dac san tra vinh 2014 1 of 2

100
Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ng2014 trang 1 Giaùp Ngoï

Upload: ben-huynh-with-champions-real-estate-group

Post on 03-Nov-2014

308 views

Category:

Entertainment & Humor


3 download

DESCRIPTION

Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2.

TRANSCRIPT

Page 1: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 1

Giaùp Ngoï

Page 2: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 2

Hội Ái Hữu Trà Vinh nhiệm kỳ 2012-2016

Hội Đồng Điều Hành Hội Trưởng. : Ông Văn Tường Phó H T Ngoại Vụ : Ông Nguyễn Văn Thành

: Ông Từ Phinh One Phó H T Nội Vụ : Ông Nguyễn Văn Vui,

: Ông Thạch Bông Tổng Thư Ký : Anh Dương Việt Văn Phó Tổng Thư Ký : Ô. Nguyễn Văn Nhựt Thủ Quỷ : Ô. Nguyễn Văn Thành Trưởng Ban Liên Lạc : Ô. Ngô Thiết Hùng Trưởng Ban Xã Hội : Ô. Hà Phi Hùng Đặc trách về Phụ Nữ : Bà Bùi T. Hải Đường. Trưởng Ban Thể Thao : Ô. Nguyễn Cao Thượng Trưởng Ban Tài Chánh : Ô. Trương Bạc Xuổl. Trưởng Ban Giáo dục : Ô. Nguyễn Văn Vui Trưởng Ban Y-Tế : Ô. Kiều Trương, Trưởng Ban Trật Tự : Ô. Hà Kim Danh Hỏa đầu Vụ : Ô. Thạch Tạo. Trưởng Ban Văn Nghệ : Ô. Tạ Thành Tiến

: Ô. Trần Sinh Trưởng Ban Báo Chí : Ông Võ Trung Tín Ban Quảng Cáo : Ô. Trương Bạc Xoủl

: Ô. Ngô Văn Thành : Anh Kiên Phi Bằng

Web Master : Ông Ngô Đế : Anh Dương Việt Văn

Hội Đồng Cố Vấn :

Các Cụ Trần Xiều, Hàng Công Thành, Nguyễn Văn Cung, Nguyễn Ánh Nhựt,Võ Trung Tín, Võ Văn Diệu, Tăng Đông Sanh, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Văn Lang. Các Anh Trần Hửu Quang,

Huỳnh Kim Tiến, Trịnh Hảo Tâm, Chị Trần Thị Phụng

Hội Đồng Sáng Lập :

Cụ Trần Xiều, Các Anh Hà Kim Danh, Văn Tường, Huỳnh Kim Tiến, Võ Văn Diệu, Nguyễn Văn Vui, Lâm Vĩnh Hiếu, Nguyễn Văn Thành,

Nguyễn Tấn Tài, Thạch Tạo, Võ Trung Tín.

Đại Diện Các Nơi :

Phần Lan : Ông TRẦN MINH CẢNH Hòa Lan : Chị THÁI KIM NGUYỆT Australia : Ông TRẦN ANH KIỆT Norway : Ông PHẠM QUANG TRỨ Germany : Ông HÀ PHƯỚC THẢO Canada : Ông HUỲNH CÔNG ÂN San Diego : Ông TRẦN TRỌNG LÀNH Los Angeles : Ông NGÔ VĂN THÀNH Florida : Ông TRƯƠNG DƯỜNG Indoo : Ông HỒ VĂN PHONG Texas : Ông KIM HỮU PHƯƠNG Michigan : Chị LÊ THỊ DUNG Kansas : Ông HỒ VĂN MỪNG Georgia : Ông ĐOÀN LÝ ĐÁNG

: Ông LÊ NGỌC ĐIỆP, Oregan : Ông LÝ TUẤN HIỀN Ohio : Ông HUỲNH NGỌC CÔN Connecticut : Ông HUỲNH THÀNH BÁ. Missouri : Ông HỒ VĂN ẨN Newyork : Ông TIÊU NHƠN LẠC. Utah : Ông NGUYỄN V. XUÂN CẢNH.

Page 3: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 3

BAN THỰC HIỆN ĐẶC SAN TRÀ-VINH 2014

XUÂN NHÂM TH ÌN– THÀNH THẬT TRI ÂN Quý Học Giả, Văn Thi Hữu gởi tác phẩm tô điểm cho Đặc San Trà Vinh

SOÁ 14 - Xuân Giáp Ngọ - 2014 Quý Đọc Giả viết thư, điện thoại góp ý kiến và khuyến khích chúng tôi,

Quý Mạnh Thường Quân, Doanh Gia, Thân Chủ , đã và đang ủng hộ Đặc San Trà Vinh

Nhờ sự yểm trợ quý báu của tất cả quý vị trên, chúng tôi mới có đủ phương tiện và giữ vững tinh thần

để hình thành các quyển Đặc San nầy

Tòa soạn: 9242 Bolsa # B Westminster CA 92683 Tel: 714-856-9202

Trang Web: aihuutravinh.com or Travinhhaingoai.com Email: [email protected]

Đặc san Trà-Vinh số 14 được phát hành tại California trong dịp mừng

Xuân Giáp Ngọ do Hội Ái Hữu Trà-Vinh chủ trương với các tiêu chuẩn như sau:

* Đặc san Trà-Vinh chỉ lưu hành trong Hội Ái Hửu Trà-Vinh và không bán ra ngoài.

* Các tác giả chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài viết của mình.

* Những bài không đăng, tòa soạn sẽ không gởi trả lại bản thảo.

* Các bài gởi đăng xin dùng Font Unicode hoặc VNI và gởi về email: [email protected]

* Mỗi tác giả sẽ được chọn đăng hai bài trong mỗi số báo. ngoài ra sẽ dành cho các số tới.

* Tòa soạn sẽ dành ưu tiên cho quý đồng hương mới đến với Hội lần đầu.

* Những bài gởỉ cho Đặc San Trà-Vinh xin đừng gởi các nơi khác đăng trước.

* Tòa soạn dành quyền từ chối những bài vở ngoài chủ trương và đường lối của Hội cũng như văn hoá nước nhà.

* Nếu muốn trích đăng một đoạn hay toàn bài xin liên lạc với tác giả hay tòa soạn và xin đề trích từ Đặc San Trà- Vinh

Page 4: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 4

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014

STT Tựa Bài Tác Giả Trang1 Câu đối TẾT Ban Báo Chí 1

2 Ban Chấp Hành Niên Khóa 2012- 2016 Hội AHTV 2 3 Điều Lệ ĐS Trà Vinh Ban Báo Chí 3

4 Mục Lục ĐSTV 2014 Ban Biên Tập 4 5 Thư Đầu Năm của Hội Trưởng HT Văn Tường 6 6 Sớ Táo Quân Táo Quân Trà Vinh 7 7 Minh Trìết Việt trong Sự Tích Ông Táo NguyễnVũ TuấnAnh 9 8 Năm Ngọ Nói Chuyện Ngựa Lucky Nguyễn 12 9 Bài viết cho ĐSTV Xuân Giáp Ngọ 2014 Dương Chieu Anh 20

10 Bóng đổ thềm xuân ( mấy vần thơ ) Trần Thế Phong 22 11 Người Về ( mấy vần thơ ) Huỳnh Tâm Hoài 22 12 Giả biệt Trà Vinh ( mấy vần thơ ) Lê Võ 22 13 Trở lại Trà Vinh ( mấy vần thơ ) KimChung HoàngVũ 23 14 Gặp Bạn Xứ Người ( mấy vần thơ ) Lâm Thanh 23 15 Dáng Xưa (mấy vần thơ) Lâm Thanh 23 16 Hội Ái Hữu Trà Vinh Họp Mặt Mùa Hè Lucky Nguyễn 24 17 Học Lóm Bạn Già Thanh Nguyễn 26 18 Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam Vĩnh Trường 33 19 Đòi Nợ Bác Hồ ( 2 ) Huỳnh Khắc Sữ 44 20 Tôi Thương Em (thơ) Anh Ba Phước Hưng 47 21 Sài Gòn Nóng Anh Ba Phước Hưng 48 22 Tình Mẹ Của Rắn Kiên Lý 52 23 Nhớ Tiểu Cần (Thơ) Chu Tiểu Trà 53 24 Nhớ Hòn Thơm (Thơ) Nguyễn Minh Cần 53 25 Tình Việt Miên Hoa Kien Rem Steven 54 26 Có ai về Trà Vinh ? KimChung HoàngVũ 56 27 Chia Sẻ nỗi lòng Chiêu Anh 57 28 Trang Hí Dõm BBC 58 29 Trà Vinh Tân Xuân Hội Ngộ BBC 60 30 Trường Xưa Thầy Cũ Thái Lai 62 31 Một chuyến đi… về. Huệ Tường 66 32 Mai Tôi chết xin mang tôi ra biển (thơ) Hoàng Vũ 73 33 Ô Chữ Tiền Anh Nhi 74 34 Thư Đồng Hương BBC 75 35 Một Thoáng Hoài Niệm Về NS Trúc Phương Uông Thị Hồng Yến 79

Page 5: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 5

36 Sư Tử Nhà Tôi Phạm Chinh Đông 81 37 Ngày Xưa Thân Ái Văn Tường 87 38 Bỏ lại sau lưng (thơ) Lâm Thanh 89 39 Quái Kiệt Trần Văn Trạch Trần Quang Hải 90 40 Một thời Chinh Chiến điêu linh Nguyên Nhung 96 41 Soi Gương - Chân Dung Tự họa Chu Tiểu Trà 100 42 Tô Canh Nắm Mối Huỳnh Tâm Hoài 101 43 Vũ Điệu, Vũ Khúc qua Tiếng Đàn (thơ) Tú Sinh 104 44 Xin trả tôi về tuổi ấu thơ (thơ) KimChung HoàngVũ 104 45 Trường Cũ BS Nguyễn Lưu Viên 105 46 Đố vui - Đối đáp Chiêu Anh 108 47 Tình cuối mùa Thu (thơ) Tructhanhan 110 48 Lịch sử Lập Quốc của Tổ Tiên Việt Nam Vĩnh Thuận 111 49 Về Vườn Huỳnh Tâm Hoài 123 50 Hai Cha Con và Con Lừa Steven Rem Kiên 127 51 Muộn Phiền - Trái Tim Hoảng Hốt (thơ) Truc Thanh An 128 52 Bếp Nhà Ta Nấu: Bánh Xèo Món ăn dân dã Ông Xã Năm 129 53 Thư Cho Một Bác Sĩ Trẻ - Tom Dooley Từ Văn Thọ (dịch) 133 54 Anh nhớ về thăm Em Hoàng Yến 140 55 Dưới Chân Núi Tuyết (Du ký) Tiền Vĩnh Lạc 141 56 Cô Bán Hàng Bông - Hương Tình Phụ (Vọng Cổ) Trương Thái Hòa 150 57 Tản Mạn Về Ngựa Tiền Lạc Quan 152 58 Hạt CHIA, thức ăn qúi giá trong tương lai BS Trường Xuân 158 59 Cô gái quá giang trong đêm mồng một Tết Phạm Tín An Ninh 163 60 Hai Người Bạn TCN 171 61 Thi Nhân và Vận Nước (thơ) Phương Nam 177 62 Chặng Cuối Con Đường đấu tranh (thơ) Phương Nam 177 63 Đồng Hương Trà Vinh Quy Tiên trong năm 2013 Hội AHTV 178 64 Danh Sách Đồng Hương Trà Vinh TTK 179 65 Báo cáo Tài Chánh 2013 Ban Tài Chánh 187 66 Hoa Kỳ Phát Hành giấy bạc $100 BTC 189 67 Trang Quảng Cáo BBC 190 68 Ban Biên Tập BBC 199

Page 6: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 6

Kính gởi quý đồng hương hội viên Trà Vinh thân mến

Thêm một mùa Xuân ấm áp nữa đền với Hội Trà Vinh chúng ta. Xuân mang niềm tin mới, Xuân giúp lòng người dễ dàng lãng quên tất cả những nhọc nhằn , phiền muộn của tháng ngày qua để thay vào đó là sự chào đón những mong đợi, những hy vọng một đời tươi sáng huy hoàng rực rỡ hơn.

Trong niềm ước muốn tốt lành nầy, người của Hội chúng ta cùng nhau đến gặp gỡ trong ngày Tân Xuân Hội Ngộ để cùng chia sẻ, cùng tâm tình và chung vui theo tập tục ngày Tết . Năm nay, buổi tiệc nầy được tổ chức sớm hơn hằng năm nên không khí ngày Tết còn rộn rã khác hẳn mọi năm trước tổ chức muộn màn nên hơi tẻ nhạt. Hôm nay, đối với thiếu nhi thì có lì xì, pháo nổ, múa lân; người cao niên thì có lễ chúc thọ; nghi thức thì có nhang đèn tưởng nhớ tiền nhân, và tất cả mọi người thì một bửa ăn thịnh soạn cùng thưởng thức văn nghệ ca hát bên bạn hè hay người thân yêu.

Xuân đi, xuân đến nào ai biết Thắp nén hương lòng, ta có Xuân

Vui Xuân tha hương, làm sao khỏi chạnh nhớ những mùa Xuân tại quê nhà trước 1975. Nhớ lắm vườn đào bên kia cầu Long Bình, cũng làm sao quên mùng một, mùng hai, mùng ba, ban ngày hay ban tối, thường hay tạt qua đầu chợ đặt vài tụ bầu cua cá cọp lấy hên đầu năm. Rồi lại nhớ đèo cả gia đình đi lễ chùa xin xâm, hái lộc …nhớ gương mặt mọi người ngày ấy , ngây thơ , non choẹt, dễ thương làm sao. Lúc đó mới chạc ngoài 30, giờ thì thất thập rồi. Nghĩ mình, rồi nghĩ tâm trạng của các bạn ta, rồi đồng hương xa gần, tất cả có một mẫu số chung gần giống nhau. Lòng nhũ lòng, núm níu ngày vui bên nhau được chừng nào hay chừng ấy, đấy là đáp số về sự hiện hữu của Hội Trà Vinh đến năm thứ mười bốn nầy.

Đâu Xuân, thay mặt Anh Chị Em Cô Chú Bác trong nhóm chủ trương chắt mót chút tâm tình trãi lòng qua trang giấy tò bày cho vui và nhân tiện thân tình kính chúc toàn thề quý vị năm mới thành tựu như ước muốn.

CA, ngày 21 tháng 10 năm 2013 Hội Trưởng Văn Tường

Page 7: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 7

Báo cáo của Táo Trà Vinh

Khải tấu NgọcHoàng Quý Tỵ sang trang Giáp Ngọ trở về Thần Táo Ca Li Đến từ vùng đất Lít Tô Sài Gòn Tục lệ hằng năm Đến ngày hăm ba Của tháng chạp ta Về chầu Thánh Đế Kể chuyện trần thế Trong năm Quý Ty Của Hội Ái Hữu Đồnghương TràVinh Trước hết Táo đây Cúi đầu kính chúc HoàngThượng vạnan Sang năm Giáp Ngọ Mọi điều như ý Sức khỏe dồi dào Tuổi cao đức trọng. Muôn tâu Thánh Hoàng Tại nước Hoa Kỳ Ái hữu Trà Vinh Thành lập đến nay Là năm mười bốn Nhân sự điều hành Cũng người năm cũ Văn phòng trụ sở Cũng chẳng đổi thay Trụ trì tại phố Sài Gòn Bôn Sa Đồng hương ở xa Khi đi du lịch Thường hay ghé Hội Tâm tình thăm hỏi Kẻ mất người còn Tung tích nơi đâu

Hội mà biết được Thì rất sẵn sàng Phổ biến tin tức Để mà liên lạc. Còn như may mắn Gặp dịp Picnic Hè Trungtuần tháng bảy Hay là Tết nhứt Gần ngày Tân Xuân Thì là tha hồ Vui ơi là vui Cố nhân hội ngộ Tình cũ, nghĩa xưa Tuông trào lai láng Tiếng nói tiếng cười Mừng mừng tủi tủi Nhứt là tình cũ Không rũ mà gặp Giống truyện Phan Khôi Hai bốn năm xưa Một đêm vừa gió… ThánhHoàng đậpbàn Lạc đề lạc đề Thần Táo xin lỗi Để Thần vào đề Kính bẫm Thánh Hoàng Trong năm vừa qua Chuyện nhà chuyện nước Lắm sự đổi thay Ông già Tổng Thống Đưa ra luật mới Tên gọi Mỹ quốc Ô ba ma ke Bắt buộc mọi người Phải mua bảo hiểm Giống như xe hơi Bất tuân thì phạt

Dân Chủ làm vậy CộngHòa không chịu Đôi bên giằng co Chánh phủ liên bang Đóng cửa nhiều ngày Vì thiếu ngân sách Theo dõi nhức đầu Chuyệnngười nhưvậy Chuyện Trời rối hơn Ở biển Ca Li Tự dưng nổi lên Hai xác Oarfish Ở San Diego Truyềnthông loanbáo Dấu hiệu sóng thần Bà con lo lắng Cầu cho tai qua Xin ơn Thánh Hoàng Ra tay cứu giúp Tránh nạn thiên tai Để mà vui sống Vòng quanh thế sự Trung Đông sôi sục Do Thái Palestin Chửi nhau chí choé. I-Răng vênh váo Cà khịa khoe khoang Có lò nguyên tử Thế giới làm dữ Do Thái đòi bom Xóm làng rún động… Si Ri nổi sóng Bởi lủ độc tài Truyền ngôi cai trị Dân chúng nổi loạn, Kêu cứu hoàn cầu Nhào vô giải quyết Assad đang lo Tìm đường bôn tẩu. Nhin sang Châu Á

Bé Kim Chính Ân Háo ăn thích ngủ Đã làm lảnh tụ Quậy phá lung tung Xómgiềng than phiền Tìm phương đối phó Tàu Phù làm khó Huênhhoang khoehàng Vũ khí cà tàng Mẫu hạm không gian Chứngtỏ lòng tham Loè bịp thiên hạ. Cònchuyện Việt Nam Bà con hải ngoại Cùng người trong nước Yêu nước thương nòi Biểu tình phản đối Phong trào lớn dậy Cùng khắp mọi nơi Vì nổi bất bình Di sản tiền nhân Bao đời gầy dựng Từ khi lập quốc Cho đến sau nầy Lãnh thố vẹn tròn Thế mà Việt gian Cọng sản vô tâm Vì tiền vì chức Âm mưu đen tối Nhượng đất bán biển Tàukhựa bànhtrướng Lấn chiếm nhiều nơi Hoàng Sa, Trường Sa Việt Nam Cộng Hòa Đâu có để mất Vậy mà hôm nay Chủ quyền dân tộc Trong tay ngoại bang Kính bẩm Thượng hoàng

Page 8: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 8

Rộng đường suy xét ! Nhân dịp Tết nầy Thầy Vui tổ chức Ngày Tết Con Ngựa Tại Emerald Bay Ba con lân múa Có xanh đỏ vàng Con nít khoái lắm Người lớn cũng vui Mấy cô móc ví Lấy phong bao đỏ Trao tặng ông Địa Gọi là lấy hên Chúng nó vái lạy Nhảy múa lung tung Trống đánh thùng thùng Xua tan điềm gỡ Các cụ cao niên Năm nầy đông quá Hàng tám, hàng chin Ngồi thành nhiều dãy Phúc đức hội ta Cụ cố Trần Xiều Và Bác Huỳnh Lang Cùng Dì Nguyễn Tín Thêm nhiều vị nữa Thần nhớ không hết Tất cả đều thọ Lên tới la phông Nghĩa là trăm tuổi Chắc là tuổi hạc Hay là tuổi rùa Hoặc là tuổi rắn Lột da sống đời Lâu như Bành Tổ… Nói về Hè qua Anh Thành sắp xếp Họp nhau park cũ Euclid / Warner Bà con dễ tìm Năm nầy nhộn nhịp Già trẻ bé lớn Hú nhau gặp gỡ Đông đảo vô cùng Và sự ủng hộ Rất là nhiệt tình

Hy vọng năm tới Tinh thần sốt sắng Vẫn giữ như vầy Chắc rằng sẽ có Nhiều chương trình hay Tăngcường khuyếnhọc Giải thưởng đố vui Địa danh tỉnh nhà Sẽ phát triển hơn Đề thi song ngữ Cụ Vui soạn ra Thật là thích hợp Học sinh hải ngoại Biết hai thứ tiếng Chúng rất hoan hô Sáng kiến mới nầy Nhất là lại thêm Trò nào tham dự Cũng được thưởng tiền Gọi là khuyến khích Việc nhớ cội nguồn Quê hương ta đó Thần xin nói nhỏ Nhờ vậy thi đông Không khí rộn ràng Bọn chúng hứa rằng Mùa tới thi nữa Chuẩn bị kỹ càng Thi đua cùng bạn Hậu duệ Trà Vinh Mầm non nước Việt Ngoài ra còn nữa Trò chơi hấp dẫn Đó là nhảy bao Phi Bằng điều động Tu hít đeo cổ Thổi nghe quít quit Thế mà con nít Thật là vui thích Hè nhau kéo đến Ủng hộ trò chơi Tha hồ chụp ảnh Thi sinh té nhào Anh chị mẹ cha Ôm bụng mà cười Còn món khoái khẩu Bà con đem đến

Nhiều kể không xuể Thức ăn thức uống Coi mòi dư dã Nhứt là Hội nhà Hổ trợ ba nồi Nước lèo Thạch Tạo Món ăn nồng cốt Thêm một heo quay Hai trăm chả giò Cộng với hai xửng Bánh mặn Trà Vinh Cùng món pizza Dành cho giới trẻ Dưa hấu, bánh ngọt Thôi thì ê hề Thần kể không xiết Bà con mình nói Kỳ nầy vui thiệt Tụi nghiệp mấy Anh Năm nào cũng gánh Lướt nhìn chạnh lòng Đầu bạc trắng xóa Tay chân gầy guộc Mà khuân đồ đạc Thấy mà cảm thương Cầu trời vái Phật Phù hộ cho họ Mọi việc tốt lành Cũng như kêu gọi Giới trẻ tiếp tay Cùng Cô Chú Bác Để lửa Trà Vinh Ở hải ngoại nầy Mãi mãi vẫn sáng Đây là ý nguyện Cũngcủa nhiều người Nhân đây Thần cũng Xin bẩm cùng Ngài Về Mạnh Thường Quân Của Hội Trà Vinh Hội viên có lòng Mỗi khi góp tiền Gọi là niên liễm Thường thường đưa thêm Nói là ủng hộ Còn cuốn đặc san

Năm nào cũng vậy Tộinghiệp ThànhNgô Vận động Chị Em Là chủ Tiệm Vàng KimQuang, Kim Hoa Golden Jade với City Trangbìa trang trong Để tăng tài chánh Phụ phần in ấn Câu ký nước lọc Phát Precision Văn Bút nhà sách Cùngtrường ViệtNgữ Luật sư Anh Tú Bác sĩ Khải Tiêu Gọi xin quảng cáo Nói OK liền Chúngthần cảm động Chẳng biết nói sao Ngay cả nhà in Ông Côn ấn loát Là rể Trà Vinh Nên giá đặc biệt Báo Xuân đẹp đẻ Mà cũng rẻ tiền Nay xin ThánhHoàng Gia ơn phù trợ Các cơ sở nầy Làm ăn khấm khá Để cho Hội nhà Gọi là biết ơn Chút lòng đáp nghĩa . Chuyệncủa Trà Vinh Của năm con rắn Chấm dứt nơi đây Cúi xin ThánhHoàng Gia ân phê chuẩn Để Thần về lại Nơi chốn dương trần Kịp ngày NguyênĐán Thần xin long trọng Kínhchúc Thánh Hoàng Vạn tuế, vạn tuế…

TÁO TRÀ VINH KHỐI BÁO CHÍ

26-10-2013

Page 9: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 9

MINH TRIẾT VIỆT TRONG SỰ TÍCH ÔNG TÁO

Mỗi khi Tết đến thì nhà nhà Việt Nam theo phong tục lại làm lễ cúng Ông Táo về trời. Đây là một phong tục thuần Việt có từ thời Hùng Vương dựng nước và còn giữ lại trong truyền thống văn hóa Việt đến ngày nay.

Bằng chứng cho điều này là từ thời Hùng vương thứ VI, vua Hùng đã chấm giải nhất cho hoảng tử Lang Liêu là người kế vị và bánh chưng bánh dày do hoàng tử Lang Liêu được đặc biệt dùng cúng tổ tiên trong ngày Tết.

Từ đó, chúng ta dễ dàng suy ra rằng: Lễ Tết Nguyên Đán có từ thế kỷ XV trước CN - tương đương thời vua Bàn Canh của Ân Thương. Từ đó chúng ta dễ dàng đặt vấn đề với lễ cúng Ông Táo về trời liên hệ đến ngày giáp Tết phải là phong tục của người Việt từ thời xa xưa.

Bởi vì, khi nền văn minh Hoa Hạ tiếp quản được nền văn minh ở Nam Dương Tử, đã Hán hóa những giá trị văn hóa Việt trong hơn 1000 năm và tiếp tục duy trì đến bây giờ, ở vùng đất cũ của Văn Lang xưa, khiến không ít người ngộ nhận tục cúng ông Táo của người Hán.

Truyền thuyết cổ xưa nhất về ông Táo còn lưu truyền trong văn hóa Việt như sau:

Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.

Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.

Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi từ nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.

Ngọc Hoàng cảm động trước mối chân tình của cả ba người, (2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái chết trong lửa nóng của họ, ngài cho phép họ được ở bên nhau mãi mãi bèn cho ba người hóa thành "ba đầu rau" hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa.

Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ, phẩm hạnh của con người. Táo Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp.

Tranh dân gian Việt - bản khắc gỗ Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng,

hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình.

Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu của mọi người. Cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể.

Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là "cò bay ngựa chạy") để làm phương tiện cho "Vua Bếp" lên chầu trời.

Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng

Page 10: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 10

xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ, nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ sinh sống.

Càng tiến dần vào Nam thì tục cúng ông Táo về trời có chút it thay đổi. Nhưng lễ cúng Táo Quân ở miền Bắc với một nghi lễ không thể thiếu là Cá Chép là mang tính nguyên thủy hơn cả.

Qua truyền thuyết của dân tộc Việt truyền lại, chúng ta thấy rằng hình ảnh hai ông một bà - tức một Âm hai Dương hoàn toàn trùng khớp với quẻ Ly trong Kinh Dịch.

Quẻ Ly

Vết lõm trên ông đầu rau trong bếp Việt xưa Ba vị Táo quân trong phong tục Việt cũng

phù hợp với thực tế cái bếp xưa của Việt tộc cũng chỉ có ba miếng đất gọi là: Ông Đầu Rau.

Ba ông Đầu rau trong bếp Việt xưa Một nét độc đáo khi tạo ra ba ông đầu rau

để nấu bếp là khi nặn bao giờ người thợ nặn cũng lấy ngón tay ấn nhẹ vào giữa một trong ba ông này, tạo thành một vết lõm tròn. Và ông đầu rau có vết lõm đó bao giờ cũng đặt vào giữa. Bây giờ, bếp ga, bếp dầu ầm ầm. Xưa nhất cũng là cái kiềng ba chân bằng sắt phổ biến ở thành thị. Ông Đầu rau bằng đất dù ở vùng sâu, vùng xa cũng chắc không còn nữa. Huống chi một vết nhấn tròn giữa một ông đầu rau, chắc chẳng ai còn nhớ. Cho nên, điều nầy may ra chỉ còn trong ký ức của những người cao niên, ở một miền quê xa xôi nào đó.

Ý nghĩa của vết lõm này chính là dấu hiệu của tính bao trùm mà tiếng cổ Việt ngày xưa gọi là "Cái'. Tức Táo bà. Quẻ Ly thuộc Dương, nhưng lại ở phía dưới Hà Đồ, nên tính Âm mới bao trùm lên

tất cả. Bởi thế tính Âm mới làm cái trong ba ông Đầu rau. Chính vì vậy, Ly là Trung Nữ.

Trong bức tranh dân gian Việt mà chúng ta thấy ở trên, táo bà ngồi giữa hai ông thì trong quẻ Ly hào Âm cũng đứng giữa. Quẻ Ly thuộc Hỏa nên biểu tượng cho bếp cũng thuộc Hỏa. Biểu tượng trong truyện dân gian "cả ba người cùng chui trong đống lửa" đấy chính là hình tượng của ba ông đầu rau trong bếp mỗi nhà.

Lạc Thư Chu Dịch trong phong tục cúng Táo Quân của người Việt Một hình ảnh gắn liến với lễ Táo Quân chính là con cá chép. Tại sao về trời mà Táo quân lại cưỡi cá chép? Sao không phải là cưỡi chim? Ông cha ta có lầm lẫn gì không? Hoàn toàn không! Khi mà tổ tiên người Việt đã để lại cho hậu thế một nền văn hiến vĩ đại. Con cá chép thuộc hành thủy.

Trong những di sản văn hóa phi vật thể là những bức tranh dân gian Việt chúng ta thấy tranh đàn lợn với một lợn mẹ và năm lợn con. Đây chính là hình tượng của "Thiên Nhất sinh thủy - Địa lục thành chi". Chúng ta cũng thấy hình tượng này trong tranh cá chép làng Đông hồ: Một con cá mẹ với năm con cá con. Cá thuộc hành Thủy, tượng của quẻ Khảm: Và hình tượng Táo quân cưỡi cá chép, chính là biểu tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị tế trong kinh Dịch. Đây là quẻ cuối cùng kết thúc một chu kỳ 64 từ quẻ Dịch. Biểu tượng cho chu kỳ tuần hoàn của tạo hoá trong một năm đã kết thúc và chuyển sang một chu kỳ mới và mọi việc vẫn còn tiếp tục để một năm mới tốt lành. Đó là tinh thần của quẻ Vị Tế.

Tại sao Ông Táo lại về trời lại là ngày 23 tháng Chạp mà không phải là ngày 30? Theo lý học Đông phương đó là ngày Nguyệt Kỵ. Vậy Táo quân chọn đúng ngày này lên trời có sai không?

Tranh Đàn Cá. Thiên nhất sinh thủy. Địa lục thành chi.

Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế.

Biểu tượng Táo Quân (Hỏa) cưỡi trên lưng cá chép (Thủy).

Page 11: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 11

Ngày 23 tháng Chạp, Ông Táo về trời Sách cổ chỉ ghi nhận mùng 5, 14, 23 là

ngày Nguyệt kỵ và không một lời giải thích. Trong truyền thuyết dân gian Việt thì cho rằng “Đó là những ngày vua đi, nên kiêng ra đường”. Đây chính là phép tinh ngày, tính theo tháng. Ngày của sao Ngũ Hoàng nhập trung theo chu kỳ cửu cung. “Vạn vật qui ư thổ” hay nói theo thuyết Âm Dương Ngũ hành thì đây chính là ngày kết thúc chu kỳ của Ngũ Hành vào tháng cuối cùng trong Năm. Kết thúc chu kỳ Ngũ hành vào ngày 23, đồng thời cũng là kết thúc chu kỳ của 64 quẻ Dịch. Hành thổ thuộc trung cung thuộc ngôi Hoàng cực chi phối Ngũ Hành – Theo Lý học Đông phương – thuộc về Hoàng tộc, nên là ngày của Vua Bếp – Táo Quân về trời.

Y phục của Táo Quân và Táo Quân không mặc quần?

Bức tranh dân gian Việt ở trên vẽ ba vị Táo Quân, trong phong tục còn giữ lại được đến ngày nay trong dân gian Việt thì Táo Quân không mặc quần. Điều này cũng giống như hàng ngàn năm trôi qua, những con rối nước trong văn hóa dân gian Việt được vẽ cài vạt áo bên phải vậy. Vậy Táo Quân không mặc quần có ý nghĩa gì trong truyền thống Việt?

Lịch sử Trung Hoa ghi lại: chính cái quần là của các dân tộc phía Bắc Trung Hoa và không thuộc về y phục Hán cổ. Vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc, Triệu Vũ Vương mới đưa cái quần vào làm y phục chính thức của nước Triệu. Và y phục này thích hợp với các chiến binh trong các cuộc chiến liên miên giữa các quốc gia so với vải quây che phần thân dưới trước đó. Sau này chiếc quần mới phổ biến trong thất Quốc và do các chiến binh mặc và trở thánh y phục của Trung Hoa. Nhưng Người Việt, với tư cách là một nhà nước độc lập ở Nam Dương Tử, tất nhiên không thể tiếp thu một cách nhanh chóng y phục quần của

các dân tộc phi Hán ở Phương Bắc Trung Quốc. Điều này cho thấy rằng: phong tục thờ Táo Quân phải có từ rất lâu, trước cả khi dân tộc Hán bị xâm nhập văn hóa mắc quần của các dân tộc phiá Bắc này và còn giữ đến bây giờ.Và điều này nó phải có trước thời Vua Hùng Vương Thứ VI quyết định dùng bánh chưng bánh dầy vào lễ Tết của dân tộc Việt. Còn nếu như thời Hùng Vương chỉ ra đời vào Thiên Niên kỷ thứ nhất trước CN và Tết Việt Nam là văn hóa Hán là chủ nhân đích thực của văn hóa Đông phương thì ông Táo Việt đã mặc quần như các bức tranh dân gian sáng tác về sau này.

Hình người trên trống Đồng Lạc Việt với mũ có hình đầu rồng (bên phải) và hai dải mũ cao vút.

Qua sự minh chứng và phân tích ở trên, chúng ta cũng nhận thấy rằng: đằng sau một phong tục cổ truyền của dân tộc Việt – tục cúng “Ông Táo về trời” là cả một sự minh triết liên quan chặt chẽ đến nền Lý học Đông phương – mà từ lâu thuộc về nền văn hiến huyền vĩ Việt, một thời huy hoàng ở miến Nam sông Dương Tử. Sở dĩ có sự trùng khớp hợp lý này, chính vì nó là hệ quả của nền minh triết Đông Phương thuộc về nền văn hiến Việt được đưa vào cuộc sống văn hóa Việt qua phong tục cúng đưa “Ông Công, Ông Táo về trời”. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây. Khí chính chiếc mũ Ông Công, Ông Táo được bán đầy ở khắp kẻ chợ, thôn quê ngày nay lại là một hình tượng được cách điệu bằng giấy của chiếc mũ các vua Hùng trên trống đồng Lạc Việt:

Kỳ diệu thay nền văn hiến Việt. Mong rằng các thế hệ sau đừng vội quên đi nguồn cội của thời Hùng Vương dựng nước mở đầu cho tập Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến.

Theo NGUYỄN VŨ TUẤN ANH

Page 12: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 12

Lucky Nguyễn

Thời gian một năm thấm thoát trôi qua mau, năm Quý Tỵ lại phải nhường chổ cho năm mới sắp đến là năm Giáp Ngọ. Ngựa là con vật thứ bảy trong âm lịch của người Á Đông và Việt Nam thường dùng lịch nầy. Ngựa còn được gọi là câu, là mã... Nhưng tựu trung đều chỉ con vật có bốn vó cao rất khỏe, móng đề, thân hình thon gọn có lông tơ nhuyển phủ đầy mình, bờm và đuôi có lông dài bóng mượt, đôi khi cất tiếng hí vang khi reo vui hay báo hiệu sự ngạc nhiên cho đồng loại hay cho chủ nó... Nhân thời điểm đầu năm, chúng tôi xin phép mời quí vị nhín chút thì giờ tìm hiểu thêm về loài ngựa, những câu chuyện liên quan đến loài ngựa khắp đo đây vốn dĩ có ít nhiều ảnh hưởng trong đời sống văn hóa, lịch sử của người Việt chúng ta khắp nơi qua bài viết "Năm Ngọ nói Chuyện Ngựa" hầu góp phần giải trí cho quí đọc giả gần xa trong những ngày đầu xuân.

Ngựa hoang tranh hùng

Lịch sử, xếp loại và sinh hoạt của ngựa Theo các tài liệu của các nhà khảo cổ thì ngựa là loài động vật được thấy xuất hiện trên trái đất nầy rất sớm độ chừng 55 đến 60 triệu năm. Thuở sơ khai, ngựa chỉ có thân mình bằng con cáo hay con dê núi ở trong các rừng hoang ở Châu Âu, Bắc Mỹ Châu, Trung Á và Bắc Phi Châu. Vào thời ấy, ngựa chỉ là loài dộng vật ăn lá cây, chân trước có bốn ngón, chân sau có ba ngón. Trải qua nhiều thế hệ tiến hóa của loài động vật nầy, cơ thể chúng thay đổi thích nghi theo thời gian và môi trường sống từ loài ăn lá cây thành loài chỉ ăn cỏ, rơm... Để thích nghi với những cuộc rược đuổi săn mồi, rình mồi, chạy trốn thú dử và sống trên đồng cỏ. Giống ngựa có một mống đề là còn tồn tại, cơ thể của chúng cũng biến đổi cao hơn để thích hợp với

đời sống trên những đồng cỏ thưa thớt và có răng hàm để ăn cỏ... Con người bắt đầu thuần dưỡng ngựa vào khoảng 4000-4500 trước Công Nguyên. Trước tiên bắt ngựa rừng đem về nuôi để lấy thịt hay dùng chúng trong việc di chuyển, chuyên chở hàng hóa và phụ giúp công việc đồng áng. Người ta tin rằng ngựa đã được nuôi phổ biến ở Âu Châu vào khoảng 3000-2000 trước công nguyên. Sau đó, ngựa được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh, nên có danh từ Ngựa Chiến, nhiều nhất là trong các cuộc chiến tranh thời thượng cổ, người ta biết dùng ngựa trong các cuộc giao chiến.

Hầu hết những con ngựa hiện nay đều là thứ có chân ngón lẻ, chỉ một ngón có móng đề. Ngựa có giác quan rất bén nhạy, răng to, mắt tinh và có tầm nhìn xa rộng, nhưng lại kém xác định về màu sắc; ngựa chỉ phân biệt có bốn màu: đỏ, vàng, xanh lá cây, xanh da trời. Tai ngựa khá to và dài, có thể cử động riêng rẻ dễ dàng để phân biệt từ hướng phát ra tiếng động chính xác. Mũi ngựa phân biệt mùi rất giỏi, nó có thể phân biệt được hơi của kẻ lạ hay người quen trong vòng 100 thước. Toàn thân ngựa phủ lớp lông tơ mịn, lông tơ ở cổ (bờm), sau gáy và đuôi lông rất dài. Màu sắc có thể thuần một màu hay pha trộn các màu với nhau: trắng hồng, vàng, nâu, hoặc những vằn trắng đen hay tím chen lẫn nhau. Đặc biệt ngựa vằn chỉ phát sinh ở vùng Nam Phi Châu.

Ngựa Vằn Phi Châu

Nơi hoang dả, ngựa sống thành đàn và biết bênh vực lẫn nhau khi gặp phải thú dử tấn công, khi phát hiện điều gì lạ, chúng nghểnh cổ cao lên để nghe ngóng, một tai vểnh lên phía trước và tai kia hướng về phía có tiếng động. Khi tức giận thì ngựa nhe răng hàm dưới ra, ngẩng cổ cao lên, hí vang và khi phát hiện điều chi lạ, chúng dựng hai

Page 13: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 13

chân trước lên cao, cất tiếng hí lên từng hồi để báo động cho đồng bọn chú ý để trốn tránh hay nghênh cảng việc săn đuổi của thú dử. Khi ngựa tìm được nguồn nước thì dùng một chân trước gỏ xuống đất rồi cất tiếng hí lên để báo hiệu đồng bọn chạy về hướng có thức ăn hay nguồn nước nó mới vừa khám phá được v.v... Ngựa chạy với vận tốc trung bình 25 đến 40km/giờ trong thời gian dài. Khi phải chạy với vận tốc cao chúng có thể đạt được 65 đến 70km /giờ suốt nhiều giờ.

Ngựa Bạch trên bãi biển

Con ngựa trưởng thành khi được bốn tuổi mới có khả năng giao phối. Ngựa cái mang thai khoảng 335 đến 340 ngày mới đẻ con, ngựa vằn phải mang thai lâu đến 370 đến 375 ngày mới đẻ. Thường thì mỗi lần có mang, ngựa chỉ đẻ một con. Sau khi lọt lòng mẹ độ chừng một tiếng dồng hồ, ngựa con có thể đi lại được và chúng biết ăn cỏ sau một tuần. Ngựa mẹ chỉ cho con bú độ một năm mà thôi. Ngựa con khi được hai tuổi rưởi đến bốn tuổi rưởi thì chúng có thể nhập vào nhóm riêng. Tuổi thọ trung bình của ngựa vào khoảng 18 đến 40 năm, có con cũng sống đến 60 năm.

Liên hệ Ngựa với đời sống con người Từ thời tiền sử xa xưa, con người chỉ biết săn thú lấy thịt, hái trái cây rừng làm thức ăn để nuôi thân, lấy da thú để mặc che ấm lạnh cho thân, làm lều trại trú ẩn chống chọi với thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt. Loài người với trí thông minh còn biết chinh phục thú rừng, bắt thú về nuôi, biến chúng thành gia súc để khiển dụng và cũng là nguồn dự trử lương thực, trong số những con thú được thuần hóa ấy có cả loài ngựa, bên cạnh những chó với mèo hay các thú vật khác... Kể từ khi loài ngựa được sống gần gũi với con người, đến nay có hơn năm hay sáu ngàn năm. Người ta dùng ngựa làm phương tiện chuyên chở cho vua chúa và các nhà quyền quí hoặc người giàu có, và còn dùng ngựa để làm thay con người những công việc nặng

nhọc của đồng áng, trong việc chuyên chở vật gia dụng, đưa tin. Người Ai Cập cổ đại, qua những hình ghi lại trong các kim tự tháp lăng mộ vua chúa từ thời xa xưa, đã biết sử dụng xe ngựa kéo như một dạng chiến xa, trước khi sáng chế ra một yên cương và bàn đạp giúp cho tăng hiệu năng chiến đấu của chiến mã, giữ cho người cưỡi thêm nhanh nhẹn và an toàn hơn. Các hiệp sĩ mặc áo giáp trên lưng ngựa với một thanh kiếm dài hoặc các loại vũ khí đánh xa khác có thể gây nguy hiểm cho đối phương trên chiến trường. Từ việc sáng chế ra yên ngựa để thế ngồi được thoải mái đến việc đóng cái bàn đạp để chân đã giúp cho phép người chiến binh có thể tấn công và bắn tên hiệu quả từ trên lưng ngựa...

Sự ích lợi của loài ngựa được kể đến trên nhiều phương diện, từ lâu người ta biết dùng huyết thanh ngựa để trị bịnh cho con người trong các ngành y khoa: dùng huyết thanh ngựa để tiêm ngừa các bệnh truyền nhiểm. Trong kỷ nghệ và các nhà máy, người ta lấy công xuất của con ngựa làm tiêu chuẩn sản xuất cho sức làm việc cho các máy móc trong kỷ nghệ, như một động cơ có sức hoạt động bằng phân nửa sức ngựa, (1/2 horse power) cho máy xay đồ gia dụng trong nhà bếp, sức kéo của chiếc ô tô đến mấy trăm mã lực (100 horses powers), hay hàng ngàn mã lực của phi cơ phản lực hoặc nhanh hơn nữa với sức phóng cực nhanh của các hỏa tiển mang vật liệu lên các trạm không gian. Thịt ngựa và các thực phẩm chế biến từ thịt ngựa rất được người dân các nước Bắc Âu ưa dùng rất được ưa thích...

Ngựa Cổ Thành Troy

Con ngựa Gổ Thành Troy (Troie) Hơn 3200 năm trước Tây Lịch, vua Agamemnon của xứ Mycenal thống nhất các lân bang trong liên minh của Hy lạp. Chỉ còn xứ Thessaly nằm ngoài vòng kiềm tỏa, nhưng không lâu sau Agamemnon nhờ có chiến tướng Archiller tài ba mà thôn tính được Thessaly nốt và giao cho

Page 14: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 14

em trai Menelaus cai quản Sparta, một hải cảng quan trong của Hy Lạp, thường thông thương qua lại với thành Troy, thành trì phồn thịnh vùng Tiểu Á Tế Á (nay thuộc Turkey). Vua Menelaus có người vợ rất xinh đẹp nổi tiếng là nàng Hellen, một công chúa của vùng Sparta. Ngày nọ, vua Priam trị vì xứ Troy, đề cử hai hoàng tử Hector và Paris sang Sparta đàm phán để cũng cố mối giao hảo với vua Menelaus. Nhưng khi đến nơi, Paris và bà Hellen có tình ý vụng trộm với nhau, trong khi vua Menelaus cùng phái đoàn hai bên đang đàm phán, và đôi tình nhân nầy thề nguyền gắn bó, trong lúc phái đoàn đôi bên đang trao đổi lời chúc tụng cho cuộc thương nghị được thành công... Khi phái đoàn thương thảo xong, Hellen trốn theo phái đoàn về thành Troy sống với Paris. Thế là có mầm móng chiến tranh xảy ra!.. Menelaus quá tức giận, ông phân bua sự việc cùng vua Agamemnon và các vua anh em trong vùng: Diomodus, Ajax, Odysseur và Archiller, và kêu gọi sự giúp đở quân binh đi đánh thành Troy để đòi lại Hellen, vợ của mình về. Cuộc chiến có hơn ngàn chiến thuyền trong vùng biển Egée của Hy Lạp. Menelaus công khai thách thức Paris là nếu ai thua thì Hellen thuộc về kẻ chiến thắng. Nhưng khi Paris bị thương và chết đi mà thành Troy vẫn không trao trả nàng Hellen cho kẻ chiến thắng, vì nàng bây giờ lại phải lòng ông anh của Paris là hoàng tử Hector, nàng ta ung dung sống với người tình mới. Quá uất hận cho cuộc chiến gian khổ gần 10 năm mà không cách nào phá được thành Troy, một hôm, theo kế hoạch của tướng Odysseur, quân Hy Lạp làm một con ngựa bằng gổ thật lớn và kéo đến trước cổng thành Troy tiếp tục chiến đấu. Nhân cơ hội Archiller bị thương, quân Hy lạp giả thua, kéo hết binh thuyền ra khơi về nước. Quân lính thành Troy mở cửa thành thu dọn chiến trường, kéo con ngựa gổ vào thành làm chiến lợi phẩm và khao quân mừng chiến thắng rất trọng thể. Đến giửa đêm, quân Hy Lạp ẩn trong mình ngựa gổ tràn ra giết hại quân lính thành Troy và mở cửa thành cho quân Hy Lạp trở lại ở bên ngoài tràn vào giết hại quân dân thành Troy và bắt hết đàn bà với trẻ con làm nô lệ. Chỉ có dũng sĩ Aeneas dẫn được một ít quân của thành Troy chạy thoát được để rồi thành lập nên đế quốc vửng mạnh ở La Mả sau nầy.

Con ngựa của Alexander Đại Đế Con ngựa nổi danh thế giới là con

Bucephalas của vua Alexander đại đế đến được với

ngài là một ngẩu nhiên hiếm có. Chuyện kể rằng, một người lái buôn Ba Tư dắt con hắc mã đến bán cho vua Philippos II của Macedonia (vua cha của Alexander) nhưng tất cả các tay kỵ mã tài giỏi nhất đều không thể nào điều khiển nổi con ngựa bất kham này.

Bucephalas của vua Alexander đại đế

Hoàng tử Alexander lúc đó hãy còn là cậu bé mới mười hai tuổi, khám phá là con ngựa nầy sợ cái bóng của chính nó, nên cậu ta đi chậm rãi đến bên con ngựa, dịu dàng đưa tay vỗ nhẹ vào cổ nó và khẽ lái con thần mã hướng về phía mặt trời để không thấy bóng của nó và cuối cùng đã thuần hóa được con vật dữ tợn. Sau đó vị vua trẻ và con chiến mã đã cùng nhau tung hoành khắp chiến địa, chinh phục cả quốc gia Ba Tư rộng lớn và dựng lên một đế quốc mới bao la ở Châu Á. Sứ giả Plutarchus đã chứng kiến sự kiện trên cũng kể lại rằng, khi con Bucephalas qua đời tại Ấn Độ, Alexander buồn bã trước cái chết của người bạn thân yêu đã cho lập thành phố Bucephalia để tưởng nhớ nó. Nòi giống của nó được tồn tại mãi đến ngàn năm sau tại các xứ châu Á. Nhà thám hiểm Marco Polo kể rằng, vua Badasan thấy cậu mình có một chuồng ngựa thuộc dòng Bucephalas, xin ông này một con nhưng không được, liền ám sát ông cậu để cướp ngựa. Nhưng bà mợ đã sai người đi giết hết cả bầy ngựa quý đó để trả thù. Vụ này xảy ra vào năm 1280, và từ đó dòng Bucephalas tuyệt diệt . Con Ngựa chiến Á Rập và ngựa chiến Âu Châu Người Á Rập theo Hồi giáo rất trân quí loài ngựa chiến của họ, đối với họ trong cuộc sống

Page 15: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 15

của người Hồi giáo lúc bấy giờ cho là cao sang thì phải ăn ngon mặc đẹp, giàu sang có nhiều người vợ hầu hạ, và ngựa quí mới thì mới đúng là cuộc sống lý tưởng. Người Ả Rập vào thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 11 là thời điểm họ đi chinh phục thế giới bởi họ có những đội kỵ mã tài ba chiếm trọn vùng Trung Đông, Bắc Phi.

Chiến mã Ai Cập

Những con ngựa chiến của họ được lựa chọn rất kỷ, chúng có thể băng qua sa mạc nóng bức mà không cần nghỉ ngơi. Giống ngựa Á Rập nầy có thể chạy liên tục 250 km suốt ngày đêm trong những điều kiện rất khó khăn. Người Á Rập chỉ chọn ngựa cái cho đội kỵ binh của họ, lý do là ngựa cái khi phi nước đại rất êm hơn ngựa đực; ngựa cái không thường ít đòi ăn như ngựa đực, và lý do chọn ngựa cái rất tiện cho việc hành quân truy kích của họ, bởi ngựa cái không gây tiếng động nhiều, tự động hí vang như ngựa đực, rất ưu điểm cho việc phục kích.

Đội quân kỵ mã Hồi giáo nầy có tham vọng chiếm toàn thề Âu Châu, nhưng họ bị chận lại ngay ở trên đất Thổ Nhỉ Kỳ và sự kháng cự quyết liệt của người Tây Ban Nha ở eo biển Gibralta phân chia Phi Châu và Âu Châu bởi biển Địa Trung Hải. Sau cuộc chiến nầy đưa đến sự yếu kém thế lực của thế giới Á Rập trước các đội quân của đế quốc mới nổi lên như đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đế quốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan v.v... với những đội hàng hải có hải quân tân tiến và hùng hậu yễm trợ, đã ngự trị trên đại dương và thuộc địa của họ khắp cả hoàn vũ qua hàng thế kỷ dài.

Ngược lại với sự chọn lựa ngựa của người Á Rập, các chàng Hiệp Sĩ Âu Châu thời Trung cổ lại thích tuyển chọn ngựa đực cho đội kỵ mã của họ vì lý do ngựa đực chạy khỏe hơn, họ chọn những con ngựa nhanh nhẹn khỏe và bền sức để đem đến thành công dễ dàng khi giáp trận mà còn

phải mang những vật dụng nặng nề và cồng kềnh. Ngoài ra, người ta còn dùng ngựa trong việc nặng nhọc cày xới nặng nhọc thay sức người của nông trại và đồng ruộng. Ngựa còn dùng để vận chuyển hàng hóa đi nhiều nơi xa và thông tin liên lạc cho chính quyền rất tiện lợi thời bấy giờ...

Những con Ngựa nổi Tiếng ở Á Châu Nói đến những con ngựa nổi tiếng ở Á Châu, trước hết chúng ta hảy nói về ngựa nổi tiếng ở Trung Hoa, vua Hán Cao Tổ vẫn thường tự phụ là nhờ mười năm sống trên lưng ngựa mà thu phục được giang sơn lập ra nhà Hán. Nhưng cuối đời nhà Hán, quốc gia ly tán, đất nước bị chia làm ba, đó là thời Tam Quốc, nơi Đông Hán, đội kỵ binh của Mã Siêu rất hùng hậu đã gây trở ngại cho Bắc Ngụy không ít. Đối lại, Tào Tháo cũng tổ chức đội kỵ binh mang tên là Hổ Báo Kỵ để đối đầu với kẻ thù của Bắc Ngụy. Con ngựa Đích Lư là loại ngựa tốt, nó đã nhãy qua suối Đàn Khê mà cứu Lưu Bị trong lúc khẩn cấp trong khi bị Thái Mao truy đuổi. Con Xích Thố trong truyện Tam Quốc, nguyên là của Đổng Trác, sau Đổng Trác dùng Xích Thố để chiêu dụ được Lử Bố để cùng ông tạo nên nhiều công lao hiển hách. Sau đó, Tào Tháo giết Lử Bố và cướp đi Xích Thố, rồi đem tặng nó lại cho Quan Vủ hay còn gọi là Quan Vân Trường, khi Quan Vủ chết nó cũng nhịn đói chết theo chủ...

Quan Vũ cởi ngựa Xích Thố cầm Thanh Long Đao

Nói đến ngựa Á châu ta không thể bỏ qua ngựa Mông Cổ, vào thế kỷ 13 sau Thiên Chúa Giáng sinh, vó ngựa Mông Cổ tung hoành khắp Á Châu và tận trời Âu cũng đều khiếp sợ. Ngựa Mông Cổ là giống nhỏ con, chân ngắn, bờm dài và đuôi rậm. Chúng có ưu điểm ít đòi hỏi chăm sóc nhưng lại có sức chịu đựng dai ở sức nóng sa mạc và khí hậu nhiệt đới, đời sống chúng rất thích hợp ở những đồng thảo nguyên, vùng núi cao. Chúng được Thành Các Tư Hản khéo tổ chức và huấn

Page 16: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 16

luyện thành đội binh tinh nhuệ bắn tên trên lưng ngựa, gây khiếp đãm cho nhiều nơi với chiến dịch tốc chiến tốc thắng. Chúng đã chiếm hầu hết các xứ Nam Á, Tây Bá Lợi Á, và tràn sang đến Áo, Hung Gia Lợi ở Âu Châu. Nhưng sau đó, ngay trong nước họ có chính biến mà họ phải rút hết các đạo quân về và thế giới có cơ mai thoát được đại họa Mông Cổ thống trị.

Con Ngựa nổi tiếng Trong Lịch sử Việt Nam Phù Đổng Thiên Vương - (Thánh Giống)

Lịch sử Việt Nam cũng nói đến con ngựa sắt thần kỳ của Phù Đổng Thiên Vương, cao lớn có khả năng phi nhanh, phun lửa và có thể bay lên trời. Theo huyền sử thì vào đời Hùng Vương thứ sáu, có giặc nhà Ân bên Tàu tràn vào xâm lược nước Văn Lang và gây nhiều tội ác. Hùng Vương rất lo và cho sứ giả đi khắp nơi để tìm người tài ra cứu nước. ở Kẻ Dỏng, làng Phù Đổng thuộc bộ Vũ Ninh, tỉnh Bắc Ninh, có cậu bé tên Giống đã lên ba tuổi mà không biết nói, không biết cười. Nghe sứ giả đến loan tin, thì bỗng dưng cất tiếng nói: " Xin Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Bà mẹ vui mừng quá đỗi nên cũng ra mời sứ giả vào. Khi sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ngài về tâu với đức vua đúc cho con ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt và chiếc nón sắt mang đến cho ta để ta đi đánh giặc Ân".

Sứ giả rất ngạc nhiên, vội về lại tâu vua, nhà vua truyền lệnh ngày đêm làm gắp những gì cậu bé dặn. Càng lạ hơn nữa, sau ngày gặp sứ giả, cậu bé ăn rất nhiều và lớn mau như thổi. Hai ông bà làm bao nhiêu cũng không đủ sức lo cho con ăn, thành thử phải chạy nhờ bà con hàng xóm. Nhiều người vui lòng giúp đở ông bà góp gạo thóc nuôi cậu bé vì ai cũng mong chú bé giết được quân giặc để cứu nước.

Giặc tràn đến núi Trâu, thế nước rất nguy. Vừa khi sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt và nón sắt đến. Cậu bé bây giờ là một chàng trai cao lớn, kiểm điểm mỗi thứ đều thấy hài lòng, bèn vươn vai một cái thành một tráng sĩ mình cao lớn dị thường, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc áo giáp, đội nón sắt, nhảy lên ngựa sắt, vổ vào mong ngựa hí dài mấy tiếng vang vội, cằm roi sắt mà thúc ngựa ra đi. Trên chiến trận, ngựa phun lửa phi thẳng vào địch quân, thiêu đốt cháy quân giặc chết như rạ. Giặc tan vở, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau mả chạy thoát thân. Dẹp giặc xong, tráng sĩ lên đỉnh núi Sóc Sơn mà bay về trời. Hùng Vương nhớ ơn Ngài bèn cho lập đền thờ ở Kẻ Dỏng thuộc làng Phù Đổng và phong cho Ngài là Phù Đổng Thiên Vương. Trong dân chúng

vẫn gọi tên Ngài là Thánh Giống. Hàng năm đến tháng tư âm lịch, dân chúng Bắc Ninh trẩy hội để nhớ ơn Ngài suốt một tháng. Đến đời vua Lý Thái Tổ phong cho Ngài là "Xung Kích Thiên Vương". Trong thời Việt Nam Cộng Hòa, ngài được tôn vinh là "Thánh Tổ" của ngành Thiết Kỵ Binh trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hiện nay tôn tượng của Ngài vẫn còn đứng vững ở ngả sáu giửa Sài Gòn cho người người ngưởng mộ.

Tượng Phù Đổng Thiên Vương

Kỵ Binh và thế trận Liên Hoàn Giáp Mã Trong binh pháp phương Đông việc sử

dụng chiến mã và đánh trận bằng kỵ binh chủ yếu dựa vào sự linh động của đội ngựa chiến với làm phương châm đánh nhanh, rút lui nhanh và tận dụng yếu tố bất ngờ. Dùng ngựa để chiến đấu (Mã Chiến) thì có thể phát huy thế mạnh ở đồng bằng, đường giao thông thuận lợi, nhiều ngả đi và đến có thể dùng cùng một lúc, và rất kỵ chốn nê địa, tức địa hình khó khăn, hiểm trở, nhiều đầm lầy. Trong phép dùng mã chiến có phép: “liên hoàn giáp mã”, theo phép đánh này thì người ta cho ngựa mang giáp sắt phủ kín hết thân mình, chỉ hở có đôi mắt, và cứ từ 5 đến 10 giáp mã thì sắp thành một hàng chữ “Nhất”. Trước ức ngựa có mang một đòn cản gắn những cây đại đao nhọn hoắt. Trên lưng mỗi con ngựa có một chiến binh mặc áo giáp, cầm đao hoặc cầm thương, mang cung tên. Khi xông trận thì cho ngựa xông càn vào quân địch khiến cho đối phương hoảng loạn, tan rã hàng ngũ, thế rồi dùng đao thương, cung tên tiêu diệt địch. Phép “liên hoàn giáp mã” chủ yếu uy hiếp tinh thần địch,

Page 17: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 17

đánh chọc thủng phòng tuyến quân thù và càn quét đối phương, công dụng như thiết giáp xa thời nay.

Tuy nhiên phép “liên hoàn giáp mã” cũng có chỗ yếu của nó, là sự xoay chuyển khó khăn, di động chậm chạp. Để phá thế trận “liên hoàn giáp mã” phải dùng câu liêm thương phối hợp với đại pháo lớn làm cho ngựa phải kinh hoàng phóng chạy rối lên, khi ấy chỉ dùng câu liêm thương móc vào chân ngựa. Cũng có thể dùng phép “lăn khiên” mà lăn tròn dưới mặt đất rồi dùng mã tấu chặt đứt chân ngựa, khi một con ngựa trong "liên hoàn giáp mã" bị liệt thì cả toán của phép nầy trở nên chậm chạp vô hiệu năng, chỉ trừ khi gở bỏ con ngựa bị liệt, nhưng rất hiếm khi làm được việc nầy trên trận chiến gắp rút...

Vó Ngựa Mông Cổ Đại Việt và tượng Ngựa đá Vào thế kỷ 13 sau Công nguyên vó ngựa

quân Mông Cổ gieo nỗi khiếp sợ cho con người từ Á sang Âu. Quân xâm lược Mông Cổ đã tung hoành khắp nơi. Với sức mạnh quân xâm lược Mông Cổ đã bành trướng xuống phía Nam, ngựa Mông Cổ có thể nói là phương tiện duy nhất để di chuyển đại quân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu thì cỏ không mộc được, đến đâu thì bình địa đến đó, máu chảy đầu rơi, xơ xác.

Song đoàn quân Mông Cổ ba lần đưa quân xuống phương Nam xâm lăng nước Đại Việt của chúng ta thì cả ba lần chúng đều chuốc lấy thảm bại ê chề! Nguyên nhân chiến thắng vẻ vang ấy nhờ sự đoàn kết của quân dân ta một lòng quyết đẩy lui kẻ thù và nhờ tài dùng binh thao lược của Đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng toàn thể các tướng sĩ quyết liều chết đánh đuổi quân xâm lược. Một phần đem đến thất bại cho chúng là do địa hình ở nước ta không thuận lợi để phát huy sở trường tác chiến của kỵ binh Mông Cổ, bởi đất nước ta có nhiều sông rạch nên đoàn kỵ binh của chúng không phát triển khả năng được như trên các đồng cỏ hay sa mạc.

Trong lịch sử Việt Nam còn đề cập đến chuyện tượng những con ngựa đá nơi Lăng Miếu Tiên Triều đời nhà Trần, chỉ riêng đời vua Trần Nhân Tôn không thôi, phải hai lần hứng chịu quân Mông xâm lược, nên trong lúc tế lễ ở Lăng Miếu Tiên Triều, sau khi chiến thắng quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông nhìn thấy các tượng ngựa đá dính đầy cát bụi vì trong thời chiến bị bỏ hoang phế, trước cảnh điêu tàn ấy vua liền cảm khái hai câu thơ bằng chữ Hán:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện Kim âu

(Xã tắc hai phen bon ngựa đá Non sông nghìn thuở vững âu vàng)

Về phía quân Đại Việt, trong chiến tranh với Mông Cổ, bên cạnh voi, tàu thuyền thì ngựa cũng được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là dành cho các viên tướng dùng kỵ binh tử chiến với địch: viên tướng Lê Phụ Trần trong một trận kịch chiến đã một mình một ngựa lao vào trận địa kỵ binh của quân Mông Cổ và sắc mặt vẫn thản nhiên như không. Tướng Vũ Vương Hiến (Trần Quốc Hiến) dùng kỵ binh truy kích và bắn chết tướng A Bát Xích của Mông Cổ.

Kỵ Binh nhà Trần tấn công quân Nguyên Mông

Nguyễn Bỉnh Khiêm và bia ngựa Đá "Bao giờ ngựa đá qua sông Thì dân Vĩnh Lại quận công suốt làng".

Có ý nghỉa là:"Khi nào ngựa đá qua sông được, dân làng Vĩnh Lại được phong Hầu". Câu chuyện làng Vĩnh Lại là nơi quê nhà của cụ Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm, dân chúng trong làng thấy thiên hạ đồn ông là người tiên tri giỏi và biết trước mọi việc xảy ra, nên yêu cầu ông đoán cho biết tương lai của dân chúng ở làng Vĩnh Lại một quẻ. Trạng Trình nhiều lần chỉ nói xa nói gần từ chối mà không nói rỏ, viện cớ là "thiên cơ bất khả lậu". Nhiều người không hài lòng, cho rằng ông có thâm ý. Thấy vậy, ông liền cho đắp một con ngựa đá đặt ở bờ sông làng Vĩnh Lại và cho khắc hai câu trên vào bia của ngựa đá.

"Bao giờ ngựa đá qua sông Thì dân Vĩnh Lại quận công suốt làng".

Lâu ngày, đất cát bồi bên kia sông giống y như con ngựa sang sông thật. Dân trong làng Vĩnh Lại nhớ lại hai câu sấm truyền khi thấy như con ngựa sang sông, họ rất vui mừng, cho rằng hồng phúc trời phú cho dân làng đã đến và ngày đêm mong đợi sự ứng nghiệm. Về sau, khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn, trốn qua làng Vĩnh Lại, dân chúng đều một lòng ủng hộ nhà vua chống lại Tây Sơn. Vua Lê sẳn ấn tín đem theo bên mình, liền phong tước Hầu cho người cầm đầu làng. Tin ấy truyền lan ra,

Page 18: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 18

dân chúng tranh nhau xin nhà vua phong tước Hầu cho mình. Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc có hại cho mình, nhà vua liền phong tước Hầu cho cả dân làng. Vua Lê Chiêu Thống trú ngụ ở Vĩnh Lại một thời gian, nhận thấy không thể nhờ dân mà khôi phục nghiệp cả được, liền bỏ trốn sang Tàu để cầu viện với vua nhà Thanh. Tướng Tây Sơn là Vủ Văn Nhậm nghe tin vua Lê trốn tại làng Vĩnh Lại, nhưng chậm mất. Biết được dân làng Vĩnh Lại chống Tây Sơn nên được phong tước Hầu, liền hạ lệnh cho binh sỉ giết hại dân làng rất nhiều. Dân làng Vĩnh Lại vì khát vọng công danh nên chịu thiệt mạng oan uổng.

Những câu thơ văn, thành ngữ, tục ngữ, ca dao về ngựa Chuyện "Con Ngựa Khôn Ngoan":Trong sách "Quốc Văn Giáo Khoa Thư" lớp Sơ Đẳng có câu chuyện "Con Ngựa Khôn Ngoan" như sau: "Một người Mường cứ mỗi tháng hai phiên đem các đồ vật ra chợ bán. Người ấy cưỡi ngựa, hai bên mình con ngựa đeo hai cái giỏ đựng hàng, đàng trước cổ đeo một cái bị, hể bán được đồng tiền nào lại bỏ ngay vào đấy. Một hôm, người Mường qua nhà kia, bán được ít mộc nhĩ (nắm mèo) rồi nhảy lên mình ngựa đi, nhưng thúc thế nào con ngựa cũng không đi. Người ấy lại phải nhảy xuống, để xem con ngựa làm sao. Khi nhìn đến cái bị thì sực nhớ ngay rằng bán mộc nhĩ quên chưa lấy tiền. Chắc con ngựa biết thế vì nó chưa nghe thấy tiếng tiền bạc bỏ vào bị. Quả nhiên, lúc đòi tiền bỏ vào bị rồi, thì con ngựa lại rảo bước đi ngay. Thế nó có khôn ngoan không?" Thành ngữ "Việt Điểu Sào Nam Chi, Hồ Mã Tê Phong Bắc" do điển tích: Ngày xưa ở phía Nam nước Tàu có nước Việt (không phài nước Việt Nam ngày nay) sinh sản một loài chim mà dù bay đi đến xứ nào cũng chỉ chọn cành cây phía Nam mà làm tổ (vì nước Việt ở phương Nam). Trong khi đó ở phía Bắc sông Hoàng Hà có nước Hồ sinh sản một loài ngựa mỗi khi nghe gió thổi từ phương Bắc thì cất tiếng hí vang (vì nước Hồ từ phương Bắc) từ đó phát

sinh thành ngữ: "Việt Điểu Sào Nam Chi, Hồ Mã Tê Phong Bắc" để chỉ tấm lòng tưởng nhớ đến quê hương xứ sở, lòng thương yêu đất nước.

Thành ngữ về Da Ngựa Bọc Thây Ngày xưa, mỗi khi xuất binh ra trận, các tướng sĩ thường làm lễ xuất quân tế cờ, thề nguyền đem thân nầy hy sinh cho đất nước với thành ngữ "Da Ngựa Bọc Thây" để tỏ lòng trung thành với vua, trung thành với đất nước, và để tăng khí thế cho đoàn quân ra trận, tướng lảnh đều thề nguyện "mã đáo thành công" hay lấy "da ngựa bọc thây" một khi đã chết.

Trong "Chinh Phụ Ngâm Khúc", bà Đoàn Thị Điểm có viết: "Chí làm trai dậm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao" cũng không ngoài mục đích nói lên chí khí của người trai sẳn sàng lên đường làm phận sự, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, dù cho tấm thân nầy có phải gian truân khổ cực hay phải hy sinh tấm thân nầy để báo đáp ơn vua và nợ nước đã cưu mang cho họ. Thẳng ruột ngựa: thành ngữ chỉ những người có tánh hay bộc trực, có sao nói vậy, không biết lời kiểu cách văn hoa. Thành ngữ "Ngựa quen đường củ" ám chỉ những người có khuyết điểm lỗi lầm mà không sửa được, không từ bỏ được vẫn chứng nào tật ấy, những người ghiền cờ bạc; biết cờ bạc xấu mà vẫn cứ theo cờ bạc để đi đến tán gia bại sản...

Ngựa chàng đi trước võng nàng theo sau: tục lệ của vua ban thưởng cho các quan tân trạng nguyên về làng, người đổ đầu khóa thi tiến sĩ tại kinh đô, có lính hầu với cờ xí đi trước, quan tân trạng nguyên ngồi trên lưng ngựa có người cầm lộng che nắng che gió, đi theo là sau võng của quan trạng phu nhân, hay là võng của người con gái mới được vua tác hợp thí cho tân quan trạng, và đi theo sau cùng là các lính hầu phục dịch, mang những hành lý của quan trạng nguyên; ngày nay, hình ảnh nầy chỉ còn in trên các thiệp mời đám cưới mà thôi.

Ngoài ra các cụ ngày xưa thường nói "Trường Đồ Tri Mã Lực" thì có nghỉa là "Có đi đường xa mới biết là ngựa tốt, ngựa giỏi". Ngựa non háo đá là thành ngữ mà các cụ thưởng ám chỉ cho những người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm thường hay huênh hoang phát biểu chống đối đủ thứ, nhưng thực chất chưa có đáng giá trong lời nói hay việc làm của họ không hiệu quả. Còn rất nhiều thành ngữ nói về ngựa, nhưng phần lớn những lời

Page 19: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 19

không đẹp mấy, có ác cảm với quí vị phái nữ, chúng tôi xin miển nói ra. Lời Bàn về tiên đoán của Trạng Trình "Mã đề dương cước anh hùng tận" Nếu năm rồi đất nước được yên ổn vì câu "Long vỷ xà đầu khởi chiến tranh" chưa ứng nghiệm rỏ, và cũng không thấy "Can qua xứ xứ khởi đao binh" trực tiếp nơi biển Đông. Nhưng cái họa xăm lăng từ phương Bắc không có phút giây nào ngưng với đất nước ta, khi ẩn khi hiện, họa xăm lăng bắc phương chúng bao giờ có buôn tha đâu!.. Chúng xích gần với chúng ta, chúng không cần động binh đao vì tất cả mọi thứ đều nằm trong tầm tay của chúng, vì bọn bán nước biết nghe lời chúng. Nhìn chung thì hai câu" Long vỳ xà đầu khởi chiến tranh, Can qua xứ xứ khởi đao binh" vẩn có thể đúng với cuộc diện thế giới ở Trung Đông, ở Phi Châu: tiếng súng có bao giờ êm ở Syria, Iraq, Yamen, Congo, Kenya. Ở Á Châu thì ngòi nổ của Pakistan, Afghanistan có bao giờ lắng dịu xuống, ngày nào cũng gần trăm người chết do bom tự sát... Rồi thần chiến tranh có bao giờ nghỉ tay, luôn rình rập ở Biển Đông, Việt, Nhật Phi đều luôn ở bị động. Bọn ma đầu tàu khựa, chúng luôn khuấy động với tiềm tàng chuẩn bi cho cuộc chiến có cơ bùng nổ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Lời bàn về bài sấm của Trạng Trình " Mã đề dương cước anh hùng tận" tiên đoán cho năm nay (năm con ngựa) và năm tới nữa chúng ta cần phải cảnh giác cao độ. Chiến tranh có thể nổ ra trong tình huống bất ngờ, hay trong hoàn cảnh không ngờ tới nên mới có "Mã đề Dương cước" đấu đá nhau để cho cảnh "Anh Hùng" lâm cảnh tận số...

Bói quẻ Năm Con Ngựa Những người sinh năm con ngựa thường

có cá tính phóng khoáng, rất cởi mở, thường có quyết định theo trực tính và ít khi có gì trong lòng mà không tìm người để bày tỏ tâm sự. Gặp việc gì họ cũng thường bắt tay làm ngay, không chần chừ do dự. Nhưng chính sự nhanh nhẹn tháo vác đó dể cho người ta thấy những điểm yếu của người tuổi ngọ vì vội vàng và thiếu kiên nhẫn… Tính cách và tài năng của Tuổi Ngọ

Do cá tính thẳng thắn, nên có chuyện gì người tuổi Ngọ thường hay bộc lộ ngay. Họ không thích những ai tính tình lắm mưu mẹo. Họ chỉ thích sống vui vẻ, lạc quan, và tự do, có chí tiến thủ. Hết mình trong công việc, nhiệt tình thân với mọi người. Họ luôn được nhiều người yêu mến. Nhìn bề ngoài họ có vẻ ung dung tự tại, song bên trong họ lại hay nóng vội, thiếu kiên nhẫn. Hay phán đoán sự việc bằng trực giác, song điều kỳ lạ là trực giác của họ rất ít khi sai. Nghề nghiệp thích hợp

Người tuổi Ngọ không thích hợp với các công việc đơn điệu, trùng lặp, thiếu biến hoá. Nếu phải làm việc một nơi cố định, lặp đi lặp lại, họ sẽ dễ nản lòng, không phát huy được hết tài năng của họ và cảm thấy đó là điều bất hạnh không sao chịu nổi. Cho nên, tốt nhất hãy cho họ làm các công việc mang tính sáng tạo như nghệ thuật, văn hoá, học thuật, tôn giáo, xuất bản, biểu diễn, phục trang... Trong kỷ nghệ, họ là những nhân viên giỏi, chủ xưởng tốt với óc tổ chức và sáng tạo... Tài vận

Do trời phú cho họ cuộc sống lạc quan, năng động, ứng biến nhanh nên người tuổi Ngọ không phải lo lắng nhiều về mặt tài chánh, luôn có người giúp đở khi hoạn nạn, thái độ sống tích cực nên tiền bạc cũng luôn đến với họ. Người cầm tinh con ngựa nếu muốn làm nên nghiệp lớn, cần phải có một quyết sách đúng đắn, đạo đức và ổn định, nếu không mọi cố gắng đều là vô ích. Sức khoẻ

Nhìn chung họ là những người năng động, hoạt bát, sức khoẻ tốt, song dễ vì sơ xuất nhỏ mà mắc những bệnh về đường tiêu hoá. Bản tính ung dung tự tại, nên tâm thần thoải mái, Nên tạo phước thì sẽ được lộc tốt ở tuổi già…

Lời Kết chuyện năm con ngựa Nhân dịp đầu năm, chúng tôi xin cầu nguyện cho khắp nơi thế giới đưọc yên bình, nhà nhà hạnh phúc. Nhất là dân tộc và đất nươc Việt Nam thân yêu được sớm thoát được đại họa cộng sản độc tài luôn hèn với giặc mà ác với dân, để dân Việt chúng ta hiên ngang sánh vai thi tài cùng thế giới trong hòa bình dân chủ, người người sống đúng giá trị đạo đức của tổ tiên lưu truyền, để xứng đáng là cháu con nòi giống Rồng Tiên. Có thế mùa xuân của dân tộc sớm về với quê hương Viết Nam thân yêu. Chúng tôi kính chúc tất cả bà con đồng hương một năm mới phước lộc thọ tràn đầy, nhà nhà yên vui, cháu con đầy nhà vui đón mừng xuân mới.

Page 20: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 20

Lời khai bút

“Mã đáo thành công” chúc bạn hiền Rắn lui Ngựa tới thảy bình yên Cháu con thành đạt nên danh vị Dâu rể thảo hiền trọn phước duyên Du ngoạn gần xa vui cảnh trí An nhàn hôm sớm thú điền viên Tân niên mừng thọ lời khai bút Mai nở đón chào Xuân mãn thiên.

Xuân Giáp Ngọ 2014 Chiêu Anh

Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan

Ngựa Thần Phù Đổng

Ngựa Thần Phù Đổng đã về đây Roi sắt vung lên diệt sói bầy Xua bọn xâm lăng ra khỏi nước, Trừ loài tham nhũng phải kiêng oai Dẹp xong mối loạn yên bờ cõi Giục vó tìm vui thú cỏ cây Bỏ lại công danh hai chữ hảo Sóc Sơn về núi lánh trần ai.

Xuân Giáp Ngọ 2014 Chiêu Anh

Hùng binh

Ngựa Thần Giáp Ngọ xuất hùng binh Quý Tỵ Rắn lui rút ẩn mình Động thẳm độc xà cam tuyệt tích Vùng cao tuấn mã hiển oai linh Vung roi Phù Đổng điều quân ngũ Giục vó Thiên Vương thượng lộ trình Dẹp loạn biên cương lừng chính khí Hồn thiêng Thánh Gióng sức nghê kình.

Xuân Giáp Ngọ 2014 Chiêu Anh

Tôi ở đây ...

Tôi ở đây quê người xứ lạ Đón Tết về không đúng vào Xuân Cùng đồng hương họp mặt chúc mừng Như thường lệ lên chùa lễ Phật.

Đón Giao Thừa gió mưa hiu hắt Ngày đầu năm nắng gắt oi nồng Mưa từng cơn mây cuộn chập chùng Gieo nhung nhớ lòng người xa xứ ...

Gót phong trần trải thân cô lữ Nương xứ người đất khách tha phương Mỗi năm về thầm nhớ cố hương Làng quê cũ ruộng vườn xanh ngát.

Page 21: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 21

Tết ở đây vào hè nắng gắt Không ấm lòng héo hắt tim côi Hướng về quê, thầm gọi “cố hương ôi !” Trong im vắng lời vang không tiếng đáp ...

Bắc Úc, Xuân Giáp Ngọ 2014 Chiêu Anh

Niềm đau

Kỷ niệm ngày 30 tháng 4 ... Tưởng niệm anh linh những Anh hùng Liệt

sĩ vị quốc vong thân đã ngã xuống trên khắp chiến trường lịch sử, trong các trại tù cải tạo và anh linh những thuyền nhân đã bỏ mình trên đường đi tìm lối thoát ...

Tôi đã khóc âm thầm, đêm quạnh quẽ Niềm đau nào bóp nát trái tim tôi Ôi ! Quê hương trong bóng tối đêm dầy Thầm mong đợi ngày mai trời lại sáng !

Hơn sáu mươi năm rời làng quê cũ Rời mái trường, xa thầy bạn thân thương Hai cuộc chiến kéo dài bao tang tóc Nơi xứ người nay là khách tha phương

Ôi ! Tuổi trẻ với biết bao hoài bão Niềm tự hào yêu lý tưởng tự do Còn gì đây ! Ở cõi đời hư ảo Mái đầu xanh sớm nhuộm một màu tro

Bầu nhiệt huyết phí hoài bao sức trẻ Cho ai đây ? Quyền lợi để vì ai ? Tiếng gọi thiêng liêng, đáp lời sông núi Trọn niềm tin cùng sánh bước chen vai

Xếp bút nghiên, Lên đường, đầy ngạo nghễ Một thuở nào vang dội bản hùng ca Yêu Quê hương xả thân vì Tổ quốc Nguyện một lòng xây dựng nước non nhà ...

Mái trường xưa, chuỗi ngày thơ trong sáng Tuổi học trò đầy ắp mộng tương lai Yêu lẽ sống, yêu đời say lý tưởng Học đòi gương Trưng, Triệu lừng oai

Bài vỡ lòng, ngay đầu trang Việt sử Mẹ Âu Cơ sanh bọc trứng trăm con Cha Lạc Long Quân, Rồng Tiên phối hợp Niềm tự hào là con cháu Tiên Long

Ngót tám mươi năm gót giày thống trị Ngàn năm dài : Tàu đô hộ đến Tây Sao cho khỏi nỗi tủi hờn ray rứt Phất cờ lên vùng dậy buổi hôm nay ...

Ba mươi năm trên chiến trường đẫm máu Tàn cuộc rồi nhuộm đỏ cả quê hương Nỗi thảm nào hơn ! Tù đày ngược đãi Không chút tình người, chẳng dạ xót thương !

Mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long dòng dõi Hẳn rất đau lòng tình mẹ trăm con Nửa đã băng rừng, nửa kia vượt biển Và bây giờ tản mác khắp năm châu ...

Vết thương đau mãi âm thầm rỉ máu Nước mắt nào xoa dịu nỗi hờn căm Ruột bỏ ra để rước voi giày mả Lòng dạ nào xin tự hỏi lương tâm

Dỡ trang sử thẹn lòng khi đối bóng Thẹn cùng trăng nghe tiếng gió thở dài Sầu cô lữ chạnh nỗi niềm thao thức Mảnh tình chung Tổ quốc có riêng ai ! ...

Bắc Úc, Thu Mậu Tý, 30/4/2008 Chiêu Anh

Page 22: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 22

Trần Thế Phong

Tàu đi qua chầm chậm Chiều ba mươi một mình Khe gió lòn lành lạnh Phố vắng ga buồn tênh

Tàu đi qua vô tình Ngược xuôi đường hai lối Người về đâu biết hỏi Sợi nắng tàn lung linh

Ba mươi, năm rồi hết Ba mươi năm, rồi qua Đường tàu đi vẫn lạ Heo hút nẻo quê nhà

Gió lùa lên tóc rối Hiên ngoài chiếc lá bay Trái tim vừa muốn hỏi Xuân tịch mịch đêm dài

Chiều ba mươi một mình Thêm một lần thất lạc Hồn quê về nẻo khác Bóng đổ thềm chênh vênh

Trần Thế Phong

Người về-người hát cùng cơn gió Thổi những lời ngơ ngát phố xưa

Cát bụi mù… mấy tần cổ độ Hồn miên mang vô lượng cơn mưa

Người về...từ dạt như cơn sóng Âm hồn xưa đồng vọng những triều dâng

Rong rêu thức giấc dòng phủ động Nắng nhã phương Đông khởi sắc hồng

Người về người hát cùng tiếng dế Tỉnh giấc đời hèn nơi ngỏ hang Bừng vỡ mặt trời cơn khát vọng

Đánh thức cuộc đời những bại vong

Người về-người hát lời luân vọng Ngó lại một thời xưa bể dâu

Đếm những cơn buồn... gom bèo dạt Uống chén tàn canh khải mạc sầu

Đưa tay cố níu vòng nhật nguyệt Một sợi sắc không đổi vạn màu Đi-đến-quay về-cùng hữu hạng

Loanh quanh đợi mãi những không chừng

Huỳnh Tâm Hoài

Ngồi ở sân bay thấp thỏm chờ Tinh thần bấn loạn nghĩ vu vơ

Trà Vinh để lại lòng tê tái Nước Việt rời xa dạ thẩn thờ

Đất khách gian nan nhiều bở ngở Quê người vất vả lắm mây mờ Thôi thì phó mặc cho phần số

Giả biệt Trà Vinh thoả ước mơ...

Lê Võ 11/15/2012

Ba mươi năm trỡ lại Trà Vinh Cãnh vật Quê hương thật hữu tình Phố xá ngày nay xa lạ quá ! Lạc lõng nơi quê có một mình !

Page 23: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 23

Xe về thành phố đến ngã ba Nguyệt Hoá ngày xưa đã mất xa ! Quẹo phãi Sâm Bua qua Hoà Lạc Bến xe toạ lạc cạnh Chùa Hang !

Muốn về thị xã qua Tri Tân Những đường thân thương xa lạ dần Nhận ra cãnh củ qua phố chợ Cãnh vẩn còn đây, đâu bạn thân ?

Tin y Bòn ơi! Uông tâu na ? Anh ơi mua chi? Em đi đâu ? Mời bún nước lèo với bánh giá Xin mời lữ khách ở phương xa

Phất phơ áo trắng giữa ban trưa Con đường hàng me chịu nắng mưa Đâu Trần Trung Tiên, đâu Công Lập ? Chỉ còn dỉ vãng, mái trường xưa !

Vườn dừa Thanh Lệ nay đổi tên Cãnh củ người xưa ? thấy buồn tênh! Bóng ngã giáo đường vẩn in bóng Nhớ mái Thánh Gioan thấy ruột mềm !

Cầu Long Bình soi bóng nước êm Nước sông Phú Vinh chảy êm đềm Bước qua Đầu Bờ sao lạ quá ? Đồng ruộng biến mất, nhà hai bên !

Ao Bà Om vẩn buồn trơ vơ ! Ao sen hoa nỡ, lặng như tờ Hàng rể cao, già theo năm tháng Tuổi thơ kỷ niệm, lệ mắt mờ !

Đình Long Đức chỉ còn giấc mơ Sắc chỉ Đình thần đã xoá mờ ! Cát bụi rêu phong nay phủ kín Đền thờ tôn nghiêm chỉ bóng mờ !

San bằng tru sở Xã Phú vinh Xoá sổ mang tên Tỉnh Vỉnh bình Còn đâu vang bóng Đình Long Đức ? Kỷ niệm tàn phai sau chiến chinh !

Xin trã tôi về với ấu thơ Tung tăng cắp sách tuổi mộng mơ Bạn củ, trường xưa nay vắng bóng ! Con nước Long Bình chảy lững lờ !

Kim Chung Hoàng Vủ

Gaëp Baïn Xöù Ngöôøi Gặp mầy tao ngở chiêm bao, Gặp mầy bổng thấy trăng sao ngọc ngà, Gặp mấy tao tưởng gặp ma Từ trong mộ tối chui ra hồi nào!!! Tên mầy chẳng phải mũi dao, Gọi tên mầy bổng thốn đau đáy lòng, Gặp mầy vừa tủi vừa mừng, Bầy chim lạc tổ xa rừng đã lâu. Gặp mầy tao lại gặp tao, Tao moi kỷ niệm, tao đào tuổi thơ, Gặp mầy nhớ mẹ nhớ cha, Gặp mầy, tao thấy nhớ nhà sao đâu!!!

Lâm Thanh.

Daùng Xöa Trời càng lạnh cho tim anh càng nóng. Mây xuống gần cho ước vọng thêm cao, Gió phơn phớt khơi bùng bao kỷ niệm. Không có em, anh thờ thẩn... chiêm bao.

Nhớ hồi đó, gặp nhau em ngoảnh mặt, Vừa thấy em, anh ngỡ lạc bồng lai. Có gì đâu, chỉ đôi lần liếc mắt Mà về nhà, hồn nửa tỉnh nửa say.

Rồi đông ấy, ta thôi yêu bằng mắt, Những hẹn hò, riu ríu bước chân em. Dáng nho nhỏ, theo tiếng lòng dẫn dắt Lạc vào đời, lạc mất cõi thần tiên.

Đông những đông, ấm men nồng hạnh phúc Góp hình hài cùng đốt chảy tuyết băng, Nêm yêu đương bằng ái ân ngọt ngất, Tiết đông già, mà ngờ ngợ đang xuân!

Ở bên đó chiều nay Em có lạnh? Anh bên này đun kỷ niệm thành thơ, Trời lạnh giá, lòng anh như hạ nắng, Càng nhớ em, càng dậy lửa hương xưa./

Lâm Thanh. Mùa đông Sydney 6/2005

Page 24: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 24

ÁI HỮU TRÀ VINH HỌP MẶT HÈ 2013 Lucky Nguyễn

Hơn 350 đồng hương Trà Vinh và thân hữu từ khắp nơi trên đất nước Hoa Kỳ và cùng nhiều gia đình từ tận trời Ấu và Úc Châu đã lấy chuyến bay về Westminster từ nhiều ngày trước, tập trung tại Miles Square Park vào trưa ngày 14 tháng 7 năm 2013, họp mặt đông đảo để có dịp gặp lại nhau hàng huyên tâm sự và vui chơi hàng năm mỗi khi hè đến.

Từ sáng sớm Ban Tổ Chức đã sắp xếp bàn ghế và trang trí rất công phu cho địa điểm họp mặt thành một thành phố Trà Vinh thu nhỏ gọn với hình ảnh đầy đủ các góc cạnh của toàn tỉnh Trà

Vinh: từ Chùa Ông Mẹt cổ kính, nhà lồng Chợ Trà Vinh, các đường phố thân quen của Trà Vinh năm nào mà chân đi chưa mõi thì đã giáp vòng thành phố, hình chiếc cầu Long Bình thuở xa xưa đang cất đầu lên cho tàu thuyền lớn đi qua. Một Ao Bà Om vuông vứt xinh xắn bao quanh với những cây cổ thụ, lồi những gốc rể sần sù tạo cho cảnh quan ngộ nghĩnh rất thu hút du khách ở miền Tây Nam Phần. Hình ảnh vị trí tỉnh Trà Vinh với những cánh đồng lúa chín vàng ôm ấp bởi sông Cổ Chiên và Hậu Giang; Nào là địa danh thân quen với Ba Động biển xanh cát trắng phơi mình ra biển Đông.

Quang cảnh buổi lể chào cờ khai mạc buổi sinh hoạt mù Hè 2013 của Hội Ái Hữu Trà Vinh

Sau phần nghi thức đơn giản của buổi lễ chào quốc kỳ và quốc ca Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa nhưng cũng rất trang nghiêm với giây phút tưởng niệm anh linh các chiến sĩ vị quốc vong thân, anh linh của đồng bào trong chiến cuộc ở mọi nơi trên quê hương Việt Nam, anh linh của đồng bào đã bỏ mình trên bước đường tìm tự do. Anh Văn Tường, Hội Trưởng Hội Ái Hữu Trà Vinh, ngỏ lời chào mừng và cảm ơn tất cả đồng hương nhín chút thời giờ về tham dự buỗi họp mặt hè thật đông đảo như hôm nay,giới thiệu tất cả đồng hương từ phương xa về. Sau đó, chụp hình lưu niệm tất cả đồng hương có mặt và mời đồng hương thoải mái thưởng thức các món ăn do chính đồng hương đem tới cũng như những món ăn do Ban Tổ Chức tổ khoản đải: Bún nước lèo Trà Vinh, Bánh mặn Trà Vinh, heo quay, Chả giò, để cho xứng đáng công lao đồng hương từ xa về hảnh diện với câu người Trà Vinh thường nói:

"Trà Vinh có bún nước lèo, Có chùa ông Mẹt ao đào Bà Om" Thật là một điều vinh hạnh cho Ban

Tổ Chức lần nầy, tính đến giờ khai mạc thì đã có trên 300 đồng hương về tham dự với đủ mọi thành phần với nhiều thế hệ và nhiều lứa tuổi khác nhau. Đặc biệt năm nay có rất nhiều đồng hương từ

phương xa về như: Nam Bắc California, Arizona, Oregon, Texas, Pennsylvania, Georgia, Florida, New York, Massachusetts; từ Montreal và Vancouver của xứ Canada; từ Châu Âu có Pháp, Thụy Sỉ, Hòa Lan,và Đan Mạch, và ở Australia có người từ Sydney về tham dự rất là vui vẽ.

Đồng hương từ phương xa về tham dư Picnic 2013

Dòng người lũ lượt trong giờ thưởng thức các món ăn đã tăng trên 350 người hiện diện để cho tất cả ba nồi Bún nước lèo, ba xửng bánh mặn, con heo quay 50 pounds đều sạch láng. Đó là chưa kể hơn 15 món ăn khác do đồng hương đem đến như gỏi tôm thịt, mì xào, xôi, bánh mặn, chả giò, bánh béo nhân tôm thơm phức với nước mấm ớt pha sẵn, khô cá lồng tông chiên (hay khô cá cơm chiên),15 phần Pizza cở lớn, bánh bò rể tre đường

Page 25: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 25

cát trắng, bánh bò rể tre đường nâu, bánh bột khoai mì nướng thơm chi là thơm, bánh lọt, bánh kem, donut, nước cam tươi, nước ngọt soda, cà phê và nước mát giải khát v.v...

Hình ảnh Tra Vinh ngày nào…

Để cho đồng hương có thời giờ trò chuyện và thưởng thức từ hương vị các món ăn, hơn nửa giờ sau, Ban Tô Chức bắt đầu những tiết mục vui chơi giả trí. Bắt đầu là trao giải thưởng khuyến học đến các em cháu trong gia đình của Hội viên đã tạo đươc thành tích tốt, học hành xuất sắc có những bàng khen thưởng ở trường cùa các cháu theo học với mục đích khuyến các em phát triển tài năng cá nhân để làm điều thơm lây tiếng tốt cho cộng đồng người Việt của chúng ta và cũng để làm vẽ vang dân Việt khắp nơi.

Cụ già còn gân Huỳnh Văn Lang

Tiếp liền theo đó, đề mục "Đố Vui Địa Danh Trà Vinh" được các em tham gia rất đông, với 15 em ghi tên, các em được hướng dẫn nhận đinh ra bản đồ của tỉnh Trà Vinh và tên của những vùng phụ cận cho đến khi các em có thể trả lời bài thi những địa danh nầy. Bài thi được hướng dẫn cả tiếng Việt và Anh ngữ nên các em hiểu rất dễ dàng. Kết quả có được 3 em điểm cao được thưởng huy chương, bằng tưởng lục, các em còn lại được tặng một phong bì với hiện kim để khuyến

khích các tham dự hiểu biết nguồn cội nước nhà Việt Nam.

Trong khi đó, anh Trần Sinh đem đến mọi người thưởng thức những bản nhạc quê hương, trò chơi thuần túy quê hương với giọng điệu dí dỏm cùa cụ Vỏ Trung Tín làm rất nhiều người chăm chú theo dõi trên những tờ giấy Lô-Tô.

Tiếp theo chị Cao thị Ngọc Điệp cùng anh Thomas Trung hướng dẫn rất đông giới trẻ tham giam vủ điệu "Lam Thôn Trà Vinh" được rất nhiều người vổ tay tán thưởng.

Trò chơi kế tiếp là "Nhảy Bao" từ lâu được rất giới trẻ tham dự, trò chơi nầy gồm có 2 cấp, cấp một từ 11 tuổi trở xuống và cấp hai tư 12 hai tuổi trở lên, kết quả mỗi cấp có hai 2 em đứng đầu được tặng huy chương và bằng khen hạng nhất và hạng nhì.

Trò chơi nhảy bao hào hứng…

Tất cà những bằng khen thưởng của hội rất có giá trị cho các em việc lưu niệm, nhưng còn gia ở học đường, tăng thêm điểm ra trường của các em trong mục tham gia sinh hoạt cộng đồng và có giá trị ngang hàng với công tác từ thiện.

Kết quả sau những cuộc tranh tài hôm nay, các em đều vuivẽ có những bạn mới để các em trao đổi tin tức cho nhau, vui mừng với những phần

Page 26: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 26

thưởng mà các đạt được do các cuộc tranh tài hom nay, và hâm hở nói rằng sẽ tham dự vào năm tới.

Đến bây giờ đã hơn 3:30 chiều, giờ dọn dẹp, anh Nguyễn văn Thành Trưởng Ban Tổ Chức nông trang đôn đốc việc làm sạch sẽ, mà đồng hương vẫn còn đông hơn trăm người. Mọi người bắt tay nhau nói lời từ giả, nhưng bây giờ lại thấy sự có mặt của các bạn đến trể, hy vọng gặp lại bạn hiền dẫu biết đến muộn còn hơn không đến.

Chúng tôi thật sự rời nơi họp mặt khi anh Bảo và cô Rita từ Pháp quốc về, cẩn thận đẩy xe lăn của Cô Sáu My lên xe, sau cái bắt từ giả người bạn sau cùng rời nơi đây hôm nay. Chúng tôi nhìn theo với niềm vui khó tả mà Ban Tổ Chức của Hội Ái Hữu Trà Vinh đã thành công đem đến cho mọi người, tuy có chút lỗi lầm kỷ thuật trong lúc phát bằng ban khen nhưng được các anh chị phụ huynh hoan hỷ cho địa chỉ điều chỉnh cho các em sau.

Lucky Nguyễn

CHƯƠNG-TRÌNH BUỔI PICNIC HÈ 2013 CUẢ HỘI ÁI-HỮU TRÀ-VINH

(Tại MILE SQUARE PARK, Thành phố FOUNTAIN VALLEY, CA; Ngày 14 / 7, 2013)

I.- 10:00AM—11:00AM : TIẾP ĐÓN ĐỒNG-HƯƠNG II.- 11;00AM : NGHI THỨC KHAI-MẠC : Chào quốc-kỳ HOA-KỲ & VNCH. Hội-Trưởng ngỏ lời CHÀO MỪNG ĐỒNG-

HƯƠNG TRÀ-VINH về tham-dự buổi picnic. Giới-thiệu những đồng-hương từ xa đến. Chụp hình chung, lưu-niệm. III.- TRAO GIẢI KHUYẾN-HỌC, niên-khoá 2012-2013. IV.- 12:00PM : ĂN TRƯA.

Mời thửơng-thức pot luck do đồng-hương mang đến. Ngoài ra, BCH. Cũng có chuẩn bị sẳn những món ăn truyền-thống như BÚN NƯỚC LÈO TV, BÁNH MẶN. Đồng-hương chú ý ‘ăn nhiều món’ để sau đó tham-dự cuộc bình chọn: MÓN ĂN ĐƯỢC ƯA THÍCH NHẤT. (những món ăn do Hội cung cấp không được tính trong cuộc thi này, sẽ có thông báo riêng). V.- 01:00PM : TRÒ CHƠI & THI TÀI

Dành cho các cháu thiếu-nhi và thanh-thiếu-niên. Gồm có : ĐỐ VUI ĐIẠ-DANH TRÀ-VINH (Tham dự :

Mọi lứa tuổi). THI NHẢY BAO (Hai nhóm : (1)- Thiếu-nhi,

(2)- Thiếu-niên).

CÁC TRÒ CHƠI DO ĐỒNG-HƯƠNG ĐÓNG GÓP (NẾU CÓ). Note: Các em đoạt giải Nhất, Nhì, Ba được

thưởng HUY-CHƯƠNG và BẰNG TƯỠNG-LỤC. Riêng môn ‘Đố vui địa-danh TV’ mổi em dự thi còn được tặng thêm $5.00 tiền mặt. VI.- BẾ MẠC.

Bài ca tạm biệt Nhạc sĩ Viết Chung

http://mp3.zing.vn/bai-hat/Bai-ca-tam-biet-TTH/IW68WC86.html

Gặp nhau đây rồi chia tay. Ngày vàng như đã, vụt qua trong phút giây. Niềm hăng say, còn chưa phai. Đường trường sông núi hẹn mai ta sum vầy

Còn trong ta, tình bao la Cuộc tình chinh chiến, bừng lên muôn ước mơ Lòi suy tư, lời đêm qua, Dặn lòng hãy nhớ, lời yêu thương nhắn về

HỌC LÓM BẠN GIÀ THANH-NGUYEN* CÀ-PHÊ NỖ !

Ngày xưa ở VN ta, không xưa lắm, thời cuả Nguyễn-công-Trứ, Nguyễn-Khuyến, TrầnTế-Xương v.v… nghe các Cụ nói về một cuộc sống, cho dù không cao sang gì (Thu ăn măng trúc, đông ăn giá…), thế nhưng các Cụ vẩn thảnh thơi, nhàn-tản (Khi rượu sớm, lúc trà trưa; Thảnh thơi thơ túi rượu bầu…) ; thậm chí còn chén thù chén tạc đến nổi “Tửu phùng tri-kỷ thiên bôi thiểu !”. Cho thấy là quý Cụ nhà ta thuở ấy hẳn cũng đả có những lúc say bí tỉ, chẳng thua gì bợm nhậu ở VN ngày nay, không thiếu kẻ nằm lăn quay bên vệ đường vì… ma men vật !

Càfê mỗi sáng, chuyện cười thế gian Mấy ai để tâm, nghe lời phàn nàn…

(Bạn Thân - Việt Khang)

Page 27: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 27

Thời gian trôi qua, không gian đổi khác, khi định-cư ở nước Mỹ nầy, các “ Ông Già VN’ bây giờ thật sự mất đi cái thú ‘mải vui quên cả đất trời…’ theo cung cách đặc-thù VN ! Ở đất Mỹ này, vì nhu cầu phải giử bằng lái cho nên làm sao mà có thể dám ‘dô’ cho đến độ ‘Đất say đất cũng lăn quay…’. Ở đây, bọn Già chúng tôi giờ chỉ còn mổi cái thú đơn sơ vào những cuối tuần là …ới bạn bè đi Çà-phê Nổ !

Người VN mình có thói quen ‘’thấy mặt đặt tên’’, chử..NỔ nầy nó diển tả thật sát và đầy đủ cái… hiện-trường. Nói cà-phê, song có chổ cũng bán thức ăn, nhưng dù ăn hay uống, khách khứa nhà ta vẩn chuyện trò râm rang ầm ỉ, thoải mái, thậm chí có những lúc nếu mình nói với cái ‘tong’ thấp, bình thường, thì những bạn bè chung bàn có thể cũng không nghe được, vì chung quanh người ta…Nổ to quá !

Nghiả thông thường cuả Nổ, có lẻ để chỉ những ‘nhân-vật’ mà miền Nam gọi là ‘ba hoa chích choè’,miền Bắc gọi là gì nhỉ ? Khoa trương, bốc phét….Cho nên ở hiện trường cà-phê Nổ, thỉnh thoảng vẩn nghe bạn bè kê nhau “thôi đi, Nổ vừa phải thôi, cha nội !...”

Nổ cũng là hình dung âm thanh tiếng súng ở chiến trường khi ‘tiếp địch’’, cho nên chử NỔ nếu hiểu theo mặt nầy, đầu tiên, có lẻ do các Bạn Già gốc nhà binh nghĩ ra !

Là hội-viên cà-phê Nổ chắc có nhiều vị cũng không tránh khỏi bị ‘quý Bà…Già’ đôi lúc càm ràm. Nào là “ Cuối tuần Ông… không lo cỏ rác, bông hoa, cây cối, nhà cửa…cứ lo đi đàn đúm…’’. Nào là “Mấy Ông Già giờ chỉ còn gặp nhau tán dóc …chớ còn tương lai sự-nghiệp gì nửa mà bàn với luận, trao với đổi…”.Nào là…v.v..

Nhưng mà mặc kệ (don’t care), dù ai nói ngã nói nghiêng, lòng ta vẩn vửng như kiềng ba chân ! Quý Bà Già ở nhà, làm sao biết được những điều hửu ích mà nhóm Bạn Già chúng tôi trao đổi và tiếp thu (nói nôm na là…HỌC LÓM nhau). Cụ thể là những vấn-đề về sức-khoẽ, như sẽ trình bày dưới đây.

Với lại, cà-phê cũng năm bảy thứ cà-phê, nên nhà thơ Huy-Trâm viết :”Cà-phê có sẳn trong nhà. Cà-phê ra quán mới là cà-phê !”.Xin quý… Bà-Già đừng vội ‘liên hệ’ với câu :”Đàn Ông năm bảy lá gan…” mà chính quý Bà đã đặt ra để bêu rếu bọn Đàn Ông chúng tôi. (Câu sau: Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người !).

Lại xin mở ngoặc một chút để nói về chuyện “Bà Già càm ràm’. Cái ‘tai hoạ’ nầy có lẻ

chẳng có ‘ Ông Già’ nào tránh khỏi, chỉ hoặc ít hoặc nhiều, vì đó là ‘sở-trường ‘ cuả Nàng !, nhưng theo Ông Bạn Già NGUYỄN-THƯỢNG-CHÁNH ở Canada, thì các Cụ Ông nói chung, không nên vì thế mà buồn phiền, đi vào tuổi già mà còn được người bạn đời bên cạnh thì thật vô cùng hạnh-phúc, vả lại…chuyện Bà-Già Càm Ràm thì…cũng đã quá quen rồi !

* * * * VÀI ‘MẸO VẶT’ HỔ-TRỢ CHO SỨC KHOẼ.

Chúng ta phải nhận một sự thật: Vấn đề trước mắt cuả những người già là SỨC-KHOẼ. Người đời nói SỨC KHOẼ LÀ VÀNG hoặc là QUÝ HƠN VÀNG ! Bước vào tuổi già ai cũng phải nhìn nhận ‘đó là chân lý’.

Giống như chiếc xe, càng cũ thì càng lọc cọc, Người càng già thì càng …lạch cạch ! Đó chỉ là quy-luật cuả tự-nhiên, cuả Đấng Tạo-Hoá, nào ai thoát được ?! Quý Bạn Già nào đã từng vào bệnh-viện nằm một hoặc vài ngày vì một chứng bệnh gì đó, chắc chắn đã “ngộ” ra rằng trong khi ta đang trở trăn lăn lộn trên giường bệnh trong tình-trạng ‘hồn bất phụ thể’, thì một đống vàng để bên cạnh cũng nào có nghiả gì đâu với bản thân ta !! (Trừ khi Bạn Ta có ý nghĩ quảng-đại rằng:”Ngộ có chế...ế..t thì cũng theo Trời, theo Phật…Thôi, để lại đống vàng cho ‘con dợ già’nó.. ăn bánh pizza!”.

Anh sẽ đưa Em tới cuối cuộc đời…

(1)- THỞ KHÍ CÔNG. Sinh ra, ai mà không biết thở ? Ấy thế mà

lại có người mần mò ‘nghiên kíu’ để phát hiện ra có những ‘cách thở’ giúp ích cho việc duy trì sức khoẽ.

Cách thở nầy đa số Bạn Già đã biết, song cũng xin trình bày để những ai chưa biết, nếu thấy thích, thì thử thực hành. Kết quả thực tế thì không ai kiểm chứng được, song như người xưa nói “có thờ có thiêng, có kiêng có lành…”.

Page 28: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 28

Có thể thực hành cách thở nầy bất cứ trong tư thế nào: đi, đứng, nằm, ngồi. Nhưng, theo tôi, tư thế nằm là hay nhất. Vì nó cần kết hợp với trạng thái ‘buông xả’ (relax) cơ thể và ‘chân không’ tư-tưởng, nghiả là trong lúc thở phải để trống không ý nghĩ, đừng để cho..tâm viên ý mả nhảy nhót trong đầu.

Thực hành: Nằm ngửa, buông xuôi tay chân, đầu không gối, hoặc gối thật thấp, toàn thân thư giản, không có bất cứ một động tác nào làm căng bắp thịt. Hít vào bằng mủi, cố đưa hơi vào vùng bụng, khi đã đầy hơi, GIỬ HƠI, trong khoảng một phút, (hay hơn một phút, nếu có thể, càng lâu càng tốt). Động tác GIỬ HƠI này rất quan-trọng, cốt cho những chất hơi tươi (fresh) như Oxy…có thì giờ làm việc, tẩy chất dơ trong máu, làm mát tế bào, lấy thán khí đẩy trở ra ngoài không gian v.v..

Thở ra bằng miệng, thật chậm, ép bụng xuống để đẩy thật hết hơi ra ngoài, khi đã hết hơi, nhíu hậu môn một cái (Tại sao có động tác này thi… bị thất truyền, không ai biết !). Thở bao nhiêu lần trong môt lần thực hành, thi xin cứ tuỳ nghi, tuỳ tiện.

(2) -TẮM ÂM, DƯƠNG Tắm kiểu nào, ngâm mình trong bồn hay

tắm đứng với shower… là tuỳ sở thích và thói quen cuả mổi người. Song, sau cùng nên thực hiện một vòng TẮM ÂM DƯƠNG.

Thực hành: Mở vòi sen ở dạng shower, giọt nươc tua đều, lấy độ nóng vừa phải, xoay người cho độ nóng trải đều trên cơ thể. Chỉnh sang độ nóng ít hơn, rồi mát, lạnh…sau hết là ở độ lạnh tối đa mà cơ thể có thể chịu được. Nhớ là chỉnh nhiệt độ xuống từ từ (trục chỉnh sang phải), ở mổi bậc, xoay người cho nước tiếp xúc đều khắp cơ thể, khoảng một phút rồi mới chỉnh tiếp.

Sau một vòng ở mức lạnh tối đa (ở mức mà cơ thể có thể chịu đựng đuợc, chớ không có nghiả là phải vặn hết qua phải, vì nước tự nhiên ở đây nó lạnh đến cóng người, mình có cảm tưởng như nưóc ở đâu từ dưới…âm-phủ chảy lên vậy đó!) , bắt đầu

chỉnh ngược lại, cũng rất từ từ : lạnh ít hơn, mát, ấm, nóng ít, nóng vừa đủ. Ở mổi vòng nhiệt-độ chỉnh lên (nóng), cũng xoay người cho nước trải đều cơ thể (khoảng một phút), giống như lần chỉnh xuống (lạnh).

Giử nhiệt độ nóng nầy, chỉnh gương sen sang dạng massage (một vòi nhỏ, ngay chính giủa gương sen, có sức chảy mạnh), chỉnh lên độ nóng tối đa mà cơ thể có thể chiụ đựng được, lần lượt cho dòng nước massage hai bàn chân : Lòng bàn chân, mu bàn chân, vùng mắt cá trong, vùng mắt cá ngoài. Chủ yếu là Lòng bàn chân, vì chúng ta biết là lòng bàn chân có rất nhiều huyệt đạo. Mổi chổ độ 30 giây đến một phút, đặc biệt cho lâu hơn ở Lòng bàn chân, ở mổi nơi, trong lúc cho dòng nước bắn vào, dùng tay cọ xát, xoa bóp.

Kế tiếp cho dòng nước nóng nầy massage ở vùng ngực : ngay chấn thủy (chổ tiếp giáp thân mình với cần cổ, chính giửa), chuyển sang ‘ hang cua’ bên phải và bên trái (chổ lỏm trên xương đòn gánh, huyệt nầy lien hệ với phổi). Mổi chô cũng kéo dài từ 30 giây đến một phút.

Xong phần ngực, xoay lưng cho vòi nóng massage ngay hành-tủy (chính giửa ót, giửa hai mang tai), rồi từ từ đưa dòng nước xuống dọc cột sống lưng, khi ngang vai, di chuyển người cho dòng nước chạy ngang hai bả vai, qua lại nhiều lần, xong đưa dòng nước trở lại ngay cột sống, dẩn xuống, rất chậm, khi dòng nước ngang thắt lưng (vùng quả thận), di chuyển người cho dòng nườc massage qua lại ngang thắt lưng, nhiều lần, xong đưa dòng nước trở lại ngay cột sống, dẩn ngược trở lên đến hành-tủy. Cứ thế, có thể lập đi lập lại nhiều lần, tuỳ thích.

Ghi chú: Những trường hợp người bị stroke nhe, thông thường là bị ngẻn mạch tại vùng cổ, dòng nước nóng massage vùng cổ và hành-tủy có khả năng giúp đánh tan những vệt mở đọng tại đây, tức góp phần ngăn ngưà ít nhiều nguy cơ tai biến mạch máu nảo.

Như trên đã nói, những ‘mẹo vặt sức khoẽ’ này không chứng minh được cu-thể về hiệu quả cuả nó. Song từ ngày thực hành môn Tắm Âm Dương, bản thân tôi nhận thấy ít bị cảm vặt, không còn sổ mủi nhức đầu lung tung theo thời tiết đổi thay.

(3)- XÃ… UẦT KHI. Môn nầy thì không phải học lóm cuả các

bạn già mà học lúc còn khá trẽ. Đó là thời gian ở trong tù CSVN, sau 30/4/75, VC gọi là cải-tạo ! Lúc đó, chúng tôi cũng thừa biết ‘kẻ thắng cuộc đê

Page 29: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 29

hèn’ sẽ không đủ nhân đạo cũng như sự tự tin để thả sớm những kẻ đối địch mà chúng đang giam cầm. Từ đó mà chúng tôi âm thâm trao đổi nhau những sự an ủi, khuyến khích, hướng dẩn, để cùng giử vửng tinh-thần và sức khoẽ hầu có thể sống còn trước dả tâm cuả kẻ địch cố ý giết lần mòn chúng tôi bằng đói khát, bệnh tât và đày đoạ.

Động tác nầy cũng có tên gọi cuả người phát kiến, song lâu quá tôi quên mất rồi nên ghi tựa theo công dụng cuả nó. Tác dụng cuả động-tác nầy là xả những chất khí uế tạp tồn đọng trong người, để cơ thể nhận lại chất khí tươi (fresh) từ thiên nhiên. Có thể thực hành bất cứ lúc nào, nhưng tốt nhất là lúc sáng sớm, ở ngoài trời (không ở trong nhà).

Thực hành: Đứng thẳng người, 2bàn chân dang ra bằng khoảng cách 2 vai, 2 cánh tay duỗi thẳng, lòng bàn tay quay về phía sau, cổ lỏng, miệng mở tự nhiên, các đầu ngón chân bám chặ. Hai tay thẳng đưa mạnh lên ngang vai (90 độ với mặt đất), hít hơi vào, hậu môn thót.. Để tay nhẹ xuống, thở ra.

Động tác này đơn giản, chỉ có thế. Mổi lần tập nên tối thiểu 5, 10 phút trở lên. Cần giử đúng chi tiết : Lúc đưa tay Lên thì nhanh, mạnh ; Lúc để tay xuống thì từ rừ, bình thường.

(4) BUÔNG XẢ (RELAX) CUỐI NGÀY.

Suốt ngày Bạn làm việc, đi đứng…tất phải mệt mỏi, hoặc ít hoặc nhiêu, nhất là đối với người già. Vậy nên làm động tác buông xả (relax). Tốt nhất là sau khi tắm xong.

Thực hành: Nằm ngửa, tay chân xuôi, đầu không gối, hoặc gối thật thấp. THỞ KHÍ CÔNG (như trên, phần 1) năm bảy lần. Sau đó, vẩn giử tư thế như vậy, thở bình thường, mắt nhấm, vẩn giử ý tưởng ở ‘chân không’ (không nghĩ gì cả). Kéo dài tối thiểu 10 phút (hơn càng tốt). Khi chấm dứt, vẩn nằm, làm vài động tác chuyển động cho tay, chân,

đầu mình. Thí dụ: co hai chân, cong người lên phía đầu ; một chân co một chân duổi, cong người lên phiá đầu, đổi chân cho động tác này. Nghiêng vai qua phải đồng thời quay mặt qua trái..và ngược lại. That is !

(5) LY NƯỚC LẢ SÁNG SỚM.

Cơ thể con người rất cần NƯỚC. Điều này thi ai cũng biết rồi. Nước tác dụng trên nhiều mặt, nhưng ở đây chỉ nói đến khiá cạnh CHỐNG BÓN. Bệnh táo bón có khi ‘bị xem thường’ vì nó không giết người trước mắt như một số bệnh khác, song tính chất nguy-hiểm cuả nó thật lớn lao vì nó là nguyên nhân tạo ra nhiều thứ bệnh. Chính vì thế mà có lẻ giới y-học cũng coi trọng nên đã đưa ra rất nhiều loại thuốc để trị, chống bón.

Chính thiên-nhiên cũng tạo sẳn cho con người một sản phẩm mà vì quá tự nhiên nên không được quan tâm, đó là NƯỚC !

Tài liệu y học nói chúng ta cần uống nhiều nước. Có nhiều người do bản chất tự nhiên ít khi ‘cảm thất khát’. Vậy, tốt nhất là ta nên ‘tạo thói quen uống nước’ và LY NƯỚC LẢ SÁNG SỚM là một thói quen rất tốt. Sáng sớm, ngay sau khi làm xong mọi chuyện vệ-sinh cơ-thể ,trước khi ăn điểm tâm, ta nên uống một ly nưóc đầy (12oz).

Thoạt đầu, chưa quen, có thể có người không uống nổi (chính tôi là… đương sự). Vậy thì ta tập, những ngày đầu uống 1/3, rồi một nửa (1/2), (2/3) và chỉ một tuần sau là có thể uống một ly đầy!

Ngoài công dụng giúp chống bón, Ly nước buổi sáng, suy ra còn làm cho cơ thể được ‘giải nhiệt’ sau một đêm cơ thể đã tiêu thụ, tiêu hao số lượng nước dự trử trong người. Tuy nhiên, không nên uống nhiều nước trước khi đi ngủ, nó sẽ làm ta mất ngủ vì phải thức dậy đi tiểu nhiều lần.

(6)- 6 hiểm họa đe dọa sức khỏe từ nhà bếp.

Page 30: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 30

1- Món gan luộc chưa chín kỹ - nguồn bệnh viêm màng não.

Gần đây, các nhà khoa học Ba Lan đã phát hiện ra rằng, loại khuẩn trùng Campylobacter không chỉ sống trên bề mặt của các loại thịt đỏ mà còn nằm sâu trong gan động vật. Campylobacter bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao, song nếu gan chưa được nấu chín kỹ thì chúng vẫn có khả năng gây bệnh. Campylobacter được phân lập từ máu và phân ở những bệnh nhân nhiễm trùng tiêu hóa lần đầu tiên vào năm 1938. Chúng không chỉ gây bệnh tiêu chảy tiêu chảy, sốt, nôn mà có thể gây ra tình trạng du khuẩn huyết, viêm nội tâm mạc hoặc viêm màng não. Do vậy, khi chế biến món gan, cần thái thành miếng nhỏ rồi mới luộc hay rán. Sau khi chín, đậy vung đun nhỏ lửa khoảng 2 - 3 phút để gan chín kỹ, để nhiệt độ cao thâm nhập tới từng thớ gan, tiêu diệt hết loại trùng khuẩn nguy hiểm này.

2- Chế biến rau xanh - cạn kiệt nguồn vitamine Các nghiên cứu mới đây tại Viện Thực

phẩm và Dinh dưỡng Ba Lan cho thấy, rau xanh chế biến ở nhiệt độ trên 70 độ thì vitamine C bị phân hủy hầu như hoàn toàn. Chỉ cần luộc trong vòng 5 phút rau cải xanh giàu vitamine C, lượng vitamine C bị tiêu hủy 90%. Khi cho tỏi đã giã vào chảo nóng chỉ trong vòng 1 phút hợp chất allyl sulfocyanate bị phân hủy hoàn toàn. Hợp chất này là thành phần quý của tỏi có tác dụng chống ung thư. Để bảo đảm nguồn vitamine không bị tiêu hủy hoàn toàn, cần luộc rau bằng cách cho rau vào nước đang sôi có pha muối hoặc luộc cách thủy. Các nhà khoa học Ba Lan cho biết, rau cải xanh luộc cách thủy chỉ mất 10% các vitamine. Xào rau ngập trong dầu cũng là cách bảo tồn lượng vitamine ít bị thất thoát. Còn đối với tỏi, để hợp chất allyl sulfocyanate không bị tiêu hủy, nên giã tỏi và để 15 phút cho hợp chất ổn định bền vững mới cho vào chảo.

3- Chảo chống dính-nguồn gây ung thư tiềm tàng

Việc chọn lựa xoong, chảo chế biến thực phẩm đặc biệt có ý nghĩa đối với sức khỏe. Cái thời dùng các đồ bằng nhôm đã đi vào dĩ vãng. Bởi lẽ, khi nhôm bị đun nóng sẽ giải phóng những hợp chất độc hại cho sức khỏe con người. Dùng đồ tráng men an toàn, tuy nhiên khi bị xước bề mặt hay bong vẩy men thì lại trở thành nguy hại cho sức khỏe. Các bà nội trợ đua nhau mua chảo không dính. Tuy nhiên, các nhà khoa học thuộc Đại học Toronto (Canada) cho biết, khi chảo chống dính ở nhiệt độ 360 độ thì giải phóng những phân tử có tên PTFE có khả năng gây ung thư. Các chuyên gia thuộc Tổ chức chống ngộ độc quốc tế (TFLC) cho rằng, để tránh hiểm họa cho sức khỏe, tốt nhất nên dùng những đồ nấu bằng inox.

4- Cơm nguội... ổ vi khuẩn Theo báo cáo của Trung tâm An toàn Thực

phẩm và Dinh dưỡng thuộc Cục Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ, đã từng xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm tại hai trường mẫu giáo (tiểu bang Virginia) do ăn cơm rang thịt gà chế biến từ cơm nguội nhiễm khuẩn Bacillus cereus. Các cháu phải nhập viện với các triệu chứng nôn mửa, đau quặn bụng và tiêu chảy. Sau đó các chuyên gia y tế đã phát hiện ra nguyên nhân vụ ngộ độc là do nhân viên cấp dưỡng của trường đã nấu cơm từ tối hôm trước, để nguội ở điều kiện nhiệt độ trong phòng, sau đó cho vào tủ lạnh và rang lại cho các cháu ăn vào bữa trưa hôm sau. Theo cơ quan Food Standards Agency của Vương quốc Anh, cơm nguội, dù về cảm quang không hề có dấu hiệu biến chất, chua, thiu - thậm chí đã rang lại - vẫn có thể gây ngộ độc. Thủ phạm là vi khuẩn Bacillus cereus có sẵn trong gạo do bị nhiễm từ đất trong quá trình trồng trọt và thu hoạch. Quá trình nấu cơm không tiêu diệt được vi khuẩn này vì nó đã chuyển sang dạng bào tử. Nếu cơm được ăn nóng ngay sau khi bào tử Bacillus cereus không có cơ hội phục hồi. Nhưng nếu để cơm nguội dần ở điều kiện bình thường thì Bacillus cereus có thể hoạt động trở lại và tiết ra một số độc tố gây ngộ độc cho người ăn. Thời gian để cơm nguội ở nhiệt độ trong phòng càng lâu thì lượng độc tố và vi khuẩn càng nhiều. Dù có rang hay hâm nóng cũng không loại bỏ được các độc tố, cũng như không tiêu diệt được vi khuẩn Bacillus cereus. Nhiều trường hợp ngộ độc do ăn cơm nguội, song lại bị bỏ qua vì nghỉ là ngộ độc do thức ăn.

5- Món tái và nướng - những trái bom bệnh

Page 31: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 31

Nhiều món thịt tái đang trở thành đồ nhậu khoái khẩu của các đệ tử ma men. Song cần cẩn thận, trong miếng thịt tái chứa đầy hiểm họa. Gần đây, Viện Sức khỏe Cộng đồng Ba Lan đã phát hiện trong món tái thịt dê, bò, lợn có nhiễm loại vi khuẩn chủng loại Yersinia enterocolitica. Triệu chứng khi ăn phải loại vi khuẩn trong các món tái là tiêu chảy, sốt cao và đau quặn bụng dưới. Nhiều trường hợp đã chẩn đoán nhầm là bị đau ruột thừa, đưa bệnh nhân lên bàn mổ. Theo tiến sĩ Jolanta Szych thuộc Viện Sức khỏe Cộng đồng Ba Lan, các món tái nhiễm khuẩn Yersinia enterocolitica còn chứa đựng nguy cơ bệnh tự miễn dịch, khi đó cơ thể con người coi các tế bào của chính mình là kẻ ngoại nhập. Lúc đó người bệnh sẽ đối mặt với căn bệnh viêm khớp kèm theo viêm đường tiết niệu. Những món nướng được mọi người ưa thích cũng nằm trong tầm cảnh báo của các chuyên gia an toàn thực phẩm. Những giọt mỡ chảy xuống bếp than, bốc hơi bám vào đồ nướng sẽ biến thành thứ độc tố gây tổn thương DNA và cũng là yếu tố tiềm tàng gây ung thư.

6- Tủ lạnh có an toàn cho sức khỏe?

Nhiều người lầm tưởng rằng, tủ lạnh sẽ là kho dự trữ thực phẩm lý tưởng cho gia đình. Tuy nhiên bạn nên nhớ hai điều:Thứ nhất: không có loại tủ lạnh nào giúp cho thực phẩm kéo dài được thời hạn sử dụng, thứ hai: thực phẩm có thể bị lây nhiễm đủ loại vi khuẩn độc hại từ 1số sản phẩm. - Đối với thịt tươi, trứng tươi: Những loại vi khuẩn từ thịt tươi, trứng gia cầm nhanh chóng nhiễm sang các loại thực phẩm khác và trở thành mối đe dọa cho sức khỏe. Thế nên, thịt tươi hay trứng gia cầm cần đựng trong túi hay hộp kín và để ở ngăn dưới cùng của tủ. - Đối với các loại đồ hộp: Không nên để những thực phẩm đóng hộp kim loại đã mở vào tủ lạnh, mà nên cho sang hộp nhựa. Nên vứt bỏ thực phẩm đóng hộp khi đã bị phồng rộp. Lý do: Đó là dấu hiệu sản phẩm đã bị nhiễm khuẩn độc hại.

CHÚC SỨC KHOẼ ĐẾN TẤT CẢ… ÔNG BÀ GIÀ ! (NVT).

KHUYẾN HỌC I. Những tin vui văn phòng Hội AHTV nhận được và xin chúc mừng ! chúc mừng!

1. Email của Anh Nguyễn Văn Thành Thể theo tinh-thần buỏi họp ngày thứ bảy

vừa qua, tôi gơỉ theo đây tên cuả một đứa cháu gọi tôi bằng Bác, con cuả người em-cô-cậu, vừa tốt nghiệp Đ/H (attach đính kèm). Vài chi tiết : Người tốt-nghiệp : KIM-SA PHẠM Tên Cha : PHẠM-THẾ-NGUYÊN Tên mẹ : NGUYỄN-KIM-THOA Tên trường : USC - IRVINE Ngành học : BACHELOR OF ART, BIOLOGY Ngày ra trường : June 16, 2013

2. Thư của chị Bùi Hải Đường HONGLAN LE Cháu ngoại gái, 13 tuổi , tốt nghiệp lớp 8, Thủ Khoa kỳ thi Hóa Học ( Chemist Challenge) dđược danh dự đọc diễn văn trước quan khách vào ngày Chủ Nhựt 9/6/2013 .

3. Thư của Haley Văn mẹ của Dennis Dương . Dennis, nhiếu năm đã nhận giải khuyến học Hè của Hội, ngày 5/6/2013 vừa tốt nghiệp bằng BA thuộc Đại Học URS

4. Thư của Dena Vũ mẹ của Anderson Văn, Anderson nhiếu năm đã nhận giải khuyến học Hè của Hội , ngày 6/6/2013 vừa tốt nghiệp bằng BS thuộc Đại Học URS

Page 32: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 32

II. Danh Sách khuyến học 2013 1/- JUSTIN DO 2/- JOHNNY DO: Con cuả : Cha Đổ-Hửu-Tiến ; Me Nguyễn-Diểm-Hương 3/- TÂM-ANH PHẠM: Con cuả : Cha : Phạm-Thanh-Thủy ; Me :Nguyễn-thị-Thùy-Anh. ( Justin, John, Tâm Anh là cháu ngoại Anh Nguyễn Văn Thành) 4/- EMILY TRÚC NGÔ, Honor Roll của TAFT Elementary School và Hạng Tư / TT Văn Hóa VN 5/- KEVIN NGÔ , Outstanding Scholastic trường Fundamental Intermediate School. 6/-SARAH NGÔ, Geometry Honors trường Segerstrom High School. (Emily, Kevin, Sarah là cháu ngoại Anh Võ Văn Diệu) 7/- David Lê ( cháu ngoại chị Hải Đường) 8/- Alton Phạm 9/- Krista Phạm (Alton, Krista là con của Văn Mỹ Hằng , Cháu ngoại Văn Tường) 10/ - Weston Dương ( con trai của Anh Dương Việt Văn).

III. Mạnh Thường Quân cho giải khuyến học: 1. GS Kiên Rệm check 100$ 2. Ông Dương Việt Văn cash 50$

Bóng Ngày Qua

Gặp nhau đây rồi chia tay. Ngày dài như đã, vụt qua…

Khi xưa ta bé ta chơi… nhảy bao.

Đố chơi để…nhớ

Thảnh Thơi dưới bóng mát

Vui chơi Sinh hoạt Văn Nghệ

Nhìn lại hình bóng cũ

Page 33: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 33

Hoàng Sa Trường Sa là Của Việt Nam Vĩnh Trường

Trung Quốc bắt nạt láng giềng ở biển Ðông “Chắc chắn là Hải Quân Trung Quốc đang

đặt trọng tâm vào hải chiến và nhằm đánh chìm hạm đội đối phương”. Ðại Tá Hải Quân James Fanell, phó trưởng ban tham mưu hành quân đặc trách tình báo của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, phát biểu trong một cuộc hội thảo về quốc phòng tổ chức ở San Diego ngày cuối Tháng Giêng 2013 vừa qua nhưng mới được tường thuật trên báo chí gần đây.

Lời bình luận của một viên chức cao cấp ngành tình báo Hải quân Mỹ diễn ra trong bối cảnh của các căng thẳng giữa Tàu Khựa với các nước trong khu vực từ quần đảo Senkaku trên biển Hoa Ðông với Nhật Bản và khu vực biển Ðông với Việt Nam và Philippines.

Lảnh Hải Việt Nam trên Biển Đông Ông Fanell cho biết Trung Quốc sử dụng

các lực lượng “ủy nhiệm” thay cho tàu hải quân để leo thang các hoạt động kiểm soát và khẳng định chủ quyền ở các khu vực biển tranh chấp. Ðó là đội tàu Hải Giám và Hải Tuần rất đông đảo và lớn mạnh, một số là chiến hạm biến cải. Trừ Nhật Bản là có khả năng đối phó, các nước nhỏ như Việt

Nam và Philippines thì lép vế hoàn toàn. Cùng với các đội tàu vừa kể, các tàu hải quân Trung Quốc thường xuyên mở các cuộc tập trận và tuần tiễu, thách đố sự hiện diện của tàu hải quân các nước khác.

Tàu Trung Quốc “thường xuyên thách thức khu đặc quyền kinh tế mà Nam Hàn, Nhật Bản, Philippines, Malaysia, Burnei, Indonesia, Việt Nam, từng được cho là được bảo đảm theo Công Ước Quốc Tế về Luật Biển”, theo lời ông Fanell.

“Trung Quốc thách thức quyền của các nước khác”, ông Fanell nói Bắc Kinh xác định “cái gì của tao là của tao, còn cái gì của mày thì phải đàm phán”.

Cho tới nay, Trung Quốc mới chỉ chiếm được 7 bãi san hô ngầm ở quần đảo Trường Sa nhưng đã thiết lập tới 8 căn cứ quân sự trên đó. Ông Fanell gọi đoàn tàu Hải Giám của Trung Quốc là “lực lượng sách nhiễu thường trực chủ quyền các nước trong khu vực chứ không có phận sự gì khác”.

Ông dùng từ “bành trướng” để mô tả các hành động của Trung Quốc. Theo ông nếu quan sát các hoạt động của Trung Quốc trong thập niên qua, không có gì mô tả đích xác hơn là dùng từ đó.

Hành động mới nhất của Trung Quốc khi uy hiếp, đẩy tàu Philippines ra khỏi khu vực bãi đá Scarborough Shoal mà Bắc Kinh gọi là Hoàng An đảo, rồi củng cố chiếm đoạt nơi này hồi năm ngoái là một thí dụ điển hình về chủ trương bành trướng, chiếm đoạt. Theo ông Fanell, Trung Quốc “chèn ép” các nước khác là một phần trong chủ trương và hành động được tính toán kỹ lưỡng.

“Người ta có thể nhìn thấy trước là các hành động của Trung Quốc đang làm mất ổn định vùng biển Á Châu”, theo ông Fanell. Trung Quốc gấp rút cải tiến và gia tăng lực lượng hải quân của họ 5 năm qua để kiểm soát không những các vùng biển gần bờ mà còn vươn ra các vùng biển xa. Chủ đích là đối phó với hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Ông Fanell cho biết trong năm 2012, Trung Quốc đã đưa 7 đoàn chiến hạm và một lực lượng tàu ngầm đông đảo vào biển Ðông, một hành động chưa từng có trước đây. Ông lên án ở cuộc hội thảo tại San Diego về những gì Trung Quốc nêu ra làm bằng chứng lịch sử để cả quyết

Page 34: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 34

gần hết biển Ðông là của Trung Quốc là “bịa đặt lịch sử” nhằm hậu thuẫn cho chủ trương bá quyền bành trướng khi tự thấy sức mạnh quân sự ăn trùm các nước nhỏ ở khu vực.

“Trung Quốc đang kiểm soát các vùng biển mà họ chưa từng kiểm soát hay bảo vệ trong lịch sử 5,000 năm của Trung Quốc”. Ông nói. Ông coi Trung Quốc là sự đe dọa chính yếu đối với an ninh và hòa bình của khu vực biển Ðông.

Ngày 22 tháng 1, 2013, Philippines đưa Trung Quốc ra kiện tại Tòa Án Quốc Tế theo Công Ước Quốc Tế về Luật Biển với hy vọng giải quyết dứt điểm cái vạch “Lưỡi Bò” ngang ngược của Bắc Kinh chiếm gần hết biển Ðông.

Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 Trong quá trình rút khỏi Đông Dương,

chính phủ bảo hộ Pháp trao trả chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền QGVN tại Sài Gòn từ tháng 10 năm 1950. Quân Đội của chính quyền QGVN tại Sài Gòn cho quân đóng giữ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và thực thi quản lý chủ quyền đối với hai quần đảo này.

Năm 1973, sau khi ký Hiệp định Paris, Hoa Kỳ rút quân và thiết bị của mình ra khỏi quần đảo Hoàng Sa. Thời gian này đã là giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đứng trước nguy cơ thảm bại rõ ràng. Do nhu cầu của chiến cuộc, việc phòng thủ Hoàng Sa bị suy yếu. Việt Nam Cộng hoà phải rút Tiểu Đoàn TQLC tại Hoàng Sa đưa vào đất liền, chỉ còn một Trung Đội Địa Phương Quân trấn giữ nhóm đảo Nguyệt Thiềm. Bên cạnh đó, việc Hoa Kỳ thoả thuận ngầm với Trung Quốc rằng họ sẽ đứng ngoài cuộc chiến nếu xảy ra đã đẩy Việt Nam Cộng Hoà vào thế hoàn toàn đơn độc. Tình hình đó tạo ra nguy cơ to lớn cho công cuộc bảo vệ quần đảo Hoàng Sa; đồng thời cũng tạo thời cơ hết sức thuận lợi cho Trung Cộng hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ quần đảo này.

Và ngay lập tức bản chất tham lam và xấu xa của Trung Cộng đã lộ rõ. Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lúc đó đang được chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của mình. Ngay sau đó, hải quân Trung Cộng đưa nhiều chiến hạm và tàu đánh cá có vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa.

Ngày 12 tháng 1 năm 1974, Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền VNCH đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc; đồng thời, Bộ Tư

Lệnh Hải Quân của VNCH đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa để bảo vệ lãnh thổ.

Trong hai ngày 17 và 18 tháng 1/1974, Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào hải phận phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Đến nửa đêm 18 tháng 1, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đã ra đến nơi chi viện. Trận hải chiến lớn nhất và dữ dội nhất giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà và hải quân Trung Quốc nổ ra vào sáng ngày 19 tháng 1. Ngày 20 tháng 1, bốn phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và Hoàng Sa ... Tiếp đó, binh lính Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của Việt Nam Cộng Hoà trên các đảo này, chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. 58 binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hoà đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.

Sau khi chiếm được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã cho đập phá các bia chủ quyền tại quần đảo, đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của người Việt. Hởi Đồng Hương Việt Nam, Trung Quốc chưa bao giờ có ý định gì tốt đẹp với chúng ta cả, lịch sử hay hiện tại đều phản ánh rất rõ điều đó. Họ không từ bất cứ một thủ đoạn nào để thực hiện tham vọng bá quyền của họ.

Quần đảo Hoàng & Trường Sa trên Biển Đông

HQ/VNCH mở cuộc hành quân THĐ 48 chiếm cứ 5 đảo ở Trường Sa vào tháng 2-1974.

Lo ngại về việc TC có thể tiến chiếm Trường Sa sau khi đã cũng cố Hoàng Sa, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 30 tháng 1-1974 ( 10 ngày sau khi mất Hoàng Sa), đã ra lịnh cho Hải quân VNCH mở cuộc hành quân THĐ48 trực chỉ Trường Sa đổ quân chiếm đớng năm (5) đảo tại quần đảo Trường Sa.

Page 35: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 35

Cuộc hành quân này đã chứng tỏ cho thế giới thấy là mặc dù đã chịu đựng tổn thất trong trận hải chiến Hoàng Sa và với các chiến hạm có khả năng hoạt động viễn duyên hầu hết đều cũ kỷ, vũ khí lỗi thời nhưng Hải quân VNCH đã chứng tỏ quyết tâm cũng cố chủ quyền quốc gia Việt Nam ở Trường Sa và ngang nhiên thách thức Trung Cộng nếu chúng có ý định tiến chiếm Trường Sa.

Chiến hạm Viêt Nam đã đổ quân lên quần đảo Trường Sa vài trăm hải lý về hướng Nam để ngăn ngừa bị cưỡng chiếm”. Mặc dù đây là một quyết định rất mạo hiểm của Tổng Thống Thiệu, nhưng chính quyết định này của ông đã nới rộng chủ quyền của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa và đã khiến TC hoản lại ý định bành trướng đế quốc của họ xuống Trường Sa cho đến năm 1988.

Quần đảo Trường Sa Việt Nam

Trung Cộng đánh chiếm các đảo của Việt Nam vào tháng 3.1988

Từ đầu năm 1988, Trung Quốc đã sử dụng một lực lượng lớn hải quân gồm nhiều tàu chiến chiếm đóng một loạt đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Cao trào của hành động xâm lược này diễn ra vào ngày 14.3.1988 khi hải đội gồm 6 tàu chiến, trong đó có 3 tàu hộ vệ có trang bị tên lửa và pháo 100 mm của Trung Quốc đã bắn chìm và cháy 3 tàu vận tải của Việt Nam tại bãi đá ngầm Gạc Ma trong cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam.

Trong vụ thảm sát này, 64 binh sĩ Việt Nam đã bị hy sinh. Sau đó Trung Quốc còn ngăn chặn không cho tàu mang cờ chữ thập đỏ ra cứu những người bị thương, bị nạn. Điều phải lưu ý đây là lần đầu tiên người Trung Quốc (lục địa) đặt chân đến Trường Sa. Trước đó, với tư cách quan quân, Trung Quốc chưa bao giờ có mặt ở vùng biển này.

Đã một phần tư thế kỷ trôi qua, từ sự kiện 14.3.1988, có những điều cần phải nói rõ như sau: ngay sau ngày 14.3.1988, qua hệ thống tuyên truyền khổng lồ của mình, Trung Cộng đã ngang nhiên BỊA ĐẶT trắng trợn với dư luận trong nước và quốc tế rằng: Các tàu Trung Quốc đang thả neo để yểm trợ cho tàu chở đoàn các nhà khoa học Liên Hiệp Quốc (LHQ) đi khảo sát khoa học tại Trường Sa thì bị các tàu chiến của Việt Nam tấn công. Vì thế hải quân Trung Quốc bắt buộc phải đánh trả tự vệ!

Sau đó thông qua người phát ngôn của Tổng thư ký LHQ đã nói rõ: không hề có tàu của LHQ tổ chức khảo sát khoa học ở Trường Sa vào 3/1988! Rõ là “cháy nhà ra mặt chuột” và chính quyền Trung Quốc đã “lấy thúng úp voi”, đã “lấy thịt đè người” lại còn muốn lấy tay che mặt trời!

Đã không có tàu khảo sát khoa học của LHQ thì chắc chắn không có việc tàu chiến Việt Nam tấn công tàu Tàu Khựa. Điều mà nhiều người đều biết đó là chuyện “ngậm máu phun người” là sở trường của các nhà cầm quyền Tàu Khựa.

Trước đó, năm 1962 bọn Tàu Khựa cũng đã phát động chiến tranh biên giới với Ấn Độ và chiếm của Ấn Độ hàng nghìn km2 nhưng lại vu cáo Ấn Độ xâm lược Trung Quốc. Năm 1979, Tàu Khựa tiếp tục đem 60 vạn quân xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Bắc. Sự việc rõ ràng như vậy nhưng cũng được họ tuyên truyền là “phản kích tự vệ quân Việt Nam xâm lược”!

Tại sao Tàu Khựa lại đánh cướp các đảo của Việt Nam tại Trường Sa vào tháng 3.1988?

Cuối 1987 đầu 1988 là thời kỳ Việt Nam rơi xuống điểm thấp nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tình hình trong nước chồng chất khó khăn: kinh tế đình đốn, đời sống của đại đa số người dân cực kỳ vất vả.

Cũng trong thời điểm đó, Liên Xô cũng bắt đầu lâm vào khủng hoảng chính trị - xã hội. Bắc Kinh cúi mình trước Washington, tự nhận là “NATO phương Đông” để nhận được nguồn tài chính và công nghệ, kỹ thuật từ Mỹ và phương Tây để phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa. Trong bối cảnh ấy, Trung Quốc cũng đã câu kết với Mỹ và hầu hết các nước trong khu vực (trừ Lào và Campuchia) siết chặt vòng bao vây, cấm vận đối với Việt Nam.

Lợi dụng tình thế khó khăn đó của Việt Nam, Trung Quốc đánh chiếm một số đảo của Việt Nam tại Trường Sa phục vụ cho ý đồ lâu dài.

Page 36: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 36

Tàu Khựa là bậc thầy trong việc lợi dụng thời điểm. Mặc dù đã đưa lực lượng ra Trường Sa và có những hoạt động đe dọa từ đầu năm 1988, nhưng thời điểm được Tàu khựa lựa chọn nổ súng rơi đúng vào 14.3.1988 cũng là thời điểm lễ tang tên VC Phạm Hùng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được tổ chức tại Hà Nội! Một khi họ đã có dã tâm thì chuyện “tang gia bối rối” lại trở thành điều có thể lợi dụng được!

Sự hy sinh của những người lính Việt Nam trong những năm trước là một lời nhắc nhở tới 90 triệu người đồng bào hôm nay, trước hết là những người có trọng trách với dân tộc, không bao giờ được quên 3 điều: - Một là, lòng tin phải được đặt đúng chỗ. Đối với Tàu khựa, điều quan trọng không phải là lời nói mà là hành động. Các đấng quân vương Trung Hoa từ xưa đến nay và từ nay về sau đều là những kẻ chuyên nghề “nói một đàng làm một nẻo”. Tin vào những điều mà giới lãnh đạo cấp cao ở Bắc Kinh nói không khác gì chuyện “gửi trứng cho ác”! - Hai là, cần phải hiểu về con đường mà bọn Tàu khựa lựa chọn. Những toan tính và hành động của Tàu khựa liệu có phải là một quốc gia cộng sản đồng chí như họ từng miêu tả hay thực tế là chính sách dân tộc nước lớn vị kỷ?

Việc vô cớ đem quân đánh chiếm các đảo của một quốc gia láng giềng, bất kể quốc gia đó phát triển theo đường lối nào cũng là đi ngược lại những nguyên tắc sơ đẳng trong quan hệ quốc tế và cũng là phản bội đối với người anh em cùng theo chủ nghĩa Marx - Lênin mà bọn khựa từng sử dụng rêu rao như một chiêu bài.

Việt Nam cần và mong muốn có một mối quan hệ hữu nghị, ổn định, lâu dài với Trung Cộng. Tuy nhiên quan hệ ấy cần được đặt trong sự tôn trọng lẫn nhau về nhiều mặt, đặc biệt là vấn đề chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc. Không tỉnh táo nhận thức được điều này, lệ thuộc vào những yếu tố “ứng vạn biến” như “mười sáu chữ”, “bốn tốt” có thể dẫn đến những bước đi sai lầm mang lại hậu quả lớn cho quốc gia, dân tộc!

VN đã có được bài học đắt giá khi rơi vào cảnh bị cô lập trên trường quốc tế từ 1979-1990. Bài học ấy cùng với sự kiện 14.3.1988 mách rằng bị cô lập không đồng nghĩa với có độc lập, mà ngược lại, bị cô lập sẽ dẫn đến thảm họa, thậm chí mất cả độc lập và chủ quyền quốc gia. Độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc không thuộc sở hữu riêng của riêng ai. Nó là tài sản lớn nhất, quý giá và quan trọng nhất của cả dân tộc.

Hình ảnh Quần đảo Trường Sa 1.-Việt Nam: chủ quyền 10 đảo và 11 bải đá tổng cộng 21 vừa đảo vừa bải đá. Những đảo của VN phần đông đều có quân đội trú đóng và dân sinh sống. Những bải đá thì không có đất cũng không có nước ngọt có bải nỗi khi thuỷ triều xuống và chìm khi thuỷ triều lên và không có dân ở, nhưng tất cả đều có quân đóng và là những cứ điểm quân sự.

2.-Philippines: chủ quyền 6 đảo và 4 bải đá. Trong đó có đảo Song Tử Tây và Song Tử Đông Philippines đã chiếm đóng bất hợp pháp của VN năm 1968, đến Tháng 2 năm 1974, VNCH đã bất ngờ chiếm lại được Song Tử Tây, còn Song Tử Đông vẫn bị Philippines tạm chiếm.

3.-Đài Loan: chủ quyền 1 đảo và 1 bải đá. Đặc biệt đảo này là đảo Ba Bình lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Đảo này đã bị Đài Loan chiếm đóng bất hợp pháp của VN từ năm 1956. Nhưng mải đến năm 1971 thì Đài Loan mới xây hạ tầng và căn cứ quân sự trên đảo này. 4.-Tàu khựa đánh cướp 7 bải đá, chiếm đóng bất hợp pháp của VN năm 1988, do lúc ấy VN không có quân đóng trên những bải đá này. Nhưng khi TQ cố chiếm Đá Gạc Ma, Đá Cô Lin và Đá Len Đao thì đã xảy ra 1 trận chiến đẩm máu giữa Hải quân VC và Hải quân tàu khựa. Kết quả TQ đã chiếm được Đá Gạc Ma còn VN giữ được Đá Cô Lin và Đá Len Đao. TQ không chiếm được 1 đảo nào trong quần đảo Trường Sa.

5.-Malaysia: Chủ quyền 7 bải đá, 0 đảo. Quần đảo Trường Sa trải rộng trong vùng

biển có diện tích chừng 170ngàn km2. Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, bải đá nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, tổng cọng chỉ khoảng chừng 11 km2, cách Vũng Tàu 564km, Cam Ranh 462km, Phan Thiết 499km và cách đảo Phú Quốc 444km. Quần đảo bao gồm 137 đảo,bải, đá nổi đá chìm.

Dưới đây là những đảo và bải đá trong Quần Đảo Trường Sa hiện do Việt Nam kiểm soát thuộc quyền quản trị của Tỉnh Khánh Hoà.

Đảo Trường Sa Lớn

Page 37: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 37

Bên trái là cầu tàu, chính giữa là đường phi đạo và phía bên phải có ngọn hải đăng. Đảo này nằm cách Cam Ranh, 470 km, cách Vũng Tàu hơn 500km. Đảo này dài 630m, chỗ rộng nhất là 300m.

Đảo Trường Sa Lớn nhìn từ cầu tàu.

Đảo Song Tử Tây

Đảo Song Tử Tây rộng 12 hecta. Năm 1968 lợi dụng Việt Nam không có quân đóng, Philippines đem quân chiếm đảo này, đến tháng 2/1974 VNCH bất ngờ đổ quân chiếm lại được. Ngay sau đó VNCH đã hoàn tất việc xây dựng hệ thống phòng thủ trên đảo. Đến năm 1993 VN xây ngọn hải đăng đầu tiên trên đảo này, đồng thời xây dựng 1 đài khí tương thuỷ văn và 1 phi đạo... Xưa kia là hòn đảo hoang vu chỉ có toàn phân chim và nơi chim đẻ trứng. Ngày nay với bàn tay sức người Song Tử Tây đã biến thành hòn đảo xinh đẹp...

Đảo Sinh Tồn nhìn từ xa.

Đảo Sinh Tồn Đông cách đất liền VN 592km. Tháng 2/1978, Philippines đưa quân chiếm đóng đảo Panata- VN gọi là Cồn San Hô Lan Can- đồng thời tăng cường các hoạt động thăm dò, trinh sát quanh khu vực. Nhưng VN đã tăng cường lực lượng phòng thủ và hiện vẫn kiểm soát đảo này.

Đảo Nam Yết có diện tích lớn thứ hai trong quần đảo Trường Sa sau đảo Ba Bình, cách đất liền 555 km. Trước đây, đảo Nam Yết chỉ bạt ngàn dừa, mu u, nhào, phong ba và là nơi nhiều

loài chim biển sinh sống. Ngày nay con người đã xây dựng nên một hòn đảo sạch đẹp, trong lành. Các cột màu trắng nhô lên cao là hệ thống năng lượng mặt trời cung cấp điện 24/24 cho toàn đảo.

Đảo Nam Yết

Đảo Phan Vinh (tên cũ hòn Sập) là phần nổi nằm trên vành san hô có vòng lớn và dài khoảng 5 hải lý (9,3 km) nằm theo trục Đông Bắc-Tây Nam. Đảo có chiều dài 132 m, chiều rộng 72 m. Đảo Phan Vinh là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Tàu khựa. Hiện tại Việt Nam đang kiểm soát đảo này như một phần của thị trấn Trường Sa, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa. Trên đảo không có nguồn nước ngọt nhưng có cây xanh.

Đảo Phan Vinh

Hòn đảo có cái tên Liêu trai Tiên Nữ, cách đất liền Việt Nam gần 750km. Đây là điểm xa nhất về phía Đông của Việt Nam. Nơi đây đón nhận tia nắng bình minh sớm nhất của VN. Chuyện kể rằng, xưa kia có một nàng tiên tuyệt đẹp, trên bước đường phiêu du nơi trần thế, thấy rặng san hô tuyệt đẹp của hòn đảo này đã khiến nàng vô cùng thích thú và quyết ở lại nơi này để nghĩ ngơi và dùng phép thuật của mình cứu giúp những ngư dân gặp nạn trên vùng biển Trường Sa. Do đó nét huyền bí trong tên gọi của nơi nầy, mãi mãi có lực hấp dẫn đầy lý thú cho những ai chưa từng đặt chân đến hòn đảo này.

Thật sự, Tiên Nữ là một rạn san hô vòng thuộc quần đảo Trường Sa, nằm gần với đá Núi Le, đá Tốc Tan và đảo Phan Vinh.

Đảo Tiên Nữ là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Tàu khựa. Hiện Việt Nam đang kiểm soát rạn vòng này như một phần của thị trấn Trường Sa, huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa. Tại đây có một nhà lâu bền và

Page 38: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 38

một ngọn hải đăng. Đảo có dạng hình tam giác với chiều dài 6.5 km và chiều rộng 2,8 km. Khi thủy triều xuống còn 0,1 m thì toàn bộ vành ngoài mép san hô đều nổi cao lên khỏi mặt biển. Tổng diện tích của rạn vòng này là 3,4 km².

Hải Đăng trên đảo Tiên Nữ

Đảo An Bang là một một cồn cát có dạng giống một cái túi với đáy nằm phía Đông và miệng thắt lại ở phía Tây; phần phía Tây này bị bao phủ bởi một lớp phân chim. An Bang có chiều dài 200 m, rộng 20 m và cao 2 m so với mặt biển khi thuỷ triều xuống. Tổng diện tích của đảo là 1,58 ha (0,0158 km2). Trên đảo không có cây xanh lớn mà chỉ có cỏ dại thấp. Trên đảo có 1 ngọn hải đăng. Đảo có khí hậu rất khắc nghiệt, đặc biệt là về mùa hè nhiều sóng gió ác liệt .

Đảo An Bang

Đảo An Bang là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Philippines và Tàu khựa. Hiện Việt Nam đang kiểm soát đảo này.

Vị trí các đảo phía Bắc Trường Sa

Đá Cô Lin thuộc Quần đảo Trường Sa. Nơi đây ngày 14/3/1988 Hải quân tàu khựa và Hải quân VC đã có 1 trận thư hùng để dành quyền kiểm soát nhóm bải đá: Đá Gạc Ma, Đá Cô Lin và Đá Len Đao. Tàu khựa bị hư 2 tàu chiến, chết 24 thuỹ binh, VN mất 3 tàu vận tải và 64 thuỷ binh. Kể từ đó bọn cướp biển tàu khựa chiếm đóng Đá Gạc Ma. Hai bải Đá Cô Lin và Đá Len Đao VN vẫn giữ được. Sau đó VN đã cho xây công sự chiến đấu và pháo đài trên những bải đá này.

Ngoài ra còn một vài đảo nhỏ khác, VN cũng đã có xây dựng những kiến trúc để xác lập chủ quyền.

Bọn Tàu Khựa xâm lược tham lam, hiếu chiến từ ngàn xưa, cha ông bọn chúng đã mấy lần xua quân xâm lăng Việt Nam đều bị quân VN đánh xấc bất xang bang phải ôm đầu máu nhục nhả chạy về. Nhưng ngày nay bọn con cháu của chúng vẫn chưa thuộc bài. Chúng vẫn còn nuôi mộng xâm chiếm VN. Chúng chưa bằng lòng với những gì chúng ăn cướp được của VN.

Hiện nay bọn Tàu khựa đã xây những nhà nổi, công sự chiến đấu và mang những phương tiện quân sự tối tân lên những bải đá mà chúng đã chiếm được. Chúng thường xuyên tập trận bắn đạn thật trên các bải đá và cả trong khu vực với tư thế khiêu khích hống hách, không ai biết được bọn chúng sẽ trổ ngón đòn gì. Ước mong đất nước Việt Nam mau chóng thay đổi trở nên một nước giàu mạnh hầu có đủ khả năng xây dựng 1 nền quốc phòng vững mạnh để nếu bọn tham lam Tàu khựa có manh động thì sẽ bị VN đánh cho vỡ mặt như cha ông chúng ngày xưa.

Bản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa, Trường Sa

Một tấm bản đồ Trung Quốc do triều nhà Thanh công bố năm 1904 cho thấy, đảo Hải Nam là điểm cực Nam của Trung Quốc chứ không phải hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tiến Sĩ Mai Ngọc Hồng, nguyên trưởng phòng Tư Liệu Thư Viện của Viện Hán Nôm đã trao tặng cho viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia của Việt Nam vào sáng 25 tháng 7 năm 2012 tấm bản đồ cổ mang tên “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” do nhà Thanh (Trung Quốc) xuất bản năm Giáp Thìn 1905 và trên bản đồ ghi rõ cực Nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam chứ không có Hoàng Sa và Trường Sa. “Ðây được coi là một tư liệu vô cùng giá trị khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”

Page 39: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 39

Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ 1904

Ngược về quá khứ, có thể thấy TQ là nơi có truyền thống lâu đời về sử học nói chung và địa đồ nói riêng. Với những tấm địa đồ vẽ những địa phương nhỏ đã xuất hiện và có niên đại từ rất sớm (năm 229 trước CN phát hiện 7 bức Bãi thả ngựa sông Thiên Thủy có niên đại thời Chiến Quốc). Song địa đồ được xem là thể hiện cương vực quốc gia hoàn chỉnh sớm nhất xuất hiện vào năm 1121 (đời Tống) và được khắc trên đá có tên gọi Cử vực thú lệnh đồ. Giới hạn cương vực nhà Tống trong Cửu vực thú lệnh đồ về phía Nam đến Quỳnh Châu (đảo Hải Nam ngày nay). Theo các nhà nghiên cứu, các địa đồ sau này trải qua các đời Nguyên, Minh như Quảng dư đồ (hoàn thành năm 1541, khắc in năm 1555), Hoàng triều chức phương địa đồ (khắc in năm 1636)… là những địa đồ hành chính toàn quốc, được thực hiện theo chủ trương của chính quyền Trung ương. Những địa đồ này thực hiện dưới sự ảnh hưởng của kỹ thuật vẽ địa đồ phương Tây, tuy nhiên điểm cực Nam của Trung Quốc trong cương vực tổng thể vẫn không vượt quá Quỳnh Châu.

Trên các bản đồ của Việt Nam như Hồng Đức bản đồ, trong các ghi chép của Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục”…chủ quyền HSTS đã thuộc về Việt Nam. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, luật pháp chứng minh.

Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam: Quần đảo Hoàng Sa là một tập hợp trên 30

đảo san hô, cồn cát, ám tiêu (rạn) san hô nói chung (trong đó có nhiều ám tiêu san hô vòng hay còn gọi là rạn vòng) và bãi ngầm thuộc biển Đông, ở vào khoảng một phần ba quãng đường từ miền Trung Việt Nam đến phía bắc Philippines. Quần đảo trải dài từ 15°45′ đến 17°15′ Bắc và từ 111°00′ đến 113°00′ Đông, có bốn điểm cực Bắc-Nam-Tây- Đông lần lượt tại đá Bắc, bãi Ốc Tai Voi, đảo Tri Tôn và bãi Gò Nổi. Độ dài đường bờ biển đạt 518 km. Điểm cao nhất của quần đảo là một vị trí trên đảo Đá với cao độ 14 m (hay 15,2 m). Vùng biển Hoàng Sa trong biển Đông nằm trong vùng "xích đạo từ".

Về khoảng cách tới đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần Việt Nam hơn. Khoảng cách từ đảo Tri Tôn (15°47'B 111°12'Đ) tới đảo Lý Sơn (15°22'B 109°07'Đ) là 123 hải lý. Nếu lấy toạ độ của cù lao Ré (tên cũ của Lý Sơn) là 15°23,1'B 109°09,0'Đ từ bản tuyên cáo đường cơ sở của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 12 tháng 11 năm 1982) thì khoảng cách đến bờ Lý Sơn thu ngắn lại dưới 121 hải lý. Ngoài ra, khoảng cách từ đảo Tri Tôn này đến mũi Ba Làng An (15°14'B 108°56'Đ) thuộc đất liền Việt Nam là 135 hải lý. Trong khi đó, khoảng cách từ đảo Hoàng Sa đến Lăng Thuỷ giác (Trung văn giản thể: 陵水角; bính âm: Língshuǐ jiǎo) thuộc đảo Hải Nam của Trung Quốc là 140 hải lý. Khoảng cách từ Hoàng Sa tới đất liền lục địa Trung Quốc tối thiểu là 235 hải lý. Nếu Trung Quốc dùng rạn đá ngầm (đá Bắc) làm chuẩn để đo đến bờ đảo Hải Nam tại Lăng Thuỷ giác thì khoảng cách là 112 hải lý, nhưng do đá ngầm không có giá trị như đảo trong việc chuẩn định ranh giới nên lý lẽ này không thuyết phục.

Sau khi Pháp rút khỏi Ðông Dương, Việt Nam Cộng Hòa đã đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo này cho đến khi cuộc hải chiến năm 1974 xảy ra. Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, được gọi là nhóm Nguyệt Thiềm (Lưởi Liềm) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh / Tuyên Ðức (Amphitrite group). Có tài liệu lại chia quần đảo Hoàng Sa làm ba nhóm, trong đó ngoài hai nhóm trên còn có một nhóm nữa gọi là nhóm Linh Côn.

1. Nhóm An Vĩnh Nhóm đảo An Vĩnh (tiếng Anh: Amphitrite

Group; Trung văn giản thể: 宣德群岛, Hán-Việt: Tuyên Đức quần đảo) bao gồm các thực thể địa lý ở phía Đông Bắc của quần đảo. Nhóm này bao

Page 40: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 40

gồm đảo Bắc, đảo Cây (đảo Cù Mộc), đảo Trung (đảo Giữa), đảo Đá, đảo Linh Côn, Đảo Nam, đảo Phú Lâm, đá Bông Bay, cồn cát Bắc, cồn cát Nam, cồn cát Tây, cồn cát Trung, hòn Tháp, đá Trương Nghĩa, bãi Bình Sơn, bãi Châu Nhai, bãi Gò Nổi, bãi Quảng Nghĩa, bãi Thủy Tề,...

Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, An Vĩnh là tên một xã vào thời chúa Nguyễn (Đàng Trong), thuộc huyện Bình Dương (tức huyện Bình Sơn) phủ Tư Nghĩa trấn Quảng Nam (Tư Nghĩa tức phủ Hòa Nghĩa, đến thời nhà Nguyễn thì trở thành tỉnh Quảng Ngãi).

Sách Đại Nam thực lục (tiền biên, quyển 10) ghi chép về xã nầy như sau: Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi...

Quốc sử quán (triều Nguyễn): Tên quốc tế của nhóm đảo là Amphitrite. Tên này là đặt theo tên một chiếc tàu Pháp trên đường đưa các giáo sĩ châu Âu sang Viễn Đông, gặp nạn rồi đắm ở vùng Hoàng Sa vào cuối thế kỷ 17.

2. Nhóm Nguyệt Thiềm Nhóm đảo Nguyệt Thiềm hay Lưỡi Liềm

(tiếng Anh: Crescent Group; Trung văn giản thể: 永乐群岛, Hán-Việt: Vĩnh Lạc quần đảo) bao gồm các thực đảo ở phía Tây Nam của quần đảo. Nhóm này còn được gọi là nhóm Trăng Khuyết hay nhóm Lưởi Liềm. Nhóm Nguyệt Thiềm bao gồm đảo Ba Ba, đảo Bạch Quy, đảo Duy Mộng, đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Nguyệt Thiềm, đảo Ốc Hoa, đảo Quang Ảnh, đảo Quang Hòa, đảo Tri Tôn, đá Bắc, đá Chim Én (Yến), đá Hải Sâm, đá Lồi, đá Sơn Kỳ, đá Trà Tây, bãi Đèn Pha, bãi Ngự Bình, bãi Ốc Tai Voi, bãi Xà Cừ,...

Lịch sử Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa đã có đài

khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Ðà Nẵng và được bảo vệ bởi một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Năm 1956, hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo. Năm 1958, Tàu khựa công bố bản tuyên ngôn lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Ðài Loan, Ðông-sa/Tây-sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam-sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo Macclesfield, quần đảo Bành Hồ (Pescadores).

Sự thay đổi nhận thức về các đảo và quần đảo trên biển Đông của Phương Tây (châu Âu) từ thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 (1710-1794-1801-1826).

Bản đồ Đông Nam Á ( Biển Đông) từ Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ năm 1602 của Matteo Ricci.

Biển Đông và vùng Đông Nam Á được Matteo Ricci vẽ trong "Khôn dư vạn quốc toàn đồ" in tại Trung Quốc năm 1602, có ghi dòng chú thích bằng chữ Hán "万里長沙" (Vạn Lý Trường Sa).

Từ thế kỷ 16 đến 18, người châu Âu từ các quốc gia như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Pháp vẫn chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa quần đảo Trường Sa với quần đảo Hoàng Sa. Trên bản đồ thường ghi I de Pracell như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590), bản đồ Van Langren (1595)... Cho đến năm 1787-1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mới xác định rõ vị trí của quần đảo Paracel (chính xác là quần đảo Hoàng Sa hiện nay) và từ đó người phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc với một quần đảo khác ở phía Nam, tức quần đảo Trường Sa.

Tên gọi Sang thế kỷ 18 và 19 các nhà hàng hải

châu Âu thỉnh thoảng đi ngang qua vùng Trường Sa. Đến năm 1791 thì Henry Spratly người Anh du hành qua quần đảo và đặt tên cho đá Vành Khăn là Mischief. Năm 1843 Richard Spratly đặt tên cho một số đảo thuộc Trường Sa, trong đó có Spratly's Sandy Island cho đảo Trường Sa. Kể từ đó Spratly dần trở thành tên tiếng Anh của cả quần đảo.

Đối với người Việt thì thời nhà Lê các hải đảo ngoài khơi phía Đông được gọi chung là Đại Trường Sa đảo. Đến thời nhà Nguyễn dưới triều vua Minh Mạng thì tên Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙) xuất hiện trong bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ của Phan Huy Chú. Bản đồ này đặt nhóm Vạn Lý Trường Sa ở phía Nam nhóm Hoàng

Page 41: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 41

Sa (黄沙). Về mặt địa lý thì cả hai nhóm đều được khoanh lại thành một quần đảo lớn nằm dọc bờ biển miền trung nước Đại Nam.

Theo phía Trung Quốc: "Hỗn nhất cương lý lịch đại quốc đô chi đồ" (混一疆理歷代國 都之圖) thời nhà Minh có đánh dấu vị trí của Thạch Đường, và vị trí này hiện được phía Trung Quốc cho là tương ứng với Nam Sa (Trường Sa) hiện tại. Bản đồ "The Selden Map of China" được lưu trữ tại thư viện Đại học Oxford (Anh), được cho là "Thiên hạ hải đạo toàn đồ" hay "Đông - Tây dương hàng hải đồ" và được làm ra vào khoảng năm Thiên Khải thứ 4 (1624), có ghi địa danh Vạn Lý Thạch Đường(萬里石塘), (phía đông của đảo mang tên Ngoại La (外羅), tức đảo Lý Sơn), ở kề cận phía Nam Tây Nam của Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙). Năm 1935, Trung Hoa Dân Quốc đã xuất bản "Biểu đối chiếu tên gọi Hoa-Anh các đảo thuộc Nam Hải Trung Quốc", trong đó nước này gọi Trường Sa là Đoàn Sa (chữ Hán phồn thể: 團沙) còn cụm từ Nam Sa thời đó là để chỉ Trung Sa ngày nay. Ngày 1 tháng 12 năm 1947, nước này công bố tên Trung Quốc cho hàng loạt thực thể thuộc biển Đông và đặt chúng dưới sự quản lý của

mình. Trong tấm bản đồ mới, Trung Hoa Dân Quốc lần đầu tiên vẽ đường mười một đoạn đứt khúc (tiền thân của đường chín đoạn) thay cho đường vẽ bằng nét liền trước đây, đồng thời nước này đổi tên Nam Sa thành Trung Sa và đổi tên Đoàn Sa thành Nam Sa.

Tranh chấp chủ quyền: Từ những thập niên đầu của thế kỷ 20, thời

kỳ yên bình của quần đảo Trường Sa đã chấm dứt. Hàng loạt quốc gia từ châu Á đến châu Âu như Việt Nam, Pháp, Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và trong một số giai đoạn lịch sử là Anh và Nhật Bản đều tham gia vào cuộc tranh chấp, dù là ở các mức độ khác nhau.

Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông gồm các tranh chấp về đảo và vùng biển. Quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa là hai quần đảo trên các rạn san hô ở Biển Đông, trong đó quần đảo Hoàng Sa đang là nơi tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam, Tàu khựa và Đài Loan. Quần đảo Trường Sa là nơi tranh chấp chủ quyền của 6 quốc gia: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei. Các quốc gia này tuyên bố chủ quyền toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, vùng biển trong khu vực Biển Đông cũng là đối tượng tranh chấp, với lợi ích mà các quốc gia quan tâm gồm: ngư trường, khai thác tài nguyên đặc biệt là dầu khí và kiểm soát của một vị trí chiến lược.

Các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực diễn ra từ sau thế chiến II. Ban đầu các quốc gia tranh chấp vì vị trí chiến lược của Biển Đông.

Đối với Tàu khựa, Biển Đông nói chung cũng như quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa có vị trí quan trọng do nằm giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương là một vùng chiến lược quan trọng, là cổng của lục địa Trung quốc đi ra thế giới bên ngoài.

Đối với Nhật Bản thì Biển Đông là con đường giao thông huyết mạch, không chỉ với Đông Nam Á mà cả với Trung Đông và châu Âu. Nền kinh tế Nhật Bản gắn liền với sự giao thông này. Vì lợi ích chiến lược, trong Thế chiến 2 Nhật đã cho xây căn cứ tàu ngầm tại đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa.

Sau khi Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định về Vùng đặc quyền kinh tế thì tầm quan trọng của việc khai thác tài nguyên, đặc biệt là đánh cá và khai thác dầu khí là nguyên nhân bổ sung cho mục đích tranh chấp.

Page 42: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 42

Theo Bộ Tài nguyên & Địa chất Trung Quốc ước tính trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông ước khoảng 17,7 tỷ tấn, so với trữ lượng 13 tỷ tấn của Kuwait.

Ngày 11 tháng 3 năm 1976, lần đầu tiên công ty dầu Philippines phát hiện một mỏ dầu ngoài khơi đảo Palawan. Mỏ dầu này đang cung cấp 15% lượng dầu mỏ tiêu thụ hàng năm ở Philippines. Một số nguồn khác cho rằng trữ lượng dầu mỏ xác minh trong Biển Đông là 7,5 tỷ thùng. Trung Quốc gọi Biển Đông là "vịnh Ba Tư thứ hai". Tuy nhiên nhiều chuyên gia dầu khí phương Tây hoài nghi con số dự báo của Trung Quốc về trữ lượng dầu khí, tập trung chủ yếu ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như không tính đến trữ lượng có thể khai thác thương mại.

Tuy nhiên, không quốc gia nào trong số các quốc gia tuyên bố chủ quyền các đảo Trường Sa tiến hành khai thác tài nguyên trên quy mô lớn để tránh gây ra một cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, các công ty dầu quốc tế vẫn chưa được thực hiện các cam kết và hy vọng rằng các tranh chấp lãnh thổ sẽ được giải quyết.

Các cơ hội đánh bắt cá phong phú cũng là một động lực cho yêu sách chủ quyền. Năm 1988, Biển Đông chiếm 8% sản lượng đánh bắt trên thế giới. Đã có nhiều vụ đụng độ của các tàu Trung Quốc với tàu của ngư dân Việt Nam và Philippines trong khu vực Biển Đông. Trung Quốc tin rằng giá trị thu được từ việc đánh bắt cá và dầu từ biển tăng lên đến 1.000 tỷ đô la Mỹ.

Khu vực này cũng là một trong những tuyến hàng hải bận rộn nhất trên thế giới. Trong những năm 1980, ít nhất 270 tàu chở hàng chạy qua khu vực mỗi ngày. Hơn một nửa lượng hàng hóa vận chuyển bằng tàu biển hàng năm của thế giới đi qua eo biển Malacca, eo biển Sunda, và eo biển Lombok, với đa số tàu này tiếp tục hành trình vào Biển Đông. Lượng tàu chở dầu đi qua eo biển Malacca để vào Biển Đông nhiều hơn 3 lần số tàu loại này qua kênh đào Suez, hơn 5 lần số lượt loại tàu này qua kênh đào Panama.

Các khu vực chấp giữa các nước đối với quần đảo trường sa.

Bởi Luật biển năm 1982 của Liên hiệp quốc cho phép các nước có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng 200 dặm biển (370.6 km) từ lãnh hải của họ, tất cả các nước quanh vùng biển có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền với những phần rộng lớn của nó. Tàu khựa nhân cơ hội nầy đã tuyên bố chủ quyền hầu như toàn bộ vùng biển. Những báo cáo gần đây cho thấy Tàu khựa đang phát triển một

nhóm tàu sân bay để bảo vệ những đường vận chuyển nhiên liệu ở Biển Đông.

Những vùng có nguy cơ tranh chấp gồm: - Indonesia và Tàu khựa về vùng biển Đông Bắc quần đảo Natuna. - Philippines và Tàu khựa về những khu khai thác khí gas Malampaya và Camago. - Philippines và Tàu khựa về bãi cạn Scarborough. - Việt Nam và Tàu khựa về vùng biển phía Tây quần đảo Trường Sa. Một số hay toàn bộ quần đảo Trường Sa đang bị tranh chấp giữa Việt Nam, Tàu khựa, Đài Loan, Philippines và một số nước khác. - Tàu khựa đang cưởng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa dù Việt Nam và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền. - Malaysia, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam về những vùng ở vịnh Thái Lan. - Singapore và Malaysia dọc theo Eo biển Johore và Eo biển Singapore. - Cả Trung Hoa và Việt Nam đều theo đuổi các tuyên bố chủ quyền một cách mạnh mẽ. Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm được 6 đảo năm 1974 và 18 binh sĩ đã thiệt mạng. Quần đảo Trường Sa là nơi đã xảy ra vụ cướp biển, hơn bảy mươi lính thủy Việt Nam đã bị giết hại ở phía Nam bãi đá Gạc Ma vào tháng 3 năm 1988.

ASEAN nói chung, luôn muốn đảm bảo rằng những tranh chấp bên trong Biển Đông sẽ không leo thang trở thành xung đột quân sự. Vì vậy, các cơ cấu phát triển chung đã được lập ra tại các vùng tranh chấp chồng lấn để cùng phát triển vùng và phân chia quyền lợi công bằng tuy nhiên không giải quyết vấn đề chủ quyền của vùng đó. Điều này đã trở thành sự thực, đặc biệt là ở Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, gần đây bọn Hán gian Tàu khựa đã tuyên bố sẽ không ngại dùng vũ lực để chiếm lỉnh quần đảo Trường Sa.

Tại hội nghị hòa bình diễn ra tại San Fransico năm 1951, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố các quần đảo này là một phần của lãnh thổ Việt Nam chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuy nhiên không có ý kiến hoặc bình luận nào. Lúc đó Trung Cộng và Dài Loan không tham dự.

Năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đưa ra yêu sách chủ quyền trên Biển Đông với đường lưỡi bò 11 đoạn, sau này Trung Cộng sử dụng lại đường lưỡi bò này nhưng chỉ còn 9 đoạn. Đường lưỡi bò bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông là quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi

Page 43: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 43

Macclesfield với khoảng 75% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ chừa lại khoảng 25% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam, tức mỗi nước được trung bình 5%.

Kết Luận:

Khi phân tích các tài liệu Việt Nam và các tài liệu ngoại quốc cũng như của Trung Quốc, chúng ta thấy rất rõ hầu hết tài liệu Việt Nam đều là tài liệu của nhà nước, minh xác rất rõ việc xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam qua các hoạt động khai thác kinh tế, hoạt động quân sự của đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải do chính quyền quản trị, các hoạt động của dân các tỉnh miền Trung như Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Thuận… cùng các hoạt động của thủy quân, giám thành như xây dựng miếu, trồng cây, dựng bia, đặt cột mốc, đo đạc thủy trình … Còn tài liệu nước ngoài, trong đó có cả tài liệu Trung Quốc, phần lớn là nguồn tư nhân.

Các tài liệu cho thấy các nhà tu, nhà buôn, thám hiểm cũng đều khẳng định Cát Vàng (Hoàng Sa) là Paracel và chính quyền Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình qua các thời đại như An Nam đại quốc họa đồ do Giám mục Taberd soạn vẽ và xuất bản năm 1838, so với các bản đồ Việt Nam đương thời, công trình của Taberd có những đặc sắc sau: - Cho đến thời điểm 1838, nước ta chưa có bản đồ nào vẽ theo phương pháp đồ học của phương Tây, ghi chép khá đầy đủ địa danh và được in khổ lớn (40×80cm) như An Nam đại quốc họa đồ. - Địa danh trên bản đồ được ghi bằng chữ quốc ngữ hoặc tiếng Latin, gồm cả địa danh hành chính & tục danh, có thêm những địa danh do ngoại quốc đặt ra. Việc khảo cứu địa danh cho thấy An Nam đại quốc họa đồ được soạn vẽ từ thời Gia Long. - An Nam đại quốc họa đồ là một tài liệu khách quan có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông trong lịch sử. - An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd đích thực là tài liệu có giá trị lịch sử mà không một bản đồ nào đương thời sánh kịp

- The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol. VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels). - The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...

Về những tư liệu của Trung Quốc và phương Tây minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy: - Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa. - Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.

Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước TQ do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.

Sau khi Tàu khựa dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Tàu khựa đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu Hoàng Sa Tự là ngôi miếu cổ của người Việt xây dựng ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.

Tham khảo: - Trung Quốc bắt nạt láng giềng ở biển Ðông Nhật báo người Việt Monday, February 11, 2013 - Phát hiện tấm bản đồ cổ của Trung Quốc chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc lãnh thổ Trung Quốc của Duy Minh. - Chuyển Động Ngoại Giao Dồn Dập ở Đông Nam Á của Đào Văn Bình. - Hoàng Sa, Trường Sa, và bản đồ “Ðại Nam Nhất Thống Toàn Ðồ đời Minh Mạng” (1834) trên Wikipedia. - Cuộc Hành quân THD 48 tháng 2/74 của VNCH

Vĩnh Trường

Page 44: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 44

HUỲNH KHẮC SỬ, cpa, cga

Cựu LS Tòa Thượng Thẫm Saìgòn

Một câu trả lời quá dễ không cần đắn đo Tôi xin bắt đầu bài viết bằng một câu hỏi.

Xin quý vị dựa trên lương tâm mà tự trả lời, không bè không đảng: Nếu trong khu nhà quý vị tất cả bà con láng giềng chung quanh đang sống an lành ,bổng dưng có một nhóm năm ba người từ trong rừng đi ra, đa số mới biết đọc “i, tờ”, trang bị súng đạn. Họ nói với quý vị rằng, từ nay trở đi, họ là đại diện duy nhất của quý vị, có quyền quyết định mọi thứ. Lúc đầu, không ai dám chống lại. Càng ngày, sự an sinh trong khu xóm càng tệ. Nhiều người vượt biên để tìm sống, nhiều cô gái không có việc làm phải sống bằng nghề mãi dâm. Chỉ có nhóm người nầy được nhà cao cửa rộng, nắm tất cả quyền thế. Nhiều người bắt đầu ra mặt chống đối. Bị họ hăm dọa, bắt bớ, đánh đập, tù đày…Trong tình cảnh đó, quý vị thấy sao? Riêng tôi, tôi cảm thấy quá bất bình.Tôi may mắn không phải sống trong hoàn cảnh đó, nhưng lương tâm tôi không chấp nhận cáí trò “chơi cha, mất dạy, thiếu đạo đức” của nhóm người bạo quyền nầy. Thật là ăn hiếp người quá đáng.

Anh là ai? Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai?

Tổ chức chánh quyền độc đảng CSVN Bây giờ lập luận trên bình diện quốc gia.

Thật là bất hạnh, cả dân tộc VN bị rơi vào hoàn cảnh bi đát y như khu xóm nhỏ nói trên! Họ bị Đảng CSVN độc quyền cai trị, đàn áp. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN quy định: “Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, vô điều kiện và không do dân bầu”. Cách hành văn có vẻ thách thức xem thường nhân dân. Chỉ một mình Đảng CS mới có quyền cai trị

đất nước. Họ cướp đi quyền tự do bầu phiếu của nhân dân. Ngoài ra, Hiến pháp nầy cho Đảng CS một mình nắm trọn 3 quyền Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp.

Tổ chức công quyền các quốc gia dân chủ Tây phương

Các quốc gia Tây phương, áp dụng đường lối dân chủ theo chế độ đa đảng; hoặc chế độ Tổng thống như Mỹ, Pháp, Nga… hoặc chế độ Đại nghị như Canada, Anh, Úc… Hơn nữa, ba quyền Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp độc lâp với nhau. Nhờ vậy việc tham nhũng được hạn chế. Trong chế độ nầy, đảng nào được dân thương, được đa số dân tín nhiệm bầu cho mình, có quyền quản trị đất nước cho đến khi hết nhiệm kỳ. Các đảng không được đa số, đóng vai trò đối lập, có nhiệm vụ kiểm soát đảng nắm chánh quyền, nói lên nguyện vọng của người dân. Như ta đã biết, hệ thống đa đảng không phải là toàn hão, hoàn toàn tránh được lòng tham của con người.

Tổ chức Đảng CSVN Bản chất độc tài chế độ độc Đảng là

nguyên nhân chánh của những tệ trạng xã hôị, kinh tế, chánh trị của VN ngày nay. Đất nước VN được vun trồng bằng “phân hôi độc đảng”, ắt phải sanh ra những hoa trái đầy sâu. Nhân xấu, làm sao cho quả tốt được. Một chánh phủ không do dân bầu lên, cứ mãi miết nắm quyền bằng bạo lực, thì làm sao lo cho toàn dân được. Họ chỉ biết lo cho một số đảng viên cao cấp mà thôi. Như thế đã gần hai thế hệ rồi còn muốn gì nữa !

Vào năm 2011 đảng CSVN có khoảng 3.600. 000 đảng viên (4% dân số VN), Tổng bí thư là Ông Nguyễn Phú Trọng. Đảng hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn thể đảng viên chọn ra 1377 đại biểu. Số người nầy, có nhiệm vụ chọn 175 người trong Ban chấp hành Trung ương. Ban nầy chọn 15 người cho Bộ chính trị. Trong chế độ CSVN cũng như CSTrung Quốc, ba quyền kể trên được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất toàn diện của Bộ chánh trị. Nhiều người trong Bộ Chánh trị giữ chức vụ cao trong Hành pháp, như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng

Page 45: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 45

Nguyễn Tấn Dũng. Quốc hội có 500 người được dân bầu nhưng theo danh sách của Đảng đưa ra, trong đó 90% là đảng viên chính thống và 10% ngoài đảng, có ngườì gọi đảng viên chìm.

Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao là một đảng viên, Trung tướng Bộ Công an. Tòa án thường phải nghe theo ý kiến của cơ quan điều tra là Bộ Công an. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1907-1997, mất tại Hà Nôị, người đậu 2 bằng tiến sĩ Quốc gia về Luật và Văn chương tại Pháp, lúc 23 tuổi), trong tác phẩm gần cuối đời của ông “Tiếng vọng trong đêm” (Une voix dans la nuit) có nhận xét về Quốc hội VN như sau: “Cái QH nầy gồm 100% đảng viên chánh thức và CS chìm (crypto communists), luôn luôn bày tỏ, xác nhận sự trung thành triệt để đối với chánh quyền… Cái QH nầy được coi như là đại diện của dân nhưng nó lại là đại diện của Đảng. Tất cả những điều luật đều do chánh phủ gợi ý hay làm ra”. Còn về Tư pháp, ông viết: “Nguyên tắc căn bản trong các nước văn minh, là phải tôn trọng sự độc lâp của các quan Tòa. Vậy mà ở VN, các thẫm phán trước khi tuyên án phải hỏi ý kiến Đảng… Cho nên sự vô trách nhiệm của họ toàn diện, không chỉ trong địa hạt chính trị mà cả pháp lý”. Về độc quyền đảng trị ông viết: “Nay độc quyền đảng trị cho phép tất cả cán bộ CS được quyền ban những quyết định có trọng lượng vàng. Một chữ ký dưới cái giấy chứng nhận mang lại cho người ký một phong bì đầy đô la, đưa tận tay, kín đáo… “

Tổ chức Đảng CSTQ Ở Trung quốc, tổ chức Đảng CS cũng

giống như VN. Đảng CSTQ gồm khoảng 83 triệu đảng viên, Tổng bí thư Đảng là ông Tập cận Bình. Theo báo Le Monde ở Pháp: Đảng CSTQ đầy quyền lực giống như một băng đảng mafia chuyên ban phát cho các đảng viên những thành quả của sự tăng trưởng kinh tế tuyệt vời tại TQ. Đảng cũng như Thượng đế, có mặt khắp nơi, nhưng ta không nhìn thấy được”.

Có một điều khác là ở TQ, họ chấp nhận chế độ hợp tác đa đảng nhưng quy định thêm rằng, Đảng CSTQ là chính đảng chấp chánh duy nhất, 8 chính đảng còn lại được gọi là đảng phái dân chủ. Các đảng nầy đã được thành lập từ lâu, trong thời kỳ chiến tranh Trung-Nhựt và nội chiến Trung Quốc. Vai trò các đảng dân chủ là phát huy công việc giám sát và phụ tá Đảng CSTQ. Chủ tịch các đảng nầy thường kiêm nhiệm giữ những chức vụ phó mà thôi trong các Ủy ban không quan trọng.

Phương châm hợp tác căn bản giữa Đảng CSTQ và các đảng dân chủ là: cùng tồn tại lâu dài, giám sát lẩn nhau, đối xử chân thành và vinh nhục có nhau. Tuy nhiên các chính đảng nầy không được hoàn toàn độc lập, vẫn còn phụ thuộc vào đảng CS, chẳng hạn muốn thâu nhận một đảng viên mới, phải được đảng CS chấp thuận trước. Như vậy, CSTQ còn khá hơn CSVN vì họ chấp nhận các đảng đối lập được quyền giám sát ít nhiều chánh quyền CS.

Xứ mọi rợ đánh chiếm một xứ văn minh Trong thời gian tranh đấu, chống một quốc gia quá mạnh như nước Pháp, ông Hồ chí Minh phải nhờ tới những kỷ thuật hạ đẳng của Đảng CS quốc tế để giúp ông. Nhờ vậy, ông đã đuổi được người Pháp ra khỏi VN, chiếm được phân nửa đất nước vào năm 1954. Rồi 21 năm sau, cướp trọn VN vào năm 1975. Lính Mỹ phải rút quân về nước. Ngày hôm nay, nếu Ông có sống lại, Ông cũng không tưởng tượng cảnh thê thảm của đất nước, sự lầm lẫn của chính mình, đến nỗi bà Dương Thu Hương đã viết: “Đây là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất của lịch sử, xứ mọi rợ đánh chiếm một xứ văn minh”. Vậy mà tại sao cho tới ngày nay, đảng CS vẫn tiếp tục kèm kẹp, đàn áp nhân dân?

“Tư bản đỏ” sẽ thành “Tư bản trắng” Ông Mai Chí Thọ, một cán bộ cao cấp CS,

thố lộ như sau: “Phải giữ chánh quyền trên hết. Chánh sách sai thì có thể sửa được, còn mất chánh quyền là mất hết”. Các ông sợ mất cái gì? Gần 40 năm hưởng vinh hoa phú quý, ăn hiếp người dân, chưa đủ để bù lại cho những ngày cực khổ sống trong rừng núi hay sao? Các ông có nhà cao cửa rộng, con cháu giàu sang, được du học ở nước ngoài đang tạo thành một giai cấp mới, mà người ta gọi là “Tư bản đỏ”. Chính Marx tiên đoán trong quyển Tư bản luận của mình: “một ngày nào đó, nhân dân sẽ đứng nhìn giai cấp tư bản tự bị hủy

Page 46: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 46

diệt, như con cá giải chết”. Như vậy, nếu các ông cứ mãi mãi ôm chặc quyền hành, tiếp tục tích lủy tư bản, thì hãy coi chừng“Tư bản đỏ”sẽ thành “Tư bản trắng”, trắng tay, không còn một đồng xu dính túi.

Theo Tàu thì mất nước, theo Mỹ thì mất Đảng, hãy theo dân tộc mình Nếu CSVN sợ người anh láng giềng khổng lồ Trung Quốc không cho phép, sợ họ sẽ tìm cách làm khó dể, họ mang quân sang đánh, thì ngay bây giờ CSVN phải thu phục lòng dân bằng cách xóa bỏ ngay điều 4 Hiến pháp, chấp nhận chế độ đa đảng, chế độ đối lập, tự do báo chí. Có như thế mới huy động được toàn thể nhân dân trong trường hợp phải chống giặc ngoại xâm. Đáng lẽ ra phải làm theo phương cách như người xưa nói: phải coi “Dân là trọng”, thì CSVN làm trái lại, đất nước làm sao mà không yếu, bị người ăn hiếp. Muốn tránh khỏi bị người Tàu đồng hóa, không trở thành ngôi sao thứ sáu trên lá cờ của họ, phải làm khác điều họ làm. Cứ ôm giữ mãi cái chế độ chánh trị độc tài giống họ, làm sao thoát khỏi ra quỷ đạo của họ được. Chẳng lẽ CSVN đã không nghe câu nói trong dân gian: theo Tàu thì mất nước, theo Mỹ thì mất Đảng, phải theo dân tộc VN. Vì nếu theo nhân dân, chẳng những Mỹ mà tất cả quốc gia tự do trên thế giới sẽ giúp ta, trừ 3 nước theo chế độ CS. Hãy học theo cái gương ông Hun Sen,Thủ tướng Cambodge. Trường hợp nước ông cũng gặp nhiều khó khăn như nước ta. Nhưng sau cùng, dân Cambodge may mắn có được một Hiến pháp theo chế độ tư do.

Một bầy sâu tham nhũng Dù các nhà lảnh đạo Đảng CS có ham muốn đến đâu đi nữa, cũng phải biết giới hạn lòng tham lại. Phải rời bỏ chế độ độc đảng, chấp nhận tiếng nói đối lập, mới có thể động viên lòng yêu nước của dân tộc. Hoàng sa, Trường sa nay thuộc về ai? Tệ hại của chế độ độc đảng là tạo ra bè cánh

chống đối nhau, tham nhủng, đàn áp. Mới đây mọi người đều thấy cánh Trương Tấn Sang tố cánh Nguyễn Tấn Dũng. Ông Nguyễn Phú Trọng, trong kỳ Đại hội Đảng lần thứ 11, thú nhận với nhân dân rằng, ngày nay trong chánh quyền không những chỉ có một con sâu mà là một bầy sâu tham nhũng. Ông cho rằng chuyện xấu nầy là chuyện nội bộ Đảng, do người đi trước để lại. Ông xin lỗi toàn dân. Chỉ xin lỗi đủ hay sao ? Phải quy trách nhiệm và trừng phạt người phạm lỗi mới phải. Trong những vụ tham nhũng, lộng quyền trong giới ngân hàng, vụ hảng tàu vinashin, vinalines thất thoát hàng tỷ mỹ kim, vụ đất đai Tiên Lãng, Văn Giang… các người có trách nhiệm vẩn được bao che. Gần đây, đảng có ra quyết định, buộc các cán bộ cao cấp phải kê khai tài sản. Có người cho rằng, biện pháp nầy sẽ không mang lại kết quả. Những cán bộ giàu có đã và sẽ chuyển cho con cháu họ đứng tên làm chủ tài sản của họ, vì ở VN, theo một luật sư, không có luật truy tìm nguồn gốc tài sản từ đâu đến.

Số phận hẩm hiu của 87 triệu dân ngoài Đảng Chế độ độc đảng cướp mất quyền tự do chọn lựa người lảnh đạo quốc gia. Nhân dân VN đã chán ngấy cái “trò đảng cử dân bầu”. Họ muốn lá phiếu của họ có ý nghĩa hơn, chớ không phải bầu trong số người đảng chọn. Nhân dân VN đâu phải chỉ cần ăn no, mà còn cần sự được tự do, không bị công an hăm dọa, cần cuộc sống có ý nghĩa, xã hôị được công bình. Chế độ độc đảng là trắng trợn vi phạm nhân quyền, tạo ra bất công giữa người trong Đảng và 87 triệu người ngoài Đảng. Ta đã thấy bao nhiêu người bị tù đày như Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn văn Lý, BS Nguyễn Đan Quế, LS Lê thị Công Nhân, Huỳnh THục Vy, Tạ phong Tân, Phạm Thanh Nghiêm… vì chống đối họ.

Page 47: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 47

Phương tiện truyền thông ngày nay khác xưa Duy trì chế độ độc đảng là đi ngược lại bánh xe lịch sử trên thế giới, trước sau sẽ bị cán nát vì không theo chiều tiến hóa lịch sử thế giới. Ngày nay, phương tiện truyền thông nhanh chóng, chánh quyền không dấu diếm được sự thật dể dàng, như thời xưa của Ông Hồ Chí Minh. Bao nhiêu bài bình luân có gía trị, tin tức được loan đi trên các mạng không được phép của CS, như Quan làm Báo, Dân làm Báo…Chỉ cần một thời gian ngắn, người ta có thể huy động hàng trăm ngàn người để phản đối chánh phủ.

Bộ sậu tham nhủng nhất nước hiện nay

Ai thực sự là “người thua cuộc” ? Nhiều người cho rằng nếu không có Ông

Hồ Chí Minh, hoặc nếu Ông không nhờ cái Đảng CSQT được tổ chức theo kỹ thuật sắt máu, biến những công nông nhân thật thà, thiếu học, thành kẻ sát nhân, để cho Ông “giải phóng đân tộc”, thì đất nước VN sẽ được viết bằng những trang sử khác hẳn. Nhiều người nửa đùa, nửa thật nói rằng, “con đường Bác đi là con đường bi đát”. Đúng vậy, thật là bi đát, mỗi khi nhớ lại những cảnh chết chóc thê thãm của hàng vạn nạn nhân do phong trào Xô Viết Nghệ Tỉnh, phong trào cải cách điền địa… Tuy nhiên, phải công tâm nhìn nhận rằng, lúc bắt đầu đi, Ông hết lòng mong sao con đường dài nầy, sau cùng sẽ dẩn đến sự độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng khôi hài làm sao, ngày hôm nay, đó là con đường quá đen tối đem lại cho dân tộc VN những điều hoàn toàn trái hẳn lại. Có thể nói Ông đã thắng trong 2 trận đầu là “đuổi Tây chống Mỹ”.

Nhưng trận kết cuộc, trận tự do dân chủ, Ông hoàn toàn thất bại, không đạt được những điều mong ước. Vậy chính Ông là “người thua cuộc”. Ông phải chịu trách nhiệm với nhân dân, cho đến khi nào đám con cháu tham quyền cố vị chịu trả hết nợ cho Ông, bằng cách từ bỏ độc quyền Đảng trị.

Huỳnh Khắc Sử

Tôi thương em Tặng Phương Uyên cô học trò nhỏ ngoan cường

Tôi thương em dáng học trò

Nết thơ ngây còn đầy trên đôi má hồng hào con gái

Em còn ngồi trên ghế nhà trường học những điều cô giáo dạy

Yêu quê hương, yêu đất nước quê mình Yêu lẻ phải-Yêu công bằng

Sống làm người lương thiện.

Nhưng quanh em Đời sống hằng ngày phơi bày bao chuyện Công lý-Công bằng bị chà đạp dưới chân

Bạo quyền đang hóng hách ngang tàn Sao chẵng thấy Công bằng-Công lý

Sao chẳng thấy trái tim bác ái Toàn bọn người cướp của nhân dân

Toàn những người đánh mất lương tâm Sống dẫm nát bao người lương thiện

Em hiên ngang nói điều hùng biện Phơi bày điều dối trá gian manh

Em chống Tàu man Đang nuốt dần đất biển Việt Nam

Áo trắng em bay giửa mặt trời hung tợn Tóc em bay giửa lửa bạo lực bủa vây

Em bị sách nhiểu Em bị đọa đày

Chỉ vì em tuổi thơ ngây Dám làm người tranh đấu

Tôi thương em dáng mảnh mai mà hồn mạnh bạo

Em ngoan cường Hởi em gái Việt Nam.

Anh Ba Phước Hưng

Page 48: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 48

Anh Ba Phước Hưng

Hơn 20 năm xa quê, tôi ít khi trở về Việt Nam trừ khi có việc cần về thì mới thu xếp về. Vợ tôi vì có nhu cầu với nhiều lý do gia đình như mẹ vợ tôi đau, chị hoặc anh tôi đau hay cưới hỏi… Bà ấy về Việt Nam cứ như cách năm. Mấy lần đầu thì khệ nệ nhiều thứ. Sau nhiều lần thì vợ tôi nói: Mang về Việt Nam nhiều thứ làm chi cho mệt, ở Việt Nam bây giờ cái gì cũng có, chỉ cần mang tiền về thì khỏi lo khệ nệ cho mệt xác… còn bị các Ông Hải Quan kèo kọ đòi tiền lót trong các Passport mới yên thân. Năm nầy tôi được báo tin sắp có đám cưới đứa cháu kêu tôi bằng bác. Tôi muốn về, luôn thể xem lại khu nghĩa trang gia đình mà em gái tôi về lo xây sửa xong năm vừa qua, coi có cần bổ túc thêm gì không? Tôi nói với vợ tôi: Năm nầy chắc tôi phải về một chuyến… lâu quá không về… về dự lể cưới trước Tết vài ngày và sau đó ăn Tết tại quê nhà thử một năm xem sao. Từ ngày xa xứ tới giờ có hơn hai mươi mấy năm chưa có lần nào ăn Tết ở Việt Nam…. Vả lại anh em bà con cũng già yếu hết rồi, thăm nhau một chuyến nầy… chắc gì chuyến tới còn đủ mặt. Dịp đám cưới họ hàng qui tựu lại, khỏi phải đi thăm hỏi từng nhà… Bà ấy làm thinh không nói gì…nhưng tôi đoán ý bà ấy cũng muốn về với tôi. Thường các bà kháo với nhau: Đừng để các Ông về Việt Nam một mình …? Tôi nghĩ về dự đám cưới đứa cháu nên về có đôi hay hơn và có bà ấy theo thì chắc bà ấy yên tâm hơn. Tôi gợi ý: Bà có muốn về với tôi không? Vợ tôi nhoẻn miệng cười…Tôi chờ ông hỏi đó...!

Đưa em về quê hương …

Thế là chúng tôi chuẩn bị cho chuyến về Việt Nam. Từ đây đến lúc về còn hơn 6 tháng. Tôi

lên Net mua vé. Làm chương trình xin nghĩ phép dài hạng ở chổ làm. Bà xã tôi mua từ từ các món cần thiết? Cho tới vài ngày trước ngày khởi hành. Bốn cái Vali gởi đầy nhóc. Cân đi cân lại quá tãi… Muốn thêm cái nầy, muốn bớt cái kia… Cái nào thấy cũng cần hết. Vợ tôi khệ nệ nào là xà bông tắm, nào là thuốc bổ… Tôi vừa cân kéo nhọc nhằn vừa nói: - Bà nói không cần mua đồ… thế mà…vẫn đầy ra đó.

Vợ tôi cười: - Chỉ là các món cần thiết…! Xà bông ở Việt nam không thơm, thuốc ở Việt Nam thường làm giả… ! Mồ hôi mồ kê ra ướt áo bởi phải kéo lên, bỏ xuống 4 cái vali nặng nề. Bà xã tôi cẩn thận: - Phải cân kỷ cho đủ 25 ký, coi chừng dư... bị phạt uổn tiền lắm đó! Lục đục cân đo, cuối cùng tôi đẩy bốn chiếc 4 vali nặng trịt qua một bên. Tôi bật ra giường nằm thở dóc… Ôi! Tội nghiệp cái lưng già của tôi nó đau nhói. Con mắt tôi nhìn lên trần nhà thấy đơm đớm sao bay !!! Vợ tôi nói: Anh mệt hả… cứ nằm nghĩ đi… mà anh xem kỷ…cân đủ chưa vậy…? Tôi nằm làm thinh! Mùa đông mới tới, thời tiết lạnh câm câm. Mây ngoài bầu trời như chì nặng xám. Tôi nhìn bầu trời loe loé vài vệt nắng vàng… vài cánh chim bay về phương trời xa tít. Tôi mơ màng một ngày về quê ăn Tết…Những ngày Tết năm xưa…Ôi vui thật là vui…!

* * * Chiếc máy bay hạ dần độ thấp…Tiếp viên hàng không nhắc nhở mọi người cày thắt dây an toàn. Tôi nhìn ra qua khung cửa sổ máy bay. Một vùng mây đục xám. Bây giờ chiếc máy bay đang ở trên không phận Việt Nam.Trời chập tối. Máy bay hạ dần. Tôi nghe ù ù trong lổ tai… Một vài cơn xóc nhẹ…Máy bay nghiêng cánh. Tôi thấy nhiều ánh đèn lấp loé phía dưới. Tôi sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt. Tôi thực sự đặt chân xuống quê mình trong vài phút tới… Đèn phía dưới rực sáng hơn. Tôi thấy những con đường lớn với hàng dài xe đủ loại như đàn kiến đang bò nhanh phía dưới… Sân bay hiện ra. Những ụ đất ngày xưa làm phòng tuyến an ninh còn rãi rác… những bãi

Page 49: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 49

cõ lém nắng vàng còn nhấp nhô lên những mảnh vụn của một thanh sắt rỉ hoặc một phần nhỏ của một bộ phận nào đó của một chiếc xe GMC nhà binh. Đã 38 năm… chiến tranh đã dường như bị quên lãng. Nhưng dấu vết chiến tranh vẫn còn đâu đó quanh đây. Còn trong đầu tôi… còn trong đầu của người chiến thắng... Chiến tranh bao giờ thực sự được quên trong đất nước và con người Việt Nam.

Chiếc máy bay chạy dần về phía chổ đậu. Chiếc máy bay tắt hẳn động cơ. Một sự im lặng mơ hồ trong lồng phi cơ. Tôi lần lượt đi theo mọi người ra ngoài. Vừa ra khỏi lồng phi cơ, cái nóng ùa chụp phả vào người…tôi vội cởi bỏ thêm áo, mặc dù tôi đã bỏ đi chiếc áo khoác trước đó vài phút…

Sài Gon từ trên cao

Đứng xếp hàng chờ hải quan kiểm soát. Tôi nhìn vào các khung chờ. Các nhân viên hải quan với gương mặt lầm lì… đôi lúc nhìn lên soi bói một vài người nào đó. Tôi có cái cảm giác mình bắt đầu đi vào cửa của một vùng trấn áp… Trấn áp từ mọi phía…! Cơn nóng bức làm tôi rịn ướt mồ hôi sau lưng… Tôi mơ hồ lo sợ một điều gì đó không rỏ lý do có thể đến với mình. Một tên lính “ngụy” về nước…

Đến lượt tôi bước đến khu vực trình xét. Tôi đưa pasport…Tên hải quan nhìn tôi sau khi mở passport… Tôi đoán mò chắc hắn không thấy tôi lót tiền trong ấy chăng? Một phút trôi qua khi hắn áp sổ thông hành của tôi lên khung máy… hai phút trôi qua…Tôi bình tỉnh nhìn vu vơ vào khung máy… Hắn ngã lưng ra ghế và nói với tôi: Anh chờ tí nhé, Cái máy hôm nay quét chậm quá…

Vợ tôi nhìn tôi lo lắng… Một vài chị trọng tuổi người miền Nam xếp hàng kế bên nói nhạo giọng Bắc: Các Anh ơi! Em chờ các anh gọi em tới mà sao các anh chẵng gọi em… thế lầy là thế lào… Vài viên hải quan ngước lên nhìn chị và cười. Cái không khí nằng nặng dường như trôi qua. Cuối cùng tên hải quan đưa lại giấy thông hành cho

tôi… Tôi kéo chiếc túi xách nhỏ đi một mạch về phía khu lấy hành lý còn lại gởi theo phi cơ bỏ mặc vợ tôi đang trình giấy tờ cho tên công an hải quan. Một lúc lâu vợ tôi tò vò đến chổ tôi đứng đợi và hỏi: Sao anh không đợi em…? Tôi làm thinh… Nóng trùm phủ cả không gian tôi đang đứng chờ… Tôi thực sự đã đặt chân vào Sài Gòn… Sài Gòn nóng…! Cơn nóng trùm kín người tôi. Cơn nóng muốn cháy thịt da tôi. Tôi có cảm giác tôi đang đi vào lò nung… Lò nung của Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa…! Cái háo hức về quê ăn Tết, về quê nhìn lại anh em, bà con ruột rà, về quê nhìn lại làng xóm nơi mình lớn lên… Tôi bổng nghe nghèn nghẹn trong cổ…! Cái bước đầu tiên nơi đặt chân đến làm hoa đôi mắt, làm khản khát nơi cổ họng. Giây phút ấy trôi qua. Tôi chợt mừng vui khi thấy các em, các cháu tôi đứng vẩy tay bên ngoài… Chúng tôi đẩy nhanh chiếc xe đồ đến chổ người thân và ôm chầm lấy từng người. Hình như tôi quên hết cái nóng hừng hực nơi phía ngoài nầy vì niềm vui trào dâng muốn rơi nước mắt, vì những trái tim cùng hòa nhịp tình thân ruột rà. Ôi! Đây mới là giây phút ấm áp, đây mới thật sự là động lực làm tôi muốn quay về…! Ra khỏi sân bay Tân Sơn Nhứt, chiếc xe chở chúng tôi vào luồng xe chật nức trong thành phố. Các xe Honda chạy dọc chạy ngang, lao lách vô tội vạ… Tài xế phải bóp còi inh ỏi. Mồ hôi tôi lại rịn ướt sau lưng vì tốc độ xe chạy chậm với lại cái máy lạnh của xe bị trục trặt, lúc có lúc không. Cái nóng bên ngoài ép vào lòng xe… chiếc xe len chạy trong ngổn ngang của cái nóng trên đường. Tới ngã tư, ba bốn tên công an giao thông thổi còi bắt xe không tuân thủ luật lệ… Chiếc xe chúng tôi vừa qua nửa đường ngả tư. Một tên công an cầm gậy chỉ về hướng xe chúng tôi bắt dừng lại. Chú tài xế nói: Tết…tụi nó kiếm tiền ăn Tết. Xe tấp vào lề. Tôi hỏi chú tài xế xe mình bị lổi gì?.Chú cầm chiếc cập giấy tờ xe và kẹp vào đó giấy một trăm ngàn tiền Việt Nam và nói: Tụi nó đòi tiền ăn Tết chớ xe không có lổi gì đâu chú. Tôi ngao ngán nhìn chú tài xế. Chú mở cửa xe và bước xuống đi đến chúng để trình giấy tờ. Vài phút sau chú tài xế quay lại xe. Tôi hỏi: Nó cho đi hả chú. Chú tài xế lắc đầu. Tụi nó nói: Tụi nó chê, Tết gần đến rồi mà chung chỉ có một Xị (Ám chỉ 1 trăm ngàn) Chắc phải thêm cho đủ 2 Xị. Đúng như lời chú tài xế nói. Sau khi lấy 2 trăm ngàn, chúng cho xe tiếp tục chạy. Chú tài xế cho chúng tôi biết thêm là tụi nó thường nhìn các bản xe từ dưới các tỉnh lên Sài Gòn đón

Page 50: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 50

rước khách nước ngoài về, hoặc khách du lịch. Để tránh rắc rối và chờ đợi các người mướn xe thường cứ kêu tài xế chung tiền để khỏi phải mất thời giờ chờ đợi… Nếu không chung cho tụi nó thì nó hoạnh hoẹ tìm ra mọi cớ để giử xe hoặc đưa vụ việc về cơ quan công an thì còn phiền hơn nửa… Chú thở dài… cũng mai thường các vị khách bao đều trả cho tụi tôi khoảng tiền nầy. Tôi định bụng sẽ chi trả lại cho chú về khoảng tiền vô tội vạ nầy khi về đến quê. Chú tài xế nói: Lệnh trên không cho tụi công an giao thông có tiền mặt trong túi hơn 5 trăm ngàn, nhưng trong cốp xe của tụi nó lúc tan ca thì tiền cở gần bạc tỉ đó chú ơi! Cơn nóng trên đường như nhét vào đầu tôi nỗi nhức nhối buồn đau cho những người dân thấp cổ bé họng, cho những mảnh đời cơ cực dưới sự cai trị của một tập đoàn Ăn Cướp từ trên xuống dưới. Họ sống trong những dinh thự to lớn, nhung lụa phủ phê. Họ đi trong những chiếc xe bạc triệu đô la… Họ ăn mặc sang trọng. Họ du hí thừa dư. Họ đưa con cái ra nước ngoài. Họ mua nhà, đầu tư ở ngoại quốc… Họ chia nhau đáp cánh an toàn…! Tiền từ đâu??? Ôi! những công bộc, đầy tớ của nhân dân…!

“Nắng Sài Gòn…em đi mà chợt mát Bởi vì em…mặc áo lụa Hà Đông Tôi vẫn yêu màu áo ấy vô cùng…”

(Hoàng anh Tuấn) Ôi! Cái nắng Sài Gòn dịu mát... Cái nắng hoàng kim soi bước em đi trên hè phố.Cái nắng hồng hào da thịt con gái buổi sớm mai.Cái nắng môi son của những thiếu nử giửa sân trường. Cái nắng ấm trông mắt nhìn ai xuyến xao vời vợi… Cái nắng hực hở môi kề, má áp một thuở yêu người… Hết rồi cái nắng năm nao…! Nắng bây giờ đổ lửa toát mồ hôi.Nắng đang thiêu đốt da thịt mọi người chạy tất bật trên đường.Nắng làm tôi ngộp thở trong cơn buồn vở vụn! Chiếc xe thoát ra đến Phú Lâm, Bình Chánh, trước đây khu vực nầy hoang trống với những thửa ruộng chia khuôn mút mút màu xanh của lúa. Bây giờ là những dãy nhà liền nối ngổn ngang, cái cao, cái thấp, xen lẩn những tòa cao ốc chỏi trời. Các cửa hàng ăn uống, các thương hiệu bán buôn che khuất màu xanh của những thửa ruộng lùi dần về phía sâu, có nơi như mất hẳn. Xe rẻ chạy vào đường cao tốc. Tôi cảm thấy dể chịu hơn vì hai bên đường có cây xanh, có ruộng lúa. Chú tài xế nói với chúng tôi: Trên con đường nầy cũng dể bị bọn công an núp bắn tốc độ. Khi bị bắn tốc độ thì phải chung tiền cao gắp nhiều lần…

khoảng vài triệu đồng. Nếu không chung tiền cho chúng thì tài xế bị treo bằng lái… Làm nghề tài xế mà bị treo bằng lái thì cả nhà đều bị đói chú ơi…!

Tôi nhìn ra bên ngoài cố hình dung lại các khoảng đường ngày trước tôi đi qua, nhưng không đoán được gì cả. Hồi còn đóng quân ở Quận Bến Tranh khi về lại Sài Gòn tôi nhớ mình đi ngang Long An, rồi Bến Lức… Tôi hỏi chú tài xế: Mình tới Long An chưa? Mình qua cầu Bến Lức chưa? Chú tài xế chỉ tay về bên trái… Phía trong kia kìa chú. Mình đi trên đường cao tốc nên không qua các chổ ấy, đường được làm phía ngoài không qua các thị trấn đó. Rồi xe vào Ngã Ba Trung Lương. Nơi đây bây giờ lạ quắc. Phố nhà chật nức… Xe rẻ vào Mỹ Tho. Xe không còn dừng lại để nghe tiếng gọi mời của các em bé bán mận Hồng Đào, ổi xá Lị, bánh mức. Thay vào đó là các cửa hàng trưng bày bánh kẹo, trái cây đủ loại. Ngã Ba Trung Lương bây giờ là một ngã ba phố. Xe vào thị xã Mỹ Tho. Xe qua cầu Rạch Miểu. Xe chạy qua cầu Hàm Luông. Xe xuyên Tỉnh Bến Tre. Xe rẻ về Cái Mơn, Chợ Lách… Xe chờ qua Bắc Cổ Chiên. Xe chạy thêm hơn tiếng nửa. Xe đổ lại quê tôi. Đoạn đường về lần nầy không qua Cầu Mỹ Thuận, không qua Vỉnh Long, không qua Lồng Hồ. Khoảng đi thu ngắn hơn 60 kí lô mét.

“Đường về Trà Vinh

chim hót mừng lúa chín vàng đồng…” Suốt dọc đường hình như nhà cửa mọc lên

dầy kín…vườn tược, cây trái bị đẩy lùi về bên trong. Người dân vùng quê chường ra mặt đường với những hàng quán: Trạm Xăng nhỏ, quán ăn, quán cà phê võng, nhà trọ… Gần các thị trấn thì có thêm chổ nghĩ tắm hơi, massage, quán nhậu, tiệm uốn tóc… Bề mặt của thành phố, bề mặt của những con đường đầy vẻ phồn hoa sung mản. Những phía sau là gì? Là những ngỏ hẹp ngập nước. Những mái nhà xiêu vẹo, những mảnh đời cơ hàn lê kéo cuộc đời không có ngày mai. Những bà mẹ bán

Page 51: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 51

con cho người nước ngoài. Những em gái 18, 20 làm bé cho các đại gia, hoặc làm gái gọi, gái bao. Đa số các em gái đã tự nguyện hiến thân mình để cứu nợ nghèo cho gia đình. Rồi qua cơn lưu lạc các em bị cuốn vào dòng “nham nhở cuộc đời” với phồn hoa đầy cám dổ ở các thành phố. Những cậu em mài lưng trần làm thuê, làm mướn hoặc ma cô ma cạo để tìm miếng ăn qua ngày. Khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam một trời một vực.

Qua những ngày về quê thăm bà con, dự đám cưới.Tôi cùng các em tôi làm một chuyến du hành về Phan Thiết, Bà Rịa, Long Hải, Vũng Tàu… Chúng tôi qua các Khách Sạn, quán ăn. Chúng tôi mới thấy sinh hoạt ở Việt Nam không phải rẻ mà đắt đỏ. Chúng tôi đã gặp những người dân mỗi ngày lao nhọc chỉ kiếm chừng vài trăm ngàn, các em bán vé số cũng chỉ hơn trăm ngàn. Lương công nhân mỗi tháng chừng hơn 2 triệu. Các con cháu chúng tôi thấy các quán ăn Berger-king, KFC, Mac Donal là nhào vô vì chúng quen hơi các món ăn nầy. Mỗi chiếc bánh sandwich giá 170 ngàn đồng, 3 miếng thịt gà ở KFC giá 190 ngàn đồng. Khi vào đây chúng tôi ngở chắc vắng khách vì giá quá cao so với đồng lương mọi người… Nhưng lạ thay các cô chiêu, cậu ấm ngồi ăn đầy… có cả mấy người lớn nửa. Qua những ngày luồng lấn cùng người bạn thân ở Sài Gòn vào các tụ điễm cà phê, ăn nhậu… Tìm hiểu qua những câu chuyện trao đổi tình cờ, tôi mới thấy bọn nhà giàu, các quan chức, các cậu ấm nhà quan… phung phí tiền bạc một cách vô tư. Một buổi ăn với rượu đắt tiền có hơn ngàn đô cho vài người. Chúng đi trên những chiếc xe hiệu nhập từ bên ngoài như: Mercedes, Lexus, Acura… Nhà chúng nó là những ngôi biệt thự kín cổng cao tường. Nguồn tiền của bọn họ từ mọi cách ăn cướp có bảo chứng, từ gian lân mưu mô, từ cửa quyền chức tước. Trung ương ăn theo cách trung ương, tỉnh, huyện, làng, ấp ăn theo kiểu tỉnh huyện làng ấp. Khẩu hiệu “nhân dân đi trước nhà nước theo sau” hoàn toàn là ngụy ngôn lừa bịp. Trên đường xuôi ngược: Những chiếc xe Honda rẻ tiền của các công nhân đi làm xen với những chiếc xe hơi bống nhoáng. Những người gù lưng ướt áo trên đường bên những người ngã lưng trên chiếc ghế nhung trong chiếc xe hạng sang. Những ngôi nhà mái tôn xen những cao óc chỏi trời… Những ngỏ hẽm ngập nước, những mái nhà tôn rỉ xét thâm đen… những mùi hôi thối nồng nặc của cống rảnh đen ngòm… Che lớp bên ngoài là những cửa hàng sang trọng với mùi nước hoa thơm

lừng. Ở khắp mọi nơi: hiện rỏ, lẩn lộn hai thế giới giàu nghèo cách biệt thật lớn lao. Sài Gòn với tôi trong chuyến về nầy là những cơn nóng buồn phả vào mặt, lẩn vào hồn, những bụi cát len vào lưng, rơi vào mắt… mờ mờ nhân dạng. Đi đâu cũng thấy các khung vãi đỏ với chữ to “Mừng Xuân, Mừng Đảng Quang Vinh”. Ôi! đúng chỉ là mùa Xuân của đảng, còn nhân dân thì đã mất hết mùa Xuân từ ngày có đảng cai trị. Khi đảng làm sai, các ngài làm sai, nhân dân đứng lên phản đối thì các ngài quy chụp họ là phản động, nghe theo lời xúi dục của các thế lực thù địch bên ngoài. Đảng chưa bao giờ nhận làm sai, các ngài chưa bao giờ dám nhận tội về việc mình làm sai, làm trì trệ bước tiến của dân tộc. Tôi đoan chắc rằng không có thế lực bên ngoài nào đủ mạnh để lật đổ được chế độ của các ngài (Lực lượng người Việt hải ngoại). Chỉ có nhân dân trong nước, chỉ có những người trong hàng ngũ các ngài đứng lên chống lại các ngài. Thưa các ngài: Bao giờ các ngài mới từ bỏ quyền lực… để cho nhân dân Việt Nam thực sự có mùa Xuân NHÂN QUYỀN-TỰ DO-HẠNH PHÚC-ẤM NO thực sự? Bao giờ? Xin các ngài hảy sáng suốt nhường quyền cho một vận hội mới thì cái họa mất nước trước bọn giặc Tàu sẽ được cứu vãng. Cơ may đất nước mới thực sự vươn mình trổi lên ngang hàng với các nước tiến bộ trên thế giới. Các chất xám của thế hệ thứ hai, thứ ba của thuyền nhân Việt Nam trên toàn thế giới cộng với chất xám của tuổi trẻ trong nước sẽ là chiếc đủa thần đẩy đất nước đến chổ vinh quang thật sự. Các ngài sẽ còn có chổ đứng trong lòng nhân dân Việt Nam. Các ngài nghĩ sao??? Về quê ăn cái Tết nhạt nhẻo. Một cái Tết mà tôi mong muốn được về hơn 20 năm. Thế mà Tết đến tôi nằm co ro với mồ hôi ướt áo. Trong đêm trừ tịch tôi chờ nghe tiếng pháo. Nhưng không…! Nhà nước cấm dân đốt pháo, nhưng đã bỏ ra cả tỉ đồng để bắn pháo bông. Cả tỉ đồng lẻ ra giúp cho các gia đình nghèo có một ngày xuân đầm ấm, các cháu nhỏ có đựơc một trang phục mới. Trên bàn thờ nhà nghèo có được miếng bánh, dĩa trái cây. “Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã thay tên”… Tôi trả cái nóng lại cho Sài Gòn. Tôi trở về Cali nắng ấm. Người cảnh sát hải quan tại Phi trường San Francisco nhận cái Passport từ tay tôi với nụ cười và câu nói: Well come back United State. Tôi nghĩ trong đầu: Tôi đang trở về nhà, nơi chốn thực sự có Tự Do-Dân Chủ -Nhân Quyền.

Anh Ba Phước Hưng Sacramento tháng 2 năm 2013

Page 52: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 52

TÌNH MEÏ CUÛA RAÉN Kiên Lý kể

Ngày xưa, lúc dân cư còn thưa thớt, đất đai chưa được khai khẩn hoàn hão, tại đất Nam Kỳ nói chung và vùng Trà-Vinh nói riêng, thì việc "con người phải chống chỏi với thú dữ, rắn độc," là chuyện xẩy ra hàng ngày.

Tôi còn nhớ Mẹ tôi có kể một câu chuyên về " TÌNH MẸ CỦA RẮN " cho tôi nghe. Đây, câu chuyện như vầy : " Có một chàng nông dân đi ra ruộng hàng ngày và anh ta để ý thấy có một con " Rắn Hổ Mẹ" vừa đẻ một mẽ trứng ( độ 2-3 chục trứng gì đó ) trong ổ của nó. Một hôm, biết Rắn Mẹ đó đi vắng, chàng nông dân nầy mừng lắm, liền bảo người nhà nấu sẳng nước trong một cái nồi lớn, rồi anh ta liền cưỡi lên một con trâu, chạy nhanh đến ổ Rắn đó để hốt hết trứng về luộc ! Anh chàng nông dân hốt hết trọn ổ số trứng đó về nhà, và trút hết trứng đó vào cái nồi nước đang sôi sùng sục ! Các người trong xóm bu quanh, vui mừng và đợi trứng chín chia nhau ăn!...Nhưng, hú hồn ! con Rắn Mẹ tới ! Ai nấy chạy tứ tung, sợ nó cắn !...

Người ta nói, con Rắn đánh hơi người giỏi lắm, trong trường hợp nầy, khi Mẹ Rắn trở về không thấy trứng nữa, thì nó liền phóng rất nhanh bằng cách cuộn mình tròn và " bay " ( không phải bò ! ) hối hả theo vết chân trâu mà đuổi theo người ăn cắp trứng )

Mẹ Rắn "nuốt" từng trứng một vào bụng…cho đến chết

...Nhưng,... không !, nó không cắn ai ! Nó lườn vòng vòng xung quanh cái nồi nước đang xôi sùng sục đó và, nó dùng đuôi của nó đạp mạnh vào nồi, nồi bẽ, nước xôi lan tràng trên mặt đất, các trứng văng ra còn nóng hừng hực trên mặt đất, rồi... ' Mẹ thương Con biết dường nào !, mấy chục đứa Con mà Mẹ đã mang nặng, đẻ đau, nay đã chết

sạch !, Mẹ Rắn bèn từ từ "nuốt" từng trứng một vào bụng của Mẹ cho đến hết cả mấy chục trứng nóng như nuốt cục than lửa !. Rồi,...dĩ nhiên, bụng Mẹ quá đầy, nóng như rang như đốt, người ta thấy mắt Mẹ chợt loé ra một tia lửa đỏ rực, rồi từ từ mắt khép lại và thiếp đi trong niềm vui được sum vầy với các con !, Xác Mẹ Rắn nằm cứng đơ bên cạnh những miễng vụng của nồi luộc trứng, mặc cho loài người muốn làm gì thì làm!

...Nhưng, ...những người đang chứng kiến sự việc nầy, không ai màng đến việc ăn thịt và trứng của Rắn đó nữa, trái lại, ai nấy có vẽ mặt ngậm ngùi thương sót cho một loài thú, tuy là thú, mà "Tình Mẫu Tử" quá tuyệt vời! Biết rằng, không thể sống được nữa, nhưng vẫn làm như thế để được " sum hợp với các con "nơi bên kia thế giới ! Trong Ngạn Ngữ của Người Khmer cũng có câu : " Sro Lanh Cône Chòn Lếp " ! Tạm dịch : " Yêu Con Muốn Nuốt " !

Ở đây, nguyện vọng của Rắn Mẹ nầy được toại nguyện rồi đó ! Cuối cùng, người ta đem xác Rắn Mẹ ( trong bụng đầy trứng ) đó đi chôn dưới gốc một cây cổ thụ ! "

Kiên Lý kể Atlanta, ngày 25 tháng 10, năm 2012

Thân Tặng Đặc San Hội AH Trà-Vinh

Cắt rún chôn nhau tại Tiểu cần Địa danh sao gợi lắm tình thân! Hiền lành, chất phác lo an phận, Pháp luật thượng tôn vốn ý dân

HIẾU TỬ người xưa lưu tiếng tốt Danh thơm CHINH-PHỤ rạng muôn phần

Quê hương tôi đấy, ai qua đấy, Xin nhắn hộ: “Tôi nhớ Tiểu Cần”.

CHU TIỂU TRÀ

Toronto, CANADA

Page 53: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 53

Steven Rem Kien Ở Nam Kỳ Lục Tỉnh - La Cochinchine -

vùng nào có sắc dân tạp chủng Việt-Miên-Hoa cư ngụ nhiều nhất ? - xin trả lời là ở các tỉnh trong lưu vực đồng bằng Sông Cữu Long (Mekong Delta). Còn "nguyên do" vì sao mà Ba thành phần sắc tộc Việt-Miên-Hoa tập trung ở chốn nầy đông đảo như vậy ?, đó là chúng ta phải vòng vo một chút mới mong tạm thoả đáng ! Với khã năng hạn hẹp, nếu có chi sơ xuất, mong quí cao minh bổ khuyết và chỉ bảo, người viết xin chân thành tri ân ! Câu chuyện bắt đầu như sau:

Đế Quốc Khmer thế kỷ 12

AI XUI CHO THIẾP GẶP CHÀNG ?

Một ngày đẹp trời, mùa xuân giáp Tết Nguyên Đán năm Canh Thân - ( 1620 AD )- một Công Chúa An Nam - ( une Princesse annamite ) - sắc nước hương trời- Nguyễn Phúc Ngọc Vạn lên Kiệu Hoa về nhà Chồng là Vị Hoàng Đế Chey Chetha II, tại Thủ Phủ Oudong Meanchey, Vương Quốc Khmer.

Lễ Vu Quy được thực hiện một cách trang trọng đúng nghi lễ của hai bên Việt/Chân Lạp. Ngoài ra, bên Đàng Gái có một toán người từ Thuận Hoá tháp tùng để phục vụ Công Chúa trong những ngày đầu ở bên Nhà Chồng.

Dần dần, với sự khôn ngoan khéo léo, cộng với nhan sắc tuyệt vời của người đẹp đất Thần Kinh, Ngọc Vạn chiếm được sự ưu ái của Đức Vua Chey Chetha II, cùng một số Hoàng Thân trong Triều. Không bao lâu, Nàng được tấn phong Hoàng Hậu "Samdach Preah K'sattrey" của Vương Quốc Chân Lạp.

Như chúng ta đã thừa biết, trên hoàn vũ nầy, không có Đế Quốc nào tồn tại lâu dài cả !, xem kìa, Đế Quốc La Mã, Ottoman, Mongolia, v.v...?. Đế Quốc Khmer cũng không thoát khỏi số phận đó !

Vương Quốc Khmer rộng mênh mong, trù phú, dân thưa, rừng vàng, biển bạc, - người Khmer có một bài hát, trong đó có một câu nói về sự giàu sang của đất nước họ, đó là câu:

" Phène đey Khmer pre tha sovana phum", nghĩa là: Đất Khmer là đất Vàng !

Nhưng rồi, "không ai giàu ba họ ...", con cháu sau nầy, nằm trên đống Vàng, - không biết nguyên nhân nào - mà đất nước ngày càng suy thoái - nào thêm cái nạn "huynh đệ tưong tàn" vì tranh dành ngôi báu lẫn nhau, khi giặc đến - giặc Xiêm La - thì trở tay không kịp, phải cầu viện đến nước láng giềng "Thông Gia" của mình để ổn định tình thế ! rồi dĩ nhiên ở đời, "có qua có lại", thế là Triều Đình Oudong dành sự dễ dãi cho việc di dân của Đại Việt từ miền Trung - đất cày lên sỏi đá - vào phía Nam trù phú của Vưong Quốc Chân Lạp lập nghiệp !

" Quê hương Em nghèo lắm ai ơi, Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn " !

Cái "nghèo" vì Trời " hành “ - lũ lụt hàng năm - , nhưng Trời cũng " ban" cho cái "đẹp".

" Quê hương Em đẹp lắm ai ơi, Bài thơ trên nón, nụ cười đắm say " !...*

Sự an ninh ở biên giới Khmer-Xiêm luôn luôn bị đe dọa và Thuận Hoá, một mặt lo đương đầu với " Đàng Ngoài", mặt khác cũng phải sẵn sàng cứu nguy láng giềng "Thông Gia" mỗi khi có nguy biến, hơn thế nữa tình nghĩa và bổn phận giữa Nhạc Phụ và Phò Mã ắt phải vuông tròn - thế gian chẳng có câu: "bà con một ngày một xa, sui gia một ngày một gần" đó sao ?, thế rồi,"bánh ích đi, bánh quy lại", chẳng bao lâu, cả miền phía Nam

Page 54: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 54

Thuỷ Chân Lạp tấp nập bóng dáng người An Nam sống chung hoà mình với người Chân Lạp - chủ nhà - và các sắc dân khác !...

"Bòn Nam ơi !, tu na, sóc sà bai tê ? (Anh Nam ơi!, đi đâu vậy, mạnh giỏi không ?) - một anh Khmer chất phác và hiếu khách chào một người Huế đang đi tới

" Chào Bòn ơi !, Tui ở Huệ mới tới bên ‘ni’ !, Tui muộn cật nha gần Bòn, đươc không"?- một gia đình di dân từ đất Quãng mới tới xin được ở gần Anh Khmer nầy cho có bạn hũ hĩ ngày đêm. "Được, được "lò o náh" (tốt lắm)!, Tui cho thằng con trai lớn của tui đi giúp một tay!" - Anh Khmer nầy dồn dã trả lời như mời gọi - " O kun chreoun " (cám ơn nhiều)! - Anh Huế hân hoan trả lời .

Điệu LamThol như vàng đôi tay múa theo nhịp nhàng

Rồi thời gian vui vẽ trôi ! Cộng đồng người Việt hăng say khai khẩn "đất cũ đãi người mới", không bao lâu, lưu dân Việt có đời sống sung túc ấm no. Cả Chủ lẩn Khách kết đoàn với nhau làm ăn, hoà thuận với nhau, ai có kinh nghiệm gì hay, chia xẽ lẫn nhau, chẳng hạn người Việt hướng dẫn người Miên cách sữ dụng "quang gánh" trên vai tiện hơn "đội trên đầu"; mặc quần hai ống kín đáo hơn "quần không đáy" ! v.v...

Người bạn Miên thì chỉ dẫn người Việt cách làm nhà sàn để ở, vừa tránh được thú dữ, vừa tránh được lũ lụt ! v.v... Ôi thôi, kễ sao cho siết những sự tương thân tương trợ, từ việc nhỏ đến việc lớn trong quá trình khai khẩn đất đai, khắc phục thiên nhiên cũng như chống với thú dữ và bệnh tật !?...Dân gian có câu : " bán bà con xa mua láng giềng gần", thật không ngoa !, rồi, từ tình láng giềng đó trở thành tình "sui gia" xem ra cũng không khó !"... tiếng yêu đương, ai nỡ chối từ ?",..** chỉ vài năm sau, ai nấy đều có cháu nội, cháu ngoại đùm đề dễ thương, trai gái đều dể coi, có ai hỏi, thì hãnh diện mà trả lời: Các Cháu nầy thuộc về: "Âu Khmer, Me Youne" - "Cha Miên, Mẹ Việt" ! Chúng là hậu duệ của đôi Uyên Ương

Vương Giả Hoàng Đế Chey Chettha II và Hoàng Hậu Samdach K'sattrey Ngọc Vạn, đó mà !!!

* * * TRAI MINH HƯƠNG, NƯỜNG CHÂN LẠP

Cũng vào khoãng đầu thế kỹ 17 Tây Lịch, ở Trung Hoa, Bộ Tộc Mãn Châu, một Bộ Tộc du mục và bán khai, đã dành được chủ quyền từ tay Nhà Minh và lập nên Nhà Thanh. Dĩ nhiên, những Quan Chức và quần chúng thuộc chế độ cũ ( Nhà Minh ), thì còn lưu luyến Minh Triều, thanh bình, thịnh vượng !,

"Rằng: Năm Gia Tĩnh Triều Minh, Bốn phương phẵng lặng, hai Kinh vững vàng " **

Tâm trạng "hoài cổ" thời nào chẳng có !? Nói như vậy không có nghĩa là Triều Đại Nhà Minh hoàn toàn tốt, và Triều Đại Nhà Thanh hoàn toàn xấu ! Nhà Thanh đã lập được những công lớn như mở rộng biên cương bằng cách sát nhập vào Trung Hoa các vùng như Tân Cương, Tây Tạng, dành được Đài Loan từ tay người Hà Lan, chiếm giữ một phần Mông Cổ, Triều Tiên, một phần nước Kazakhstan, Kyrgyzstan v.v... Nhà Thanh cũng được tiếng là không hiềm thù nhỏ nhặt với chế độ cũ, họ biệt đãi các nhân tài cũ của Nhà Minh, về mặt xả hội họ lo cải cách nếp sống mới, bài trừ các hũ tục lỗi thời, mặc dù kết quã rất khiêm tốn như: tóc bím đuôi sam, tục bó chân v.v...

Chùa Ông Bổn (Phước Minh Cung) Trà Vinh

Chiến tranh giữa hai Triều Đại Minh-Thanh dai dẳng khá lâu (1625-1644?), lúc nóng, lúc lạnh, làm cho dân tình khổ cực !, đặc biệt, quân đội Nhà Minh, khi tan rã, giông buồm xuôi Nam và táp lại tại các vùng đồng bằng sông Mekong nhiều nhất ! đó là những quân nhân, đa số là đàn ông độc thân, đông đảo ! Họ là những thành phần trung kiên với Nhà "Minh", quê "Hương" họ là nước Trung Hoa rộng lớn nhưng xa xăm quá và đang có nội chiến !

Page 55: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 55

Khi đặt chân tới đây, họ tự động phân tán để mưu sinh tuỳ khã năng của mình, không ai chèn ép hoặc phân biệt gì cả, giữa Chủ lẫn Khách, giữa người đến trước, kẽ đến sau, sống hoà nhã với nhau ! Ở vùng nông thôn, họ làm nghề nông- đặc biệt nghề rẩy- cùng với người Khmer ; ở thành thị, họ hành nghề kinh doanh cùng với người An Nam. Bất cứ ở lãnh vực nào, Anh Em người Hoa rất hoà đồng với người bản xứ, họ trao đỗi kinh nghiệm trong việc mưu cầu phúc lợi cho nhau. Họ là những chàng trai lực lưỡng, siêng năng, cần mẫn, quen sống cực khổ nơi quê nhà, nay gặp chổ "làm chơi ăn thiệt", không bao lâu, họ thành đạt mỹ mãn về phương diện vật chất...!

Chùa Kỳ La tại xã Hòa Thuận Trà Vinh

Nhưng rồi, có những lúc tâm tư lắng động, họ cãm thấy đời rất cô đơn đối với họ, họ nghĩ đến việc xây dựng tương lai cho đời !... - Nè, con Hai ạ, - người Mẹ nói với con gái mình - Má thấy Chú Tỷ nầy giỏi giắng dễ thương quá, Chú như là đứa mồ côi từ bên Tàu qua,- Ba Má muốn gã Con cho Chú đó, được không ? - " Tuỳ Ba Má, Cha Mẹ đặt đâu, con ngồi đó !" đứa gái bẽng lẽng trả lời . - " Được rồi, Tao thấy, nếu con Hai gặp được Chú Tỷ, thì rất có phước đó, con Hai, ngày ngày khỏi đụng tới móng tay !" - Ông già nói cười một cách khoái chí - !...

Rồi, cứ vậy mà tiến hành,... "... tiếng yêu đương, ai nỡ chối từ ? ",... những cuộc hôn phối đẹp giữa cặp trai Minh Hương với Nường Việt ở thành thị, và Nường Khmer ở nông thôn cứ diễn ra rất thường xuyên !, chẳng bao lâu, người ta thấy những Cháu Trai Gái Lai - Cha Hoa, Mẹ Việt; Cha Hoa, Mẹ Miên - chạy chơi đầy đường !, chúng là kết tinh của "ba" giòng máu Việt-Miên-Hoa tại vùng Đồng Bằng Sông Cữu Long nầy từ mấy đời rồi !, nếu nói về tỉnh Trà Vinh, thì miệt Trà Cú là

nơi sản sinh ra "Mai Liên", "Âu Chin, Me Khmer" - "Cha Tàu, Mẹ Miên" - nhiều nhứt !, cho nên, các bạn thường gặp nhiều người "mặt mũi, thì nữa Miên, nữa Việt, nữa Hoa, trong khai sanh thì mang "họ" nào là : Châu, Lâm, Lý, Tăng, Trương, v.v..., cách xưng hô trong gia đình thì nghe nào là: Chế, Hia, Kiểm, Pề, Úm, v.v..., nhưng, phải cảnh giác nghen!, đừng nói "lén" họ bằng một trong ba ngôn ngữ Việt-Miên-Hoa!, bạn sẽ bị "quê một cục" cho mà coi ! Có một lần, một Anh bạn tôi thấy một Cô xinh đẹp, mà không biết Cô ta là Việt, Miên hay Hoa, anh bạn tôi cố nhớ được một câu tiếng Khmer, rồi nổ:

- "Uône ơi !, Uône Sro Lanh Bòn Tê ?"

- Em ơi !, em yêu anh không ?- rồi, Anh ta hồi hộp đợi, lập tức, Anh nhận được một tràng tiếng Khmer ngọt sớt làm Anh ta không hiểu gì hết!, rồi, chính Cô ta tự thông dịch ra tiếng Việt cho cả đám nghe luôn, đại khái: " ... sao Anh không hỏi những ngày còn không ? Bây giờ Em đã có Chồng, Như chim vào lồng, như cá cắn câu ..."! Thấy chưa ?!, tôi đã nói rồi mà !, may là mình không phát ngôn gì khiếm nhã !!!...

Ao Bà Om thắng cảnh Miền Tây

Tình Việt-Miên-Hoa ở Đồng Bằng sông Cữu Long - xin nhấn mạnh Trà Vinh - vẫn phát triễn bình thường qua thời gian, đến nỗi không còn ai cãm nhận được rằng Tổ Phụ của mình là Hoa hay Việt, hoặc Miên, chỉ biết lờ mờ là ngày xa xôi ấy, Ông Cố mấy đời của mình là người Huế; Ông đi đâu, đầu đội nón lá, tay xách một ấm chè xanh to tổ bố !, Ông có biệt tài trang trí nội thất như : chạm trỗ những bức hoành phi- câu đối- sơn son

Page 56: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 56

thếp vàng bằng chữ Hán rất khéo !... còn Ông Sơ mấy đời của mình là từ bên Tàu qua, và Bà Sơ của mình là người bản xứ, Bà thường vận Sampot, vai vắt Kroma **** , Ông Chồng, người Tiều (?), thường bận áo túi rất lớn, nút và khuy áo được thắt bằng vải...

* * * Bây giờ, tuy chúng ta đang sống vào thời

buổi văn minh tột đỉnh của nhân loại, chúng ta không khỏi luyến tiếc những hình ảnh đầy tình người, đầy tình đoàn kết của ba Anh-Chị-Em Việt-Miên-Hoa của cái thời xa xưa ấy !, rất tiếc, không ai sống "ngược thời gian" được !

Nhưng, vào thời buổi nầy, dù " vật đổi sao dời ", bao nhiêu biến đổi đến với Đất Nước, người Trà Vinh thân thương, dù đang lưu lạc nơi Đất Khách Quê Người, vẫn tìm nhau, hợp nhau thành Nhóm, thành Đoàn, thành "Hội Đồng Hương" để cùng nhau chia xẽ nỗi vui buồn lẫn nhau ! May mắn thay ! Quí hoá thay !!!

" XIN TẠ ƠN TRÊN " ! Steven Rem Kien

Florida, USA, July 27 th, 2013 Tham khảo & Chú thích : -" Pong Savadha Saung Khep Kampuchea "( L' histoire sommaire du Cambodge - langue Khmere - Lược Sử Cam-Bốt - tiếng Khmer - ) - " L' Empire Khmer ", G.Maspero - Các websites đó, đây... - Samdach K'sattrey = Ngài Hoàng Hậu - * " Tiếng Sông Hương ", Phạm Đình Chương - ** " Bông Cỏ May ", Trúc Phương - *** " Kiều ", Nguyễn Du - **** Sampot = như Xà-Rông, cách vận hơi khác, dành cho các Bà lớn tuổi. - Kroma = khăn choàng, sọc hoặc ca-rô

Văn Hóa Chân Lạp (Chen La)

Có ai về Trà Vinh ?

Có ai về Trà Vinh Cho tôi gữi tâm tình Về thăm Quê Hương Ngoại Ôi Mãnh đất đẹp xinh

Có ai về Phú Vinh Cho tôi gưĩ ân tình Thăm người Em xoã tóc Đang chờ đợi người tình

Có ai về Trà Vinh Cho tôi gữi theo hình Cũa chàng trai xa cách Ba mươi năm quê mình

Có ai về Phú Vinh Cho tôi gữi chút tình Thăm vườn dừa Thanh Lệ Thăm Họ Đạo Phú Vinh

Có ai về Trà Vinh Thăm dùm tôi Long Bình Qua bên kia Hoà Thuận Chùa Ông Mẹt lặng im

Có ai về Trà Vinh Thăm Ba Động hữu tình Ao Bà Om soi bóng Về Mặc Bắc Đẹp xinh

Có ai về Trà Vinh Ăn dùm tôi cuốn bì Bún nước lèo đầu chợ Tràng nem nướng Lạc Viên

Có ai về Trà Vinh Xin tìm hộ cho mình Một mộ phần hoang vắng ! Nằm nơi chốn an bình

Thương nhớ quá Trà Vinh Xa cách biển Thái Bình Ba mươi năm biền biệt Quê Mẹ hết chiến chinh Giờ đây đã hoà bình Quê tôi vẩn nghèo khổ ? Ai gây ra tội tình ?

Kim Chung Hoàng Vủ

Page 57: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 57

Chiêu Anh

Đọc Đặc San Trà Vinh số 13 năm Quý Tỵ 2013, tôi thật xúc động với bài Mái trường thân yêu của anh chị Kiên Rệm.

Bài viết nói lên nỗi lòng đau xót, tiếc thương người con gái đầu lòng hiền ngoan, yêu quý của anh chị cùng chồng con ra đi tìm tự do năm 1980 trên chiếc thuyền nhỏ mong manh chở 23 người. Rủi thay, khi đến vùng Vịnh Thái Lan thì một cơn bão thình lình ập tới, thuyền bị đánh úp. May nhờ có tàu lớn tới kịp, cứu được hầu hết số người lâm nạn. Riêng cháu Kiên Ngọc Chung cùng đứa con nhỏ phải bỏ mình ngoài biển khơi.

Vô cùng đau xót, anh chị Kiên Rệm đã viết lên nỗi lòng của mình, đồng thời anh chị cũng tỏ lời cám ơn quý Thầy Cô Giáo Sư trường Trần Trung Tiên đã từng dạy dỗ cháu Kiên Ngọc Chung thời thơ ấu.

Ngắm di ảnh của cháu Kiên Ngọc Chung in trong bài viết, tôi không cầm được nước mắt... ngậm ngùi đau xót, hồi tưởng bao hình ảnh thân thương của những em cháu, những bạn bè của chúng tôi ra đi vào lúc đó, kẻ còn người mất, biết bao thảm trạng đau lòng...

Ngày 30 tháng Tư năm 1975..., một ngày vô cùng đen tối của lịch sử Việt Nam, ngày mà kẻ chiến thắng đã bôi đen lịch sử, đày đọa dân chúng, hủy hoại cang thường, trả thù gây oán..., khiến cho hằng triệu người phải bỏ xứ ra đi... băng rừng... vượt biển... chẳng kể tử sanh, chẳng màng may rủi, phó thác số mạng trên con đường vô định... Gia đình ở lại mãi ngóng tin chờ đợi, thắc thỏm lo âu...

Trải mấy mươi năm qua, số phận đã an bày, khắp nơi trên thế giới tự do ngày nay, người Việt Nam đều có mặt. Tuy được định cư nơi chốn an lành, có cuộc sống ổn định, may mắn được đoàn tụ cùng con cháu trong mái ấm gia đình, nhưng thâm tâm chúng ta không thể nào quên ngày bỏ xứ ra đi. Ngày bứt ruột xé lòng đưa tiễn đứa con hoặc tự mình bấm gan cương quyết rời bỏ gia đình để thoát ly mà chẳng biết đi về đâu, sẽ tới đâu?... May mà đến được bến bờ tự do thì có được diễm phúc an lành. Còn biết bao thảm cảnh của bao người đồng cảnh ngộ, của những bạn đồng hành, cùng một

chuyến đi mà lại không may, kẻ bị bắt, bị cầm tù, kẹt lại, người thoát được ra khơi lại gặp bão dông đành thiệt mạng. Kẻ còn người mất thật quá đau lòng... Chưa kể còn có những chuyến tàu gặp bọn hải tặc chận tàu cướp hết hành trang, lại còn cưỡng hiếp, bắt những cô gái đem đi trước những cặp mắt hãi hùng, uất hận của thân nhân cùng khách đồng

hành trên tàu chứng kiến cảnh hung hăng tàn bạo của bọn hải tặc bất lương. Tiếng kêu cứu thất thanh, tiếng khóc não nùng, tuyệt vọng của những nạn nhân mãi hằng sâu trong tâm khảm mọi người. Tháng năm trải dài

cùng thời gian vô tận, thân nhân của những cô gái bất hạnh ấy tới nay mãi canh cánh bên lòng nỗi đau bất tận, không biết con em mình sống thác ra sao, mịt mù tăm tích...

Ôi ! khủng khiếp thay ! Cuộc phiêu lưu đầy nước mắt Nỗi căm hờn âm ỉ mãi trong tim Trải tháng năm chi xiết oán hiềm Vết thương đau mãi còn tươm rỉ máu Định mệnh ! Hỡi ôi ! Quá ư thảm não ! Kẻ gởi thân nơi rừng núi biên cương, Người xuôi dòng tuyệt tích giữa trùng dương Vì Tự Do phải đành liều tánh mạng...

Đọc Mái trường thân yêu, cảm thông nỗi lòng của anh chị Kiên Rệm, tôi chân thành chia sẻ niềm đau xót, tiếc thương cùng anh chị, cầu nguyện hương linh cháu Kiên Ngọc Chung và bé Thảo được siêu thoát cõi Nhàn an lạc.

Vớí niềm tin và hy vọng, Xuân Giáp Ngọ 2014 tới đây sẽ mang lại cho chúng ta sự thành công như ý nguyện. Kính chúc anh chị nguôi sầu, vui sống hiện tại cùng con cháu để đón mùa Xuân, Tết đến với mọi sự an lành, luôn được sức khỏe dồi dào, Phước – Lộc – Thọ tam đa.

Bakewell, Bắc Úc, 20/8/2013 Chiêu Anh

Page 58: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 58

Ăn miếng trả miếng Bernard Shaw

Bernard Shaw vốn gầy gò, khắc khổ, trông có phần "hom hem". Trong một buổi họp mặt, có vị chính trị gia béo tốt, hồng hào, y phục sang trọng và trang sức rất đắt tiền tới gặp và trêu: - Này ông, người nước ngoài nào mà nhìn thấy ông thì chắc họ sẽ nghĩ dân Anh phải chịu đói kém, khổ sở lắm ! - Và rồi khi họ nhìn sang ông, họ hiểu ngay nguyên nhân của sự đói khổ đó là do đâu! Albert Einstein Albert Einstein nói về thuyết tương đối của mình, có một anh chàng hay nghi ngờ hỏi: - Trí thông minh của người mạnh khỏe như tôi không thể chấp nhận những cái mà nó không nhìn thấy. Einstein đứng yên lặng một lúc rồi trả lời: - Được, điều đó có vẻ có lý lắm. Bây giờ ông đặt trí thông minh của mình lên bàn đây để tôi có thể tin rằng đó là sự thật. Winston Churchill

Winston Churchill vốn chẳng được phụ nữ Anh yêu mến. Có một bà nói thẳng với ông: - Nếu tôi là vợ ông, tôi sẽ cho ông uống thuốc độc. - Nếu tôi là chồng bà, tôi sẽ uống nó ngay. Hans Poelzig

Kiến trúc sư nổi tiếng Dresden (Đức) trong những năm 30 của thế kỷ trước là Hans Poelzig có tên trong Hội đồng thành phố nhưng ít khi tham dự những cuộc họp. Một hôm trong cuộc họp hội đồng có người phát biểu: - Giáo sư Poelzig, ủy viên hội đồng nhân dân thành phố rất ít khi có mặt trong các buổi họp.

Kiến trúc sư không khoan nhượng trả đũa ngay: - Các ông sử dụng cái đầu hay cái đít của tôi? Moritz Saphir

Một nhà thơ vốn ghét Moritz Saphir nên dè bỉu rằng: - Thưa ngài Saphir, ngài viết chỉ vì tiền. Còn tôi viết vì danh dự!

Ông từ tốn đáp: - Mỗi người chúng ta viết vì cái mà chúng ta

thiếu! Voltaire

Vua Phổ Frederic Đệ nhị mời Voltaire đến thăm cung điện. Rất nhiều quan trong triều đình thèm muốn sự ưu đãi này của vua Phổ đối với nhà văn. Một vị cận thần đặc biệt rất ghen tị với Voltaire đã viết trên cửa ra vào của nhà văn một dòng chữ rất to "Chó đểu".

Voltaire đoán ngay kẻ muốn lăng mạ mình. Ngay lập tức, ông trở lại nhà gã cận thần nọ và nói rất lịch sự với gã: - Thưa ngài, tôi xin lại thăm đáp lễ ngài. Tôi đã được đọc "Danh thiếp tên ngài" trên cửa nhà tôi. Tôi vô cùng tiếc là đã không ở nhà khi ngài đến thăm!

TU CHI NỮA ! Hòa thượng trụ trì một ngôi chùa nọ trên

ngọn Cấm Sơn chiều nay tiếp một trung niên xin được quy y cửa Phật: – Thầy ơi, con đến xin được nép bóng thiền môn, xa lánh sự đời, mong thầy chấp thuận.

Hòa thượng khuyên can: – Nhà chùa nào phải là nơi giải sầu, tam bảo đâu là chốn lánh trần. Tu hành cũng lắm gian nan, thí chủ phải suy nghĩ thật kỹ, lỡ sau này không chịu được mà hoàn tục thì tội lỗi lắm! – Thưa thầy, ý con đã quyết, xin thầy thí phát và cho con được kêu bằng “sư phụ”! – Con à, nghĩ lại đi, cuộc đời hãy còn lắm niềm vui với thất tình lục dục. Đang tuổi xuân, sao thí chủ không tìm vui trong tình ái? – Thầy ôi, bây giờ ngoài đó yêu nhau hôm trước bóp cổ nhau hôm sau! Với lại lấy vợ thì phải sanh con, lỡ vô sinh đã khổ mà sinh được còn khổ hơn nếu con đau bệnh không lo nổi viện phí, không tìm ra giường nằm, con tới tuổi đi học nhưng không đủ tiền chạy trường, lo quà cáp biếu thầy cô... Bao nhiêu nỗi khổ thầy làm sao hiểu được! Con quyết rồi: tu là cõi phúc, tình là dây oan !

Page 59: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 59

– Thiện tai! Thế sao con không giải khuây bằng những thú vui trần thế khác như ẩm thực, như du lịch? – Thầy xa lánh thế gian quá lâu nên không biết cõi tục bây giờ nó... tục lắm! Ăn một món ngon cũng có nghĩa ăn mầm bệnh. Ra đường thì đầy dẫy hiểm nguy, vừa sợ cướp, sợ hung thần đường phố, sợ cả công an ! Thầy chưa biết đó thôi, đường không đủ mà đi nhưng sơ hở lấn làn xe là ăn biên bản, xử theo nghị định 71 đi đứt cả tuần lương, vui chưa thấy đã lo nhãn tiền ! – Thế, chẳng lẽ ngoài đó không còn gì vui? – Con chẳng biết nữa. Với con bây giờ tất cả đều là không!

Hòa thượng ngẩn người: – Mô Phật! Nói thế thì thí chủ đắc đạo rồi, tu chi nữa !

Chân Lý tương đối Những điều (ngay cả) Harvard cũng không

dạy bạn. 1. Trong một vụ cướp nhà băng , một tên cướp hét lên: "Tất cả đứng im, nên nhớ tiền thuộc về Nhà Bank, còn mạng sống thuộc về chúng mày!" - Mọi người trong ngân hàng nghe xong liền im lặng nằm xuống. > Điều này được gọi là: "Cách thức khai tâm - Thay đổi những suy nghĩ theo lối mòn" 2. Có cô nhân viên nằm trên bàn trong tư thế khêu gợi, một tên cướp hét lên: "Làm ơn cư xử văn minh, chúng tôi là cướp chứ không phải những kẻ hiếp dâm!" > Điều này được gọi là "Hành xử chuyên nghiệp - Chỉ tập trung vào công việc mà bạn được huấn luyện!" 3. Một tên cướp trẻ (có bằng MBA) nói với tên cướp già hơn (kẻ mới tốt nghiệp phổ thông): "Đại ca, có phải đếm xem chúng ta cướp được bao nhiêu?". - Tên cướp già gằn giọng: "Mày ngu lắm, bao nhiêu tiền, đếm thế nào được? Đợi đi, tối nay TV sẽ nói chúng ta cướp được bao nhiêu!" > Điều này được gọi là: "Kinh nghiệm - ngày nay thì kinh nghiệm quan trọng hơn giấy tờ, sách vở" 4. Sau khi băng cướp bỏ đi, giám đốc chi nhánh định gọi báo cảnh sát. Kế toán trưởng vội vã chạy đến, thì thầm vào tai hắn: "Đợi đã, hảy để 5 triệu tiền chúng ta biển thủ vào trong số bị băng cướp lấy mất!" > Điều này được gọi là: "Bơi theo dòng nước - Chuyển đổi những tình huống bất lợi trở thành thuận lợi"

5. Người giám đốc tự nhủ: "Vậy thật tuyệt nếu cứ mỗi tháng lại có một vụ cướp!" > Điều này được gọi là: "Hãy loại bỏ những điều khó chịu - Hạnh phúc là điều quan trọng nhất" 6. Ngày hôm sau, TV đưa tin 100 triệu đã bị cướp khỏi nhà băng. Những tên cướp đếm đi đếm lại thì chỉ có 20 triệu. Chúng rất giận dữ: "Chúng ta mạo hiểm mạng sống của mình chỉ để lấy 20 triệu, bọn chó lãnh đạo chỉ ngồi chơi mà cướp được 80 triệu. Đúng là học hành, có bằng cấp thì chúng nó được ngồi cái ghế đấy, cướp tiền siêu đẳng hơn chúng ta!" > Điều này giải thích tại sao: "Kiến thức thì giá trị như vàng" 7. Trong 1 tháng tiếp sau toàn bộ toán cướp bị đưa vào nhà đá hết, có điều kỳ lạ là có những kẻ đi tự thú, có kẻ bị bắt do vợ hắn bốc điện thoại hỏi trực tiếp nhà băng về số tiền mất chính xác là bao nhiêu?

Sau này mọi người mới vỡ lẽ ra là bọn cướp không thể giải thích được với vợ, bồ của chúng là khoản tiền 80tr được cất ở đâu? lập quỹ đen hay cho gái hết rồi? Chúng chẳng thể ngủ ngon khi mỗi ngày với hàng trăm câu hỏi và đủ hình thức tra tấn từ tinh thần tới bạo hành... nên chúng chọn con đường định cư trong nhà đá cho bình yên.

Trong nhóm cướp đó có kẻ đã bị điên trong tù, nghe đâu lại bị đại bàng xử lý theo 1 đơn đặt hàng nào đó và lại chính là tên cướp được cảnh sát xác nhận là giữ nhiều tiền nhất, vụ án đi vào bế tắc và khép lại để dành thời gian cho các vụ án khác. > Kết luận là: “Bình yên quan trọng hơn là sở hữu nhiều tài sản từ nguồn gốc không chính tắc (nhân văn quá); thâm độc của con người không có giới hạn, đôi khi những kẻ lỡ dính chàm phải nhận thêm nhiều cái tội mà chưa chắc phải của mình...

Trong cuộc sống luôn có những điều chúng ta có thể nhanh chóng nhìn ra, có những điều không như chúng ta thấy từ bên ngoài, và chân lý chỉ mang tính tương đối.

Bài toán kỳ bí: (năm 2014) Tinh tuổi đời theo tên của MẸ Hãy viết tên MẸ bạn ra giấy (chỉ lấy TÊN thôi, không lấy họ và chữ đệm); Rồi đếm có mấy chữ cái. - Tiếp đó lấy số chữ cái đó. - Nhân với 2; - Cộng tiếp với 5; - Nhân với 50; - Cộng tiếp với 1764; - Trừ đi Năm Sinh của bạn Hai số cuối cùng của đáp số là số tuổi của bạn.

Page 60: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 60

Hội Ái Hữu Trà Vinh Tân Xuân Hội Ngộ 2013

Westminster (Bình sa)- - Trưa Chủ Nhật 10 tháng 3 năm 2013 tại nhà hàng Paracel Seafood Restaurant. Hội Ái Hữu Trà Vinh đã tổ chức buổi họp mặt Tân Xuân Hội Ngộ, ngoài đồng hương Trà Vinh còn có sự hiện diện của một số đại diện các hội đoàn, đoàn thể bạn tham dự.

Đoàn Lân GĐPT Kỳ Viên chào mừng đồng hương

Các Kỳ Lão Trà Vinh

Lì Xì các Thiếu Nhi

Vũ Khúc Mừng Xuân

Điều hợp chương trình ông Võ Trung Tín Tổng Thư Ký của hội. Trước khi khai mạc đoàn Lân trình diễn chào mừng quan khách và đồng hương, tiếp theo nghi

thức chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và phút mặc niệm, sau đó qúy vị cao niên cũng như qúy vị trong Ban Chấp Hành lên niệm hương trước bàn thờ tổ quốc. Tiếp theo Ông Hội Trưởng Giáo Sư Văn Tướng lên ngỏ lời chào mừng và cảm ơn đến qúy quan khách và đồng hương đã yểm trợ cho hội trong nhiều năm qua để hội có phương tiện sinh hoạt và duy trì đựợc truyền thống của quê hương Trà Vinh. Vì Trà Vinh là một tỉnh có nhiều sắc dân sinh sống nên trong phần phát biểu có tiếng Hoa và tiếng Khmer.

Ban Tổ Chức Hội Tết 2013 Hội Ái Hữu Trà Vinh

Page 61: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 61

Sau phần chúc Tết ban hợp ca Trà Vinh lên trình diễn bản nhạc "Ly Rượu Mừng"để chào mừng tất cả đồng hương Trà Vinh hội ngộ. Tiếp theo là phần chúc thọ cho các cụ cao niện và lì xì đầu xuân cho các em thiếu nhi tất cả cùng chụp hình lưu niệm nhân Tết Qúy Tỵ 2013.

Ly Rượu mừng, chúc cho nhà nhà hạnh phúc

Sau đó ban báo chí cho phát hành Đặc San Xuân Trà Vinh số 13, hình bìa với cựu học sinh "lớp Đệ Tứ Trung Học Trần Trung Tiên niên khóa 1959) nội dung phong phú với nhiều bài vở giá trị nói về Trà Vinh.

Buổi tiệc bắt đầu mọi người cùng ăn cùng thưởng thức một chương trình văn nghệ do các nghệ sĩ thân hữu và đồng hương Trà Vinh đóng góp qua nhiều tiếc mục có tiếng Hoa, tiếng Khrme, xen lẫn chương trình văn nghệ là phần xổ số lấy hên đầu năm với những giải thưởng giá trị do các mạnh thường quân bảo trợ.

Mỗi độ Xuân về, một lần họp mặt hàn huyên…

Buổi họp mặt mừng xuân diễn ra trong không khí thân tình của ngày Tết đối với bà con đồng hương Trà Vinh, mọi người cùng chúc Tết cho nhau những lời thật tốt đẹp trong niềm vui xuân của những đồng hương quen biết nhau gặp lại để kể cho nhau những tin tức buồn vui trong cuộc sống xứ người, kẻ mất người còn tại quê nhà sau năm tháng cách xa.

Buổi họp mặt rộn ràng vui trong đại gia đình Trà Vinh. Nhiều người đã tâm sự với chúng

tôi: "sống tại quê người có được ngày nầy cũng giống như ngày hội làng tại quê nhà, vì vậy hằng năm cứ trông đến ngày Tân Xuân Hội Ngộ để có dịp gặp lại nhau." Được biết Ông hội trưởng Giáo Sư Văn Tường đã được đồng hương Trà Vinh tín nhiệm nên đã liên tục làm hội trưởng 13 năm nay.

Cụ Trần Xiều dẫn đầu điệu Lầm Thôn Trà Vinh

Điệu LầmThol như … múa theo nhịp nhàng

Các Cụ Trưởng Lão

Gia đình, bạn bè sum họp

Page 62: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 62

Bạn cũng như tôi, ai cũng có kỹ niệm. Bạn

học chung lớp, chung trường, người cùng quê thường có cùng kỷ niệm để nhớ, nhứt là những lúc xuân về. Xuân nầy tôi xin ghi lại bóng dáng các Thầy, Cô, các Bạn, cùng ngôi trường Tiểu Học Trà Vinh thân yêu của thời 1950-1960 để các bạn đọc cho vui . Tôi còn nhớ lại khi đi tu nghiệp Giáo Sư tại Sài Gòn năm nào... Trong lúc chưa tới giờ học, tôi cùng vài Anh bạn lấy cuốn báo Văn vừa mua ra xem. Trong tờ báo có bài báo nói về nhà văn Thanh Tịnh và bài Ngày Tựu Trường. Chợt anh bạn cùng tu nghiệp dạy Trường Trung Học Đà Nẵng tên là Đặng hỏi tôi : - Mầy có Kỹ niệm về ngày đi học đầu đời không?

Tôi không trả lời mà hỏi nó: - Mầy kể những kỷ niệm của mầy đi rồi tao kể

của tao kể cho mầy nghe. -

Ngày khai trường...

Tôi định nói cho xong chuyện không ngờ nó kể cho tôi nghe chuyện của nó về ngày đi học đầu tiên : - Tao là con cưng nên tao lười lắm. Tao không muốn đi hoc. Tao nghe mấy thằng bạn nói đi học bị đòn tao càng không thích đi hoc. Sáng ngày tựu trường, mẹ tao kêu tao dậy sớm, ăn uống xong, thay quần áo mới, mẹ tao đưa tao cái cặp da mới tinh với bình mực rồi nói: Hôm nay con đi học đó! Nghe đi học là tao định chạy. Bà biết tao sợ roi nên một tay bà cầm cây roi mây, một tay bà chụp tay tao kéo ra cửa. Tao khóc. Bà vẩn kéo tao đi. Tao lại nhác đòn nên vừa đi vừa khóc. Đi ra đường bà buông tay tao rạ. Tao đi trước bà đi sau. Tao muốn chạy mà sợ bà đánh vì bà đi gần lắm (Dư chiều dài của cây roi mây). Tới trường bà đưa tao cho cô

giáo rồi quay đi. Thừa lúc cô bận có khách tao chạy theo mẹ tao. Đi một chút bà quay lại thấy tao, bà cầm roi dứ dứ tao phải quay lại trường. Tao đi trước, bà đi sau mà đi lẹ hơn tao. Bà nắm tay tao đưa cho cô giạo Cô giáo dẩn tao ngồi vào bàn học rồi trở ra nói chuyện với Mẹ tao. Hai ngừơi nói gì tao không nghe, chỉ thấy Mẹ tao trao cho cô giáo cây roi. Cô đứng ở cửa tiếp Phụ Huynh tay cầm cây rọi. Tao nhìn quanh có thằng bạn cùng xóm ngồi phía sau. Nó đứng lên, đến ngồi chung bàn. Tao đành ngồi yên cho đến hết giờ. Cả tuần sau ngày nào Mẹ tao cùng cầm roi đưa tao đi hoc. Đươc một tuần, tao mới đi học một mình.

Một anh bạn khác liền chêm vô một câu: Vậy mà bây giờ cũng làm Giáo sư. Nó không nói gì tôi tưởng nó quên.

Trong khi tôi ngồi yên để nó không đòi tôi kể chuyên của tôi. Nhưng nó quay qua tôi nói: Còn mầy thì sao ?

Tôi đành gật đầu chịu thua và cùng giử lời tôi kể kỷ niệm của tôi:

Tao thì đi học trể, nhà lại nghèo trong đầu tao không có nghĩ chuyện đi hoc. Trước đó một ngày Mẹ tao mua cho tao một cái áo trắng, cái quần cụt màu xanh,một căp đi học bằng lát, người ta gọi là cặp đệm. Mẹ tao còn đưa tao đi hớt tóc ngắn y như lính. Trong cặp có hai cuốn tâp 50 trang, hai cây bút chì, một cây viết chấm mực. Bà đưa tao cầm bình mực màu xanh. Tối đó Mẹ tao cho một đồng bạc. Bà nói ngày mai con dậy sớm đi hoc. Má đi bán. Bác Tư dẩn con đi hoc. Bác Tư là bạn cùng lối xóm chớ không có bà con gì cả. Tao mồ côi Cha, Mẹ tao phải ra chợ từ sớm nếu không có Bác Tư gái, tao cũng phải đi một mình. Mẹ tao lại không biết chữ. Bà đã nhờ người khác ghi tên cho tao trước ngày tựu trường. Sáng sớm tao ngồi chờ không lâu thì bác Tư vô nhà bà đưa cho tao gói xôi. Môt giây là xong ngay gói xôi, Hai bà cháu vừa ra tới đầu xóm thì thấy mấy thằng bạn cùng xóm đang đứng chờ. Đứa nào cùng có Mẹ đi theo. Bảy đứa có cái đầu mới hớt còn trắng phêu. Cặp đệm mới tinh, nhừng cái cặp này chỉ môt tháng sau rách ở giữa, mấy góc cũng lủng lổ mấy cây viết rớt mất hoài.

Bọn tôi đi học về thường chạy khi trời mưa, hay chạy đua về nhà cho mau. Ôm cặp khó

Page 63: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 63

chạy chúng tôi lấy cái cặp rách ở giữa chính giữa trồng vào cổ, để hai tay rảnh chạy cho mạu. Cặp đứt làm hai, không tiền mua cái cặp mới, đành ôm phân nữa đi hoc. Ngày đầu đi học bọn tao vừa đi vừa nói chuyện đi bắt bọ rày, bắn đạn… sau khi về chẳng lo chuyện học gì cả. Tới trường Bác Tư dẩn tao gặp thầy giáo lớp Một rồi bác về. Giờ ra chơi tao chạy ra mua ổ bánh mì chan nước cá mòi, năm cắc, còn 5 cắc tao để dành. Thời đó tiền cắc hiếm, bà bán bánh lấy đồng bạc xé làm đôi coi như là 5 cắc. Sau đó, tao tự đi hoc...

Thằng bạn tôi còn định hỏi mấy đứa kia nhưng thầy dạy Lý Hóa vừa tới, câu.chuyện tạm ngưng. Trường Tiểu học Trà Vinh có bốn dãy và một dày phụ ở giữa gần dãy trại lính. Sau này có thêm dãy lợp “Tôn” ở ngoài .

Thầy Nguyễn Minh Cần trước Miếu Tiền Vãng 1955

Tôi học lớp Năm, bây giờ là lớp Một với thầy Dận, Thầy Dận khác với thầy Dần là ông Đốc Dần có trường tư ơ gần Tiểu khu. Thầy tôi dáng hơi mập, thấp người, nước da trắng. Mặt lúc nào cũng nhăn, ít khi cười. Lớp Năm chúng tôi là lớp cuối ở dãy gần chùa Ông Mẹt. Lớp này rất khai nước đái vì nó gần nhà vệ sinh. Thường thầy cho khép kín 2 cửa gần cầu. Hai cửa bên ngoài đươc mở. Vào nhừng ngày trời mưa, học sinh của xuất học kế thường chạy vào dãy lớp này trú mưa. Mấy bà bán hàng cùng theo vào, thầy cho đóng kín hết bốn cửa. Lớp học vần khai; vần ồn. Có hôm Thầy dẩn cả lớp xách nước giội xung quanh cầu rồi mới học tiếp. Không biết có bạn nào ở lại lớp

khộng? Tôi trong nhóm học trò dở mà cũng lên Tư (Lớp 2 bây giờ) .Khi đang học với Thầy tôi không biết nhà thầy ở đâu. Sau này tìm thăm Thầy mới biết nhà Thầy ở gần phòng mạch Bác sỉ Hùng.

Khi lên lớp Tư, tôi học với thầy Võ Trung Thu. Lớp này là phòng thứ 3 của dày gần trại lính. Lớp không bị khai nhưng đi vệ sinh thì xa. Lớp bị ồn vì xe của nhà thương và`xe quân sự thường xuyên chạy ra, chạy vào. Cửa bên ngoài thường bị khép lại để tránh bị ồn.

Gần dãy này là dãy lớp không có vách tường ngăn, chỉ có vách ván. Khi tôi mới vào học thì dãy này ngăn thành lớp học dạy tiếng Kmher cho người Khmer. Khi Mẹ tôi theo học lóp Bình dân giáo dục do thầy Huyền, (là Ba của Bác sỉ Phúc) dạy thì các lớp này là nơi dạy cho người lớn. Nơi đầu của dãy này có một khoảng trống dùng làm Canteen. Nơi này cung cấp bửa ăn trưa cho học sinh ở xa. Nơi đây cũng là nơi cho học sinh ở xa nghỉ trưa chờ giờ học chiều, vì lúc bấy giờ, hoc sinh học hai buổi. Tôi cũng có coi các bạn ăn gì ở Canteen. Thức ăn nóng có 3 món: Cơm, canh, món măn. Còn các bạn đem đồ ăn theo thường đựng trong gáo dừa hay gói trong lá sen. Thường chỉ có cơm với tép rang hoặc cá kho... Sau đó vài năm tôi không còn thấy Canteen. Lớp tiếng Khmer cùng không còn.

Trở lại lớp Hai, dù đi học được một năm tôi cũng chưa thấy thích khi đi hoc. Hàng ngày tôi cùng tới trường, dù Mẹ tôi không có thời giờ để ý đến, tôi cũng không trốn hoc. Không biết là thầy Thu đổi đi lúc nào, bọn tôi được chia qua lớp khác. Tôi lại không nhớ được nét nào về thầy lớp Tư của mình. Năm vừa qua, khi email thăm thầy Cần, tôi mới biết thầy Thu đổi về Sài gòn. Thầy học thêm đổ Cử nhân luật rồi chuyển ngành. Thầy là Anh ruột của Vỏ trung Tín, bạn tôi mà tôi không biết nên không có dịp thăm Thầy.

Học dở, thầy cũng cho lên lớp Ba. Lớp này tôi học với thầy Thạnh. Thầy có nước da trắng, không cạo. Nhà thầy ở xóm nhà Thờ bên cạnh nhà ông Thanh tra Văng công Thơm, phía sau trường Thánh Gioạn. Đứng ngoài đường, không thấy nhà bên trong dù nhà này lớn. Chung quanh nhà trồng rất nhiều cây Lý. Trái lý màu vàng đậm, ngọt, thơm hơn mân. Có lần ôm sổ theo thầy về nhà, thầy dặn là nhà này thầy mướn đừng hái trái cây bà chủ nhà khó chịu lắm. Sau này nhà tôi dọn về gần đó nên tôi có dịp nghe bà Bảy Lý ( biệt danh của bà) la ó với những người lớn lẫn bọn trẻ hái trộm trái lý của bà.

Page 64: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 64

Tới lớp B, tôi học ở dãy nhà lợp “tôn” ở ngoài hàng rào. Học ở ngoài tự do, không bị xếp hàng khi ra về. Học ở trong phải sắp theo: Đường chợ, Cầu Long Bình, Xóm cây dầu, Thanh Lệ … theo nơi mình ở rồi giành hàng với nhau, chen lấn… Có hôm bị thầy giám thị bắt, bị nắm lổ tai kéo bắt đứng sau chót. Học ở ngoài còn lén đi ăn quà vặt trong giờ học. Hôm nào có tí tiền đang giờ học xin thầy đi vệ sịnh, ra khỏi lớp đi kiếm anh Bê bán kẹo kéo, đổ hột me, đươc cây kẹo, chạy qua xe nước đá, mua ly nước đá chế si rô cam, chế chút sửa bò, bỏ cây kẹo vô cho cứng nhai nghe rốp rốp mới ngon. Thường khi trốn là có thằng bạn chạy theo sạu. Sợ nó mét hai đưa chia nhau ly nước, cây keo…

Học trò đi học ở miền Tây

Sau này nghe nói thầy Thạnh đổi về Cầu ngang, khi về Vĩnh bình làm việc tôi có tìm thăm thầy mà không gặp lần nào. Không biết các bạn có giống tôi không, thấy thầy, cô là né vì vậy khi ra học ở dãy ngoài Tôi lại thấy ít lo vì ít gặp thầy, cô.

Hết lớp Ba lại phải vào học ở trong. Lần nầy, lớp Nhì cùng dãy bìa gần chùa nhưng lớp học ở giữa không gần nhà vệ sinh. Sân trường lúc trước có cái hồ bợi. Theo lời thầy Cần cho biết là nó được xây cho gia đình quan Phó Tỉnh cùng với họcsinh sử dung. Khi tôi đi học thì hồ bơi được đổ trấu cho học sinh nhảy xa. Học sinh vào giờ chơi chạy chơi trong hồ Trường có một bầy gà lôi thường nằm trong hàng rào cây vành vành bao quanh hồ, Học trò chọc phá bầy gà làm ồn ào sân trường. Nhà trường phá hồ bơi làm sân trường đẹp và sáng hợn. Lớp Nhì tôi học với cô Hồng, nhà cô ở gần bờ sông góc đường số 2 gần vựa củi của Mẹ tôi nên tôi thường thấy cô. Thấy Cô tôi cũng trốn. Khi Tôi được biệt phái về dạy trường Nam Phú Vinh, thì cô đổi qua trường Nữ. Gặp cô tôi Dạ, Thưa đàng hoàn. Một lần, một số thầy cô dạy

chung thấy tôi dạ, thưa, xưng em với cô có thắc mắc về sự lễ phép ít có này. Tôi chưa gặp cô lần nào từ khi tôi rời Việt Nam.

Tới đây, các bạn có để ý là tôi không nhắc đủ tên họ thầy, cô mình, không phải tôi vô phép mà vì tôi không biết họ. Thành thật xin lồi.

Tới lớp Nhì thỉnh thoảng có thầy Cần, thầy Thời, dạy Thể duc. Thầy Cần có dáng thầy dạy chữ hơn là thầy dạy Thể dục, nước da trắng, ốm. Thầy Thời nước da ngâm, mặt rổ. Tướng vạm vở của người chơi Thể thao. Sân tập thường là sân trước dãy phòng học gần hàng me. Một lần khi chúng tôi đang tập thì thầy Cần nghe loa ở văn phòng cho chúng tôi nghỉ để nghe nhạc sĩ Thu Hồ ca bản Quê Mẹ mà ông vừa sáng tác. Dù ở xa, tôi cùng nghe được giọng trầm buồn. Lời ca thì nghe câu rỏ câu không. Chỉ biết nói về Mẹ là tôi vui và thấy hay rồi. Tôi vui thêm vì là lần đầu có ca nhạc sĩ đến trường hát cho học trò nhỏ nghe mặc dù trường thỉnh thoảng có tổ chức Văn nghệ. Sau nầy thầy Cần, thầy Thời đổi đi. Thầy, cô dạy lớp lo luôn phần Thể dục.

Thiếu Sinh Học Đường- trại Ao Bà Om 11/11/1954

Tới lớp Nhì thỉnh thoảng có thầy Cần, thầy Thời, dạy Thể duc. Thầy Cần có dáng thầy dạy chữ hơn là thầy dạy Thể dục, nước da trắng, ốm. Thầy Thời nước da ngâm, mặt rổ. Tướng vạm vở của người chơi Thể thao. Sân tập thường là sân trước dãy phòng học gần hàng me. Một lần khi chúng tôi đang tập thì thầy Cần nghe loa ở văn phòng cho chúng tôi nghỉ để nghe nhạc sĩ Thu Hồ ca bản Quê Mẹ mà ông vừa sáng tác. Dù ở xa, tôi cùng nghe được giọng trầm buồn. Lời ca thì nghe câu rỏ câu không. Chỉ biết nói về Mẹ là tôi vui và thấy hay rồi. Tôi vui thêm vì là lần đầu có ca nhạc sĩ đến trường hát cho học trò nhỏ nghe mặc dù trường thỉnh thoảng có tổ chức Văn nghệ. Sau nầy thầy Cần, thầy Thời đổi đi. Thầy, cô dạy lớp lo luôn phần Thể dục.

Page 65: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 65

Thầy Hợi, cô Gấm, cùng một số thầy cô lo dạy học sinh thích, ca vủ … Khi học ở Tiểu học thầy Hợi ít khi đến lớp chúng tôi dạy Vẻ. Khi tôi học ở trường Trần Trung Tiên mồi tuần có giờ của thầy. Tôi vẻ dở thầy cho số 0. Thầy biết tôi mượn bạn vẻ dùm mà chỉ cười. Tôi không thấy Thầy rầy ai khi tôi học với thầy.

Lên lớp Nhất tôi học với thầy Đặng công Cẩn. Tôi nhớ họ thầy vì khi học hết lớp Nhất. Phải thi Tiểu học do Bộ Giáo Dục tổ chức. Phần thi môn nhiệm ý có phần: Hát hay Học thuộc lòng. Khi chép 3 bài đưa cho Giám khảo có ghi đầy đủ tên, họ của thầy mình. Sau này khi về Vỉnh Bình dạy học, thầy lo về tiền nên khó quên tên Thầy. Lớp Nhất, lớp Nhì dù không có học cùng bắt đầu nhớ tên vài Thầy, cô: Nhất A của thầy Xường; Nhất B của thầy Chỉnh. Thầy Vân, cô Hợi, Cô Tri… dạy lớp Nhì. Sau này tôi cùng không thấy các thầy, cô này ở Trà vinh.

Ở giừa sân trường có Miếu Tiền Vãng là nơi để nhớ Thầy, Cô đã quá vàng. Miếu lợp ngói, mái cong như mái đình. Cột miếu sơn đen, nền cao. Khi đi học các lớp; Năm; Tư, Ba tôi không dám đi gần Miếu vì sợ ma, phần bị cấm (Tôi nghĩ trong miếu có xác của thầy, cô).

Tới lớp Nhì hết sợ ma mà sợ bị phạt nhưng rất muốn vô miếu coi một lần cho biết. Tới năm lớp Nhất, khi đi lượm rác, dọn dẹp sân cờ trước miếu, tôi già đò lượm rác đi lần tới gần miếu. Dòm lẹ không thấy ai, tôi bước lên tam cấp. Vừa để chân bâc thứ nhật, thì có một người mặc nguyên bộ đồ trắng bước ra, tôi quay lại định chạy thì nghe tiếng: - Trò tên gì ? Đứng lại!

Nghe tiếng tôi biết là ai rồi, không phải ma mà làm tôi run... Tôi quay lại trả lời: - Dạ con tên Lai

Định chạy đi thì ông đã nắm được lổ tai tôi, kéo một cái, tôi đau quá mà không chạy được.

Ông không buông tay ra, mà nạt tiếp: - Trò đang làm gì ? Thầy tên gì ? - Dạ con đang làm lượm rác. Tôi không nói tên thầy .

Có lẻ ông Thanh tra Vương Hảo Thuận nhìn thấy hoc trò đang lượm rác nên buông lổ tai tôi ra, thuận tay bạt tay tôi một cái kèm theo câu: - Tiên tổ mầy! Đi đi!

Tôi chạy lẹ sợ bị kêu lại. Tôi còn nhớ, khi về lớp thằng Quan (Có nhà ở xóm Cù lao), thằng Siêu (Nhà ở đường đi chùa Phướng), thằng Ai, (nhà ở chùa Hang nói với tôi):

- Tao thấy đứa nào lảng vảng gần Miếu là bị ăn roi mây, hay thụt dầu 100 lần đó, Mầy mai mắn chỉ bị nhéo lổ tai.

Hiệu Trưởng Vương Hảo Thuận, GS Bùi Thành

Phụng, GS Hoàng Hoa Lê, GS Lương Hiệu Sương Hết lớp Nhất, thi vào trường bán công

Trần Trung Tiên, tôi bi rớt phải xin học lớp Tiếp liên với thầy Trần quốc Vinh. Thầy còn trẻ, đẹp trai, thích Văn nghệ. Thầy sử dụng đờn “Accordion”. Thầy thường tổ chức đi cắm trại. Tôi biết khu Ba Se, khu Đôn Hóa, Nguyệt Hóa nhờ đi cắm trại cùng bạn học, do thầy tổ chức. Khi học với thầy, thấy thầy chải tóc tém (Tóc 2 bên chải ra sau ót), tôi định bắt chước. Một lần đi hớt tóc, tôi hỏi anh thợ hớt tóc: - Tóc tôi chải tém được không?

Anh thợ không thèm nhìn tôi nói liền: - Tóc mầy cứng như rể tre, hớt ngắn, khỏi tốn “Briantine”

Nghe anh nói quá đúng, tôi bỏ ý định chải tóc giống thầy. Sau này tôi còn gặp thầy khi Thầy làm Phó Trưởng Ty Giáo dục,và là xếp của tôi.

Sáu năm ở trường Tiểu Học Trà Vinh, kỷ niệm xa xưa vẩn còn mãi mãi trong tôi .

Thái Lai

Chùa Hang ở Trà Vinh

Page 66: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 66

Huệ Tường Ngồi tù

Nói ở tù mà vui là điều nghịch lý, nhưng nếu nói cười ra nước mắt là điều tôi chứng kiến trong tù. Tôi bị tù về tội vượt biên, ghe trướng cồn, Công an biên phòng bắt, tống vào trại giam Huyện Cầu Ngang. Ăn cơm tù được vài tuần lễ, có anh bạn tù thuộc dạng hình sự tới làm quen, anh tâm sự: - Thầy ở tù mà sao không thấy thầy ưu lo, có vẻ thảnh thơi, an nhàn quá...! Có phải nhờ người nhà tới thăm nuôi thường xuyên? Anh ta gọi tôi bằng thầy, bởi thấy trong gói đồ tôi lót đầu nằm toàn y áo nhà chùa, mặc dù bấy giờ tôi đã để tóc, ăn mặn, mặc áo người đời... Tôi cũng không buồn giải thích. Dần dần anh ta tâm sự về đời tư của mình.

Anh tên Bỉnh, xưa là lính Sư đoàn, có lẽ là Binh Nhứt hay Hạ sĩ gì đó, vì Bỉnh thường nhắc lại những chiến công: ... dẫn theo hai ba thằng em... với mấy thằng đệ tử.... Có lần Bỉnh lật úp hai bàn tay đưa tôi coi, trên lưng của tám đốt ngón tay có xăm 8 chữ :“ cấm cười cười đục“. Bỉnh nói với tâm trạng tự hào hay lòng thù hận, tôi không đoán được tâm lý của Bỉnh như thế nào:

Trại tù Việt Cộng

- Thằng cha cán bộ điều tra cầm tay tôi lên thách thức: - Bây giờ tao cười đây, mầy đục tao thử coi! Mày không đục hả? Tao đục mày đây! Hắn đục mấy thoi vào mặt tôi, cả tuần lễ sau vẫn còn bầm.

Không lâu sau hắn lại gọi tôi lên làm việc. Vừa vào tới văn pòng, hắn bắt lột áo ra – chết cha, có thằng nào thọc mạch nữa đây, tôi nghĩ như vậy. Quả đúng, hắn vạch lưng, vạch ngực tôi và hỏi: - Mầy ngon hả? Mầy là vua hay là trời? Tao sẽ cho mày chết, thử xem rừng có tàn, núi có lở không? Hắn nện vào lưng, vào ngực túi bụi, làm tôi tức ngực, bứt hơi, ngã quỵ xuống đất hắn mới

thôi... Thì ra, sau lưng và trước ngực Bỉnh có xăm mấy chữ “khi ta chết rừng tàn núi lở”.

Trường hợp khác: Khóc mà vui, cười ra nước mắt, nhưng không ân hận...

Trại tù Cầu Ngang xưa chỉ nhốt tội hình sự. Trại xây bằng tường, lợp tol, nền tráng xi măng, có thể chứa 60-80 tội nhân. Từ khi tình trạng vượt biên ngày càng nhiều, trại tù ngày càng chật, nên họ cho cất thêm trong khuông viên trại tù một trại bằng lá. Trại này ngăn làm hai, vách ngăn cũng bằng lá. Một nửa cho nam tù nhân, một nửa cho nữ. Cán bộ trại chỉ định ông Chín Ly làm trưởng trại nhà lá, coi luôn nữ và nam tù nhân. Chín Ly là cán bộ phạm – cán bộ nhưng phạm tội - Trước 75 ông ta là thương phế binh của chế độ CS, sau 75 Đảng chiếu cố, cho ông ta làm cán bộ xã, có thằng con trai 9 – 10 tuổi, ra đường đánh lộn với trẻ lối xóm. Tức giận thế nào không biết, nhóc ta chạy về nhà lấy súng của ông già nẻ vào đầu đối phương. Vì còn nhỏ nên con làm cha chịu. Hai cha con vào ở nhà lá, cùng ăn cơm đảng!

Sự kiện ly kỳ xảy ra trong trại lá Chín Ly! Một hôm cán bộ trại phát giác, trong trại tù

có một nữ tù mang thai! Mọi người bàn tán xôn xao. Làm thế nào cô ta có thể có bầu và với ai? Mọi người đề quyết, chỉ cán bộ trại mới có điều kiện! Sau đó được xác định không phải do cán bộ, nên Chín Ly được gọi lên văn phòng. Có người kháo Chín Ly: Hê, ông Ly, ông là tác gỉa phải không? - Xin lỗi tụi mày, tao lạy trời để tạ ơn, nếu được vậy! Nói cho cùng, chỉ cần rửa bàn chân cho nàng, thậm chí xách nước cho nàng tắm, tao cũng sẵn sàng làm cho tới mãn đời tù tội của tao!

Sau nhiều lần lấy khẩu cung, nhưng „phạm nhân“ (có phải là phạm nhân không? Phạm tội lại phạm luật !) vẫn không khai ai là tác giả của bào thai. Luật trong nhà tù, dù bị còng hay không cũng phải có chỗ nằm cố định. Cán bộ vào khám chỗ nằm, nơi vách ngăn, dưới chân của can phạm có dấu những nuộc lạt bị tháo, mặc dù đã kéo lại, ngụy trang khá cẩn thận. Chứng tích rõ ràng. Bên kia vách ngăn, chỗ vách lá bị vạch, nam tù nhân bị dựng dậy, điệu lên văn phòng!! Rõ ràng: Trại tù chúng mình chung vách, Nên anh liều vạch vách chung qua!

Page 67: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 67

Đến giai đoạn này cả hai không thể chối cãi. Ban Giám thị cần phải biết, làm sao... bằng cách nào....? Trong khi đôi nam nữ này chưa được phép ra ngoài lao động, lại không thể gặp nhau dù trong lúc đi vệ sinh hay tắm giặt... Những tù nhân nam và nữ nằm cạnh hai can phạm đều được gọi lên văn phòng. Có lẽ mới bị cán bộ “tra” thôi, chưa “khảo” nên mọi người còn kín miệng. Nhưng họ bị kêu lên gọi xuống mãi nên có người buông lời thô tục: Cha kiếp, người ta è nhau mà biểu tao thuật lại là thuật làm sao!

Nghĩ cho cùng, dù chuyện thầm kín của hai người có xảy ra trong hay ngoài trại, tù nhân trong trại lá đều biết. Đã là tư tình, ai đi kẻ vạch! Đây là vụ án khá ly kỳ, cán bộ lấy khẩu cung không thể dụng hình, chỉ tìm cách nào để biết, làm sao “thẳng” và “mẻ” có thể năm tay nhau để đưa tới “đỉnh vu sơn”. Nhưng tù nhân trong trại lá không chịu hợp tác, làm họ thêm cáu tiết! Mọi người trong trại tù rỉ tai, nếu như thế là phạm pháp, thì căn luật mà xử, cần gì phải biết làm sao...? Bằng cách nào...?

Cuộc điều tra đang tiếp diễn thì tôi bị tống về trại tù Bến Giá, chuyện tình ly kỳ này xin dừng lại nơi đây!.

Gông cùm trong nhà tù VC

Bến Giá và trường Đại.... Học Bến Giá – xã Long Hữu – nằm trên trục lộ

quận Cầu Ngang - Long Toàn. Trước 75, Bến Giá chưa ở vào tình trạng khai phá triệt để, nên nguồn lợi thiên nhiên cung ứng cho dân địa phương khá phù hợp. Có đất ruộng ngập nước đủ lúa gạo cho cư dân quanh năm, có đất giồng khô ráo nên về mùa mưa cũng như mùa nắng, rẫy bái được canh tác đủ các loại hoa màu. Bến Giá là nơi trồng dưa hấu đứng đầu của tỉnh về cả hai phương diện phẩm và lượng. Có lẽ do thổ nhưỡng. Vào những ngày giữa tháng chạp cho đến qua Tết, Bến Giá vô cùng

nhộn nhịp, bởi những chiếc xe đò, hoặc những loại xe vận tải hàng hoá, chạy thâu đêm để lòi dưa xuống bến sông chợ Long Hữu rồi chuyền xuống ghe, chở đi Sàigòn hoặc những tỉnh lân cận. Bến sông bấy giờ đèn đuốc được thấp thâu đêm, sáng cả vùng. Sinh hoạt chợ Bến Giá náo nhiệt, vui nhộn như chợ Tết!! .

Về lâm sản và thủy sản, Bến Giá có đồng ruộng cho cá tôm nước ngọt, rừng ngập nước với chằng chịt sông rạch, cho tôm cua cá nước mặn, với lá dừa nước cung ứng cho dân quê lợp nhà, cây rừng cất nhà, làm củi. Kể từ khi hoà bình lập lại, tức sau 54, dưới nền Đệ Nhứt Cộng Hoà, dân Bến Giá có cuộc sống khá sung túc, dù ban ngày có gian lao, cực nhọc, nhưng về đêm, từ đầu trên xóm dưới, từng nhóm, từng nhóm tụ tập vui chơi, đờn ca tài tử thâu đêm. Dù vậy, Bến Giá cũng không phải là một xã nổi bật nhứt tỉnh. Nhưng kể từ sau 75 Bến Giá đột nhiên được mọi người quan tâm, không những trong tỉnh, thậm chí người dân Vĩnh Long cũng „nghe đồn“ và „biết tiếng“ . Bởi lẽ chánh quyền tỉnh Trà Vinh của Nhà nước CHXHCNVN thiết lập một ngôi trường Đại Hộc... Máu ở đất Giồng Thị!

Đại... Hộc này là trường „Hỗn Hợp“, không phải là „Đại Học Tổng Hợp“. Trường thâu nhận học viên mọi lớp tuổi: Nam phụ lão... thiếu niên. Mọi thành phần: Quan quân Cha Thầy... . Mọi trình độ: Từ biết đọc, biết viết tới Tú tài, Kỹ sư, Bác sĩ... .

Trước khi chuẩn bị vượt biên, tôi đã vấn lòng, quyết định bỏ lại sau lưng không luyến tiếc những hình ảnh vu vơ, phù phiếm như là quê hương, làng mạc, chỉ tình thương gia tộc, thân bằng quyến thuộc. Đó mới là những áp lực đè nặng lên tâm tư tình cảm của mình. Nhưng khi họ tống tôi vô trại tù trên đất Giồng Thị này, làm tôi bồi hồi xúc động, choáng ngộp với bao hình ảnh thời thơ ấu hiện về, dù cảnh vật đất Giồng Thị hiện giờ hoàn toàn thay đổi.... .

Đất Giồng Thị. Nếu từ chợ Bến Giá đi về hướng Ba Động hay Long Toàn chỉ hơn cây số. Dân địa phương thường gọi là Đụt Giồng Thị.

Nguyên thủy, Bến Giá Nhỏ và Giồng Thị là một con giồng đất cát nổi lên giữa rừng, nhưng bị con sông Bến Giá cắt ngang nên đất Giồng Thị chỉ còn một khúc ngắn bên này sông. Nếu xét về phương diện cư dân, phần đất thuộc Bến Giá Nhỏ có diện tích lớn hơn, đông dân hơn nên dân làng gọi phần bị cắt – phần còn lại – là Đụt Giồng Thị. Đụt hàm nghĩa phần nhỏ, phần còn lại, phần sau

Page 68: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 68

chót... . Nhưng xét về phương diện địa lý thiên nhiên, tổng thể cuộc đất Bến Giá Nhỏ và Giồng Thị nằm về hướng Tây cấn Bắc. Như vậy Giồng Thị không thể gọi là Đụt, phải gọi là Đầu Giồng Thị!

Sự thật đất Giồng Thị từ khi tôi biết, không còn bóng dáng cây thị nào cả, chỉ bên kia sông, đầu của con giồng Bến Giá Nhỏ, còn vài cây thị, đều thuộc hàng cổ thụ. Vào mùa thị chín, khi cho trâu ăn gần đó, tôi thường tới trèo bẻ, hoặc lượm trái chín bỏ túi cho thơm. Thị không ăn được, trái thị thơm nhưng quá chát.

Giồng Thị vào thời xa xưa chỉ có hai gia đình của hai chị em: Ông bà Tư Kỳ và bà Năm. Từ lộ cái bước vào con giồng là phần đất của bà Năm. Bà cũng khá đông con cháu, nhưng tôi chỉ nhớ rõ con bé Út Liên, cháu ngoại của bà. Trong vườn bà Năm có rất nhiều nhãn và ổi, bé ta thường nhờ tôi trèo bẻ ổi chín cho bé. Sau này lớn lên, có một thời tôi đã đơn phương vấn vương sâu đậm về nàng !

Vào trong nữa là phần đất ông bà Tư, nơi đây cũng trồng toàn nhãn và một ít rau cải để khỏi đi chợ... Ông Tư là con chiên ngoan đạo, suốt đời tận tụy giúp Thầy Giáo Ân chăm sóc, gìn giữ ngôi nhà thờ ở Long Hữu. Ngày xưa tôi thường nghe những lời ví von của người dân trong làng: Đất Bến Giá cất nhà thờ Thiên Chúa Giáo, chẳng khác nào đem giống vải – lệ chi – Lĩnh Nam lên trồng ở Bắc Kinh!. Tôi không mảy may để tâm, giờ thấy có chút gì xót xa... . Gẫm lại, từ khi nhà thờ được dựng lên cho đến những năm chiến tranh khốc liệt, dân Long Hữu tản cư tứ phương, nghe đâu nhà thờ đã hư sập vào những năm cuối thập niên 60. Qua ngần ấy thời gian, vẫn không có vị Linh mục nào về trụ lại để lo việc linh hướng cho giáo dân ở địa phận này, chỉ thấy có mấy Cha đi đi, về về... . Nhà thờ Long Hữu là nơi và Thầy Giáo Ân là người khai tâm, dạy tôi đọc i,tờ.. Mái trường lá của nhà thờ Long Hữu vàThầy Giáo Ân có lẽ đến cuối đời, tôi không thể quên những hình ảnh này... !

Đất Giồng Thị về sau – bấy giờ tôi chừng 8 hay 9 tuổi – có thêm gia đình bác Năm Xừng (Sừng?), bác phá đất rừng, nới dài thêm vài công cho Giồng Thị.

Bác Năm làm nghề hạ bạc. Trên xuồng câu, ngày đêm nổi trôi theo con nước lớn ròng của dòng sông Bến Giá và sông Long Toàn. Bác chuyên câu cá „bóng mú“. Cá bóng mú hình dạng tương tợ như cá tai tượng, nhưng lớn hơn, dài đòn hơn, có con nặng hằng chục ký, thịt rất ngon. Người ta thường nói : Nghề nào nghiệp nấy, sống

trên nước, phải trôi theo dòng nước và bác gặp nạn cũng trên mặt sông. Lần nọ bác ngồi trên xuồng, thả mồi buông câu. Sự việc như thế nào không biết, chỉ biết con cá bóng mú táp đứt lìa cánh tay của bác! Từ đó bác bỏ nghề câu. Với một cánh tay còn lại, bác cũng phải làm việc nhọc nhằn, cơ cực khác. Bác làm củi – đốn cây rừng làm củi bán – và đốn đuông chà là, dân làng tôi không gọi bắt đuông – tức đi chặt đọt chà là có con đuông trong đó.

Cho đến giữa thập niên 60, hằng năm vào lúc lúa ngoài đồng bắt đầu trổ cho đến lúa đã gặt xong, người ta thấy trên mui những chiếc xe đò Vĩnh Bình đi Sài Gòn ( tôi chỉ nói riêng miệt Trà Vinh) chất đầy đọt chà là. Những đọt chà là được chặt từng đoạn ngắn độ hai gang tay, bó lại từng bó 15 hay 20 đọt. Đó là đọt đuông chà là. Nếu nói riêng Trà Vinh, đuông chà là là đặc sản của quận Long Toàn. Rừng Long toàn là rừng ngập mặn, có nhiều cây tạp, nhưng phải nói rừng lá dừa nước và rừng chà là nhièu nhứt: Thân cây chà là cũng khá tốt trong việc đóng cừ, làm kèo, cột... Từ trong đọt chà là cho một loại sinh vật rất bổ béo, quý hiếm, đó là “đuông chà là”.

Trái Chà Là

Người ta nói trời bắt đầu sa mưa, là mùa giao phối của con kiến vương ( có người viết kiến dương. Theo Việt Nam Tự Điển của Lê văn Đức, kiến vương, kiến chúa đàn, loại to bằng ngón tay cái, mình và cánh cứng láng, đầu có gai như sừng, nguyên là con đuông biến thành). Sau đó kiến vương đụt vào đọt non của cây chà là, để lại trứng và nở thành đuông. Đuông ăn đọt non chà là, đến khi đuông già, trở thànhn kiến vương, khoét đọt chui ra...! Chính vi vậy, người bắt đuông phải tìm trên ngọn, chỗ tiếp giáp phần thân cứng và bẹ của lá chà là có lỗ, đúng hơn là có dấu giống như ai đó khoan lỗ tròn xong, lấy mạt cưa vo tròn bịt miệng lỗ lại. Đuông xử dụng phần thảy bít miệng lỗ lại để

Page 69: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 69

tránh côn trùng, sâu bọ, ánh sáng và hơi gió lọt vào. Người bắt đuông có thể nhìn vào lá non của đọt chà là, thấy đọt héo là chắc được 60%, khi đọt khô là đuông đã biến dạng, tức đã „hoá thân“.

Con đuông chà là tự nó bổ béo, tìm nó cũng khó nên rất hiếm và quý, vì mỗi đọt chà là chỉ có một con đuông, trong khi trên mụt măng tre có thể có 1-2 con đuông, trên một ngọn dừa có thể có vài chục con hoặc nhiều hơn nữa. Phải chăng chính vì nhiều, không hiếm nên không ngon, không quý... Khi nói về đuông, tôi biết kiến vương có rất nhiều loại. Nhưng, có phải kiến vương của chà là, của măng tre, của dừa... chỉ là một loại? Nếu con kiến vương đó đẻ trứng trong mụt măng tre là đuông tre, đẻ trứng trong cây dừa là đuông dừa...? Tôi chưa có điều kiện tìm hiểu... Xin Độc gỉa và Đồng hương chỉ giáo!.

Đuông Chà Là

Khi còn nhỏ, có mấy lần anh tôi bắt đuông chà là đem về chỉ cho tôi và em gái tôi nuôi bằng mía, anh nói đuông nuôi bằng mía ngon hơn đuông chà là. Nhưng đuông chỉ sống được chừng mươi bữa, nữa tháng thì chết. Rau nào sâu nấy, loài nào thức nấy là vậy! Sau này tôi đọc đâu đó thấy nói, người ta nuôi đuông chà là bằng mía. Tôi nghĩ, nếu nuôi được, có lẽ bằng phương pháp cấy giống, hoặc nuôi khi đuông còn ở dạng ấu trùng.... Vì nghiệm ra từ cuộc sống. Vợ chồng tôi, mấy chục năm qua, cố gắng lắm mới có thể thích nghi, hội nhập được „với“ lối sống của người bản xứ, trong khi con tôi được sanh ra, học hành, lớn lên, tập nhiễm nọi thứ ở đây nên nó sống „như“ dân bản xứ ! Mặc dù có nhiều thứ tôi không muốn nó bị tập nhiễm!

Tôi có quen một người thuộc dân Sài Gòn, nhưng gốc Trà Vinh, ông giao tiếp nhiều với giới thưởng thức sành điệu những đặc sản của vùng duyên hải miền Tây Nam phần như tôm, cua, so, vọp... nhứt là đuông chà là. Ông kể lại những lần thưởng thức các món nhậu được chế biến từ đuông

chà là như : Đuông nhúng bột chiên bơ, đuông nướng lửa than ở những nhà hàng nổi tiếng như Tài Hữu... trong Chợ Cũ... một cách say sưa như ông đang thưởng thức hay mới vừa từ trong nhà hàng đi ra..! Có lẽ những món đuông này quá tuyệt hảo, nên dù chuyện đã đi vào dĩ vãng hơn 40 năm, ông vẫn nhớ mồn một!

Thấy vậy nhưng không phải vậy Tôi ngồi tù ở trại Giồng Thi hơn 3 tuần,

vào buổi sáng chủ nhật, có người đồng tù tới kiểm, thì ra ông Xã Trưởng xã Hiệp Mỹ. Mở đầu câu chuyện ông nói: - Tuần rồi Trung úy Truyền ôm về trái dưa hấu, nói là của cậu gởi cho – Truyền người xã An Trường, Càng Long, xưa cùng tôi mướn chung một căn phố trọ học ở Vĩnh Bình. Truyền học sau tôi một, hai năm gì đó, nhưng sau này trở thành cháu rể, vợ Truyền là cháu, bà con bên ngoại, gọi tôi bằng cậu – Ông Xã Trưởng nói tiếp: - Mà tôi gọi cậu là cậu đi há, cho vợ tôi vui.. - Ông Xã Trưởng kêu sao cũng được. - Ở tù cả đám còn trưởng phó gì!

Ông Xã Trưởng xã Hiệp Mỹ, gốc người Tân Lập, hai ông bà đều bà con bên ngoại của tôi, cả hai tôi đều vai em – Ông tiếp nhiệm xã này từ năm 69(?) - 75. Ông tính tình bình dị, tận tình với chức năng, khá được lòng dân của xã. Chú hai Trần Tài Hiệp, anh Ba Nên... mỗi lần từ Trà Vinh xuống Hiệp Mỹ giao hàng hay thâu tiền, đều ghé lại những người bạn chí thiết như vợ chồng ông Chín Oánh, Vợ chồng ông Sáu Cứ, chủ xe đò Châu Điệp chạy Hiệp Mỹ Trà Vinh, bà Mười Giữa và không thể thiếu ông Xã Trưởng, bày ra tiệc nhậu, nhậu đến khi nào hết biết đường về mới... về!!. Chú haiTài Hiệp còn nhớ những kỷ niệm về những buổi tiệc không tàn này không? Ông Xã Trưởng tiếp tục bài tỏ suy nghĩ của mình: - Tôi tới thăm cậu để tìm sự đồng cảm và tương thông với cậu. Nói mà có chút hổ thẹn, kể từ ngày cậu trình văn thư của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, điều tra về vụ Chánh quyền xã giữ giấy tờ của quí Sư sãi chùa Sóc Mới. Trong lòng tôi từ lúc ấy có ấn tượng không hay về cậu. Vừa rồi Truyền cho biết, cậu bị giam trong này, làm tôi nhớ lại sự kiện mấy năm về trước và suy gẫm lại sự đời.... Nhiều khi chính tai mình nghe, mắt mình thấy mà nhận xét sự việc vẫn còn sai...!

Tôi hiểu được ông ta nghĩ gì về tôi và muốn nói gì. Trong thời buổi nhiễu nhương, Quốc Cộng không lằn ranh, hai anh em chú bác, kẻ bên Quốc gia, người bên CS, ngoài trận tuyến, là thù

Page 70: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 70

địch hay tình thâm? Ông ta có nghi ngờ hay hiểu lầm tôi là sự thường! - Sao Anh dùng chữ “điều tra” có vẻ đao to búa lớn quá vậy ! - Thì đại khái là như vậy....!

Vượt ngục Trong số anh em tù vượt biên từ Cầu

Ngang đưa về trại Bến Giá có Trung úy Cảnh sát Mùi và Trung úy Pilot Đạo đề nghị với tôi : - Anh có thể đưa chúng tôi vượt ngục? - Hai Anh nói chơi hay nói giỡn? Đưa hai Anh gặp cán bộ rồi cùm hai Anh lại thì được! - Chúng tôi thật tình, chúng tôi biết đây là làng quê của anh, rừng rú, sông rạch vùng này anh rành còn hơn chỉ tay trong lòng bàn tay của anh! Chúng tôi khẩn cầu anh thật đấy, không đùa đâu.... Tôi có thể tin được hai anh Mùi và Đạo, nhưng không hứa vội : - Lời đề nghị của hai Anh quá đột ngột, tôi suy nghĩ lại đã. Không lâu sau, hai anh nhắc lại chuyện hôm trước. Tôi bày tỏ thật lòng : - Đối với tôi, chuyện vượt ngục, một mình, tôi có thể ra đi bất cứ lúc nào, nếu được ra lao động. Nhưng ra ngoài rồi làm sao? Ba và anh chị em tôi không còn tiền chung cho chủ tàu để vượt biên một lần nữa, nếu ở loanh quanh trong nước, họ bắt được, lại khổ cho gia đình. Hai anh xăng xái: - Nếu ra ngoài được, chúng tôi xin hứa, chung vàng cho chủ tàu chúng ta cùng đi. Anh hãy tin chúng tôi.

Ba chúng tôi trỏ thành “đồng chí” ! Tôi ra điều kiện buộc hai anh phải nghe những đề nghị của tôi, đường đi nước bước dĩ nhiên tôi không thể tỏ lộ, nhưng những chuẩn bị hai anh phải biết. Lúc đi lao động, luôn đem thức ăn nhiều hơn một chút, vì không biết ngày nào cả ba cùng đi lao động chung một toán. Chỉ đi chung một toán mới có thể hành sự được. Điều cần nhứt là trong lúc tắm, hai anh phải lội (bơi), vừa lội vừa tắm gội, vừa lội vừa giặt quần áo, lội đến hết thời gian được phép. Đó là phương pháp luyện tập cơ thể khi cần đến. Trong thời gian chờ đợi cơ hội, có thêm một bạn tù muốn gia nhập – Út Phước – anh ta là cán bộ Y sĩ của VC, tù vì tội tổ chức vượt biên. Anh ta cũng là người Bến Giá, từng sống hơn chục năm trong rừng của vùng này, nhưng vẫn để tôi hướng dẫn. Có câu chuyện vui vui xảy ra trong thời gian bốn chúng tôi nhập cùng bọn. Hôm nọ vào thứ bảy, lao động buổi sáng, lúc nghỉ, cán bộ dẫn ra sông tắm, khi trở về, ngang qua mấy cái chái lá, nơi mấy ông phạm già lao động nặng không nổi, ra đây đan nia,

thúng, rổ cho cán bộ. Mấy ông thấy Út Phước đi qua: - Ô! Út Phước ở đây hả? Nãy giờ mọi người chạy kiếm ông hụt hơi. Phải biết ông tắm dưới này thì chạy kêu ông rồi. - Chuyện gì vậy mấy tía? - Có mấy cô nữ phạm muốn đi ngang qua đây, lại ngại bọn tôi chặn đường, nên hè nhau nhảy qua mương, đó, mương đó! Có một cô trợt chân, té, tét một đường dài cả tất, máu ra linh láng. Mọi người chạy kiếm ông quá trời!! Nói xong cả nhóm cười ầm.... Út Phước đoán được ý, trả lời gọn hơ: - Chuyện nhỏ, chỉ băng lại sơ sơ vài ngày là hết “ra máu”! Anh ta đúng là ông “thầy thuốc”, liệu bịnh như thần!

Bốn chúng tôi luôn sẵn sàng, nhưng cả bốn lao động cùng toán rất hiếm, nếu có, lại làm ở những địa điểm không thể thi hành được. Sau đó Út Phước gặp dịp may, anh ta là Y sĩ, cán bộ thường dẫn đi coi bịnh cho gia đình thân nhân của cán bộ, dần dần anh được tin tưởng, cán bộ cho anh biết nơi nào cần tới và khi về phải trình diện. Anh nhận thấy thời cơ đã tới, việc vượt trại của anh sẽ dễ dàng hơn nhiều, nên anh quyết định xé “danh sách hội viên” ra!

Cảnh thường thấy trong nhà tù VC Cơ hội đã đến, hôm đó ba toán cùng nhập

thành một đội, phá thẻo rừng còn lại cặp theo bờ bao ngạn. Bờ bao ngạn này nối liền từ lộ, chỗ ngã ba sông ( cầu Láng Chim) chạy về hướng Long Toàn, dài hơn cây số. Chúng tôi đã ăn ý và quyết định, gần 9 giờ – giờ nghỉ ăn sáng – sẽ chuồn. Tới giờ, chúng tôi đi trên bờ bao ngạn, ngược trở ra ngã ba cầu Láng Chim (cầu đã bị giựt sập ngay những năm „đồng khởi“ nhưng người dân ở đây vẫn gọi là „cầu“) . Đến nơi mà tôi dự định sẽ chọn để lội qua sông. Đây là con sông chảy về Bến Giá. Trước đó tôi luôn qua sát, ghe thuyền không còn thường xuyên qua lại trên khúc sông này nữa, nhứt là nước không còn chảy mạnh, vì phía trên con

Page 71: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 71

sông, chỗ chợ Bến Gía đã đấp đập, chỉ cần 5-7 phút không ghe thuyền nào qua lại, là chúng tôi đã lội qua bên kia sông!.Không biết may hay rủi, chuyện bất ngờ lại xảy ra... Địa điểm mà tôi chọn để lội qua, hôm nay lại có một ghe củi đậu để chất củi lên bờ. Nếu chúng tôi lội qua sông, dù cách xa 100 mét, người ta vẫn có thể thấy được! Không thể mạo hiểm.Tôi hỏi anh Đạo và anh Mùi: - Sự việc việc như thế này rồi, có dám theo lao không? Ở đây còn trong khu vực lao động, nếu chúng ta trở về lao động tiếp vẫn còn hợp pháp. Hai anh để tôi quyết định. Chúng tôi đi ngược trở lại, cách chỗ làm chừng hơn 100 mét, thấy không có ai, chúng tôi tấp vào đám lá và cây ráng, nơi này không còn cây lớn, nhưng ráng mọc khá um tùm, chỉ rộng chừng 2 công vuông, chung quanh lại trống trải, đất khô ráo, đi kỹ không để lại dấu chân. – Chém vè nơi đây! Tôi nghĩ an toàn 80%. An toàn hơn nữa là công an ở đây không có đội quân khuyển. Hai anh hồi hộp hỏi : - Có gần chỗ làm quá không?

Số trời! Theo suy nghĩ của tôi thì an toàn. Quả vậy. Hơn tiếng đồng hồ sau, mấy ông toán trưởng gọi tên chúng tôi ơi ới, nghe lồng lộng. Chừng 5 phút sau, bốn phía bắn súng báo động, rồi tiếng chạy sầm sập. Liền sau đó, tất cả tù đang lao động tập trung về trại. Đây chính là giờ phút hồi hộp, thử thách nhứt, nếu chỉ cần vài ba cán bộ đi ngang qua đám ráng là phát giác chúng tôi ngay! Sau này tôi có gặp lại vài người bạn tù lúc đó, họ nói rằng cán bộ trại nghi chúng tôi vượt ngục bằng xe ôm, nên họ tập trung chận mọi ngả! Dù vậy, họ vẫn cho du kích, kích chung quanh nhà người thân của tôi hai ba đêm liền. Vài giờ sau thì hiện trường hoàn toàn yên lặng, chúng tôi bớt lo! Đến chiều tối chúng tôi lấy gạo sống ra nhai và ngủ chập chờn với đàn muỗi đói bay vi vu như sáo thổi!... Chỉ lấy bàn tay chà, không dám đập!.... Tôi dự chừng 3-4 giờ sáng, công an, du kích dù có phục kích họ cũng rút về nên chúng tôi khởi hành. Tôi đi trước, hai anh đi sau chừng 5-10 mét, chúng tôi bò qua lộ, xuống mé sông, tôi xắn hai bặp dừa cho anh Đạo ôm, lội qua sông (anh là Pilot bị súng phòng không bắn, bị thương chân, đi đứng không được mạnh dạng). Anh Mùi thì tự lo được bản thân. Gom tất cả đồ đạc của hai anh và của tôi, đội đầu, cái búa và con dao (cán bộ phát lúc lao động) thì thắt lưng.

Vì nước không chảy mạnh nên lội qua sông không mấy khó khăn cho chúng tôi. Qua được bên kia sông, „đáo bỉ ngạn“, tất cả thấy hết lo, nhẹ

nhỏm cả người. Bấy giờ bụng mới thấy đói, nhưng chúng tôi phải đi thêm một đoạn đường nữa cho an toàn. Khi mặt trời vừa ló dạng, bớt hơi sương, anh Mùi nổi lửa nấu cơm, phải chờ bớt hơi sương, đây là những điều mà anh Đạo và anh Mùi đã học trong quân trường... Cơm xong, chúng tôi tiếp tục lội rừng. Đây là khu rừng giáp với con giồng Bến Giá Nhỏ, chúng tôi chỉ đi cặp theo con giồng. Bây giờ lòng tôi không còn lo lắng nữa, chỉ định hướng, đi cho tới những điểm mà tôi đã vạch trong đầu. Chợt lòng cảm thấy một chút gì bồi hồi, xúc động, tự dưng dừng bước như chờ hai anh theo cho kịp... Tôi định thần sực tỉnh, thì ra đây là khu vực chỉ cách không quá 200 mét là vuông đất của gia đình tôi. Nơi mà thời thanh niên, ba đã phát tranh, đốt cỏ và sanh cơ, lập nghiệp, là nơi má đã chôn nhau, cắt rún của tôi, hiện giờ chị và mấy cháu đang quây quần bên nhau trên mảnh đất này. Chỉ cần la lớn lên- Chị ơi, chị có nghe tiếng em không? Có lẽ chị và các cháu tôi nghe được! Nhưng hỡi ơi, trong gang tấc mà như muôn trùng vạn dậm...! Và cũng đâu loanh quanh khu vực này, ngày xưa lúc tôi chừng 5-6 tuổi (chị tôi xác định thời gian này) có xảy ra sự việc khá thương tâm, rùng rợn...

Loài heo rừng hung dữ

Bến Giá Nhỏ là con giồng nằm giữa rừng nên về đêm, đôi khi cả ban ngày, heo rừng thường lên giồng ăn phá khoai, mì, hoa mầu phụ. Dân ở đây cũng có một số người săn hoặc bẫy chúng. Nếu bẫy chim, bẫy chồn rất đơn giản, chỉ cần vác chục cần bẫy cò ke, qua đêm có thể đem về một hai con chồn đèn, chồn mướp... Nhưng gài bẫy heo rừng khó khăn hơn nhiều. Làng tôi lúc bấy giờ chưa biết chế bẫy rập bằng sắt như của những thợ rừng Âu Mỹ, cũng dùng rập, nhưng bằng gỗ, dưới rập lòn sợi dây cước – loại dây như dây thắng xe đạp, nó không bị cóc – sợi dây cước buộc liền với ngọn cần bẫy, cần bẫy này được làm bằng nguyên cây tre gai, lớn bằng cườm chơn, dài 3-4 thước, được chôn chặt xuống đất.. Khi con heo bị mắc bẫy, nếu

Page 72: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 72

heo độ chừng 10 ký, nó sẽ bị treo lơ lửng khỏi mặt đất cả thước... .

Anh Tư Nghiệm và vài người trong xóm chuyên gài bẫy heo. Vào một buổi sáng sớm như mọi hôm, anh cùng đồng bạn đi thăm bẫy, từ xa anh thấy bẫy bật, nhưng dây cước dùng bân, anh nghĩ con mồi đã sẩy, nhưng khi đến gần, chợt thấy sợi dây cước còn treo lủng lẳng một khúc giò của con heo! Anh chưa có phản ứng gì, từ trong bụi lùm kế bên, phóng ra con heo rừng chỉ có ba chân, hút vào anh và tán túi bụi vào người, anh chỉ biết la lên và bất tỉnh sau đó. Ngươì đi cùng nhóm nghe la, chạy tới, thấy anh nằm bất động, cần bẫy còn treo lòng thòng khúc giò con heo. Heo kia đã mất dạng!. Mọi người khiêng anh về cứu chữa, cũng may, anh chỉ bị thưong, bất tỉnh, không nguy hại đến tính mạng! Người ta bàn rằng, con heo khi đã mắc bẫy, nó biết không thể nào thoát khỏi, chỉ còn cách cắn bỏ khúc chân, và nó quyết định trả thù nên nằm lại để chờ... Anh tư Nghiệm và bác năm Sừng ở làng tôi bị tai nạn nghề nghiệp phải bỏ nghề!!.

Theo như những nhà văn viết tiểu thuyết đường rừng cho rằng : Mọi loài thú đều có tánh linh. Đàn kiến di chuyển lên chỗ cao, một hai ngày sau sẽ có những trận mưa lớn!. Bản năng sinh tồn, con heo rừng tự biết loại cây nào cho mủ ( nhựa thông, nhựa của cây chai, loại nhựa người ta lấy về chế thành dầu chai, trét, xảm ghe xuồng). Heo rừng có cách riêng, làm cho cây chai ra mủ và cọ mình cho mủ dính vào da, vào lông, nhiều lần như vậy, da con heo trở thành dầy, cứng. Nếu tầm của làn tên không đủ mạnh, ngọn dáo thiếu sức sẽ không sát thương được! Người ta gọi đó là „heo lăn chai“ Trở lại chuyện anh tư Nghiệm, dân làng thường nói : Thằng tư Nghiệm bị „heo lăn chai“ đánh tét háng.... Tôi nghĩ không phải heo lăn chai, vì chỉ vùng rừng núi miền Đông hay rừng núi cao nguyên mới có loại cây có mủ như cây chai. Vùng rừng sác từ miệt Cần Giờ tới Cà Mau, không có loại cây cho heo rừng „tẩm“ chai!. Có lẽ anh Tư Nghiệm dù có con dao săn cầm trên tay, nhưng bất thần, chưa kịp phản ứng, anh đã xỉu, làm gì chạm tới con heo mà biết heo „lăn chai“!!

Chúng tôi lại tiếp tục lội rừng, chân của Trung Úy Pilot Đạo yếu nên đi rất chậm. Chúng tôi vừa lội qua xẽo Động Lách, dường như cầu Động Lách lúc bấy giờ đã sửa lại là cầu khỉ thì phải, nhưng chúng tôi phải lội qua xẽo, cách cầu chừng 100 mét. Lội cặp theo con giồng Động Lách, bất thần gặp một thanh niên đi rừng, không thể lánh

mặt, chúng tôi đi thẳng tới, thấy anh ta mang giỏ, một con dao cùn và cù móc để móc cua, tôi dã lã hỏi . Chú bắt cua hả? Nhiều ít rồi? Để chứng tỏ chúng tôi không chút gì sợ hãi, tôi bước tới nhìn vào giỏ, thấy vài ba con cua và một ít vọp.. Tôi hỏi: - Chú ở Đon hay ở Bến Giá Nhỏ mà đi rừng sớm quá vậy? Dường như anh có chút lo sợ, trả lời tôi nghe không rõ. Chúng tôi chào giã biệt, tiếp tục cặp theo giồng Động Lách, ngang qua miễu Cây Dưong, lội qua Xẽo Su, tôi nói với hai anh bạn. - Đi chừng hơn cây số nữa là tới địa điểm cuối cùng để nghỉ chân...

Gần đúng trưa chúng tôi tới Rẫy Tiều, nơi tôi đã dự định dừng chân nghỉ, chờ đến đêm đi tiếp, vì từ giờ chúng tôi phải xuyên qua những cánh đồng trống, không thể đi ban ngày. Rẫy Tiều, xưa kia có nhóm người Triều Châu về đây phá rừng làm rẫy, khu này lớn chừng hơn cây số vuông, đến khi tôi biết, vùng này đã bỏ hoang, còn lại đó đây những gốc dừa bị chặt hay bị cháy ruị, còn lại những mương bờ, cỏ dạy um tùm. Nhưng bây giờ thì hoàn toàn rậm rạp, cây ráng mọc không đường ra, lối vào. Hơn 20 năm rồi còn gì? Trở lại chốn cũ, đúng hơn, là nơi gợi lại nhiều kỷ niệm của tuổi thơ. Hơn 4 cây số đường rừng mà chúng tôi vừa đi qua, ngày xưa, không nơi nào mà không có dấu chân trâu của bọn chăn trâu chúng tôi. Mặc dù cây cỏ có đổi thay theo thời gian, nhưng những hình ảnh xưa cũ cứ hiện về.

Bầy trâu lội sông

Dân làng tôi luôn siêng năng cần cù, khi sa mưa, đất giồng trồng khoai, mì, bí, bắp. Ruộng thì lúa mạ chật đồng, cỏ còn không chỗ trống để mọc, làm gì có đất trống cho trâu bò ăn! Bọn chăn trâu chúng tôi đến mùa đồng chẹt như thế này, phải lùa trâu xuống rừng! Có thể có người hỏi, lùa trâu xuống rừng, có...mất không, và trâu ăn cái gì? Xin thưa: Lạc đường nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu!!. Trong rừng có loại cỏ nước mặn (nhưng không mặn!), lá cóc kèn, nhiều con trâu ăn cả dây tơ hồng, (dây tơ hồng không trồng mà mọc, gái đất

Page 73: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 73

này không chọc mà theo!!). Nước trâu uống? Rừng Bến Giá dù cận bờ biển, nhưng vào mùa mưa nước cũng pha chè, trâu có thể uống được! Khi trâu vô rừng, bọn chăn trâu chúng tôi hoàn toàn rảnh rỗi, chia nhau đi kiếm thức ăn – bắt cua, bắt cá, bắt vọp.. Tôi muốn nói bắt “vọp”. Bắt vọp dễ hơn bắt cua, cá nhiều, chỉ cần biết môi trường nào thích hợp để vọp sống, sẽ tìm bắt được nhiều hơn. Vọp không thể sống dưới bùn luôn ngập nước, cũng không thể sống nơi thiếu nước và quá rậm rạp...

Con Vọp

Nghĩa là vùng đất bùn khi nước lớn thì ngập, khi nước ròng bày mặt bùn lên. Đi bắt vọp phải chọn những ngày nước kém để đất rừng không bị ngập. Thường vọp ẩn mình xâu dưới bùn, chỉ nhô miệng lên khỏi mặt bùn vài phân, nhìn kỹ mới thấy. Người ta gọi là „vọp chỉ“. Cũng có con nằm phơi khỏi mặt bùn gần nửa thân mình. Người ta gọi là „vọp mánh“. Phải chăng vì lộ nguyên hình, không còn che giấu gì được nữa, coi như đã „bể mánh“ rồi! Tôi mãi miên man, vơ vẩn chuyện đâu đâu thì anh Mùi đã nấu xong lon gô cơm, cũng anh Mùi, ban sáng này anh đã nấu và mãi về sau, suốt thời gian chuẩn bị vượt biên lần cuối, anh luôn là tổng khậu. Tới nay, hơn 30 năm ở xứ Đức, hơn 20 năm anh làm chủ 5 cái nhà hàng... Ăn xong, nghỉ ngơi chờ trời chạng vạng tối chúng tôi rời Rẫy Tiều, băng đồng hướng thẳng về lộ cái, qua lộ cái, đi tới Sông Lưu (Thông Lưu), đổi hướng đi về ngã ba lộ Mỹ Quý – Chùa Sóc Mới. Qua khỏi giồng Mỹ Quý, tôi tìm mấy cái giếng tưới, lấy thêm nước ngọt. Không phải giếng tưới nào cũng có nước để uống! Nếu giếng tưới dưa hấu, người ta ngâm phân trong giếng! Giờ ở nước ngoài, uống bia, uống nưóc suối tinh khiết, có còn nhớ những bình nước mà tôi lấy từ giếng tưới không hai ông bạn cùng cộng khổ của tôi? Tiếp tục băng đồng Mỹ Quý thẳng về hướng rẫy bà Cốc, lội qua sông Ô lắc. Sông này khá lớn và nước chảy cũng khá mạnh, nhưng bấy giờ chúng tôi không

còn lo âu, nên có thể dìu nhau lội qua sông dễ dàng (tôi đã bỏ cái búa và con dao ở Rẫy Tiều). Tiếp tục băng đồng, qua lộ Lồ Ồ về huớng Long Sơn, vẫn băng đồng cặp theo giồng Long Sơn, Thủy Hoà rồi Cầu Ngang, lội qua sông Cầu Ngang, qua nhà thờ Cầu Ngang. Bây giờ chừng 12 giờ đêm, thấy anh bạn Pilot của tôi quá kiệt, tôi làm liều, ghé vào nhà người bạn của tôi ở ngã ba lộ về Mỹ Long, vẫn biết, có thể mang lại nhiều nguy hiểm và bất hạnh cho bạn. Khi thấy chúng tôi, hai vợ chồng anh bạn run như cầy sấy, dù vậy vẫn chạy lo cơm nước, ăn xong chừng hơn 3 giờ sáng, gà hàng xóm bắt đầu eo óc gáy, chúng tôi xin cám ơn, giã từ. Ông bạn thấy áo tôi quá cũ, không tiện khi đi ngoài đường, lấy cho tôi cái áo khá mới. Xin cám ơn anh bạn nhé! Anh bạn ơi, không phải tới bây giờ mới nói lời cám ơn, đã nói từ giờ phút đó và nói mãi cho tới cuối đời của tôi đó anh bạn! Bấy giờ ngoài đường đã lác đác từng nhóm, từng nhóm người từ Mai Hương đi chợ Vĩnh Kim, chúng tôi thản nhiên nhập bọn, vẫn chưa dám đi xe lôi hoặc xe hơi, phải đi bộ qua khỏi ngã ba Trà Cuôn. Tại ngã ba này có trạm kiểm soát rất gắt, thật ra trạm này họ chỉ kiểm soát thịt thà, gạo thóc, nhưng ngừa trước vẫn hơn. Chúng tôi đi bộ qua khỏi trạm một đỗi, đón xe lôi về Trà Vinh.

Đã tháo củi sổ lồng!!. Huệ Tường

Mai tôi chết xin mang tôi ra biển Mai tôi chết xin mang tôi ra biển

Nhúm tro tàn cuốn theo sóng nổi trôi Tấp vào đâu dù hải đão xa xôi

Hay ven biển theo hình cong chử S Nếu Tôi chết mang ra vịnh Bắc Việt

Ngăn Giặc Tàu đang xâm chiếm biển Đông Để bão vệ quần đão Vịnh Hạ Long Xuống Đồng Hới, Vinh và Cữa Việt

Xin mang tro về miền Trung xanh biết Thăm Anh hùng đả tử chiến Hoàng Sa

Và bao người đả bỏ xác Trường Sa Giử lảnh hải cũa Ông Cha để lại

Tôi sẻ về thăm Quãng Nam, Quãng Ngải Cùng Ngư dân chống Tàu Cộng xâm lăng

Thăm Cam Ranh cùng Phan Thiết, Phan Rang Về Côn Sơn qua Cà Mau , Phú Quốc

Nếu tôi chết xin mang tro ra biển Để tôi nhìn vùng lảnh hải Việt Nam

Cũa Ông Cha bao đời chống xâm lăng Dù cát bụi vẩn một lòng chống giặc !

Hoàng Vũ

Page 74: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 74

Ô Chữ Tiền Anh Nhi

Quy ước: - Các từ /chữ viết liền nhau, không cần khoảng cách - Không cần các dấu thanh - Các chữ cái: A, Ă, Â = A ; E, Ê = E ; O. Ơ, Ô = O ; U, Ư = U ; D, Đ = D

Ngang: a- Giữ không để mất – Rụt rè, mắc cỡ – Vật dụng dùng để cắt rạ b- Đội lính cỡi ngựa – Đọ cho biết dài ngắn c- Dơ quá, ghê quá (tiếng dùng với trẻ con) – Bậc thứ, sau bậc nhất – Cô d- Loài chim báo hiệu mùa xuân về – Quê hương của Thánh Gióng e- Chữ thứ 17 trong bản chữ cái vần Quốc Ngữ – Người cỡi ngựa đua – Chim ri f- Khi ngựa chạy mau và đều bốn chân – Kéo lại – Xe do bốn con ngựa kéo g- Sờ – Thức ăn của ngựa – Xe do một con ngựa kéo, có mui ngang và cao – Chuồng ngựa h- Sáng đẹp, rực rỡ – Để sẵn, khi cần thì có liền i- Cọ, xát – Vật đeo nơi cổ ngựa j- Học lại – Dây da tra vào hàm ngựa

Dọc: 1- Tên con ngựa của Thái Tử Tất Đạt Đa.

2- Vật để ngồi trên lưng ngựa – Bán không đắt hàng – Không lớn 3- Đất gần mé nước - Coi giữ và dắt ngựa đi ăn 4- Tết 2004 5- Giống hệt – Mương to và dài – Vật dùng để bắt cá 6- Nhờ - Dùng mõm để xốc đất lên - Đánh bằng gót chân vô hông ngựa để ngựa chạy nhanh 7- Thờ ra, không cử động hay nói năng được – Tấm giấy mỏng – Tài giỏi 8- Ngại ngùng – Ngựa đen – Sau chót – Người phụ xét vé xe 9- Xe do hai con ngựa kéo – Vừa vặn, rập khuôn nhau 10- Vũng nước - Tiền của nhiều – C – G.

Trả Lời:

Page 75: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 75

Mời Bà Con viết bài cho Báo Xuân Giáp Ngọ

Trên tờ tranh đẹp Một tập lịch dầy Ngày Ta, ngày Tây Ngày làm ngày nghỉ Biên đâu tỉ mỉ Trông rất rõ ràng Mỗi ngày một trang Giấy bay ngày mất Xuân xanh chóng thật Hởi Đồng Hương ơi Ai tiếc ngày trời Thì ghi ra giấy Ngày nào việc nấy Chớ có bỏ qua Lần lượt tuổi già Hối sao cho kịp… Bây giờ hảy viết Đăng báo Trà Vinh Tất cả chuyện tình… Ngày xưa ngày xửa Hay chuyện hằng ngày Gởi gắp về đây Cho Ban Báo Chí Trước ngày mồng 1 Trong tháng 11 Để kịp layout Cho Tờ Báo Tết. Mau lên, mau lên… Năm cùng tháng tận Qua thật là mau…

BBC

Fr: AnhNhi - [email protected]

Mon, Sept 2 2013 Kính gởi Cậu 2 attachments những bài của

má Quan đóng góp cho ĐSTV Giáp Ngọ 2014: 1- Bài viết cho Đặc San Trà Vinh, gồm: 6 bài thơ và 1 bài văn. 2- Đố vui đối đáp Nhơn vật lịch sử và đồ dùng. Quan cũng sẽ cố gắng đóng góp 1 bài.

Kính thơ – Quan * * *

Kính gởi Ban Báo Chí, Cùng anh Tin Võ, Như thường lệ, năm nay tôi xin gởi đến Ban Báo Chí những bài viết sau đây: Thơ: - Lời khai bút - Ngựa Thần Phù Đổng - Hùng Binh - Tôi ở đây Văn: - Chia sẻ nỗi lòng Thơ: - Niềm đau (kèm theo bài Chia sẻ nỗi lòng) Đố vui: I- Nhơn vật lịch sử II- Đồ dùng

Chiêu Anh

Bài viết cho Đặc San Trà Vinh Xuân Giáp Ngọ Đáp lời mời bà con viết bài, tôi xin phỏng theo thể văn sớ của Ban Báo Chí: Lá vàng theo gió thu bay Tuổi xanh theo với tháng ngày ra đi * “Chuyện tình” một thuở xuân thì Tiếc làm chi nữa giai kỳ đã qua Đã hay “lần lượt tuổi già” Đáp lời chẳng dám bỏ qua dịp mời ...

Đáp lời kêu gọi Nhắn với bà con

Page 76: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 76

Sớm toan viết bài Gởi Ban Báo Chí Quý Tỵ mãn kỳ Kịp thì Giáp Ngọ Mở ngõ mừng xuân Chúc: Lời khai bút “Mã đáo thành công” Ngựa Thần Phù Đổng Giáp Ngọ Hùng Binh Chuyện tình muôn thuở Khó tỏ nên lời Một đời dang dở Rày Tôi ở đây Quê người xa lạ Bỏ cả tình quê Xuân về mong nhớ Làng cũ người xưa Buồn vui thương tiếc Ghi chép vài thiên Trước tiên tâm sự Chia sẻ nỗi lòng Thương cùng phận bạc Bi đát Niềm đau Xiết bao oan khổ “Ôn cố tri tân” Dỡ lần trang sử Cùng thử Đố vui Trò chơi để học Nhơn vật lịch sử Chuyện cũ tích xưa Truyền thừa oanh liệt Sánh việc đương thời Hỡi ơi ! Ngao ngán Ngày tháng trôi nhanh Sử xanh còn đó Muôn thuở nào quên Khôn đền nợ nước Mơ ước người xưa Trở về hỗ trợ Giáp Ngọ niên lai Đổi thay tất cả Viết đã dài dòng Mong cùng thông cảm Chẳng dám làm phiền Lại thêm câu đố Giải rõ Đồ dùng Thảy đều quá dễ Tạm thể làm vui Giải khuây giây lát Thắm thoát ngày qua Nay đà đến Tết

Xong hết việc công Thong dong phóng bút “Cung Chúc Tân Xuân” “An Khang Thịnh Vượng”

Xuân Giáp Ngọ 2014 Chiêu Anh

* Chiêu Anh, Chiêu Dương Thi Tập

* * * * * * Fr: Thoai Pham - [email protected] Tue, June 30 2013-09-10 Kinh anh Tin Vo, Lau qua khong viet thu tham hoi nhau vi qua ban ron cong viec, mong anh thong cam cho. Nhan duoc thu anh keu goi dong gop bai vo, toi chot nho ra la van chua nhan duoc Bao Xuan Nam Ty 2013. Neu anh co con du cuon nao thi co the goi cho toi mot cuon de xem duoc khong, vi toi rat thich cac bai vo gia tri cua nhieu nhan vat tai hoa viet cho Bao Tra Vinh. Se goi bai cho Bao Xuan 2014. Dia chi giu thu: THOAI PHAM (PHONG DINH) 81 SHADY SHORES DR. W WINNIPEG, MB R2J 3T8 CANADA Cam on anh nhieu va chuc van su an lanh.

Pham Phong Dinh * NÓI ĐÂU CÓ ĐÓ. Fr: [email protected], Westminster CA. Wednesday, 6/15/2013

Quý Bạn-Ta ơi, tôi bây giờ hay quên nên nhớ đâu nói đó. Số là hôm ở lể tang bà cụ thân-sinh anh Lý-Đăng-Khoa, cụ Nhựt chụp một ảnh chung tang gia & BCH/TV sau đó nói là để đưa lên Bản Tin Hè. Tôi và anh Tường có bàn là nên cẩn thận vì, nếu đưa vào Đặc-San thi OK, vì mình đã có mục tin vui, buồn từ lâu; còn bản tin Hè thì chưa có tiền-lệ nên nếu đưa phân-ưu cuả gia-đình anh LĐK vào đó, có thể bi chỉ-trích là BCH xư sự 'kẻ trọng người khinh!'. Bất ngờ hôm qua, 6/16/13, có một vị đồng-hương gọi tôi và hỏi: "...Tại sao Phân-Ưu với gia-đình LĐK lại đăng báo 'khổ lớn hơn' là lúc đăng phân-ưu cuả gia-đình tôi ? Trong khi tôi cũng đóng niên-liểm đầy đủ...?". Tôi bị bất ngờ đến muốn... tá hoả ! Vì thật sự không thấy cái P/Ư cuả gia-đình anh LĐK, được anh Tường đăng báo với 'khổ' nào ? Còn trước đây khi đăng cho ngươi khác thì dùng khổ nào tôi cũng không để ý. Tuy nhiên, nếu vị đồng-hương nầy so

Page 77: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 77

sánh với chính gia-đình mình, thì phần chắc là họ nói đúng. Và câu sau cùng tôi phải nghe là: "...gia-đình chúng tôi ... bỏ Hội TV là vừa !.." Chuyện nầy cũng là một bài học ma BCH/TV nên ghi nhận ! Dù anh em trong BCH là làm dâu trăm họ...một cách tự-nguyện, nhiều bận rộn, phiền toái mà không lợi lộc gì... Song tôi nghĩ chúng ta cũng phải: bình đẳng, nghiêm-túc và... fair trong việc làm và trong đối xử với tất cả đồng-hương. Chúng ta không nên 'vô cảm' mà nói : "Ôi, có mợ thì chợ cũng đông... Không mợ.thì ..." Ý-hướng cuả chúng ta là "thu-phục được thiện-cảm" chớ không nên gieo sự buồn phiền cho bất cứ đồng-hương nào, cho nên cũng phải cò cái nhìn tinh tế và xử sự có đắn đo.

Thà không làm một điều Đúng còn hơn là làm một điều Không Đúng. Phải vậy không quý-vị ? Vì KHÔNG LÀM MỘT ĐIỀU ĐÚNG có thể không có hậu-quả xấu, còn LÀM MỘT ĐIỀU KHÔNG ĐÚNG thường là có hậu-quả xấu tức thì. Như vụ đăng P/Ư mình vừa nói trên. Một sự thực quan-trọng mình cũng không thể bỏ qua : Chính đồng hương góp tiền cho Hội hoạt-động. Vậy nên, khi NHÂN-TÂM LY-TÁN thì Hội cũng tất sẽ đi vào bế tắc ! Vụ nầy có thể xem là một bài học...nhỏ, song nó mang lại cho chúng ta một ưu-tư ...lớn ! NVT./-

ĐƠN TỪ CHỨC THỦ QUỸ CỦA VÕ VĂN DIỆU Chào Các Vị, tôi kèm theo đây Đơn Từ

Chức Thủ Quỹ . ĐƠN TỪ CHỨC THỦ QUỸ CỦA VÕ VĂN DIỆU

Kính gởi Quý Vị trong: Ban Sáng Lập, Ban Cố Vấn, Ban Điều Hành Hội AHTV.

Hội Ái Hữu Trà Vinh được thành lập sơ khởi với 11 thành viên dưới sự hướng dẫn và đôn đốc của cụ Trần Xiều. Trong phiên họp đầu tiên vào tháng 7 năm 1999 tại phòng sau của nhà sách Văn Bút, Ban Vận Động Thành Lập Hội Trà Vinh được thành hình với trưởng ban là Văn Tường,Võ Trung Tín làm thơ ký và Võ Văn Diệu làm thủ quỹ mặc dù chưa có một đôla nào. Sau đó một thành viên đề nghị mỗi người có mặt hôm ấy góp 10 đô để làm quỹ đầu tiên, và kể từ đó tôi có tiền để giữ và chi xài cho việc vận động thành lập Hội Trà Vinh. Trong phiên họp bầu Ban ĐH Lâm Thời tháng 9 kế tiếp tôi cũng được tín nhiệm trong chức vụ thủ quỹ, và cho tới nay tôi vẫn là thủ quỹ của Hội Ái Hữu Trà Vinh đã hơn mười hai năm nay !

Qua hơn mười hai năm dài, Hội Ái Hữu Trà Vinh phát triển nhanh, lan rộng khắp nơi trong nước Mỹ cũng như Úc, Canada va Âu Châu là do

tình yêu quê hương Trà Vinh của Đồng Hương Trà Vinh mà tìm đến nhau. Đó là một sự phát triển tự nhiên của Người Việt Hải Ngoại nói chung và Đồng Hương Trà Vinh nói riêng, mỗi đồng hương Trà Vinh góp một bàn tay bằng cách nầy hay cách khác, dưới mọi hình thức, đều là vì lòng yêu quê hương Trà Vinh và mến Bạn Bè mà đến với Hội Ái Hữu Trà Vinh. Tôi cũng là một trong những đồng hương Trà Vinh, yêu quê hương Trà Vinh, nên cũng hết lòng hoàn tất bổn phận của mình trong chức vụ thủ quỹ do các đồng hương Trà Vinh giao phó.

Thủ quỹ cũng chỉ là một công việc của một đồng hương trong Ban Điều Hành chịu trách nhiệm quản lý chi thu của hội. Thủ quỹ và hội trưởng đứng tên trong trương mục HOI AU HƯU TRA VINH USA tại BANK OF AMERICA. Tôi cũng như các bạn khác, lảnh nhiệm vụ thủ quỹ và làm việc vì vui thích (hobby) bên cạnh cuộc sống hàng ngày mà thôi, và suốt mười hai năm qua, tôi đã làm việc với sự tự nguyện và vui thích đúng với ý nghĩa đó.

Trong bất cứ một đoàn thể nào, một tổ chức nào, một người mà giữ một chức vụ nào đó lâu quá (trên mười hai năm rồi) sẽ trở nên bảo thủ, hết sáng kiến trong công việc. Bất chợt nhân ra điều nầy, nên tôi quyết định TỪ CHỨC THỦ QUỸ để mở ra một khoảng trống rất cần thiết cho một đồng hương khác có cơ hội đem khả năng phục vụ Đồng Hương Trà Vinh qua Ban Điều Hành của hội, và hy vọng thủ quỹ tuơng lai sẽ có nhiều sáng kiến hay và năng động hơn.

Vậy kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013, tôi chánh thức rời chức vụ Thù Quỹ của Hội Ái Hữu Trà Vinh và trở về một Hội Viên Bình Thường.

Cám ơn quý vị trong Ban Sáng Lập đã cùng nhau ra sức vận động thành lập nên Hội Ái Hữu Trà Vinh, Các Cụ trong Ban Cố Vấn đã đưa nhiều ý kiến hữu ích trong Tiệc Tết cũng như Tiệc Hè hàng năm được thành công mỹ mãn, và các Bạn trong Ban Điều Hành đã cùng nhau hợp tác nhịp nhàng để tạo nhịp cầu thân ái nối liền Tình Đồng Hương Trà Vinh nơi đất khách quê người.

Tôi cũng cám ơn các Bạn Thân xa gần đã đến với Hội Trà Vinh, hảy tiếp tục ủng hộ để hội nhà phát triển nhiều hơn. Nhân sự có thể thay đổi, nhưng tình Đồng Hương Trà Vinh vẫn là Tình Quê Hương Bất Diệt.

Võ Văn Diệu TB: Xin Ông Hội Trưởng set up phiên họp để bàn giao tiền bạc và sổ sách.

Page 78: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 78

* Nhân BBC hỏi ý kiến về việc chọn hình cho bìa báo xuân 2014, các Cụ trong Ban Biên Tập đã thảo luận sôi nổi như sau: Hỏi: Đây là dự thảo Bìa Bao 2014, nếu các Cụ không có ý kiến nào khác ?

BBC

- 2013/10/20 <[email protected]> Bạn muốn đùa với bạn bè sao bạn... Coi lại cái mủi ghe đi cụ Tín ạ. - Sent: Sat, Oct 19, 2013 8:43 pm - From: nhut ng <[email protected]> Subject: Re: Bia Bao 2014 Dù không có cờ thì mình cũng biết là lễ mới nầy xung quanh toàn là cờ. Ghe nào mà không có cờ mới lạ. - On Oct 22, 2013, at 12:15 AM, [email protected] wrote:

Bạn Nhựt à! bạn nói đúng chớ không sai... Tuy nhiên dùng hình có cờ đỏ sao vàng phơi lên trang bìa báo TRÀ VINH ở hải ngoại nầy... Theo bạn là một quân nhân... là một người mang danh Tị Nạn thì bạn có dùng bức ảnh đó chăng? Hay là năm nay các bạn muốn phát hành trong nước...? Tôi nghĩ có phải bạn đem bức ảnh nầy đến bạn Tín chăng nên bạn.... muốn dựng cái lý đó! Sao bạn không hỏi ao Bà Om có treo hình không? Riêng bạn Tín. Tôi nghĩ bạn làm gì không thấy... Bạn trình bày và download cho các bạn xem và hỏi ý kiến nửa mà... Ôi! Tôi không hiểu từ đâu? Xin chào thua các bạn. - 2013/10/22 <[email protected]> Đây là bài Thơ : Chuyện Hình Bìa

Hình bìa hỏi ý Hội Ghe Ngo Rẽ nước hai bên chạy có cờ Nhựt tụng hàng đêm cờ dựng cáng Luận bàn thế sự cột vô cờ Tín Vui chơi chữ nào đâu thật, Diệu kế bày trò! hảy ngó lơ Kim Tiến Tường Thành luôn vững chắc, Buồn cười tức cảnh chép thành thơ

Tú Rệu 10/22/2013

Có lạ gì đâu Hội Ghe Ngo

Chuyện lạ trò chơi chỉ lá cờ Nhựt đâu đồng ý lên bìa báo Vậy mà ai kia lại chỉ cờ Biết Tín Vui chơi Thành tưởng thiệt Tú Rệu nói Tường hãy làm ngơ. Kiều Trương, Hải Đường kêu đừng sợ Ao Bà thay cột hết làm thơ!?

Tú Rệu - 2013/10/22 <[email protected] Xin hầu bạn Diệu.HTH Dòng sông trống giục Hội Ghe Ngo Khuấy nước thuyền " xui "chạy có cờ Trước cúi lưng khom người cố sức Sau lòn tay đẩy mặt bơ phờ Kẻ thắng vênh vang ngồi phất chí Người thua méo mặt đứng buồn xo Cuộc chơi chẵng trách người thua thắng Chỉ trách a dua kẻ đứng bờ

HTH

* * * * * - Oct 30 [email protected] Kính thưa Cậu,

Quan vừa viết xong bài đóng góp cho Đặc San Trà Vinh Giáp Ngọ 2014, đúng thời hạn chót 31 tháng 10 (ở Cali vẫn còn ngày 30 tháng 10), vậy Quan xin gởi kèm theo đây để cậu layout cho kịp. Quan xin cáo lỗi cho sự chậm trễ vậy!

Trang 6 Quan có insert một số hình, nếu phù hợp cậu có thể dùng để minh họa cho đẹp hoặc dùng những hình khác nếu cậu tìm được. Về tựa bài viết của Quan, Quan không nghĩ ra cái tựa nào, nếu có thể, nhờ cậu đặt một cái tựa nào khác nghe hay hơn.

Hôm trước Quan có gởi lại cậu bài Ô Chữ của Nhi, hình 2 Ô chữ Quan đã scan và saved dạng Photo JEPG, thay vì dạng "table", có lẽ cậu đã layout được?

Bài viết "Dưới Chân Núi Tuyết" của Ba, cậu tìm được nhiều hình ảnh đẹp quá, Ba Má Quan coi rất thích và gởi lời cám ơn cậu cùng Ban Báo Chí.

Tiền Lạc Quan - Nov. 5 2013 - [email protected] Anh Tin Võ kính mến, Chúng tôi cám ơn anh đã lên khuôn với nhiều hình đẹp làm tăng thêm giá trị của bài “Dưới Chân Núi Tuyết”. Chúng tôi đã đọc lại và thấy có vài chỗ cần sửa lại. Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn anh Tin Võ.

Tiền Vĩnh Lạc

Page 79: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 79

Một Thoáng Hoài Niệm Về

NH ẠC S Ĩ TR ÚC PH Ư ƠNG

Nhạc Sĩ Trúc-Phương người Trà-Vinh; Tôi cũng là người con của miền đất lành chim đậu Trà-Vinh! Quê chúng tôi là một tỉnh nhỏ ,nghèo nhưng có mật độ cây xanh cao nhất

nước! Những con phố nhỏ dọc ngang bàn cờ tại trung tâm thi xã triền miên râm mát bóng cây, tràn ngập tiếng chim cò riu rit goi nhau suốt hai mùa mưa nắng. ..

Sinh ra và lớn lên giữa làng mạc, phố xá đầy ấp cỏ cây, chim chóc, lá hoa nên người Trà-Vinh chúng tôi rất yêu thiên nhiên, yêu cả cái mộc mạc, thô rap, chân quê của nó! Nhà của nhạc sĩ Trúc-Phương cách trung tâm thị xã trên dưới hai mươi cây số, xung quanh nhà trồng rất nhiều tre, trúc! Hình ảnh của những bụi tre, khóm trúc xanh tươi, kẻo kẹt múa may trong gió ắt hẳn đã in sâu vào tiềm thức của người nhạc sĩ và định hình cho một nghệ danh nổi tiếng sau nầy chăng ?

Sau hiệp định Geneve 1954, con đường Krautheimer lớn nhất thị xã đổi tên thành đường Gia-Long! Tọa lạc ngay trên con đường nầy, Phòng-Thông-Tin Tỉnh là nơi tập trung mọi sinh hoạt văn nghệ của tỉnh nhà lúc đó ! Nhạc Sĩ Trúc-Phương tập họp một số bằng hữu yêu âm nhạc trình diễn thường xuyên tại đây cốt để thỏa mãn niềm đam mê ca hát của minh! Ông đàn hay, hát giỏi và sáng tác nhạc hầu hết theo giai điệu Bolero nhịp nhàng, cân đối, hấp dẫn! Ông còn có biệt tài đặt lời ca gẩy gọn, sâu sắc điểm xuyên chút phá cách nhẹ nhàng trong việc dùng từ tạo nên một nét đẹp tiềm ẩn, rất riêng và rất đáng yêu cho "thương hiệu" nhạc Trúc-Phương !

Ngược dòng thời gian, bồi hồi tìm lại những tháng ngày hồn nhiên ngây ngô xa khuất, những hình ảnh mộc mạc chân quê ngày nào nay bổng hiện về gần gũi, thân thương ...

Một buổi chiều năm 1956, loa phóng thanh của Phòng-Thông-Tin Tỉnh thông báo chương trình văn nghệ... Để mở đầu chương trình, Ông Ba Văn-Xe xin trình bày nhạc phẩm " Tình Thắm Duyên Quê " của nhạc sĩ Trúc-Phương ...

(www.youtube.com/watch?v=3zTSNIniU8I&noredirect=1)

Ôi! nếu quí vị nhìn thấy vợ chồng ca sĩ Văn-Xe & Thị Mẹo đèo nhau trên chiếc xe đạp cà tàng, vợ không son phấn thì chắc quí vị không nghĩ là họ hát hay đến như vậy: Chất giọng phong phú, truyền cảm, âm vực rộng phong phú, truyền cảm, đôi song ca tung hứng nhau một cách duyên dáng và đầy ngâu hứng! Quả nhạc sĩ Trúc Phương rất tinh tường khi chọn cặp ca sĩ "Cây nhà lá vườn" nầy để trình bày những ca khúc đậm chất dân ca và tình tự dân tộc của ông !

Bản nhạc đã chấm dứt mà cô bé nhà quê trong tôi còn nấn ná trước cửa phòng phát thanh! Bất ngờ, một người nam dáng cao gầy bước tới hỏi tôi: - Em biết hát không ?

Tôi gật đầu! Thế là Ông bảo: Anh là Trúc-Phương, anh đặt tên cho em là Thanh-Trúc nhe ! Và liền đến trước micro gioi thiệu: - Tiếp theo đây, em Thanh-Trúc xin trình bày nhạc phẩm...

Quí vị ạ, nếu qui vị có tận mục sở thị tôi lúc đó: Mười ba tuổi, học lớp đệ ngũ, dáng gầy gò, người mang đầy dấu ấn phèn chua nước mặn... thì chắc qui vị đoán được tài ca hát của tôi ra sao rồi?

Kể từ đó, tôi không gặp lại ông Trúc-Phương, chỉ nghe nói ông đã lên Saigòn dạy nhạc và sáng tác nhạc rất nổi tiếng !

Hơn nữa thế kỷ đã trôi qua, Tôi không còn là cô bé nhà quê ngày nào mà đã là Bà của nhiều đứa cháu! Chúng tôi có nhiều niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống! Nhưng có một niềm hạnh phúc thật đơn sơ, thật nhỏ nhoi năm tôi mươi ba tuổi, tôi không hề quên !

Page 80: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 80

Sau năm 1975 không ai trong chúng tôi biết tin về Ông ... Cho đến một ngày, những câu chữ đầy trắc ẩn viết về những năm tháng cuối đời bất hạnh của Ông

(trong quyển "Bến tâm hồn, với Saigòn ngày ấy... bây giờ” do Thiên-Hà

chủ biên và Nguyễn-Tai-My đề tặng chúng tôi ) Chợt đánh thức trong tôi một khoảng đời đầy tủi cực, bi đát mà khi đó, người ta sợ nhìn thấy mặt nhau, sợ thấy cả cái khốn khó của nhau !

Một cảm giác chua xót, tức tưởi như một áng mây buồn phong kín hồn tôi. .. Ôi! người nhạc sĩ tài hoa ấy, người được mệnh danh là ông hoàng của điệu nhạc Bolero với những ca khúc từng khiến bao trái tim thổn thức lại kết thúc như thế nầy sao ? Dù cố gượng nhưng những giọt nước mắt cảm thương, bất nhẫn rơi ướt trang sách ! Ôi, giá chừng tôi biết tin về ông sớm hơn! Ông Trúc-Phương, mấy hôm rày báo chí có viết về Ông, về điệu nhạc Bolero mà Ông từng say mê sáng tác; có người gọi nó là nhạc bình dân, nhạc viã hè, nhạc sến vv... , nhưng xin ông đừng bận tâm! Chúng tôi yêu nhạc của Ông không phải bằng trình độ cảm thụ âm nhạc mà bằng sự rung cảm của trái tim! Cũng giống như chúng tôi yêu chiếc áo nâu của Bà Mẹ Quê hơn là những bộ cánh sang trọng, đắt tiền lộng lẫy trong xã hội phù hoa...

Thời gian như bóng câu qua cửa! Mới đó mà đã có hơn nữa thế kỷ kể từ ngày tôi được Ông đặt cho một cái tên thật dể thương ! Và cũng có hơn mười lăm năm Ông quẳng gánh trần gian biền biệt ra đi!

Khơi đống tro tàn để tìm lại chút dư hương ngày cũ, tôi xin cảm ơn Ông đã dành cho cô bé nhà quê năm xưa một cử chỉ thân thiện, một niềm ưu ái, một sự quan tâm! Cũng xin cảm ơn Ông đã vắt kiệt sức lực, tài năng dệt nên những tiếng tơ lòng dâng tặng cho

đời! Lại cảm ơn Ông đã tô điểm cho Vườn hoa âm nhạc của quê nhà bằng những đóa hoa nồng đượm sắc hương ! Và chỉ ít, những người đồng hương của ông như chúng tôi cầm bằng cũng có được niềm tự hào khi bất chợt nghe ai đó khen ngợi Ông, xưng tụng Ông là Ông Hoàng của điệu nhạc Bolero một thời vang bóng . Ông Trúc-Phương ạ, lại thêm một lần phải cảm ơn Ông, người nhạc sĩ tài hoa của quê nhà Trà-Vinh thân yêu của chúng ta !

Phỏng vấn Nhạc Sĩ Trúc Phương: www.youtube.com/watch?v=EBUAE-

0u85Q&noredirect=1

Bà BS. Phạm-Ngọc-Trâm nhũ danh Uông Thị Hồng-Yến

( nguyên quán Trà-Vinh )

Thói Đời Tác giả: Trúc Phương

www.youtube.com/watch?v=cWISHiIeVFc

Đường thương đau đày ải nhân gian Ai chưa qua chưa phải là người !

Trong thói đời, cười ra nước mắt ! Xưa trắng tay gọi tên bằng hữu. Giờ giàu sang quên kẻ tâm giao,

Còn gian dối cho nhau.

Người yêu ta rồi cũng xa ta Nên chung thân ta giận cuộc đời ! Đôi mắt nào từng đêm buốt giá ! Bên chiếu chăn tình xa nhịp thở,

Tiền đổi thay khi rủ cơn mê Để chua xót trên lối về !

Rượu trần ai gội niềm cay đắng. Những suy tư in đậm đường trần,

Mình còn ai đâu để vui khi trót xa vũng lầy nhân thế.

Cỏ ưu tư muộn phiền lên xám môi.

Bạn quên ta tình cũng quên ta Nên trắng đêm thui thủi một mình !

Soi bóng đời bằng gương vỡ nát, Nghe xót xa ngời lên tròng mắt. Đoạn buồn xa ta đã đi qua. Ngày vui tới, Ta vẫn chờ.

Page 81: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 81

Phạm Chinh Đông

Ở gần nhà tôi có một tay, tên Tân, mới qua Mỹ theo diện nhân viên sở Mỹ của vợ. Tình cờ một hôm, tôi đến thăm nhà người quen và gặp anh ở đó, thành ra hai bên quen nhau. Xứ lạ quê người có thêm một người đồng hương làm bạn cũng an ủi được nhiều.

Bà vợ theo người chị học nghề móng tay, sáng đi

tối về. Hai đứa con, thằng trai lớn đi học trung học gần đó, đứa em gái không chịu học nữa nên mẹ dắt theo học nghề luôn. Và Tân tạm thời đi rửa chén nhà hàng trong lúc chờ kết quả xin việc ở một hãng cưa. Cuộc sống của một nhà chân ướt như thế kể ra cũng tạm ổn lắm rồi.

Vài lần Tân đến nhà tôi mượn điện thoại nói chuyện với người tình cũ ở Việt Nam. Hắn không dám dùng của nhà vì sợ vợ phát giác và cũng vì chưa biết cách xài thẻ điện thoại.

Tôi hỏi: - Còn nợ nần nhau hay sao mà ăn vụng?

Tân buồn bã: - Không có gì. Chỉ thương tiếc một cuộc tình dở dang. - Có chồng con chưa? - Chưa. Vì quyết chí ở vậy!

Tôi kêu lên : - Vậy sao! Bây giờ tính sao? - Thỉnh thoảng gọi thăm an ủi. Thế thôi.

Ít lâu sau, Tân đến nhà tôi thường hơn. Không hẳn để nhờ điện thoại mà để than thở mọi điều. Hắn nói bà vợ tệ bạc quá, không lo lắng cơm nước, nhà cửa gì cả, bắt hắn ngủ ở tầng hầm... Ít lâu sau nữa, hắn rầu rĩ cho hay, vợ hắn vừa tìm gặp lại anh chàng Mỹ trưởng phòng ngày xưa và họ thường đi ăn tối cuối tuần với nhau. Và ít lâu sau nữa, Tân không còn đến nhà tôi. Tôi gần như quên hắn. Cho đến một hôm tình cờ thấy hắn trong một cửa hàng. Tân có vẻ miễn cưỡng khi phải nói chuyện với vợ chồng tôi. Thiệt lạ!

Cuối cùng, hắn nói: - Ly dị xong rồi! Chịu hết nổi! - Bây giờ làm gì, ở đâu? - Đi đi, về về Việt Nam mua bán máy cày.

Tôi tưởng mình nghe không rõ:

- Máy cày? Tân đầy vẻ tự tin:

- Máy cày cũ. Mua bên này, đem về bán ở Việt Nam.

Tôi không dám hỏi thêm. Dù sao, cũng đáng ca ngợi những nỗ lực làm ăn đó.

Trước khi chia tay, Tân nói: - Chuyến rồi về bển mới quen một cô bác sĩ còn độc thân. Chắc cưới quá. - Còn cuộc tình dở dang thì sao? - Để an ủi vậy thôi!

Từ đó, tôi không còn gặp Tân nữa. Không hiểu vì không có duyên hay cố tình lánh mặt nhau. Vài năm sau, trong một lễ hội tôn giáo đầu năm, vợ chồng tôi bất ngờ gặp lại vợ Tân và hai đứa con. Chị có giọng nói u buồn: - Có người vợ bịnh hoạn, không thể ăn ngủ với chồng, ảnh không thương mà cứ đòi ly dị thì cũng đành. Bây giờ, ham vợ trẻ, có địa vị nên rước bà bác sĩ qua. Ai dè, bác sĩ chê thợ máy, nói là trình độ chênh lệch không thể ý hợp tâm đầu, và đang chuẩn bị chia tay!

Tôi thực sự ngao ngán chuyện đời. - Chị có nghe chuyện máy cày của ảnh?

Chị mỉm cười, nụ cười không tròn: - Không thấy máy cày mà chỉ thấy anh cày tay từ sáng đến chiều trong hãng đồ sắt!

Vừa êm êm chuyện ly dị của vợ chồng nhà Tân thì lại đến chuyện bỏ nhau của vợ chồng Minh, tên bạn cũ chí thân. Ngày đó, Minh là lính lác, trai tơ. Vợ Minh làm sở Mỹ, có đứa con lai đen, tóc quăn như ổ đĩa. Duyên nợ xui khiến nên Minh quyết chí lấy nàng làm vợ, bất kể sự chống đối quyết liệt của gia đình. Từ từ, đâu cũng vào đấy, hai người hạnh phúc bên nhau, tràn trề. Sanh thêm một mớ con chung, gái trai có đủ, một nhà an vui.

Rồi nước mất. Minh là lính lác nên thoát cảnh lao tù cải tạo, ở nhà cùng vợ bươn chải nuôi con. Đến khi có chương trình tái định cư, gia đình Minh qua Mỹ với dạng con lai. Ai cũng nói hắn có số xuất ngoại! Nếu không hốt ổ kia, chắc gì Mỹ với mung!

Cả hai đều đi làm, lao động chân tay, tiền lương vừa đủ. Không bao lâu, tụ năm tụ ba với những bà rửng mỡ, bà vợ nghe lời quyết chí vùng lên: không nấu cơm!

Bà nói:

Page 82: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 82

- Ông đi làm, tôi cũng đi làm. Vậy tại sao tôi phải quần quật trong bếp?

Bà quên mất những ngày khốn khó ở quê nhà. Những buổi chiều cả hai tất tả trở về từ rẫy mì, chồng tắm rửa con cái, gánh nước đổ lu, vợ lúi húi nhúm lửa nấu nướng, để một lát sau đó, cả nhà quây quần bên mâm cơm canh đạm bạc nhưng vô cùng ngọt ngào tình yêu thương.

Bây giờ bà lại mù quáng nghe lời mấy con mẹ no cơm nói ẩu. Ai nói đàn bà Mỹ không phải nấu nướng, không làm gì cả, mọi việc giao hết cho chồng? Tôi không bao giờ tin chuyện đó. Làm nghề lau dọn nhà cho Mỹ, ngày nào cũng quanh quẩn làm việc trong từng nhà, tôi chưa hề thấy bà Mỹ nào không nấu ăn, cũng chưa thấy ông Mỹ nào phải lo việc bếp núc.

Bà Debbie, luật sư, cùng mở văn phòng luật làm việc chung với chồng ngay tại tư gia, buổi trưa dọn bữa ăn trưa đàng hoàng mời chồng, xế chiều lại bò xuống bếp nấu nướng lung tung. Có bữa không biết nấu món gì mà bả xắt củ hành tây gần đầy một thau nhỏ. Mùi hành nồng nặc khiến bà nước mắt nước mũi tèm lem và tôi lạng quạng gần đó cũng nhảy mũi gần chết! Tôi và bà nhìn nhau, cười vang, như người trong nhà.

Bà Alison, văn sĩ, buổi sáng viết sách, buổi chiều nấu ăn. Mỗi lần làm việc ở nhà bà, tôi đều thấy giống như thế. Làm như đã có sẳn thời khóa biểu cho mọi sinh hoạt hằng ngày. Có lần, tôi thấy rõ ràng bả sơn lại vách và trần nhà. Tôi thực sự không thể ngờ. Trong đám chủ nhà của tôi, Alison là tay nấu ăn siêng năng nhất. Bả tự làm lấy bánh mì gì đó có nhân là nho khô. Bả nói, mỗi cuối tuần tôi đều làm bánh mì này để cả nhà ăn tối, có hai đứa con gái về nữa. Và bả nấu món này, món kia dựa theo cuốn sách gia chánh để sẳn trên quầy bếp.

Bà Carole, chủ tiệm quần áo thời trang. Chồng, David, giám đốc một công ty nhập cảng gì đó. Thường lệ, những hôm tôi lau dọn, gia đình không có ai ở nhà. Tuy vậy, thỉnh thoảng cũng có những hôm có đủ hai vợ chồng. Những hôm ấy, bà lăng xăng làm đủ thứ, từ việc thu xếp lại cái garage, giặt đồ, sấy đồ rồi trải vải giường cho mấy đứa con đến việc nấu nướng, dọn bàn. Trong khi đó, ông chồng nằm dài coi phim truyền hình! Thiệt khỏe!

Minh thương vợ, nghĩ rằng vì cuộc sống căng thẳng quá khiến nàng quay quắt nên cũng vui vẻ nấu nướng mặc dù không chuyên việc bếp núc này, như đa số đàn ông Việt Nam khác. Giỏi lắm cũng vài món canh vớ vẩn nào đó và chỉ một món

kho cổ truyền từ thời Hồng Bàng! Vì thế, từ đó cãi nhau thường hơn. Ai cũng nuôi trong lòng một nhánh lửa. Và cuối cùng, cháy bùng. Ông bất mãn, nhậu nhẹt tối ngày. Lại thêm món đĩ điếm, trai gái. Bà trả đũa, đánh quần, đánh áo, cắt mắt, sửa mũi, xâm môi, chân mày. Lại thêm dấu đút tiền bạc gởi về cho gia đình ở quê nhà. Làm bao nhiêu chắc chỉ để trang trải những khoản này.

Đến một lúc mới hay túng thiếu. Con cái lơ ngơ, láo ngáo. Con bé tóc quăn bỏ nhà đi mất. Từ đó, hai vợ chồng tiền ai nấy giữ, người lo tiền nhà, người lo tiền ăn, phòng ai nấy ngủ, chẳng ra làm sao. Rồi cuối cùng đưa nhau ký giấy ly dị trước toà, kết thúc chuyện tình 27 năm. Thiệt dễ dàng.

Thấy người ta ly dị nhau dễ dàng quá, tôi chợt nghĩ đến cô vợ yêu quý của tôi. Ngày xưa mới quen nhau, nàng là một cô bé học trò, mềm như cuộn len. Gọi anh, xưng bé, nghe dễ thương làm sao... Bé kể chuyện này cho anh nghe... Sao anh không đến để bé chờ từ sáng tới giờ... Mê chết! Lớn hơn nàng 8 tuổi, trong tình yêu với nàng, tôi còn có trọn vẹn tình thương dành cho một đứa em. Thế nên ngoài nụ hôn môi yêu dấu còn có nụ hôn trên trán như một lời vỗ về. Rồi bé thành vợ của anh, và theo thời gian bé không còn là cuộn len mà thành vòng dây cáp! Bé la hét anh, bé nắm cổ áo anh, bé đấm ngực... của bé, bé xưng mày tao, bé nhào xuống đất nằm khóc kêu trời! Bé quá dữ nên tôi tặng cho nàng cái tên Chằn Lửa. Tuy vậy, khi đã có 2 mặt con, một hôm tôi đang hì hục cưa đục những cây chà là mới đốn ở rừng về để làm khuôn bếp, Chằn Lửa đứng chàng ràng kế bên, chê khen đủ điều. Tôi nổi dóa, vụt cái cưa vào góc nhà và cầm luôn khúc chà là đang cưa... dớt vào chân của Chằn Lửa một cái. Vậy là Chằn Lửa trở thành... chằng thiệt! Tôi mất vía, chạy qua nhà người cậu vợ tỵ nạn hết một đêm. Đêm đó, nằm một mình, tôi

Page 83: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 83

mới biết mình lỗi. Ai biểu tôi có cái tật không bao giờ cưa được thẳng để bị vợ chê! Ai biểu tôi tự ái đến vậy! Ai biểu tôi dám đánh nàng bằng cây chà là, trong khi đánh bằng nhánh bông hồng còn chưa được phép nữa mà! Tôi hối hận không thể tả được. Sáng sớm hôm sau, tôi mò về nhà. Chằn Lửa đang rị mọ nấu nước pha trà như mọi khi. Hai người nhìn nhau, trân ra rồi...cười cái hì ! Chằn Lửa vén quần cho tôi thấy một vết bầm xanh trên bắp đùi. Tưởng nàng nặng nhẹ vài câu cho hả, ai dè Chằn Lửa nói với vẻ lo lắng: - Hồi hôm ngủ bạ có bị muỗi cắn nhiều không?

Đời tôi chỉ có một điều may mắn là có một người vợ như nàng. Những năm tháng lê thê, tôi sa cơ trong trại tù cải tạo, nàng ở nhà dãi dầu nuôi con, chiu chắt thăm chồng. Khi về lại bên nhau, trong đói rách cùng quẫn, nàng vẫn miệt mài chia vai gánh khổ, không một tiếng than van.

Nàng chỉ có một điều tuy đáng sợ nhưng rất đáng yêu: dữ tợn như chằn lửa! Một bà chằn lửa biết lo cho chồng từ miếng ăn, giấc ngủ, từ ăn mặc, tóc tai. Chằn Lửa lo riết biến tôi thành tên tù nhân. Một tên tù nhân diễm phúc. Mà tên tù nhân nào cũng không thể không bực mình. May mắn là quen dần đi nên thấy cũng không sao!

Qua Mỹ, như những kẻ khố rách áo ôm khác, hai vợ chồng tôi đi làm mướn nuôi con. Ban đầu, mỗi người làm ở một hãng. Về sau, hãng xưởng khó khăn nên cùng nhau đi làm nghề lau dọn nhà. Mỗi ngày lau dọn nhà cho một gia đình người Mỹ. Nhà thì mỗi tuần một lần, nhà thì hai tuần một lần, thành ra khách hàng loanh quanh chỉ có khoảng 8 gia đình. Đa số chủ nhà đều không có mặt ở nhà. Dù là chủ cả, ông này bà kia, họ cũng phải tất bật sáng đi tối về chớ không có sung sướng như mình tưởng. Họ giao chìa khóa nhà cho chúng tôi để tự mở cửa vào làm việc và khóa cửa khi ra về.

Trong đám chủ nhà chỉ có hai bà có vẻ hơi thảnh thơi một chút. Bà Alison và bà Susan.

Alison là một văn sĩ, chuyên viết loại khảo cứu. Alison nói, ông bà cụ có một cái apartment ở thủ đô Paris nên mỗi năm đều đưa con cháu về đó nghỉ hè. Hèn gì, Alison và bà mẹ mới viết chung được cuốn sách nói về Paris, tên là Paris Walk, đến nay đã tái bản đến lần thứ 7, lưu hành trên toàn cầu. Nghe bà kể chuyện, sách phát hành mỗi kỳ cả nửa triệu bản và số tiền nhuận bút khổng lồ, tôi mới thấy xót xa cho những văn sĩ Việt Nam chúng mình. Sách của văn nhân Việt Nam, tài sản tim óc vô giá của họ, phát hành nhiều lắm cũng không

hơn 10 ngàn cuốn, đã vậy số người đọc cũng chẳng bao nhiêu thì làm sao khá giả cho được?

Mới đây, cuốn sách này lại được phát hành dưới dạng sách nói (audio book), rất tiện cho những du khách vừa đi tham quan Paris, vừa nghe những điều chỉ dẫn cụ thể.

Bố của bà là ông David S. Landes, nguyên giáo sư kinh tế học ưu tú của trường đại học Sorbonne (Pháp) và Havard (Mỹ). Để tiện việc ăn ở trong những ngày dạy học ở Sorbonne, ông mua hẳn một căn chung cư sang trọng trong nội thành Paris. Hiện giờ, căn hộ đó vẫn còn. Gia đình con cháu nhà ổng nhờ vậy khỏi phải tốn tiền mướn khách sạn mỗi khi ghé Paris. Năm ngoái, đám láo nháo nhà tôi qua đó nghỉ hè cũng được ăn ké ở đó 2 ngày! Ai đời đi Pháp mà Chằn Lửa đem theo gạo và nồi cơm điện! Để rồi, trong lịch sử nhà họ Landes, chắc là lần đầu tiên, có đứa dám nấu cơm, nấu mì gói trong chung cư của họ!

Ngoài ra, nhà họ Landes này có truyền thống khi con cái đến số tuổi nào đó, tôi không rõ lắm nhưng chắc là khoảng tuổi 12, 13, họ đưa sang Pháp ở hẳn 5, 6 tháng để học. Không biết học cái gì. Và cũng không biết việc học đang dở dang ở Mỹ phải giải quyết ra sao. Anh chị em cũng như con cháu bà Alison nhờ vậy rất giỏi Pháp Văn. Mới đây, vợ chồng bà Jane, chị của bà Alison, vì vợ chồng thằng con trai bận việc làm ăn nên đã đưa đứa cháu đích tôn qua Paris học và cùng ở lại với cháu suốt mấy tháng trời.

Page 84: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 84

Những cuốn sách nổi tiếng của ông là Revolution In Time, Dynasties, The Unbound Prometheus và The Wealth And Poverty Of Nations. Sinh viên Việt Nam trong nước, chắc phải biết đến The Wealth And Poverty Of Nations vì cuốn sách này đã được dịch ra nhiều thứ ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt với tựa đề là Sự Giàu Và Nghèo Của Các Dân Tộc. Rủi thay, năm 2010, ông bị tai biến mạch máu não cấp độ trung bình, đi đứng rất khó khăn, hiện đang dưỡng hưu ở thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts. Không biết ông còn đủ khả năng để lại cho đời thêm tác phẩm nào chăng?

Hiện giờ, Alison vừa ký xong hợp đồng với nhà xuất bản gì đó để viết tiếp một cuốn khác cũng dính dáng đến Paris. Sách tham khảo bằng tiếng Pháp để đầy ngăn kệ.

Ngày đầu tiên đến làm việc, Alison hỏi tôi: - Theo tôi biết, ngày xưa giáo dục Việt Nam theo chương trình Pháp. Vậy chú có biết tiếng Pháp không?

Lúc ấy, tôi không hiểu tại sao bả lại hỏi như vậy. Tôi đáp thành thật: - Tôi đã học Pháp văn suốt 7 năm trung học, đọc và viết chút đỉnh thì được nhưng nói chuyện thì không vì chẳng có ai để thực tập đối đáp. Đến gần xong trung học, theo thời thế, tôi đổi qua trau dồi tiếng Anh vốn là sinh ngữ phụ, và ở đại học, thường nghiên cứu qua sách Anh Mỹ. Suốt hai mươi mấy năm không coi ngó, bây giờ tôi quên hết rồi. Chỉ còn nhớ vài câu như là “mẹc xi bô cu (merci beaucoup, cảm ơn), côm măng tan lê vu (comment allez vous, anh, chị khỏe không)” vậy thôi!

Bà Alison cười vui vẻ: - Tưởng chú biết để tôi nói tiếng Pháp với chú cho vui! Quanh đây chẳng có ai biết tiếng này. Bà vú của mấy đứa nhỏ nhà này là người gốc Pháp đấy. Thì ra là vậy. Và bả đã bị hớ!

Alison không tất bật như những nhà khác. Nghề viết văn vốn tự do nhưng bà làm việc có giờ giấc đàng hoàng. Viết văn buổi sáng, nấu nướng buổi chiều. Ông chồng đi làm từ sáng sớm, chiều tối mới về. Hai cô con gái đi học ở xa, thỉnh thoảng về thăm. Alison ra vào như một cái bóng, âm thầm.

Một bà khác cũng không tất bật lắm là bà Susan. Chồng bà là bác sĩ, trai gái, chơi bời quá sức nên hai người vừa ly dị nhau. Susan ở một mình trong căn nhà rộng thênh thang. Hai đứa con, một trai, một gái, đã ra trường, đứa làm ở New York, đứa làm ở quanh đây, thay phiên về thăm

mẹ. Nếu theo cung cách Việt Nam, anh chàng con chưa có vợ đó chắc hẳn đã về ở hủ hỉ với mẹ rồi, chớ đâu phải đi mướn chung cư mà ở một mình như thế. Mỹ và ta có khá nhiều điều khác nhau.

Bà Susan vốn làm nghề giáo nhưng chê lương ít, bỏ dạy đi làm kinh doanh. Mở công ty cho mướn xe dọn nhà gì đó. Được vài năm thì thua lỗ, xập tiệm. Bây giờ đang làm một chân thư ký lo việc sổ sách cho một cơ sở xuất bản báo chí gần nhà. Việc làm từ 12 giờ trưa tới 6 giờ chiều nên Susan có vẻ thong dong lắm. Buổi sáng đi bộ thể dục một vòng, tưới hoa, đọc báo, lai rai việc này việc kia đến gần giờ thì đi bộ tới sở làm. Thiệt khỏe. Thật ra, bả cố tình kiếm một việc làm bán thời gian như vậy. Không biết tại sao. Bả nói: - Tôi tìm trên mạng việc làm loại ít giờ như thế cả tháng mới gặp chỗ này. Hên gớm!

Không hiểu lương hướng ra sao mà bả vẫn mướn chúng tôi lau dọn nhà hai tuần một lần. Có lẽ đã thành thói quen như lúc còn ở với chồng? Dù sao, trong đám chủ nhà, Susan là người bình dị nhất, cảm thông nhất và thích nói chuyện nhất. Bà nói bà không coi chúng tôi là những kẻ làm công mà là những người bạn, “những người tốt lành đầy kiên nhẫn và nghị lực, chỉ vì thời cuộc mà ra nông nỗi này”. Mỗi lần đến làm, ít nhất phải gần nửa tiếng để Susan kể cho chúng tôi nghe đủ mọi chuyện trên trời, dưới đất. Chỉ cái chuyện ông con đang cặp bồ với một cô bé nào đó mà lần nào bả cũng nói hoài. Lần này, bả cho hay tuần rồi con nhỏ đó nhân dịp đi Trung Quốc tuyển sinh cho trường đại học, nó kéo theo ông con của bà. Lần khác, bả rầu rĩ báo tin hai đứa quỷ đó đã chia tay vì giận hờn gì đó. Lần khác nữa, bả lại hớn hở cho biết hai đứa vừa trở lại với nhau và bả vái cho tụi nó mau làm đám cưới để bả có cháu bồng. Thì ra, làm cha mẹ, Mỹ hay Việt cũng không khác gì nhau.

Ngoài chuyện ông con, Susan còn hằng ngàn chuyện khác, nghe mệt nghỉ! Một bữa, bà cầm cho coi một mớ chai lọ bằng thủy tinh và với giọng nghiêm trọng, bà kể: - Tuần trước, máy sưởi của nhà tôi bị hư, tôi phải kêu thợ tới sửa. Trong lúc dò theo đường ống dẫn hơi gas dưới tầng hầm, ổng phát hiện ra một con đường hầm từ dưới chân căn nhà này ăn luồn qua mấy căn bên kia. Từ khi dọn vào đến giờ, tôi không thấy vì nó khuất sau một tấm vách mỏng. Đường hầm này ổng nói hẹp và thấp lắm. Và ổng lượm được quanh đó những cái chai này.

Page 85: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 85

Tôi và Chằn Lửa còn đang ngạc nhiên, trầm trồ thì Susan nói tiếp: - Tôi đã hỏi thăm ông bạn đang làm việc ở cơ quan bảo tồn di tích. Ổng cho biết có thể chỗ này là nơi ngày xưa người ta tổ chức giấu những người nô lệ rồi từ từ tìm cách đưa họ đi trốn để lấy tiền. Chai lọ này chắc phải là của đám người đó. Nếu vậy, đây là đồ cổ từ thời nước Mỹ còn chế độ nô lệ, trước nội chiến Nam Bắc. Quý lắm đấy. Để coi, nếu phải, tôi sẽ cho chú một chai chưng chơi.

Hết chuyện này qua chuyện khác, vui có, buồn có, bà Susan đối với chúng tôi thật sự không khác gì một người bạn. Thân thiết hơn nữa, một người trong nhà. Thời gian đầu mới vào nghề, không đủ nhà để làm cho giáp một tuần, chính Susan đã lăng xăng tìm giùm cho chúng tôi thêm bốn gia đình bạn bè của bà.

Đến một hôm, Chằn Lửa bỗng dưng cay đắng: - Ánh mắt của bả phát sợ! Thấy biết liền là bả mê ông!

Tôi choáng váng, hỏi lại: - Nói thiệt hay nói chơi?

Vẻ mặt Chằn Lửa đanh lại như...chằn: - Ai ở không mà nói chơi!

Tôi cười sằng sặc. Một bà Mỹ chủ nhà mê một tay lau dọn ốm nhách, đen thui như tôi đây sao?! Đúng là chuyện ngàn năm hi hửu. Nhưng vấn đề là tại sao bà vợ của tôi quyết đoán như vậy. Tôi chọc: - Bả nói với em hả?

Chằn Lửa lồng lên : - Kinh nghiệm đàn bà, khỏi cần ai nói!

Rồi Chằn kể lể lung tung. Nào là tại sao lần nào dặn việc, bả chỉ gọi một mình tôi lên lầu, chỉ này, chỉ kia, tại sao hôm đầu tiên làm việc cho bà Wendy, khi nói về bà láng giềng Susan, Wendy đã nói với tôi rằng "she said she loves you so much, nghĩa là con mẹ Susan yêu ông ... Hằng chục sự kiện vớ va vớ vẩn từ đời cố lũy đều được bươi ra để chứng minh rằng bà Susan yêu tôi! Tôi nhịn cười, chậm rãi giảng giải: - Việc cần dặn làm này kia là ở mấy phòng tắm, phòng ngủ trên lầu nên bả mới gọi lên mà chỉ. Em không rành tiếng Mỹ thì gọi em lên làm gì, hả Chằn của anh?! Còn cái vụ bà Wendy nói câu đó, chữ Love không có nghĩa là yêu đương đâu. Chỉ có nghĩa là thích, là thương mến (một tên lau nhà làm việc đàng hoàng) mà thôi.

Chằn Lửa nhất định không tin. Nàng mỉa mai:

- Love không phải là Yêu, vậy là gì đây? Tôi chịu hết nổi. Nổi nóng.

- Khùng vừa thôi. Ngu vừa thôi. Về hỏi người ta câu đó thực nghĩa là gì hẳng nói. Nói bậy nói bạ, nó nghe được (?) nó đuổi thì trắng mắt cả lũ!

Nghe tôi to tiếng, Chằn Lửa nhào tới, nắm áo kéo tôi ngồi xuống, hét lên: - Đuổi thì đuổi. Nghỉ. Không làm nữa. Tui cấm ông không được làm cho con mẹ này nữa!

Tôi muốn nổi điên lên. Tôi muốn tát cho nàng một cái. Tôi muốn chửi rủa thậm tệ cho hả lòng oan ức. Nhưng, ngay lúc tôi như ngọn lửa bắt đầu nổ bùng tới đâu thì tới, tôi chợt thấy hai giòng nước mắt của nàng chảy xuống nghẹn ngào. Và tôi đứng sững trong tận cùng xót đau. Tại sao lại khốn khổ như thế này? Đã vất vả thân phận làm mướn sao không thương yêu nhau hơn mà lại đánh, mắng nhau ngay trong nhà chủ! Đùm túm nhau qua đất nước giàu sang này, chúng tôi chẳng có ai người thân. Chúng tôi chỉ có chúng tôi, hai vợ chồng và hai đứa con, quây quần bên nhau, thế thôi. Chằn Lửa thường ngày hay nói lời mộc mạc: "chửi cha chửi mẹ nhau rồi cũng đem đổ vào nồi nấu ăn chung". Vậy thì tại sao không đem đổ vào nồi mà nấu cho rồi?

Tôi nhìn vợ, xanh xao vì cơn bệnh chưa dứt, nỗi giận dữ tan biến ngay. Tôi lại nhớ đến hình ảnh nàng ngày xưa đã lặn lội thăm nuôi khi tôi đang lận đận trong lao tù cộng sản, đến những ngày tháng cơ cực tiếp nối khi trở về bên nhau, đến tình yêu chưa bao giờ phai nhạt, đến mối ưu ái, chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho chồng. Nàng là một người đàn bà Việt Nam đích thực. Cho tôi được mãi mãi ca tụng nàng như vậy.

Tôi dịu giọng, vỗ về: - Em không thích thì mình nghỉ. Chịu chưa?

Chằn Lửa có vẻ ngạc nhiên và mừng rỡ (!): - Thiệt nghe! Nghỉ cho chắc ăn! Kiếm chỗ khác làm bù.

Nghỉ cho chắc ăn? Hay là nghỉ cho mất một tháng hai trăm đồng bạc? Kiếm chỗ khác làm bù? Kiếm chỗ nào trong thời buổi gạo châu, củi quế này? Nếu dễ kiếm thì ngày nào Susan đã không đôn đáo khắp nơi! Tôi thực sự tiếc nuối nhưng biết làm sao bây giờ?!

Chằn Lửa nói thật lòng: - Ngày nào còn gặp bả, em ăn ngủ không yên. Em chỉ muốn anh là của riêng em mà thôi. Của riêng em cho đến chết. Biết chưa?

Thì ra, chỉ vì tình yêu nồng nàn quá nên Chằn Lửa trở thành ghen tương quá cỡ. Dù tuổi

Page 86: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 86

xanh không còn nữa, dù trí nhớ mỗi ngày hao mòn dần. Có phải trong hoàn cảnh cô thân xứ lạ, người đàn bà Việt Nam đích thực chỉ biết tìm mọi nương dựa, ủi an nơi người chồng của mình? Từ đó, bất cứ một sự giao thiệp nào của người chồng với phái nữ cũng là một cách bất an cho họ? Riết rồi trở thành Tào Thị mất búa, thấy ai cũng nghi là kẻ cắp.

Người mình thường nói "ghen đến mang bịnh, ghen đến xanh xương…". Chằn Lửa của tôi cứ bịnh rề rề hoài, có phải là vì ghen? Nhưng chắc chắn, xương của cô nàng không thể là màu trắng! Dù gì, tôi vẫn tạ ơn Chằng Lửa đã hết lòng yêu thương và chăm sóc tận tụy một tên đàn ông xấu xí như tôi.

Tôi chợt nghĩ đến vợ chồng lão già Mẹn ở Camden, New Jersy. Sau chuyến cùng về thăm quê nhà, bà vợ suốt ngày kêu trời, nói ổng núp lén lăng nhăng với một bà bên đó, để rồi trở qua bên này, ổng quyết chí ly dị bà. Thật ra, ông có lăng nhăng với ai đâu. Chỉ có cái tội là tình cờ gặp lại người tình thời tuổi trẻ ở cùng một làng, nay cũng đã là bà của một đám con cháu. Thăm hỏi nhau vài câu tình nghĩa bình thường mà thôi chớ có gì ghê gớm đâu. Chỉ có một cái tội tày đình, người tình cũ ấy là đàn bà góa chồng. Thế nên bà vợ mới lồng lộn la làng, tối ngày lảm nhảm những chuyện không đâu.

Tôi lại nghĩ đến hôm trước, khi đến thăm anh chị Thiên. Tuy không quen, chẳng quen biết gì nhau, anh chị này đã tận tình giúp đỡ gia đình chúng tôi trong những ngày đầu tiên lơ ngơ, láo ngáo trên đất Mỹ. Từ đó, người dưng trở thành thân thuộc, thỉnh thoảng ghé nhà thăm nhau, uống một tách trà, ăn một bữa cơm, nhắc chuyện quê xưa.

Hôm đó, khi vào nhà, chúng tôi thấy một chị mặt mày hốc hác đang ngồi ủ rũ trên ghế sofa. Xã giao vài câu, chị ấy ra về. Chị Thiên bây giờ mới nói: - Bà này đang thất tình đó!

Và chị kể: - Nhà bà này ở gần đây. Hai vợ chồng làm ăn khá giả lắm. Năm trước, ông chồng về Việt Nam thăm bà mẹ bị bịnh nặng gì đó, rồi quen biết dây dưa với một cô ở đó. Rồi xào xáo trong nhà, rồi cãi cọ, đôi co. Rồi đưa nhau ra tòa ly dị, phân chia tài sản. Ông hỉ hả ôm hết tiền về Việt Nam sống với tình nhân. Bà nhớ thương ông, lờ quờ như con cua bịnh, ngày nào cũng đến đây nằm thở vắn thở dài. Bà nói, bây giờ ổng lấy ai thì cứ lấy, tôi chỉ xin được ở chung nhà để nhìn mặt ổng mỗi ngày là đủ rồi!

Sau này, chị Thiên kể tiếp: - Sau thời gian chung sống với tình nhân, ông chồng mới bật ngửa ra cô gái kia đang là vợ của một tay mặt rằn nào đó ở miền Bắc và hằng tháng phải gởi tiền về cho hắn tiêu xài. Ông mất vía, nghỉ chơi, muốn trở về ao nhà nhưng chẳng biết làm sao, đành ở vậy chờ thời. Bà vợ hay tin, mừng rỡ chạy ngay về ở với ông. Tha hồ mà mỗi ngày nhìn mặt. Đâu lại vào đó, chỉ có điều cơ nghiệp chắt chiu bây giờ đã tan tành.

Sẳn mấy chuyện này của người ta, Chằn Lửa càng hăng say hài tội tôi. Nàng nói, thấy chưa, đàn ông mấy người ghê lắm, hở ra là theo gái liền. Nếu có về Việt Nam, đừng có hòng léng phéng với mấy bà cũ, không yên thân với em đâu! Tôi vẫn nghĩ rằng mình chẳng có tội tình gì, chỉ luôn bị vu oan giá họa mà thôi. Mấy "bà cũ" của tôi đều đã yên phận chồng con hết rồi, đâu còn mối nào mà léng phéng, hử?! Cùng lắm, là có cái tội thời thanh xuân, trước khi lấy vợ, đã yêu thiết tha một cô tên Thúy Vân lúc đang học lính ở Đà Lạt, rồi vì hoàn cảnh phải đau đớn xa nhau, rồi trong suốt dãi thi ca, âm nhạc của tôi từ đó in đậm nét một loài Mây. Thế thôi.

Đứa con gái đang lòng vòng quanh đó

cũng hùa vào: - Đúng rồi đó Má. Đừng để cho Ba lăng nhăng bậy bạ. Má đừng lo, nhất định, Ba mà về Việt Nam con cũng đi theo. Mỗi ngày Ba đi đâu, con theo đến đó. Vậy là hết cục cựa!

Trời, trời! Kiểu đó thì hết cục cựa chớ còn gì nữa! Ủa, mà tôi có tính cục cựa gì đâu chớ? Con bé này thường ngày nghe nói giống cha mọi điều, sao hôm nay, bé lại giống mẹ như vầy!

Thì ra, nhà tôi bây giờ có đến 2 chị sư tử, làng xóm ơi. Tôi sợ quá! Thiệt mà!

Phạm Chinh Đông

Page 87: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 87

Văn Tường Bây giờ là đầu Thu, Tôi đi học… Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường

rơi rụng, trên không có những đám mây bàng bạc. Mỗi khi đọc bài của Thanh Tịnh, là tôi nhớ đến cha mẹ tôi, tôi xin phép đọc giả tôi viết về người một chút nhé, gọi là nghĩa cả, tình sâu!

Cha tôi gốc người Triều Châu, tránh nạn Mãn Thanh ở quê nhà nên cùng một Bà Cô vượt biên lưu lạc giang hồ. Bà Cô, nghe ông kể lại là ở bên Xiêm, còn Ba tôi thì trôi giạt về xứ Trà Vinh.

Mẹ tôi, người quê ở Cái Răng tỉnh Cần Thơ. Ngoại tôi dẫn Dì Ba và mẹ tôi về Trà Vinh bán một xạp vải trong nhà lồng chợ. Nghe nói Mẹ và Dì tôi là con gái xứ nước ngọt nên da trắng, giống ông ngoại cao ráo, đẹp đẻ, nên thời đó cũng có tiếng tăm lắm nhiều người biết đến “hai cô con gái của bà ba bán vải”.

Thuở Học Trò

Ngoại hay kể, vào thời buổi đó (1940), người Miên dựa vào Tàu Tưởng (Tưởng Giới Thạch) dậy lên, đuổi người Việt mình, họ đòi lại ‘mãnh đất của ông cha họ’, ai chống cự là “cáp duồn” {chặt đầu) nhà nào có của cải hay con gái thì bị chúng cướp bóc và hãm hiếp. Ngoại sợ quá mới gã mẹ cho Ba tôi và trong nhà thì treo hình Tưởng với cờ đỏ và một hình sao. Bọn Miên vào nhà thấy vậy thì chúng đi ra vì biết đó là nhà Hoa Kiều không dám động đến. Hoàn cảnh của Ba Mẹ tôi như vậy nên không có học cao để lấy bằng nầy bằng nọ, mà cái học của hai người chỉ đủ sinh sống với đời. Nhưng đặc biệt là cha tôi đọc nhiều lắm, đọc sách báo Tàu, ngày nào đêm nào cũng đọc tới khuya mới ngủ. Bằng cấp thì không biết có không, nhưng kiến thức thì nhiều lắm. Ông rất là trọng sự học, dĩ nhiên mẹ tôi, hiền từ, chơn chất cũng ảnh hưởng theo. Truyền thống người Hoa là thương buôn, các ông Bang (Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu…) người nào cũng mở tiệm

buôn bán, rồi khi có con lớn thì bỏ vốn mở tiệm thêm cho con.

Họ hỏi Ba tôi sao không bỏ vốn ra mở tiệm cho tôi buôn bán. Ba tôi cười và phân trần: “Cho tiền, cho tiệm, người ta có thể lấy của nó được. Ngộ cho nó ăn học, chữ nghĩa vô đầu không ai lấy được” Vì lập trường của ông như vậy, nên bọn anh em chúng tôi được lịnh của Ba , khi nào đứa nào đang học bài, làm bài, đọc sách là không có bắt làm công chuyện. Tiền trường, tiền học phí, tiền sách vở, nhất nhất cái gì liên hệ đến ăn học thì Ba tôi rất rộng rải và khuyến khích chi xài.

Nhớ, khi tôi lên Sài Gòn ở trọ đi học, hằng tháng tiền cơm tiền nhà Ba tôi chu toàn đầy đủ, nhưng lúc nào ông cũng dự phòng, căn dặn ông tài phú công ty đậu trong Chợ Lớn, hể khi nào tôi đến nói với ông cần tiền là ông tài phú cứ đưa cho, khi nào đi thu tiền cho chành thì Ba tôi trả lại. Ba tôi quý trọng việc học hành như vậy, nên quý Thầy Cô giáo dạy học Ba tôi càng quý trọng họ hơn. Ông thường nói nôm na mà ý tưởng giống như câu ca dao:

Trọng Thầy mới được làm Thầy Những phường bội bạc sau nầy ra chi

Nhà tôi là lò Tàu Hủ, Ba tôi biết Thầy Minh Trí (chồng cô Kim Ngôn, vô địch bóng bàn) dạy Lý Hóa thích uống sửa đậu nành nguyên chất, hể Thầy ghé nhà là Ba tôi rất hân hoan chiêu đãi. Thầy thích lắm, có dịp là Thầy ghé, không biết bây giờ còn sống hay đã mất. Lúc đó tôi đâu khoảng 16, Thầy hơn tôi chắc độ hơn con giáp, bây giờ tôi 70, Thầy chắc ngoài 80, hy vọng còn hiện hữu trên cõi đời nầy, nếu duyên may, những dòng nầy được Thầy đọc nhé! Còn như bạn bè mà có tiếng là chăm học, học giỏi, khi đến nhà chơi thì Ba Mẹ tôi vui vẻ hỏi han trìu mến, món ăn ngon quý nào cũng mang ra mời. Quan niệm của Ba tôi đơn giản thật thà như vậy, nhưng sau nầy chính tôi, tôi thấy nó hữu lý vô cùng: Chỉ có sự học mới thay đổi cuộc đời, thay đổi giai cấp, và thay đổi cái nhìn của xã hội. Tôi là tiên phong cho gia đình lao động, tay làm hàm nhai của chúng tôi. Tôi vươn lên được là nhờ sự học, rồi các em tôi theo đà đó mà tiến lên…

Năm 17 tuổi, tôi học nhảy đậu phần I, 18 tuổi đậu phần II, 12 tháng Đại Học Sư Phạm, 22 tuổi cử nhân, cải ngạch và làm hiệu trưởng trường đệ nhị cấp mà 4 năm trước là trường học của mình.

Page 88: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 88

Trường sở vẫn còn tất cả Thầy Cô cũ đang dạy. Sự học đã giúp con người có cái nhìn xa hơn, và bao quát hơn…

Trên đường vượt biên… Cột đèn có chân cũng còn đi, huống chi là

con người, ai không đi không phải là người, làm người không đi không lớn nổi anh ơi…

Tháng 5 năm 1975 tôi bị tập trung đi tù. Bạn bè ví von là được một học bổng học Đại Học Cải Tạo Bến Giá (Long Toàn-Trà Vinh) miễn phí. Tôi quần xà lỏn áo thung khăn gói quả mướp đến rừng Chà Là hằng ngày vác trấu và trồng củ cải. Sau một năm vì là diện thầy giáo chúng thả về với tờ giấy ghi là “địa phương quản chế và không được sinh sống ở tỉnh thành”. Sau đó tôi về An Trường ấp 6 sống với hai công ruộng, một mãnh vườn nhỏ, một cái chòi lá lụp xụp. Vốn có máu bán buôn, tôi mua một số đồ tạp hóa bán trong xóm và ngâm một bầu rượu thuốc chia chác với các kẻ buồn đời. Nhiều khi một trái khế chua, một trái chuối chác, hai ba bạn cùng nhau làm nửa lít ngon ơ. Rượu vào rồi, máu giang hồ lãng tử nổi lên, rồi bàn nhau chuyện vượt biên đi nước ngoài. Hằng đêm lén nghe đài BBC chuyện cứu người vượt biển rất khích lệ cho sự ra đi.

Trên Tàu Vượt biên

Lần thứ nhứt tôi qua Mỹ Tho, vừa xuống xe chuẩn bị nhập đoàn thì bị bể, công an rượt. Tôi và thằng con trai Huy chạy thoát. Lần thứ nhì, cha con đến Rạch Sỏi. Rộng một đêm, sau đó bị lừa, mất tiền. Lần thứ ba, chợt suy nghĩ, Trà Vinh mình có cửa biển, đường đi nước bước mình rành, tại sao không đi ở quê nhà, người các nơi còn về đây tìm đường dây, từ đó tôi suy nghĩ, phải đứng ra tổ chức. Tôi gặp chú năm Yến, có ghe, có hai thằng con trai, Chú biết rành về tôi, nên hợp tác. Chú có của, tôi có trí. Chuyến nầy thành công, tôi và con gái thứ ba Mỹ Huyền đi được còn tất cả gia đình còn lại đi lạc và bị bắt…

Sau năm ngày đêm lênh đênh trên biển cả, tàu đến đảo Ranai, Indonesia. Ở đây ăn uống kham khổ, con gái có đeo chiếc đồng hồ, đem bán cho người địa phương để mua gạo, cá, ăn lấy sức sau mấy ngày đói khát.

Trại Tị Nan Galăng buồn muốn khóc…

Sau một tháng thì được đưa về đảo Kuku. Nơi đây có món ăn mà đời cha con tôi khó quên được là võ chuối già xé phơi khô đổ giấm và chút đường làm gỏi, còn mì gói thì làm canh, một gói bẻ làm tư, mỗi buổi ăn nấu một tô một góc tư, vị chi là gói mì ăn làm bốn lần. Barak một bên nằm dọc theo bờ biển, một bên là rừng hoang vu, có lần vài người đi lùng kiếm con nầy con nọ để làm món ăn, họ bắt được một con kỳ đà to tướng khoảng trên 50 pound, họ làm thịt nấu cháo, đãi tất cả một buổi ăn, thật là vui cho đời vượt biên.

Độ hai tháng sau, Cao ủy tị nạn cho tàu đến chở qua đảo Galăng. Lên đến bến tàu, người đầu tiên quen biết gặp lại là Cô Nguyễn Thị Khánh, giáo sư trường Trần Trung Tiên, vợ của Đại úy Hòa, Hải Thuyền. Sau dó gặp đồng hương bạn học TTT là Nguyễn Cao Thượng và rồi là những người xa lạ cùng một tâm chí bỏ quê hương đi tìm tư do, có nước mà không ở lại đi tìm nước khác mà sống, trớ trêu chưa !

Ga lăng tình xù Ra đi thì xách cây dù đem theo

Ở đây thì là những tháng ngày thơ mộng, thần tiên. Ngày ngày mong ngóng sang một nước thiên đàng thứ ba. Ga-Lăng 1, Ga-Lăng 2, Ga Lăng 3. là cái gì hè ? ( Viết hồi ức, nhớ đâu viết đó, viết để đồng hương hải ngoại theo viện Ô Đi Tàu Bay đọc chơi cho biết, chớ bọn Ô Đi Ghe và Ô Đi Bộ chúng tôi là quá nhão nhề, xưa như trái đất )

Thưa bà con; Cái thứ nhứt để nói là Cây Dù! Cái nóng ở

InĐô của đảo Ga Lăng tình xù nầy nóng khiếp đãm. Ai cũng ráng mua một cây dù đen để đi che nắng khi đi ra ngoài như đi bưu điện lấy thư từ, khi đi khám bệnh, khi đi mua thức ăn…

Cái thư hai là Cái Xe! Xe ở đây không là xe hai bánh, hay bốn bánh. Mà xe ở đây có hai

Page 89: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 89

chân, chân người đấy. Nam thì kết thân một bạn gái nào đó, nữ thì kết thân một ông đàn ông nào đó. Người kết thân được một ai đó, dân Ga-lăng gọi là có xe, rồi đi đâu cũng mang xe mình theo. Và ở đây hình như, có một quy ước ngầm với nhau là ở đảo thì vậy, khi lên máy bay rồi là XÙ. Cho nên gọi là tình xù. Vui nhỉ. Chuyện hơi tếu nhưng có thiệt, không tin cứ hỏi dân nào ở đảo nầy thì rõ.

Đời sống trong trại Tị Nạn Galang 1981

Năm 1985, tôi rời Ga Lăng. Năm rồi 2013. 24 năm trôi qua. Một buổi tình cờ khi đi dạy tu nghiệp cho Thầy Cô giáo, lúc vô nhà ăn, tôi chào một Chị Thiện Nguyện Viên phụ trách ẩm thực với lời thán phục năm nào cũng gặp Chị có lòng giúp ban Đại Diện, Chị cười và nói, năm nào Em cũng gặp và biết Thầy, mà Thầy không biết Em đâu. Em là dân Ga Lăng, hiện Em đang ở gần nhà Chị H… “Xe” của Thầy đó, rồi Chị cười rộ lên và trêu tôi. Tôi tỉnh bơ hỏi lại, Cô có số phone cho xin, Chị rất sốt sắng cho liền mà không ngần ngai gì cả. Phút giây chạnh lòng, nhớ đến Cụ Phan Khôi với bài 24 năm xưa. Một đêm vừa gió lại vừa mưa… Tôi liền bấm điện thoại và gọi ngay. Sau khi xưng danh tánh và biết rõ nhau, đầu dây bên kia cho biết là đang lên tàu sau chuyến đi cruise và lần lượt bước lên xe bus, khoảng 8 tiếng sau mới đến CA và gọi lại. Và rồi, sau đó, có lẻ, cả hai đều nhớ quy ước ở đảo Ga-Lăng nên chả ai gọi ai nữa. Mà gặp gỡ nhau chi khi xe cộ đã over-date rồi. hãy giữ cho nhau hình ảnh cái xe đẹp.

Một gia đình tị nạn tại đảo Galang

Ga- Lăng 1: Chân ướt chân ráo trụ hình nơi đây. Ăn ngủ trong Barack, trải chiếu trên giường gỗ nằm xếp lớp như cá mòi hộp Ban đại diện nhiều năm qua, kẻ trước người sau đã gây dựng thành nền nếp, lớp học Anh văn, lớp học Việt ngữ, hàng quán..., sinh hoạt như một thị tứ. Hằng ngày tôi đi dạy Việt Ngữ, trường ở gần nhà bưu điện, cuối tuần lãnh được thêm một hộp cá, một vài hộp trái cây lỉnh kỉnh khác, để chờ cho qua tháng ngày.

Ga-lăng 2: Ai phỏng vấn và có nước thứ ba nhận thì được chuyển vào Ga-Lăng 2. Nơi đây được ở nhà gỗ: ben trên là gát, có 1 hay 2 phòng tùy gia đình, bên dưới là nhà bếp, nhà tắm… tức là chỗ ăn ở đàng hoàng, đời sống vượt biên được nâng cấp !

Ga-Lăng 3: Trên đường đi giữa Ga Lăng 1 đến Ga Lăng 2 được gọi là Ga Lăng 3, nơi đây là nghĩa trang, chôn vùi những kẻ ốm đau bệnh tật… rồi gởi xác lại xứ người.

Còn nữa, hẹn thuật tiếp vào đặc san Trà Vinh 15

CA, 4-11-2013 Văn Tường

Page 90: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 90

Quaùi Kieät Traàn Vaên Traïch (1924-1994)

Lời Người Viết: Viết về cuộc đời của một nghệ sĩ danh tiếng là khó rồi. Viết về một nghệ sĩ « lập dị » đã chinh phục cảm tình của khán giả qua ba thế hệ mà người đó lại là chú ruột của kẻ viết bài này thì lại khó khăn hơn nữa. Làm sao có thể viết một bài phê bình, nói gần nói xa như « mèo khen mèo dài đuôi » ?

Trần Văn Trạch, nhạc sĩ hài hước của làng tân nhạc Việt Nam (1924-1994)

Cái khó của tôi là không biết nhiều về ông chú của tôi đứng về mặt gia đình. Có thể nói là suốt thời gian tôi sống ở Việt Nam, tôi chỉ gặp chú tôi tổng cộng độ 10 lần mà thôi, gặp chú ít khi nói chuyện vì lúc đó tôi hãy còn nhỏ quá đi. Tôi chỉ nhớ được xem chú Ba Trạch trình diễn ba lần tại

Saigon. Một lần vào khoảng năm 1948 ở tại Dancing Théophile, vùng Dakao. Lúc đó tôi mới có 4 tuổi. Một lần khác chú tôi từ Pháp về năm 1961 hát bài « Chiều mưa biên giới » (nhạc và lời : Nguyễn Văn Đông) với dàn nhạc Pháp thu vào băng sẵn để hát kèm theo kiểu hát playback và được xem chú tôi biểu diễn trò múa rối học được ở Pháp mang về. Lần chót trước khi tôi rời Việt Nam vào khoảng cuối năm 1961 tại một rạp hát ở Phú Nhuận với các màn bắn súng, nhái các thú vật như chú đã thường trình diễn.

Hình ảnh người chú tóc dài, chạy xe Mercedes cũ xì, được báo chí tặng cho danh hiệu «Quái kiệt» vẫn còn in rõ trong trí nhớ của tôi.

Cái khó thứ hai là tôi không ở trong nghề, không biết được bộ mặt thật sự của hậu trường sân khấu, cũng như không có « sống », « nếm mùi » ngọt, bùi, đắng, cay của nghề bán giọng hát đổi lấy chén cơm. Do đó, tôi không có một kỷ niệm nào để kể cho các bạn như đa số các nghệ sĩ Việt Nam mà tôi may mắn được gặp và nghe họ kể những bước thăng trầm của cuộc đời rày đây mai đó trên những đường mòn Việt Nam từ thành thị đến thôn quê.

Thời thơ ấu ở Sầm Giang Trần Văn Trạch, tên thật là Trần Quang

Trạch, sinh năm Giáp Tý (1924), tại làng Đông

Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Trong gia đình có rất nhiều người biết về nhạc, nhất là nhạc cổ. Ông sơ tôi, Trần Quang Thọ, nhạc sĩ triều đình Huế. Ông cố tôi, Trần Quang Diệm, ngày xưa được gởi ra Huế để học đàn tỳ bà trong thành nội và nổi tiếng về đàn tỳ bà trong Nam cùng với sự chế cách viết bài bản cho đàn tỳ bà. Ông nội tôi, Trần Quang Triều, tự Bảy Triều, nổi tiếng trong giới cổ nhạc qua tiếng đàn kìm lên dây theo kiểu dây Tố Lan do ông nội tôi sáng chế ra. Dây Tố Lan của đàn kìm khác với cách lên dây thường của đàn kìm. Bình thường đàn kìm có hai dây được lên dây cách nhau một quãng 5 (do–sol). Còn lên dây Tố Lan thì hai dây phải cách nhau một quãng 7 thứ (do – sib). Gia đình bên phía ông nội tôi còn có bà cô Ba tên là Trần Ngọc Viện, người đã thành lập gánh hát Đồng Nữ vào khoảng năm 1927 với một điểm đặc biệt là tất cả các diễn viên trong gánh hát Đồng Nữ, một hiện tượng duy nhứt trong lịch sử hát cải lương miền Nam.

Trần Văn Khê-Trần Văn Trạch-Lê Thương 1949

Bên phía bà nội tôi thì có ông Cậu Năm tên là Nguyễn Tri Khương (cháu nội của ông Nguyễn Tri Phương, một vị quan nổi tiếng dưới thời triều Nguyễn), từ trần vào năm 1962, là một nhạc sĩ chuyên về sáo, lại thông hiểu về lý thuyết nhạc cổ, đã giúp cho Ba tôi là GS Trần Văn Khê khi viết luận án tiền sĩ về nhạc Việt. Ông Nguyễn Tri Khương còn là thầy tuồng của gánh hát Đồng Nữ và là tác giả của những bài hát mới mà ngày nay rất ít người biết như các bài « Thất trĩ bi hùng », « Yến tước tranh ngôn », « Phong xuy trịch liễu », « Bắc Cung Ai », vv… Ông Cậu Tư, anh của ông Nguyễn Tri Khương, có một người con rất giỏi về nhạc. Đó là cồ nhạc sĩ Nguyễn My Ca (tên thật là Nguyễn Mỹ Ca) mất vào năm 1944 trong lúc chống Pháp. Bác My Ca là anh em cô cậu với Ba tôi và chú tôi,

Page 91: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 91

chỉ được người Việt biết qua nhạc phẩm « Dạ Khúc »

Những dòng trên đây được viết ra với mục đích là giúp cho các bạn hiểu rõ trong bối cảnh nào chú Trần Văn Trạch đã sống và hấp thụ nhiều khía cạnh âm nhạc trong khoảng thời ấu thơ tại làng Vĩnh Kim, làng Đông Hòa, làng Bình Hòa Đông của tỉnh Mỹ Tho miền Nam Việt Nam.

Ông Nội tôi có ba người con. Người con cả là Trần Văn Khê (sinh năm 1921, từng là giáo sư dân tộc nhạc học tại đại học đường Sorbonne, Paris, hưu trí năm 1987, và hiện giờ để hết thì giờ để viết các quyển hồi ký về cuộc đời của mình – đã xuất bản được 6 quyển tại Việt Nam từ năm 1998, sang Pháp năm 1949 và hiện sinh sống tại thành phố Vitry sur Seine, ngoại ô Paris). Kế đến là Trần Văn Trạch, sinh năm 1924, nổi danh là Quái kiệt trong làng tân nhạc Việt, từ trần năm 1994 tại Paris. Người con gái út, tên là Trần Ngọc Sương, sinh năm 1925, từng là ca sĩ nổi tiếng lấy biệt hiệu là Ngọc Sương, sau đổi lại là Thủy Ngọc trong những năm 1948-50, và hiện sống tại Montreal, Canada.

Chú Trạch lúc nhỏ rất có khiếu về nhạc. Học đánh đàn kìm và đàn tỳ bà rất sành. Lại có giọng hát ấm êm, ca « vọng cổ » mùi không thua gì Năm Nghĩa thời thập niên 30. Tuy biết nhiều về cổ nhạc, nhưng lại thích tân nhạc hơn. Lúc khoảng thời đó (1937-39), nhạc sĩ My Ca rất giỏi về đàn

violon, và Ba tôi thiên về đàn mandoline. Hai người thường hợp tấu để đàn các bản nhạc Pháp nổi tiếng thời đó như « J’ai deux amours », « Marinella ». Phong trào phát động nhạc mới được giới trẻ theo một cách mạnh mẽ. Chú tôi theo học chữ ở Collège de Mỹ Tho (trường trung học Mỹ Tho) cho tới năm 1942 thì rời ghế nhà trường.

Tuy ở trong gia đình nhạc sĩ, nhưng lại là người thích buôn bán làm ăn, nên chú Trạch mới lập ra lò làm chén ở Vĩnh Kim. Sau một vài năm buôn bán, coi bộ không khá lắm, nên bỏ nghề lên Saigon tìm việc sinh sồng. Khoảng năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng, Pháp trở lại Việt Nam, những phòng trà nho nhỏ mở cửa trở lại. Chú tôi mới bắt đầu kiếm được một phòng trà nhỏ (loại salon de thé) ở đường Lagrandière.

Danh từ « Đại Nhạc Hội » xuất hiện Có lẽ rất ít người biết từ đâu xuất phát

danh từ « đại nhạc hội ». Chú Trần Văn Trạch hoạt náo và hát tại dancing Théophile ở vùng Dakao từ năm 1947-48. Các bản nhạc hài hước đầu tiên không phải do Trần Văn Trạch sáng tác mà là do nhạc sĩ Lê Thương (1914-1996) viết ra đầu tiên. Nhạc sĩ Lê Thương được nhiều người biết qua các bản « Thằng Cuội », « Hòn Vọng Phu 1, 2, 3 ». Chính nhạc sĩ Lê Thương đã chính thức khơi mào một loại nhạc hài hước như bản nhạc « Hòa Bình 48 » (Lê Thương, 1948) đã do Ba tôi hát trong dĩa 78 vòng của hãng ORIA thu bên Pháp năm 1949, và Chú tôi hát ở Saigon với những màn bắn súng, máy bay dội bom phát sinh từ đó. Bản nhạc « Liên Hiệp Quốc » (Lê Thương, 1949) cũng được Ba tôi và chú tôi tung ra thị trường với những màn hài hước bắt chước các thứ tiếng Anh, Nga, Tàu, vv… Nhạc sĩ Lê Thương có viết năm 1948 một bản nhạc tựa là « Làng báo Saigon » do Trần Văn Trạch hát vài lần trên sân khấu nhưng bị chánh phủ cấm. Lời bài hát « Làng Báo Saigon » do nhạc sĩ Lê Thương viết như sau :

Báo Sài Thành từ suốt ba năm nay Sống một cuộc đời bất bình, mập mờ cũng hay Nếu mai sau mà anh muốn nói láo Cứ nghe tôi mà anh cứ viết báo Công chúng đang buồn, nghe nói một hồi Như thác nhớ nguồn, nên cũng đành thôi.

Đoạn giữa có câu Nào xin kính chào này Mừng tân thủ tướng mới Chừng coi gió chiều nào Là xoay đổi hướng ….vv…

Page 92: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 92

Viết lời nhạc có tính cách chính trị, nên sau đó, Lê Thương, Trần Văn Trạch, Phạm Duy, Đức Quỳnh, đã « bị mời » vào bót Catinat mấy ngày. Đến năm 1949, Trần Văn Trạch thấy rằng tân nhạc bắt đầu thịnh hành. Các ca sĩ như Minh Trang, Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tâm Vấn góp mặt trên đài phát thanh Pháp Á, trên các sân khấu trình diễn tân nhạc. Trần Văn Trạch mới có ý nghĩ « lăng xê » (từ tiếng Pháp là động từ « lancer ») danh từ « Đại nhạc hội » để chỉ định những buổi hát bao gồm ca, vũ, nhạc, kịch trong một chương trình văn nghệ. Từ đó trở đi, « đại nhạc hội » được thông dụng cho tới ngày nay.

Sau đó, chú Trần Văn Trạch thấy rằng muốn khuếch trương khía cạnh tân nhạc, chỉ có cách là mang tân nhạc xen kẽ với những màn ảo thuật, xiệc, vào những buổi chiếu phim hát bóng vì lúc đó phim hát bóng rất thịnh hành, người đi coi hát bóng rất đông, thuận tiện cho việc phổ biến tân nhạc Việt hãy còn phội thai trong giai đoạn này. Phụ diễn tân nhạc trên sân khấu

Sau thế chiến thứ hai, cuộc sống trên thế giới trở lại bình thường. Nền kinh tế bắt đầu tìm lại thế quân bình. Dân chúng bắt đầu đi xem hát, nghe nhạc, có nhiều cách giải trí hơn. Lúc bấy giờ, xứ Việt Nam hãy còn là thuộc địa của Pháp. Mà ở xứ Pháp, vào thời buổi đó, bắt đầu có chuyện phụ diễn tân nhạc hay những màn hát thuật giữa phim thời sự, quảng cáo, và phim chánh. Trần Văn Trạch thấy hình thức đó hay nên mới tìm cách phổ biến hiện tượng đó tại Saigon. Nhạc sĩ Đức Quỳnh và chú tôi hợp tác với nhau, và lựa rạp hát bóng Nam Việt làm nơi thử thách đầu tiên.

Lúc đó là vào khoảng năm 1951. Được dân chúng thích và đòi hỏi. Trần Văn Trạch mới lần lượt phổ biến chuyện phụ diễn tân nhạc tới những rạp hát khác và lần lần làm thành «hệ thống dây chuyền». Tân nhạc thiếu bài mới để hát. Các nhạc sĩ mới đua nhau sáng tác những nhạc phẩm phù hợp với nhu cầu của dân chúng trong thành phố. Các ca sĩ không thể đem lên sân khấu những ca khúc hùng mạnh đầy màu sắc đấu tranh, giặc giã. Nhờ đó mà mới nẩy sanh ra phong trào sáng tác nhạc rất mạnh. Trần Văn Trạch bắt đầu nổi tiếng về tài hài hước và kể chuyện, rồi sang hát một vài bản nhạc diễu để chọc cười khán giả. Bài bản lại thiếu, nên chú tôi bắt buộc phải sáng tác những bản nhạc đúng « ni tấc ». Nhờ đó mà một số bản nhạc « diễu » được ra đời và đi sâu vào lòng dân chúng

mãi cho tới ngày hôm nay nhứt là khán giả vào lứa tuổi 50- 80 tuổi.

Những nhạc phẩm hài hước của Trần Văn Trạch Trần Văn Trạch có một lối hát mộc mạc,

đúng giọng miền Nam. Chú tôi là một trong số rất ít ca sĩ chuyên hát với giọng miền Nam, phát âm không màu mè, dùng lời lẽ đơn giản, không cầu kỳ, những tữ ngữ được nghe trong đời sống hàng ngày, nhưng chủ đề lấy từ cuộc sống người dân nghèo nên rất dễ làm xúc động người nghe.

Bài hát hài hước đầu tiên được Chú tôi sáng tác là « Anh phu xích lô » (1951). Về nhạc thì sử dụng âm giai thất cung với những câu nhạc dễ nhớ được lập đi lập lại. Về tiết tấu thì sử dụng nhiều nhịp ngoại, hát mau và phải « giựt » theo kiểu swing để tạo sự vui nhộn. Tôi chỉ nhớ đoạn đầu của bài hát « anh phu xích lô » như sau :

Có ai mà muốn đi tới Chợ Lớn Có ai mà muốn đi tới Chợ Mới Có ai mà muốn đi chóng cho mau tới Ê Tôi xin mời lại đây

Chiếc xe này có bảo kiết thật chắc Bánh xe thì tốt thùng có bọc sắt Nếu khi mà có đụng phải xe jeep Quý ngài chẳng hề hấn gì.

Khi thấy loại nhạc này « hấp dẫn » người nghe, Chú Ba Trạch mới tiếp tục viết thêm một số nhạc phẩm hài hước khác như « Chuyến xe lửa mùng 5 » (1952) kể lại chuyện một anh chàng lấy xe lửa về thăm mẹ. Trên xe lửa, để cho qua thì giờ, ngồi đếm cột đèn mà bị người bên cạnh hỏi tới hỏi lui. Đến khi về nhà mới hay mẹ mình đã từ trần. Câu chuyện lúc đầu thì thấy cười. Nhưng kết cuộc là « cười ra nước mắt ».

Cho tới ngày ký hiệp định Genève ( 1954), Trần Văn Trạch viết khá nhiều bài như «Cái tê – lê – phôn», « Cái đồng hồ tay », « Anh chàng thất nghiệp », « Cây bút máy », «Đừng có lo»

Để cho các bạn biết sơ qua một số bài với âm điệu, tôi xin tạm ghi lại một đoạn nhỏ của một vài bài điển hình như « cái tê – lê – phôn » được bắt đầu như sau :

Từ đâu nạn đưa tới Gắn chi cái tê lê phôn Bởi tôi muốn làm tài khôn Khiến tôi muốn thành ra ma Không vào Chợ Quán cũng đi Biên Hòa.

vv…..

Page 93: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 93

Trong năm 1952, tôi muốn nói tới hai bản nhạc của Trần Văn Trạch đã được nhiều người biết tới mà không phải là nhạc hài hước. Đó là bài « Chiến xa Việt Nam » vả một bản nhạc khác mà hầu hết những người Việt miền Nam đều đã có nghe qua rất thường. Đó là bài «Xổ số kiến thiết quốc gia». Trong vòng 23 năm, từ 1952 tới 1975, mỗi tuần tại rạp Norodom (sau đổi lại thành rạp Thống Nhất), đều có nghe hát bản nhạc này trước khi xổ số.

Tôi ghi lại đây bản nhạc này mà tôi không thấy trong những tập nhạc được xuất bản tại hải ngoại sau 1975.

Kiến thiết quốc gia (nhạc và lời : Trần Văn Trạch, 1952)

Kiến thiết quốc gia Giúp đồng bào ta Xây đắp muôn người Được nên cửa nhà

Tô điểm giang san Qua bao lầm than Ta thề kiến thiết Trong giấc mộng vàng

Triệu phú đến nơi Chỉ mười đồng thôi Mua lấy xe nhà Giàu sang mấy hồi

Mua số quốc gia Giúp đồng bào ta Ấy là thiên chức Của người Việt Nam

Mua số mau lên Xổ số gần đến Mua số mau lên Xổ số gần đến Bài “Chiến xa Việt Nam” (1952) đã được

nghe nhiều lần thời đệ nhất cộng hòa. Nữ ca sĩ Bạch Yến lúc hãy còn là em bé Bạch Yến đã hát bài này khi dự thi tuyển lựa tài tử ở Đài Pháp Á khoảng 1953. Trong những kỳ đi diễn binh nhân ngày Quốc khánh, chúng ta cũng có nghe nữa. Thời gian trôi qua, những bản nhạc hùng mạnh như Thúc Quân, Xuất Quân, Hờn Sông Gianh, Chiến Xa Việt Nam, vv…. đã mờ dần trong trí nhớ người Việt hải ngoại và trong nước. Tôi chỉ ghi lại hai câu đầu của bài Chiến Xa Việt Nam

Khi miền Nam trở thành một quốc gia cộng hòa dưới thời cố tổng thống Ngô Đình Diệm

(1956-1963), nhạc sĩ Trần Văn Trạch sáng tác rất ít. Chỉ có một bài ca hài hước được ra đời. Đó là bài “Ba chàng đi hỏi vợ”

Ban Sầm Giang Trên Đài Phát Thanh Những ai ở vào tuổi lục tuần đều có dịp

nghe ban Sầm Giang do Trần Văn Trạch đảm trách trên đài phát thanh Pháp Á từ năm 1950 tới năm 1954. Con sông Sầm Giang ghi nhiều kỷ niệm trong cuộc đời thơ ấu của Chú tôi nên khi lập một ban nhạc hay một đoàn hát, Chú tôi mới lấy tên con sông này để “dựng bảng hiệu”. Bản nhạc được nghe báo hiệu chương trình ban Sầm Giang trên đài là một bản nhạc do cố nhạc sĩ Nguyễn My Ca sáng tác cho một tiệm mới khai trương tại Vĩnh Kim khoảng 1940 và Chú tôi lấy điệu nhạc này và đặt lời mới vào.

Ban Sầm Giang quy tụ một số nhạc sĩ gạo cội như cố nhạc sĩ Võ Đức Thu, Khánh Băng. Về sau có nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi (ở Mỹ hiện nay), các ca sĩ nổi tiếng thời 50 như Trần Văn Trạch, Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tôn Thất Niệm, Linh Sơn, Mạnh Phát, Minh Diệu, Túy Hoa, Tâm Vấn. Đến năm 1953, có thêm những bộ mặt mới như nữ kịch sĩ Bích Thuận, ban Thăng Long, Duy Trác, Tùng Lâm, và … em bé Bạch Yến.

Với một chương trình hàng tuần về ca, nhạc, kịch, Trần Văn Trạch đã chinh phục thính giả và nhờ đó những chương trình “đại nhạc hội” được nối tiếp và phát triển trên toàn xứ.

Năm 1953, Trần Văn Trạch diễn tại Hà Nội và rất được hoan nghinh, vì bộ môn hài hước không có trên đất Bắc. Chú tôi phải dời ngày về Saigon mấy lượt khiến cho những bạn bè đi đón “hụt” mấy lần ví Chú tôi “không chịu về”. Sau chuyến đi thành công này, Trần Văn Trạch dự định đưa một đoàn văn nghệ miền Nam ra diễn ngoài Bắc lấy tên là “Đoàn Gió Nam”. Việc tổ chức đang tiến hành thì hiệp định Genève (1954) đã chia xứ Việt Nam ra làm hai, nên chuyến đi Bắc của đoàn nghệ sĩ miền Nam không bao giờ được thực hiện.

Trần Văn Trạch Với Điện Ảnh Nền điện ảnh Việt Nam ở trong giai đoạn

phôi thai. Khoảng 1955, Chú tôi mới cộng tác với hãng phim Mỹ Phương bên Pháp do bà Mỹ Phương (vợ ông Trần Văn Trai, chủ nhà hàng Âu Cơ ở Paris), làm giám đốc sản xuất với sự phụ lực của Phùng thị Nghiệp và Eric Lê Hùng (từng làm đạo diễn nổi tiếng ở Pháp). Hai cuốn phim được quay là “Lòng Nhân Đạo”(1955) với Trần Văn Trạch, Kim Cương, Hà Minh Tây (anh Tây lúc trước làm

Page 94: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 94

việc cho đài truyền hình Pháp, giờ về hưu) thủ vai chánh, và phim “Giọt Máu Rơi”(1956) với Trần Văn Trạch và Kim Cương. Tuy rằng hai cuốn phim này chưa đạt được đúng mức trình độ diễn xuất, nhưng rất được sự ủng hộ của khán giả Việt Nam lần đầu thấy người Việt đóng phim.

Trần Văn Trạch sau đó mới rời hãng phim Mỹ Phương để cộng tác với người Tàu ở Chợ Lớn để lập hãng phim Việt Thanh, và tự làm đạo diễn cho hai cuốn phim về chuyện cổ tích Việt Nam. Đó là hai cuốn phim “Thoại Khanh Châu Tuấn “ (1956) với Kim Cương, Vân Hùng thủ vai chánh, và “ Trương Chi Mỵ Nương” (1956) với Trang Thiên Kim và La Thoại Tân. Năm 1957, Chú tôi bị đau thập tử nhứt sanh suốt cả năm. May nhờ có bác sĩ Phan Văn Đệ cứu sống. Rồi Chú tôi từ giã nghề điện ảnh Việt Nam lúc đó bắt đầu bành trướng và phát triển mạnh với những nhà đạo diễn chuyên nghiệp và những tài tử điện ảnh như Lê Quỳnh, Kiều Chinh, Kiều Hạnh.

Tuy Chú tôi không có tiếp tục ngành điện ảnh, nhưng cũng có đóng góp khá nhiều cho sự hình thành nền điện ảnh Việt Nam tại miền Nam . Giai đoạn tổ chức đại nhạc hội

Không một nghệ sĩ Việt Nam nào mà không biết Trần Văn Trạch. Đa số đã có dịp làm việc chung với Chú tôi ít nhất là một lần trong đời. Có người gọi Chú tôi là “Anh Ba”, có người trong lớp nghệ sĩ trẻ gọi Chú tôi là “Chú Ba”. Với những chương trình “đại nhạc hội”, Chú Trạch đã có dịp đi khắp các tỉnh, các làng ở miền Nam. Trong thời đệ nhứt cộng hòa (1956-1963), Trần Văn Trạch đã thực hiện nhiều chương trình ca, vũ, nhạc, kịch ngày càng vĩ đại với một thành phần nghệ sĩ càng ngày càng đông. Rồi Kim Cương, ban Dân Nam, Hoàng Thi Thơ… nhảy vào làng tổ chức nhạc hội cho tới Saigon thất thủ (tháng 4, 1975)

Năm 1960, Chú tôi mới đi sang Paris tìm những ý kiến mới. Ở Paris, Chú tôi thường xuyên hát tại nhà hàng “La Table du Mandarin”, Paris, quận 1, nơi duy nhứt ở Paris có chương trình văn nghệ Á châu mỗi đêm cho khách Tây phương. Cũng nơi này do ông Phạm Văn Mười (từ trần vào thập niên 80) làm chủ, đã được những ca sĩ Việt nổi tiếng thời đó như Thiên Hương (Tini Yong) rồi Bạch Yến (lúc sang Pháp từ 1961-63), và Bích Chiêu (1962-64), kế đến tới nữ nghệ sĩ Phùng Há và Kim Cương (1964-65) đến hát. Sau một thời gian lưu diễn tại Pháp khoảng 6 tháng, Chú tôi trở về Saigon với một tiết mục mới là trò múa rối (marionnettes / puppet show) và bản “Chiều Mưa

Biên Giới” của Nguyễn Văn Đông được hát theo kiểu sound track, có nghĩa là hát thật sự trên sân khấu với dàn nhạc của Pháp thâu sẵn trên băng nhựa. Tôi có dịp đi xem Chú tôi diễn lần đó tại một rạp hát ở Saigon (dường như là rạp Hưng Đạo, tôi không nhớ rõ lắm)

Từ khi có quân đội Mỹ vào miền Nam ngày càng đông, những night clubs dành cho lính Mỹ mọc lên như nấm. Các ca sĩ hát nhạc trẻ càng thấy nhiều hơn. Chú tôi đóng vai “ông bầu” để tổ chức những chương trình nhạc trẻ cho lính Mỹ từ năm 1965 trở đi. Trong thời gian này, Chú tôi có sáng tác một vài bản nhạc không được phổ biến cho lắm như bài “Highway 19” đặt theo điệu Long Hổ Hội, nhạc cổ nhưng trên lời Anh và theo nhịp swing.

Trần Văn Trạch sau năm 1975 Khi cộng sản vào “chiếm đóng” miền Nam

từ 30/4, 1975, Trần Văn Trạch không còn giữ chức vụ “quản lý” các nghệ sĩ miền Nam nữa. Chú tôi tạm sống một cuộc đời bình thường, với những chuyến lưu diễn địa phương cùng với một số nghệ sĩ miền Nam còn bị “kẹt” lại như Nguyễn Long (tự Long Đất, hiện ở Cali, Hoa Kỳ, làm nghề báo chuyên về văn nghệ, điện ảnh và sinh hoạt các nghệ sĩ Việt Nam ở hải ngoại, chụp ảnh, Quốc Anh (sang Pháp và sau đó định cư tại Hoa kỳ từ thâp niên 90)

Cho tới tháng 12, 1977, Trần Văn Trạch rời Saigon sang Paris. Từ đó trở đi cho tới ngày từ trần (12 tháng 4, 1994) nghệ sĩ Trần Văn Trạch, từng nổi tiếng là “Quái Kiệt” vẫn âm thầm hoạt động trong văn nghệ. Có một dạo đi đóng kịch với một đoàn hát Pháp, lưu diễn khắp các tỉnh ở Pháp. Rồi thỉnh thoảng đi đóng một vài vai phụ trong các

Page 95: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 95

phim của Pháp. Chú tôi tạm ngưng làm việc cho Pháp để xoay ra làm nghề khác để sinh nhai.

Sáng tác âm nhạc dường như bị “nghẹn”đi. Suốt gần 18 năm sống ở Pháp, chú chỉ sáng tác một vài bài thôi, vì lẽ cuộc sống ở hải ngoại thúc hối con người ta phải luôn luôn chạy với nhịp sống quá ồ ạt, khiến cho Chú tôi lớp phải lo việc đem vợ con sang Pháp, rồi lại phải lo kiếm việc làm độ nhựt.

Tuy nhiên Chú tôi cũng có góp mặt trong làng tân nhạc Việt ở hải ngoại qua ba cuốn băng “Hài hước Trần Văn Trạch” (Thúy Nga Paris, 1982) “Con đường hạnh phúc” (Thanh Lan, 1983), và “Allô Paris” (Giáng Ngọc, Paris 1986). Về phía phim video, Trần Văn Trạch cũng có làm một cuốn kỷ niệm “Hài hước Trần Văn Trạch” do ông Cử ở quận Cam, Cali, Hoa kỳ thực hiện năm 1983. Chú tôi cũng có góp mặt trong cuốn thi ca nhạc kịch “Việt Nam” do Hà Phong thực hiện tại Paris năm 1984 với nữ nghệ sĩ Bích Thuận (vần còn sống tại Paris), Trần Văn Trạch, Trần Quang Hải,, Bạch Yến và Hùng Tiến (từ trần tại Paris, 2002)

Chú tôi cũng có đi diễn cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ năm 1983 và 1986, ở Úc châu năm 1984, và thường trực có mặt trong những buổi hát giúp lấy tiền cho những con tàu vớt người di tản. Ở Âu châu từ Anh sang Đức, từ Bắc Âu sang Thụy Sĩ, Chú tôi vẫn còn tạo những trận cười qua những màn diễu ăn khách ngày xưa. Tôi có dịp diễn chung với Chú tôi tại Luân Đôn và tại Marseille vài năm trưóc khi Chú tôi mất. Đó là những dịp duy nhứt hai chú cháu tôi hàn huyên với nhau và nhờ đó tôi mới ghi lại đuợc một số dữ kiện chính xác về cuộc đời của chú Trần Văn Trạch.

Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, Chú tôi thường đi sang Hoa kỳ làm nghề quảng cáo trên đài Truyền hình Việt Nam ở Quận Cam. Cơn ung thư gan hoành hành vào cuối tháng giêng 1994 đã đưa Chú tôi trở về Paris, và nằm trị bịnh tại nhà thương Thenon ở Paris, quận 20 từ đầu tháng 2 cho tới ngày từ trần (12 tháng 4, 1994). Vợ chồng chúng tôi thường vào thăm Chú tôi và tôi tìm cách chọc Chú tôi cười. Lúc đó chú tôi chỉ thều thào nói không ra tiếng vì sức quá yếu sau mấy lần mổ gan mà không cứu chửa được. Chú tôi nhắm mắt ra đi ngày 12 tháng 4, 1994 trong khi tôi đang ở Toronto (Canada).

Rất đông nghệ sĩ đã đi đưa tiễn một nhạc sĩ thiên tài đến nơi yên nghĩ cuối cùng. Có GS Trần Văn Khê, cô tôi Trần Ngọc Sương từ Montreal sang. Nhạc sĩ Phạm Duy từ Hoa kỳ tới cùng với Duy Quang. Ở Pháp hầu hết các nghệ sĩ đều có mặt

như Hữu Phước (từ trần), Ngọc Lưu (từ trần), Cao Thái , Bạch Yến và tôi từ Canada bay về Paris, Mỹ Hòa, Thiên Nga, Minh Đức, Thu Hương, Hoàng Long, Kiều Lệ Mai, Minh Đức, Minh Thanh, Kim Chi, Tài Lương, Minh Tâm , Thanh Phong, vv… Di hài được chôn tại nghĩa trang Cimetière intercommunal ở Valenton, ngoại ô Paris.

Với trên 40 năm trong nghề, từng là người tiên phong trong việc tổ chức nhạc hội, người đã đặt ra danh từ “đại nhạc hội”, người đã góp công vào nền điện ảnh Việt, người duy nhứt của Việt Nam đã viết những bản nhạc hài hước lấy từ những đề tài tả cảnh khổ của người dân nghèo, Trần Văn Trạch ngày nay không còn nữa

Tôi nghĩ rằng, đối với những người làm văn nghệ, Trần Văn Trạch đã đi vào lịch sử tân nhạc Việt Nam như một số nhạc sĩ đàn anh như Phạm Duy, Lê Thương, Hùng Lân, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lưu Hữu Phước, Hoàng Giác, Đoàn Chuẩn Từ Linh, Nguyễn Văn Thương, Văn Cao, vv…

Có ngưới sáng tác gợi hứng từ dân ca (Phạm Duy), hùng tráng có tính cách tranh đấu (Lưu Hữu Phước), hay mang tính cách địa phương (Lam Phương ), và cũng có ngưới thích khôi hài (Lê Thuơng, Trần Văn Trạch, Lữ Liên). Sự đóng góp của biết bao nhạc sĩ có tài của miền Nam Việt Nam cần phải được duy trì qua những bài viết, hay những quyển sách ghi lại những tài năng âm nhạc của miền Nam trong giai đoạn 1954-75. Chỗ đứng của Trần Văn Trạch hoàn toàn riêng biệt trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam và sự đóng góp của Chú tôi cho nền tân nhạc Việt sẽ để lại cho thế hệ mai sau một hình ảnh khó kiếm giữa rừng nhạc Việt đầy hoa thơm cỏ lạ.

Hàng năm cứ tới ngày 12 tháng 4 là tôi đi vào thăm mộ chú Ba Trạch, đọc kinh cầu nguyện và dâng bông, quét dọn ngôi mộ. Chú đã nằm xuống để lại cho nền tân nhạc Việt Nam một số ít bản nhạc hài hước mà tôi nghĩ không có ai có thể hát được. Chỉ có bản "Xổ số kiến thiết quốc gia" được nhiều người nhắc tới. Và bài "Chiến Xa Việt Nam" đã được dùng trong các cuộc diễn binh tại Saigon trước 1975. Hiện nay bản nầy được các anh em binh sĩ thiết giáp dùng làm nhạc hiệu.

Đã 17 năm trôi qua, không biết có ai còn nhớ hay nghĩ tới "Quái Kiệt" Trần Văn Trạch hay không? Đôi dòng ghi lại của một người cháu thương nhớ người chú tài ba này .

TRẦN QUANG HẢI Nguồn: Internet

Page 96: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 96

Một Thời Chinh Chiến Điêu Linh

Nguyên Nhung Anh là một phóng viên chiến trường, ngoài

phần lương khô và vật dụng cá nhân trong ba lô mang trên lưng như bao nhiêu người lính khác, anh còn phải đeo lủng lẳng chiếc máy quay phim và cái caméra trước ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt trên đầu, cuốn sổ tay trong chiếc túi áo có nắp gắn hai chữ “Báo Chí”, hai tấm thẻ bài, một bộ râu tua tuả vì đã mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa. Người lính ra chiến trường đã có cây súng làm bạn, riêng anh, người phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc máy quay phim, đã ghi lại biết bao nhiêu hình ảnh trung thực của người lính sống thời chiến chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường của đất nước.

Tiếng đạn bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ: " Không biết sống chết lúc nào ". Chiếc máy quay phim đã thu vào bao nhiêu thước phim giữa mặt trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người. Ðoàn quân lầm lũi tiến vào rừng dừa trước mặt, phân tán mỏng theo lệnh viên sĩ quan chỉ huy. Những bóng người lầm lũi bước , đôi giày vải ướt sũng trên thửa ruộng sâm sấp nước, đói và mệt, chiếc ba lô trên vai anh như nặng trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập rình chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn mưa chiều luồn những giọt tái tê vào lòng người chiến sĩ.

Anh nhớ lại trận đánh ở vùng Thới Lai, Cờ Ðỏ vào mùa mưa năm trước, trong một vùng dầy đặc những cỏ lác và sông rạch. Không phải lần nào quân ta cũng thắng. Ðêm ấy, anh bị mất phương hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ ảo, anh lần mò ra được đường cái, ở đấy có một ngôi chuà nằm chơ vơ ven quốc lộ. Dưới ánh trăng mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn,

không một tiếng chuông tiếng mõ, chỉ có mùi dìu dịu của hoa sứ phảng phất giữa đêm khuya. Ðã mấy ngày mà trận đánh chưa kết thúc, sự yên tĩnh tạm thời để chờ một cuộc đụng độ tiếp theo, dân chúng hầu như đã tản cư ra quận lỵ, hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn.

Ngôi chùa tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh giữa hai lằn đạn, nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần mò men theo mấy bụi cây thấp trước cổng chùa, anh nhìn thấy nhiều thân người nằm la liệt trên sân, im lặng như một bãi tha ma. Họ đang ngủ, quá mệt mỏi cho nên anh chỉ kịp cởi ba lô vứt xuống đất, rồi cứ thế nằm vật xuống bên cạnh một người lính. Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù chưa ăn uống gì nhưng anh không cảm thấy đói, chỉ có giấc ngủ mới làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng đại bác rền rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến trường. Anh thiếp đi thật mau, trong lúc ngủ mê hình như anh có đạp chân vào người lính kế bên nhưng không nghe tiếng chửi thề, hạnh phúc nhất của người lính có lẽ là những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm, cận kề với nỗi chết.

Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu, chỉ có một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy sao đêm. Gió đêm như được ướp mùi hương của những bông hoa sứ làm loãng đi mùi gì tanh tanh giống như mùi máu.

Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh khiến anh thức giấc, chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự sống của muôn loài vẫn diễn ra bình thường dù chiến tranh và sự chết đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh giấc, thèm một ly cà phê và điếu thuốc thơm buổi sáng, rồi lạ

Page 97: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 97

lùng ngó đám người nằm ngủ trên sân chuà, chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên sống lưng người lính. Giờ thì anh đã hiểu, đêm qua anh đã ngủ một giấc ngủ tròn trịa và yên bình bên những người lính tử trận, xác họ ngày hôm nay sẽ được chở về nhà xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến nhận.

"Không phải lúc nào ta cũng thắng", anh nghĩ như vậy khi nhìn những tử thi nằm lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là vậy, thắng hay thua thì bên nào cũng có người nằm xuống, có những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ, chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà áo đà lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong gió. Một vị sư già có lẽ là người duy nhất còn lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra cắm xuống trước những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng lầm rầm niệm Phật. Ðôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác và sợ hãi, khi nhìn thấy một người sống đang ngồi thu lu giữa đám người chết, cả hai cùng im lặng không nói được lời nào.

Cuộc di cư năm 1954

Năm 1969, anh theo cuộc hành quân miền biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, Cộng quân đang cố thủ trong vùng núi Cô Tô, Châu Ðốc. Người phóng viên chiến trường hơn ba mươi tuổi, đang độ chín mùi của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa đạn khi Cộng quân dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam.

Gia đình anh gốc gác miền Bắc, cả một thời ấu thơ và thanh niên anh gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh nhanh chân chạy thoát. Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự nghiệp bỗng dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch lên chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ vãng vừa hiện về trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa

Tiền, rặng bàng trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà xanh um khóm chuối ngự, cả một tuổi thơ đầm ấm và mối tình đầu tuổi thanh xuân nằm lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy.

Từ trên máy bay trực thăng anh nhảy xuống theo gót chân người sĩ quan chỉ huy, máy quay phim chạy rè rè thâu vào hình ảnh núi non chất ngất, những người lính chạy lúp xúp nép vào những bờ đá cao tiến tới. Ðịch bắn ra như mưa, viên đạn đi ngọt như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa thấy đau vì tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như bị một viên gạch ném tới đột ngột. Cho đến khi anh thấy ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đã ướt thẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng ngã xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nhìn thấy loà nhoà hình ảnh người lính cứu thương bế anh lên chiếc trực thăng tải thương, đang phần phật đôi cánh quạt trên một vùng cỏ xanh.

Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng hai cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ anh đã nằm xuống ngay tuổi ngoài ba mươi . Anh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải nằm trong Quân y viện mấy tháng trời, để được nhìn thấy sự hy sinh và đau đớn tận cùng của người lính trong thời chiến. Những hình ảnh ấy vương vấn trong hồn anh, mãi mãi về sau, để tim anh vẫn thắt lại khi bất chợt hôm nào nhìn thấy trên vỉa hè, người thương binh lê đôi nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất chứa nỗi bất hạnh cho cả một tương lai.

Anh ứa lệ nhìn đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch

Năm 1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà Vinh. Bom đạn rền rền át cả tiếng sóng biển rì rào, người dân Khờ Me sống ở những làng mạc hiền hoà với chuà chiền cổ kính, lại vội vã bỏ vùng quê đi lánh bom đạn. Nhà cửa

Page 98: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 98

đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ nhìn hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch nước mắt, nước mũi giữa cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có lằn đạn líu chíu trên đầu người thường dân vô tội, quê hương mình sao khốn khổ đến thế.

Anh nhớ lại một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám tuổi và đứa em út mới lên sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do. Những buổi chiều gió mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố êm ả có rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ.

Người phóng viên chiến trường đâu phải lúc nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng theo đuôi Tư lệnh để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương lên ngực áo người chiến sĩ. Anh đã phải ngắm nhìn chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng máu, thâu vào hình ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những bàn tay dấu mặt như mụ phù thuỷ đang vẽ vời những lời nguyền ruả sấm sét xuống quê hương anh. Chiến trường này tiếp nối đến chiến trường khác, những cuộc hành quân liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ đến đời sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy những rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến tranh chấm dứt. Một ngày nào đó những thước phim của anh chỉ là hình ảnh nụ cười dễ thương của trẻ thơ, là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung cảnh ấm cúng của gia đình, là đôi mắt hấp háy của mẹ già không ứa lệ, khi đêm đêm vẫn thì thầm cầu nguyện sự an bình cho những đứa con.

Thăm Cha nơi chiến hào

Anh phóng viên chiến trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của hai đứa trẻ thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến

không bao giờ tính toán được sự bi thảm của nó. Những đôi mắt trẻ thơ sợ hãi, ngác ngơ khi địch quân dùng khu vực nhà dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé còn lại khi cha mẹ chúng có thể đã ngã xuống bởi những lằn đạn vô tình.

Tình cảm giữa người và người bắt anh phải quên đi những thước phim, những tấm hình giá trị khi lọt vào tay bọn thông tấn nước ngoài. Hai tay bế hai đứa bé anh băng ra khỏi khu nhà đang rần rật cháy, giờ phút ấy anh chỉ có một ý nghĩ phải mang hai đứa bé ra khỏi vùng giao tranh, dù có thể lãnh một viên đạn của đối phương.

Phải mang những đứa bé ra khỏi vùng giao tranh

Suốt một đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường nóng bỏng, anh phóng viên chiến trường đã bao phen đối mặt với tử thần. Anh còn bị thương một lần nữa trước khi chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt khổng lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Ðồng Tháp Mười. May là Thượng đế đã che chở anh, đã cho anh trở về với một xác thân lành lặn.

Ngày chiến tranh kết thúc, một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính bại trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần nhớ đến bạn đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa, lòng anh bùi ngùi khi hồi tưởng đến một khoảnh khắc nào đó, bóng dáng những người lính năm xưa giờ như những bóng ma buồn bã trong dĩ vãng, và anh lặng lẽ nghe những giọt nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh.

Từ đây cuộc đời bắt đầu là những chia xa, bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có những người nằm xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đã bị quên lãng với mồ hoang mả lạc. Có những người ra đi làm những cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu vong quốc. Có những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ , sợ hãi cả những bước chân của chính mình.

Page 99: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 99

Sau ba mươi năm ngày chiến tranh kết thúc, người phóng viên chiến trường năm xưa nay đã già, ngồi bán cá kiểng, cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường tiểu học, cạnh ngôi giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe tiếng chuông ngân ban chiều, anh lại thì thầm đọc mấy câu kinh cho những linh hồn đã khuất.

Gia tài của anh chỉ có một hồ cá bằng thủy tinh với những con cá đủ màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xã hội cá quây quần bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng quăng sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đã no rồi, chứ lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như đám người khốn khổ chen nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá chuyện người cứ lẫn lộn trong con mắt người phóng viên đã hết thời.

Xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả

Lúc ấy trời đã về chiều, hai đứa bé đánh giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy con cá lia thia được rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên bệ gỗ, giữa mỗi cái keo đều có một tấm giấy cứng để che cho chúng khỏi nhìn thấy mặt nhau. Mỗi đứa chọn một con, chúng thò tay vào túi lôi ra những đồng tiền nhàu nát, đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá cá ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm thấy hào hứng muốn theo giõi trận đá cá của hai đứa trẻ con. Không biết ở đâu lố nhố mấy đưá trẻ nữa quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung quanh hai thằng nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày xưa mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn.

Hai con cá trong một cái keo, không biết thù nhau tự kiếp nào xông vào nhau, hai cái thân cá mình xanh vây đỏ lúc ấy phồng lên những chiếc vảy óng ánh, mình chúng như to ra qua thành thuỷ tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả. Lũ trẻ vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công nhau, thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va

vào thành keo đau điếng. Sau một lúc quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt nước hớp không khí, cái mình cá vẩy óng ánh màu xanh nay đã nhợt nhạt như màu miếng vỏ dưa cố chạy thoát thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên những tràng cười khoái chí.

Tan cuộc, hai thằng nhỏ đánh giày bỏ hai con cá cho người bán cá, bưng hộp đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ “hotel” và mấy quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt kiều về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến phố xá chừng như tối xầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến cơn mưa đầu mùa của tháng tư năm nào làm lòng quặn lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng viên chiến trường năm xưa cảm thấy ngùi ngùi, tưởng mình như con cá bại trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một cách thảm thương.

Tội nghiệp anh, những cuộn phim của dĩ vãng như run rẩy theo làn khói thuốc, anh bập hoài điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng ám khói. Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên tấm poncho nhà binh che trên vỉa hè, gõ những nhịp trống vào đầu anh khiến anh nghĩ đến những cơn mưa nơi vùng hành quân năm xưa, khi anh còn là một người lính. Anh tưởng tượng lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh hùng hồn của một ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu ngoại nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học. Hai con cá cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng cũng ê ẩm, lòng vòng trong chiếc keo thuỷ tinh chật hẹp, không hy vọng đá nổi một trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt đường, đã nát mình dưới những vòng xe lăn.

Biết ai còn nhớ đến những người LÍNH năm xưa

Phố đã lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để về nhà mà lòng nặng trĩu một nỗi buồn không tên tuổi. Anh phóng viên chiến trường năm xưa thì thầm nói với mình, " Hơn ba mươi năm rồi, chẳng biết còn ai nhớ đến mình không nhỉ ? "

Nguyên Nhung

Page 100: Dac san Tra Vinh 2014 1 of 2

Đặc San Trà Vinh Năm Giáp Ngọ 2014 trang 100

Soi Göông

Từ Lan Cầm tấm gương soi, chợt giật mình.

Kìa ai trong đó bỗng in hình Da mồi tóc bạc coi kỳ lạ

Má hóp mình gầy thấy hãi kinh. Lúc mếu tưởng chừng như ngáo ộp,

Khi cười coi lại cũng xinh xinh. Ngày xưa đâu có như giờ vậy

Mới biết mình trông chẳng giống mình.

Bài Hoạ I Ngắm ảnh trong gương của chính mình

Dung nhan tiều tụy đúng như hình. Gió sương dầu dãi bao năm tháng, Bão táp phong ba lắm trận kinh.

Bĩ cực đã qua lòng tự tại Thới lai an lạc thấy đời xinh.

Thanh nhàn hưởng phước vui trời định, Già xấu quan chi, chuốc khổ mình!

Chu Tiểu Trà Toronto Canada 04/12/2001

Bài Họa II Hình ở trong gương chính ảnh mình,

Cớ sao lại ngỡ chẳng in hình. Dẫu cho tóc bạc da mồi sạm,

Má lõm rănglong chớ hãi kinh Chân yếu lưng còng, tay chống gậy, Miệng cười móm xọm vẫ còn xinh. Vô thường biến đổi thay hình bóng

Chiếc ảnh trong gương, mình đấy mình. Nhã Phong

Virginia USA 12/12/2001

Chaân Dung Töï Hoïa

Có lúc soi gương tự vẽ mình Phông màn nhếch nhác cuộc phù sinh

Vung đường cọ gãy sầu thân phận Ngắm mảng mằu xem cả thế tình.

Thêm nữa nụ cười trông vẫn gượng Bớt vài nét sẹo thấy còn kinh

Xem tranh vân cẩu bao lần đổi Ta cứ là ta một bóng hình

Nguyễn Vô Cùng

Bài Hoạ

Ngắm ảnh trong gương rõ mặt mình Phong trần dầy dạn kiếp nhân sinh. Dung nhan tiều tụy buồn nhân thê, Diện mạo tàn phai nghĩ thấm tình

Vung cọ mấy đường trông gắng gượng Phết qua nhiều nét thấy lòng kinh. Vẽ vời chi nữa thêm phiền muộn,

Ta vẫn là ta, chẳng đổi hình ! Chu Tiểu Trà

Toronto 19/10/2012

Điêu khắc tự họa