co vay - nguyen duy chinh

Upload: koh-kitamura

Post on 07-Aug-2018

219 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    1/42

     

    CCCỜ Ờ Ờ  VVVÂÂÂYYY  

    圍棋  Nguyễn Duy Chính

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    2/42

     

    Chung Quĩ đánh cờ  vớ i tiể u mị 

    (tranh Phạm Tăng) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    3/42

     

    Có thể nói gần như ngườ i Việt chúng ta ai ai cũng biết ít nhiều về cờ  tướng nhưng lại không mấy

    ai chơi cờ  vây. Môn cờ  tướ ng là một sinh hoạt thườ ng nhật của người mình nên văn chương thơ phú đề cập đến r ất nhiều chẳng hạn như bài Ðánh Cờ  [tương truyền là của Hồ Xuân Hương] mộtáng văn chương tuyệt tác, vừa linh động, vừa dí dỏm. Trong Lề u Chõng, Ngô Tất Tố miêu tả hainhà nho đánh cờ  để tiêu khiển mùa hè còn Nguyễn Tuân trong Vang Bóng M ột Thờ i thì nhắc đếnmột thầy địa lý và một thanh niên vừa đi cáng vừa đánh cờ  bằng miệng. Một truyện ngắn kháccủa Khái Hưng, Tương Tri, kể một ông lão vượ t một quãng đường xa đến đánh cờ  vớ i một ôngcụ khác, thoạt đến thoạt đi như một ông tiên. Thế nhưng trong tiểu thuyết kiếm hiệ p của KimDung, mỗi khi nói đến chơi cờ  – môn đượ c liệt vào một trong bốn thú vui tao nhã cầm k ỳ thưhọa – thì nói về cờ  vây chứ không phải cờ  tướ ng.

    Cờ  vây tiếng Anh gọi là Go Game là một môn giải trí đã có rất lâu ở   phương Ðông mặc dù chỉ mớ i phổ thông ở   phương Tây chừng một trăm năm nay, sau khi ngườ i Âu Châu có những tiế p

    cận với Á Châu qua thương mại và chiếm lĩnh thuộc địa. Ngay từ lúc đầu cờ  vây được đánh giár ất cao vì chú tr ọng đến phương  pháp lý luận (rationalization). Một k ỳ  thủ  là ông EmanuelLasker đã nói: 

    -  C ờ  vua chỉ  hạn chế  trong nhân loại số ng trên quả đấ t trong khi cờ  vây vượ t khỏi thế  giớ inày. N ế u trên một hành tinh nào mà có nhữ ng sinh vật biế t lý luận thì ở  đó họ phải biế tđánh cờ  vây.1 

     Ngườ i viết cũng như đa số độc giả kiếm hiệ p không biết môn cờ  vây như thế nào. Thiên khảoluận này cũng như nhiều bài khác cũng chỉ là những góp nhặt từ sách vở  để thỏa mãn sự tò mòvà giúp cho chúng ta có cái nhìn rõ r ệt hơn về những chi tiết nơi tiểu thuyết.

    LỊCH SỬ  

    Cờ  vây tiếng Hán là “vi k  ỳ” (圍棋) vì chủ yếu của môn chơi này là làm sao bao vây và tiêu diệt bên địch. Cũng như bất cứ bộ môn nào, ngườ i ta luôn luôn tìm cho ra một tổ sư. Cho nên cờ  vây

    cũng có một vị tổ mà theo Trương Hoa (張華) trong Bác V ật Chí  (博物志) thì:

    Vua Nghiêu chế  ra cờ  vây để  d ạ y cho con là Ðan Châu.2 

    Thần tích này cũng đượ c lậ p lại trong nhiều sách vở  cận đại nhưng không có gì chắc chắn. TheoEdward Falkener thì ghi nhận sớ m nhất về cờ  vây vào khoảng 300 trướ c Tây Lịch, dựa trên khảocứu của Giles, lãnh sự Anh tại Trung Hoa cuối thế k ỷ XIX. Giles cũng gọi cờ  vây là cờ  chiếntranh (a game of war), một cuộc chiến “không d ựa trên vũ khí trang bị cho hai đạo quân mà d ự a

    trên cách bài binh bố  tr ận, phòng ngự  và t ấ n công”. Hai bên không tiêu diệt nhau từng quân một

    1 Chess is confined to the inhabitants of this earth, but Go somehow passes beyond our world. If on any planet thereare rational beings, then they know Go. Frederic V. Grunfield (ed.), Games of the World , (New York: Holt, Rinehartand Winston, 1975) tr. 42 2 堯造圍棋,以教子丹朱 (Nghiêu tạo vi k ỳ, dĩ giáo tử Ðan Châu) Ân Vi: Trung Quố c Vi K  ỳ S ử  Diễn Nghĩa (Vân

     Nam: Vân Nam nhân dân xb xã, 2003) tr. 1 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    4/42

     

    mà có thể tiêu diệt cả một đồn và người đánh cờ  không chỉ tậ p trung vào một chỗ mà phải thấutriệt toàn bộ mặt tr ận, những điểm mạnh hay điểm yếu của chính mình và đối phương.3 

    Vi k ỳ ngày xưa gọi là “d ịch”弈 (viết vớ i bộ củng). Trong những sách cổ của Trung Hoa như T ả Truyện, Luận Ngữ  , M ạnh T ử  đã nhắc nhiều đến “d ịch” nhưng từ đờ i Hán tr ở  đi thì cái tên vi kỳ 

    càng ngày càng thông dụng. Hứa Thận trong Thuyết Văn Giải T ự  có chép: Dịch t ứ c là cờ  vây.

    弈,圍棋也 

     Dịch, vi k  ỳ dã .

    Dương Hùng (揚雄) trong Phương Ngôn viết rõ hơn: 

    Vi k  ỳ t ứ c là d ịch. Ở  vùng Quan Ðông, T ề  , Lỗ  ngườ i ta gọi là d ịch. 

    圍棋謂之弈。自關東齊魯之間皆謂之弈  

    Vi k ỳ vị chi dịch. Tự Quan Ðông Tề Lỗ chi gian giai vị chi dịch.

    Ban Cố (班固) trong Dịch Chỉ (弈旨) cũng xác định là ngườ i phương Bắc gọi là dịch trong khi phương nam thì gọi là vi k ỳ.

    Theo như các nhà nghiên cứu, phương pháp và chiến lược đánh cờ  vây trướ c nay vẫn thế mặcdầu bàn cờ  theo thời gian có thay đổi ít nhiều.

    3 Edward Falkener, Games Ancient and Oriental and How to Play Them  (New York: Dover Publications, Inc., 1961)(reprinted of 1892 edition) tr. 239 - 240 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    5/42

     

     Bàn cờ  bằ ng sứ  đờ i Tu ỳ 

    Ðào đượ c trong mộ của Trương Thịnh tại Hà Nam năm 1959 

    Thiệu Văn Lương: Trung Quố c cổ  đại thể  d ục 

    Sports in Ancient China tr. 172 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    6/42

     

    Hiện nay bàn cờ  gồm ngang dọc mười chín đườ ng, tổng cộng 19 x 19 = 361 nướ c. Tuy nhiêntheo những cổ vật đào đượ c thì bàn cờ  nguyên thủy không hẳn như thế. Năm 1977, ở  Nội Môngtrong một ngôi mộ cổ đờ i Liêu có một bàn cờ  ngang dọc chỉ có 13 vạch (13 x 13 = 169 nướ c). Năm 1971 bàn cờ  đào đượ c ở  Hồ Nam, huyện Tương Âm trong một ngôi mộ đời Ðườ ng, bàn cờ  có 15 vạch (15 x 15 = 225 nước). Năm 1952, ở  Vọng Ðô, Hà Bắc trong một ngôi mộ đờ i Ðông

    Hán có bàn cờ  bằng đá có 17 đường (17 x 17 = 289 nước) tương tự như bàn cờ  trong hình vẽ củanướ c Thổ Phồn. Bàn cờ  bằng sứ đờ i Tuỳ đào được năm 1959 trong mộ của Trương Thịnh tại AnDương, Hà Nam có 19 đườ ng.4 Tuy những bàn đó khác nhau về kích thước nhưng tựu trung baogiờ  cũng là số lẻ (13, 15, 17, 19).

     Ngay từ nguyên thủy, phép đánh cờ  chủ yếu là vây và diệt đối phương, lấy đó làm tiêu chuẩnthắng bại. Một bên đặt quân xuống, bên kia liền cố gắng làm cách nào cô lậ p và loại tr ừ, đối phương phải đưa ra một k ế sách chống lại, và người đặt quân đầu tiên kia không khác gì đưa r a một mục tiêu để  tấn công, mang ý nghĩa trung tâm của cuộc diện, được đặt tên là “k  ỳ  nhạc”5 

    (棋鄂). Mã Dung (馬融) trong Vi K ỳ Phú (圍棋賦) có viết:

     Ðánh cho một tr ận tan hoang, 

     Ðịch kia nguy ngậ p hoang mang hãi hùng. 

     Bao vây soái trướ ng trùng trùng, 

    Y quan giáp tr ụ quăng cùng thoát thân. 

    橫行陣亂 

    敵心駭惶 

    迫兼棋鄂 

    頗棄其裝 

    Hồn hành tr ận loạn

    Ðịch tâm hãi hồng

    Bách kiêm k ỳ nhạc

    Phả khí k ỳ trang6 

    4 Thiệu Văn Lương, Trung Quố c C ổ  Ðại Thể  Dục (Sports in Ancient China) (Bắc Kinh: Nhân Dân thể dục xuất bảnxã, 1986) tr. 170-1 5 chữ ngạc này một bên bộ chuy隹 nhưng chúng tôi không có nên tạm thay bằng bộ ấ p阝 6 Từ Hải, Ðài Loan thư cục 1974, Vol. 2 tr. 3104 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    7/42

     

    Bên khách sẽ nhắm vào quân cờ  đó đưa ra chiến lượ c bao vây, tiêu diệt và bên chủ cũng dựa vàođó để kháng cự. Ðời xưa, quân cờ  đầu tiên phải đặt ngay chính giữa (giao điểm vạch số 10 trong bàn cờ  19 vạch), và đó là lý do tại sao bàn cờ  phải là 13, 15, 17 hay 19 đườ ng ngang dọc.

     Nghệ Kinh (藝經) của Hàm Ðan Thuần (邯鄲淳) đờ i Tào Ngụy có chép:

     Bàn cờ  mườ i bảy đườ ng ngang d ọc, t ổ ng cộng 289 đạo, hai bên đen trắ ng mỗ i bên 150quân. 

    Sách vở , ca khúc nhiều nơi còn truyền lại cho thấy Nam Bắc triều tr ở  về trướ c, bàn cờ  chỉ có 17đườ ng. Hiện nay, Tây Tạng, Tích Kim nhiều nơi bàn cờ  vẫn chỉ có mườ i bảy đườ ng mà thôi.

    Bàn cờ  19 đườ ng phát hiện sớ m nhất vào khoảng đời Tùy. Năm 1959, tại An Dương Hà Namngười ta đào đượ c một bàn cờ  bằng sứ có 19 vạch. Thế nhưng theo Tôn Tử Toán Kinh

    (孫子算經) đờ i Ðông Hán đã có viết là bàn cờ  gồm 19 đườ ng, thành thử r ất có thể từ đờ i Hánngườ i ta dùng cả hai loại bàn cờ  17 và 19 đườ ng.

    Theo những chuyên gia về cờ  vây, bàn cờ  17 đường hơi nhỏ khó thi triển những nướ c hay và sự 

    tính toán của các k ỳ  thủ bị giảm đi nhiều. Ngồi lý do thực tiễn, người ta cũng đưa ra nhiều lýluận, đem cả đạo học và số học vào để nâng nghệ thuật chơi cờ  lên một mức cao hơn. Trương

     Nghĩ (張擬) đờ i Tống viết trong K  ỳ Kinh Thậ p Tam Thiên (棋經十三篇) như sau: 

    Bàn cờ  có 361 điểm. Số 1 là chủ của sinh số (tức số đầu tiên), theo trung tâm (k ỳ nhạc)mà vận chuyển bốn phía. 360 là con số tượ ng cho chu thiên (ngày trong một năm), chiara làm bốn số ngẫu tượng trưng cho bốn mùa (tứ quí). Mỗi ngẫu gồm 90 lộ, mỗi lộ tượ ngtrưng cho một ngày, chung quanh vòng ngồi 72 lộ, tượng trưng cho hầu ( tức 1/3 của tiếtkhí). 

    Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là một cách “tán r ộng” chúng ta vẫn thườ ng thấy trong nhiều sách vở , k ể cả một số ngườ i Việt chúng ta dựa theo sự  tưởng tượ ng phong phú của mình để  tìm một lối giải

    thích những hiện tượ ng chung quanh cho thêm phần huyền bí.Ðời xưa, môn cờ  vây của Trung Hoa còn một vị trí đặc biệt khác, trước khi hai bên giao đấu thì bàn cờ  đã đặt sẵn bốn quân đối xứng nhau, hai đen hai trắng ở  bốn góc (cách góc mỗi chiều ba

    nướ c) gọi là “thế  t ử  ”勢子 (quân tr ấn giữ). Theo suy đoán, nguyên thủy vi k ỳ nhằm bao vây vàtiêu diệt lẫn nhau, lấy k ỳ nhạc làm trung tâm r ồi mở  r ộng ra, làm thế nào giết đượ c quân chínhgiữa đó là thắng. Ðể  ngừa việc một bên tậ p trung quân lại một chỗ  theo kiểu “các cứ   nhấ t phương”, người ta đặt bốn quân bốn góc và dần dần biến thành qui luật để bắt đầu bàn cờ .

     Những người đánh cờ  cao thườ ng chấp ngườ i kém mình hai quân “thế  t ử ” và lối đánh đó gọi là

    “không hoa giác”, trong k ỳ phổ còn ghi lại nhiều bàn cờ  như vậy. Bào Ðỉnh (鮑鼎), một danh

    thủ đờ i Thanh mạt có viết:Một cuộc cờ  có thế tử để ngay từ đầu hai bên đều có thể vừa công vừa thủ. Cờ  không cóthế tử, ngườ i ta có thể chiếm cứ một vùng r ồi cố thủ. 

    Một điểm khác chúng ta cũng nên nhắc đến là chữ k ỳ 碁 (cờ ) có thể viết vớ i bộ thạch石 (đá) vìngười xưa nhặt những hòn sỏi làm quân cờ   nhưng về  sau quân cờ   làm bằng gỗ, chính vì thế chuyển sang bộ mộc. Dương Hùng trong Pháp Ngôn viết:

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    8/42

     

    Chặt gỗ  làm cờ  

    斷木為棋 

    Ðoạn mộc vi k ỳ 

    Sách Ngọc Lâu T ử  chép r ằng vua Nghiêu dạy cho Ðan Châu đánh cờ  vây r ằng:

     Lấ  y gỗ  dâu làm bàn cờ  , lấ  y sừ ng tê, ngà voi làm quân cờ  

    以文桑為局犀象為子 

    Dĩ văn tang vi cục, tê tượ ng vi tử 

    Càng về sau khi người ta đưa đánh cờ  lên một thú tiêu khiển tao nhã, bàn cờ  quân cờ  càng tr ở  nên tinh vi, vẽ vờ i nên không hiếm những bộ cờ  quí làm bằng sừng, bằng ngà còn lưu lại trongcác tàng cổ viện. Tề K ỷ đời Ðườ ng viết trong Tạ Nhân Huệ K ỳ (cảm ơn ngườ i cho bộ cờ ) là:

     Mài vỏ trai biể n thành quân sáng lấ  p lánh

    海蚌琢成星落落 Hải bạng trác thành tinh lạc lạc

    Ðịa Lý Chí trong Tân Ðường Thư thì viết:

    Ở quận Nhữ Nam, Sái Châu có tiến cống quân cờ  bằng ngọc Mân.

    蔡州汝南郡,土貢岷玉棋子 

    Sái Châu Nhữ Nam quận, thổ cống mân ngọc k ỳ tử 

    Trên một bức thiế p của Bạch Khổng Lục (白孔陸

    ) có ghi:Tại các nhà phú quí ở  Quan Thành ngườ i ta dùng lõi gỗ tử đàn và thụy long não làm quâncờ .

    Tống Sử cũng có chép Tống Thái Tông ban cho Tiền Thục quân cờ  bằng thủy tinh, còn Lý ÐôngDương đời Minh thì có bài thơ nhan đề  “Vân Nguyệt Dạ  Quan Thủ y Tinh K  ỳ  Hí Tác”

    雲月夜觀水精棋戲作 (Ðêm trăng có mây ngồi xem đánh cờ  bằng quân thủy tinh mà làm ra).Mới đây người ta cũng đào đượ c những quân cờ   đờ i Nguyên làm bằng mã não. Trong  NamTrung T ạ p Ký  chép về quân cờ  làm tại Vân Nam:

    Quân cờ  đất Ðiền Nam thì vùng Vĩnh Xương là hạng nhất ... sắc tr ắng như trứng gà, cònđen thì như lông quạ.

    Ðờ i Minh, quân cờ  từ Vân Nam dùng làm cống phẩm đượ c khen là “nặng như ngọc”. Minh Nhất

    Thống Chí (明一統志) có viết là: “Quân cờ  Vĩnh Xương thiên hạ không đâu bằ ng”. Quân cờ  nơi

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    9/42

     

    đây dùng mã não và đá tử anh tán r a tr ộn keo r ồi nặn thành, là một đặc sản bí truyền của vùngnày đượ c gọi dướ i cái tên “vĩnh tử  ”.7 

    Thế còn bàn cờ  thì sao?

    Trong lịch sử những bàn cờ  đượ c ghi lại r ất nhiều. Trong Nam Phương Thảo M ộc Tr ạng 

    (南方草木狀) của Kê Hàm (嵇含) có viết:Cây quang lang 8 gỗ  giống như tre, sắc đen thẫm, có vân, người ta thườ ng xẻ ra làm mặtbàn cờ  , vố n t ừ  quận C ửu Chân đấ t Giao Chỉ .

    桄榔木性如竹,紫 黑色,有紋理。工人解之,以製弈枰,出九真,交趾 

    Quang lang mộc tính như trúc, tử hắc sắc, hữu văn lý. Công nhân giải chi, dĩ chế dịch bình, xuất Cửu Chân, Giao Chỉ.

     Như vậy ngườ i Tàu k ể cũng cầu k ỳ phải tìm đến tận nướ c ta ở   phương Nam để lấy gỗ làm bàncờ. Tuy nhiên thông thường ngườ i ta dùng gỗ thu9 vì gỗ này cứng nhưng nhẹ, sớ  khít khao “khi

    quân cờ  gõ xuố ng tiếng nghe như kim ngọc”, nên về sau “thu bình” (楸枰) là một tên gọi kháccủa bàn cờ . Những bậc đế vương còn cầu k ỳ hơn, không hiếm sách vở  nhắc đến những bàn cờ ,quân cờ  bằng ngọc, bằng ngà, bằng sừng tê, sừng linh dương. Lại có cả bàn cờ  dệt bằng gấm:

    Gái đâu khéo thế  thì thôi, 

     Bàn cờ  d ệt được đều ơi là đề u. 

    錦城巧女費心機 

    織就一枰如許齊 

    (織錦棋盤詩) (樓鑰)

    Cẩm thành xảo nữ  phí tâm cơ  

    Chức tựu nhất bình như hứa tề 

    Chứ c cẩ m k  ỳ bàn thi

    (Lâu Thượ c) Nam Tống

    Trong nhiều tác phẩm dã sử, ngoại sử đời Minh Thanh người ta cũng nhắc đến những bộ cờ  tìm

    thấy trong nhà hai quyền thần Nghiêm Tung (嚴嵩) và Hòa Khôn (和珅) khi hai người đã bị thấtsủng. Những bộ cờ  đó được đúc bằng vàng bạc, bích ngọc, bạch ngọc, thủy tinh ...

    7 Dư, Gia Hoa (余嘉華), Vân Nam Phong V ật Chí  (雲南風物志) (Côn Minh: Vân Nam Nhân Dân xb xã, 1982) tr.484 8 桄榔 arenga saccharifera, tiếng Việt gọi là cây đoác hay đoát, còn gọi là báng, một loại cây tr ụ lùn mọc ở  vùngtrung du nướ c ta ( Ðại T ừ  Ðiể n Tiế ng Việt  (Hà Nội: nxb Văn hóa Thông tin, 1998) tr. 99 9 楸 Chinese catalpa hay mallotus japonicus, thuộc họ nhà ruối, cao chừng 10 mét, gỗ săn chắc 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    10/42

     

    Bàn cờ  ngày nay thườ ng làm bằng gỗ phỉ (榧), ngân hạnh, quế mộc. Ngườ i ta chọn gỗ làm saođể lúc đi quân không nghe tiếng sát phạt, đinh tai và không có sức bật để chơi lâu không bị nhứcxương. Bàn cờ  cũng thườ ng có chân và nhiều loại r ất đắt tiền.10 

    Qua thế ta đủ biết, ngườ i Trung Hoa trong nhiều triều đại đã hao phí không biết bao nhiêu công

    lao hơi sức chỉ để vào những trò giải trí. Chúng ta một mặt vẫn tấm tắc khen ngợ i sự tinh xảo vàdụng công của họ, một đặc trưng của văn minh Hoa Hạ, mặt khác vẫn nhìn thấy cái khuyết điểmto lớ n khi cả một dân tộc chỉ chạy theo những k ỹ xảo cỏn con để đến nỗi nhiều lần bị ngoại xâm,mất nướ c và biết bao thảm họa cho dân tộc.

    10 Ðại Trúc Anh Hùng (大竹英雄), Sơ Học Vi K  ỳ Nhậ p Môn (初學圍棋入門) (Ðài Nam: Tín Hoành xb xã, 1990) tr.29. 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    11/42

     

    VI KỲ PHÁT TRIỂN RA SAO?

    Ðờ i Hán: 

     Ngay từ đời Hán người ta đã nói nhiều đến môn cờ  vây. Hán Cao Tổ Lưu Bang đã từng cùng

    Thích phu nhân uống rượu cúc đánh cờ . Ngồi ra trong sử sách cũng còn ghi đến hàng chục ngườ ikhác đượ c mệnh danh là hảo thủ, mặc dù cổ nhân cũng khuyến cáo là đánh cờ  dễ đưa ngườ i tavào đam mê, khinh suất trong lời ăn tiếng nói. Quá chút nữa, ngườ i ta lại còn coi việc đánh cờ  

    như một hình thức bói toán, đượ c là hên (may), thua là xui (r ủi). Tam Phụ H ồng Ðồ (三輔黃圖)chép là trong cung nhà Hán khi đánh cờ  đầu năm “ngườ i thắ ng cả năm may mắn, ngườ i thua cả năm bệnh t ật ”. 11 

    Ði sâu thêm nữa, cờ  vây đượ c giới nho sĩ xiển thuật và “tán” r ộng. Ban Cố để cả một thiên Dịch

    Chỉ (弈旨) để viết về  phép đánh cờ :

     Bàn cờ   vuông vức tượng trưng cho đất. Ðườ ng vạch (đạo hay k  ỳ  lộ) thẳng băng ý tôn

     sùng cái đứ c sáng của thiên hạ. Quân cờ  chia làm đen trắng, phân ra âm dương. Quânbày ra tượng trưng cho tinh tú trên trờ i.12 

    Ông cũng phân biệt “bác” 博  (đánh bạc) vớ i “dịch” 弈  (đánh cờ ) cho r ằng đánh cờ   bao hàmnhiều ý nghĩa, “trên tuân theo luật vận hành của tr ời đấ t, r ồi t ới phương pháp trị nướ c của thánhnhân, sau đó phân chia quyề n lực cho ngũ bá, thích hợ  p với đườ ng lố i trong thờ i chiế n tranh”.13 

    Sau r ốt, ông cũng cho rằng việc đánh cờ  phù hợ  p với đườ ng lối của thánh hiền, có tác dụng tutâm dưỡng tính. Cũng thờ i này, nhiều văn nhân khác lại cũng đi sâu thêm vào việc ca tụng cái

    thú nhàn nhã này. Tuyên Ðàm (楦譚) trong Tân Luận (新論) coi việc đánh cờ  như hành binh bố 

    tr ận. Mã Dung (馬融) trong Vi K ỳ Phú (圍棋賦):

     Xem đánh cờ  thấ  y phép t ắ c chẳ ng khác gì dùng binh. Bàn cờ  ba thướ c là chiến trườ ng.14 

    Ðờ i Tam Quốc: 

    11 (勝者終年有福,負者終年疾病) thắng giả chung niên hữu phúc, phụ giả chung niên tật bệnh 12

     Cục tất phương chính, tượng địa tắc dã. Ðạo tất chính tr ực, thần minh đức dã. K ỳ hữu hắc bạch, âm dương phândã. Biền la liệt bố, hiệu thiên văn dã. (局必方正, 象地則也.道必正直, 神明德也. 棋有黑白, 陰陽分也. 駢羅列 

    效天文也) 13 Thượ ng hữu thiên địa chi tượ ng, thứ hữu đế vương chi trị, trung hữu ngũ bá chi quyền, hạ hữu chiến quốc chi sự 

    (上有天地之象,次有帝王之治,中有五霸之權,下有戰國之事) 

    14 Lượ c quan vi k ỳ, pháp ư dụng binh. Tam xích chi cuộc, vi chiến đấu trườ ng. (略觀圍棋, 法於用兵. 三尺之局,

    為戰鬥場) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    12/42

     

    Kinh T ịch Chí  (經籍志) đời Tùy, ngườ i ta xế p sách viết về vi k ỳ vào binh pháp loại, chia ra ba bậc. Bậc trên khống chế đại cuộc, không cần đánh mà khuất phục được đối phương. Bậc giữa hai bên tranh thủ từng bướ c còn bậc dướ i chỉ cố thủ một góc cầu hòa.

    Ðờ i Tam Quốc (三國), Tào Tháo (曹操) cũng là một k ỳ thủ nổi tiếng. Ngồi ra còn phải k ể đến

    Sơn Tử Ðạo (山子道), Quách Khải (郭凱), Vương Cửu Chân (王九真) r ất nổi danh ngang tài

    vớ i Tào Tháo. Gần đây, khi người ta đào đượ c ở  mộ của Tào Ðằng曹騰 (ông nội Tào Tháo) tạihuyện Bạc, tỉnh An Huy một bộ cờ  bằng đá thì ngườ i ta cho r ằng họ Tào là một thế gia về môncờ  vây. Dưới trướ ng họ Tào cũng có nhiều danh sĩ để lại tác phẩm về cờ  vây chẳng hạn Ứ ng

    Sướ ng (應暢) viết tác phẩm Dịch Thế (弈勢), Vương Xán (王粲) viết Vi K ỳ Phú Tự 

    (圍棋賦序). Họ Vương là ngườ i nổi tiếng có trí nhớ  tốt, xem đánh cờ  gặ p ván hay có thể đi lại từ đầu chí cuối không sai một quân.

    Trong Tam Quố c Diễn Nghĩa, khi viết về Khổng Minh Gia Cát Lượ ng (諸葛亮), La Quán Trung

    cũng tô vẽ ông là một ngườ i giỏi cờ  vây khiến bốn chữ thần cơ diệu toán, vốn dĩ để chỉ việc tínhtoán nước đi đã biến thành một câu nói chỉ mưu lượ c. Còn ở  Ðông Ngô, hai k ỳ thủ Nghiêm Võ

    (嚴武) và Mã Tuy Minh (馬綏明) đượ c mệnh danh là k ỳ thánh và những thế cờ  của họ đượ c coi

    là một trong Ngô Trung Bát Tuyệt (吳中八絕). K ỳ Phổ cổ nhất mà sách vở  còn ghi chép cũng từ 

    Ðông Ngô, gọi là Ngô Ðồ (吳圖) đến đời Ðườ ng vẫn còn. Ðỗ Mục (杜牧) trong Trùng Tống

    tuyệt cú (重送絕句) đã viết:

    Gió tuyết qua đêm từ  biệt bạn, 

     M ột đèn mờ  t ỏ sắ  p cờ  vây. 

    別後竹窗風雪夜 

    一燈明暗復吳圖 

    Biệt hậu trúc song phong tuyết dạ,

     Nhất đăng minh ám phục Ngô Ðồ.

    Trong Vong Ưu Thanh Lạc T ậ p (忘憂清樂集) đờ i Tống còn có chép một ván cờ  của Tôn Sách(anh trai Tôn Quyền) đánh vớ i Lã Phạm có tên là Tôn Sách Chiếu Lã Phạm Dịch K ỳ Cục Diện

    (孫策詔呂範弈棋局面). Trong Nghệ Kinh Hàm Ðan Thuần (邯鄲 淳) chia k ỳ nghệ thành chín

    loại:

    Thứ nhất là nhậ p thần (入神), thứ nhì là t ọa chiế u (坐照), thứ ba là cụ thể  (具體), thứ tư là thông

    u (通幽), thứ năm là d ụng trí (用智), thứ sáu là tiể u xảo (小巧), thứ bảy là đấ u lự c (鬥力), thứ 

    tám là nhượ c ngu (若愚), thứ chín là thủ chuyế t (守拙).

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    13/42

     

    Chín thứ bậc này mô phỏng theo lối tuyển ngườ i làm quan (cửu phẩm trung chính chế) nhưngkhông nêu rõ nội dung và tiêu chuẩn nên không biết rõ thế nào chỉ đoán chừng theo tên gọi làngười nào đánh cờ  tiêu sái, phóng khoáng là bậc cao còn chăm chăm ăn quân, giữ thành là bậcthấ p.

    Ðờ i Tấn: 

    Sang đờ i Tấn, Võ Ðế Tư Mã Viêm (司馬炎) thích đánh cờ  khiến cho thờ i này tr ở  thành một phong trào. Hai gia đình nổi tiếng là họ Vương và họ Tạ r ất mê đánh cờ  mà đại biểu là Thượ ng

    Thư Vương Ðạo (王導), một khai quốc công thần của nhà Tấn, thường đánh cờ  vớ i con là

    Vương Duyệt (王悅). Em Vương Duyệt là Vương Ðiềm (王恬) cũng là một k ỳ thủ nổi danh.

    Còn họ Tạ thì có Tạ An (謝安) nổi danh trong tr ận Phì Thủy, Tạ Huyền (謝玄) nổi tiếng là tao

    nhã, tr ấn tĩnh khi đánh cờ  cùng vớ i những danh sĩ khác như Bùi Hà (裴遐), Nguyễn Tịch (阮籍),

    Vương Thản Chi (王坦之), Nguyễn Giản (阮簡), Viên Khương (袁羌) đều là những ngườ i yêuthích cờ  vây.

    Cũng vào thờ i k ỳ này ngườ i ta còn truyền tụng nhiều giai thoại về những k ỳ thủ, thái độ vừakhoáng đạt, vừa bình thản, dẫu gặ p lúc nguy nan vẫn không biến sắc, nước đi không loạn. Vương

    Úc (王彧) làm quan dướ i triều Tống Minh Ðế. Khi nhà vua15 bị bệnh nặng sắ p chết muốn VươngÚc chết theo mình để khỏi hậu hoạn, nên sai người đem thuốc độc đến ban cho ông. Vương Úcđang đánh cờ , nhận đượ c chiếu chỉ đọc xong, mặt không biến sắc, vẫn tiế p tục đánh nốt bàn cờ  dở  dang. Khi xong ván cờ , ông nhặt những quân cờ  xế p lại ngay ngắn trong hộp, sau đó mớ i nóicho đối phương biết mình phụng mệnh tự tận r ồi cầm chén thuốc độc lên, xin lỗi khách nói r ằng:

    -  Rượ u này r ất tiếc không thể mờ i ai uống đượ c.

    Ông nói xong thản nhiên uống. Thái độ tr ấn tĩnh đó về sau vẫn được coi như một phong thái tiêu

     biểu cho ngườ i quân tử, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng và vì thế ngườ i ta xế p việc đánh cờ  nganghàng vớ i cầm, thư, họa.

     Người ta cũng ca tụng việc đánh cờ  ở  hai tư thái khác, ngồi ngay ngắn trướ c bàn cờ  tượng trưngcho sự thẳng thắn, trong sáng (tọa ổn) còn tay cầm quân cờ, đi từng nướ c cho hay tâm sự, bảntính mình ra sao cũng không khác gì nói chuyện (thủ đàm). 

    Ðờ i Tấn cũng còn một danh sĩ khác là Tổ Nạ p (祖納), anh của Tổ Ðịch (祖逖) ngườ i nổi tiếng vì

    mỗi sáng sớ m khi gà vừa gáy là dậy tậ p múa kiếm (văn kê khở i vũ -聞雞起舞) coi việc đánh cờ  

    là để quên sầu (vong ưu) mà sau này vua Tống Huy Tông (宋徽宗) đã coi như một tâm niệm để 

    viết thành câu thơ “vong ưu thanh lạc t ại bình k  ỳ”

    16

     (quên sầu, vui một cách thanh nhã là ở  nơi bàn cờ ).

    15 có cùng tên (Lưu Úc -劉彧) 

    16 忘憂清樂在枰棋 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    14/42

     

    Cho tới nay ngườ i ta vẫn coi t ọa ổ n (坐隱) , thủ đàm (手談) và vong ưu (忘憂) là ba đặc tính phảicó của ngườ i thích vi k ỳ.

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    15/42

     

    Một trang trong Vong Ưu Thanh Lạc T ậ p 

    Sports in Ancient China tr. 177 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    16/42

     

    Nam Triều: 

     Nam Triều bao gồm một thời gian dài (170 năm) bao gồm nhiều triều đại Tống17 Tề Lương Tr ầnnên cũng có nhiều người mê đánh cờ . Thờ i k ỳ này đánh cờ  cũng đượ c phân chia thứ bậc, có danhhiệu riêng như thờ i Tam Quốc, lại đặt thêm những tên gọi cho từng loại trong cùng một bậcchẳng hạn như cao phẩm, danh phẩm, thượ ng phẩm, dật phẩm ... Trong k ỳ phổ còn ghi tên một

    số nhân vật thượng đẳng như Vương Ðiềm (王恬), Vương Úc (王彧) đờ i Ðông Tấn đã đượ cnhắc tớ i ở  trên.

     Những quốc thủ đờ i Tống, Tề đến nay còn ghi lại phải k ể đến Vương Kháng (王抗), Hạ Xích

    Tùng (夏赤松) và Chử Tư Trang (褚思莊). Vương, Hạ, Chử ba người có ba phép đánh riêng,mỗi ngườ i có một sở  trường, Vương Kháng chuyên về thủ, còn Hạ Xích Tùng lại giỏi về tấncông. 18 Hai người này suy nghĩ nhanh, đi cờ  nhậm lẹ, riêng Chử Tư Trang lại đi rất chậm, mỗilần cầm quân lên suy nghĩ mãi mới đặt xuống, đánh cờ  lắm khi kéo dài suốt đêm mớ i xong một bàn. Ngườ i ta k ể r ằng một lần Vương Kháng đánh cờ  vớ i Chử Tư Trang từ trưa đến tối, sangcanh năm mới phân hơn thua. Vương Kháng ngồi chờ  Chử đi quân, ngủ gật bên cạnh bàn cờ , còn

    Chử vẫn ngồi suy nghĩ mãi. 

    Ðờ i Bắc Nguỵ, quốc thủ  phương bắc là Phạm Ninh Nhi (范寧兒) từng đi sứ nướ c Tề ở  Giang Nam, Tề Võ Ðế sai Vương Kháng ra đối tr ận nhưng Vương Kháng bị thua.

    Ðời Ðườ ng: 

    Ðời Ðường là giai đoạn mà văn hoá Trung Hoa lên đến cao điểm, việc đánh cờ  cũng được đề cao. Ngườ i ta vẫn cho r ằng đánh cờ  là phản ảnh trình độ trí tuệ, là một môn nghệ thuật thanhnhã. Chính từ đời Ðường mà người ta đặt cầm k ỳ thi họa chung với nhau. Chúng ta ai cũng biếtthơ Ðườ ng là loại thơ vớ i niêm luật chặt chẽ, cũng thường đượ c ngâm vịnh k hi đánh cờ  và môn

    cờ  vây đến giai đoạn này đã tiến lên thêm một mức.

    Theo điều lệ của Hàn Lâm Viện (翰林院) ghi trong Chức Quan Chí, Cựu Ðường Thư (職官志-

    舊唐書) có ghi:

    Trong cung Ðại Minh, cung Hưng Khánh, cung Tây Nội, cung Hoa Thanh đề u có khuvực dành cho đãi chiế u. Ðãi chiế u gồm có t ừ  học, kinh thuật, hợ  p luyện, tăng đạo, bố cchúc, thuật nghệ, thư dịch, (mỗ i ngày) các viện t ậ p họp đế n t ố i mớ i tan. 

    Ðãi chiếu (待詔) là chức vụ bên cạnh hồng đế như một loại cố vấn về những vấn đề chuyên môn,trong đó có cả cố vấn về đánh cờ  (thư dịch). K ỳ đãi chiếu nổi tiếng nhất đời Ðường là Vương

    Tích Tân (王積薪), cố vấn của vua Huyền Tông, tức Ðườ ng Minh Hồng.

    17 Tống đây là Lưu Tống (Nam Triều) kéo dài từ 420 đến 479 chứ không phải nhà Tống sau này. 18 Kháng thủ thế, Xích Tùng đấu tử (抗取勢赤松鬥子) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    17/42

     

    Theo truyền thuyết, sở  dĩ Vương Tích Tân kỳ lý giỏi như thế là vì có một con r ồng xanh từ 

    thượ ng giớ i bay xuống nhả từ trong miệng ra chín quyển K  ỳ Kinh (棋經) ban cho. Thực ra, họ Vương là ngườ i r ất chuyên tâm nghiên cứu cách thức đánh cờ . Mỗi khi đi đâu, ông đem theo mộttúi quân cờ  và một bàn cờ  giấy bỏ trong ống tre, treo vào cổ ngựa, gặ p bằng hữu liền mở  ra đánh,đến cả dân chúng nếu muốn ông cũng chiều. Thành ra đi đến đâu ông cũng được người ta đãi

    đằng cơm rượ u và lâu dần tr ở  thành danh thủ số một của đời Ðường. Ông cũng thường đấu vớ icác danh thủ các nơi và chín ván cờ  ông cùng Phùng Uông (馮汪) đấu nơi phủ đệ của Tr ần Cửu

     Ngôn (陳九言) đượ c ghi lại thành k ỳ phổ tên là Kim C ố c C ử u Cuộc (金谷九局), truyền đến đờ iTống thì không còn nữa. K ỳ thế này r ất là phức tạ p, nhìn vào hoa cả mắt.

    Ở đời Ðường, ngườ i nổi tiếng chỉ kém Vương Tích Tân là Cố Sư Ngôn (顧師言). Trong Ðỗ  

     Dương tạ p biên (杜陽雜編) của Tô Ngạc (蘇鶚) có chép câu chuyện Tr ấn Thần Ðầu (鎮神頭)về việc Vương tử nướ c Nhật đến Trung Nguyên đượ c vua Tuyên Tông sai Cố Sư Ngôn đấu cờ .Vương tử này là quán quân về cờ  vây của Nhật Bản, Cố Sư Ngôn đấu vớ i y hết sức gay go, toát

    cả mồ hôi tay. Ðến nướ c thứ  ba mươi ba, Cố Sư Ngôn đi nướ c Tr ấn Thần Ðầu giải đượ c thế cờ  của vương tử nướ c Nhật khiến y phải chịu thua. Việc Cố Sư Ngôn đấu cờ  với khách còn đượ cghi lại trong sử sách nhưng thế cờ  Tr ấ n Thần Ðầu Nhấ t T ử  Giải Song Chinh mà ngườ i ta truyềnlại đến ngày nay e r ằng chỉ là một thế cờ  đượ c sắp đặt vì không hợ  p vớ i k ỳ pháp.

     Ngồi Vương Tích Tân và Cố Sư Ngôn, đời Ðường cũng còn nhiều danh thủ khác nổi tiếng như

    Phác La (朴羅), Hoạt Năng (滑能), Vương Thúc Văn (王叔文) ...

    Ðờ i Tống: 

    Ðờ i Tống có Lưu Trọng Phủ (劉仲甫) là k ỳ thủ nổi tiếng được ngườ i tiến cử vào chức k ỳ đãi

    chiếu. Trướ c khi nhập kinh, ông đến Hàng Châu, khi đó là một nơi phồn hoa đô hội, cao thủ r ấtđông, ngày ngày ra ngồi xem người ta đánh cờ  suốt mườ i ngày r ồi mới trương bảng nơi kháchđiếm “K  ỳ  Khách đất Giang Nam là Lưu Trọng Phủ chấ  p các k  ỳ thủ đi trướ c”, 19 r ồi đem tiền rađánh cượ c.

    19 江南棋客劉仲甫奉饒天下棋先 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    18/42

     

    Vua Ðường Thái Tông đánh cờ  

    Tranh đờ i Tống 

    Sử Lương Chiêu: Bác Dịch Du Hí Nhân Sinh tr. 112 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    19/42

     

    Bảng trương lên, cao thủ trong thành lậ p tức ùn ùn kéo đến xin đánh. Ðến nướ c thứ năm mươi,quân bên Lưu Trọng Phủ tr ở  nên kém thế, đến nướ c thứ một trăm thì họ Lưu lại càng sa sút,ngườ i chung quanh ai nấy cườ i ông không biết lượ ng sức mình, to mồm khoác lác.

    Ðột nhiên Lưu Trọng Phủ tằng hắng một tiếng, vơ quân cờ  trên bàn bỏ cả vào hộp. Người đứngxem ai nấy đều cho r ằng ông chịu thua, la ó không cho ông tính nướ c chạy làng. Lưu Trọng Phủ 

    khi ấy mớ i từ tốn nói:-  Tôi đến Hàng Châu xem đánh cờ  đã mấy ngày, tài nghệ các vị danh thủ đến mức nào

    cũng đã thấy. Chẳng hạn như ngày đó ông đó đánh ván cờ  đó, đáng lý ra bên trắng thắngto, thế nhưng vì đi nước này nướ c này thành ra hỏng. Còn hôm này ván cờ  này, bên đen

    thế đang tốt, đi nhầm một quân “kiế p” (劫) thành ra lại thua.

    Ông vừa nói vừa bày quân liên tiế p đến mườ i mấy bàn, ngườ i xem ai nấy đều kinh ngạc. LưuTr ọng Phủ nói tiế p:

    -  Cứ lấy bàn cờ  vừa mới đây mà nói, quí ông chắc hẳn nghĩ rằng tôi thua đến nơi, thế nhưng tôi chỉ đi một quân nữa thì sẽ thắng mười mươi, xin các vị cao thủ nghĩ lại xem có

    đúng không?Mọi ngườ i hết sức suy tính nhưng không ai tìm ra giải đáp, đành phải xin Lưu Trọng Phủ chỉ vẽ.Lưu Trọng Phủ bày lại ván cờ  y như trước, sau đó đặt xuống một quân ở  một chỗ không liênquan gì đến thế cờ  r ồi nói:

    -  Quân này sau hai mươi nướ c nữa mớ i có tác dụng.

    Quả nhiên thêm hơn hai mươi nướ c cờ, tình hình đúng như lời Lưu Trọng Phủ. Ðến khi buổi cờ  k ết thúc, Lưu Trọng Phủ thắng cả mườ i ba bàn khiến nhân sĩ đất Hàng Châu ai nấy đều ra sứchậu đãi, cố giữ ông lại thêm mươi ngày nữa.

    Sau đó Lưu Trọng Phủ lên Biện Lương làm đãi chiếu trong Hàn Lâm Viện và là danh thủ vô địchtrong suốt hai mươi năm liền. Câu chuyện này cho ta thấy phong khí đánh cờ  thờ i Tống kháthịnh, các nơi thị tứ đều có những cuộc tranh tài và triều Tống đi theo đườ ng lối của đời Ðườ ngđặt chức đãi chiếu trong cung.

     Người ta cũng nhận định r ằng sang đờ i Tống, các k ỳ thủ không còn chú tr ọng đến phong độ vong ưu, toạ ổn, thủ đàm nữa mà đi sâu vào các thế cờ  hóc hiểm ngườ i sau gọi là “k  ỳ công”

    (棋工). Ngồi thành thị, các đạo quan, chùa chiền cũng là nơi hay bày ra các cuộc cờ  (hội cờ ).Không biết ngẫu nhiên hay cố ý, Kim Dung viết Thiên Long Bát Bộ đã cho nhiều ván cờ  hóchiểm được bày ra nơi đạo quan và miêu tả về những ván cờ  gay go giữa các nhà sư và đạo sĩ. 

     Những thế cờ  từ đờ i Tống còn truyền lại khá nhiều và phương pháp suy luận cũng ngày một phát

    triển. Trong Dịch K  ỳ T ự  (弈棋序) của Tống Bạch (宋白) đờ i Bắc Tống có viết:

    Ðánh cờ  có mấy điều: phẩm, thế, hành, cục. Phẩm là hơn kém, thế là mạnh yếu, hành làk ỳ chính, cục là đượ c thua.

    Ðạo của phẩm, giản dị mà hiệu quả là bậc thượ ng, phải đánh mớ i thắng là bậc trung,nguy cơ mới đượ c là bậc hạ.

    Ðạo của thế, r ộng rãi thong dong là bậc thượ ng, tr ận địa nghiêm nhặt là bậc trung, sít saogay go là bậc hạ.

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    20/42

     

    Ðạo của hành, an nhiên phản ứng là bậc thượ ng, nhanh chóng ứng phó là bậc trung, nóngnảy đi quân là bậc hạ.

    Ðạo của cục, thư thái mà thắng là bậc thượ ng, biến hoá mà thắng là bậc trung, sát phạtmà thắng là bậc hạ.

    Tr ần Nguyên Tịnh (陳元靚) trong sách Sự Lâm Quảng Ký (事林廣記) có chép Thậ p Quyết(十訣) là kinh nghiệm về việc đánh cờ  vây:

    -  Một là không ham thắng

    -  Hai là đánh phải thư thả 

    -  Ba là công định nhưng không quên củng cố bên mình

    -  Bốn là chịu mất quân để tranh tiên

    -   Năm là thả cái nhỏ để đượ c cái lớ n

    -  Sáu là thấy nguy thì bỏ 

    -  Bảy là cẩn thận không hối hả 

    -  Tám là ra quân cần tương ứng

    -  Chín là nếu địch mạnh thì phải tự bảo vệ mình

    -  Mườ i là thế yếu thì cố thủ hồ 

    Mười điều trên đây được ngườ i sau coi là yếu chỉ để áp dụng trong việc đánh cờ  vây nhưngdường như có thể áp dụng trong bất cứ môn chơi nào và là những bài học nhân sinh đầy từngtr ải. Lưu Trọng Phủ cũng để lại K ỳ Quyết trong đó ghi lại chiến lượ c, chiến thuật của phép đánhcờ  gồm bốn phương diện:

    -  Một là bố trí thì cần chặt chẽ, thích đáng cốt sao quân nọ liền quân kia, ràng buộc hỗ tr ợ  lẫn nhau (hô ứng) nhưng cũng đừng gần quá để thành một thế cờ  phức tạ p, ấy chính là“ xa mà không thưa, thưa ắ t d ễ  đứ t; gần nhưng không co cụm, co cụm ắ t sẽ  yế u”.20 

    -  Hai là tấn công, khi vừa ổn định thế cờ  là phải lậ p tức tìm cơ hội tấn công vào tr ận địacủa đối phương để bên mình không bị đối thủ uy hiế p. Nguyên tắc ấy gọi là “làm sao ứ ngviện tiế  p liề n nhau, t ấ n công liên tiế  p”, sao cho “bên địch không thể  không co rút, khôngthể  không suy yế u”.21 

    -  Ba là dụng chiến, nơi nào không ảnh hưởng đến bên mình, không làm hại cho toàn cụcthì hãy đi. Cho nên khéo thủ thì bên mình có thực lực; còn như tạo đượ c thế hoàn toàn thìmình nhàn nhã và tác chiến là làm sao “dĩ thực kích hư, dĩ dật đãi lao”.22 

    20 Viễn bất khả thái sơ, sơ tắc dị đoạn; cận bất khả thái xúc; xúc tắc thế luy

    (遠不可太疏,疏則易斷;近不可太促,促則勢羸) 21 tất sử ứng viện tương tiế p, câu lạc tương liên; bỉ lộ bất đắc bất xúc, bỉ thế bất đắc bất luy

    (必使應援 相接, 勾落相連;彼路不得不促,彼勢不得不羸) 

    22 以實擊虛,以逸待勞 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    21/42

     

    -  Bốn là thu xả, đó là chỗ mà Lưu Trọng Phủ gọi là “đại k ế của phép đánh cờ ”. Phàm bêntrong mà đầy đủ thì ắt dự tính được chướ c lạ, bên ngồi mà đầy đủ thì hình thế đượ c phong long, dẫu có ít cũng có thể thu về để tự bảo. Ấy chính là chỗ mà hậu thế nói là “laod ật du quan thiể u diệc đồ, tinh hoa dĩ kiệt đa kham khí ”

    (勞逸攸關少亦圖,精華已竭多堪棄).

    Ðờ i Tống cũng còn lưu hành một bộ sử về cờ  vây của Trung Hoa do Trương Nghĩ (張擬) soạn

    nhan đề “K  ỳ Kinh Thậ p Tam Thiên” (棋經十三篇) và một bộ K ỳ Phổ do k ỳ đãi chiếu Lý Dật

    Dân (李逸民) biên soạn lại “Vong Ưu Thanh Lạc T ậ p” (忘憂清樂集) mà thành.

    Sách này không những sưu tậ p lại các cổ phổ và các ván cờ  nổi tiếng cùng thời, định lại cáchthức mà còn bao gồm luôn cả K  ỳ Kinh Thậ p Tam Thiên của Trương Nghĩ, K  ỳ Quyế t  của LưuTr ọng Phủ, Luận K  ỳ Quyế t Y ế u T ạ p Thuyế t  của Trương Tịnh.

    Ðờ i Nguyên Minh: 

    Khi khảo sát về tình hình trong cung nhà Nguyên, mặc dù việc đánh cờ  vẫn còn phổ biến nhưngtriều đình không còn chức k ỳ đãi chiếu nữa. Tuy nhiên thờ i này phong khí nho gia vẫn thịnh vànhiều ngườ i chuyển sang các thú tiêu khiển để quên đi cái nhục mất nướ c. Ðến cuối đờ i Nguyên,loạn lạc liên miên và phải mấy chục năm sau khi Minh triều thành lậ p thì triều đình mớ i cho triệucác quốc thủ vào cung để giúp vui cho hồng gia.

    Môät cách tổng quát, hai triều Nguyên Minh cờ  vây là sinh hoạt dân gian và là môn giải trí của

    quần chúng. Chu Mạn Sĩ (周漫士) đời Minh trong Kim Lăng toả sự (金陵瑣事) có viết:

     Minh Thái T ổ  Chu Nguyên Chương xây Tiêu Dao Lâu ở  Nam Kinh, khách toàn là bọnbình dân đến chơi cờ  đánh bạc, trông vào chẳ ng thấ  y chút gì tiêu dao, chỉ  toàn bọn ố m

    đói. 

    K ỳ thủ tr ứ danh nhất đầu đời Minh là Tương Lễ (相禮) và Lâu Ðắc Ðạt (樓得達). Tương Lễ cũng tinh thông thi hoạ, nổi tiếng là “thiên hạ k  ỳ  sư ”, Vương Phùng có bài thơ Tuý T ặng TươngT ử  Tiên (Tử Tiên là ngoại hiệu của Tương Lễ) trong đó ca tụng tài đánh cờ  của họ Tương. Tuynhiên khi ở  Nam Kinh, họ Tương lại bị một ngườ i ở  Ninh Ba là Lâu Ðắc Ðạt đánh bại, về đếnHoa Ðình lại bị một nhà sư khất thực (du tăng) hạ luôn mấy ván khiến cho không còn dám khoedanh hiệu “thầ y cờ ” nữa.

    Từ khi có Lâu Ðắc Ðạt, phong khí đánh cờ  lại nổi lên. Sang đờ i Chính Ðức (1506-1521) cao thủ 

    đánh cờ  có Phạm Hồng (范洪), sang đờ i Long Khánh (1567-1573), Vạn Lịch (1573-1620) thì

    dần dần hình thành ba k ỳ phái:

    1.  Phái Vĩnh Gia (永嘉), đứng đầu là Bào Nhất Trung23 (鮑一中), người đượ c Tể Phụ Dương là bạn của Phạm Hồng ca ngợ i, k ết làm bạn vong niên và Vương Thế Trinh nhắc

    23 tự Ảnh Viễn (影遠) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    22/42

     

    đến trong Dịch Chỉ  (弈旨) là đánh cờ  biến hoá như Hàn Tín cầm quân, vừa linh hoạt, vừamãnh liệt.

     Ngô Thừa Ân (吳承恩), tác giả bộ truyện nổi danh Tây Du Ký trong “Vi K ỳ Ca TặngBào Ảnh Viễn” có hai câu:

    C ất tay đặt quân khôn khéo lạ , 

    Tiếng cườ i r ộ lên như biể n gào. 

    忽時下子巧成功,

    一笑齊聲海嘲哄。 

    ... Hốt thờ i hạ tử xảo thành công,

     Nhất tiếu tề thanh hải trào hống.

     Ngồi họ Bào, phái Vĩnh Gia còn những cao thủ như Lý Xung, Chu Nguyên, Từ Hi Thánh...

    2.  Phái thứ hai là phái Tân An (新安) mà đại biểu là Trình Nhữ Lượ ng (程汝亮), thành viên

    có Uông Thử (汪曙), Phương Tử Khiêm (方子謙) ...

    3.  Phái thứ ba là phái ở  ngay kinh sư có Nhan Luân (顏倫), Lý Phủ (李釜).

     Người đương thờ i bảo là dẫu Gia Cát tái sinh cũng không phá đượ c Trình Nhữ Lượ ng mà Tôn Ngô k ẹp hai bên cũng khó thắng đượ c Nhan Luân. Lý Phủ thì có “áp noãn chi uy” của Võ AnQuân cùng vớ i Bào Nhất Trung là hai ngườ i số một đờ i Minh.

    Uông Thử so vớ i Bào Nhất Trung hơi kém hơn một chút nhưng đờ i sau cho r ằng Phương Tử Khiêm còn hơn cả hai người. Tương truyền họ Phương đượ c một k ỳ nhân dạy cho 48 cách thức biến hoá nên tr ở  thành một cao thủ nhưng chính Phươ ng Tử Khiêm đã cải chính r ằng ông từ nhỏ đã mê cờ  và những gì ông biết đượ c là do chính mình nghiên cứu.

    Các môn phái đờ i Minh cho thấy việc đánh cờ  vào thờ i này tr ở  thành đa dạng trong đó kỳ thủ tr ứ 

    danh là Lâm Phù Khanh (林符卿), Quá Bách Linh (過百齡), Chu Lại Dư (周懶予) nổi tiếng cho

    tớ i tận Thanh sơ. Trong Ngu Sơ Tân Chí  (虞初新志) có một thiên “Quá Bách Linh truyện” chépr ằng năm Quá Bách Linh 11 tuổi, đại học sĩ Diệp Hướng Cao đi qua Vô Tích, muốn đánh cờ ,ngườ i trong hạt đưa họ Quá ra. Diệp Hướ ng Cao là danh thủ ở  kinh sư, nào ngờ  thua cậu bé con

    luôn mấy ván, nên đưa lên đấu vớ i Lâm Phù Khanh, họ Lâm mới đầu khinh thị nhưng sau cùng phải nhườ ng chức “quố c thuû” cho Quá Bách Linh.

    Tiền Khiêm Ích (錢謙益) trong bài thơ ca ngợ i Quá Bách Linh “Kinh Khẩu Quan K ỳ Lục TuyệtCú” có hai câu:

     Ra quân t ừ  thuở  mớ i lên tám, 

    C ờ  quạt trong tay đế n bạc đầu. 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    23/42

     

    八歲童牙上弈壇 

    白頭旗纛許誰干?

    Bát tuế đồng nha thượ ng dịch đàn, 

    Bạch đầu k ỳ độc hứa thuỳ can?

    Quá Bách Linh có tr ứ tác “Quan Tử Phổ” (官子譜), “Tam Tử Phổ” (三子譜), “Tứ Tử Phổ”

    (四子譜) và hiệu đính lại “Tiên Cơ Võ Khố” (仙機武庫), cải tiến lại các chiến thuật tr ấn thầnđầu, kim tỉnh lan, đại thiết võng, tiểu thiết võng ... tạo nên một phong khí mớ i trong nghệ thuậtcờ  vây.

    Chu Lại Dư là người Gia Hưng, Chiết Giang biết đánh cờ  từ khi mớ i 5, 6 tuổi, năm lên mười đãnổi tiếng là có thể phân trí vừa đọc truyện vừa đánh cờ, đến nửa bàn đã đoán đượ c hết các cáchđi của đối thủ. Tuy họ Chu nổi tiếng sau Quá Bách Linh nhưng cả hai đều là những danh thủ cónhiều óc sáng tạo. Trong mườ i ván cờ  mà hai người đấu vớ i nhau (Quá Chu Thậ p Cục -

    過周十局), Chu Lại Dư chiếm thượ ng phong tr ở  thành khắc tinh của họ Quá nhưng ảnh hưở ngkhông qua đượ c vì thờ i thế đã biến chuyển, triều Minh đổ, triều Thanh lên. Ðặng Nguyên Huệ 

    (鄧元鏸) trong Luận Dịch (論弈) đã viết:

     Ðầu triề u chiế n cuộc nghênh ngang, 

     Hai ông Chu, Quá lăng xăng tranh bàn. 

    Thời nay phong khí đã tàn, 

    Còn đâu áo mỏng đai nhàn đế n xem. 

    明末清初戰局開, 

    過周袞袞共登台。 

    一時風氣趨遵緊, 

    無復輕裘緩帶來。 

    Minh mạt Thanh sơ chiến cuộc khai,

    Quá Chu cổn cổn cộng đăng đài. 

     Nhất thờ i phong khí xu tuân khẩn,

    Vô phục khinh cừu hoãn đái lai. Ðờ i Thanh:

     Ngườ i ta bảo r ằng cái thú đánh cờ  vây ở  đờ i Thanh phong thịnh chẳng khác gì thơ ca đời Ðườ ng.Mà không cứ gì cờ , nhiều bộ môn nghệ thuật khác cũng phát triển đến cực thịnh đưa nhà Thanhlên triều đại cao điểm của văn minh Trung Hoa.

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    24/42

     

    Cuối đờ i Thanh, Ðặng Nguyên Huệ viết Quốc Triều Dịch Gia Tính Danh Lục (國朝弈 

    家姓名綠) trong đó sưu tầm được 169 người. Người được xưng là Kỳ Thánh đầu đờ i Thanh là

    Hồng Long Sĩ (黃龍士). Long Sĩ tên thực là Cầu (虬),còn tên là Hà (霞) người đất Thái Châu,

    tỉnh Giang Tô sinh năm 1651 (Thuận Tr ị thứ 8), mớ i 18 tuổi đánh cờ  vớ i các quốc thủ đã dám

    chấp quân hay nhường đối thủ đi trước. Nướ c cờ  của ông ngườ i sau khen là “như tiên trên trờ i xuố ng tr ần, không vương một chút bụi”, 24 xuất thần nhậ p hoá. Kinh học gia Diêm Nhượ c Cừ 

    (閻若璩) đã xế p Hồng Long Sĩ, Hồng Tông Hi (黃宗羲), Cố Viêm Võ (顧炎武) vào trong danhsách mườ i bốn thánh nhân thời Thanh sơ đủ biết tiếng tăm ông vang dội là chừng nào.

     Ngô Thanh Nguyên, một nhân vật chuyên nghiên cứu về cờ  vây đã cho rằng nướ c cờ  của Hồng

    Long Sĩ có thể sánh ngang vớ i danh nhân Nhật Bản Tú Sách (秀策) là người mà trướ c nay khôngai bì k ị p. Theo chính lờ i của Hồng Long Sĩ thì: 

    ... Mười chín đườ ng d ọc ngang của bàn cờ  không khác gì 28 phân dã của tinh tú nênđánh cờ  cũng không khác gì hoạch thổ   phân cương, lấ  y chỗ  hiểm làm kinh đô, chẹn chỗ  

     yếu để  d ự ng tr ại, bao vây trung thổ  để  phòng thủ chung quanh, khi chiế n thì một tướ ngđơn thân xông lên, dẫ u chỗ  kiên cố  đến đâu cũng san bằ ng, khi thủ thì như một k ẻ thấ t phu giữ  cử a, d ẫ u có thất hùng cũng không qua đượ c, ấy là đại thế  của công thủ. 

     Ðấ t hai bên bằ ng nhau, ai có thế  thì mạnh, lự c hai bên ngang ngửa, ngườ i d ụng trí thìthắ ng, cầm roi thì ái mộ nước đi trướ c của T ổ  Sinh, nhậ p quan thì thẹn việc đi sau BáiCông, ấ  y là việc xây d ựng cơ nghiệ p phải sớ m sủa. Còn như hư thự c khác nhau thế  nào,k  ỳ chính tinh diệu ra sao, Tào Công vì có đấ t Kinh mà vùng vẫ  y trung nguyên, Á Phu vìđất Lương mà bỏ Ngô S ở  , H ạng Vũ lấ  y chính binh phá Triệu nên phải đánh Tần trướ c,Tôn T ẫ n dùng k  ỳ binh cứu nướ c Hàn mà thẳng đườ ng sang Ngu ỵ , ấ  y là việc bỏ hay lấ  y phải tu ỳ nghi, minh bạch chuyện nhanh hay chậm của ta của địch ... (K  ỳ Quát) 

     Năm Hồng Long Sĩ hơn ba mươi tuổi có Từ Tinh Hữu (徐星友) ở  kinh sư đến học, k ỳ lực đạtđến mức chỉ còn kém thầy hai quân. Thế nhưng Hồng Long Sĩ lại chấ p Từ đến ba quân, haingười đánh mười ván, hai bên đều kiệt lực suy nghĩ, vận hết tâm huyết đến nỗi hộc cả máu ra,

    thành thử hậu nhân đặt tên cho mườ i bàn cờ  đó là “huyết lệ thiên” (血淚篇). Sau tr ận cờ  này Từ Tinh Hữu tr ở  thành quốc thủ nổi danh.

    Từ Tinh Hữu ngườ i Hàng Châu, tuổi còn cao hơn Hồng Long Sĩ, đánh theo lối chính phái vớ itâm niệm “hư không hơn đượ c thực, khéo không hơn đượ c vụng” làm nguyên tắc. Sau khi đánhxong mườ i bàn cờ  huyết lệ thiên, ông tiềm tâm suy nghĩ, ba năm không xuống dướ i lầu. Sau khiHồng Long Sĩ qua đờ i, Từ đứng đầu k ỳ đàn trong liên tiế p ba bốn chục năm, thắng cả sứ thầnnước Cao Ly là ngườ i tự cho r ằng không ai đối thủ.

     Năm Khang Hy thứ 58 (1719), ông tuyển soạn Kiêm Sơn Ðườ ng Dịch Phổ (兼山堂弈 譜). Hainăm sau, ông ngẫu nhiên gặ p hai cậu bé mới 12, 13 có thiên tư đánh cờ  bèn chấ p 3 quân, lại tặngluôn cho cuốn sách ông mớ i soạn. Hai đứa tr ẻ đượ c cuốn Kiêm Sơn Ðườ ng Dịch Phổ bèn cùng

    24 như thiên tiên hoá nhân, tuyệt vô tr ần tưở ng (如天仙化人,絕無塵想) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    25/42

     

    nhau nghiên cứu một năm, kỳ nghệ đại tiến, sau này chính là hai ngườ i nổi danh đờ i Thanh, Thi

    Tương Hạ (施襄夏) và Phạm Tây Bình (范西 屏).

    Thi Tương Hạ (1710-1770) có tên là Thiệu Ám (紹闇), hiệu là Ðịnh Am (定庵); Phạm Tây Bình

    (1709-1776) tên là Thế Huân (世勛) đều là ngườ i Chiết Giang, thành quốc thủ từ khi còn nhỏ.Hiện nay sách vở  còn truyền lại 10 ván cờ  của hai người. Người đờ i nhận định r ằng:

    Tây Bình k  ỳ diệu cao viễ n, biến hoá như con rồng thần không ai có thể  đoán được đầuđuôi; Ðịnh Am khít khao nghiêm chỉnh như ngự a Ký xoải bướ c, nhanh mà không nhỡ  bướ c. 

    Trong Dịch Tiềm Trai Tậ p Phổ (弈潛齋集譜), Ðặng Nguyên Huệ có viết:

    Phạm Tây Bình nhờ  biế n hoá thần tình mà nổ i danh, Thi Ðịnh Am đượ c khen là tiêuchuẩ n không ai sánh nổ i. 

    Từ Kha (徐珂) trong Thanh Bại Loại Sao (清稗類鈔) thì cho r ằng hai ngườ i trong k ỳ đàn cũng

    không khác gì Lý Bạch và Ðỗ Phủ trong làng thơ, mỗi ngườ i có một nét độc đáo riêng. Sau khiông mất, văn học gia Viên Mai (袁枚) đã viết mộ chí cho Phạm Tây Bình, hết sức tán dương. 

    Thi Tương Hạ để lại Dịch Lý Chỉ Qui (弈理指歸) và Dịch Lý Chỉ Qui Tục Biên (弈理 

    指歸續編) còn Phạm Tây Bình thì biên soạn Ðào Hoa Tuyền K ỳ Phổ (桃花泉棋譜) tổng hợ  pnhững gì hai người đã thu đạt đượ c trong mấy chục năm đánh cờ  và cho đến nay vẫn là nhữngkim chỉ nam cho người ưa thích môn cờ  vây.

     Ngồi Thi, Phạm hai ngườ i, trong số quốc thủ đời Thanh cũng còn Lương Nguỵ Kim (梁魏今) và

    Trình Lan Như (程蘭如) đượ c hợp xưng là Tứ Ðại Gia.

    Cuối đời Thanh, người ta cũng thấy có một số quốc thủ khác như Trần Tử Tiên (陳子仙), Chu

    Tiểu Tùng (周小松). Tr ần Tử Tiên mất sớm nhưng Chu Tiểu Tùng sống thọ qua nhiều triều đạitừ Ðạo Quang đến Quang Tự, tuy không lừng lẫy như Thi Phạm hai người. Ông để lại tác phẩm

    San Cúc Trai K  ỳ Bình (餐菊齋棋評).

    TRIẾT LÝ VÀ GIAI THOẠI VỀ CỜ  VÂY 

    Âu Dương Tu đờ i Tống có viết trong Tân Ngũ Ðại Sử:

    Việc tr ị nước cũng không khác gì đánh cờ  vây, biế t cách dùng, biế t cách đặt cho đúngchỗ  thì thắ ng, không biế t cách dùng, không biết cách đặt thì thua.25 

    25 tr ị quốc dự chi ư dịch, tri k ỳ dụng nhi trí k ỳ xứ giả thắng, bất tri k ỳ dụng nhi trí phi k ỳ xứ giả bại. 

    (治國譽之於弈,知其用而置得其處者勝。不知其用而置非其處者敗) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    26/42

     

    Ông cũng đi xa hơn để nhận định r ằng trong nghệ thuật đánh cờ  lắm khi chỉ thay đổi một quâncũng có thể chuyển bại thành thắng, cũng không khác gì sử dụng con ngườ i, nếu biết cách thìnguy sẽ thành an, thua sẽ thành đượ c. Vấn đề dụng nhân như dụng mộc ngay từ xưa đã được đề cao mặc dầu không có những tiêu chuẩn chặt chẽ, nặng phần tr ực giác nhưng đã ảnh hưở ng r ấtnhiều trong chính tr ị.

    Lục Cửu Uyên (陸九淵), một lý học gia treo một bàn cờ  trên tườ ng, tr ầm tư suy nghĩ trong haingày liền r ồi buột miệng:

    C ờ  vây so với hà đồ cũng chẳ ng có gì khác nhau! 

    Họ Lục là ngườ i chủ trương “vũ trụ là tâm mà tâm cũng là vũ tr ụ”26 là sáng tổ của phái tâm học

    trong triết học Trung Hoa. Mã Ngọc (馬鈺), một trong Toàn Chân Thất Tử đời Kim cũng thườ nghay đánh cờ  với đệ tử để truyền dạy đạo pháp. Ông từng nói:

    Thần tiên đi đế n chỗ  chí đạo là bão nhấ t, nếu như khi đánh cờ  mỗi quân đề u t ỏ lộ đượ cnét độc nhấ t vô nhị , chẳ ng phải là “chí đạo hợ  p nhấ t” hay sao? 

    Các bậc cao tăng cũng hay lấy ví dụ từ đánh cờ  mà thuyết pháp. Pháp Viễn thiền sư truyền đạocho Âu Dương Tu lấy cờ  vây làm ẩn dụ. Trung Phong thiền sư cho rằng tục đế là quân đen, chânđế là quân tr ắng ... nếu ai nhìn thấu đượ c cái lẽ đó thì bàn cờ  biến hoá cũng không khác gì thế gian.

    Lý Bí (李泌) đời Ðườ ng, bảy tuổi làm thơ vịnh đánh cờ  có câu:

    Vuông như làm điều nghĩa, tr òn như dùng mưu trí, động thì như thi thố  tài năng, tĩnh thìnhư đã hồn thành ý nguyện.27 

    Lục Thụ Thanh (陸樹聲) đời Minh coi đánh cờ  là tuyệt nghệ của nhân sinh còn Vưu Ðồng

    (尤侗) đờ i Thanh thì bảo r ằng “quan sát mười chín đường kia còn hơn cả đọc hai mươi mố t bộ sử ”.28  Ngườ i ta lý giải r ằng đánh cờ  hàm nghĩa hai phương diện:

    -  K ỳ lý hay qui luật đánh cờ  

    -   Nhận thức hay sự tương đồng vớ i xã hội

    Chính vì đánh cờ  có nhiều điểm tương đồng vớ i cuộc đời, ngườ i ta cho r ằng từ đó chúng ta cóthể rút ra những bài học nhân sinh, áp dụng vào sinh hoạt thườ ng nhật. Ðiều đó đúng tớ i mức độ nào thì tuỳ theo sự đánh giá của mỗi ngườ i.

    26 vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm tức thị vũ tr ụ 

    (宇宙便是吳心,吳心即是宇宙) 27 Phương như hành nghĩa, viên như đụng trí, động như sính tài, tĩnh như toại ý 

    (方如行義,圓如用智,動如逞才,靜如遂意) 28 thí quan nhất thậ p cửu hàng, thắng độc nhị thậ p nhất sử (K ỳ Phú) 

    (試觀一十九行,勝讀二十一史) (棋賦) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    27/42

     

    Trong lịch sử Trung Hoa, nhiều tác phẩm viết về cờ , k ỳ lý cũng như kỳ cuộc, k ỳ phổ còn lưu

    truyền đến ngày nay. Ðờ i Tống có Vong Ưu Thanh Lạc T ậ p (忘憂清樂集), đờ i Nguyên có 

     Huyề n Huyề n K  ỳ Kinh (玄玄棋經), đờ i Minh có Thích Tình Lục (適情錄), Thu Tiên Di Phổ  

    (秋仙遺譜), Dịch T ẩ u (弈藪), Tiên Cơ Võ Khố  (仙機武庫), đờ i Thanh có Quan T ử  Phoå

    (官子譜), Dịch Quát  (弈括), Kiêm Sơn Ðườ ng Dịch Phổ  (兼山堂弈譜) , Dịch Lý Chỉ  Qui 

    (弈理指歸) ... Những tác giả ngồi tài đánh cờ  bao giờ  cũng tìm ra đượ c những cách thức mớ ivượ t ra khỏi bình thườ ng.

    Lâm Ứ ng Long (林應龍) trong Thích Tình Lục đã sưu tầm đượ c bảy trăm bàn cờ, sau đó phântích bằng thuật ngữ quân sự để chia ra hai mươi loại, r ồi dùng hào quẻ trong Dịch Kinh để liênhệ vớ i nhau.

    Quốc thủ đời Thanh là Thi Tương Hạ trong Dịch Lý Chỉ  Qui thì đem kinh nghiệm đã đưa rađượ c những qui tắc để giải những nước khó khăn như “nhậ p phúc tranh chính diện”

    (入腹爭正面), “hình phương tấ t thứ, đầu nhuyễ n tu bản” (形方必覷,頭軟須扳) ...

    Phan Thận Tu (潘慎修) đờ i Tống thì lại đem ngũ thường để luận cờ  – “nhân t ắc năng tồn, nghĩat ắc năng thủ , lễ  t ắc năng biế n, trí t ắc năng kiêm, tín tắc năng khắ c. Quân t ử  tri k  ỳ ngũ giả , thứ  k  ỷ khả dĩ ngôn kỳ hĩ .” (có thể tồn đượ c ấy là điều nhân, có thể thủ đượ c, ấy là điều nghĩa, có thể  biến đượ c, ấy là điều lễ, có thể kiêm đượ c, ấy là điều trí, có thể khắc đượ c, ấy là điều tín. Ngườ iquân tử biết cả năm điều, là có thể bàn về đánh cờ  đượ c).

    Ðờ i Tống, Trương Nghĩ (張擬) biên soạn K  ỳ Kinh Thậ p Tam Thiên dựa theo Thậ p Tam Thiên binh pháp của Tôn Tử, tổng k ết mọi phương pháp lý luận của các đời, trong đó Luận Cục là thiênđầu tiên có thể dùng làm cơ sở  để luận cho mườ i hai thiên k ế tiế p. Sách vở  cũng đề cao k ỳ đức là

     phẩm hạnh của người đánh cờ  và không hiếm ngườ i dù phải tiế p bậc đế vương cũng không vì uyvũ mà mất tư cách. 

    Lạn Kha tiên khách (爛柯仙客)

    Thuật Dị Ký (述異記) của Nhâm Phưở ng (任昉) thờ i Nam Triều có chép:

    Vào đờ i T ấ n, ở  núi Tín An, quận Thạch Thấ t có một tiều phu tên là Vương Chấ t (王質) đivào r ừng đẵ n củi, thấy hai đứ a bé ngồi đánh cờ  , cho Chấ t một vật gì đó trông giống nhưhạt táo, ăn vào không thấy đói để  cho y ngồi chố ng búa mà xem. Ván cờ  chưa xong, mộtđứ a bé chỉ  tay mà nói r ằ ng: 

    -  Cán búa của ngươi mục r ồi kìa! Khi Chấ t tr ở  về  đến quê cũ thì đã một trăm tuổ i, không cách nào có thể  quay tr ở  lại nhưngày xưa. 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    28/42

     

    Hiện nay một bàn cờ  còn ghi lại trong Vong Ưu Thanh Lạc Tập đờ i Nam Tống do Lý Dật Dân biên soạn, truyền là ván cờ  mà Vương Chất thấy hai vị tiên trên núi đã đánh. Câu chuyện này

    cũng đượ c chép trong Phố Ðảo Truyện Ký (浦島傳記) của Nhật tuy có khác hơn đôi chút.29 

    Ở nướ c ta tại Bắc Ninh cũng có ngọn núi tên là Lạn Kha. Hiệ p Biện đại học sĩ Cao Xuân Dục

    đời Thành Thái đã chép trong Viêm Giao Trưng Cổ  Ký  như sau:  Núi Lạn Kha 

     Núi ở  phía nam của huyện [Tiên Du], trên núi có thú đá, ao long trì và nhà đá, trên đỉ nhcó bàn cờ. Tương truyền ngườ i tiều phu tên là Vương Chấ t lên núi gặ p hai ông già ngồiđánh cờ  ở  dướ i gố c cây thông, bèn chố ng rìu ngồi xem, mải mê đế n lúc cán rìu mục nátra. Nhân đó mớ i có tên Lạn Kha (mục cán rìu). Chân núi có chùa V ạn Phúc, phong cảnhu nhã, tương truyền chùa đượ c d ự ng t ừ  đời nhà Lí. Cũng theo người xưa kể  lại thì đâycũng chính là nơi Triệu Ðà bị  An Dương vương đánh cho thua trận. Ðờ i Tr ần lập ra thưviện Lạn Kha, cứ  đến ngày trùng dương hàng năm vua lại ngự   giá đến thăm viế ng. Cáchvài d ặm về   phía tây có chùa Vĩnh Phúc, am Nguyệt Thườ ng. Góc mé bắ c núi có chùa Kim Ngưu, là nơi Cao Biề n nhìn thấ  y trâu vàng chạ y ra. Ðá núi ở  đây có sắc như vàng, banđêm phát ra ánh sáng nên có tên là núi Kim Ngưu.30 

    29 Ðại Trúc Anh Hùng (大竹英雄) sđd. tr. 127 30 Cao Xuân Dục, Viêm Giao Trưng Cổ  Ký  [bản dịch Nguyễn Văn Nguyên] (Hà Nội: Thờ i Ðại, 2010) tr. 134 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    29/42

     

     Lạn Kha đồ lục phổ  

     Bác Dịch Du Hý Nhân Sinh tr. 140-1 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    30/42

     

    Bàn cờ  này tất cả 290 nước, bên đen thắng một quân. Cao Thanh Khâu đã viết hai câu thơ hỏikháy:

     M ột bàn sao lại nên nghìn tuổ i? 

    Chắ c t ại tiên ông chậm đặt quân.31 

    Sau đây là bài thơ “Ðề Vương Chất lạn kha đồ” (題王質爛柯圖) của Từ Vị (徐渭):

    閑看數着爛樵柯, 

    澗草山花一剎那。 

    五百年來棋一局, 

    仙家歲月也無多。 

     Nhàn khan sổ trướ c lạn tiều kha,Giản thảo sơn hoa nhất sát na.

     Ngũ bách niên lai kỳ nhất cục,

    Tiên gia tuế nguyệt dã vô đa. 

    T ạm d ịch: 

    Vài nướ c trôi qua cán mục r ồi, 

    C ỏ khe hoa núi sát na thôi. 

     Năm trăm năm đó chưa đầ y ván, 

     Ngày tháng nơi tiên khác hẳn đờ i. 

    CỜ  VÂY VỚ I KIM DUNG 

     Những ai thích đọc tiểu thuyết kiếm hiệ p của Kim Dung đều ít nhiều nhớ  đến những bàn cờ  vâyđược Tra tiên sinh đưa vào truyện để thêm khở i sắc, khởi đầu cho nhiều biến cố quan tr ọng trongvõ lâm. Bàn cờ  giữa Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Ðạo vớ i Giác Viễn trên núi Thiếu Lâm là biếncố quan tr ọng nhất trong Ỷ Thiên Ðồ Long Ký trướ c khi thiên hạ chia ra thành bốn đại môn pháiThiếu Lâm, Võ Ðương, Nga Mi, Côn Lôn. Sau đây là sự xuất hiện của Hà Túc Ðạo trong r ừng

    sâu: Người đó tiện tay đưa lên dây đàn gảy thêm vài đoạn ngắ n, ngẩng đầu lên nhìn tr ờ i thở  dài, ngâm: 

    31  Như hà nhất cục thành thiên tải? Ứ ng thị tiên ông hạ tử trì. 

    (如何一局成千載?應是仙翁下子遲) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    31/42

     

    V ỗ  kiếm dương mi lòng trĩu nặng, 

     Nước trong đá trắ ng nỡ  lìa nhau.? 32 

    Thế  gian này nế u không có k ẻ tri âm, dù sống đế n nghìn tuổ i, phỏng có ích gì? 

     Nói đến đây, đột nhiên người đó rút ra từ  đáy chiếc đàn một thanh trườ ng kiế m, ánh xanhlấ  p lánh, chiế u ra trong r ừng. Quách Tương nghĩ thầm: “Nguyên lai người này văn võtoàn tài, không biế t kiế m pháp của y ra sao”. 

    Chỉ  thấ  y y chậm rãi đi tới bãi đấ t tr ống trướ c một cây cổ  tùng, mũi kiế m chỉ  xuống đấ t,gạch t ớ i gạch lui, hế t vạch này t ớ i vạch khác. Quách Tương lấ  y làm lạ: “Trên thế  gian cóloại kiế m pháp k  ỳ quái đế n thế  sao? Chẳ ng lẽ  chỉ  tr ỏ kiế m xuống đấ t vạch một hồi, có thể  khắc địch chế  thắng? Ngườ i này quả thật quái d ị không thể  nào đo lường đượ c.” 

    Y vạch một hồi, thấ  y gạch ngang mườ i chín nét, r ồi đổ i qua gạch d ọc, t ấ t cả cũng mườ ichín nét. Kiếm chiêu trước sau không thay đổ i, dù d ọc hay ngang cũng chỉ   thẳng băng  

    như chữ   nhất. Quách Tương theo dõi kiế m thế   của y, cũng đưa tay vạch lên đất mườ ichín nét, bỗng dưng bật cười, y đâu có sử  d ụng kiế m pháp quái d ị nào đâu, mà chỉ  dùngkiế m vạch thành một bàn cờ  d ọc ngang mỗ i chiều mườ i chín nét. 

     Người đó vẽ  bàn cờ  xong, dùng mũi kiế m vẽ  t ại góc trái bên trên và góc phải bên dướ imỗi nơi một vòng tròn, lại t ại góc phải bên trên và góc trái bên dướ i mỗi nơi vẽ  một vạchchéo. Quách Tương đã thấ  y y vẽ  đây là một bàn cờ  vây, biết y đang bố  trí tr ận thế  t ại bố ngóc, hình tròn là bên tr ắng, hình chéo là bên đen. Lại thấy y đặt một vòng tròn cách ba ôtrên góc trái, lại cách dướ i hai ô vạch một hình chéo. Ði đến nướ c thứ  mườ i chín, ychố ng kiếm đứng, cúi đầu suy nghĩ, đang phân vân không biế t nên bỏ quân giữ  thế  hay cố  sứ c tranh góc cạnh. 

    Quách Tương nghĩ thầm: “Người này cũng chẳ ng khác gì ta, thật là t ịch mịch, ở  trongnúi hoang gảy đàn, lấy chim chóc làm tri âm; đánh cờ  lại cũng không có đố i thủ , chỉ  t ự  mình đánh vớ i mình.” 

     Người đó suy nghĩ một hồi, quân tr ắng không cách gì lơi ra được, trên góc trái đấ u vớ iquân đen thật k ịch liệt, nhấ t thời chưa tìm ra cách nào hay, từ  bắ c xuố ng nam không thể  nào tranh được phúc địa ở  Trung Nguyên. Quách Tương xem cờ  xuấ t thần, t ừ  t ừ  nhíchlại gần, nhưng vì quân trắ ng lúc bố  cục bị thua một nước, trướ c sau vẫ n bị rơi vào hạ  phong, đến nướ c thứ  hai mươi ba thì gặ p phải liên hồn kiế  p, bên quân tr ắ ng lâm vào thế  nguy, nhưng y vẫ n cố  gắ ng chống đỡ. Người đời thườ ng nói “C ờ  ngồi bài trong”, ý nóingười đứ ng ngồi coi đánh cờ  bao giờ  cũng sáng nước hơn. Quách Tương đánh cờ  cũng

    32 Phủ trườ ng kiếm, nhất dương mi 

    Thanh thủy bạch thạch hà ly ly 

    撫長劍,一揚眉 

    清水白石何離離 

    (Lý Bạch – Phú phong hào sĩ ca) 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    32/42

     

    chỉ  bình bình, nhưng nhìn thấ  y thế  cục nế u bên tr ắng còn đánh giằ ng dai không khỏi toànquân bị mấ t, nên buột miệng nói: 

    -  Sao không bỏ Trung Nguyên đi để  lấ  y Tây V ự c? 

     Ngườ i nọ giật mình, thấ  y trên bàn cờ  phía tây còn một chỗ  tr ố ng lớ n, nên lợ i d ụng bênkia đang chặn bắt, để   luôn hai quân, chiế m lấ  y chỗ  yế u, tuy bỏ nử a chừng nhưng biế n

    đượ c thành thế  không thắ ng không bại. Người đó được Quách Tương một lờ i nhắ c nhở  ,ngử ng mặt lên tr ời cườ i một hồi dài, luôn mồm: “Hay lắ m, hay lắ m”. Nói r ồi hạ  luônmấ  y quân. Y chợt nghĩ ra có người đang ở  bên cạnh, nên ném trườ ng kiế m xuống đấ t,quay lại nói: 

    -  V ị cao nhân nào đó đã chỉ  d ạ y, t ại hạ thật là cảm kích. 

     Nói r ồi hướ ng về   phía Quách Tương đang ẩ n náu vái chào một cái. 

    Kim Dung: Ỷ  Thiên Ðồ Long Ký , chương 1 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)

     Nếu chúng ta để ý k ỹ, bàn cờ  đầu tiên của Hà Túc Ðạo đã phần nào hình dung đượ c cuộc thế võ

    lâm và lờ i nhắc của Quách Tương “bỏ Trung Nguyên đi để  lấ  y Tây V ự c” có thể đem đến cho HàTúc Ðạo ý niệm hùng cứ nhất phương trên núi Côn Lôn thay vì toan tính ganh đua ở  lục địa.

    Bàn cờ  Hà Túc Ðạo đấu trên chùa Thiếu Lâm là một cuộc tỉ đấu nội lực không tiền khoáng hậu:

     Hà Túc Ðạo không tr ả lờ i, cúi xuố ng nhặt một viên đá sắ c cạnh, đột nhiên vạch ngang,vạch d ọc trên nền đá tại trướ c sân chùa. Chỉ  trong khoảnh khắc, y đã vạch ngang d ọcmỗ i chiều mười chín đườ ng thành một bàn cờ  lớn. Ðường kinh đường vĩ đề u thẳ ng t ắ  p,tưởng như dùng thước mà đo, mỗi nét đề u sâu ngập vào đá khoảng nử a t ấ c. Phiến đá đóvốn đẽ o bằng đá xanh của núi Thiế u Thấ t, cứng như thép, mấy trăm năm qua biế t baongười lai vãng cũng không mòn đi chút nào. Y thuận tay dùng một cục đá vẽ  lên mà vào

    sâu cả t ấ c, nội công như thế  trên đờ i ít thấ  y. Chỉ  thấy y cườ i nói: 

    -  T ỉ  kiế m e r ằng bá đạo, đánh đàn thì không có cách gì mà so tài. Nế uđại hòa thượ ng cảm thấ  y cao hứng, chúng ta đánh vớ i nhau một váncờ  xem sao? 

    Việc y dùng đá vạch thành bàn cờ  quả là một tuyệt k  ỹ  kinh ngườ i, Thiên Minh, Vô S ắ c,Vô Tướ ng và cả đế n Tâm Thiền Ðườ ng thấ t lão ai cũng mặt mày ngơ ngẩ n, thầm sợ  trong lòng. Thiên Minh phương trượ ng biế t r ằ ng nội lự c hồn hậu như thế  trong chùakhông ai bì k ịp, tâm địa ông quang minh lỗ i lạc, đang định mở  miệng chịu thua, bỗ ngnghe tiế ng xích sắ t loảng xoảng kéo lê trên đấ t vọng t ớ i. 

    Chỉ  thấ  y Giác Viễn gánh đôi thùng sắ t lớn đi tới trướ c mặt, theo sau là một thiế uniên cao ráo. Giác Viễ n tay trái vịn lấy mép thùng nướ c, tay phải đơn chưở ng chỉ  lên tr ời hướ ng về  Thiên Minh hành lễ  , nói: 

    -  Theo lệnh lão phương trượ ng cho gọi đế n. 

    Thiên Minh nói: 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    33/42

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    34/42

     

    chỗ  nào lọt ra đượ c. Ðám quân tr ắng đó vốn dĩ còn một nướ c nữa, quân đen lúc nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu như đối phương không rảnh r ỗi để  hạ k  ỳ thì cũng còn cóđườ ng số ng, mà bên tr ắ ng cố  gắ ng vùng vẫy cũng chỉ  ở  một nước đó mà thôi. Thế  nhưnglúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi cờ  chưa từng có ai đi lố i t ự   sát như thế . Quân tr ắ ng chế t r ồi, phe mình coi như tan rã. 

     Ngờ  đâu, chính nướ c cờ  tự sát đó đã mở  đườ ng cho một cục diện mới để bên tr ắng chuyển nguythành an, từ từ lấy lại được phong độ:

    ... Nướ c cờ  đ ó quả  là r ất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy nghĩ tấ t cả nhữ ng thiên biế n vạn hóa của thế  cờ  này, sách giải thuộc nằ m lòng, d ẫu đối phương đinước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta đã nghĩ tớ i. Thế  nhưng Hư Trúc thoạtđầu nhắ m mắt đặt bừ a một quân, t ự  mình giế t chế t một đám quân mình vi phạm phépđánh cờ  r ấ t nặng, dù ngườ i chỉ  hơi biết đánh cờ  cũng không ai lại làm thế . 

    Cái cách đó chẳ ng khác gì t ự  mình giơ kiếm vung đao lên cứ a cổ  mình. Ngờ  đâu sau khi y nhắ m mắt đặt một quân giế t của mình một khố i lớ n r ồi, cục diện lại thấ  y thông t ỏ hơn,bên quân đen tuy có lợ i lớn nhưng quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống đỡ  , không

     phải như trước bó chân bó tay, đượ c chỗ  nọ mấ t chỗ  kia. C ục diện mớ i này Tô Tinh Hàdù có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới đượ c. Ông ta ngạc nhiên, suy nghĩ một lúc lâu,lúc đó mới đi một quân đen. 

    Thì ra khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưở ng uy hiếp, sư bá tổ  cũngkhông lên tiế ng giải vây cho mình, còn đang bàng hồng lo lắ ng, bỗ ng nghe một tiế ng nóinho nhỏ truyề n vào trong tai: 

    -   Ðể  vào bình vị ở  nướ c tam cử u. 

     Hư Trúc chẳ ng cần biết ai là ngườ i chỉ  điểm mình, cũng không cần biết đúng hay sai,cầm ngay quân tr ắng, theo đúng lờ i d ặn hạ vào bình vị tam cử u. Ðến khi Tô Tinh Hà đimột quân đen nữ a r ồi, giọng nói đó lại truyền vào tai Hư Trúc: 

    -   Bình vị nhị bát. 

     Hư Trúc lại đặt một quân tr ắ ng xuống nướ c bình vị nhị bát. Quân cờ  đi rồi, chỉ  nghe Cưu Ma Trí, M ộ Dung Phục, Ðồn Dự  cả bọn đề u ồ  lên một tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu lên,thấ  y mọi ngườ i ai nấ  y t ỏ vẻ ngạc nhiên, đồng thờ i khâm phục đủ biết nước đi của mìnhthật tinh diệu, lại thấ  y vẻ mặt Tô Tinh Hà vừ a mừ ng r ỡ   sung sướng nhưng cũng nóng nả ybồn chồn, đôi lông mày dài không ngớ t nhô lên hụ p xuố ng. 

     Hư Trúc trong bụng khởi nghi: “Sao ông ta đột nhiên lại cao hứ ng thế ? Không lẽ  nướ ccờ  mình đi sai rồi chăng?”. Thế  nhưng lại lậ p t ức nghĩ ngay: “Không cần biết đi đúnghay sai, chỉ  cần mình đi được mười nướ c tr ở  lên, đủ để  biế t r ằng mình cũng có đường đinước bướ c, không phải đế n quấ  y r ố i làm loạn nướ c cờ  , hố i nhục tiên sư của ông ta, lúcđó sẽ  không trách mình đượ c nữ a”. Ðến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữ a, y lại theođúng người nào đó ám trung tương trợ  chỉ  điể m, hạ một quân tr ắng. Hư Trúc một mặt hạ k  ỳ , một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá tổ  bí mật giúp đỡ  mình hay không, nhưngthấ  y Huyề n N ạn thần tình ra chiề u nóng ruột, xem ra không phải, huống chi trướ c sauông ta không mở  miệng nói câu nào. 

  • 8/20/2019 Co Vay - Nguyen Duy Chinh

    35/42

     

     Người đưa tiế ng nói truyề n vào tai y nội lự c phải cự c k  ỳ thâm hậu, hiể n nhiên là “truyề nâm nhậ p mật” dùn g thượ ng thừ a nội công truyề n lờ i nói thẳng vào tai y, ngườ i khác dùcó đứ ng ngay bên cạnh cũng không nghe thấ  y gì cả. 

    Thế  nhưng dù tiế ng nói có nhỏ  t ớ i mự c nào thì miệng vẫ n phải mấp máy, Hư Trúc lénquan sát môi mọi ngườ i, không thấy người nào động đậ y, vậ y mà câu: “Ðể  xuố ng vị trí

    ngũ lục” vẫ n vào tai y thật rõ ràng. Hư Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm: “Dạ y tangồi sư bá tổ  ra thì còn ai nữ a. Những ngườ i khác vớ i mình vô thân vô cố  , việc gì phảigiúp mình? Trong nhữ ng cao thủ ở  đây, chỉ  có mình sư bá t ổ  chưa đánh cờ, còn ai cũngđã thử  qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ  thần công phi phàm, thành ra không mấ  p máymôi vẫ n có thể  “truyề n âm nhậ p mật”, ta không biết đế n bao giờ  mớ i tu luyện được đế nmức đó”. 

    Y có biết đâu ngườ i chỉ  cho y lại chính là thiên hạ đệ nhấ t ác nhân có cái ngoại hiệu ÁcQuán Mãn Doanh Ðồn Diên Khánh. V ừ a r ồi Ðồn Diên Khánh chìm sâu mê mẩ n vàocuộc cờ  , bị Ðinh Xuân Thu thừa cơ dậu đổ  bìm leo, định đẩ  y y vào chỗ  t ẩ u hỏa nhậ p ma,t ự   sát thân vong, cũng may Hư Trúc làm loạn nướ c cờ  mớ i cứ u mạng cho y đượ c. Y thấ  yTô Tinh Hà nặng lờ i trách mắng Hư Trúc, có ý muố n giế t chú tiể u này nên buông lờ i chỉ  điể m, cố   ý giải vây, để   cho nhà sư có dị p thoái lui. Y giỏi về   thuật phúc ngữ  , khi nóikhông cần phải mấ  p máy môi, lại thêm nội công thâm hậu nên biế t cách “truyề n âm nhậ pmật”, tuy bên cạnh có mấ  y cao thủ hạng nhất nhưng vẫ n không ai khám phá ra. 

    Thế  nhưng sau mấy nướ c, cuộc diện lại biế n hóa mãnh liệt, Ðồn Diên Khánh nắ m ngayđượ c cái bí áo của bàn cờ  Trân Lung này. Ðó là bên tr ắ ng phải t ự  giế t một số  quân củamình trước, sau đó nhữ ng chỗ  k  ỳ diệu mớ i liên t ục sinh ra. Trong phép đánh cờ  có nhữ ngnướ c phản phác, đảo thoát ngoa, t ự  mình cố   ý đi vào chỗ  chết để  nhử  cho đối phương ănquân, sau đó sẽ  lật ngượ c thế  cờ  nhưng có chế t nhiề u lắm cũng chỉ  tám chín quân, chứ  đờ i nào lại nhường đế n mấ  y chục quân bao giờ . Phép “t ự  mình giế t mình” quả là trongmôn cờ  vây nghìn năm chưa ai thấ  y, dù cho loại cao thủ đế n mứ c thần thánh cũng không

    ai dám nghĩ đế n một nướ c cờ  như vậy. Ai ai cũng chỉ  nghĩ đế n làm sao thoát khỏi khố ncảnh để  tìm đườ ng số ng, chứ  có ai lại nghĩ đến nước đi vào cử�