dẠy hỌc phẦn tiẾng viỆt 11 theo hƢỚng tÍch...

15
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC VŨ THỊ HỒNG NHUNG DẠY HỌC PHẦN TIẾNG VIỆT 11 THEO HƢỚNG TÍCH HỢP LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGVĂN HÀ NỘI – 2014

Upload: vuongthuan

Post on 16-May-2018

214 views

Category:

Documents


2 download

TRANSCRIPT

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ HỒNG NHUNG

DẠY HỌC PHẦN TIẾNG VIỆT 11

THEO HƢỚNG TÍCH HỢP

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2014

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ THỊ HỒNG NHUNG

DẠY HỌC PHẦN TIẾNG VIỆT 11

THEO HƢỚNG TÍCH HỢP

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN NGỮ VĂN)

Mã số: 60 14 01 11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hiên

HÀ NỘI – 2014

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Tích hợp – một trong những định hướng của dạy học hiện đại nhằm

phát triển toàn diện năng lực người học

Thế giới đang từng ngày, từng giờ phát triển với sự bùng nổ công nghệ

thông tin và xu thế hội nhập quốc tế. Tình hình đó đặt ra cho giáo dục nhiều

thời cơ và thách thức đòi hỏi những con người Việt Nam mới phát triển toàn

diện, năng động, sáng tạo có năng lực vận dụng kiến thức tổng hợp vào xử lí

các tình huống thực tiễn. Vì vậy, dạy học tích hợp trở thành một xu thế tất

yếu đã mang lại hiệu quả tích cực.

Hòa chung trong xu thế đó, giáo dục Việt Nam cũng đang có những

bước tiến căn bản từ việc biên soạn chương trình sách giáo khoa cho tới việc

đổi mới nội dung, phương pháp dạy học theo hướng tích hợp. Đặc biệt kế

hoạch hành động của toàn ngành giáo dục nhằm thực hiện Nghị quyết 29 của

Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện

giáo dục đào tạo đã tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của việc xây dựng

chương trình, sách giáo khoa và tổ chức dạy học các môn học mới theo định

hướng tích hợp nhằm phát triển toàn diện năng lực người học. Chương

trình trung học phổ thông môn Ngữ văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ghi

rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung

chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng

dạy.”[3, tr.27] “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn

học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá

trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp

trong chương trình; tích hợp trong sách giáo khoa; tích hợp trong phương pháp

dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh; tích

hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo”[3, tr.40].

2

Vì vậy việc đi sâu vào nghiên cứu lí thuyết dạy học tích hợp và ứng

dụng thể nghiệm tính khả thi của nó trong thực tiễn dạy học của mỗi môn

học, lớp học, bậc học sẽ góp phần hiện thực hóa và thực hiện thành công đề

án đổi mới giáo dục sắp tới.

1.2. Phần Tiếng Việt thuận lợi cho dạy học tích hợp

Tiếng Việt là phân môn mang tính công cụ bồi dưỡng năng lực sử dụng

ngôn ngữ, năng lực giao tiếp và tư duy cho học sinh. Chính vì vậy Tiếng Việt

có những ưu thế đặc biệt thuận lợi cho dạy học tích hợp.

Môn Tiếng Việt cung cấp những kiến thức cơ bản về các yếu tố và quy

tắc chung của ngôn ngữ nên phù hợp với tích hợp kiến thức trong môn học.

Đó là tiền đề để học sinh lĩnh hội nhận diện phân tích giá trị của các văn bản

văn học và tạo lập các văn bản trong thực hành làm văn. Bên cạnh đó kiến

thức Tiếng Việt mang tính thực tiễn cao gắn liền với mọi mặt đời sống xã hội

cũng như nhiều ngành khoa học khác. Đó là cơ sở cho tích hợp các kiến thức

liên môn, liên ngành vào giảng dạy phần Tiếng Việt.

1.3. Thực tiễn dạy học Ngữ văn hiện nay

Chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành (thực hiện đại trà từ

năm 2006) đã được biên soạn tích hợp ba phân môn Tiếng Việt – Văn học -

Làm văn đồng thời cũng đã có định hướng tích hợp với những nội dung

khác. Tuy nhiên thực tiễn dạy học ở trường phổ thông nói chung, môn Ngữ

văn nói riêng việc tích hợp còn lẻ tẻ, hời hợt tính liên môn, liên ngành chưa

rõ. Trong đó, Tiếng Việt - phân môn nền tảng cho phát triển tư duy học sinh

lại được coi là “khó” “khổ” và hầu như không được chú trọng. Đặc biệt do

chương trình Tiếng Việt không phải là trọng tâm của chương trình thi cuối

cấp và thi đại học nên nhiều học sinh thậm chí cả giáo viên coi đó là “phần

phụ” chỉ cần lướt qua và dành thời gian cho phần Văn học và Làm văn. Do

đó chưa có kết quả giáo dục như mong đợi. Trong dạy học Tiếng Việt hiện

nay học sinh chỉ được trang bị những kiến thức lí thuyết hàn lâm. Kĩ năng

3

nghe nói đọc viết và năng lực sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp và tư duy

ngoài đời sống còn quá yếu. Việc tích hợp đã được thực hiện nhưng chủ yếu

dưới hình thức trong môn học còn tích hợp liên môn và tích hợp kiến thức

đời sống hầu như không được đề cập tới. Ngay trong tích hợp ba phân môn

Tiếng Việt – Văn học – Làm văn cũng chỉ thông qua việc đưa ngữ liệu trong

văn bản văn học vào hệ thống bài tập Tiếng Việt. Việc kết hợp nhuần nhuyễn

giữa các kiến thức để hình thành năng lực tổng hợp cho học sinh vẫn chưa

mang lại hiệu quả. Ngoài ra một thực tế đáng buồn là học sinh trình độ trung

học phổ thông vẫn chưa đủ năng lực giao tiếp cơ bản ngoài xã hội. Hiện

tượng sử dụng sai chuẩn tiếng Việt, lai căng ngôn ngữ và nói năng thiếu văn

hóa rất phổ biến. Đó chính là hệ quả của việc dạy học hời hợt thiếu thực tiễn.

Tích hợp theo quan điểm lấy học sinh làm trung tâm tích cực hóa hoạt

động của người học chính là một giải pháp tối ưu để khắc phục hiện trạng

này, góp phần đưa việc dạy học Tiếng Việt về gần với thưc tiễn đời sống

nâng cao hiệu quả dạy học.

Bài toán đặt ra trong lĩnh vực lí luận và phương pháp dạy học bộ môn là

phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học phân

môn cụ thể là Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển năng lực cần thiết

cho học sinh một cách hiệu quả hơn góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo

dục, nâng cao hiệu quả dạy học. Từ những lí do đã phân tích ở trên, chúng

tôi lựa chọn đề tài “Dạy học phần Tiếng Việt 11 theo hƣớng tích hợp”

nhằm đóng góp một phương diện nhỏ cho lí thuyết dạy học tích hợp và đề

xuất, ứng dụng được cách thức tích hợp thực sự hiệu quả góp phần mang lại

bước tiến mới trong thực tiễn dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.

2. Lịch sử nghiên cứu

Trong lịch sử phát triển khoa học của nhân loại, song song với việc

phân hóa sâu sắc người ta cũng hướng tới sự tích hợp chặt chẽ với sự ra đời

của các khoa học liên ngành, đa ngành. Do đó, tích hợp đã trở thành một xu

4

thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà

trường ở nhiều nước trên thế giới. Tuy còn nhiều khó khăn trong tìm kiếm và

nghiên cứu tài liệu nước ngoài nhưng từ những tài liệu đã thu thập được có

thể khái quát chung về tình hình nghiên cứu về dạy học tích hợp hiện nay

như sau:

2.1. Dạy học tích hợp ở một số nước trên thế giới

Tháng 9/1968, Hội đồng liên quốc gia về giảng dạy khoa học, với sự

bảo trợ của UNESCO, đã tổ chức "Hội nghị tích hợp việc giảng dạy các khoa

học" tại Varna (Bungari). Hội nghị đặt ra 2 vấn đề: Vì sao phải dạy học tích

hợp các khoa học? và Dạy học tích hợp các khoa học là gì? Theo đó, dạy

học tích hợp được UNESCO định nghĩa như sau: “Một cách trình bày các

khái niệm và nguyên lí khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của

tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặcquá sớm sự sai khác giữa các

lĩnh vực khoa học khác nhau”. Định nghĩa của UNESCO cho thấy dạy học

tích hợp xuất phát từ quan niệm về quá trình học tập hình thành ở học sinh

những năng lực trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Quá trình dạy học

tích hợp bao gồm những hoạt động tích hợp giúp học sinh biết cách phối hợp

các kiến thức, kĩ năng và thao tác một cách có hệ thống.

Như vậy hội nghị đã nêu lên sự cần thiết và một số cách hiểu đầu tiên

về tích hợp có vai trò mở đầu cho một trào lưu giáo dục hiện đại. Nó đã tạo

nền tảng cho tác giả Xavier Roegiers nghiên cứu và hoàn thành cuốn “Khoa

sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường”

[30] do Đào Trọng Quang và Nguyễn Ngọc Nhị dịch. Trong đó, ông đưa ra

định nghĩa và mục tiêu của khoa sư phạm tích hợp; ảnh hưởng của khoa sư

phạm tích hợp đối với chương trình, việc đánh giá những kiến thức học sinh

lĩnh hội và ảnh hưởng đối với việc biên soạn sách giáo khoa.

Từ đó quan điểm tích hợp được nghiên cứu ngày càng rộng rãi với các

công trình của CEPE, Fourez, De Ketelle…Quan điểm của CEPE chủ yếu

5

nhấn mạnh sự phát triển của các phương pháp xuyên môn « bằng cách

hướng những động tác sư phạm vào những hoạt động chuyên môn chúng

ta có một nguyên tắc để tổ chức hiệu nghiệm. Nhờ đó có thể lôi cuốn học

sinh trong những môn học khác nhau vào giải quyết những bài toán xử lí

thông tin và sáng tạo ra những bước tiến giúp học sinh vượt qua các

ngưỡng trong toàn bộ thời gian học tập một cách có phối hợp và nhất

quán ». De Ketelle thì đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu tích hợp là kết quả

toàn bộ quá trình học tập trong nhiều năm học. Nó được thể nghiệm trong

các tình huống tích hợp đề xuất với học sinh.

Quan điểm tích hợp được ứng dụng thể hiện khá rõ trong sách giáo

khoa của một số nước như: Trung Quốc, Pháp, Malaysia, Đức, Úc… Với

quan điểm này, nhìn chung cách cấu tạo một bài học trong sách giáo khoa ở

nhiều nước có sự thống nhất ở chỗ: Mỗi bài học đều bắt đầu bằng việc cung

cấp một văn bản theo cụm thể loại hoặc phương thức biểu đạt. Tiếp đó phần

hướng dẫn đọc và giải thích văn bản không chỉ yêu cầu học sinh tìm hiểu về

nội dung và nghệ thuật của văn bản mà còn khai thác các đơn vị ngôn ngữ và

kiểu loại của các văn bản đó; phần luyện tập hướng dẫn học sinh rèn luyện

tổng hợp các kiến thức và kỹ năng được giới thiệu trong bài học. Ví dụ trong

cuốn Văn học và thực hành tiếng Pháp lớp 9, mỗi bài học được sắp xếp theo

một bố cục thống nhất: Đầu tiên là bài khóa được lựa chọn theo mục đích

phân tích hay soạn thảo nội dung đã nêu rõ trong tiêu đề của bài; bài khóa

chứa các yếu tố sẽ là cơ sở để tiến hành phân tích. Tiếp đó, phần định hướng

chỉ ra những trường từ vựng hoặc những từ ngữ chứa đựng chủ đề của bài

khóa, những câu văn, đoạn văn cần nắm vững để hiểu nội dung ý nghĩa của

bài, phần phân tích và soạn thảo nhằm hướng dẫn học sinh hiểu và giải thích

văn bản hoặc đưa ra phương pháp tạo lập đoạn văn, bài văn theo kiểu văn

bản vừa học; phần ghi nhớ nêu một số đoạn văn ngắn về nội dung chứa

đựng trong bài học, phần luyện tập cung cấp các dạng bài tập đa dạng để

6

học sinh được thực hành vận dụng các nội dung đã học ở bài khóa vào các

tình huống phân tích hoặc tạo lập văn bản cũng như các tình huống giao

tiếp xã hội. Tính chất tích hợp của cuốn sách thể hiện rất rõ ở sự phối hợp

nhuần nhuyễn giữa kiến thức, kĩ năng của các nội dung văn học, ngôn ngữ

và tạo lập văn bản.

2.2. Dạy học tích hợp ở Việt Nam

Trong khi các nước trên thế giới đã đạt nhiều thành tựu quan trọng

trong nghiên cứu và ứng dụng tích hợp thì ở Việt Nam, từ thập niên 90 của

thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp mới thực sự được

tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào trường phổ thông. Trước

đó, tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ mới được thực hiện ở mức độ thấp như

liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hay phân môn

khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng dạy.

Lý thuyết về dạy học tích hợp cũng đã được một số nhà nghiên cứu

quan tâm. Nguyễn Ánh Tuyết trong Từ tích hợp trong chương trình nuôi dạy

trẻ đến tích hợp trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non[24] cho rằng

“Tích hợp không chỉ liên kết mà còn xâm nhập, đan xen các đối tượng hay

các bộ phận của một đối tượng, tạo thành một chỉnh thể. Trong đó, không

những giá trị của từng bộ phận được bảo tồn và phát triển mà đặc biệt là ý

nghĩa thực tiễn của toàn bộ chỉnh thể được nâng lên”. Trần Bá Hoành trong

bài Dạy học tích hợp [9] cũng đã chỉ rõ những điều kiện và triển vọng để áp

dụng tích hợp vào dạy học.

Tích hợp trong dạy học Ngữ văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói

riêng cũng đã được đề cập trong Chương trình trung học phổ thông môn Ngữ

văn[3], năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chương trình nêu rõ: “Lấy

quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên

soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy”[3, tr.27] “Nguyên

tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng

7

Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt

trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp

trong sách giáo khoa; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và

tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh; tích hợp trong các sách đọc

thêm, tham khảo”[3, tr.40]. Từ quan điểm chỉ đạo đó chương trình sách giáo

khoa Ngữ văn đã bước đầu biên soạn theo hướng tích hợp cùng với đó là

hàng loạt các công trình nghiên cứu và thể nghiệm ứng dụng lí thuyết tích

hợp trong dạy học Ngữ văn.

Một số tài liệu đề cập vấn đề này như bộ sách Thiết kế dạy học Ngữ văn

trung học cơ sở theo hướng tích hợp của Trương Dĩnh, Bài tập rèn luyện kĩ

năng tích hợp Ngữ văn trung học cơ sở đã nêu lên những phương diện tích

hợp trong dạy học Ngữ văn trung học cơ sở; năng lực tích hợp, kiểu văn bản

tích hợp, phương pháp tích hợp, mối quan hệ giữa tích hợp và tích cực, tích

hợp và hiệu quả dạy học tích hợp, tích hợp gắn liền với đời sống xã hội và

cách triển khai các bài dạy cụ thể trong chương trình trung học cơ sở theo

định hướng tích hợp. Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt [12] của

Nguyễn Thanh Hùng đã nêu lên các phương diện tích hợp và nguyên tắc tích

hợp trong dạy học Ngữ văn. Đoàn Thị Kim Nhung trong Phương pháp dạy

học Ngữ văn ở trường trung học cơ sở theo hướng tích hợp và tích cực [15]

đã đưa ra cơ sở lý luận để áp dụng tích hợp vào dạy học Ngữ văn và phương

pháp dạy Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn theo hướng tích hợp. Luận án

Hệ thống đề kiểm tra nhằm đánh giá năng lực Ngữ văn trung học cơ sở theo

yêu cầu tích hợp [26] của Nguyễn Thị Hồng Vân đã hướng tới việc xây dựng

đề kiểm tra Ngữ văn trung học cơ sở theo hướng tích hợp để đáp ứng yêu cầu

thực tiễn triển khai chương trình, sách giáo khoa trung học cơ sở. Luận văn

Dạy học Tiếng Việt 10 trung học phổ thông ban cơ bản theo hướng tích hợp

[14] của Lưu Quỳnh Nga đề xuất một số biện pháp dạy học Tiếng Việt 10

theo hướng tích hợp để góp phần giúp giáo viên có được những định hướng

8

cần thiết để triển khai giờ học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu tích hợp

của chương trình và sách giáo khoa. Ngoài ra còn một số bài báo bàn về

quan điểm tích hợp môn Ngữ văn và dạy học Ngữ văn của: Trần Bá Hoành,

Nguyễn Thanh Hùng, Đỗ Chu Ngọc, Nguyễn Khắc Phi, Vũ Thị Sơn, Phan

Trọng Luận, Trần Đình Sử… Trong đó các tác giả đã trình bày về các quan

điểm tích hợp, các hướng tích hợp trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ

văn để triển khai nội dung dạy học.

Trong định hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục sau 2015, dạy

học tích hợp trở thành một định hướng lớn trong việc thay đổi sách giáo

khoa, hình thành môn học mới. Đề án nêu: hình thành hai môn học mới khoa

học tự nhiên trên sự tích hợp các phân môn Lí - Hóa - Sinh, khoa học xã hội

trên cơ cơ sở tích hợp các môn Sử - Địa - Giáo dục công dân; trong từng

môn học cũng thực hiện các chuyên đề tích hợp để huy động kiến thức liên

môn giải quyết các hoạt động thực tiễn. Hiện nay Bộ Giáo dục và đào tạo

đang phát động cuộc thi “Dạy học tích hợp dành cho giáo viên trung học”

như một thể nghiệm ứng dụng tính khả thi của định hướng tích hợp trong

thực tiễn. Có rất nhiều sản phẩm dự thi có giá trị với các bài dạy tích hợp của

nhiều môn học theo các cách thức khác nhau.

Nhìn chung hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và thực

nghiệm về dạy học tích hợp được tiến hành với những thành tựu quan trọng:

Đưa ra các cách hiểu về khái niệm tích hợp, đề xuất các biện pháp dạy học

tích hợp, phân tích ưu thế và thách thức của việc ứng dụng dạy học tích hợp

trong thực tiễn và một vài ứng dụng với các bộ môn. Đó là những tiền đề

khái quát rất quan trọng để triển khai các đề tài nghiên cứu cụ thể.

Tuy nhiên, các công trình chuyên luận mang tính ứng dụng lí thuyết tích

hợp trên vào dạy học từng phân môn và nhóm kiến thức cụ thể một cách

khoa học và hệ thống còn chưa nhiều đặc biệt với phân môn Tiếng Việt.

Chính vì vậy chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài “Dạy học phần Tiếng Việt

9

11 theo hướng tích hợp”. Trên cơ sở phân tích đặc điểm cụ thể của từng bài

học, mục tiêu chương trình và đặc điểm học sinh đề xuất những hướng tích

hợp hiệu quả và khoa học nhằm nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt 11

nói riêng môn Ngữ văn nói chung.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết dạy học tích hợp và phân tích, đánh giá

thực trạng dạy học phần Tiếng Việt 11 ở trường phổ thông, luận văn đề xuất

một số biện pháp dạy học Tiếng Việt 11 theo hướng tích hợp nhằm nâng cao

chất lượng dạy học.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lí thuyết về dạy học tích hợp và chương trình Ngữ

văn phổ thông hiện hành.

- Phân tích thực trạng dạy học phần Tiếng Việt 11theo hướng tích hợp

trong nhà trường phổ thông hiện nay.

- Đề xuất một số cách thức tích hợp trong dạy học phần Tiếng Việt 11.

- Triển khai thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề

xuất. Trên cơ sở kết quả thực nghiệm sẽ tiến hành phân tích, nhận xét, đánh

giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho những hướng nghiên cứu

tiếp theo.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu việc tổ chức dạy học Tiếng Việt 11 theo hướng tích hợp.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Do hạn chế về điều kiện nghiên cứu đề tài chỉ đi sâu vào những vấn đề

lí luận cơ bản về tích hợp, dạy học tích hợp. Từ đó tiến hành nghiên cứu việc

10

dạy học Tiếng Việt qua các bài học trong chương trình Ngữ văn 11 hiện

hành ở trường trung học phổ thông.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Từ việc phân tích tổng hợp

các tài liệu liên quan tới đề tài, luận văn có được cơ sở khoa học vững chắc

để xác định yêu cầu, tiêu chí và cách thức vận dụng quan điểm tích hợp trong

dạy học.

- Phương pháp điều tra, khảo sát: Qua khảo sát điều tra bằng nghiên cứu

tài liệu, quan sát, phỏng vấn luận văn thu thập những dữ liệu về thực tiễn dạy

học Tiếng Việt 11 theo hướng tích hợp. Sau đó, luận văn sử dụng các phương

pháp thống kê, phân loại, so sánh để nhận xét, đánh giá và rút ra kết luận.

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Luận văn tiến hành thực nghiệm

và đánh giá kết quả nhằm khẳng định giá trị và tính khả thi của giả thuyết

nêu trong đề tài.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ

lục, nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn

Chương 2: Biện pháp dạy học Tiếng Việt 11 theo hướng tích hợp

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

11

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán (1996), Phương pháp dạy

học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

3.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn

Ngữ văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách

giáo khoa lớp 11 môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập I, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập II, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

7. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Bùi Hiển (chủ biên) (2001), Từ điển giáo dục học, Nxb Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

9.Trần Bá Hoành(2006), "Dạy học tích hợp", Tạp chí Khoa học giáo

dục(12).

10. Nguyễn Kim Hồng và Hoàng Công Minh Hùng (2012), "Dạy học tích

hợp trong trường phổ thông Australi", Tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM.

11. Đỗ Việt Hùng (1999), Phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh trong

việc dạy học Tiếng Việt, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

12. Nguyễn Thanh Hùng (chủ biên) (2009), Phương pháp dạy học Tiếng

Việt, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

12

13. Nguyễn Thanh Hùng (2006), "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn", Tạp

chí Khoa học giáo dục(6).

14. Lƣu Quỳnh Nga (2011), Luận văn thạc sĩ Dạy học Tiếng Việt 10 THPT

ban cơ bản theo hướng tích hợp.

15. Đoàn Thị Kim Nhung (2006), Phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường

THCS theo hướng tích hợp và tích cực, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí

Minh, Hồ Chí Minh.

16. Trần Thị Tuyết Oanh (2002), "Đo lường và đánh giá trong giáo dục",

Tạp chí giáo dục số (32), tr.31.

17. Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên) (2002), Ngữ văn 6 tập 1 SGV, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

18. Dƣơng Tiến Sỹ (2002), "Phương thức và nguyên tắc tích hợp các môn học

nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo", Tạp chí giáo dục số(26), tr.21.

19. Vũ Thị Sơn (2001), "Dạy học tích hợp và khả năng áp dụng vào thực

tiễn Việt Nam", Tạp chí dạy học ngày nay (19).

20. Nguyễn Trí (2002), "Phối hợp các hình thức tổ chức lớp học và phương

pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Tiếng

Việt", Tạp chí Giáo dục(23), tr.26.

21. Nguyễn Đức Tồn (2001), Những vấn đề dạy và học Tiếng Việt trong nhà

trường, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Tứ (2002), "Giảng dạy bộ môn “Phương pháp dạy học

Tiếng Việt” ở trường sư phạm theo nguyên tắc tích hợp", Tạp chí Giáo dục

số (23), tr.23.

23. Nguyễn Tú (chủ biên)(2001), Một số vấn đề đổi mới dạy học Văn -

Tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Ánh Tuyết (2001), "Từ tích hợp trong chương trình nuôi dạy trẻ

đến tích hợp trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non", Tạp chí giáo

dục (1).

13

25. Lê Xuân Thại (1999), Tiếng Việt trong trường học, NXB Đại học quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

26. Nguyễn Thị Hồng Vân (2004), Luận án tiến sĩ Hệ thống đề kiểm tra

nhằm đánh giá năng lực Ngữ văn THCS theo yêu cầu tích hợp.

27. Curriculum Council (2008), Integrated approaches to teaching and

learning in the senior seconday school, WACE.

28. Lake, K. (2004), “Integrated Curriculum”, School Improvement

Research Series Close up, Vol 8, No 16,

http://www.nwrel.org/scpd/sirs/8/c016.html

29. Venville, G & Dawson, V. (2004), “Integration of science with other

learning areas”, The Art of Teaching Science, pp146-161.

30. Xavier Roegiers (1996)(Đào Trọng tạo & Nguyễn Ngọc Nhị dịch),

Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển năng lực ở nhà trường,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

31. Wraga, W.G. (2009), Toward a connected core curriculum, Educational

Horizon 87(2), tr 88-96.