đánh giá thực trạng và đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi...

39
Hc vin Nông nghip Vit Nam – Lun văn Thc sKhoa hc Nông nghip Page 53 Hình 3.5: Hình nh sn xut đậu thc tế

Upload: thanh-hoa

Post on 26-Jan-2017

1.409 views

Category:

Engineering


8 download

TRANSCRIPT

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 53

Hình 3.5: Hình ảnh sản xuất đậu thực tế

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 54

Hình 3.6: Quy trình sản xuất đậu

Đun sôi

Kết tủa

Ép

Bánh đậu phụ

Dịch sữa đậu

Lọc

Sữa đậu

Đậu tương (Đậu nành)

Loại bỏ tạp chất

Ngâm hạt

Đãi vỏ

Xay ướt

Nước chua

Nước, Na2CO3

3

Nước thải

Chất phá bọt, Na2CO3

Nước thải

Nước

Bã thải: Vỏ đậu, vụn bột đỗ, …

Bã đậu

Nước thải

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 55

3.2.3 Tình hình sản xuất bún, đậu và hiệu quả kinh tế của các nhóm hộ làm

nghề sản xuất bún đậu

Các làng nghề đang từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn trong huyện,

tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân, giải quyết các vấn đề xã

hội phức tạp ở khu vực nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực

nông thôn theo hướng CNH – HĐH, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa

phương, góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Theo điều tra thực tế tại làng nghề, làng Viên Tiêu có 121 hộ tham gia sản

xuất bún, đậu, hơn 50 hộ gia đình khác sản xuất nông nghiệp, sản xuất phục vụ

làng nghề như cơ khí sản xuất công cụ làm bún, xay xát gạo, cung cấp than củi,

... và nghề khác. Trong số các hộ tham gia sản xuất nghề bún, đậu có khoảng

57% hộ sản xuất bún và 43% hộ sản xuất đậu. Mỗi hộ có sản xuất với năng suất

khác nhau, căn cứ vào năng suất sản xuất của các hộ ta có thể chia các hộ theo

các nhóm như sau:

Bảng 3.3: Phân loại nhóm hộ sản xuất bún, đậu tại làng nghề

Sản xuất bún Sản xuất đậu

Số hộ

sản xuất

Năng suất

(tạ bún/ngày)

Số hộ

sản xuất

Năng suất

(kg đậu/ngày)

Nhóm 1 (Nhiều) 9 >3 7 >80

Nhóm 2 (Trung bình) 39 2-3 26 60-80

Nhóm 3(Ít) 21 <2 19 <60

Tổng 69 52

( Nguồn: Tổng hợp điều tra)

Hiện nay, ở Viên Tiêu, quy mô sản xuất của các hộ gia đình còn ở mức vừa

và nhỏ, chỉ có một số hộ tìm được thị trường tiêu thụ lớn, ổn định, có đủ điều

kiện phát triển quy mô sản xuất lớn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 56

Hình 3.7: Quy mô sản xuất bún, đậu

Cụ thể nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: đối với sản xuất bún, số hộ có quy mô

sản xuất lớn là 9 hộ (chiếm 13%), số hộ có quy mô sản xuất vừa là 39 hộ (chiếm

57%), còn lại là hộ sản xuất với quy mô nhỏ ( chiếm 30%); Đối với sản xuất

đậu, số hộ có quy mô sản xuất lớn là 7 hộ (chiếm 13%), số hộ có quy mô sản

xuất vừa là 26 hộ ( chiếm 50%), còn lại 37% là số hộ có quy mô sản xuất nhỏ.

Nhìn chung, nghề làm bún, đậu là nghề chính đem lại nguồn thu nhập chủ

yếu cho người dân Viên Tiêu. Hoạt động sản xuất của nghề mang tính thời vụ do

nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng và nguồn nguyên liệu. Ngoài nghề làm

bún, do quá trình đô thị hóa nhanh nên các ngành nghề khác cũng ngày càng

được mở rộng.

3.2.3.1 Tình hình sản xuất bún và hiệu quả kinh tế của các nhóm hộ làm nghề

sản xuất bún.

Trước kia Viên Tiêu làm bún bằng thủ công, để làm ra sợi bún người làm

bún phải tuân theo một quy trình khá nghiêm ngặt từ khâu chọn gạo, vo gạo,

ngâm gạo đến xay, giã, nhào bột cho dẻo, tất cả những việc đó người thợ đều

phải làm bằng tay, với cách làm thủ công mỗi gia đình cũng chỉ làm được từ 50-

70kg bún/ngày và cứ khoảng 3 giờ sáng người làng Viên Tiêu lại chở bún bằng

xe đạp tỏa đi các ngả đường để đến các chợ quê, chợ huyện, các thôn làng trong

tỉnh để tiêu thụ bún. Mặc dù vất vả nhưng thu nhập từ nghề làm bún tương đối

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 57

ổn định, vì thế mức sống của đại đa số người dân trong thôn đảm bảo. Đến nay,

việc làm bún đã có nhiều thay đổi do áp dụng máy móc vào sản xuất và nhu cầu

tiêu thụ của người dân cũng khác trước, bún bây giờ được sản xuất để bán cả

sáng và chiều.

Hiện nay, mỗi ngày một hộ gia đình có thể sản xuất trung bình từ 200-

300kg bún, tùy thị trường tiêu thụ tại các thời điểm có thể sản xuất với số lượng

lớn hơn. Giá bán dao động từ 8.000 – 9.000đ/kg. Do có bí quyết cùng với sự

phát triển của công nghệ những sợi bún của làng Viên Tiêu có nét đặc trưng

riêng, bún làm ra rất trong, dẻo và không có hóa chất nên sản phẩm làm ra luôn

luôn tiêu thụ thuận lợi. Trong quy trình chế biến bún, các hộ dân còn tận dụng

các sản phẩm phụ từ quá trình chế biến để chăn nuôi lợn, gà nên doanh thu từ

nghề làm bún cùng với chăn nuôi đã mang lại nguồn thu hàng trăm triệu

đồng/năm cho nhiều hộ gia đình. Toàn thôn hiện nay hầu hết các hộ sản xuất

đều có máy làm bún, tạo việc làm cho hơn 100 lao động có thu nhập từ

100.000-200.000đ/người/ngày. Mỗi ngày trung bình một hộ sản xuất bún có thu

nhập 400.000 – 500.000đ được thể hiện ở bảng 3.4 sau:

Bảng 3.4: Hiệu quả kinh tế của sản xuất bún

Chi phí Thu

Thu

nhập Gạo

Kg/ngày

Giá

gạo (đ)

Điện

năng tiêu

thụ (kw)

Giá

điện

(đ)

Sản lượng

TB

Kg/ngày/ hộ

Giá

bán

bún (đ)

Nhóm1 181 12.500 80 1.400 400 8.000

825.500 Tổng 181x 12.500 + 80 x 1.400 = 2.374.500 400 x 8.000=3.200.000

Nhóm 2 114 12.500 50 1.388 250 8.000 505.600

Tổng 114x 12.500 + 50 x 1.388 = 1.494.400 250 x 8.000=2.000.000

Nhóm 3 68 12.500 30 1.388 150 8.000 308.360

Tổng 68 x 12.500 + 30 x 1.388 = 891.640 150 x 8.000=1.200.000

Bình

quân 1.425.700 1.913.000 487.300

( Nguồn: Tổng hợp phiểu điều tra và điều tra phỏng vấn)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 58

Chú thích: Nhóm 1 (nhiều): năng suất trên 3 tạ bún/ngày

Nhóm 2 (vừa): năng suất từ 2-3 tạ bún/ngày

Nhóm 3 (ít): năng suất dưới 2 tạ bún/ngày

Đa số các hộ sản xuất bún đều kết hợp chăn nuôi và tận dụng được lượng

nhiên liệu từ việc xử lý chất thải chăn nuôi bằng phương pháp Biogas. Do đó,

tiết kiệm được chi phí trong sản xuất, thu nhập của mỗi hộ từ 300.000 đến

800.000đ/ngày. Một số hộ chăn nuôi ít, không xử lý chất thải chăn nuôi bằng

phương pháp Biogas có sử dụng than trong công đoạn luộc bột. Lượng than tiêu

thụ trung bình 15-16 kg than, làm tăng mức chi phí cho sản xuất lên bình quân là

1.495.000đ, thu nhập bình quân mỗi hộ này khoảng 400.000đ/ngày

Bên cạnh những thuận lợi, quá trình phát triển, duy trì làng nghề để tất cả

mọi người dân trong làng có cuộc sống ổn định, làm giàu từ làng nghề truyền

thống và đảm bảo môi trường cũng gặp những khó khăn, thách thức nhất định.

Sản xuất bún ở Viên Tiêu dần tạo nên một thương hiệu, song thị trường tiêu thụ

hiện nay chưa ổn định, các cơ sở sản xuất trong làng nghề hầu hết có quy mô

nhỏ, việc đưa máy móc vào sản xuất còn ở mức thấp, làng nghề chưa được tiếp

cận với các nguồn vốn hỗ trợ đầu tư phát triển. Đặc biệt việc giải quyết vấn đề ô

nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất làng nghề đang là một thách thức lớn

trong phát triển. Bên cạnh đó hiện nay, trên thị trường do ảnh hưởng xấu từ một

số cơ sở sản xuất bún trên cả nước sử dụng hóa chất độc hại trong sản xuất đã

ảnh hưởng tới tâm lý người tiêu dùng, làm thị trường tiêu thụ có phần chậm lại.

Theo điều tra ta thấy, đối với quy mô sản xuất khác nhau, lượng nguyên

liệu sử dụng đầu vào, lượng chất thải thải ra môi trường khác nhau. Theo điều

tra, nguồn nước sử dụng cho sản xuất chủ yếu lấy từ nước mưa và nước giếng

khoan, hiện tại người dân ở đây chưa được sử dụng nước sạch. Lượng nước sử

dụng cho đầu vào tương đối lớn, việc khai thác nước ngầm cũng tác động không

nhỏ tới mực nước ngầm trong khu vực. Cụ thể:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 59

Bảng 3.5: Nguyên liệu đầu vào, khối lượng nước sử dụng và

khối lượng nước thải ra

Nhóm hộ Số hộ

điều tra

Kg gạo

/ngày/hộ

kg bún

/ngày/hộ

m3 nước

/ngày/hộ

m3 nước

thải/ngày/hộ

Nhóm 1(nhiều) 5 181 400 2,56 2,32

Nhóm 2 (Trung bình) 32 114 250 1,6 1,45

Nhóm 3 (Ít) 18 68 150 0,96 0,87

Bình quân/hộ 55 105 231 1,48 1,34

( Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)

Chú thích: Nhóm 1 (nhiều): năng suất trên 3 tạ bún/ngày

Nhóm 2 (vừa): năng suất từ 2-3 tạ bún/ngày

Nhóm 3 (ít): năng suất dưới 2 tạ bún/ngày

Chất thải trong quá trình sản xuất bún chủ yếu ở dạng nước thải với số

lượng tương đối lớn, hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều tạo ra

nước thải. Bình quân mỗi ngày, mỗi hộ sản xuất bún cần sử dụng 1,48 m3 nước

và thải ra môi trường 1,34 m3 nước thải. Không chỉ nhóm hộ 1, sản xuất với quy

mô lớn, tổng lượng thải ra môi trường lớn mà đối với nhóm hộ 3, sản xuất ở

mức ít nhưng số lượng các hộ khá lớn, chiếm 30% các hộ sản xuất bún, tổng

lượng thải ra môi trường của nhóm hộ cũng khá lớn (15,66 m3 nước thải), gây áp

lực đáng kể tới môi trường. Đặc biệt, nhóm hộ 2, sản xuất ở mức trung bình,

tổng lượng nước thải ra môi trường là 46,4 m3, lượng thải ra lớn, chiếm gần 60%

tổng lượng thải của các hộ sản xuất bún. Theo điều tra thực tế, dây truyền sản

xuất bún đều sử dụng điện để vận hành, hầu như không phát sinh chất thải rắn.

Lượng chất thải rắn phát sinh chỉ là xỉ than được sử dụng trong giai đoạn luộc

bột. Tuy nhiên, hầu như các hộ có chăn nuôi, chất thải chăn nuôi được xử lý

bằng biện pháp Biogas,

3.2.3.2 Tình hình sản xuất đậu và hiệu quả kinh tế của các nhóm hộ làm nghề

sản xuất đậu.

Đậu phụ là món ăn quen thuộc, hầu như mỗi ngày đều có mặt trong bữa

cơm của mọi gia đình, bất kể sang giàu hay nghèo hèn. Nghề làm đậu luôn có thị

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 60

trường tiêu thụ ổn định quanh năm, lợi nhuận thu được không cao nhưng ổn

định. Vì lợi nhuận mà nhiều cơ sở đã quá lạm dụng thạch cao để làm đậu phụ

săn chắc và tăng năng suất. Những chiếc đậu càng vàng, trông chắc mịn nhưng

khô cứng thì càng nhiều nguy cơ dùng thạch cao - một chất gây ngộ độc cho cơ

thể. Chính những điều này đã gây ảnh hưởng đến tâm lý người tiêu dùng, ảnh

hưởng đến việc sản xuất đậu. Tuy nhiên, đậu phụ Viên Tiêu có đặc điểm khác

biệt với đậu có sử dụng thạch cao, đậu có màu trắng ngà, hạt đậu sau khi ngâm

được tách vỏ nên đậu ở đây mịn, chắc, dẻo, thơm, ngậy.

Nghề làm đầu phụ đã đem lại thu nhập ổn định cho nhiều gia đình trong

thôn. Trung bình, sau khi trừ đi các khoản chi phí nguyên vật liệu mỗi người làm

nghề có thu nhập khoảng 200.000 – 300.000 đồng/ngày.

Bảng 3.6: Hiệu quả kinh tế của sản xuất đậu

Chi phí Thu

Thu

nhập

Đậu

tương

Kg/ngày

Giá

đậu

tương

(đ)

Than

kg/

ngày

Giá

than

(đ)

Điện

kw/

ngày

Giá

điện

(đ)

Sản lượng

TB

Kg/ngày/

hộ

Giá

bán

đậu

(đ)

Nhóm 1 42,9 18.000 45 4.500 10 1.550 90 18.000 629.800

Tổng 42,9x18.000 + 45x4.500 + 15.500 = 990.200 90 x 18.000 =

1.620.000

Nhóm 2 38 18.000 40 4.500 7 1.550 80 18.000 565.150

Tổng 38x18.000 + 40x4.500 + 10.850 = 874.850 80 x 18.000 =

1.440.000

Nhóm 3 28,6 18.000 28 4.500 5 1.550 60 18.000 431.450

Tổng 28,6x18.000 + 28x4.500 + 7.750 = 648.550 60 x 18.000 =

1.080.000

Bình

quân 837.000 1.380.000 542.000

( Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và điều tra phỏng vấn)

Chú thích: Nhóm 1 (nhiều): năng suất trên 80kg đậu/ngày

Nhóm 2 (vừa): năng suất từ 60-80kg đậu/ngày Nhóm 3 (ít): năng suất dưới 60kg đậu/ngày

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 61

Hầu hết các hộ sản xuất đậu đều kết hợp chăn nuôi và tận dụng được lượng

nhiên liệu từ việc xử lý chất thải chăn nuôi bằng phương pháp Biogas. Do đó,

tiết kiệm được chi phí trong sản xuất. Ngoài ra, có một số hộ sử dụng than trong

sản xuất đã thải ra môi trường một lượng lớn xỉ than và làm tăng chi phí trong

sản xuất. Đối với các hộ này, chi phí cho nguyên nhiên liệu từ 648.550đ đến

990.200đ, thu nhập thuần từ sản xuất đậu bình quân các hộ khoảng 542.000đ.

Theo điều tra, lượng nước sử dụng cho sản xuất đậu không lớn như đối với

các hộ sản xuất bún, nguồn nước sử dụng cho sản xuất chủ yếu lấy từ nước mưa

và nước giếng khoan.

Bảng 3.7: Nguyên liệu đầu vào và khối lượng nước sử dụng làm Đậu

Nhóm hộ Số hộ

điều tra

Đậu tương

kg/ngày/hộ Kg đậu/ngày/hộ m3 nước/ngày/hộ

Nhóm 1(nhiều) 5 42,9 90 0,43

Nhóm 2 (Trung bình) 25 38 80 0,38

Nhóm 3 (Ít) 15 28,6 60 0,3

Bình quân/hộ 45 35,4 64 0,36

( Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)

Nhìn vào bảng trên ta thấy: với quy mô sản xuất khác nhau thì nhu cầu sử

dụng nước cho sản xuất cũng khác nhau. Lượng nước sử dụng cho sản xuất bình

quân mỗi hộ là 0,36m3. Khác với sản xuất bún, công nghệ sản xuất đậu còn đơn

giản, thủ công truyền thống, lượng chất thải rắn lớn, lượng nước thải ra ít, chỉ

một phần được tận dụng cho chăn nuôi hoặc đổ xuống hầm Biogas.

Trong sản xuất đậu, hầu hết các hộ gia đình đều tận dụng phế thải để chăn

nuôi lợn và có xây hầm Biogas để xử lý chất thải trong chăn nuôi, tận dụng được

nguồn chất đốt trong sản xuất, sinh hoạt. Một số hộ còn sử dụng than trong sản

xuất, lượng xỉ than thải ra hàng ngày tương đối lớn. Trung bình từ 1kg đậu

tương khô, để sản xuất được 2 – 2,3 kg đậu phụ cần tiêu tốn 1- 1,2 kg than,

tương ứng với việc thải bỏ ra 0,3 – 0,4 kg xỉ than.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 62

Bảng 3.8: Khối lượng phế thải, nước thải trong sản xuất Đậu

Nhóm hộ Số hộ

điều tra

Bã tinh bột

kg/ngày/hộ

Xỉ than

kg/ngày/hộ

Các phế thải

khác kg/ngày/hộ

(vỏ đậu)

m3 nước

thải/ngày/hộ

Nhóm 1(nhiều) 5 41,8 15 18 0,4

Nhóm 2

(Trung bình) 25 33,5 13,3 14,5 0,34

Nhóm 3 (Ít) 15 25 10 10,9 0,25

Bình quân/hộ 45 31,6 12,4 13,7 0,32

( Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và điều tra phỏng vấn)

Chú thích: Nhóm 1 (nhiều): năng suất trên 80kg đậu/ngày

Nhóm 2 (vừa): năng suất từ 60-80kg đậu/ngày

Nhóm 3 (ít): năng suất dưới 60kg đậu/ngày

Nhìn vào bảng trên ta thấy: lượng phế thải giàu tinh bột có thể tận dụng

trong chăn nuôi khá lớn, bình quân mỗi hộ là 45,3kg/ngày (bã đậu và vỏ đậu).

Nước thải một phần được tận dụng trong chăn nuôi, một phần được để lại tạo

nước đậu chua và một phần thải trực tiếp vào môi trường. Đặc biệt, đối với các

hộ còn sử dụng than trong sản xuất, chủ yếu là các hộ sản xuất thuộc nhóm 3

ngoài chất thải giàu tinh bột còn thải ra một lượng tương đối lớn xỉ than, khoảng

10 kg/ngày/ hộ, lượng xỉ than này thường được đổ ra vườn để trồng cây.

Không những làm giàu từ việc bán bún, đậu mà các sản phẩm thừa từ khâu

sản xuất còn được tận dụng làm thức ăn chăn nuôi rất hiệu quả. Hàng năm,

ngoài khoản thu nhập từ bún, đậu, người dân còn thu về hơn 1 tỉ đồng từ chăn

nuôi. Chất thải trong chăn nuôi được sử dụng làm nguyên liệu cho hầm khí

Biogas, tạo ra nguồn nhiên liệu phục vụ việc sản xuất bún, đậu. Việc áp dụng

quá trình khép kín trong sản xuất vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vừa tận

dụng hết các nguyên liệu trong sản xuất. Nhờ vậy, thu nhập bình quân của người

dân trong thôn đạt khoảng 15 - 17 triệu đồng/năm.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 63

3.3 Hiện trạng môi trường làng nghề sản xuất bún, đậu Viên Tiêu, xã Tân

Hưng, huyện Tiên Lữ.

3.3.1 Phế thải rắn làng nghề sản xuất bún, đậu

Nguồn phát thải chất thải rắn từ các hoạt động sản xuất làng nghề, sinh hoạt

và chăn nuôi ngày càng gia tăng, trong khi đó công tác quản lý, xử lý chất thải

rắn chưa đạt tiêu chuẩn. Chất thải rắn ở nông thôn ngày càng nhiều, phần lớn

chưa được tổ chức thu gom, chủ yếu người dân tự xử lý (đốt, ủ làm phân bón, đổ

trong vườn, ngoài ngõ, nơi đất trống và các ao làng, …)

3.3.1.1 Tình hình phát sinh, khối lượng thành phần chất thải rắn

Khi tìm hiểu về nguồn gốc phát sinh chất thải rắn tại các làng nghề, ngoài

chất thải rắn phát sinh trực tiếp trong quá trình sản xuất, phải tính đến việc phát

sinh chất thải rắn trong sinh hoạt và chăn nuôi vì các hoạt động sản xuất của

làng nghề gắn liền với hoạt động sinh hoạt, chăn nuôi của người dân. Với đặc

điểm là làng nghề chế biến thực phẩm, chất thải trong quá trình sản xuất hầu như

được tận dụng chăn nuôi, chất thải rắn trong quá trình chăn nuôi như phân động

vật được xử lý để tạo khí đốt hoặc ủ tạo phân bón cho cây.

Theo kết quả điều tra, trong

quá trình sản xuất bún, phế thải rắn

hầu như không có, chủ yếu là nước

thải trong quá trình sản xuất. Trong

quá trình sản xuất đậu, phế thải rắn

chủ yếu là vỏ đậu tương phát sinh

sau khi ngâm, đãi vỏ và bã đậu

phát sinh sau quá trình lọc sữa đậu.

Những phế thải này đều được tận

dụng làm thức ăn chăn nuôi. Cứ 1

kg đậu tương khô có thể sản xuất

được từ 2 -2,2 kg đậu thành phẩm.

Hình 3.8: Bã đậu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 64

Với năng suất trung bình 80kg/ngày đậu phụ được sản xuất cần sử dụng

khoảng 36- 40 kg/ngày đậu tương khô và thải ra 14 - 15 kg vỏ đậu và 32 – 35 kg

bã đậu sau khi nghiền ướt.

Làm bún, đậu là nghề truyền thống của Viên Tiêu. Tuy nhiên, nếu chỉ bám

vào nghề thì không thể đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người dân.

Nuôi lợn là một cách vừa để cải thiện thu nhập vừa tận dụng nguồn thải trong quá

trình sản xuất có chứa nhiều tinh bột, vì vậy hầu như nhà nào đã làm bún, đậu thì

đều nuôi lợn. Trung bình một hộ sản xuất nuôi khoảng 6 - 8 con lợn (có gia đình

nuôi 15 - 20 con). Tổng số đầu lợn thường xuyên có trong làng là khoảng 700 -

1000 con. Hàng ngày, đàn lợn khổng lồ ở làng Viên Tiêu thải ra 1 – 1,5 tấn phân.

Lượng phân này được xử lý bằng bể Biogas – do Tổ chức Tầm nhìn thế giới thực

hiện chương trình phát triển vùng Tiên Lữ đầu tư, hỗ trợ người dân.

Phế thải làng nghề thải bỏ chủ yếu là rác thải sinh hoạt. Lượng rác trong

làng nghề chỉ thu được 75% số hộ gia đình, số hộ còn lại không nộp lệ phí thì

mang rác đổ ra các vùng trũng như ao, hồ, mương. Kết quả điều tra tổng khối

lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh của làng nghề là 434,01 kg/ngày, tương

đương 158,41 tấn/năm. Hiện nay, UBND xã đã tổ chức được đội thu gom rác

tuy nhiên việc hoạt động chưa đem lại hiệu quả cao.

Bảng 3.9: Khối lượng RTSH phát sinh tại xã Tân Hưng

T

T Thôn

Dân số

(người)

Lượng rác bình quân

(kg/ngày/người)

Khối lượng phát sinh

(kg/ngày)

1 Thôn Quyết Thắng 811 0,45 364,95

2 Thôn Viên Tiêu 851 0,51 434,01

3 Thôn Minh Khai 775 0,47 364,25

4 Thôn Tiền Phong 736 0,50 368,00

5 Thôn Quang Trung 803 0,47 377,41

6 Thôn Lê Lợi 754 0,45 339,3

7 Thôn Trần Phú 842 0,52 437,84

8 Toàn xã 5.582 0,48 2.687,33

( Nguồn:Báo cáo của UBND xã Tân Hưng)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 65

Nhìn vào bảng trên ta thấy: lượng rác phát sinh tại các thôn gần giống nhau,

có thôn Viên Tiêu và thôn Trần Phú cao hơn so với các thôn còn lại do thôn Viên

Tiêu và thôn Trần Phú có hoạt động sản xuất nghề bún, đậu và chế biến nông sản,

dân số cũng đông hơn so với các thôn khác. Lượng rác thải bình quân từ 0,45 –

0,52 kg/ngày/người. Với mức phát thải bình quân này thì toàn xã phát thải khoảng

2,7 tấn/ngày. Đây là một lượng rác thải khá lớn cần được thu gom và xử lý.

Nhìn chung, RTSH ở xã Tân Hưng nói chung, đặc biệt ở 2 thôn có hoạt

động làng nghề nói riêng đang là vấn đề còn nhiều bất cập, gây bức xúc trong

nhân dân, công tác quản lý cũng chưa được chặt chẽ. Hiện nay xã đang tích cực

đẩy mạnh công tác vệ sinh môi trường là một trong 19 tiêu chí của đề án xây

dựng nông thôn mới.

Thành phần chất thải rắn tại làng Viên Tiêu có thành phần hỗn tạp, tỷ lệ

hữu cơ khá cao trên 70%. Rác hữu cơ được người dân tận dụng một phần cho

chăn nuôi, phần còn lại thải bỏ vào môi trường. Rác vô cơ một phần được tái sử

dụng, hầu hết đổ ra vườn nhà và xử lý bằng phương pháp chôn lấp hoặc đốt.

Bảng 3.10: Thành phần chất thải sinh hoạt

TT Thành phần Khối lượng (kg/ngày/hộ) % Khối lượng

I Rác hữu cơ 1,73 70,90 1 Rác thực phẩm (rau, củ, quả, …) 0,45 18,44 2 Cỏ, cây, lá, … 1,03 42,21

3 Gỗ 0,07 2,87 4 Giấy, bìa cát tông 0,18 7,38

II Rác vô cơ 0,68 27,87 1 Kim loại 0,15 6,15 2 Túi nilon 0,32 13,11

3 Các thành phần khác: thủy tinh, gốm, sứ, gạch vỡ,…

0,21 8,61

III Nhựa 0,03 1,23 Tổng 2,44 100,00

( Nguồn: Báo cáo của UBND xã Tân Hưng)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 66

Nhìn vào bảng trên ta thấy thành phần RTSH rất phức tạp nhưng chủ yếu

vẫn là chất hữu cơ (chiếm 70,9%) có thể sử dụng làm phân compost. Tuy biết được

tác hại của túi nilon đối với môi trường nhưng người dân vẫn sử dụng túi nilon

nhiều, đây là một vấn đề đáng quan tâm.

3.3.1.2 Công tác quản lý, thu gom và xử lý chất thải rắn tại làng nghề

a/ Về cơ sở vật chất

UBND xã Tân Hưng đã chỉ đạo thành lập các tổ VSMT hoạt động thu gom

RTSH tại các thôn, xóm trong xã, và ký hợp đồng với công ty thị chính Hưng

Yên vận chuyển, xử lý rác thải. Xã đầu tư xe chở rác, trang thiết bị và các vật

dụng cần thiết cho tổ VSMT. Đa số người dân đã ý thức được việc bảo vệ môi

trường nên đã duy trì hoạt động của tổ VSMT với kinh phí đóng góp có sự bàn

bạc và thống nhất trong nhân dân.

Về trang thiết bị thu gom: Theo điều tra cho thấy trang thiết bị phục vụ

công tác thu gom tại xã còn thiếu, được trang bị ủng, gang tay, chổi quét, xẻng;

khẩu trang, quần áo bảo hộ công nhân phải tự trang bị. Xe chở rác do UBND xã

trang bị, có 3 xe (01 xe 7 tấn, 01 xe 5 tấn và 01 xe 02 tấn) kết hợp với xe chở rác

của thôn tự trang bị thu gom rác tại từng thôn.

Về mức lương của công nhân thu gom: các công nhân tham gia vào việc

thu gom do sự vận động của đoàn thể, phụ nữ, các đơn vị, họ không có lương,

cũng không được hưởng chế độ theo quy định của Nhà nước mà chỉ được chi trả

phần lệ phí môi trường do người dân đóng góp. Mức phí môi trường là

3.000đ/người/tháng. Mức phí môi trường ở đây là sự thỏa thuận giữa người dân

với tổ VSMT nên nó phần nào phản ánh được mức sống và khối lượng rác thải

phát sinh của từng hộ dân.

b/ Về khối lượng, tỷ lệ thu gom, tần suất thu gom

Theo điều tra thực tế thì 75% các hộ gia đình trong làng được thu gom rác

bởi công nhân thu gom; trong đó, vẫn có một số hộ gia đình đổ rác không đúng

nơi quy định, đốt rác cùng lá cây quét trong vườn, đổ xuống ao hồ, xác động vật

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 67

chết vứt ra sông, lá rau già, hỏng không sử dụng được còn vứt bên lề đường, bờ

ruộng gây ô nhiễm và khó khăn cho người thu gom dẫn đến tỷ lệ thu gom còn

thấp so với lượng phát thải của cả làng.

Kết quả điều tra tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh của làng

nghề là 434,01 kg/ngày, tương đương 158,41 tấn/năm. Tuy nhiên chỉ thu gom

rác thải sinh hoạt được từ 75% số hộ dân trong làng. Do đó khối lượng thu gom

được là 283,19 kg/ngày tương đương với tỷ lệ thu gom bình quân là 87%.

Tần suất thu gom: thu gom 2 lần/tuần và quét sạch đường trong xã.

Theo điều tra, một phần không nhỏ số người được hỏi phản ánh thái độ của

công nhân thu gom còn chưa tốt; chỉ thu gom rác của các hộ gia đình để ở túi

nilon, xô hoặc bao tải, không quét dọn đường làng, ngõ xóm và rác rơi vãi, không

thu gom rác thường xuyên theo đúng thời gian quy định gây mùi hôi thối,…

3.3.2 Nước thải làng nghề sản xuất bún, đậu

Một đặc điểm chung của các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm là các

hộ làm nghề thường chăn nuôi lợn để tận dụng chất thải của quá trình sản xuất.

Nước thải của các khâu vo gạo, bắt bún, làm chín bún, nước ép đậu đều có thể

sử dụng để làm thức ăn chăn nuôi lợn. Do đặc điểm khu vực sản xuất của làng

nghề nằm đan xen trong khu vực sinh hoạt, chăn nuôi của người dân nên nước

thải trong quá trình sản xuất cũng như sinh hoạt, chăn nuôi thường được thải

chung vào cống thải của gia đình hoặc thải trực tiếp xuống ao, mương.

Việc nuôi lợn đã mang lại nguồn thu đáng kể cho người dân, làm cuộc sống

khấm khá hơn. Mặc dù vậy, có một thực tế là các chất thải từ quá trình chăn

nuôi lợn như phân, nước tiểu, nước rửa chuồng trại, thức ăn thừa được qua xử lý

bằng phương pháp Biogas hoặc một số nhà ủ để bón cho cây nhãn, cung cấp

nguồn dinh dưỡng tốt cho cây. Cống thoát nước thải của các gia đình hầu như

được xây dựng kiên cố, ngầm dưới đất. Hệ thống thoát nước của cả làng được

xây dựng kiên cố bằng bê tông theo chương trình phát triển vùng Tiên Lữ - tổ

chức Tầm nhìn thế giới đầu tư, hỗ trợ xây dựng. Nước thải từ các bể Biogas,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 68

nước thải sinh hoạt, nước thải rửa thiết bị, máy móc được thải chung vào cống

thải của gia đình và đổ vào cống thải chung của cả làng. Một số hộ gia đình có

ao riêng thường đổ thẳng xuống ao, không qua cống thải chung của làng. Theo

điểu tra thực tế cho thấy nước thải của cả làng được đổ vào hai cái ao lớn tiếp

nhận của cả làng, ao tiếp nhận này có rất nhiều bèo, cây khoai nước, … có hiện

tượng phú dưỡng tại ao này, xung quanh ao là nhà dân đã xây dựng bờ kiên cố

bằng gạch.

- Nước thải trong sản xuất bún

Nước sử dụng trong sản xuất bún là rất lớn. Trong mỗi quá trình sản xuất

bún đều cần sử dụng nước, lượng nước đầu vào cao hơn lượng nước thải ra.

Nguyên liệu sử dụng để làm bún hoàn toàn từ gạo, do vậy, tính chất nước thải

bún là giàu các chất hữu cơ, dễ phân hủy sinh học. Trong sản xuất bún, ước tính

cứ 1 kg gạo sản xuất được từ 2 - 2,3 kg bún và tiêu thụ khoảng 14 lít nước. Với

năng suất trung bình 2,5 tạ bún/ngày, mỗi hộ sản xuất trong làng sử dụng

khoảng 1,14 tạ gạo/ngày, tương ứng với việc sử dụng 1,6 m3 nước/ngày và thải

ra 1,45 m3 nước thải/ngày. Trong số đó, chỉ một phần nhỏ dùng cho chăn nuôi,

còn lại hầu hết nước thải đổ vào hệ thống cống trong làng. Cụ thể lượng nước

thải ra ở các công đoạn trong quá trình sản xuất bún như sau:

Bảng 3.11 : Ước tính lượng nước thải từ các công đoạn sản xuất bún

STT Công đoạn sản xuất Lượng nước sử dụng

đầu vào (lít/2,5 tạ bún)

Lượng nước thải ra

(lit/2,5 tạ bún)

1 Vo gạo 320 320

2 Ngâm gạo 240 200

3 Chắt nước (bột ngâm) 150 110

4 Nén khô 230 180

5 Luộc bột 200 180

6 Đãi bún 460 460

7 Tổng cộng 1.600 1.450

(Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 69

Nhìn vào bảng trên nhận thấy giai đoạn vo gạo, đãi bún cần sử dụng nhiều

nước nhất, lượng nước đầu vào và lượng thải ra gần như không có sự chênh lệch

nhau, đều được thải ra môi trường, chiếm 52% lượng nước thải ra trong quá

trình sản xuất.

- Nước thải trong sản xuất đậu

Trong sản xuất đậu, ước tính cứ 1 kg đậu tương khô có thể sản xuất được từ

2 – 2,2 kg đậu thành phẩm và tiêu thụ khoảng 10 lít nước. Với năng suất trung

bình 80kg/ngày đậu phụ được sản xuất cần sử dụng khoảng 32 - 36 kg/ngày đậu

tương khô, tiêu thụ khoảng 363 - 400 lít nước và thải ra 320 - 360 lít nước thải.

Bảng 3.12 Ước tính lượng nước thải từ các công đoạn sản xuất đậu

STT Công đoạn sản xuất Lượng nước sử dụng

đầu vào (lít/80kg đậu)

Lượng nước thải ra

(lít/80kg đậu)

1 Ngâm đỗ 170 145

2 Đãi đỗ 170 170

3 Xay ướt 35 -

4 Ép đậu - 25

5 Tổng cộng 375 340

(Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra)

Nhìn vào bảng trên nhận thấy giai đoạn ngâm đỗ và đãi đỗ cần sử dụng

nhiều nước nhất, chiếm 44,73% lượng nước cần sử dụng. Giai đoạn xay ướt chỉ

sử dụng nước đầu vào để tạo sữa đậu và không có nước thải ra. Giai đoạn ép đậu

không cần sử dụng nước giai đoạn đầu vào, chỉ sử dụng khoảng 5 lít nước đậu

chua để tạo kết tủa đậu hoa, nước ép đậu một phần được sử dụng quay vòng tạo

nước đậu chua, một phần thải bỏ.

Ngoài nước thải sản xuất bún, đậu kèm theo đó là nước thải sinh hoạt và

nước thải từ hoạt động chăn nuôi. Một hộ gia đình trung bình có 5 người thì một

ngày thải ra khoảng 1 - 1,2 m3 nước thải sinh hoạt. Đối với các hộ sản xuất kèm

theo chăn nuôi thì lượng nước thải tăng thêm 0,8 m3 nước từ hoạt động chăn

nuôi lợn (rửa chuồng, tắm cho lợn, ...). Như vậy, ước tính lượng nước thải đối

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 70

với các hộ sản xuất bún là 3,25 – 3,5 m3/ngày/hộ gia đình, đối với các hộ sản

xuất đậu là 2,14 – 2,35 m3/ngày/hộ gia đình.

- Thực trạng công tác xử lý nước thải

Với nhu cầu nước và lượng nước thải lớn như làng nghề sản xuất bún, đậu

Viên Tiêu, thêm vào đó là đặc điểm của làng nghề hiện nay là sản xuất còn mang

tính tự phát, nhỏ lẻ, vốn ít… nên việc đầu tư các công nghệ cho xử lý môi trường

hầu như chưa có. Do đó 100% nước thải được xả trực tiếp ra môi trường tự nhiên

mà không qua xử lý.

Viên Tiêu là làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, với các hoạt động có

lượng nước thải lớn nhất là sản xuất bún, đậu, chăn nuôi. Vào thời điểm sản xuất

trung bình mỗi ngày đêm toàn xã thải ra khoảng hơn 360 m3 nước, được tập

trung đổ về qua mương thoát nước chung rồi chảy ra sông và ao làng.

Trước kia nước thải của làng nghề được xả lộ thiên ra cống thoát nước.

Các cống thoát nước từ các gia đình trong ngõ nhỏ đổ ra mương chung của làng

thì không có nắp đậy nên mùi rất khó chịu. Sang năm 2012, được sự đầu tư của

tổ chức Tầm nhìn thế giới, chương trình phát triển vùng Tiên Lữ hỗ trợ xây

dựng các cống thoát nước của cả làng, các cống thoát nước bằng bê tông, đều có

nắp đậy, nước thải không xả lộ thiên nữa. Tuy nhiên, vẫn còn một số hộ gia đình

ở cạnh con mương vẫn xả thẳng nước thải xuống đó gây ô nhiễm môi trường,

nước tại các con mương đen, có mùi hôi thối.

Để đánh giá được chất lượng nước thải sản xuất, sinh hoạt và chăn nuôi tại

các hộ gia đình làm nghề tại làng Viên Tiêu, đã tiến hành lấy mẫu M1: Nước

thải sản xuất đậu trước khi thải xuống rãnh thoát nước chung của gia đình, M2:

Nước thải tại cống thải chung của hộ sản xuất đậu, M3: Nước thải sản xuất bún

trước khi thải xuống rãnh thoát nước, M4: Nước thải tại cống thải chung của hộ

sản xuất bún, M5: Nước thải tại ao chung tiếp nhận của cả làng.

Sau khi lấy mẫu và phân tích mẫu tôi thu được kết quả phân tích các mẫu:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 71

Bảng 3.13: Bảng số liệu quan trắc, phân tích mẫu nước thải

làng nghề bún, đậu Viên Tiêu

T

T

Thông số

Mẫu

pH

Tổng

chất

rắn lơ

lửng

(TSS)

Nhu

cầu oxy

hóa học

(COD)

Nhu cầu

oxy hóa

sinh học

(BOD5)

Amoni

(N-NH4+)

Hàm

lượng

photphat

(P-PO43-)

Coliform

Đơn vị - mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l MPN/100ml

1 M1 6,42 22,1 190 156,8 2,735 0,942 15500

2 M2 6,43 102,1 296 157,1 2,073 0,653 5500

3 M3 6,63 83,0 178 165,1 1,839 0,582 7900

4 M4 6,62 83,0 152 144,3 5,982 3,662 5800

5 M5 6,58 56,7 136 74,7 1,596 0,369 6900

6 QCVN

08-2008

cột B1

5,5-9 50 30 15 0,5 0,3 7500

*pH

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng, các mẫu nước thải lấy từ cống của các

hộ sản xuất (từ M1 đến M4) đều có pH thấp. Giá trị pH dao động trong khoảng

từ 6,42 – 6,63; có tính chất axit nhẹ. So sánh các mẫu này với QCVN 08 - 2008

cột B1 ta thấy cả 5 mẫu đều đều nằm trong QCCP là 5,5 - 9. Nguyên nhân là do,

ngay trong quy trình sản xuất bún, đậu đã có khâu tách nước chua, làm cho giá

trị pH ở các mẫu này thấp. Hơn nữa, trong nước thải lại có chứa nhiều tinh bột

nên sau một thời gian sẽ lên men làm cho giá trị pH thấp.

* BOD5 và COD

Theo kết quả phân tích, so với QCVN 08-2008 cột B1 thì 100% mẫu nước thải

tại nguồn và mẫu nước thải tại các cống thải tập trung của gia đình và tại nơi

tiếp nhận nguồn thải cuối cùng của làng nghề đã thu thập đều có các giá trị

BOD5 và COD vượt giới hạn cho phép.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 72

Hình 3.9: Biểu đồ so sánh hàm lượng BOD5 các mẫu với

QCVN 08 – 2008 cột B1

Hình 3.10: Biểu đồ so sánh hàm lượng COD các mẫu với

QCVN 08 – 2008 cột B1

Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Với các mẫu nước thải lấy tại nguồn (M1 và M3)

so sánh với QCVN 08-2008 nhận thấy hàm lượng BOD5, COD cao hơn nhiều

lần so với tiêu chuẩn cho phép. Cụ thể: mẫu M1 – mẫu nước thải sản xuất đậu

hàm lượng COD vượt tiêu chuẩn thải 6,3 lần, mẫu M3 – mẫu nước thải sản xuất

bún vượt tiêu chuẩn thải 5,9 lần; mẫu nước thải sản xuất đậu (mẫu M1) hàm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 73

lượng BOD5 vượt tiêu chuẩn thải 10 lần, mẫu nước thải sản xuất bún (mẫu M3)

vượt tiêu chuẩn thải 11 lần. Như vậy có thể thấy rằng, nước thải sản xuất của

làng nghề làm bún, đậu Viên Tiêu chứa lượng chất hữu cơ rất lớn.

Đối với nước mặt, các mẫu M2, M4, M5 là các mẫu lấy tại mương thải chung

của các hộ gia đình và của làng, nơi tập trung và hòa trộn nhiều nước thải nhất tôi

nhận thấy rằng, M2 là mẫu lấy tại điểm hòa trộn nước thải sản xuất đậu, sinh hoạt,

chăn nuôi tại các hộ gia đình, hàm lượng BOD5 là 157,1 mg/l, COD là 296 mg/l;

M4 là mẫu lấy tại điểm hòa trộn nước thải sản xuất bún, sinh hoạt, chăn nuôi tại các

hộ gia đình, hàm lượng BOD5 là 144,3 mg/l, COD là 152 mg/l. Tuy nhiên, sau khi

chảy qua các cống thải và tại ao tiếp nhận nước thải của cả làng tại mẫu M5 hàm

lượng COD và BOD5 giảm dần, giảm 2 lần so với 2 mẫu lấy tại cống thải tập chung

của các hộ gia đình (hàm lượng BOD5 là 74,7 mg/l và hàm lượng COD là 136

mg/l). Nếu so sánh với QCVN 08 - 2008 cột B1 nhận thấy các mẫu nước mặt (từ

M2, M4, M5) đều có BOD5 cao hơn QCCP từ 5 đến 10 lần và COD từ 4,5 đến 10

lần. Nguyên nhân hàm lượng COD, BOD5 tại điểm tiếp nhận cuối cùng giảm do

điểm tiếp nhận là ao, khả năng tự làm sạch của ao tốt.

* Các chất dinh dưỡng

Nhìn vào biểu đồ (hình 3.9) ta thấy rằng, hầu như tất cả các mẫu nước thải

đều vượt quá QCCP, trong mẫu M5 là mẫu thấp nhất có hàm lượng NH4+ - N

gấp hơn 3 lần và mẫu cao nhất là M4 có hàm lượng NH4+ - N gấp 12 lần so với

QCCP. Có sự chênh lệch lớn như vậy giữa các điểm có thể giải thích là do lượng

khác nhau của nguồn thải. Tại các ao hồ, lượng nước thải đổ ra khá ít và được

pha loãng nhiều lần, trong khi đó các mẫu lấy ở mương thải chung của hộ gia đình

sản xuất là nơi tập trung không những nước thải sản xuất mà cả một lượng tương

đối lớn phân lợn và nước thải từ các bể tự hoại, bể Biogas của các hộ gia đình đã

làm cho hàm lượng NH4+ - N tại các điểm này tăng vọt. Nhìn chung, lượng NH4

+ -

N của nước mặt ở đây là rất lớn, nếu so sánh với QCVN 08 - 2008 B1 các mẫu đều

vượt QCCP nhiều lần chứng tỏ trong nước thải sản xuất bún, đậu và chất thải quá

trình chăn nuôi lợn có chứa hàm lượng nitơ dạng NH4+

- N rất cao.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 74

Hình 3.11: Biểu đồ so sánh hàm lượng NH4+ - N các mẫu với

QCVN 08 – 2008 cột B1

Ngoài ra, nồng độ PO43- - P giữa các mẫu dao động lớn. Các mẫu dao động

từ hàm lượng rất nhỏ 0,339mg/l đến 3,662 mg/l; Mẫu M5 có hàm lượng PO43-- P

rất ít trong khi mẫu M4 lại rất cao. Giải thích cho hiện tượng này là do mẫu M4

lấy ở nhà dân, tại thời điểm lấy mẫu, ngẫu nhiên lấy được lúc hộ sản xuất nhà

chị Bùi Thị Thanh đang dọn rửa chuồng lợn, do ảnh hưởng của phân lợn nên hàm

lượng PO43- - P của mẫu M4 cao hơn hẳn các mẫu còn lại, hàm lượng PO4

3- - P

cao gấp 12 lần so với QCCP. Còn mẫu M5 lấy tại ao tiếp nhận của cả làng có

hàm lượng PO43- - P cao gấp 1,2 lần so với QCCP.

Hình 3.12: Biểu đồ so sánh hàm lượng PO43- - P các mẫu với

QCVN 08 – 2008 cột B1

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 75

Như vậy, lượng chất dinh dưỡng qua phân tích tại các mẫu đã lấy ta nhận

thấy đều vượt quá QCCP nhiều lần, tại điểm tiếp nhận cuối cùng, hàm lượng

chất hữu cơ có giảm nhiều so với các mẫu lấy trực tiếp tại các nguồn thải, chứng

tỏ khả năng tự làm sạch của ao tiếp nhận chung của làng rất tốt. Tuy nhiên khả

năng làm sạch của ao là có giới hạn, với mức xả thải như hiện nay đã gây nên

hiện tượng phú dưỡng tại các ao ở đây.

* Coliform

Coliform là một chỉ tiêu thông dụng để đánh giá mức an toàn vệ sinh trong

nước vì số lượng của chúng hiện diện trong mẫu chỉ thị khả năng có sự hiện diện

của vi sinh vật có khả năng gây bệnh. Các mẫu nước thải có hàm lượng chất hữu

cơ càng lớn thì sự xuất hiện vi sinh vật có khả năng gây bệnh càng cao.

Hình 3.13: Biểu đồ so sánh chỉ thị số lượng Coliform các mẫu với

QCVN 08 – 2008 cột B1

Nhìn vào biểu đồ trên ta nhận thấy chỉ tiêu tổng Coliform chưa vượt

QCVN. Đặc biệt có mẫu M1 vượt tiêu chuẩn cho phép hơn 3 lần, mẫu M3 vượt

tiêu chuẩn cho phép 1,58 lần. Giải thích cho kết quả này ta có thể thấy đây là 2

mẫu nước thải được lấy trực tiếp trong hoạt động sản xuất bún, đậu thải trước

khi thải chung vào cống thải chung của gia đình, điều này chứng tỏ hàm lượng

chất hữu cơ trong nước thải lớn, số lượng vi sinh vật có khả năng gây bệnh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 76

nhiều. Còn các mẫu khác, chỉ tiêu tổng Coliform thấp hơn so với mẫu M1, M3

do nước thải sản xuất được hòa loãng với các thành phần nước thải khác trong

cống thải chung, hàm lượng chất hữu cơ giảm.

* TSS

Tổng chất rắn lơ lửng là tổng chất rắn trong nước có thể loại bỏ bằng bộ

lọc. Nồng độ tổng chất rắn lơ lửng cao gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống

thủy sinh, TSS cao có thể chặn ánh sáng của thực vật ngập nước, làm giảm quá

trình quang hợp, giảm khả năng tự làm sạch của nước.

Hình 3.14: Biểu đồ so sánh hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng TSS các mẫu

với QCVN 08 – 2008 cột B1

Nhìn vào biểu đồ trên ta nhận thấy hầu hết các mẫu nước thải đều cao hơn

QCVN 08 – 2008 cột B1, đặc biệt mẫu M2 có nồng độ TSS cao nhất, gấp 3,4

lần so với QCVN. Nguyên nhân do mẫu M2 được lấy tại điểm hòa trộn nước

thải sản xuất, nước thải sinh hoạt, nước thải chăn nuôi, tại thời điểm vừa rửa

chuồng trại chăn nuôi nên lượng chất rắn lơ lửng cao. Các mẫu khác đều vượt

tiêu chuẩn cho phép từ 1,4 đến 2,7 lần. Ta nhận thấy tại điểm tiếp nhận cuối

cùng (mẫu M5), nồng độ TSS giảm dần do có sự lắng đọng khi nước thải đi qua

các cống thoát nước thải. Đặc biệt, mẫu M1 có hàm lượng TSS thấp hơn so với

QCVN 08 – 2008 cột B1, mẫu M1 được lấy tại vị trí nước thải sản xuất đậu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 77

trước khi thải vào cống thải chung của gia đình, đây là nước thải được lấy trong

giai đoạn ép đậu.

Từ các so sánh trên có thể kết luận rằng, nước mặt tại Viên Tiêu đang bị ô

nhiễm, mà nguyên nhân chủ yếu là do lượng chất hữu cơ lớn được thải trực tiếp

từ quá trình sản xuất bún, đậu và hoạt động chăn nuôi lợn tận dụng phụ phẩm

của quá trình sản xuất.

3.4 Đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề sản xuất bún,

đậu tại xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.

Sự phát triển của các làng nghề sản xuất bún đậu Viên Tiêu đã tạo việc làm

và tăng thu nhập đáng kể cho người dân, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh

tế địa phương. Tuy nhiên, cùng sự phát triển của làng nghề thì mặt trái là vấn đề

ô nhiễm môi trường đi cùng đặc thù của hoạt động sản xuất theo ngành nghề và

loại hình sản phẩm đang là thách thức. Làng nghề bún đậu Viên Tiêu trong quá

trình sản xuất nhu cầu sử dụng nước rất lớn và nước thải có thành phần hữu cơ

cao, vì vậy xử lý nước thải là vấn đề đáng quan tâm. Để giải quyết vấn đề thải

tại làng nghề, địa phương cần phải tiến hành nhanh chóng và triệt để nhiều giải

pháp nhằm khắc phục tình trạng ảnh hưởng đến môi trường.

3.4.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về BVMT làng nghề

Để bảo vệ môi trường làng nghề thì trước hết cần xây dựng và ban hành

các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa Luật Bảo vệ môi trường và

hướng dẫn về bảo vệ môi trường làng nghề, chính sách về BVMT phù hợp với

đặc thù của làng nghề: Quy chế BVMT làng nghề; quy chuẩn kỹ thuật địa

phương về môi trường; phí bảo vệ môi trường đối với chất thải; hướng dẫn kỹ

thuật áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn và xử lý chất thải.

3.4.2. Tăng cường công tác truyền thông, đào tạo và nâng cao năng lực và ý

thức BVMT làng nghề

Để thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường thì việc cần thiết là phải nắm

vững được pháp luật về BVMT. Vì vậy đây là việc hết sức quan trọng, bao gồm:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 78

- Tổ chức thường xuyên các khóa đào tạo, tập huấn về quản lý môi trường

làng nghề cho cán bộ các cấp làm công tác quản lý môi trường làng nghề; các

khóa đào tạo, tập huấn về xử lý chất thải và BVMT cho các tổ chức, hộ gia đình,

cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh trong làng nghề.

- Tăng cường phổ biến thông tin cho cộng đồng về BVMT làng nghề, về

mức độ ô nhiễm, tác động, ảnh hưởng tới sức khỏe và kế hoạch, biện pháp xử lý

ô nhiễm, giới thiệu công nghệ thân thiện môi trường, phổ biến các sáng kiến, mô

hình BVMT phù hợp với sản xuất làng nghề.

- Tăng cường giáo dục ý thức cho học sinh trong nhà trường. Phát huy và

nhân rộng các mô hình có sẵn ở địa phương như "Bảo vệ môi trường xanh, sạch,

đẹp", mô hình đăng ký "Không vứt rác, xác động vật gây ô nhiễm môi trường".

Để từng bước khắc phục những tồn tại trong hoạt động bảo vệ môi trường

làng nghề, chính quyền địa phương cần tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền,

giáo dục nâng cao nhận thức của nhân dân, các hộ sản xuất. Tập trung thanh

kiểm tra, xử phạt nghiêm và đình chỉ sản xuất đối với các cơ sở cố tình không

chấp hành quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường; kịp thời khen thưởng

những cá nhân, tổ chức làm tốt công tác bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó cần thường xuyên hướng dẫn làng nghề xây dựng quy định về

bảo vệ môi trường dựa trên tính chất sản xuất đặc thù từng thôn. Những quy định

này được đưa vào hương ước của làng và xác định làm tiêu chí để xét tặng, công

nhận gia đình văn hóa, làng văn hóa, đồng thời đánh giá việc chấp hành chính

sách pháp luật của chính quyền địa phương. Qua hoạt động tuyên truyền, các cơ

sở sản xuất, hộ gia đình tích cực đầu tư, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn,

công nghệ thân thiện với môi trường, tích cực thu gom và tái chế chất thải…

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 79

3.4.3. Áp dụng giải pháp sản xuất sạch hơn vào việc sản xuất bún, đậu của

làng nghề ở Viên Tiêu

* Đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, thân thiện với môi trường

Làng nghề làm bún, đậu ở Viên Tiêu đã có từ lâu đời nên vì thế mà các

máy móc thiết bị phần nhiều đã cũ kỹ, lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên liệu cũng

như tiêu tốn nhiều nước, các khâu sản xuất hở và cũng thải ra nhiều nước thải

gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy việc đổi mới máy móc thiết bị là một việc làm

cần thiết. Tuy nhiên như đã nói ở trên không phải hộ sản xuất nào cũng có khả

năng thay đổi máy móc thiết bị sản xuất vì số tiền đầu tư không hề nhỏ. Điều

này yêu cầu cần có sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước để từng bước thay đổi bộ mặt

công nghệ của làng nghề nơi đây.

*Xử lý nước thải phát sinh từ hoạt động sản xuất

- Xả nước thải vào các hầm biogas hay bể lắng

Vì làng nghề bún đậu Viên Tiêu sử dụng nước rất lớn và nước thải có thành

phần hữu cơ cao nên nước thải của sản xuất thải ngay ra môi trường đã làm ô

nhiễm môi trường nước ao hồ nghiêm trọng. Do vậy, để giảm thiểu lượng nước

thải gây ô nhiễm thải ra môi trường thì các hộ sản xuất cần phải thực hiện ngay

biện pháp xây dựng hầm biogas hay bể lắng, từ đó không trực tiếp xả nước thải

ra môi trường mà thải luôn vào hầm biogas, hoặc qua bể lắng, tạo ra một quy

trình khép kín. Nếu làm được như vậy thì nước thải không được thải ra ngoài,

hạn chế cơ hội phát sinh ruồi muỗi tại những nơi nước thải tồn đọng và giảm

được một lượng rất lớn nước thải gây ô nhiễm. Bên cạnh đó khuyến khích sử

dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi, xây dựng hầm bi-ô-ga để kết hợp xử lý

chất thải chăn nuôi và nhà vệ sinh để tạo ra khí ga để phục vụ sản xuất và sinh

hoạt, giúp tiết kiệm được chi phí mua gas hay giảm khí thải khi dùng than hay

rơm củi. Đây là biện pháp hữu hiệu để xử lý triệt để chất thải và tận dụng được

nguồn chất đốt cho sinh hoạt.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 80

Nếu như các hộ sản xuất không đủ điều kiện để xây dựng lắp đặt và sử

dụng hầm biogas thì việc xây dựng và sử dụng bể lắng là một giải pháp tạm thời.

- Xử lý tập trung bằng hồ sinh học

Nước thải của các hộ sản xuất được thải vào hệ thống rãnh và tới một khu

vực tập trung nước để xử lý theo biện pháp sinh học. Các chất hữu cơ trong

nước thải được sử dụng để các động vật trong hồ như cá, tôm, ...làm thức ăn.

Xử lý nước thải ở hồ sinh học là lợi dụng quá trình tự làm sạch của nguồn

tiếp nhận nước thải. Lượng oxy cho quá trình sinh hóa chủ yếu là do không khí

xâm nhập qua mặt thoáng của hồ và do quá trình quang hợp của thực vật nước.

Hồ sinh học vừa dùng để xử lý nước thải mà còn có thể nuôi trồng thủy sản

nuôi cá, thả bèo, là nơi tích trữ nguồn nước để tưới cho cây trồng, ...Mặc dù

nhiều lợi ích nhưng hồ lại vận hành khá đơn giản, không đòi hỏi nhiều vốn đầu

tư hay người quản lý thường xuyên.Ở địa phương nghiên cứu có nhiều ao, hồ,

khu ruộng trũng có thể sử dụng mà không cần cải tạo, xây dựng nhiều.

Tuy nhiên, cần lưu ý là không nên thả bèo kín mặt hồ để đảm bảo cho ánh

sáng xuyên qua. Việc lựa chọn loại cá hay thủy sản khác nuôi trong các bậc của

hồ cần phải có sự hướng dẫn của các chuyên gia nuôi trồng thủy sản. Và rãnh

dẫn nước thải phải được bê tông hóa để tránh thẩm thấu chất ô nhiễm làm ô

nhiễm môi trường đất, có nắp đậy kín để không phát mùi ra ngoài và đảm bảo

không ứ đọng nước thải trong rãnh.

* Ứng dụng vi sinh vật và vi tảo Spirulina đột biến để làm sạch nước thải

làng nghề bún theo định hướng sản xuất chất dẻo sinh học

Xã Tân Hưng cần tổ chức thu gom, đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước

thải làng nghề. Nước thải của làng nghề sản xuất bún, đậu luôn trong tình trạng

bị ô nhiễm hữu cơ nặng với nồng độ nitơ, photpho và hàm lượng BOD5, COD,

chất dinh dưỡng trong nước thải rất lớn. Đối với nước thải loại này, việc kết hợp

sử dụng các loài tảo cùng các VSV để xử lý nước thải ô nhiễm hữu cơ được coi

là một giải pháp khá hợp lý, mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao do ngoài

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 81

tác dụng phân giải các hợp chất hữu cơ của các VSV, hàm lượng nitơ và

photpho trong nước thải là nguồn dinh dưỡng rất tốt cho sự sinh trưởng và phát

triền của tảo. Ngoài ra, việc thu hồi sinh khối tảo trong nước thải sau xử lý có

thể thực hiện một cách dễ dàng và thuận tiện bằng cách vớt hay lọc bằng lưới,

góp phần làm giảm giá thành xử lý.

Quy trình xử lý nước thải sản xuất bún tại hệ thống cống chung cuối làng

bún, đậu gồm ba giai đoạn:

- Giai đoạn 1: thu gom nước thải vào bể để lắng 14 tiếng.

- Giai đoạn 2: Sau thời gian lắng 14 tiếng, nước thải được chuyển sang giai

đoạn sục khí trong 16 giờ có bổ sung bùn hoạt tính.

- Giai đoạn 3: Sau 16 giờ sục ở giai đoạn 2 là giai đoạn nuôi chủng tảo lam

Spirulina platensis CNTĐB trong nước thải sản xuất bún, đậu trong 20 ngày.

Hiệu quả xử lý các thông số COD, BOD5, Nito tổng số, Photpho tổng số

của mẫu nước thải sau khi được xử lý bằng bùn hoạt tính và tảo lam Spirulina

platensis CNTĐB đạt hiệu quả cao, cụ thế: hiệu quả xử lý COD đạt 95%, hiệu

quả xử lý BOD5 đạt 92%, hiệu quả xử lý Nito tổng số đạt 91,28%, hiệu quả xử

lý Photpho tổng số đạt 60,84%.

Với phương pháp kết hợp VSV và vi tảo Spirulina trong xử lý nước thải,

giá thành chi phí cho xử lý nước thải sẽ giảm xuống đáng kể nếu chúng ta có thể

nuôi trồng vi tảo lam Spirulina bằng nước thải này và thu sinh khối tảo giàu chất

dẻo sinh học -PHAs làm nguyên liệu cho công nghiệp sau này.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 82

KẾT LUẬN & ĐỀ NGHỊ

Kết luận

1. Hiện trạng sản xuất của làng nghề bún, đậu Viên Tiêu:

Tại làng nghề bún, đậu Viên Tiêu có hơn 70% gia đình làm bún - đậu, mỗi

năm đưa ra thị trường hàng ngàn tấn bún, đậu. Thu nhập bình quân trên

đầu người mỗi năm lên đến gần 20 triệu đồng. Công suất sản xuất trung bình từ

2 - 3 tạ bún/ngày/hộ và 70-80kg đậu/ngày/hộ.

2. Hiện trạng môi trường làng nghề bún, đậu Viên Tiêu:

2.1. Nước thải làng nghề:

Với năng suất trung bình 2,5 tạ bún/ngày sẽ thải ra 1,5 m3 nước thải/ngày.

Nước thải có đặc trưng pH thấp, hàm lượng các chất hữu cơ dễ phân hủy sinh

học cao. Lượng nước thải từ quá trình sản xuất đậu với năng suất trung bình

80kg/ngày đậu phụ sẽ thải ra 320 - 360 lít nước thải. Như vậy, mỗi hộ gia đình

sản xuất bún, đậu kết hợp chăn nuôi ước tính tổng lượng nước thải của cả hộ là

2,14 – 3,5 m3/ngày/hộ gia đình.

Hiện nay tại làng nghề bún, đậu Viên Tiêu chưa có biện pháp xử lý nước

thải nào. Chất lượng nước mặt tại làng Viên Tiêu, xã Tân Hưng đang bị ô

nhiễm. So với QCVN 08 - 2008 cột B1, có nhiều thông số đều vượt tiêu chuẩn

cho phép. Tại ao tiếp nhận nước thải làng nghề thải ra giá trị BOD5 gấp 5 lần;

COD gấp 4,5 lần; NH4+ - N gấp 3 lần và PO4

3- - P gấp 1,2 lần; TSS cao gấp 1,13

lần so với QCVN 08 - 2008 cột B1; riêng Coliform thấp hơn so với QCVN 08 -

2008 cột B1.

2.2. Phế thải rắn làng nghề:

Chất thải rắn sinh hoạt: trung bình mỗi người dân tại Viên Tiêu thải ra

0,52kg/ngày. Thôn có tổ thu gom rác thải sinh hoạt nhưng chỉ thu gom được từ

75% hộ dân, tỷ lệ thu gom đạt 87%, tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 83

sinh của làng nghề là 434,01 kg/ngày, khối lượng thu gom được là 283,19

kg/ngày.

Chất thải rắn sản xuất: trong sản xuất đậu chỉ gồm bã đậu và vỏ đậu, sản

xuất bún không có phế thải. Với năng suất trung bình 80kg/ngày đậu phụ sẽ thải

ra 15-16 kg/ngày vỏ đậu và 35 – 40kg/ngày bã đậu sau khi nghiền ướt. Chất thải

rắn này được sử dụng để chăn nuôi hoặc ủ làm phân bón cho cây nhãn.

Chất thải chăn nuôi: tại các hộ sản xuất phần lớn đều nuôi lợn để tận dụng

lượng nước thải giàu tinh bột và bã thải trong sản xuất đậu. Chất thải trong chăn

nuôi được xử lý bằng phương pháp xây hầm Biogas hoặc ủ để bón cho cây.

Như vậy, hiện nay nước mặt tại làng nghề Viên Tiêu đang có dấu hiệu bị ô

nhiễm. Cần có những giải pháp quản lý kết hợp với các giải pháp công nghệ để

xây dựng làng nghề theo hướng phát triển bền vững. Các giải pháp này cần được

tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Trong đó, giải pháp quy

hoạch không giản sản xuất gắn với bảo vệ môi trường có vai trò quan trọng.

Đồng thời, năng lực của đội ngũ quản lý và cộng đồng được coi là hạt nhân

chính, quyết định tới sự phát triển bền vững của làng nghề.

Đề nghị

1. Tiến hành mở rộng công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức

của người dân về bảo vệ môi trường làng nghề, các chế tài xử phạt vi phạm môi

trường.

2. Đầu tư xây dựng hệ thống nước sạch phục vụ sinh hoạt, sản xuất của

làng nghề.

3. Hỗ trợ, đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung của khu vực

làng nghề. Khuyến khích sử dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi, xây dựng

hầm Biogas để kết hợp xử lý chất thải chăn nuôi và nhà vệ sinh.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của xã Tân Hưng năm 2010,

2011, 2012, 2013

2. Báo cáo tổng kết năm 2010, 2011, 2012, 2013 của Phòng TN & MT và

Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Tiên Lữ

3. Bộ công thương (2008). Các giải pháp phát triển làng nghề Việt Nam

thời hội nhập, Tạp chí công nghiệp, 25/12/2008

4. Bộ Tài nguyên Môi trường (2006). Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ: Điều tra,

khảo sát phục vụ việc xây dựng dự án kiểm soát ô nhiễm các làng nghề 2006.

5. Bộ Tài nguyên Môi trường. 2009. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc

gia 2008: Môi trường làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng.

6. Bộ Tài nguyên Môi trường. 2010. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc

gia 2010: Tổng quan môi trường Việt Nam

7. Bộ Tài nguyên Môi trường (2012). Chiến lược bảo vệ môi trường quốc

gia đến năm 2020,tầm nhìn đến năm 2030

8. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2010). Đánh giá hiện trạng các

ngành nghề phi nông nghiệp và định hướng phát triển đến năm 2020

9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006). Kỷ yếu Hội thảo bảo

tồn và phát triển làng nghề, trang 12, 13.

10. Bạch Thị Lan Anh (2010). Phát triển bền vững làng nghề truyền thống

vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Luận án Tiến sỹ kinh tế ĐH Kinh tế quốc dân.

11. Đặng Kim Chi (2005). Làng nghề Việt Nam và môi trường, NXB

Khoa học và kỹ thuật.

12. Đặng Kim Chi (2005). Tài liệu hướng dẫn áp dụng các biện pháp cải

thiện môi trường cho làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, NXB Khoa học

và kỹ thuật.

13. Luật bảo vệ môi trường 2005.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 85

14. TS. Nguyễn Văn Hiến (2012). Phát triển làng nghề theo hướng bền

vững ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Tạp chí Phát triển và

Hội nhập số 4, tháng 5,6/2012, trang 39,40,41

15. Trần Duy Khánh. Đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề và thực

hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề tại một số tỉnh Bắc

Bộ.Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường. Luận văn ThS ngành Môi

trường trong phát triển bền vững. Người hướng dẫn: TS. Trần Quốc Trọng.

16. Niên giám thống kê huyện Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên

17. Nguyễn Trung Chính (2010). Phát triển làng nghề Bắc Ninh theo

hướng bền vững. Tạp chí cộng sản, số 7/2010.

18. Nguyễn Xuân Thành và CS (2010). Giáo trình Công nghệ vi sinh vật

trong sản xuất nông nghiệp. NXB KHTN & CN.

19. Nguyễn Xuân Thành và CS (2011). Giáo trình công nghệ sinh học xử

lý môi trường, NXB Lao động – Xã hội.

20. Đỗ Ánh Tuyết (2005). Trung Quốc tăng cường công tác quản lý nhà

nước về bảo vệ môi trường. Tạp chí Du lịch Việt Nam số 12.

21. UBND tỉnh Hưng Yên (2013). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế -

xã hội năm 2013 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp năm 2014.

22. Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Hưng Yên (2012). Báo cáo hiện

trạng môi trường tỉnh năm 2012

23. Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Hưng Yên (2013). Báo cáo tổng hợp

hiện trạng môi trường làng nghề tỉnh Hưng Yên năm 2013.

Tài liệu tiếng Anh

24. Vu Hoang Nam, 2008, The role of human capital and social capital in

the transportation of village – based industrial cluster: evidence from Northern

Vietnam, NXB Tokyo.

25. Vietnam Association of craft village (2007), Craft villages look to the

future

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 86

Tài liệu internet

26. Hội bảo vệ môi trường Việt Nam, Việt Nam – Môi trường và cuộc sống

[http://www.ebook.edu.vn/?page=1.18&view=1090]

27. http://www.g8.unoronto.ca/envirnment\

28. Cụm liên kết xuất khẩu lụa đầu tiên tại Việt Nam – cơ hội cho các SME

làng lụa Vạn Phúc. [http://luavanphuc.com/Bai-viet-ve-lua/Cum-Lien-ket-xuat-khau-

lua-dau-tien-tai-Viet-Nam-Co-hoi-cho-cac-SME-Lang-lua-Van-Phuc]

29. Giới thiệu sáng kiến “ Du lịch bền vững – Xóa đói giảm nghèo” của Tổ

chức Du lịch thế giới [http://www.itdr.org.vn/kinh-nghiem-ptdl/kinh-nghiem-quoc-

te.html]

30. TS. Phạm Tố Oanh ( 2012). Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường

làng nghề Việt nam. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.

[http://www.vea.gov.vn/vn/truyenthong/tapchimt/skhd42009/Pages/Giải-pháp-giảm-

thiểu-ô-nhiễm-môi-trường-làng-nghề-Việt-Nam.aspx]

31. Thực trạng và giải pháp của vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề

truyền thống của Việt Nam. [http://idoc.vn/tai-lieu/thuc-trang-va-giai-phap-cua-van-

de-o-nhiem-moi-truong-tai-cac-lang-nghe-truyen-thong-cua-viet-nam.html]

32. Quảng Nam – Phát triển làng nghề Phước Kiều gắn liền với du lịch

(2011). [http://sotaydulich.com/1-2928-Ban-tin-du-lich-Quang-Nam-Phat-trien-lang-

nghe-Phuoc-Kieu-gan-voi-du-lich]

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 87

PHỤ LỤC

Bảng 1: Lượng mưa trung bình các tháng trong năm

(Đơn vị:mm)

Năm

Tháng 2009 2010 2011 2012 2013

Tháng 1 40,0 5,0 95,0 3,6 18,1

Tháng 2 15,0 6,0 9,0 14,9 11,1

Tháng 3 37,0 57,0 7,0 59,1 15,1

Tháng 4 33,0 182,0 39,0 60,6 97,2

Tháng 5 100,0 166,0 80,0 129,9 330,3

Tháng 6 304,0 94,0 87,0 149,4 124,4

Tháng 7 218,0 452,0 95,0 140,6 188,9

Tháng 8 222,0 205,0 177,0 101,2 388,3

Tháng 9 311,0 249,0 68,0 279,2 188,6

Tháng 10 238,0 106,0 36,0 49,6 110,7

Tháng 11 190,0 38,0 3,0 40,2 139,4

Tháng 12 190,0 4,0 3,0 11,2 32,5

Tổng số 1.898,0 1.564,0 699,0 1.039,5 1.644,6

(Nguồn: trạm khí tượng thủy văn Hưng Yên)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 88

Bảng 2: Số giờ nắng các tháng trong năm

(Đơn vị: giờ)

Năm

Tháng 2009 2010 2011 2012 2013

Tháng 1 62,0 109,0 31,0 10,6 2,3

Tháng 2 26,0 747,0 83,0 31,5 11,2

Tháng 3 55,0 42,0 45,0 12,2 13,4

Tháng 4 63,0 81,0 46,0 65,8 79,6

Tháng 5 156,0 148,0 137,0 163,0 146,2

Tháng 6 105,0 184,0 159,0 147,0 92,9

Tháng 7 148,0 166,0 215,0 187,1 141,6

Tháng 8 134,0 191,0 129,0 181,1 146,8

Tháng 9 122,0 136,0 140,0 115,7 108,1

Tháng 10 83,0 132,0 121,0 72,5 100,1

Tháng 11 138,0 142,0 90,0 96,2 93,2

Tháng 12 98,0 71,0 80,0 75,8 37,7

Tổng số 1.190,0 1.476,0 1.276,0 1.158,5 973,1

(Nguồn: trạm khí tượng thủy văn Hưng Yên)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 89

Bảng 3: Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm

(Đơn vị: oC)

Năm

Tháng 2009 2010 2011 2012 2013

Tháng 1 14,6 15,3 17,5 12,4 14,2

Tháng 2 13,2 21,9 20,3 17,3 15,8

Tháng 3 20,5 20,5 21,3 16,6 19,6

Tháng 4 24,0 23,8 23,0 23,1 25,4

Tháng 5 26,8 25,6 28,2 26,5 28,4

Tháng 6 28,0 29,9 30,4 29,1 29,7

Tháng 7 29,0 29,3 30,5 29,5 29,6

Tháng 8 28,5 29,2 28,2 28,7 28,9

Tháng 9 27,5 28,2 28,2 27,0 27,3

Tháng 10 26,0 26,0 24,8 24,0 26,1

Tháng 11 20,9 21,1 21,6 23,3 23,1

Tháng 12 17,9 19,4 21,6 17,0 28,7

Bình quân

năm 23,1 24,2 24,6 22,9 24,7

(Nguồn: trạm khí tượng thủy văn Hưng Yên)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 90

Bảng 4: Độ ẩm tương đối trung bình các tháng trong năm

(Đơn vị: %)

Năm

Tháng 2009 2010 2011 2012 2013

Tháng 1 80 77 88 75 91

Tháng 2 76 90 86 88 90

Tháng 3 87 88 84 87 89

Tháng 4 88 89 89 87 86

Tháng 5 83 87 86 83 85

Tháng 6 86 80 79 85 80

Tháng 7 82 85 83 82 82

Tháng 8 87 85 88 85 84

Tháng 9 87 86 86 86 82

Tháng 10 84 82 76 82 81

Tháng 11 80 72 76 72 84

Tháng 12 79 82 76 82

Bình quân

tháng 83 84 83 83 85

(Nguồn: trạm khí tượng thủy văn Hưng Yên).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 91

Hình ảnh ô nhiễm môi trường