tạo ra được những bước tiến mới trong kinh doanh rừng trồng; năng suất, chất lượng, giá trị rừng sản xuất vẫn còn thấp, chủ yếu là trồng rừng gỗ nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản về nguyên liệu gỗ lớn cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu, chưa đem lại hiệu quả kinh tế để có thể giảm cách biệt thu nhập so với các cây trồng và ngành nghề khác; đa số người dân làm nghề rừng còn nghèo, tỷ trọng thu nhập từ lâm nghiệp chỉ chiếm 25% trong tổng thu nhập của nông dân miền núi, nên chưa góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người làm nghề rừng..

Năm là, các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đối với rừng tự nhiên và các quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khi được Nhà nước giao, cho thuê rừng tự nhiên; nên chưa tạo điều kiện phát huy tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh và thu hút mạnh mẽ đầu tư vào nghề rừng;cơ chế chính sách hưởng lợi từ rừng còn nhiều bất cập, chưa tính đến các giá trị dịch vụ môi trường rừng;

Sáu là, Luật chưa quy định toàn diện, đồng bộ hệ thống quản lý nhà nước về lâm nghiệp, mới chỉ quy định được lực lượng Kiểm lâm, dẫn đến hệ thống tổ chức quản lý ngành lâm nghiệp, tổ chức của lực lượng Kiểm lâm, lực lượng bảo vệ rừng ở địa phương thiếu thống nhất, không phát huy được hiệu quả tổng hợp và phân định rõ chức năng quản lý ngành lâm nghiệp trong một đầu mối.

Bảy là, Luật chưa quy định cụ thể về hệ thống tổ chức sản xuất và dịch vụ lâm nghiệp cấp cơ sở. Các lâm trường quốc doanh trước đây, sau khi đã sắp xếp lại, chuyển thành công ty lâm nghiệp, chưa có sự thay đổi căn bản về cơ chế quản lý, quản trị doanh nghiệp, nhất là chưa tạo điều kiện để công ty phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; phần lớn đất đai và rừng chưa được rà soát, đo đạc trên thực địa, chưa lập bản đồ địa chính, diện tích đất được cấp sổ đỏ chiếm tỷ lệ thấp, còn có biểu hiện vi phạm pháp luật đất đai với nhiều hình thức khác nhau; nhiều công ty lâm nghiệp hiệu quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của người lao động thấp.

Tám là, Luật chưa có quy định cụ thể về chế biến và thương mại lâm sản, nhất là cơ chế ưu đãi đầu tư và tín dụng cần thiết cho ngành chế biến gỗ và lâm sản, tạo động lực phát triển rừng, phát triển nguồn nguyên liệu. Trên thực tế, quản trị doanh nghiệp, công nghệ chế biến; chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh thấp; giá trị gia tăng của lâm sản thấp; tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Mặc dù Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu đồ gỗ lớn trên thế giới, nhưng quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, chưa tổ chức liên kết theo chuỗi, kết cấu hạ tầng phục vụ chế biến yếu kém; công nghệ và quản trị các doanh nghiệp vừa và nhỏ phổ biến còn lạc hậu, nên hiệu quả của sản xuất lâm nghiệp thấp so với khu vực và thế giới. Năng suất lao động trong chế biến lâm sản của Việt Nam chỉ bằng 50% so với Philipin, 40% so với Trung Quốc và 20% so với bình quân các nước EU; chất lượng, mẫu mã sản phẩm kém cạnh tranh. Thị trường trong nước chưa được quan tâm đúng mức, chưa hình thành hệ thống phân phối lưu thông, thiếu gắn kết giữa nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu.

Chín là, Luật chưa có quy định cụ thể về khoa học và công nghệ; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hợp tác, hội nhập quốc tế trong lâm nghiệp. Trên thực tế, trình độ tay nghề lao động lâm nghiệp thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu, trồng rừng vẫn chủ yếu là quảng canh. Công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vào sản xuất còn nhiều bất cập. Công nghệ sinh học và công tác tạo giống chưa được ứng dụng trên quy mô rộng.

Mười là, pháp luật BV&PTR còn những quy định chưa phù hợp hoặc thiếu cụ thể với một số công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, dẫn đến việc một số khó khăn, hạn chế trong thực thi và hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là những quy định về REDD+, FLEGT...

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ những quy định chưa đầy đủ, thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật lâm nghiệp. Cụ thể:

2.1. Về phân loại rừng

Theo Luật BV&PTR 2004, rừng được phân thành 3 loại: phòng hộ, đặc dụng, sản xuất; trong mỗi loại rừng lại được phân thành các loại khác nhau. Việc quản lý theo 3 loại rừng nêu trên đã góp phần đáng kể về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trong thời gian qua, như giúp cho việc xác định đối tượng rừng rõ ràng hơn để xác định chủ thể quản lý, đối tượng và mức đầu tư của nhà nước, nguồn gốc lâm sản…, nhất là khi tài nguyên rừng phần lớn do nhà nước trực tiếp quản lý và sử dụng.

Tuy nhiên, việc quản lý theo 3 loại rừng ngày càng bộc lộ một số hạn chế, bất cập, như:

Thứ nhất, việc phân 3 loại rừng đã buộc phải có 3 loại cơ chế, chính sách khác nhau để quản lý, sử dụng phù hợp với từng loại rừng trong khi bản thân mỗi loại rừng đều có các chức năng phòng hộ, bảo tồn và sản xuất, có mối liên hệ với nhau. Việc phân 3 loại rừng, tuyệt đối hóa bằng 3 hệ thống tổ chức quản lý rừng (rừng sản xuất do các doanh nghiệp, rừng phòng hộ do các Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng do các Ban quản lý rừng đặc dụng quản lý, sử dụng) đã dẫn đến các chủ rừng không phát huy được sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng, tạo nên manh mún về từng loại rừng, gây khó khăn cho việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát, thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng.

Thứ hai, việc phân 3 loại rừng chưa phù hợp với phân loại rừng của nhiều nước trên thế giới (chủ yếu có 2 loại: rừng kinh tế/thương mại - commercial forests và rừng bảo vệ - protected forests) nên gây khó khăn trong quá trình hội nhập và hợp tác, nhất là trong việc cấp chứng chỉ rừng, xác định nguồn gốc gỗ hợp pháp, buôn bán tín chỉ các bon v.v...

2.2. Về thực hiện quyền của Nhà nước về BV&PTR

a) Về quy hoạch, kế hoạch BV&PTR:

Công tác quy hoạch, kế hoạch BV&PTR đã đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước về lâm nghiệp, khoanh định quỹ đất lâm nghiệp phục vụ cho việc BV&PTR, cơ bản đảm bảo yêu cầu bảo tồn, phòng hộ và phát triển kinh tế; theo quy hoạch đến năm 2020, trong tổng số 16.247.492 ha diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp, rừng đặc dụng 2.199.342 ha, rừng phòng hộ 5.552.328 ha, rừng sản xuất 8.495.823 ha.

Tuy nhiên, còn tồn tại, hạn chế như:

Một là, chưa quy định rõ trách nhiệm của từng ngành cũng như sự phối hợp giữa ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngành tài nguyên và môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch BV & PTR gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp.

Hai là, quy định trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch BV&PTR của UBND cấp xã là không khả thi, vì nội dung quy hoạch, kế hoạch này bao gồm khá nhiều vấn đề, với điều kiện nhân lực và cơ sở vật chất như hiện nay, UBND cấp xã khó có thể đảm đương được với chất lượng tốt.

b) Về giao rừng, cho thuê rừng:

Tính đến ngày 31/12/2013, diện tích rừng đã giao cho các đối tượng là 13,954 triệu ha trong đó 10,398 triệu ha là rừng tự nhiên và 3,556 triệu ha là rừng trồng. Vể cơ cấu diện tích rừng đã giao cho các chủ thể quản lý, các Ban quản lý rừng đặc dụng và phòng hộ: 4,744 triệu ha(34%); các doanh nghiệp nhà nước: 1,9 triệu ha (13,6%); hộ gia đình, cá nhân: 3,414 triệu (24,5%), các cộng đồng dân cư thôn: 524.477 ha (3,7%); UBND cấp xã tạm thời quản lý 2,29 triệu ha (16,4%); tổ chức khác: 7.8%. Việc thực hiện giao rừng đã hình thành hệ thống các chủ rừng, đảm bảo mỗi khu rừng đã có chủ quản lý cụ thể.

Tuy nhiên, có một số tồn tại, hạn chế như:

Thứ nhất, quy định việc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng phải đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp GCNQSDĐ là hợp lý, nhưng chưa quy định rõ cơ chế phối hợp giữa cơ quan lâm nghiệp và cơ quan tài nguyên môi trường và hỗ trợ kinh phí để thực hiện những quy định trên.

Thứ hai, quy định UBND cấp xã có trách nhiệm lập phương án giao rừng là không phù hợp, vì UBND cấp xã không phải là cơ quan có thẩm quyền giao rừng; việc duy trì diện tích rừng tạm giao cho UBND cấp xã tổ chức quản lý quá lâu dài (trên 2 triệu ha), đã ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ rừng, do UBND cấp xã không có kinh phí bảo vệ

Thứ ba, khi giao rừng chỉ xác định diện tích rừng và xác định sơ bộ trạng thái rừng, không lượng hóa về số lượng, chất lượng gỗ, lâm sản trên diện tích khi giao, nên không có căn cứ để xác định giá trị rừng tăng thêm.

Thứ tư, quy định cộng đồng dân cư thôn chỉ được giao một số khu rừng nhỏ lẻ, phân tán là chưa phù hợp (khu rừng hiện cộng đồng đang quản lý có hiệu quả, khu rừng giữ nguồn nước, khu rừng giáp ranh..).

Thứ năm, quy định cho thuê rừng nhưng thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể (giá cho thuê, thời gian thuê, hình thức thuê, quản lý sử dụng tiền cho thuê rừng...) nên khó thực hiện.

c) Về chuyển mục đích sử dụng rừng:

Các quy định về chuyển mục đích sử dụng rừng đã góp phần giải quyết đất sản xuất, đất ở, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, hạn chế chuyển mục đích sử dụng rừng sai mục đích.

Tuy nhiên cũng còn tồn tại, hạn chế, như: thiếu quy định cụ thể về tiêu chí và điều kiện chuyển đổi rừng tự nhiên sang mục đích sử dụng khác, chưa quy định diện tích tối đa được phép chuyển mục đích và cơ quan có thẩm quyền cho phép; khắc phục hậu quả sau chuyển mục đích sử dụng rừng.

d) Về thống kê rừng, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng:

Quy định về thống kê rừng, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng đã giúp cho việc lập quy hoạch, kế hoạch, xây dựng dự án, chương trình phục vụ BV & PTR. Tuy nhiên còn tồn tại, hạn chế:

Một là, chưa quy định rõ định kỳ theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; việc quy định kiểm kê rừng được tiến hành 5 năm một lần cần xem xét lại, vì mỗi lần kiểm kê rất tốn kém.

Hai là, việc quy định cấp xã thực hiện theo dõi, báo cáo về diễn biến tài nguyên rừng là chưa phù hợp vì tính chất công việc đòi hỏi chuyên môn cao; quy định chủ rừng có trách nhiệm kiểm kê rừng, thống kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng khi Nhà nước không hỗ trợ gì về tài chính và kỹ thuật, đặc biệt chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân.

Ba là, chưa quy định rõ ngành, cơ quan cụ thể có trách nhiệm công bố kết quả thống kê, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng ở các cấp, dẫn đến có sự sai khác giữa số liệu về diện tích rừng và đất lâm nghiệp giữa các ngành.

đ) Về định giá rừng:

Đến nay, có một số Vườn quốc gia thực hiện định giá khu rừng làm cơ sở cho thuê rừng; một số tỉnh đã xây dựng bảng giá rừng tự nhiên và rừng trồng phục vụ cho quản lý rừng. quy định về giá rừng có những tồn tại, hạn chế như:

Thứ nhất, do chỉ có quy định về nguyên tắc và phương pháp chung để xác định giá các loại rừng nên khó áp dụng trong tất cả các trường hợp, vì trên thực tế có nhiều loại giao dịch về rừng.

Thứ hai, quy định xác định giá các loại rừng sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng trồng thực tế trên thị trường thực hiện cũng rất khó khăn, vì thị trường giao dịch về rừng hầu như chưa hình thành; định giá rừng chưa tính đến các thu nhập từ dịch vụ môi trường rừng.

Thứ ba, thiếu quy định về định giá rừng trong quyết định giao và cho thuê rừng nên rất khó đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc tính tiền sử dụng rừng, tiền thuê rừng hay tính giá trị quyền sử dụng rừng khi nhà nước giao rừng không thu tiền sử dụng rừng. Đồng thời, rừng không được định giá trước khi giao hay cho thuê đã gặp khó khăn trong việc giải quyết bồi thường khi nhà nước thu hồi rừng.

2.3. Về bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng

a) Về bảo vệ rừng:

Thực hiện các quy định về bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, hệ thống tổ chức của lực lượng kiểm lâm được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương, trong cả nước đã hình thành được 42.000 tổ, đội quần chúng bảo vệ rừng; đã có 58/63 tỉnh/thành phố thành lập Ban chỉ huy về những vấn đề cấp bách trong bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, hơn 460/520 huyện có rừng và 4816/5985 xã có rừng thành lập các Ban chỉ huy để chỉ đạo, điều hành và kiểm tra đôn đốc các chủ rừng tổ chức thực hiện công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn; đồng thời trực tiếp chỉ huy công tác chống chặt phá rừng và chữa cháy rừng ở cơ sở. Bộ Nông nghiệp và PTNT đã thường xuyên đưa thông tin cảnh báo cháy rừng của từng khu vực trên các phương tiện thông tin đại chúng (TV, đài, báo) để các chủ rừng biết và có biện pháp chủ động phòng ngừa.

Tuy nhiên còn tồn tại, hạn chế, như:

Thứ nhất, quy định trách nhiệm bảo vệ rừng của chủ rừng thiếu cụ thể và chưa chặt chẽ, khó có thể đảm bảo chủ rừng sẽ thực hiện một cách nghiêm túc.

Thứ hai, cơ chế phối hợp liên ngành trong việc thực hiện bảo vệ rừng chủ yếu quy định tại các văn bản dưới luật nên không phát huy được hiệu quả khi triển khai do thiếu các căn cứ luật định.

b) Về bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng:

Hiện nay đã quy hoạch ổn định 164 khu rừng đặc dụng trong toàn quốc, trong đó có 30 Vườn quốc gia, 69 khu Bảo tồn thiên nhiên, 45 khu Bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng thực nghiệm, nghiên cứu khoa học; có khoảng 80% số khu rừng đặc dụng đã thành lập Ban quản lý; hình thành các khu rừng phòng hộ và có ban quản lý rừng; hệ thống rừng đặc dụng trong cả nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Tuy nhiên, công tác bảo tồn đa dạng sinh học rừng cũng còn những tồn tại, hạn chế:

Một là, quy định về bảo tồn đa dạng sinh học rừng chưa được đề cập đối với các hệ thống rừng phòng hộ và rừng sản xuất, trong khi đó, nhiều khu rừng phòng hộ, khu rừng sản xuất là rừng tự nhiên cũng có tính đa dạng sinh học cao.

Hai là, thiếu các quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của các trung tâm cứu hộ động vật rừng hoang dã, nguy cấp quý hiếm nên các trung tâm cứu hộ gặp khó khăn khi tiếp nhận động vật rừng cần cứu hộ, làm giảm hiệu quả và mục đích của công tác này.Ba là, các quy định chưa thực sự thu hút được lực lượng cộng đồng dân cư địa phương tham gia trong các hoạt động bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học.

2.4. Về thực hiện phát triển rừng, sử dụng rừng

a) Về phát triển rừng:

Đến nay đã quy hoạch góp phần tăng diện tích rừng, phục hồi, làm giàu rừng tự nhiên; nâng cao hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp. Tuy nhiên còn tồn tại, hạn chế, như:

Thứ nhất, chưa quy định cụ thể về cơ cấu cây trồng rừng hoặc nguyên tắc chọn loài cây trồng cho phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất.

Thứ hai, chưa có quy trình trồng rừng gỗ lớn cũng như chưa tuyển chọn giống phù hợp cho trồng rừng gỗ lớn.

Thứ ba, các quy định về việc sử dụng diện tích đất chưa có rừng để sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp kết hợp trong rừng phòng hộ, rừng sản xuất hiện chưa thống nhất trong một số văn bản pháp luật.

Thứ tư, quy định về quản lý giống cây trồng lâm nghiệp còn bất cập, như: phân công thẩm định, công nhận nguồn giống, quản lý vật liệu nhân giống,... còn khá phức tạp, tính khả thi chưa cao; chưa có chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ cao trong chọn tạo sản xuất giống, nhất là khâu tạo giống có chu kỳ ngắn, chất lượng tốt, năng suất cao.

b) Về khai thác rừng:

Pháp luật lâm nghiệp quy định quản lý chặt chẽ khai thác rừng tự nhiên và tạo thông thoáng đối với khai thác gỗ rừng trồng đã góp phần hạn chế tình trạng khai thác gỗ trái pháp luật, ngày càng bảo vệ tốt hơn diện tích rừng tự nhiên hiện còn.

Tuy nhiên còn tồn tại hạn chế:

Một là, quy định điều kiện khai thác gỗ rừng sản xuất là rừng tự nhiên còn khác nhau giữa văn bản luật và văn bản dưới luật.

Hai là, áp dụng hạn ngạch khai thác gỗ hàng năm đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên không căn cứ vào khả năng thực tế của rừng mà theo ý muốn chủ quan của nhà quản lý; chưa quy định rõ, đầy đủ nguyên tắc quản lý rừng bền vững theo xu hướng thế giới hiện nay.

c) Về chính sách hưởng lợi từ rừng:

Các quy định hiện hành về chính sách hưởng lợi cho phép chủ rừng được hưởng lợi trên sản lượng tăng thêm của rừng và chỉ phù hợp với những nơi có khả năng khai thác và tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, có một số tồn tại, hạn chế như:

Thứ nhất, do không xác định trữ lượng rừng khi giao, khoán ban đầu nên không có cơ sở xác định sản lượng tăng thêm hoặc ở những khu rừng không có trữ lượng, không có lâm sản phụ, nơi đất xấu không thể kết hợp được sản xuất nông ngư nghiệp; rừng ở vùng sâu vùng xa, địa hình hiểm trở khó khai thác và vận chuyển lâm sản ra ngoài thì quyền hưỏng lợi trên đất lâm nghiệp hầu như không thực hiện được.

Thứ hai, Luật chưa có quy định về hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng, mà chỉ được quy định ở văn bản dưới luật (điều tiết nước, bảo vệ đất, du lịch sinh thái, hấp thụ và lưu giữ các bon rừng…).

2.5. Về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng

Pháp luật về BV&PTR đã quy định cụ thể các quyền cho từng chủ rừng và các quyền này ngày càng được hoàn thiện hơn, được bảo đảm thực hiện và phát huy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Chủ rừng được hưởng lợi từ rừng và thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng rừng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, còn một số tồn tại, hạn chế như:

Thứ nhất, theo quy định của Luật, các ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ trực thuộc nhiều cấp khác nhau, việc chỉ đạo chưa bảo đảm tính thống nhất; chức năng, các quyền cơ bản, bộ máy, biên chế của ban quản lý rừng, nhất là ban quản lý rừng phòng hộ chưa được quy định rõ trong luật mà thường được quy định tại văn bản dưới luật nên triển khai gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, Luật chưa quy định rõ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm quản lý rừng của công ty lâm nghiệp với tư cách là một doanh nghiệp lâm nghiệp, đặc biệt chính sách về rừng tự nhiên là rừng sản xuất được giao cho công ty. Theo quy định hiện hành, công ty lâm nghiệp được nhà nước giao rừng sản xuất có thu tiền sử dụng rừng, trường hợp tiền sử dụng rừng đã trả có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thì chỉ được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng tăng thêm do chủ rừng tự đầu tư so với giá trị quyền sử dụng rừng được xác định tại thời diểm được giao rừng; trong trường hợp công ty lâm nghiệp đã trả tiền sử dụng rừng, tiền chuyển nhượng rừng bằng nguồn vốn của mình (không có nguồn gốc ngân sách) cũng chỉ được hưởng giá trị tăng thêm của rừng. Quy định này không có tính khả thi, khi giá rừng không được xác định tại thời điểm giao hoặc cho thuê rừng.

Thứ ba, Luật BV& PTR chưa công nhận cộng đồng là “chủ rừng”. Cộng đồng dân cư thôn được giao rừng nhưng không có các quyền như các chủ rừng khác, như quyền cho thuê, thế chấp, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng rừng được giao. Nhà nước giao rừng cho cộng đồng nhưng chưa quy định rõ chính sách hưởng lợi từ rừng và chính sách hỗ trợ, trong khi rừng giao cho cộng đồng là rừng tự nhiên nghèo hoặc rừng phục hồi, hầu như không có thu nhập từ rừng trong nhiều năm.

Thứ tư, quy định chủ rừng là hộ gia đình được chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng lại không được chuyển nhượng rừng tự nhiên là rừng sản xuất trên mảnh đất đó, trong khi đó rừng luôn gắn liền với đất, đất rừng cũng là một yếu tố cấu thành của rừng; chỉ được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng tăng thêm đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên nhưng rất khó thực hiện vì giá rừng không được xác định tại thời điểm giao rừng.

2.6. Về hệ thống tổ chức cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp, Kiểm lâm

Theo quy định của Luật, hệ thống tổ chức của lực lượng kiểm lâm được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương, đưa kiểm lâm địa bàn về xã; bố trí lực lượng kiểm lâm ở các khu rừng đặc dụng, phòng hộ, đã góp phần tích cực vào đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về BV&PTR, hạn chế nạn phá rừng trái pháp luật. Tuy nhiên còn tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, hệ thống tổ chức chuyên ngành lâm nghiệp thiếu thống nhất, ổn định; chưa bố trí được cán bộ lâm nghiệp ở xã có rừng theo quy định của Luật.

Thứ hai, Luật không qui định những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của kiểm lâm mà trao cho văn bản dưới luật qui định nên thiếu thống nhất trong quy định về nhiệm vụ của kiểm lâm tại một số văn bản dưới luật; kiểm lâm địa bàn cấp xã là công chức nhà nước thuộc biên chế của Hạt Kiểm lâm huyện chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, nhưng đồng thời cũng chịu sự chỉ đạo của Chủ tịch UBND cấp xã. Thực tế cho thấy, việc chỉ đạo một công chức không thuộc biên chế của cơ quan mình gặp nhiều khó khăn.

Thứ ba, mặc dù nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BV&PTR đã qui định cơ chế phối hợp liên ngành trong việc thực hiện song do thiếu các căn cứ luật định nên cơ chế này không phát huy được hiệu quả.

2.7. Về một số bất cập giữa Luật BV&PTR với các luật khác trong nước và công ước quốc tế có liên quan

a) Luật BV&PTR với Luật Đất đai:

Thứ nhất, Luật Đất đai không quy định xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã, trong khi đó Luật BV&PTR quy định lập quy hoạch, kế hoạch BV&PTR cấp xã.

Thứ hai, Luật Đất đai quy định Nhà nước cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất rừng sản xuất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, trong khi đó Luật BV&PTR quy định Nhà nước cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê rừng sản xuất chỉ thực hiện thu tiền thuê rừng hàng năm.

Thứ ba, Luật Đất đai quy định điều kiện cho phép chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ mà không thuộc trường hợp được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư, nhưng Luật BV&PTR không có quy định cụ thể về vấn đề này.

Thứ tư, Luật Đất đai quy định Nhà nước giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho tổ chức, trong khi Luật BV&PTR quy định rừng sản xuất là rừng tự nhiên có thể giao cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn; giao đất rừng phòng hộ cho cộng đồng dân cư, trong khi đó pháp luật BV&PTR quy định có thể giao rừng phòng hộ, rừng sản xuất cho cộng đồng dân cư thôn.

Thứ năm, Luật Đất đai quy định cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao, cho thuê có thu tiền, trong khi Luật BV&PTR không cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng rừng sản xuất là rừng tự nhiên…

b) Luật BV& PTR với Luật Đa dạng sinh học:

Thứ nhất, hiện có một số quy định thiếu thống nhất giữa hai Luật trong cách phân loại khu bảo tồn đa dạng sinh học với việc phân loại rừng đặc dụng; quy định chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ của Bộ NN&PTNT và Bộ Tài nguyên và Môi trường trong phạm vi hệ sinh thái rừng.

Thứ hai, việc phân cấp lập, thẩm định dự án, quyết định thành lập Khu bảo tồn, thành lập vườn quốc gia còn chồng chéo, dẫn tới khó áp dụng thống nhất trên thực tế.

Thứ ba, một số nội dung liên quan đến đa dạng sinh học được quy định trong Luật Đa dạng sinh học nhưng chưa được quy định cụ thể tại Luật BV& PTR, như quản lý loài ngoại lai xâm hại, tiếp cận nguồn gien và chia sẻ lợi ích, quản lý an toàn sinh học đối với các sinh vật biến đổi gien, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gien gây ra đối với đa dạng sinh học rừng.

c) Luật BV & PTR với Luật Bảo vệ môi trường:

Luật BV&PTR được ban hành trước Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 nên sự kết hợp giữa yếu tố bảo vệ môi trường với bảo vệ và phát triển rừng chưa được quán triệt toàn diện trong các qui định của Luật:

Thứ nhất, chưa có quy định về đánh giá môi trường chiến lược đối với quy hoạch, kế hoạch BV&PTR.

Thứ hai, Luật Bảo vệ môi trường quy định về quản lý phát thải khí nhà kính, trong đó nhấn mạnh đến quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng; hình thành và phát triển thị trường tín chỉ các bon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ các bon thế giới, trong khi Luật BV&PTR chưa quy định những nội dung này liên quan đến rừng.

d) Luật BV& PTR với các Công ước quốc tế có liên quan:

Một là, có một số quy định chưa phù hợp với một số công ước quốc tế có liên quan (CITES, RAMSAR, Công ước về đa dạng sinh học, công ước về biến đổi khí hậu...), như: phân loại khu bảo tồn, quy định thiếu thống nhất trong thẩm quyền quyết định thành lập khu bảo tồn, thành lập vườn quốc gia, trong việc phân cấp tổ chức quản lý khu bảo tồn.

Hai là, thiếu các quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của các trung tâm cứu hộ động vật; quy định về xử lý vi phạm pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm theo Công ước CITES.

Ba là, Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia vào các sáng kiến mang tính quốc tế, như REDD+, FLEGT..., nhưng trong Luật BV&PTR chưa có quy định liên quan đến vấn đề này.

3. Thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về lâm nghiệp

Ngày 05/8/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó xác định để xây dựng nền nông nghiệp toàn diện cần “phát triển toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái. Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển rừng. Cho phép khai thác lợi ích kinh tế từ rừng sản xuất là rừng tự nhiên theo nguyên tắc bền vững, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu từ rừng. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại hóa công nghệ khai thác, chế biến nhằm năng cao giá trị lâm sản, chú trọng phát triển lâm sản ngoài gỗ”.

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) cũng đã đề cập đến việc phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân có thế sống, làm giàu từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; hình thành tổ hợp trồng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản và phát triển các vùng rừng chuyên môn hóa bảo đảm đáp ứng ngày càng nhiều hơn nguyên liệu trong nước cho công nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, giấy.

Ngày 12/3/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 30/NQ-TW về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty nông, lâm nghiệp. Nghị quyết đã có những đánh giá sâu sắc về thực trạng, đề ra những phương hướng hoạt động của các công ty này và đổi mới cơ chế quản lý rừng nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với trồng rừng và bảo vệ rừng.

Ngày 15/5/2014, Bộ Chính trị có Kết luận số 97-KL/TW về một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó bao gồm việc thực hiện tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng; thực hiện nghiêm chủ trương dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên; tăng cường đầu tư cho phát triển rừng trồng, nâng cao hiệu quả rừng sản xuất.

Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Chính phủ ban hành nhiều chính sách phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với bảo vệ và phát triển rừng, như: (1) Chính sách giao, cho thuê rừng và đất lâm nghiệp; (2) Chính sách về quyền hưởng lợi cho hộ gia đình, cá nhân được giao, thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp; (3) Chính sách đầu tư, bảo vệ, phát triển, quản lý và sử dụng, khai thác 3 loại rừng; (4) Chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015; (5) Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng; (6) Chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011-2020; (7) Chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn; (8) Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; (9) Chính sách hỗ trợ giảm nghèo; (10) Chính sách quản lý rừng cộng đồng, chính sách đồng quản lý rừng và chia sẻ lợi ích trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững rừng đặc dụng.

Các chính sách qua áp dụng thực tiễn khẳng định tính tích cực, cần được xem xét, luật hóa trong Luật Lâm nghiệp.

4. Hài hòa hóa cam kết của Việt Nam trong các điều ước, hiệp định quốc tế liên quan đến lĩnh vực lâm nghiệp.

Việt Nam đã và ngày càng hội nhập quốc tế sâu, rộng. Ngành lâm nghiệp đã có hợp tác với 19 đầu mối và tổ chức lâm nghiệp quốc tế, trong đó có 2 công ước và nhiều hiệp định vùng quan trọng góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế về lâm nghiệp.

Để thích ứng với vấn đề biến đổi khí hậu trên toàn cầu, với chiến lược tăng trưởng xanh, các hiệp định thương mại tự do, những vấn đề trên cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung trong Luật Lâm nghiệp để hài hòa hóa với pháp luật và thông lệ quốc tế; định khung pháp lý để giải quyết phù hợp vấn đề thị trường quốc tế, gắn với thị trường lâm sản trong nước, góp phần thực hiện có hiệu quả các Công ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia ký kết.

Qua 10 năm thực hiện, đã có những tồn tại, bất cập của hệ thống pháp luật về BV&PTR. Mặt khác, để thể chế hóa những quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng trong thời gian tới và thực hiện các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, việc xây dựng Luật Lâm nghiệp trên cơ sở bổ sung, sửa đổi Luật BV&PTR năm 2004 là cần thiết.

III. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, ĐỊNH HƯỚNG SOẠN THẢO LUẬT LÂM NGHIỆP

Luật Lâm nghiệp phải thể chế hóa được cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường, tái cơ cấu nền kinh tế, chiến lược tăng trưởng xanh, tăng cường quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế. Cụ thể là:

- Thể chế hóa quan điểm rừng tự nhiên vừa là tài nguyên, vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước; chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế trong kinh doanh rừng và nghề rừng theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn các hoạt động bảo vệ, gây trồng, khai thác, chế biến, thương mại lâm sản và các dịch vụ môi trường rừng; nâng cao giá trị kinh tế của rừng.

- Bảo đảm phát triển lâm nghiệp bền vững; hài hòa các lợi ích của Nhà nước, chủ rừng và người làmg nghề rừng.

- Kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật BV & PTR năm 2004, bổ sung những quy định mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn; bảo đảm tính liên tục, tính thống nhất và đồng bộ giữa quy định của Luật Lâm nghiệp với các luật khác có liên quan, hài hòa hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.

IV. DỰ KIẾN NỘI DUNG CHÍNH CỦA DỰ THẢO LUẬT LÂM NGHIỆP

1. Về bố cục của Dự thảo Luật

Dự thảo Luật Lâm nghiệp gồm 7 chương, giảm 01 chương so với Luật BV&PTR năm 2004. Luật được cấu trúc lại theo hướng những nội dung có liên quan được đưa vào một chương, thể hiện rõ lâm nghiệp là ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù, bao gồm 2 nhóm hoạt động chính là quản lý rừng và quản lý các hoạt động lâm nghiệp; đồng thời, bổ sung, chỉnh sửa một số quy định cho phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế, cụ thể như sau:

Chương 1. Những quy định chung

Chương 2. Quản lý rừng

Chương 3. Quản lý các hoạt động lâm nghiệp

Chương 4. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng

Chương 5. Hệ thống tổ chức quản lý lâm nghiệp

Chương 6. Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về lâm nghiệp.

Chương 7. Điều khoản thi hành

2. Nội dung cơ bản của Dự thảo Luật Lâm nghiệp

Chương 1- Những quy định chung

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Chương I), dự thảo Luật Lâm nghiệp sẽ sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

a) Phạm vi điều chỉnh

Sửa đổi phạm vi điều chỉnh theo hướng Luật Lâm nghiệp điều chỉnh lâm nghiệp như một ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù, bao gồm các hoạt động về quản lý, bảo vệ, gây trồng, khai thác, chế biến, thương mại lâm sản và các dịch vụ liên quan đến rừng.

b) Định nghĩa về rừng: kế thừa định nghĩa về rừng quy định tại Luật BV&PTR (Điều 3), bổ sung một số tiêu chí phù hợp với điều kiện Việt Nam và các điếu ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, vì Việt Nam đang tích cực tham gia một số sáng kiến mang tính quốc tế (REDD+, FLEGT...) nên cần thống nhất định nghĩa về rừng.

c) Định hướng chính sách đầu tư của Nhà nước về lâm nghiệp

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Điều 10), dự thảo Luật Lâm nghiệp sẽ sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

- Mở rộng chính sách của Nhà nước về lâm nghiệp để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật (không phải chỉ đối với BV&PTR).

- Bổ sung nguyên tắc đầu tư cho BV&PTR phải gắn liền, đồng bộ với các chính sách kinh tế xã hội khác; đa dạng hóa nguồn đầu tư cho rừng, gắn kết đối tượng hưởng lợi trực tiếp từ rừng với chủ rừng nhằm tạo cơ chế tài chính bền vững, khuyến khích và thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào BV&PTR, sử dụng rừng và chế biến lâm sản; quy định rõ các hạng mục được ngân sách nhà nước đầu tư, hỗ trợ đầu tư hoặc khuyến khích đầu tư.

- Bổ sung quy định các hạng mục được đầu tư từ nguồn vốn đầu tư phát triển của nhà nước và vốn sự nghiệp kinh tế của Nhà nước; cơ chế đầu tư, hỗ trợ đầu tư, phương thức đầu tư trong lâm nghiệp.

Việc quy định rõ định hướng chính sách đầu tư trong lâm nghiệp sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động bố trí vốn đầu tư cho lâm nghiệp hàng năm, sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, có hiệu quả.

d) Nguồn tài chính trong lâm nghiệp

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Điều 11), dự thảo Luật Lâm nghiệp sẽ sửa đổi, bổ sung quy định về nguồn tài chính lâm nghiệp để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật, gồm: ngân sách nhà nước; đầu tư, đóng góp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài; thu từ dịch vụ môi trường rừng và các nguồn khác theo quy định của pháp luật. Sửa đổi, bổ sung quy định nguồn tài chính hình thành Quỹ BV&PTR bao gồm: nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ, tiền thu từ dịch vụ môi trường rừng, các khoản bồi thường cho Nhà nước về thiệt hại rừng; các khoản hỗ trợ, đóng góp, ủy thác đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

Việc bổ sung các nội dung trên là cần thiết làm cơ sở cho việc huy động nguồn lực từ xã hội; hơn nữa từ thực tế vận hành Quỹ BV&PTR cho thấy cần quy định bổ sung các nguồn tài chính mới, như tiền thu từ dịch vụ môi trường rừng, khoản bồi thường cho Nhà nước về thiệt hại rừng; các khoản ủy thác đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho BV&PTR.

đ) Ngoài ra còn bổ sung một số quy định sau đây:

- Nguyên tắc hoạt động lâm nghiệp bền vững, như bảo đảm hiệu quả kinh tế gắn với bảo vệ, tái tạo và phát triển bền vững tài nguyên rừng, đa dạng sinh học; bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu; góp phần cải thiện sinh kế người dân...

- Giải thích một số thuật ngữ, như: hoạt động lâm nghiệp, dịch vụ môi trường rừng, sở hữu rừng, suy thoái rừng, giao rừng, cho thuê rừng, cải tạo rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng, quản lý rừng bền vững... nhằm giúp cho việc hiểu và thi hành Luật một cách thống nhất.

- Quy định về cơ cấu sở hữu rừng, theo đó, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu rừng tự nhiên, rừng được phát triển bằng vốn nhà nước và rừng do Nhà nước nhận chuyển quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng từ các chủ rừng; rừng trồng do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đó. Mặt khác, bổ sung quy định về cơ cấu diện tích rừng theo các chủ thể quản lý, như diện tích rừng do các tổ chức nhà nước quản lý hoặc các chủ thể khác (hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư...) làm cơ sở pháp lý cho việc rà soát, điều chỉnh giao đất, giao rừng.

- Bổ sung cộng đồng dân cư được giao đất, giao rừng là chủ rừng.

- Bổ sung quy định nguyên tắc về phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu; nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực lâm nghiệp và hợp tác quốc tế trong lâm nghiệp.

Chương 2 - Quản lý rừng

Đây là chương mới, nhưng nội dung sẽ được kế thừa một phần từ Luật BV&PTR (Chương II) và được sắp xếp lại, bổ sung một số quy định về quản lý rừng, bao gồm các hoạt động sau:

Mục 1- Phân loại, thống kê, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng

a) Phân loại rừng

- Sửa đổi quy định về phân loại rừng theo hướng rửng được phân thành 2 loại theo mục đích sử dụng: (1) Rừng sản xuất hay rừng kinh tế, gồm toàn bộ diện tích rừng sản xuất, rừng phòng hộ xung yếu và ít xung yếu; (2) Rừng đặc dụng hoặc rừng bảo vệ, gồm toàn bộ diện tích rừng đặc dụng và diện tích rừng phòng hộ rất xung yếu. Phân loại như vậy tương đối phù hợp với phân loại rừng của quốc tế, thuận lợi cho tổ chức quản lý, thống nhất được trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của chủ quản lý rừng, tạo điều kiện mở rộng rừng sản xuất chuyên canh.

- Đối với phân loại rừng đặc dụng: cần điều chỉnh phân loại rừng đặc dụng để thống nhất với Luật Đa dạng sinh học, theo đó, các khu rừng đặc dụng được gọi là khu bảo tồn bao gồm Vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài - sinh cảnh, khu bảo vệ cảnh quan.

b) Thống kê rừng, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Điều 32), dự thảo Luật sẽ sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

- Quy định kiểm kê rừng 10 năm một lần, vì rất tốn kém và trên thực tế kiểm kê rừng 5 năm một lần đã không thực hiện được; Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho các chủ rừng thực hiện kê khai số liệu kiểm kê rừng và thống kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng với chu kỳ 5 năm.

- Quy định rõ cơ quan thực hiện, giám sát đánh giá và công bố kết quả thống kê, kiểm kê, theo dõi diễn biến tài ngyên rừng; xem xét lại quy định cấp xã báo cáo theo dõi diễn biến tài nguyên rừng, vì không khả thi.

- Quy định nguyên tắc điều tra, đánh giá, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng (xác định diện tích rừng; đo đếm, tính toán trữ lượng, lượng tăng trưởng của rừng, mức độ hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng…).

- Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho quản lý rừng và quản lý các hoạt động lâm nghiệp, đáp ứng yêu cầu quốc tế khi Viêt Nam tham gia vào các sáng kiến, chương trình lâm nghiệp quốc tế.

Mục 2 - Quy hoạch, kế hoạch BV&PTR

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Điều 32), dự thảo Luật sẽ sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

- Bãi bỏ quy định trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch BV&PTR của UBND cấp xã vì thực tế cấp xã không có nguồn lực và không có khả năng thực hiện nhiệm vụ này; mặt khác, Luật Đất đai năm 2013 không quy định UBND cấp xã phải lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã.

- Bổ sung các quy định về vai trò của cơ quan lâm nghiệp cấp trung ương, cấp tỉnh trong trách nhiệm lập, phê duyệt, quyết định quy hoạch, kế hoạch BV&PTR, quyết định xác lập các khu rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.

- Quy định sự phối hợp cũng như trách nhiệm của ngành nông nghiệp & phát triển nông thôn, ngành tài nguyên và môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch BV&PTR gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp, kiểm kê, thống kê rừng và đất lâm nghiệp.

- Quy dịnh hình thành vùng cung cấp nguyên liệu tập trung gắn với cơ sở chế biến lâm sản; các vùng kinh tế-sinh thái lâm nghiệp, liên kết vùng lâm nghiệp.

Mục 3 - Giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Mục 2 Chương II), dự thảo Luật sẽ sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

a) Quy định việc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng phải đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cơ chế phối hợp giữa cơ quan lâm nghiệp và cơ quan tài nguyên và môi trường, hỗ trợ kinh phí để thực hiện những quy định trên.

b) Giao rừng, cho thuê rừng:

- Bổ sung quy định trách nhiệm, nội dung lập phương án giao rừng, cho thuê rừng

- Quy định Nhà nước có chính sách ưu tiên giao đất cho các hộ gia đình trồng rừng gỗ lớn.

- Quy định tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được thuê rừng sản xuất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê để họ yên tâm đầu tư kết hợp sản xuất nông lâm ngư kết hợp hoặc kinh doanh du lịch sinh thái; giao rừng không thu tiền sử dụng rừng đối với các tổ chức kinh tế đang quản lý rừng sản xuất là rừng tự nhiên nghèo và mới phục hồi; rừng sản xuất là rừng tự nhiên giao cho các chủ rừng là tài sản của chủ rừng, họ có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn rừng.

- Bổ sung quy định điều kiện giao rừng cho cộng đồng dân cư; ưu tiên giao các khu rừng sản xuất và rừng phòng hộ quy mô nhỏ, gần khu dân cư cho các cộng đồng dân cư quản lý và sử dụng lâu dài không thu tiền sử dụng rừng; xây dựng quy chế quản lý rừng cộng đồng và chính sách hỗ trợ quản lý rừng cộng đồng, vì trên thực tế nhiều cộng đồng dân cư đã có truyền thống quản lý rừng nhưng không phải cộng đồng dân cư nào có nhu cầu và khả năng quản lý đều có thể giao mà còn phải có đủ những điều kiện nhất định.

- Bổ sung quy định về định giá rừng làm cơ sở pháp lý cho việc tính tiền sử dụng rừng, tiền thuê rừng, tính giá trị quyền sử dụng rừng khi nhà nước giao rừng không thu tiền sử dụng rừng hoặc giải quyết bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi rừng.

c) Sửa đổi quy định về các trường hợp thu hồi rừng phù hợp với quy định thu hồi đất tại Luật Đât đai năm 2013; trình tự, thu tục thu hồi rừng, nguyên tắc bồi thường thiệt hại khi thu hồi rừng.

d) Chuyển mục đích sử dụng rừng

- Quy định cụ thể hơn nguyên tắc, tiêu chí của các loại rừng có thể chuyển mục đích sử dụng rừng (trồng cây công nghiệp, cây lương thực thực phẩm; xây dựng công trình thủy điện, thủy lợi, khai khoáng, khu tái định cư...)

- Sửa đổi quy định về đánh giá tác động môi trường do chuyển sang mục đích sử dụng khác không phải là lâm nghiệp phù hợp với pháp luật về đánh giá tác động môi trường, phương án đền bù giải phóng mặt bằng khu rừng theo hướng phải tính theo giá trị lâm sản bị mất và các giá trị dịch vụ môi trường của rừng có thể lượng hoá được; trường hợp phải chuyển đổi đất có rừng tự nhiên sang mục đích sử dụng khác phải có kế hoạch trồng rừng mới cùng loại với rừng bị chuyển đổi, phải đảm bảo các tiêu chí đối với rừng trồng mới hoặc nộp tiền trồng rừng thay thế vào Quỹ BV&PTR.

- Quy định quy mô diện tích rừng được phép chuyển mục đích sử dụng theo cấp có thẩm quyền đối với các dự án, công trình có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng rừng cùa vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan; rừng phòng hộ đầu nguồn; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng, lấn biển.

Mục 4- Đăng ký quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng

Bổ sung quy định đăng ký quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng là hoạt động nhằm đảm bảo rằng khu rừng đã đăng ký sẽ được quản lý theo các tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững. Đăng ký rừng áp dụng đối với cả rừng tự nhiên và rừng trồng. Việc đăng ký rừng là tự nguyện của các chủ rừng; quy định trình tự, thủ tục đăng ký quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng.

Mục 5 - Định giá rừng

Sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:

- Quy định về giá rừng được sử dụng làm căn cứ thực hiện quyền chuyển nhượng, cho thuê lại, thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng, giá trị rừng sản xuất là rừng trồng, tính giá trị quyền sử dụng rừng, giá trị rừng sản xuất là rừng trồng để ghi vào giá trị vốn của doanh nghiệp, tính bồi hoàn khi chuyển mục đích sử dụng rừng.

- Quy định nguyên tắc và phương pháp xác định giá rừng cho từng trường hợp cụ thể, như thực hiện quyền chuyển nhượng rừng, cho thuê lại rừng, góp vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng.

- Quy định về tiếp cận giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng, tức là xem xét cả giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp của rừng; nguyên tắc, trình tự, thủ tục đấu giá, đầu thầu, chuyển nhượng quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng.

Chương 3 - Quản lý các hoạt động lâm nghiệp

Đây là chương mới, nhưng nội dung sẽ được kế thừa một phần từ Luật BV&PTR (Chương III, Chương IV), bổ sung một số quy định mới và sắp xếp lại theo hướng các hoạt động lâm nghiệp, bao gồm:

Mục 1 - Phát triển rừng

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Chương IV), dự thảo Luật sẽ sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

a) Tách nội dung sử dụng rừng (khai thác lâm sản) thành một mục riêng, vì phát triển rừng và sử dụng rừng (khai thác lâm sản) có những nội dung quản lý khác nhau.

b) Bổ sung quy định chung về phát triển rừng, gồm:

- Nguyên tắc phát triền rừng theo hướng đẩy mạnh trồng rừng, phục hồi rừng, xúc tiến tái sinh và làm giàu rừng, bảo vệ rừng để tăng lượng hấp thụ các bon của rừng.

- Quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững đối với rừng kinh tế, vì chứng chỉ rừng chính là sự xác nhận bằng văn bản về việc một đơn vị quản lý rừng đã được sản xuất trên cơ sở rừng được tái tạo lâu dài.

- Cơ cấu cây trồng rừng hoặc nguyên tắc chọn loài cây trồng cho phát triển rừng bảo vệ, rừng kinh tế; cải tạo rừng và kiểm tra giám sát việc cải tạo rừng; khuyến khích phát triển mô hình kết hợp chăn nuôi, trồng cây ăn quả và lâm sản ngoài gỗ với trồng rừng.

c) Đối với rừng phòng hộ (theo đề xuất phân loại mới thuộc rừng bảo vệ):

- Quy định điều chỉnh cơ cấu giống cây lâm nghiệp trong trồng rừng phòng hộ theo hướng tăng cây đa tác dụng, đa mục tiêu, góp phần tăng thu nhập cho người làm nghề rừng.

- Khôi phục, hình thành và quản lý bền vững rừng ngập mặn và các rừng ven biển khác nhằm giảm nguy cơ trước tình trạng nước biển dâng cao và tác động từ các diễn biến thời tiết cực đoan.

- Quy định việc sử dụng đất chưa có rừng trong rừng phòng hộ để kết hợp sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, trồng cây đặc sản, dược liệu...

- Sửa đổi quy định về tổ chức quản lý rừng phòng hộ theo hướng thay Ban quản lý rừng phòng hộ bằng việc thành lập các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ công ích (quản lý rừng phòng hộ và các hoạt động công ích khác), vì như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác các lợi ích từ rừng, ngoài thực hiện nhiệm vụ công ích, doanh nghiệp có thể mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở phát huy lợi thế về đất đai, rừng, lao động..., phù hợp với chủ trương giảm biên chế, kinh phí sự nghiệp.

d) Đối với rừng sản xuất

- Quy định phát triển trồng rừng sản xuất thành một ngành kinh tế có vị thế quan trọng đem lại việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân làm nghề rừng, cải thiện sinh kế cho cộng đồng các dân tộc thiểu số. Nâng cao hiệu quả kinh tế rừng trồng theo hướng phát triển lâm nghiệp đa chức năng, kinh doanh gỗ lớn, tạo vùng nguyên liệu tập trung, cung cấp cho công nghiệp chế biến đồ gỗ xuất khẩu, giảm dần nhập khẩu gỗ nguyên liệu.

- Quy định nguyên tắc đánh giá, lựa chọn, lập danh mục cơ cấu loài và giống cây trồng lâm nghiệp có năng suất cao, phù hợp với từng điều kiện lập địa, đáp ứng được yêu cầu của thị trường để đưa vào trồng rừng; nghiên cứu chọn tạo giống mới, khảo nghiệm các giống cây trồng lâm nghiệp đã được công nhận theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng đáp ứng yêu cầu kinh doanh gỗ lớn và thúc đẩy hoạt động chuyển giao các giống mới vào sản xuất; ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất giống cây lâm nghiệp.

- Quy định thâm canh rửng, chuyển hóa rừng trồng cây mọc nhanh cung cấp nguyên liệu gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn, trồng lại rừng sau khai thác, trồng rừng mới theo hướng thâm canh.

đ) Đối với rừng đặc dụng (theo đề xuất thuộc nhóm rừng bảo vệ):

- Quy định tiêu chí xác lập các loại rừng đặc dụng (theo đề xuất là khu bảo tồn), như vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên (khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài - sinh cảnh); khu bảo vệ cảnh quan (gồm khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh)

- Quy hoạch rừng đặc dụng (rừng được bảo tồn) gồm quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng cả nước, quy hoạch rừng đặc dụng cấp tỉnh, quy hoạch khu rừng đặc dụng; xác lập khu rừng đặc dụng; xác định vùng đệm khu rừng đặc dụng.

- Quy định chuyển loại, điều chỉnh, chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng;phát triển và tăng cường quản lý hệ sinh thái đặc dụng, bảo vệ quỹ gien, bảo tồn đa dạng sinh học và các mô hình bền vững cho bảo tồn đa dạng sinh học.

- Tổ chức quản lý khu rừng đặc dụng; trung tâm cứu hộ, bảo tồn, phát triển sinh vật trong khu rừng đặc dụng.

e) Bổ sung quy định về xây dựng cơ sở hạ tầng lâm nghiệp (đường lâm nghiệp, bến bãi gỗ...) cho mục đích sử dụng rừng và phục hồi rừng.

Mục 2- Bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học rừng

Ngoài các nội dung kế thừa Luật BV&PTR (Chương III), dự thảo Luật sẽ sửa đổi, bổ sung các vấn đề sau:

- Cụ thể hóa trách nhiệm của chủ rừng trong xây dựng và thực hiện phương án, biện pháp bảo vệ hệ sinh thái rừng; phòng, chống chặt phá rừng; phòng, chống săn, bắt, bẫy động vật rừng trái phép; phòng cháy, chữa cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng... Bên cạnh đó, quy định bắt buộc chủ thể này phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó chứ không nhất thiết phải có hậu quả mới phải chịu trách nhiệm pháp lý như hiện nay.

- Quy định cụ thể trách nhiệm hướng dẫn chủ rừng xây dựng phương án phòng cháy, chữa cháy rừng của Kiểm lâm và Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy.

- Bãi bỏ thẩm quyền phê duyệt phương án phòng cháy, chữa cháy rừng của UBND cấp xã; thống nhất tiêu chí phân định thẩm quyền phê duyệt phương án phòng cháy, chữa cháy rừng.

- Quy định lực lượng thực thi pháp luật bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học theo hướng tăng cường quyền hạn cho lực lượng bảo vệ rừng các cấp, thống nhất chức năng, quyền hạn, quyền lợi cho các lực lượng bảo vệ rừng; bổ sung chức năng, quyền hạn, quyền lợi cho lực lượng bảo vệ rừng cấp cơ sở, vì như vậy sẽ tăng cường khả năng phối hợp giữa các lực lượng bảo vệ rừng, tăng cường khả năng xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ rừng.

- Quy định bảo tồn đa dạng sinh học ở các loại rừng theo hướng bảo tồn đa dạng sinh học ở rừng phòng hộ, quản lý các khu rừng có giá trị bảo tồn cao trong các khu rừng sản xuất, xây dựng và bảo tồn các hành lang đa dạng sinh học, qua đó tạo thuận lợi cho việc bảo tồn đa dạng sinh học một cách toàn diện, bền vững, hội nhập quốc tế về tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững.

- Bổ sung quy định Bộ NN&PTNT ban hành các quy định về quản lý động, thực vật rừng trong toàn quốc (trong đó bao gồm danh mục các loài động thực vật nguy cấp, quý, hiếm) để tập trung một mối để quản lý, tránh chồng chéo.

- Bổ sung quy định cộng đồng tham gia bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học theo hướng quy định vai trò, trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của cộng đồng tham gia bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, xây dựng các chính sách đồng quản lý và hỗ trợ cộng đồng. Qua đó tận dụng được ưu thế của cộng đồng, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng; góp phần tạo việc làm và nâng cao đời sống cộng đồng vùng sâu, vùng xa; sẽ bảo đảm sự thành công của công tác bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học.

- Hài hòa hóa các qui định cụ thể của các công ước quốc tế liên quan mà Việt Nam đã tham gia.

- Quy định thống nhất về thẩm quyền xác lập khu rừng đặc dụng theo hướng Thủ tướng chính phủ chỉ quyết định xác lập các khu rừng đặc dụng (khu rừng bảo vệ) có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế hoặc liên quan đến nhiều ngành hay nằm trên địa bàn nhiều tỉnh.

- Sửa đổi quy định về phân công trách nhiệm quản lý các vườn quốc gia của Bộ NN & PTNT và UBND cấp tỉnh theo mức độ, tầm quan trọng quốc gia và quốc tế của Vườn quốc gia, chứ không phải dựa vào vị trí tồn tại của nó như quy định hiện nay.

- Bổ sung các quy định nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của trung tâm cứu hộ động vật rừng; điều kiện tiếp nhận động vật, yêu cầu về cách ly, kiểm tra dịch bệnh…

Mục 3- Khai thác, vận chuyển lâm sản

a) Khai thác lâm sản

- Bổ sung quy định điều kiện khai thác chính gỗ rừng tự nhiên phải có phương án quản lý rừng bền vững được phê duyệt và được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.

- Bỏ quy định hạn ngạch khai thác gỗ rừng tự nhiên là rừng sản xuất theo hướng sản lượng khai thác căn cứ vào phương án quản lý rừng bền vững, đảm bảo nguyên tắc lượng khai thác không vượt quá lượng tăng trưởng rừng.

- Quy định phân cấp thẩm quyền cấp phép khai thác lâm sản (gỗ và lâm sản ngoài gỗ).

b) Vận chuyển lâm sản

Bổ sung một số quy định nguyên tắc liên quan đến lưu thông lâm sản, như: các quy định về tính hợp pháp của gỗ; các yêu cầu của các hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm gỗ từ khai thác đến chế biến, tiêu thụ; cơ chế cấp phép và giám sát lưu thông lâm sản; khuyến khích doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý nguyên liệu gỗ theo FSC CoC và có chứng chỉ FSC CoC.

Mục 4 - Dịch vụ môi trường rừng

Đây là phần quy định mới, dự kiến gồm các nội dung, như: giải thích thuật ngữ dịch vụ môi trường rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng; nguyên tắc, đối tượng, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên; quản lý, sử dụng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng; kiểm tra, giám sát việc chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Mục 5 - Chế biến và thương mại lâm sản

Đây là phần quy định mới, dự kiến gồm các nội dung sau đây:

a) Quy định quy hoạch công nghiệp chế biến lâm sản trong phạm vi toàn quốc và cấp tỉnh; phát triển chế biến gỗ theo vùng lãnh thổ thành lập cơ sở chế biến lâm sản gắn với vùng nguyên liệu; nhằm tạo điều kiện cho nguồn gỗ nguyên liệu trong nước có cơ hội phát triển bền vững khi được tham gia vào chuỗi giá trị từ rừng đến sản phẩm cuối cùng.

b) Quy định phát triển công nghiệp chế biến lâm sản theo cơ chế thị trường trên cơ sở công nghệ tiên tiến, nâng cao tối đa hiệu suất sử dụng lâm sản, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.

c) Quy định khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung có quy mô vừa và lớn gắn với cơ sở chế biến lâm sản. Vì như vậy sẽ tận dụng tối đa nguồn lực (đất đai, tài chính, nhân lực,…) để tạo nguồn gỗ nguyên liệu trong nước đảm bảo khối lượng và chất lượng, giảm phụ thuộc vào gỗ nguyên liệu nhập khẩu; chủ động kiểm soát và chắc chắn đảm bảo được tính hợp pháp của gỗ nguyên liệu.

d) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá lâm sản:

- Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá lâm sản, phát triển thị trường xuất khẩu lâm sản.

- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu lâm sản; tổ chức cung cấp thông tin về thị trường, công nghệ chế biến, pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá lâm sản cho các doanh nghiệp chế biến lâm sản.

- Nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng chợ lâm sản đầu mối; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng, kinh doanh khai thác và quản lý chợ lâm sản đầu mối. Ban hành quy chế mẫu về quản lý chợ lâm sản đầu mối, quy chế mẫu về đấu giá lâm sản trong chợ lâm sản đầu mối; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy chế về chợ lâm sản đầu mối; xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của chợ lâm sản đầu mối.

- Khuyến khích và hỗ trợ thành lập các hội, hiệp hội của các nhà sản xuất kinh doanh trong chế biến và thương mại lâm sản.

Chương 4. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng

Chương này, về cơ bản, k�