Đi Để thấy mình - nhuận Đạt tmt
DESCRIPTION
Đi Để Thấy Mình Tác giả: Nhuận Đạt TMTTRANSCRIPT
Nhuận Đạt – TMT
Kính tri ân chị Hoa và anh Nhã,
người đã tạo cơ duyên cho tôi đến được Đất Phật.
Kính đảnh lễ thầy Huyền Diệu,
người đã cho con phương tiện đi nhiều nơi để thấy mình.
Kính cảm ơn chùa Lạc Nghiệp,
nơi đã nuôi con những ngày đầu học Đạo.
Kính lễ tạ ơn thầy – thượng Phú hạ Hoằng,
người khai nguồn tuệ giác cho con.
Nhuận Đạt – T.M.T
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
THÁP VÀNG SHWEDAGON
PHƯỚC BÁU LÀ CÓ THẬT
ĐƠN GIẢN CHỈ VÌ CHỊ CẦN
NGHIỆP QUẢ CỦA MÌNH
NIỀM VUI HÒA HỢP
NGHE ĐỂ THẤY MÌNH
CÓ MỘT NIỀM VUI
HẠNH PHÚC CỦA NGƯỜI CHO
ĐỒ THẬT ĐỔI ĐỒ GIẢ
NÓI THẬT LÒNG
PHỦ NHẬN VÔ TÌNH
PHÉP LẠ TỈNH THỨC
MỘT LỜI NÓI CẢM ƠN
KHÔNG CÓ NGÀY MAI
KHẢ NĂNG CHUYỂN HÓA CỦA TÌNH THƯƠNG
CHIẾC BÁNH CUỐI CÙNG
BÁC TAM
BÀI HỌC LỚN
ANH HÙNG VÔ TRÍ
THÀNH TÂM
HẠNH PHÚC KHÔNG KHÓ TÌM
CHỜ ĐỢI
NGƯỜI BÁN NGƯỜI MUA
TƯỞNG RẰNG ĐÃ BIẾT
KIÊN NHẪN VÀ NHIỆT TÌNH
LỜI KẾT
Nhuận Đạt – TMT
VIET NAM PHAT QUOC TU - LUMBINI
P.O. BOX 4. SIDDHATHA NAGAR, BHAIRAHAWA, LUMBINI, NEPAL
2
Email: [email protected]
LỜI NÓI ĐẦUTừ khi bước chân trên con đường tâm linh, được học hỏi và thiền tập dưới sự
hướng dẫn của những bậc Thầy, tôi thấu hiểu ra một điều giản dị: sự khổ đau
bắt nguồn từ một tâm hồn u tối về con người và thế giới; sự u tối bắt nguồn từ
tự ngã; tự ngã lại có gốc vô minh không biết chính mình.
Từ đó, tôi ý thức nhiều đến thế giới biến động phức tạp của nội tâm; Những
tâm lý tích cực và tiêu cực biểu hiện trên dòng tâm thức; Những sức mạnh vô
hình bên trong những thúc đẩy bản năng.
Càng nhìn vào bên trong tâm thức, tôi càng thấy quyền lực mềm đáng sợ của
nó. Sự tinh vi ẩn núp dưới danh nghĩa “tôi là” của tâm thức làm cho cá nhân
đau khổ và thế giới hận thù.
Tôi bắt đầu thấy mình ngớ ngẩn. Mình còn chưa hiểu chính mình, thế mà
mình cứ nhìn người bằng đôi kính màu cũ kỹ của một tâm hồn bệnh hoạn,
đầy dục vọng và tự đại.
Mình mới là kẻ đáng thương cần được tự do khỏi ngục tù tham ái. Tự do khỏi
sức mạnh của những thói quen tiêu cực ẩn tàng.
Tôi tự hỏi tôi: đã hiểu được chính mình? Chưa, tôi tự trả lời trong im lặng. Và,
cũng bắt đầu từ đó, tôi ghi lại những sự kiện có cảm xúc cá nhân trong im
lặng để thấy chính mình.
Đi để thấy mình ra đời như thế, giản dị là những ấn tượng, những bài học, những suy tư phản chiếu nội tâm của một con người có mơ ước giải thoát cá nhân khỏi sự hẹp hòi của thân phận kiếp người; của ý thức hệ; của giáo điều và những xiềng xích thuộc sản phẩm tư tưởng do con người tích góp thành chướng ngại tự do.
Xin được chia sẻ và ước mong người đọc tìm thấy nhiều điều thú vị và hữu ích.
Chân thành,
Lumbini, 08.04.2011
3
Nhuận Đạt - TMT
THÁP VÀNG
SHWEDAGONTừ con đường Dhamma zedi, tôi đi bộ qua Uvinsara road đến tháp vàng
Shwedagon. Đây là ngôi chùa vàng lớn nhất tại Rangon, Myanmar.
Từng bước chân chánh niệm của một người chiêm bái, để dép bên ngoài,
cũng như để lại bao dao động thường tình của cuộc sống, tôi nhẹ bước trong
hạnh phúc trên thực địa Shwedagon với bao nhiêu thán phục và ngạc nhiên.
Càng bước đi, Shwedagon càng rộng lớn. Hàng ngàn những con người mang
những gương mặt và y phục khác nhau, nhưng tất cả chỉ một lòng đến
Shwedagon hướng về Phật Pháp thành tâm chiêm bái.
Một anh bạn Myanmar cho tôi biết Shwedagon là một quần thể tháp thờ xá lợi
tóc Đức Phật Thích Ca. Tất cả tháp đều được dát vàng thật, tổng số là 8.600
kg.
Tôi quỳ xuống giữa bao nhiêu con người thành tâm lễ Phật để đảnh lễ Thế
Tôn. Người tôi tĩnh lặng đến kỳ diệu. Thế giới bấy giờ chỉ còn tôi, Thế Tôn và
những lời kinh nguyện thì thầm.
Chiêm bái xong, tôi đi nhiễu quanh tháp. Trời đã về chiều. Tháp vẫn còn đông
người, vẫn chưa có gì thể hiện thưa dần, ngược lại số lượng người càng lúc
càng nhiều thêm.
Có một cảnh đẹp mà tôi rất ấn tượng: trên con đường nhiễu tháp rộng khoảng
40m, dài khoảng 2Km, có để sẵn 3 hàng cây lau nền theo chiều rộng. Từng
4
đoàn người đi qua, không ai bảo ai, tự giác mỗi người nâng một cây lau nền
đẩy về phía trước 3m. Cứ thế, những cây lau nền được người chiêm bái đẩy
xoay vòng quần thể Tháp liên tục trong ngày, làm con đường nhiễu Tháp lát
đá cẩm thạch trắng mát sạch suốt cả ngày. Do đó, dù rất nhiều người chiêm
bái, dù khí hậu rất khô nóng và nhiều bụi của Rangon mùa hạ, nhưng nền
Tháp vẫn luôn sạch, không gian luôn được tôn nghiêm và thiêng liêng, ngập
tràn ánh sáng vàng và tình thương của Phật.
Với tôi lúc này, ngôi Tháp Shwedagon là một kỳ quan, một biểu hiện của giá
trị Phật Pháp và những trái tim con người hướng về Phật Pháp. Đặc biệt hơn,
trong những bước chân nhiễu tháp, hình ảnh của những người Myanmar
chiêm bái bình thường như bao con người khác, nhưng sau khi chiêm bái
chung tay lau sạch nền Tháp, đã cho tôi một ấn tượng đẹp khó quên.
Tôi đã từng chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ; đã từng chiêm bái tứ đại Phật Sơn
tại Trung Hoa, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cảnh đẹp như nơi này. Tôi giác
ngộ ra một điều thật giản dị: một hành động dù rất nhỏ, nhưng thực hiện bằng
tất cả tấm lòng, vì lợi ích chung, có thể đánh thức được tình yêu thương và
sự cảm thông trong hàng vạn trái tim người.
5
PHƯỚC BÁULÀ CÓ THẬT
Vâng lời Thầy tôi, tôi viếng thăm Myanmar và lo một số việc nhân ngài phó
chủ tịch hiệp hội Phật Giáo quốc tế U. Nyaneinda tặng Phật ngọc cho Thủ
tướng Việt Nam. Tôi đến sớm hơn một tuần để kết hợp cùng đoàn chúng
Anan từ Việt Nam sang niệm kinh và trì chú cho tôn tượng Phật ngọc. Ngày
đoàn trì chú đầu tiên, Thầy trụ trì chùa Buddha Gaya ở Rangon - U
Thoundara - phát tâm cung thỉnh Xá Lợi Phật từ Tháp Vàng Shwedagon về
tặng đoàn chúng tôi mỗi người một viên. Nhưng Thầy cũng nói thêm : nếu
Thầy cung thỉnh không được thì thôi.
Và đúng như lời hứa, ngày hôm sau, khi đoàn chúng tôi phát tâm cúng dường
trai tăng cho 108 vị tăng Myanmar xong, Thầy U. Thoundara cung thỉnh các
ngài Sayadaw tụng kinh và tặng Xá Lợi Phật cho chúng tôi. Thật không thể
ngờ! Đoàn chúng tôi ai cũng vui mừng. Riêng tôi, niềm hạnh phúc cứ như
những con sóng nhẹ vỗ mãi trong lòng đến tận hôm sau.
Ngày hôm sau, theo chương trình, tôi gặp anh Hùng tại Sedawa Hotel để anh
sắp xếp cho tôi gặp thủ tướng. Anh nghe tôi và đoàn Anan nói về Xá Lợi
Phật, tự nhiên anh rất vui mừng và xin được cung thỉnh Xá Lợi phụng thờ.
Đêm hôm đó, tôi trở lại chùa Buddha Gaya và nói với Thầy U. Thoundara là
tôi sẽ tặng phần Xá Lợi Phật của tôi cho anh Hùng, xin Thầy hoan hỉ ngày mai
làm lễ cho anh. Thầy đồng ý. Thế là sau khi trao tặng tượng Phật ngọc cho
6
Thủ Tướng, chúng tôi ba người trở về chùa làm lễ trao tặng Xá Lợi cho anh
Hùng. Trong vòng hai phút, anh Hùng đã thành tâm chiêm bái và cung thỉnh
Xá lợi Phật, sau đó đi thẳng sân bay quốc tế Rangon để kịp cùng Thủ Tướng
bay đến Bangkok. Tôi rất vui mừng vì mình chia sẻ được phần Xá Lợi của
mình cho người có lòng kính ngưỡng phụng thờ minh chứng giác ngộ trên thế
gian: Xá lợi Phật.
Anh Hùng đi, năm tiếng đồng hồ sau, tôi cũng trở về Bangkok theo kế hoặch
đã định. Thật bất ngờ, khi tôi vừa mang hành lý ra khỏi phòng và chuẩn bị
chào Thầy U. Thoundara để về, Thầy nhanh chóng đưa tôi đến điện Phật,
trịnh trọng nâng Xá Lợi Phật trong hai tay để tặng tôi. Thầy nói: Đây là phúc
đức của những người biết chia sẻ như Thầy. Tôi nâng Xá Lợi trong hai tay,
vừa bất ngờ vừa vui sướng. Thầy đã tặng tôi đến hai tháp Xá Lợi: một tháp
có hơn 10 viên lớn màu trắng và tháp còn lại là cả ngàn viên nhỏ li ti đủ các
sắc màu.
Thật bất ngờ và đầy xúc động! Lời Thế tôn dạy thật nhiệm mầu: Phước báu là
có thật. Trong giây phút đó, tôi thấy Xá Lợi Phật, tôi và người tặng như những
nhiệm mầu hóa hiện từ những câu chuyện cổ thời Phật ngày xưa. Tôi quỳ
xuống đảnh lễ Phật, đảnh lễ Thầy U. Thoundara và cung thỉnh xá lợi Phật.
Trong tôi tràng ngập niềm an vui của sự thể nghiệm Phật Pháp: Phước báu là
có thật. Khi chúng ta chia sẻ bằng tất cả tấm lòng thì mầu nhiệm sẽ có mặt
ngay!
7
8
ĐƠN GIẢNCHỈ VÌ CHỊ CẦN
Ngày 04 tháng 03 năm 2010, tôi đang ở phi trường quốc tế Rangon để bay về
Lumbini Nepal, có một chị tiếp viên hàng không Việt Nam chạy ngược xuôi
tìm người Việt Nam đổi tiền Việt sang tiền USD. Chị hỏi các bạn người Việt
lúc đó nhưng không ai giúp chị cả. Tôi ngồi một góc quán uống nước và nhìn
chị. Gần 10 phút, cuối cùng tôi thấy mình cần phải giúp chị, tôi gọi lớn: chị ơi,
mình đổi cho chị. Chị quay người lại, đến gần tôi, tôi đã đổi cho chị 200 USD.
Chị cảm ơn tôi và hỏi tôi đi về bằng Việt Nam Airline phải không. Tôi trả lời chị
là tôi không về Việt Nam, tôi về Lumbini bằng Thai Airway. Chị nhìn tôi có vẻ
ngạc nhiên.
Tôi nghĩ chị ngạc nhiên vì hai lý do:
1. Lumbini là ở đâu
2. Tôi không về Việt Nam tại sao đổi tiền Việt Nam cho chị
Và đúng như tôi đoán, chị hỏi tôi: Thầy không về Việt Nam tại sao Thầy đổi
tiền Việt Nam cho tôi? Tôi nhìn chị và tặng chị một nụ cười tươi trên gương
mặt gầy mang hàm răng hô của tôi. Chị cũng lịch sự gửi lại tôi một nụ cười
thật dễ thương và chân thành. Tôi nói: chị biết tại sao tôi không về Việt Nam
mà lại đổi tiền Việt cho chị không? Dạ không, chi đáp. Tôi tiếp: có thể nhiều
năm tôi vẫn chưa sử dụng đến số tiền của chị, vì không biết tôi có về Việt
Nam không. Tôi đổi tiền cho chị chỉ vì một lý do vô cùng đơn giản: chỉ vì ngay
bây giờ và tại đây chị cần đổi thế thôi.
Chị vô cùng bất ngờ khi nghe tôi trả lời. Chị lúng túng chào tôi và bước đi. Tôi
nhìn theo chị. Chị đi được khoảng 10 bước chân thì quay lại nhìn tôi và không
quên tặng thêm cho tôi một nụ cười tri ân dễ thương.
9
NGHIỆP QUẢ CỦA MÌNH
Ở đất Phật rất nhiều năm, nên tôi có rất nhiều duyên lành về chiêm bái những
nơi liên quan đến cuộc đời đức Phật, một trong những nơi cho tôi nhiều cảm
xúc và suy tư nhất là Khổ Hạnh Lâm ( Mahakala).
Một lần nọ, tôi cùng phái đoàn do Thầy tôi hướng dẫn đi chiêm bái và tặng
cháo cho những người bạn nghèo ở Khổ Hạnh Lâm. Khổ Hạnh Lâm là nơi
đức Phật chọn để ép xác khổ hạnh suốt sáu năm trong một hang động nhỏ.
Đây cũng chính là nơi đức Phật khám phá ra con đường Trung Đạo, chuyển
hóa Ngài từ một con người như bao nhiêu con người trở thành một bậc Thầy
giác ngộ vĩ đại và bất tử của nhân loại.
Dọc theo con đường lên núi Khổ Hạnh Lâm không hơn 1Km, nhưng ôi không
biết bao nhiêu con người đủ mọi độ tuổi xin ăn. Tôi và đoàn rất xúc động. Hầu
như ai cũng động tâm từ và muốn chia sẻ chút ít của mình có được cho các
bạn đang khó khổ. Có vài người bạn trong đoàn chúng tôi thương những
người ăn xin đến chảy nước mắt. Tôi thì cũng rất thương họ, nhưng là một
nhà sư, tôi luôn quán sát sự vật và hiện tượng trên căn bản biện chứng pháp
giải thoát Bốn Thánh Đế, và chia sẻ tình thương theo phương cách của một
nhà sư.
Từng bước quán sát, tôi thấy người ăn xin nơi này không giống người ăn xin
trên quê hương tôi. Ở đây họ ăn xin nhưng lại rất vui vẻ. Có nhiều người lớn
tuổi giả bệnh nằm bên đường để cảm động lòng khách hành hương. Khi
khách hành hương đi qua, mục tiêu cũng được thực hiện, thì các bạn giả
bệnh ấy đứng dậy và thái độ rất bình thường, không cần ngại chúng tôi.
Tìm hiểu thêm, tôi biết khu vực Khổ Hạnh Lâm có một ngôi chùa Hàn Quốc.
Nơi đây chùa đã xây dựng trường học, bệnh xá … và cố gắng thuyết phục
10
các em trong làng đi học miễn phí, bởi các Thầy và sư cô Hàn Quốc nghĩ chỉ
có giáo dục mới là phương pháp tốt nhất để giúp dân làng và những bạn trẻ
nghèo xung quanh vươn lên. Dù mình hay khách hành hương có cho họ 10
rupee hay 20 rupee thì cũng không thay đổi được gì tốt đẹp cho cuộc đời họ.
Họ nghèo vẫn nghèo vì không biết tự trọng, không biết tự định hướng bản
thân. Và, có khi còn ngược lại, mình cho tiền họ nhưng thiếu suy nghĩ kỹ và
không hợp lúc, rất có thể sẽ là nguyên nhân làm họ lười biếng làm ăn và học
tập, vô tình mình góp phần biến họ thành gánh nặng cho xã hội và sống mãi
kiếp sống ăn mày.
Khi thấy hiện cảnh và hiểu được suy nghĩ và việc làm của chùa Hàn Quốc, tôi
vô cùng thương họ và quí mến chùa. Thầy cho tôi biết thêm chùa rất cố gắng
đưa các em vào học, nhưng rất vất vả, vì khi thấy người hành hương đến cho
tiền, cha mẹ các em không chịu để con mình vào trường học. Và, chính các
em cũng không muốn học mà muốn chạy theo đoàn xin tiền.
Nghe thầy nói, từ trong sâu thẳm tim tôi rất đau. Vừa thương vừa buồn.
Thương vì người lớn giả bệnh để gạt lòng thương của người tốt, để rồi chính
cái nhân giả dối và gạt gẫm ấy cho họ cái quả bần cùng và bệnh hoạn mãi
mãi. Còn các em, vì cộng nghiệp vô minh của gia đình và cộng đồng, các em
không có được giáo dục cơ bản, không biết tự vươn lên trong cuộc sống, và
hơn hết là các em sẽ là thế hệ tiếp theo giả dối và lường gạt tình thương của
mọi người. Đời này qua đời khác, các em sẽ không bao giờ giàu có, sẽ không
bao giờ biết sẻ chia.
Càng hiểu tôi càng thương nơi này, đặc biệt các em, có những người vừa
sinh ra đời vài tháng đã cộng nghiệp với gia đình và làng xóm để chịu cái quả
thất học và khổ nghèo trọn cuộc đời mình.
Càng thương tôi càng buồn. Bởi chính chúng tôi cũng góp phần cho nơi này
trở thành làng ăn xin và gian dối. Tại sao chúng tôi không giúp các em về giáo
dục? Tại sao chúng tôi không giúp dân làng về y tế? Tại sao chúng tôi không
học theo ngài Ca Diếp khuyên họ bán cái nghèo? Tại sao chúng tôi không
11
góp sức khuyến khích họ bố thí như câu chuyện tại thành Saravati thời đức
Phật?
Bước chân đi mà lòng tôi cứ nặng. Tôi cứ nghĩ hoài về các em, về cái nhân
đáng sợ mà các em và quê em đã tạo hôm nay, về gương mặt thơ ngây của
các em rất cần được yêu thương, làng nghèo của các em rất cần được giúp
đỡ.
Tôi nguyện sẽ hết mình với các em, với quê em khi có thể. Và, tôi sẽ không
lập lại hành động đóng góp vào cái nhân dối trá và lường gạt của các em. Tôi
sẽ học theo ngài Ca Diếp mua đi cái nghèo của họ. Tôi sẽ kể các em nghe
những câu chuyện sẻ chia để các em biết bố thí. Đặc biệt, tôi sẽ chung một
bàn tay với chùa Hàn Quốc để các em được chăm sóc sức khỏe, được đến
lớp, được có tri thức căn bản đủ để đứng lên ngay trên quê hương em bằng
chính đôi chân và trí tuệ của các em.
12
NIỀM VUIHÒA HỢP
Chùa chúng tôi rất nhỏ, nằm khiêm tốn trong khuôn viên 2 heta giữa vườn
thiêng Lumbini, nơi hơn 2600 năm trước Phật Thích Ca giáng trần. Đây là
ngôi chùa quốc tế đầu tiên tại Lumbini do thầy tôi xây dựng theo lời mời của
nhà vua Bidrendra xứ Nepal. Chùa nhỏ, nhưng rất cao, cao hơn cả núi
Everest và Kailash. Thầy tôi thường nói vui: mình không có tiền cất lớn thì
mình cất cao để mình thấy người ta nhưng người ta không thể thấy mình.
Mùa xuân 2010, tôi vừa học được mấy chữ Hoa từ Beijing trở về, thì cùng lúc
có ni sư Giác Liên từ Việt Nam và Minh Tạo từ Hồng kông cũng trở lại chùa.
Ở chùa lúc bấy giờ đã có Minh Hòa từ Việt Nam, Minh Liên từ Canada và cô
Bạch Liên từ Paris sang tu tập và công quả. Thế là, sáu chúng tôi trở thành
một chúng “khác thường” cùng nhau tu tập tại Chùa.
Bạn đừng hiểu lầm sự “khác thường” nhé! “khác thường” tôi nói ở đây là một
tập thể gồm nhiều thành phần xã hội, nhiều giới tính, nhiều độ tuổi, nhiều tính
cách, nhiều quốc gia, nhiều quan điểm khác nhau… nhưng có thể sống chung
hòa hợp với nhau.
Người lớn tuổi nhất trong sáu chúng tôi là Ni sư Giác Liên, một sư nữ già hơn
70 tuổi, nhưng đầy tâm huyết cho Đạo Pháp, quê hương và con người. Người
13
thứ hai là cô Bạch Liên, một cư sĩ nữ đã hơn 60 tuổi, rất thích tu tập và làm
việc phúc thiện. Người lớn tuổi tiếp theo là Minh Tạo, gần 40. Minh Liên 34.
Minh Hòa 25. Người cuối cùng là tôi, một nhà sư 33 tuổi, nhỏ con ốm yếu,
vừa vừa hô xấu.
Chúng tôi mỗi ngày cùng nhau niệm kinh tu tập, cùng nhau ăn cơm, cùng
nhau vui chơi, cùng kể cho nhau nghe những kinh nghiệm tâm linh trên
đường Đạo, cùng nhau mỗi sáng kinh hành chiêm bái Lumbini, cùng ăn
Chapati, uống nước mía, và uống trà kể chuyện cổ kim, có những lúc mấy
cậu nhỏ còn kể cho Ni Sư và cô Bạch Liên nghe những chuyện phong thần võ
hiệp.
Ni Sư Giác Liên và cô Bạch Liên là hai người lớn tuổi nhưng tâm hồn vô cùng
trẻ. Minh tạo, Minh Liên và Minh Hòa thì rất chuyên cần tu tập và rất có óc
khôi hài. Chỉ có mình tôi là người trẻ nhưng có tâm hồn “hơi già”. Chúng tôi
xem nhau như thầy trò; chúng tôi xem nhau như người thân; chúng tôi xem
nhau như Pháp lữ. Biên giới giữa chúng tôi có lúc có, có lúc không. Hình
tướng của chúng tôi có lúc có có lúc không. Chúng tôi luôn lắng nghe nhau để
hiểu, nhìn lại nhau để thương. Và như thế, chúng tôi xây dựng nên một không
gian hòa hợp; chúng tôi tạo ra một niềm vui hòa hợp cho nhau.
Sống trong không gian và niềm vui hòa hợp, tôi tự thấy tôi có trách nhiệm cần
phải chung tay xây dựng, chung sức vun bồi, nếu tôi không muốn không gian
và niềm vui hòa hợp tan biến. Niềm vui và hạnh phúc của sáu chúng tôi có
mặt trong nhau. Nó như một vòng tròn hạnh phúc chia đều cho mỗi thành
viên. Có Ni Sư thì có canh chua, có những câu chuyện kinh nghiệm tâm linh
và nhân tình thế thái; có cô Bạch Liên thì có nước mía, có cô giáo dạy tiếng
Pháp; có Minh Liên thì có người khôi hài và tạo tiếng cười cho người khác; có
Minh Tạo thì có người lo vật liệu xây dựng, theo dõi công trình xây cất; có
Minh Hòa thì có những bữa ăn ngon; có tôi thì có người ăn và người nghe kẻ
chuyện.
14
Hạnh phúc ở đâu, Tôi tự hỏi. Phải chăng đang ở đây và bây giờ trong không
gian tâm linh và niềm vui hòa hợp, tôi tự trả lời. Người là ai và tôi là ai, tại sao
không chia sẻ với nhau khi còn có thể? Đã biết hận thù không diệt được hận
thù sao không thử dùng đến tình thương? Niềm vui hòa hợp đã hé mở cho tôi
một con đường nhỏ:
Con đường nhỏ an vui,
Không có nắng gắt trưa hè của kém bằng
và tự ngã.
Con đường nhỏ an vui,
Chỉ có bóng mát tình thương hòa hợp
giữa ta với muôn loài.
Không có ta mà cũng không có em,
Chỉ có những bông hoa
mỉm cười bên hàng dậu.
Hơn kém bằng là mặc cảm,
Sẽ hóa thân khi bình minh gọi thái dương về.
Con đường nhỏ an vui,
Sẽ bắt đầu bằng niềm vui hòa hợp, ta đã thấy,
Trong ấy có em, có ta, có đủ thiên nhiên với muôn loài trong huyền diệu sắc
không.
15
16
NGHEĐỂ THẤY MÌNH
Đi xuất gia được hơn 10 năm, ở nhiều chùa tại Việt nam, chưa bao giờ tôi bị
ai xem thường hay lớn tiếng. Từ người lớn đến người nhỏ trong các chùa tôi
đến hầu hết đề quí mến tôi. Tôi được xem như là biểu tượng của phạm hạnh
và lý tưởng học đạo giải thoát. Chuyện vui xảy ra bắt đầu từ khi tôi chiêm bái
đất Phật tại Ấn Độ và dừng chân công quả tại Việt Nam Phật Quốc Tự -
Lumbini xứ Nepal năm 2005-2008.
Trong những tháng ngày công quả tại Lumbini, tôi có duyên được gặp một sư
tỷ rất dễ thương mà cũng rất dễ ghét. Nghe kể sư tỷ đến Ấn độ học Phật học
gần 10 năm tại đại học New Delhi. Sau khi hoàn tất PH.D, sư tỷ đến Lumbini
là công quả tại Việt Nam Phật Quốc Tự.
Là một người chân thành nhưng cương trực, tôi được chùa giao một số công
việc. Tôi rất nhiệt tình trong công việc, hoàn toàn không có một ẩn ý phía sau.
Rất giản dị, tôi làm hết mình chỉ vì thấy cần phải làm thế thôi, nhưng không
hiểu sao, sư tỷ không vui với tôi. Sư tỷ tìm đủ mọi khía cạnh không dễ thương
của tôi để gây khó cho tôi ngoài sáng lẫn trong tối.
Mỗi ngày tôi thường có thói quen lạy sám hối 18 lạy và ngồi nhìn lại công việc
trong ngày trước khi ngủ. Tôi thường nhìn thấy hình ảnh sư tỷ không mến tôi,
và tôi cũng thường đặt rất nhiều câu hỏi tại sao, đồng thời luôn cố gắng tìm
cách sống cho hòa hợp và an lạc.
Ngày lại ngày qua, tôi thấy sư tỷ không những không mến tôi mà còn không
mến hầu hết những người đến làm công quả tại Chùa, đặc biệt những người
được Chùa tin tưởng và giao nhiều công việc.
Có một hôm, có lẽ sư tỷ quá giận tôi từ một nguyên nhân tưởng chừng như
đơn giản: sư tỷ được giao công việc mua vật liệu xây dựng để làm Quan Âm
Các tại phi trường Bhairawa- Nepal, nhưng thấy sư tỷ không vui với công việc
17
và chậm triển khai chương trình nên tôi đề nghị được thay thế. Sau đó tôi nhờ
các anh em thợ Việt Nam mượn sắt do sư tỷ mua để làm sắt chuẩn bị cho
ngày mai đến phi trường đổ móng khởi công. Trong lúc các anh em thợ lấy
sắt làm thì tôi nghe có tiếng rất lớn của sư tỷ. Sư tỷ la lớn là không ai được
lấy sắt của sư tỷ mua, ai muốn làm thì phải tự mua mà làm. Nghe tiếng sư tỷ
la, tôi vội đến nơi để làm dịu. Tôi nói với sư tỷ là sắt chưa làm đến, xin sư tỷ
cho mượn để chuẩn bị ngày mai đổ móng khởi công, trong vòng ba ngày tôi
sẽ mua và trả lại cho sư tỷ thôi. Không ngờ sư tỷ thấy mặt tôi lại càng giận, cô
thét lớn: “thầy giỏi mà, giỏi thì mua sắt về mà làm, sắt này tôi mua, không ai
được lấy sử dụng”. Sư tỷ la tôi giữa bao nhiêu người như thế làm tôi bị mất
chánh niệm và thấy khó chịu. Sáng ngày mai là đổ bê tông móng và trụ, hôm
nay sư tỷ không cho mượn sắt để làm biết làm sao? Mọi việc đã được thông
báo rồi với phi trường, ngày mai họ sẽ cho xe vào chở thợ và vật liệu ra để
khởi công, đột nhiên xảy ra chuyện không vui thế này là hỏng rồi. Kế hoặch
ngày mai sẽ thất bại, sẽ mất uy tín với phi trường, sau này rất khó hợp tác và
điều hành các công việc khác. Vừa thấy khó chịu; vừa bị sư tỷ không lịch sự;
cộng thêm tình hình thực tế cấp bách, tôi chỉ tay vào sư tỷ nói: “cô đừng gây
khó người khác, tôi nhất định sẽ tiến hành công việc như kế hoặch, không
cần phải dùng đến sắt của cô”. Đã nói là làm, tôi ngay tức khắc điện thoại cho
anh chàng cung cấp vật liệu xây dựng yêu cầu anh đưa sắt gấp đến ngay
chiều hôm đó. Tôi lại tiếp tục thuyết phục các anh thợ Việt Nam hoan hỉ làm
việc đêm để hoàn tất việc cắt và buộc sáu trụ và sáu vĩ sắt để ngày mai kịp
đưa ra phi trường tiến hành đổ móng khởi công Quan Âm Các như đã lên kế
hoặch với phi trường. Tối hôm đó, tôi, một anh kỹ sư và sáu anh thợ Việt Nam
cùng nhau làm việc đến tận 2:30 khuya mới được nghỉ ngơi. Sáng ngày mai,
chúng tôi đang lúc chuẩn bị ra phi trường để làm việc thì sư tỷ xuất hiện.
Gương mặt của sư tỷ mang rất nhiều lửa, miệng của sư tỷ cháy lên những lời
nói làm tôi và mọi người vô cùng bất ngờ: “Thầy giỏi lắm, cái đồ vừa hô vừa
xấu vừa hung dữ”. Nghe sư tỷ nói, anh kỹ sư và sáu anh thợ hết hồn. Thứ
nhất là quá bất ngờ cho sư tỷ; thứ hai là quá ngại tôi sẽ nổi nóng lên vì mất
chánh niệm. Nhưng ngược lại, tôi rất bình thản đón nhận lời nói của sư tỷ. Tôi
18
nở một nụ cười để tự an tĩnh tâm hồn, sau đó nhìn sư tỷ. Sư tỷ như không
thèm nhìn tôi, quay mặt bỏ đi. Đang lúc sư tỷ đi thì xe từ phi trường Bhairawa
vào đến, không còn đủ thời gian để thấy lời nói của sư tỷ làm tôi khó chịu, tôi
cùng mọi người lên xe đi thẳng công trường. Câu chuyện chỉ có thế.
Công việc xong, tôi trở lại chùa, vẫn theo lệ của mỗi ngày, lạy Phật và tỉnh
tâm nhìn lại trước khi ngủ. Tối hôm ấy lời nói của sư tỷ bỗng nhiên hiện lên
đậm nét trong tâm trí tôi: “đồ vừa hô vừa xấu vừa hung dữ”. Tôi vừa theo dõi
hơi thở để có chánh niệm, vừa nhìn lại lời nói của sư tỷ để thấy mình. Tôi
nhìn rất lâu, rất kỹ và thấy lời nói của sư tỷ có đúng mà cũng có sai. Đúng là ở
một góc độ nào đó tôi vừa hô vừa xấu. Sai là có hô xấu nhưng không hề
hung dữ. Tự nhiên tôi nở được một nụ cười. Sự khó chịu của tôi về sư tỷ
hoàn toàn tan biến. Trong tôi nảy sinh một tâm cảm thông chia sẻ với sư tỷ.
Tôi nghĩ có lẽ sự hiện hữu của tôi đã vô tình lấy đi cái gì đó của sư tỷ. Sự
nhiệt tình và thẳng thắn của tôi đã động đến sự vị kỷ tiềm ẩn trong sâu thẳm
tâm hồn của nhiều người, trong đó có thể có sư tỷ. Lý tưởng tu tập và công
quả của tôi đã vô tình kết tủa và lãnh cảm với sông ái và biển thương giữa
những con người.
Tôi bắt đầu thấy tôi, bắt đầu thấy tiềm ẩn trong tôi bao nhiêu xấu xa của tham
sân mê dại. Câu nói của sư tỷ tôi vẫn còn nghe, nhưng không còn thấy sư tỷ
nữa. Lúc này, hơi thở tôi rất nhẹ, tôi đã thấy tôi.
19
CÓ MỘT
NIỀM VUI
Khi học tại trường Đại học ngôn ngữ và văn hóa Bắc Kinh (北京语言大学) tôi
có thói quen dạo phố và làm phước cuối tuần. Có một lần nọ, đi qua con phố
mua sắm trên đường Cheng-Fu-Lu, tôi thấy một cụ già co người trong cái
lạnh, hành khất mưu sinh và một bé gái ngồi cuối mặt, phía trước có mảnh
giấy ghi máy dòng chữ Trung Hoa đại ý là xin được giúp tiền ăn cơm và xe về
lại quê nhà.
Tôi đến gần cụ già và để lại trong lon của cụ một đồng tiền, sau đó nhìn sang
em gái bên cạnh. Tôi ngồi xuống gần em, hỏi thăm em. Em ngẩng đầu nhìn
tôi, vừa nói vừa khóc, kể cho tôi nghe về câu chuyện đau thương của mình.
Thật xúc động, tôi có ý định giúp em, nhưng trong tôi bấy giờ lại có một tâm lý
khác xuất hiện, tâm lý nghi vấn em có thật sự đang trong hoàn cảnh khó, hay
đây chỉ là một kịch bản lường gạt mọi người.
Đang lúc phân vân giữa cái thiện và bất thiện như thế, một cô bạn Trung
Quốc thấy cảnh đó liền cho tôi biết đây chỉ là cảnh giả do bọn lười biếng làm
ăn đạo diễn để lường gạt. Bạn ấy bảo tôi đừng giúp họ. Đang phân vân, thêm
người bạn Trung Quốc khuyên, lúc ấy tôi ngã theo phía hoài nghi hoàn toàn.
Tôi đứng dậy và đi cùng các bạn tiếp tục chiều vui trên phố của mình.
Đi được khoảng gần 1Km, hình ảnh em gái bên đường ấy lại xuất hiện trong
tâm trí tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy bứt rứt, cảm thấy hối tiếc vì mình vừa bỏ qua
một việc giúp người. Tâm tôi rất nặng, thấy khó chịu vô cùng. Trong sâu thẩm
tâm hồn tôi tự dưng phát lên lời khấn nguyện cho ai đó giúp em.
Đi dạo phố được hơn 2 giờ, tôi đi ngược lại con đường cũ để về lại ký trúc xá.
Cũng chỗ cũ bên cụ già, em vẫn ngồi đó, trong cái lạnh run người của Bắc
kinh mùa đông, không nói lời nào, cuối mặt giữa muôn người qua lại nói cười
trên phố.Thấy em tự nhiên lòng tôi thấy đau. Tôi bổng thấy ký ức tuổi thơ tôi
20
trỗi dậy, ký ức của những ngày buồn khi biến thành cậu bé mồ côi.Tôi quyết
định giúp em, mặc dù các bạn Trung Quốc lại một lần nữa ngăn cản.
Tôi đến bên em, nhẹ trao cho em 125 nhân dân tệ theo yêu cầu của em trên
tấm giấy. Tôi nói em nên đi ăn cơm và sớm về lại quê em. Bắc Kinh là một
thành phố đông người, nó là nơi tốt cho những người có trình độ chuyên môn
cao mà không phải cho em, trừ khi em quyết tâm nỗ lực học tập và làm việc
để thay đổi cuộc sống. Thật sự muốn ở lại Bắc Kinh em hãy cố gắng học tập
cho có chuyên môn, có như thế cơ hội mới mở ra cho em.
Em rơi nước mắt, cảm ơn tôi và nặng gót bước đi. Nhìn theo bước chân em,
khối đá nặng trong lòng tôi nhẹ như hạt sỏi rơi xuống đại dương và dần biến
mất. Lòng tôi vô cùng hạnh phúc, hạnh phúc thật khó tả, cái hạnh phúc tưởng
chừng như nghịch lý nhưng rất thật: hạnh phúc của người cho.
Tôi nghĩ thế giới là một vòng tròn, trong ấy em là một nhân tố. Tôi là một con
người tầm thường, không biết làm sao để phân biệt em đúng hay không là
một con người thật sự khó khăn và đang cần giúp đỡ. Tôi chỉ biết rằng trong
giờ phút đó, tình thương trong tôi gọi tôi phải giúp em. Cho dù em gạt tôi, giả
sử, tôi vẫn thấy không buồn và hối tiếc. Trong cuộc đời tôi, một trong những
điều tôi hối tiếc là bỏ lỡ việc làm giúp người đang cần và rất cần giúp đỡ để
vượt qua những khó khăn.
21
HẠNH PHÚC
CỦA NGƯỜI CHO
Nhân chuyến về lại Việt Nam để làm Visa học M.A tại trường Đại học
Margadh – India, tôi theo Thầy H. Diệu đi nói chuyện Phật Pháp ở một số nơi
tại Sài Gòn và Hà Nội. Hôm chia tay Thầy tại nhà khách bộ ngoại giao trên
đường Phạm Ngọc Thạch ở Sài Gòn, có anh Hoàng, Thầy cho tôi hai cái áo
tràng và nói: Nhuận Đạt mặc giùm Thầy. Được nhận quà Thầy cho, tôi rất vui
mừng. Sau khi tiễn Thầy đi, tôi trở về lại Tịnh Xá Ngọc Đăng và lấy ngay hai
chiếc áo Thầy cho ra thử.
Hai chiếc áo may rất đẹp, có điều với tôi hơi rộng và dài. Mặc vào, đi qua đi
lại, nhìn ngắm hồi lâu, tự thấy với mình không hợp lắm. Tâm tôi bắt đầu phát
sanh hai hướng tâm lý trái ngược: 1. Muốn cho các bạn đồng tu khác; 2.
Muốn mặc, dù không hợp một chút, nhưng nó là ân phước của Thầy cho.
Trong lúc phân vân, tôi sực tỉnh theo dõi hơi thở và nhìn hai trạng thái tâm lý
của mình. Tôi thấy khổ thọ1 có mặt trong tâm tôi. Tiếp tục quán chiếu, tôi
khám phá ra người cho thật hạnh phúc. Ngược lại, người nhận, ví dụ như tôi,
chỉ với một chút “thích” và “không thích” mà tâm xuất hiện khổ thọ.
5 ngày sau, khổ thọ trong tôi không còn. Thay vào đó là hạnh phúc của một
người vừa thể nghiệm được Dukkha2 của người nhận. Tôi hân hoan chia sẻ
với anh Hoàng: bây giờ tôi mới thể nghiệm sâu sắc hạnh phúc của người cho
1 Cảm giác khó chịu, không vui2 Chân lý thứ nhất trong Tứ Thánh Đế được Đức Phật khám vào thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch, có nghĩa là sự bất như ý, không an lạc.
22
và cái khổ của người nhận. Muốn hạnh phúc phải nên làm người cho. Anh
Hoàng cười rất thõa mái, nói đùa với tôi: “người ta lo cho Sư Phụ, Sư Phụ lo
lai cho Thầy, Thầy là người hạnh phúc nhất trên đời rồi còn gì? ”. Rồi anh kể
thêm cho tôi nghe một câu chuyện:
Một hôm nọ, anh cùng một số bạn gặp gỡ và ăn uống với nhau. Một người
trong số đó đã nói với một người bạn khác tên Châu: ông cho người ta rất
nhiều nhưng ông chưa bao giờ cho tôi cái gì hết. Anh Châu hỏi lại: Bây giờ
ông muốn làm người cho hay người nhận? Người bạn kia không trả lời. Anh
Hoàng suy nghĩ một chút và lên tiếng: Tôi sẽ làm người cho. Anh là đại gia
anh cho 100 đồng, tôi không có nhiều thì tôi cho 1 đồng, nhưng tôi chọn vế
cho.
Câu chuyện anh Hoàng kể thật giản dị, nhưng đối với tôi thật hấp dẫn và ý
nghĩa. Nó làm sáng tỏ trong tôi cái hạnh phúc của người cho. Tôi nói với anh
Hoàng lúc đó: Đúng, mình vừa thể nghiệm được thế nào là “khổ” của người
nhận, người cho mới là người hạnh phúc nhiều hơn. Anh Hoàng cười, tôi nói
thêm: người cho là người giàu có; người nhận là người nghèo khổ.
Đang nói đến người nghèo khổ, tôi thấy tâm tôi xuất hiện một năng lượng tâm
lý xót thương. Tôi thầm cầu nguyện: xin cho con người biết bán đi cái nghèo
của mình bằng cách “cho”, dù ấy chỉ là một ý niệm cỏn con.
23
ĐỒ THẬTĐỔI ĐỒ GIẢ
Cha mẹ sinh ra tôi trong thời điểm quê hương Việt Nam khó khăn, lại thêm
mang nhiều bệnh tật, nên tôi được “Phật Trời ban phước” cho hai hàm răng
hô rất dễ thương – Tôi thấy thế. Nhưng một số bạn bè và những người có
tình cảm với tôi thì có ý kiến ngược lại. Họ phát biểu: “Thầy ăn nói dễ mến
nhưng có hàm răng xấu quá. Đề nghị Thầy đi sửa, chúng tôi ủng hộ …”
Từ lúc tôi còn ở Việt Nam cho đến khi sang India làm công quả tại Việt nam
Phật Quốc Tự - Buddha Gaya, thỉnh thoảng vài tháng lại có người cho ý kiến
về hàm răng dễ thương của tôi.
Có một lần, xuân năm 2008, một phái đoàn từ Việt Nam sang Buddha Gaya
chiêm bái Phật tích, họ gây áp lực cho tôi sửa răng bằng cách gửi tiền cho
Thầy tôi – Thầy H.Diệu – để Thầy chuyển lại cho tôi và yêu cầu tôi sửa răng.
Tôi rất vui và cảm ơn mọi người, và tôi lại nữa đùa nữa thật rằng hàm răng là
tặng phẩm của cha mẹ. Nó là phương tiện giúp tôi phòng hộ nhiều chướng
ngại trên con đường tâm linh.
Thế rồi một ngày nọ, một anh bác sĩ nha khoa rất dễ thương, nhiệt tình và có
tình cảm với người tu hành, hành hương chiêm bái đất Phật. Tôi được Thầy
cho theo phụ giúp đoàn chiêm bái. Chúng tôi có duyên nói chuyện với nhau,
rất hợp nhau, rất quý nhau. Đặc biệt tôi và anh là hai người ở hai vùng quê
khác nhau, không bà con và cùng chung huyết thống, nhưng tên gọi của
chúng tôi rất gần gũi và rất giống anh em. Tôi: Trần Minh Thành; anh: Trần
Minh Khoa.
Phải nói rằng nhiều năm theo Thầy công quả và học tập, tôi tiếp xúc khá
nhiều người, từ cao cao cấp chính phủ cho đến cao cấp tôn giáo, từ bình dân
của những làng quê nghèo Nepal và India cho đến tầng lớp trung lưu của
24
những quốc gia mà tôi đã đến: India, Nepal, Myanmar, Thailand … anh Minh
Khoa là một anh bạn đầy nhiệt tình, thiện chí, điềm tĩnh và giản dị.
Ngày chia tay về lại Việt Nam, anh nhã ý giúp tôi sửa lại hàm răng, rất chân
tình và rất thuyết phục. Tôi thấy cũng được, có lẽ cũng đã đến lúc mình cần
phải đổi đôi hàm răng đã cũ. Và, chúng tôi hẹn nhau khi có dịp tôi về Việt nam
và ở lại trên một tháng tôi sẽ liên lạc anh.
Ba tháng sau, tôi có việc phải về Việt Nam. Chúng tôi gặp nhau. Anh lặp lại ý
định cũ. Nhưng vì lúc này tôi có một số công việc phải làm, hơn nữa lúc ấy
lịch ở Sài Gòn của tôi chỉ có hai tuần, không đủ thời gian cho việc “làm đẹp”.
Nửa tháng sau, tình hình có thay đổi vì Visa nhập cảnh India của tôi có chút
trục trặc, tôi phải ở thêm tại Sài Gòn hơn tháng để hoàn thành. Tôi bắt đầu có
thời gian đưa việc sửa răng của mình ra ánh sáng chánh niệm. Tôi thấy răng
của mình không đẹp, nhưng không bị đau, không trở ngại ăn uống. Nếu thay
đổi răng giả, răng có thể đẹp, nhưng phải gặp những vấn đề về vệ sinh răng,
ăn uống cũng không tiện bằng răng thật, và có thể còn phải thường viếng Nha
sĩ để kiểm tra và thay đổi kịp thời… Thêm nữa, có tầm quan trọng rất đặc biệt,
là phát âm ngoại ngữ không chuẩn, tiếng nói có phần biến dạng.
Tôi thấy thêm: là một nhà sư, thân thể như một chiếc thuyền để sang bờ giải
thoát, cái quan trọng là thân thể khỏe mạnh, không bệnh tật, nếu đẹp càng
tốt. Hàm răng mình hiện tại mặc dù không đẹp, nhưng là hàng thật, rất khỏe
và vững chắc. Khi nào nó hư thì mình đổi, bây giờ còn ok, đâu cần phải đổi
đâu?
Quán chiếu như thế, tự nhiên tôi mĩm cười: Lạ thật, đời này vẫn còn có người
như mình muốn đem đồ thật đổi đồ giả sao?
25
NÓITHẬT LÒNG
Có một người rất yêu mến Đạo Phật và các nhà sư tu hành tên T.C, chị rất
quý kính Thầy T.L và rất nhiệt tình phổ biến các tác phẩm và bài giảng của
Thầy.
Ngày 19 tháng 06 năm 2010 chị hẹn gặp tôi tại Tịnh xá Ngọc Đăng, Sài Gòn.
Trong cuộc nói chuyện vui, chị hỏi tôi có từng đọc sách Thầy T.L không?
Là một con người vô tư và yêu thích chân thật, tôi trả lời có. Và nói thêm rằng
tôi cảm thấy không hợp với lối sống và tu tập của Thầy T.L. Tôi phân tích
thêm: Thầy T.L là một Thầy tu đáng kính, rất nhiệt huyết với con đừng tâm
linh Phật Giáo, là một vị Thầy có thể nương theo tu tập. Tuy nhiên, tôi tự thấy
mình không phù hợp.
Nghe tôi nói thế, chị có vẻ không vui. Lửa trong chị nhẹ cháy, chị hỏi tôi là đã
đọc sách nào của Thầy T.L.
Những lời gốc Phật dạy; Tạo duyên giáo hóa … do anh Minh Độ từng tu ở Tu
Viện Chân Như mang sang India tặng, tôi trả lời. Tôi giải thích thêm cho chị
một số câu nói của Phật trong Kinh và khuyên chị nên thận trọng, chỉ nên tin
và học theo khi chính bản thân đã kinh nghiệm được sự thật và hạnh phúc do
sự thật mang lại. Như thế chị sẽ không phải lãng phí thời gian, tâm lực và tài
lực bởi sự lợi dụng của kẻ khác. Cuộc nói chuyện của chúng tôi kết thúc ở đó.
Ngày hôm sau, chị điện thoại cho tôi, yêu cầu tôi cho chị xin tên người đã
tặng tôi sách của Thầy T.L. và từng tu học tại Chân Như. Tôi nói với chị là
anh Minh Độ. Chị cảm ơn tôi và cúp máy.
Thở một hơi dài, hình dung lại cuộc nói chuyện hôm qua với chị, kết hợp thái
độ của chị khi kết thúc cuộc gọi vừa qua, tôi suy nghĩ: mình nói thật lòng
nhưng đã vô tình đụng đến sự “thiêng liêng” của kẻ khác. Thật đúng cha ông
26
Việt nam từng dạy “sự thật mất lòng”. Thế Tôn cũng đã dạy: tin ta mà không
hiểu ta là phá ta. Ngài còn khuyến khích mọi người đến với Giáo Pháp của
Ngài để thấy chứ không phải để tin. Thế nhưng, cuộc sống lại có quá nhiều
người đến để tin mà không cần phải thấy.
27
PHỦ NHẬN
VÔ TÌNHTôi có một người bạn đạo rất thân là anh H. Chúng tôi đi chung đoàn với
nhau sang chiêm bái Đất Phật lần đầu tiên trong đời tôi vào ngày 25 tháng 12
năm 2005. Với tôi, một kẻ tu hành “có vẻ xấu xí”, nên mọi người không mấy
ấn tượng, bao gồm anh. Thế nhưng, “có lẽ có duyên”, trong nhiều chuyến đi
theo Thầy3 về Việt Nam, tôi và anh có dịp gần nhau, nói chuyện và hiểu nhau
hơn. Anh còn giúp tôi làm giấy ngân hàng bảo lãnh cho tôi du học tại India…
Từ đó, trong tôi tự cho anh là một người bạn đạo hữu duyên.
Tôi thấy anh và tôi rất có nhiều điểm chung về cách suy nghĩ và tu tập tâm
linh. Anh cũng nghĩ tôi là một người bạn giúp anh hiểu rõ thêm nhiều vấn đề
tâm linh và Phật pháp. Thế là mỗi khi có dịp, chúng tôi thường nói chuyện với
nhau, có khi chúng tôi nói cả những vấn đề “rất riêng tư” trong cuộc sống.
Một ngày mùa hè tháng bảy 2010, vì phải trở lại India gấp, tôi nhờ anh giúp
liên kết xuất bản 2 quyển sách nhỏ do tôi viết và soạn về cá nhân và chùa
Việt Nam Phật Quốc Tự: Cảm ơn những nhiệm mầu và Góp lá nhiệm mầu.
Anh vô cùng hoan hỉ, kể cả việc cho mượn tiền in và dò lại bản thảo.
Khi trở lại India, tôi lại tiếp tục gửi anh một tác phẩm khác do tôi viết từ năm
2005: Thiền quán niệm hơi thở - Anapanasati - dưới góc độ sức khỏe và
phát triển trí nhớ, nhờ anh tiếp tục in. Khoảng một tháng sau, anh điện thoại
cho tôi nói Thầy đề nghị không in vì chưa đến lúc. Tôi cười rất vui vẻ đón
nhận thông tin.
Nhưng rồi trong một lần khác anh gọi điện cho tôi nói về việc in Kinh Pháp
Hoa, câu chuyện quyển sách Thiền quán niệm hơi thở trở lại. Tôi đề nghị
anh in, anh nói đã thưa Thầy nhưng Thầy không ok. Tôi lại nói: Anh … để đó
tôi, tôi sẽ … Anh tiếp tục phản biện: mình cũng thật tình nói với Thầy về
3 Thầy H. Diệu, người khai sáng hai ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự nơi Phật Thích Ca giáng trần – Lumbini- và Đắc Đạo – Buddha Gaya.
28
quyển sách, mình có biết đâu… Cuộc nói chuyện vẫn tiếp diễn, và câu
chuyện được chuyển sang hướng khác …
Khi kết thúc cuộc gọi, liên tưởng lại những lời anh nói và tôi đã nói, tôi phát
hiện ra mình đã “phủ nhận vô tình” thiện ý của anh.
PHÉP LẠ
TỈNH THỨCSáng ngày 24 tháng 09 năm 2010, tôi đang hướng dẫn công nhân trồng hoa
thì giật mình bởi tiếng còi xe inh ỏi ngoài cổng chùa. Nhanh chân bước ra
cổng, thì ra là còi Taxi đưa sáu người Việt Nam đến viếng thăm chùa.
Giản dị như mọi ngày trong chiếc áo thun cũ bạc màu và chiếc quần nâu quê
mùa của một người ở chùa, tôi chánh niệm mở cửa đón đoàn vào thăm viếng.
Sau vài lời chào hỏi xã giao, năm trong sáu anh chị, dường như không nén
được cảm xúc lần đầu tiên thăm viếng ngôi chùa mang tên Việt nam đầu tiên
trên đất Phật, đã nhanh chân vào sân chùa chụp hình lưu niệm và vãng cảnh.
Một anh còn lại muốn nói với anh tài xế Taxi người India là 10 A.M đến đón
đoàn, nhưng không nói được tiếng Anh. Tôi giúp anh phiên dịch.
Dịch xong, tôi đi trước anh theo sau vào sân chùa. Vào đến nơi, gặp 5 anh chị
em đã vào trước, anh bạn mà tôi vừa giúp phiên dịch huyên thuyên khen ngợi
cảnh chùa và chỉ vào tôi giới thiệu với mọi người: “thằng này nói tiếng Việt và
tiếng Anh tốt lắm”. Nghe xong câu nói của anh, tôi thấy tâm lập tức phản ứng.
Nó bắt đầu lý luận và phán xét. Và tôi tỉnh thức ngay lập tức, hơi thở tôi có
mặt ngay để điều hòa phản ứng của thân và tâm tôi.
29
Sau khi chụp xong mấy tấm hình kỷ niệm, một anh cỏ vẻ lớn tuổi và cao địa vị
nhất trong đoàn đến gần tôi và trân trọng gọi tôi bằng Thầy: xin thầy cho phép
chúng tôi được lễ Phật chùa mình. Nghe về chùa, về Thầy Huyền Diệu đã lâu,
nhưng hôm nay mới đến được. Và cũng xin thưa Thầy là xin Thầy chú
nguyện giúp cho những tràng hạt để chúng tôi mang về Việt Nam tặng bạn bè
và người thân.
A di đà Phật, thay lời Thầy chào mừng quý anh chị thăm chùa, tôi đáp lại. Sau
đó tôi đưa các anh chị đến chánh điện lễ Phật và đọc thần chú Đại Bi để chú
nguyện cho những tràng hạt của quý anh chị.
Lễ Phật xong, tôi mời quý anh chị tham quan vườn chùa và dùng trà dưới
giàn hoa có hương thơm. Chúng tôi nói chuyện với nhau gần 60 phút về nhân
tình thế thái, về ý nghĩa cuộc sống, về lòng yêu nước, tình yêu thiên nhiên,
bảo vệ môi sinh, hồn thiêng sông núi Việt Nam, tâm nguyện xây chùa của
Thầy Huyền Diệu …
Các anh chị rất cảm ơn tôi đã tiếp đoàn, đã chia sẻ với anh chị nhiều điều vô
cùng mới mẻ với anh chị. Anh chị tỏ ra rất trân trọng và xin tôi viết cho các
anh chị mỗi người một đôi dòng trên những danh thiếp cũng như quyển sách
nhỏ của anh chị để kỷ niệm.
Lúc này, tôi thoáng thấy trên gương mặt anh bạn đã vô tình giới thiệu tôi:
‘Thằng này …’ hơi có gì đó gương gạo, khó xử. Tôi liền nhanh trí nắm tay anh
và nói: anh là người rất có phúc. Rất nhiều người theo Phật, mơ ước một lần
trong đời chiêm bái Đất Phật để thực hiện di chúc của Ngài4, mà vẫn chưa
đến được đây. Thầy tôi thường nói kiếp trước có tu kiếp này mới có duyên
lành như thế. Anh kiếp trước có tu đấy. Anh cố gắng làm nhiều điều tốt cho
quê hương và dân tộc. Chúng tôi cầu nguyện cho anh thành tựu những ước
nguyện tốt đẹp.
Tôi thấy gương mặt anh từ gượng gạo khó xử chuyển sang xúc động và hạnh
phúc. Anh nói: rất cảm ơn Thầy. Không ngờ thầy nhỏ mà có một tư duy sâu
4 Trong kinh Mahaparinibbana Đức Phật dạy người đệ tử Phật một lần trong đời nên về chiêm bái một trong bốn Thánh Địa: nơi Phật giáng trần, nơi Phật thành Đạo, nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên và nơi Phật nhập Niết Bàn. Người nào chiêm bái với lòng tin chân thành, lâm chung trên đường chiêm bái sẽ sanh an lạc.
30
rộng và một tình yêu quê hương, Đạo Phật và dân tộc như thế. Chúng tôi rất
cảm ơn Thầy Huyền Diệu và Thầy. Chúng tôi thấy mình rất hạnh phúc khi
được viếng thăm chùa.
Anh vừa nói dứt lời thì một anh trong nhóm báo cáo là đã đến giờ hẹn với
Taxi.
Buổi nói chuyện của chúng tôi khép lại, các anh chị lần nữa cảm ơn tôi và
chùa đã tiếp các anh chị. Tôi tiễn các anh chị ra cổng, chào và cầu nguyện
các anh chị an lạc.
Quay trở lại, tôi liếc nhìn đồng hồ thấy 10:30 sáng. Chùa lúc này thật yên tĩnh.
Một mình đi trên những viên đá phẳng ngang qua những hàng tre, tôi hít một
hơi dài và thở ra mỉm cười đầy mãn nguyện. Tôi thấy tỉnh thức là một phép lạ
- tỉnh thức mang đến hòa bình cho chính mình và cho cả thế giới xung quanh.
31
MỘT LỜI NÓI
CẢM ƠNNgày 07 tháng 04 năm 2010 có một phái đoàn chư Tăng lãnh đạo GHPGVN
chiêm bái thánh địa Buddha Gaya – nơi Phật Thích Ca đắc Đạo. Được biết
tin, hầu hết các Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang học tại India đều đến phi
trường Gaya để cung đón. Ngoài ra, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt nam tại
India cũng tham gia chào đón phái đoàn tại phi trường.
Là một người bình dị, thích sống như là mình, không muốn copy hay a dua
một cách gượng gạo theo một sự sắp xếp hay một quan điểm nào nó, tôi ăn
mặc bình thường như khi ở chùa và theo lời Thầy tôi – Thầy Huyền Diệu – đi
đến phi trường tham gia đón đoàn. Đến nơi, trước mắt tôi là những hình ảnh
đẹp của các Thầy và sư cô trong sắc phục Phật Giáo Việt Nam – Y vàng
trang nghiêm- vô cùng dễ thương đang đứng thành hàng chờ cung đón.
Tôi hoan hỉ vô cùng, chạy tới chạy lui ghi lại hình ảnh đẹp để làm tư liệu. Bất
ngờ, hai nhà sư trong hàng ngũ những nhà sư đang trang nghiêm đứng đón,
mặc hồng lên và to tiếng hướng về phía tôi: Đón chư tôn hòa thượng mà ăn
mặc như vậy? mặc y áo vào !
Quá bất ngờ, tôi ngẩn người nhìn hai sư huynh ấy. Tôi thấy mình hơi bị “quê”
giữa bao người. Cố trấn tĩnh lại, tôi đến gần hai sư huynh và tỏ thái độ hòa
hợp và bình tỉnh nói: thông cảm nghen sư huynh, mình có nhiệm vụ riêng. Rồi
tôi đùa thêm: hai sư huynh biết tôi là ai không? Câu hỏi của tôi làm hai sư
huynh càng giận, lớn tiếng: ông là cái “quái gì” mà không biết? Tôi cười, vì hai
sư huynh đã trúng kế. Tôi tiếp lời: đã biết rồi thì còn yêu cầu mặc y áo gì
nữa?
Hai sư huynh lửa sân càng bừng cháy, tôi đắc ý và vội đi trước khi nó kịp
cháy đến mình.
32
Đón đoàn xong, chiều hôm đó Hiệp Hội Phật giáo Quốc Tế Buddha Gaya có
buổi gặp mặt và trao đổi cùng phái đoàn GHPGVN, tôi lại được theo Thầy đi
dự. Lần này tôi mặc áo tràng của một nhà sư Tăng, ra dáng một nhà sư đã có
thâm niên trên con đường tu học và thực nghiệm tâm linh của Đạo Phật.
Trong buổi gặp mặt và trao đổi ấy, tôi gặp một nhà sư đã có lần cùng tôi đi thi
vào học viện PGVN tại Huế gần mười năm về trước. Anh bạn thấy tôi, đến
gần và rất chân tình nói: Thầy mặc áo như vậy phải đẹp hơn không? Mĩm
cười, tôi đáp: cảm ơn Thầy!
Một câu hỏi đơn giản; một câu trả lời đơn giản, nhưng lại chấn động mạnh
trong lòng tôi. Tôi thấy lại cảnh “sân” của hai sư huynh khi đón đoàn; tôi thấy
lại cảm giác khó chịu trong tôi khi nghe hai sư huynh không lịch sự lớn tiếng
với mình; tôi thấy tôi có nội sân. Tâm tôi bắt đầu xuất hiện một trạng thái tâm
lý hối tiếc: phải chi lúc ấy mình nói được như lúc này một lời nói cảm ơn!
33
KHÔNG CÓ
NGÀY MAIHôm nay là một ngày nắng đẹp ở Ấn Độ, mặc dù hơi nóng. Đứng từ tầng ba
của ngôi nhà tri ân Việt Nam Phật Quốc Tự - India nhìn xuống, một thảm xanh
thật tươi mát làm tâm hồn tôi thật an tỉnh. Thiền hành qua lại, tâm tôi xuất
hiện một năng lượng tri ân Thầy, tri ân những con người chung tay góp sức
cho công trình tâm linh và văn hóa Việt Nam này, để bao người được thuận
duyên chiêm bái và tu tập trên Đất Phật, mà tôi là một.
Từ tâm niệm tri ân, một ước mơ đẹp của tôi trở về: Học tiếng Pháp để tri ân
Thầy.
Ước mơ học tiếng Pháp của tôi bắt nguồn từ “biển sóng không lời5” khi tôi
đến New Delhi lần đầu tiên. Cuộc nói chuyện bằng tiếng Pháp của Thầy và
anh bạn đổi tiền trong một chợ du lịch nhỏ - Khan Market – làm tôi ngơ ngát
không hiểu, cộng thêm một cú đánh quyết định làm tôi khởi tâm quyết học
tiếng Pháp: đang khi nói chuyện bằng tiếng Pháp cùng anh đổi tiền, Thầy
hướng sang tôi và nói: “Nhuận Đạt thấy không? anh này chỉ làm kiếm tiền
nuôi vợ con thôi mà tiếng Anh tiếng Pháp ngon lành, chúng ta cả một lý tưởng
mà chỉ nói, không làm gì được cả.”
Từ sau ngày hôm đó, tôi tự nguyện kiếp này phải sử dụng được tiếng Pháp, ít
nhất là đọc hiểu được các sách vở viết bằng tiếng Pháp về đạo Phật và đất
nước Việt Nam. Nhưng rồi đã bốn năm qua, có ngày tôi tự học được vài chữ,
có ngày không, kết quả là chỉ được vài câu để thiên hạ cũng nghĩ mình có biết
chút tiếng Pháp.
Từ kết quả, tôi ngược dòng ký ức để tìm về nguyên nhân chính. Bao nhiêu lý
do hiện về; bao nhiêu lý luận bảo vệ tự tôn xuất hiện … cuối cùng tôi cũng tìm
ra được nguyên nhân chính: “hẹn ngày mai”.
5 Xin đọc sách Cảm Ơn Những Nhiệm Mầu
34
Thật tức cười, cái bệnh hẹn ngày mai có vẻ đơn giản và dễ trị, thế mà cho tôi
một kết quả rất dễ buồn như hôm nay. Ngày mai là ngày chưa đến, là ngày
mình không chắc và không biết, nhưng vẫn cứ hẹn ngày mai.
Bốn năm đã qua, 1460 ngày đã qua, nhưng ngày mai vẫn chưa tới.
Mĩm cười, vẫn bước chân điều đặn, tôi tự khoan dung cho mình và lại tiếp tục
quyết tâm. Nhưng lần quyết tâm này, tôi thêm vào một nguyên tắc mới:
“không có ngày mai”.
Tôi nghĩ, mỗi khi mình biếng nhác hay do dự, phải tự nhắc nhở rằng không có
ngày mai, nếu hôm nay không có. Những gì có thể làm hôm nay đừng để
ngày mai, ngày mai sẽ không bao giờ đến. Ngày mai thực sự chỉ được làm
bằng những gì có thể của ngày hôm nay.
Mĩm cười thở nhẹ, lấy lại ý chí, nhẹ bước đi về phòng, tôi bắt đầu công việc
của một ngày mới, học tiếng Pháp là một phần.
35
KHẢ NĂNG CHUYỂN HÓA CỦA
TÌNH THƯƠNG
Tôi có duyên tiếp xúc với một cậu em người India từ ngày đầu tiên tôi đến đất
Phật. Cậu em tên Susanta, một hậu duệ lâu đời thuộc dòng họ Sakya ở thành
Kapilavastu, nơi có lịch sử gắn liền với cuộc đời bậc Đạo Sư của nhân loại:
Phật Thích Ca.
Susanta là một câu học sinh thuộc giai cấp thấp trong xã hội Ấn độ, được
Thầy đưa về chùa giúp cho ăn học. Cậu có rất nhiều mặc cảm, đặc biệt về
giai cấp. Cậu học không giỏi lắm, nhưng cũng đủ điểm để vượt được các kỳ
thi.
Mùa xuân 2010, sau khi học được một ít chữ Hán từ Đại Học Ngôn Ngữ và
Văn Hóa Bắc Kinh trở về, tôi được Thầy cho phép công quả tại Việt Nam Phật
Quốc Tự - Buddha Gaya, tôi bắt đầu có những ngày tháng gần và chia sẻ
nhiều với Susenta.
Mùa hè 2010, chùa chỉ có hai chúng tôi. Nếu theo hệ thống phân cấp, thì tôi là
người trên, cậu là người giúp việc và nhận ân huệ của Chùa. Thế nhưng tôi
không nghĩ thế, rất thân thiện với cậu, chia sẻ quan điểm sống, thảo luận và
khuyến khích cậu tự tin thêm trên con đường cậu đang ước mơ phía trước.
Thỉnh thoảng sau những bữa cơm, tôi thường nhấn mạnh đến yếu tố tri thức
và sự chân thành để thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.
Thầy thường nói ở Ấn Độ khó có thể đưa một cậu từ giai cấp thấp lên lãnh
đạo, hoặc thành công gì đó lớn lao trong cuộc sống. Rất đúng! Tiếp xúc với
Susenta, quan sát em rất tỉ mỉ, tôi thấy trong em rất thiếu tinh thần tự tin mình
có thể thành công như bao nhiêu người khác. Em rất an phận, một sự an
phận tỏ ra chai lỳ với những lời khuyên.
Tôi kiên nhẫn, bằng tình thương thật, mỗi ngày một chút khuyến khích em, kể
em nghe những gương thành công trên thế giới, có cả những nhân vật Ấn Độ
được cho là giai cấp thấp như em. Tôi đề nghị em nên ngủ sớm dậy sớm;
36
nên quản lý tốt thời gian của mình, nhất là luyện tập thói quen không hẹn
ngày mai và văn hóa đọc sách.
Hai tháng trôi qua, em có chút chuyển biến, thấy em thường cầm sách đọc
trong vườn chùa, tôi rất mừng.
Một hôm nọ, tôi nhờ em đưa một người Việt Nam ra nhà ga Gaya để về Delhi,
em đưa và không về cho đến ba ngày sau. Thật ra đây không phải là lần đầu
tiên mà là lần thứ ba. Những lần trước tôi rất thân ái và nhẹ nhàng lưu tâm,
nhưng không thể hiện gì làm em khó xử cả. Đến lần này, tôi nghĩ mình đã
hiểu em khá rồi, không hành động sẽ không còn kịp.
Sau khi em về, tôi vẫn như mọi khi, không gì khác lạ. Sáng sớm hôm sau, tôi
cố tình đi ngang qua cửa phòng em. Vừa thấy em, tôi nói liền chào buổi sáng.
Em có vẻ lúng túng, chào lại. Tôi vẫn không nói gì thêm cho đến khi ăn sáng
cùng nhau.
Susanta, why don’t you inform me when you go out for such a long time?
(Susenta, sao em không báo tôi biết khi em đi lâu như thế?). Em im lặng, tôi
tiếp: you know when you work with one company or organization, if you left
the work without informing or permission, so you know, what happen with you
when you come back? ( em biết không, khi em làm việc cho một công ty hay
tổ chức nào đó, nếu em bỏ công việc mà không có phép hoặc thông báo hợp
lý, thì chuyện gì sẽ xảy ra khi em trở về?). Em vẫn im lặng, tôi nói tiếp: you
have lost your trust, and no one believes in you more. Your bad name will be
going from person to person, company to company, organization to
organization, and it means you lost the chance for success and you will never
keep up your dream. (Em đã đánh mất niềm tin trong mắt mọi người. Tên tuổi
xấu của em sẽ truyền tụng từ người này sang người khác, công ty này sang
công ty khác, tổ chức này sang tổ chức khác, điều đó cũng có nghĩa là em
mất cơ hội để thành công và thực hiện ước mơ.). Em vẫn im lặng, tôi cũng im
lặng nhìn em. Em ngước lên và dường như muốn khóc. Em nói trong nghẹn
lời: Sorry Thầy! (Xin lỗi Thầy).
37
Sau buổi nói chuyện hôm đó, em bắt đầu thay đổi. Để ý, tôi thấy em dạy sớm
hơn. Thường đọc sách và tỏ ra quý mến tôi hơn. Tôi bắt đầu thấy tình thương
chân thành có tác dụng, có khả năng chuyển hóa.
Bữa cơm trưa hôm đó, chỉ có tôi và em, tôi nói: Try your best! Buddha said
one becomes noble by action not by birth. You should be self-confidence. I
think that if you sleep early and wake up early, also organizing good your time,
you will be what you want to be. Lord Buddha blesses you! (cố gắng, Phật dạy
con người cao quý là do việc làm chứ không phải do được sinh ra. Em nên tự
tin. Nếu em tổ chức tốt thời gian, cũng như ngủ sớm và dạy sớm, em sẽ làm
được tất cả những gì em muốn làm. Phật sẽ gia hộ em!)
CHIẾC BÁNH
CUỐI CÙNGTừ ngày trở thành một nhà sư, tôi đã được dạy sống, học tập và làm việc như
“những giây phút cuối cùng”, nhưng ngày ấy tôi không thật sự thấu hiểu, đơn
giản chỉ hiểu rằng mình sẽ cố gắng hết mình để không ân hận ngày mai.
Thế rồi một ngày mùa hè năm 2010, trời India vô cùng nóng (49-500C), trên
tay tôi đang cầm một “chiếc bánh cuối cùng” – loại bánh tôi rất yêu thích do
một phái đoàn chiêm bái từ USA tặng. Những lần ăn trước, tay tôi cũng cầm
chiếc bánh cùng loại, nhưng lần cầm chiếc bánh cuối cùng này, tôi nhận thấy
tâm lý tôi có khác: trân trọng, ăn chậm, cảm thấy ngon hơn và còn khởi niệm
tri ân … Tôi ăn chiếc bánh với ý thức rất rõ ràng đây là chiếc bánh cuối cùng,
sẽ không còn những chiếc bánh thế này ngày mai. Tâm tôi rất vui và đầy sự
38
trân trọng chiếc bánh. Chiếc bánh trở thành quan trọng và tôi ăn như chưa
bao giờ được ăn, như sẽ không có chiếc bánh như thế này cho ngày mai
nữa.
Thật giản dị, bí mật của lời dạy “những giây phút cuối cùng” tan vỡ trong tôi.
Tôi phát hiện ra mình có một sức mạnh tập trung lớn và một khả năng hạnh
phúc lớn nhờ ăn “chiếc bánh cuối cùng” trong giây phút hiện tại. Lúc ấy tôi ăn
chiếc bánh bằng cả thể xác và tâm hồn của mình. Xa hơn nữa, tôi còn khám
phá được cội nguồn chiếc bánh trong liên hệ với thiên nhiên, con người và
nhiều hiện hữu xung quanh.
Kinh nghiệm “chiếc bánh cuối cùng” này đã khai mở cho tôi suối nguồn hạnh
phúc, tình yêu thương và sự trân trọng. Ăn chiếc bánh, học tập, hay làm bất
cứ việc gì, nếu tôi làm bằng cả tâm hồn và thể xác trong giây phút hiện tại, ý
thức trọn vẹn nó trong liên hệ với những hiện hữu thuộc quá khứ, hiện tại và
tương lai, sức tập trung trong tôi sẽ nâng cao, tôi sẽ làm trong một tâm lý
hoàn toàn tự nguyện và hoan hỉ, thời gian sẽ không còn khống chế, không
gian sẽ không còn chướng ngại, bởi vì tất cả là “những hiện hữu cuối cùng”.
Tôi không trân trọng, tôi không thương yêu … tôi sẽ mất nó. Tôi không tự
nguyện và không hoan hỷ hết mình, tôi sẽ không có cơ hội khác, vì nó sẽ qua
đi và không trở lại thăm tôi.
Kinh nghiệm “chiếc bánh cuối cùng” thật giản dị, nhưng với tôi là một bài học,
một chìa khóa vàng cho thành công, hạnh phúc, tình yêu thương và cống hiến
của kiếp người.
39
BÁC TAMBác Tam tên thật là Lê Văn Tam, người Thanh Hóa. Tôi gặp Bác lần đầu tiên
năm 2010 tại Thanh Hóa trong chuyến theo Thầy tôi6 về thăm Việt nam.
Đầu năm 2011, tôi lại có dịp gặp và đi cùng Bác trong chuyến hành hương
chiêm bái đất Phật do Thầy tôi hướng dẫn.
Chuyến đi cùng chúng tôi còn có đoàn xuất gia gieo duyên tu tập tại Đất Phật
từ mọi miền đất nước Việt Nam do anh Nhã cùng chị Loan hướng dẫn.
Chúng tôi trải qua hai tuần chiêm bái và tu tập. Có những lúc chúng tôi chia
nhau những chiếc bánh, từng quả quýt và di chuyển bằng xe Bus cả nghìn
cây số mỗi lần. Chính từ sự cực khổ, đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và tâm thành
của hành hương, tôi mới hiểu và học được thêm nhiều điều giản dị từ Bác
Tam.
Bác Tam đã ngoài bảy mươi, có thể nói sức khỏe không còn ở giai đoạn khỏe
để leo núi, chịu nóng, nhịn khát nước của một đời người. Bác là một doanh
nhân thành đạt - chủ tịch hội đồng quản trị tổng công ty mía đường Lam Sơn
– là người lên xe xuống ngựa, đã từng đi 59 quốc gia học hỏi và công tác.
Đến đâu, Bác đều có xe đưa người đón. Thế nhưng khi hành hương chiêm
bái Đất Phật, Bác là một người giản dị, khiêm cung với tất cả mọi người, kể
cả những bạn đáng tuổi cháu nhỏ của Bác.
Một hôm trên đường đi từ Buddha Gaya đến Lumbini, đi suốt ngày đêm,
không ngủ được đủ giấc, sức khỏe Bác suy giảm và phát sốt.
Trên xe mọi người rất lo lắng, nhất là những đứa con và cháu cùng đi với
Bác. Vì tình thương ông, họ cuống cuồng lên, họ đề nghị Bác về sớm hơn
chương trình dự định.
6 Thầy Huyền Diệu
40
Nói thêm. Các con cháu Bác đi hành hương với Bác là vì lòng yêu thương
kính trọng Bác. Các bạn ấy không như Bác, chưa thật sự thành tâm và thấu
hiểu giá trị tâm linh của một người hành hương.
Bác vẫn cố gắng vui và bình tĩnh như những ngày đầu, uống thuốc sốt, nhận
sự chăm sóc thương yêu của cháu con và nằm nghỉ trên xe cho đến sáng.
Ngày hôm sau, xe về đến Lumbini, đoàn lưu trú tu tập tại Việt nam Phật Quốc
tự, không ai biết Bác sốt trên xe, ngoại trừ con cháu Bác và một số người có
trách nhiệm quan tâm.
Sau khi chiêm bái trụ đá Asoka, nơi Phật Thích Ca giáng trần tại vườn thiêng
Lumbini, về lại chùa, con cháu Bác lại một lần nữa đề nghị Bác về sớm, vì lo
cho sức khỏe của Bác. Bác từ tốn và nhỏ nhẹ nói với các con cháu: “Mấy con
tu là ông khỏe, ông phải chiêm bái Phật tích cho trọn vẹn, không sao đâu”.
Tuyệt vời và xúc động. “Mấy con tu là ông khỏe” là một lời giáo huấn thật giản
dị làm sao!
Đối với tôi, câu nói “mấy con tu là ông khỏe” là một câu nói chấn động tâm
hồn. Tôi khâm phục tư cách một người cha và một người ông tuyệt vời của
Bác; một người hành hương thành tâm và thấu hiểu giá trị tâm linh thiêng
liêng của người hành hương.
Bác còn nói thêm với tôi trước cổng thành Kapilavastu đổ nát năm xưa, nơi
đức Phật Thích Ca rời hoàng cung tìm đường giải thoát: “Bao nhiêu huy
hoàng của hoàng thành nghìn sau cũng chỉ là những tường thành đổ nát. Nếu
đi chiếm bái Đất Phật lúc con còn ở tuổi 45 hay 50 về trước, có lẽ con sẽ làm
được nhiều việc hơn cho đất nước và mọi người”.
41
BÀI HỌC LỚN
Ngày 29 tháng 03 năm 2011, tại Việt nam Phật Quốc Tự Lumbini, chúng tôi
mời ba nhà sư Nhật Bản thuộc phái Nhật Liên Tông và một Member
Secrectary của ủy ban phát triển Lumbini cùng ăn cơm trưa. Trong buổi cơm
thân tình ấy, tôi được theo ăn cơm cùng Thầy tôi.
Ăn cơm xong, anh bạn Member Secrectary chuyển sang ăn bánh. Tôi cũng
vừa ăn xong nên là người thứ hai tiếp tục ăn bánh.
Vừa ăn, tôi nhìn sang một thầy người Nhật bên cạnh. Thấy thầy cũng ăn cơm
xong, tôi mời thầy dùng bánh. Thầy cảm ơn nhưng vẫn không dùng. Tôi nghĩ
thầy không dùng loại bánh ấy.
Thế nhưng, điều bất ngờ, vô cùng giản dị và cao quý xảy ra trước mắt tôi:
người thầy tôi mời dùng bánh lúc trước, sở dĩ không ăn bánh là vì ông đợi sư
huynh và thầy của mình. Khi nhìn thấy Thầy và sư huynh ăn cơm xong, ông
nâng chiếc đĩa có bánh lên cho thầy và sư huynh gắp mỗi người hai miếng
sau đó mới tự gắp cho mình một miếng.
Nhìn thấy hình ảnh ấy tôi thật sự xúc động và hổ thẹn.
Thầy tôi ngồi đó. Thầy vẫn còn dùng cơm. Tôi là người được thầy thương,
cho phép ngồi ăn cơm cùng khách quý của Thầy, thế mà tôi quên Thầy! Tôi
không đợi được đến khi Thầy cơm xong gắp cho Thầy miếng bánh, hay ít ra
đợi thầy ăn bánh trước sau đó đến phiên mình.
Đây là một bài học lớn, cao quý cho tôi.
42
ANH HÙNG VÔ TRÍ
Việt Nam Phật Quốc Tự tại Lumbini, Nepal có nuôi 6 con chim Hồng Hạc. Đầu
năm 2011, nhân cùng phái đoàn Ước Nguyện Nhiệm Mầu về chiêm bái
Lumbini, chúng tôi được Thầy Huyền Diệu cho xem Hồng Hạc biểu diễn múa.
Chim Hồng Hạc là loại chim rất đẹp, có sắc thái thanh cao. Để ý tôi còn thấy
tính anh hùng rất đáng nể của chúng: Khi người đến gần, chúng hoàn toàn
không e sợ. Mạnh bước và hùng dũng đi về phía có người. Người tiến tới, nó
cũng tiến tới. Người lui, nó vẫn tiến tới. Nó tiến tới không phải để thân thiện,
mà để tất công. Rất anh hùng.
Một lần nọ, tôi đi ngang qua khu vực có đôi chim Hồng Hạc. Thấy tôi đang đi
tới, đôi bạn chim Hồng Hạc cũng đi tới ngược chiều tôi. Đến gần tôi, anh ta
liền cắn tôi. Tôi càng lui anh ta càng tiến tới tấn công.
Vừa lui tôi vừa nghĩ: anh bạn chim này vui thật, ảnh tưởng mình sợ ảnh,
nhưng thật ra vì mình thương và không muốn làm tổn thương ảnh thôi. Thế là
tôi quyết định thử chụp cái cổ ảnh xem sao.
Thực hiện ý định, tôi đưa tay chụp ngay cổ anh ta khi anh ta vung mỏ để cắn
tôi.
Bị chụp cổ, anh bạn Hồng hạc không cách nào tấn công được. Tôi bước tới
anh ta phải theo tới. Tôi bước lui anh ta cũng phải theo lui. Thấy rất thương.
Tôi nắm cổ anh bạn Hồng hạc khoảng một phút sau đó thả bạn ra bước đi.
Bạn Hạc được thả ra vẫn không sợ, vẫn hiên ngang và hùng dũng tiếp tục
tiến tới để cắn tôi, mà không hề biết mình vừa thua trận và nhờ lòng thương
43
của kẻ khác. Nhìn thấy bạn Hạc đầy quyết tâm đi về phía tôi, tôi nhanh chân
hơn ra khỏi khu vực kiểm soát của các bạn. Bước đi mà lòng tôi cứ vui: Loài
Hồng Hạc Lumbini thật dễ thương, thật anh hùng. Thua trận nhưng không
nản chí, vẫn đứng lên và tiếp tục tiến công. Có điều, các bạn Hạc có dũng
nhưng không có mưu, hay nói cách khác là có sức mạnh nhưng không có trí
tuệ.
Cổ nhân nói: “biết người biết ta trăm trận trăm thắng”. Các bạn Hồng Hạc chỉ
có biết ta mà không biết người, tiến tới để tiếp tục bại là điều chắc chắn.
Ngoại trừ người khác thấy thương vì ngu mà tha thứ, khoan dung.
44
THÀNH TÂMNăm 2005, đến đất Phật lần đầu tiên dự lễ khánh thành Việt Nam Phật Quốc
Tự - Lumbini, ngôi chùa quốc tế đầu tiên nơi Phật Thích Ca giáng trần, do
Thầy H.Diệu sáng lập, tôi vô cùng khâm phục và xúc động.
Một con người đơn độc, trên một đất nước nghèo và xa lạ (sau này khi ở tại
India và Nepal năm năm tôi biết thêm sự khắc nghiệt của thời tiết và sự vô ân
của những người địa phương cũng như sự trở ngại tôn giáo tại nơi này),
nhưng Thầy nỗ lực xây được hai ngôi chùa mang tên Việt Nam và tạo được
những quan hệ cao cấp với lãnh đạo trung ương và địa phương, thật cảm
phục.
Tôi tự hỏi làm sao và nghị lực nào để Thầy có thể làm được những điều
nhiệm mầu như thế!
Ngày tháng trôi qua, tôi được ở cả hai ngôi Việt Nam Phật Quốc Tự trên Đất
Phật để công quả, được gần Thầy học hỏi.
Thầy dạy tôi rất nhiều. Từ ngoại giao đến tác phong công việc; từ tâm nguyện
cho đến lý tưởng vì Đạo Phật, đất nước, nhân loại và cuộc đời. Gần Thầy, tôi
như một chú cá cạn lâu ngày gặp nước, tâm tôi rực sáng lý tưởng và niềm tin.
Những gì Thầy dạy tôi, tôi đã hấp thụ, nó đã từ lúc nào biến thành lối sống,
phong cách làm việc cá nhân tôi.
Thầy dạy tôi bí mật của thành công hạnh phúc là “thành tâm”. Mọi lý thuyết
hay; mọi kế hoặc tốt đều phải được thực hiện bằng một tâm thành thì mới có
kết quả tốt đẹp. Nếu không, tất cả chỉ là những cuộc luận bàn hay những
trang giấy đẹp tưởng tượng.
45
Từ học bí mật “thành tâm” của Thầy, tôi dần tự tin cất bước trên đường tri
thức và đóng góp được chút ít công việc cho cộng đồng Phật giáo và con
người.
Khi tôi viết những dòng này, Thầy đã 67 tuổi. Thầy vẫn còn nồng nàng với
tình yêu Đạo Pháp, quê hương Việt Nam và hòa bình của con người. Không
mệt mỏi, Thầy tự mình nấu cơm ăn, tận tụy làm việc và say sưa với những ý
tưởng lớn lao về phục hưng Kapilavastu, xây dựng thánh tượng Phật Di Lặc
tại Khổ Hạnh Lâm, đóng góp ý tưởng cho quê hương Việt Nam hòa bình hạnh
phúc.
Tôi cảm nhận những ý tưởng cao đẹp đó như một người yêu trong tâm hồn
Thầy. Thầy không bao giờ quên nhắc đến tên mỗi ngày trong cuộc sống.
Ở gần Thầy, tôi học được dường như tất cả những gì Thầy dạy. Duy nhất có
một điều, tôi học đến hôm nay vẫn chưa làm được bài kiểm tra điểm chín, đó
là sự “thành tâm”.
Lễ Phật và tỉnh tâm nhiều giờ, tôi bừng hiểu ra rằng những gì Thầy làm được
nhưng chúng tôi không làm được là do Thầy thực sự “thành tâm”.
HẠNH PHÚCKHÔNG KHÓ TÌM
Một lần, tôi được Thầy cho hướng dẫn một đoàn hành hương từ Việt Nam
sang chiêm bái Đất Phật tại Ấn Độ. Tôi được giao nhiệm vụ đưa đoàn từ Bồ
Đề Đạo Tràng của Ấn Độ sang Lumbini, Nepal.
46
Chúng tôi bắt đầu đi từ 08 giờ sáng, lộ trình đi qua Saranath, vì thế chúng tôi
phải mất 21 giờ mới đến được biên giới Nepal.
Ấn Độ là một quốc gia khá đặc biệt, đời sống của họ nặng tâm linh hơn nặng
thức ăn. Việt Nam thường nói có tiền mua tiên cũng được, nhưng thực tế Ấn
Độ và Nepal trong một vài trường hợp, có tiền không mua cơm được nói gì
đến mua tiên. Đoàn chiêm bái chúng tôi là một ví dụ sống động.
Trong đoàn chúng tôi có rất nhiều anh chị em giàu có. Hầu như ai cũng có
tiền dư, không những có thể mua được một tháng cơm mà một năm cơm ở
những nhà hàng sang trọng họ vẫn có thể. Thế mà trong chuyến chiêm bái
này, chỉ biết cầm tiền mà chiêm nghiệm cái đói viếng thăm.
Thấy mọi người đói và muốn dừng lại ăn cơm, tôi đề nghị xe dừng lại một
quán cơm bên đường. Mọi người vui vẻ đi vệ sinh sau đó vào quán cơm.
Bổng một người la lên: Ối giời, Thầy ôi, dơ thế, sao ăn được? Ối giời, còn có
chuột bò ngang nữa. Thế là cả nhóm xôn xao đề nghị không ăn, tiếp tục lên
xe đi.
Thống nhất. Tôi lại tiếp tục cho xe đưa đoàn đi. Cứ thế tôi cho xe dừng đến
lần thứ tư. Lần này nhiều anh chị em quá đói, tôi đề nghị anh chị em vệ sinh,
rữa mặt sau đó vào quán ăn. Tất cả để tôi lo. Anh chị em cứ việc ngồi đó và
thưởng thức.
Lần này là một lần may mắn cho tôi. Thứ nhất anh chị em đói và mệt nên
không nhiều ý kiến; thứ hai nhờ trời tối nên không ai nhìn thấy được cảnh dơ
bẩn kinh khủng của quán ăn.
Để anh chị em nghỉ một chút, tôi gọi cho mỗi người một ly trà sữa Ấn độ - Đây
là loại Chai của người Ấn nấu bằng sữa trâu bò với thảo dược. Vừa mệt lại
vừa đói, nên khi uống được ly trà sữa các anh chị em cảm giác như được
uống tiên đơn. Tất cả khỏe ra và vui hẳn lên. Có chị còn nói: Ối giời, ngon thế
nhỉ!
Tiếp tục, tôi gọi cho các anh chị em mỗi người 2 miếng bánh Chapati – một
loại thức ăn truyền thống của người Ấn được làm từ bột lúa mì nguyên chất.
Anh chị sau khi uống Chai phấn khởi, nay tiếp tục được ăn chapati càng vui
sướng hơn. Một số anh chị em ban đầu ngại ngùng, bây giờ cũng nhập cuộc.
47
Tiếng cười bắt đầu rộn rã bay; những bản tình ca quê hương và Đạo Pháp
nhẹ nhẹ thành tiếng.
Thật giản dị một niềm hạnh phúc. Tôi vừa ăn vừa nghĩ ngợi về cái giá của
hạnh phúc. Hạnh phúc thực sự không khó tìm. Nó đơn giản như đói được ăn
một miếng Chapati và khát được uống một ly Chai.
Trong lúc mọi người đang ăn vui vẻ, tôi cất tiếng hỏi: ok, các anh chị em no
chưa? Chapati và Chai có ngon không? Nhiều anh chị trả lời: ngon thưa
Thầy.
Tôi nói tiếp: Anh chị em đang ăn một loại bánh đặt biệt của Ấn độ đấy, nó làm
từ bột lúa mì nguyên chất cộng chút phân chuột. Mọi người xôn xao lên: thế
hả Thầy? ghê quá!
Tôi cười lớn tiếp tục vui nói: còn Chai anh chị em uống được làm từ sữa trâu
bò với thảo mộc có thêm hương vị mồ hôi muối của các anh Ấn độ bồi bàn.
Á! Cả nhóm cười vang làm các bạn Ấn độ giật cả mình.
Tôi kết luận: khi đói tất cả thức ăn có thể ăn đều ngon. Hạnh phúc thật giản dị,
không khó tìm, đơn giản như ăn miếng Chapati với chút dư vị của chú chuột
đi qua. Tôi chưa nói dứt lời, một tiếng ối giời lớn vang lên, cộng thêm những
trận cười như bảo đến. Ai ai cũng vui vẻ và như đã quên mệt của một hành
trình dài.
Chúng tôi tiếp tục lên xe đi, khép lại một kỷ niệm đơn sơ của hạnh phúc,
hướng về Lumbini, nơi Phật Thích Ca giáng trần, với một tấm lòng chân thành
chiêm bái và hiện thực hóa lời dạy của Đức Thế Tôn: Này Anan, có bốn nơi
sau khi Như Lai Niết Bàn người Phật tử nên một lần trong đời về chiêm bái.
Một, Buddha gaya, nơi Như Lai chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Hai, Saranath, nơi Như Lai đầu tiên chuyển pháp luân. Ba, Kusinagar,
nơi Như Lai Niết Bàn tịch diệt. Bốn, Lumbini, nơi của ước nguyện, nơi Như lai
chọn lựa để giáng sanh.
48
CHỜ
ĐỢINgày 04 tháng 04 năm 2011, tôi được mời tham dự lễ khánh thành Center for
The World Peace ở Lumbini. Đúng chín giờ, theo thư mời, tôi đến nơi và
cùng các Thầy của cộng đồng Phật Giáo quốc tế tham dự lễ chúc mừng
khánh thành.
Đến nơi, không người đón vào, chúng tôi tự động bước vào cửa thì bị ngăn
lại và được giải thích là không có đăng ký không được vào.
Chúng tôi quay trở lại và được một chị bạn người Hồng Kông hướng dẫn
đăng ký, sau đó nhận được một tấm Stick để dán vào áo trở thành người
tham dự chính thức.
Vào được bên trong, đọc thông báo chương trình, tôi phát hiện ra chương
trình chính thức bắt đầu lúc 11:30 A.M và kết thúc 1:30 P.M, sau đó dùng
cơm.
Theo thư mời là 9:00 A.M, vì thế khi đến nơi chúng tôi phải đợi thêm hai giờ
rữa nữa mới được tham dự lễ. Không có chọn lựa, chúng tôi đành cùng nhau
kiên nhẫn đợi.
Không người quan tâm, ở một góc trong tâm hồn tôi khởi ý nghĩ chúng tôi
được xem như những kẻ đang chờ đợi một ân huệ nào đó từ buổi lễ, như một
kẻ ăn xin đang đợi người cho. Nhưng tôi vẫn kiên nhẫn được, vẫn viết bài
trong lúc chờ mà không rơi vào bị động.
49
Thế rồi có một nhà sư Nhật Bản gọi tên tôi. Thầy ấy đến đưa tôi vào trong
giảng đường nơi diễn ra chính lễ. Bước đến cửa thì chúng tôi bị đề nghị
không được vào với một lời Sorry không giải thích, rất thất vọng.
Vị thầy người Nhật rất bình tỉnh, ông vui vẻ quay trở lại cùng tôi. Chúng tôi lại
tiếp tục đợi.
Rồi từng thầy một ra về, trước hết là các thầy Theravada của Thailand, Miến
Điện, Srilanka, Cambodian, vì các thầy phải ngọ trai vào lúc 11:00 A.M, không
thể đợi được, chỉ còn chúng tôi, Mahayana ở lại.
Chúng tôi tiếp tục kiên nhẫn đợi. Rồi một lời mời vang lên, mời chúng tôi ra
giữa sân nắng 390C không mái che hướng về phía cửa chánh điện để bắt đầu
lễ khánh thành. Bên trên đài cao là một giọng ca nam ngọt ngào làm ngay
ngất nhiều người, riêng tôi không hiểu gì hết, bởi anh bạn hát bằng tiếng Tây
tạng.
Anh ca sĩ hát xong, hai anh chị xướng ngôn viên dễ thương bắt đầu chào
mừng mọi người tham dự, giới thiệu những nhân vật VIP từ chính quyền sở
tại và các nước có quan hệ ngoại giao.
Chúng tôi vẫn đứng từ xa, vẫn đợi buổi lễ khánh thành, nhưng không ai quan
tâm đến cộng đồng Phật giáo quốc tế nơi này, mà những đại diện được mời
là các thầy từ những truyền thống Phật giáo thế giới khác nhau. Các Thầy lại
tiếp tục ra về, chỉ còn lại tôi và hai nhà sư Nhật Bản, trong ấy có vị sư đã hơn
70 tuổi, từng sống và dấn thân cho phong trào hòa hình thế giới của Nhật
Liên Tông tại Phi Châu hơn 30 năm qua.
Cửa mở, băng cắt, xướng ngôn gửi lời mời tất cả vào chánh điện. Tôi theo
chân hai nhà sư Nhật đi vào. Lại một lần nữa lạc lõng, không người hướng
dẫn vào vị trí quy định.
Tôi nhẹ lách người qua hai nhà sư Nhật, cố ý đến gặp anh bạn đeo băng bảo
vệ lễ để hỏi chút ít thông tin. Nhà sư già Nhật Bản hỏi tôi đi đâu. Tôi nói đi hỏi
xem các chùa quốc tế Lumbini được quy định ngồi nơi nào.
Bất ngờ, ông đưa tay ngăn tôi lại. Ông nói: chúng ta chờ gần 3 giờ đồng hồ
để vào đây là mong được chúc mừng và hoan hỉ với một trung tâm tâm linh
mới được xây dựng, góp phần cho tâm linh của nhân loại và phát triển thánh
50
địa Lumbini. Chúng ta đã vào được đây, hãy cùng nhau đứng đây niệm kinh
thầm nguyện, không cần phải tìm chỗ ngồi đâu. Niệm kinh xong chúng ta sẽ
về. Thế là ba chúng tôi, giữa bao nhiêu con người tới lui tìm chỗ, chấp tay
nhẹ niệm hồng danh chư Phật và đề kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa,
khấn nguyện cho trung tâm tâm linh mới này. Chúng tôi thành tâm cao độ,
không còn nhớ mình đang đứng giữa bao con người, cúi đầu lễ xuống trước
Phật tượng.
Một anh bạn chạy đến hỏi thư mời của chúng tôi để đưa chúng tôi lên hàng
VIP đã định. Tôi hoan hỉ cảm ơn anh và nói: cộng đồng Phật giáo nơi đây rất
mừng nhìn thấy trung tâm Phật giáo này được khánh thành, chúng tôi xin
nhiệt tâm chào mừng thành viên mới. Thời gian không cho phép, xin cảm ơn
các anh đã mời cá nhân chùa Việt Nam tôi và các thầy thuộc cộng đồng Phật
giáo các nước. Chúng tôi sẽ đến thăm Center for World Peace và các anh
vào một ngày khác đẹp và ít bận rộn hơn. Anh cũng cảm ơn đáp lại.
Nói xong, chúng tôi chào anh bước ra, không quên xá chào một lần nữa khi
đến cổng trở về.
Giữa cái nắng 390C của mùa hè Nepal, đầu trần, tôi bước đi trở lại Việt nam
Phật Quốc Tự - Lumbini khoảng 1Km gần đó. Từng bước giữa cái nắng tôi
càng thắm thía sự chờ đợi. Tôi thấy tôi học được một bài học kiên nhẫn và
một bài học tổ chức. Tâm tôi hoàn toàn hoan hỉ và thông cảm với sự chủ
quan của người tổ chức lễ khánh thành. Tôi nói với chính tôi: nếu Việt Nam
Phật Quốc Tự tổ chức một chương trình tương tự, tôi sẽ cố gắng tổ chức tốt
hơn.
51
NGƯỜI BÁN
NGƯỜI MUA
Trên chuyến xe trở về Thành phố HCM từ An Giang, đang say sưa với những
ước mơ cho Paramita World tại trung tâm Sài Gòn, thì bỗng nhiên Thầy nhớ
ra những quyển bản thảo sách Con Đường Sáng của Thầy đang bị để quên
tại Chùa Phật Xá Lợi – Vĩnh Long.
Anh Nhã phone ngay cho một sư cô trong chùa để nhờ mang bản thảo quyển
sách để quên ra xe bên kia cầu Mỹ Thuận. Thế là, xe đang đi phải dừng lại
đợi ở một hàng quán giải khát bên đường.
Thầy trò cùng nhau xuống xe. Chi Loan, chị Lan và chị Lệ vui tươi cùng nhau
mua ít bánh ăn đi đường; Anh Nhã thì thân thiện đùa vui với những người
bán hàng dễ mến.
Nhìn anh Nhã, nghe chị Loan, Lan và Lệ vui cười, tôi thấy lòng mình cộng
hưởng cùng anh chị, sự mệt mỏi sau nhiều ngày đường đã để hết lại trên xe.
Thầy cũng vậy, cũng hòa chung vui vẻ, còn nói vui thêm rằng có Sài Gòn Phố
Chay thì không sợ đói.
Sau giây phút vui đó, Thầy ngồi trên ghế hỏi chuyện anh chị bán hàng, tôi
đứng bên cạnh Thầy.
Có một cụ già xuất hiện, trên đôi tay gầy của cụ là một rỗ mận xanh. Cụ mang
rỗ mận đến trước mặt Thầy mời Thầy mua. Thầy nhẹ tay nâng rỗ mận và hỏi:
bà bán bao nhiêu tiền? Bà thưa hai mươi nghìn. Thầy nhìn bà im lặng, tay
52
móc chiếc ví bạc màu, tìm kiếm những đồng tiền cuối cùng còn lại trong ấy.
May mắn, Thầy đã kiếm đủ hai mươi nghìn đồng. Thầy nói: tiền đây thưa bà.
Khi thấy người mua trả tiền mà không trả giá, bà vui vô cùng. Nhận tiền xong,
bà nhanh tay trút hết rổ mận vào bao nhựa, nhẹ đặt trên bàn cho Thầy rồi
bước đi. Đứng một mình bên cạnh Thầy, quán sát câu chuyện mua bán giản
dị ấy, nhưng làm tôi vô cùng xúc động.
Thầy vừa mua xong mận thì chị Lệ cũng vừa đến. Chị cho Thầy biết là số
mận Thầy mua là mận dạt, loại không tốt người ta lựa bỏ ra, bà cụ xin hoặc
mua rẻ đi bán lại. Thầy mĩm cười. khi chị Lệ bước đi, Thầy chia sẻ với mình:
Thầy đâu có mua mận đâu! Thay vì bà cụ đi ăn xin, bà dùng sức lao động của
mình để sống. Mình làm phước giúp bà. Nếu xã hội, ai ai cũng có tinh thần
như bà, cũng phấn đấu làm việc chân chánh để sống, không lợi dụng và ăn
bám người khác thì xã hội này vui và đẹp hơn biết bao!
Biết việc bán mận của bà, nghe và hiểu tâm hồn người mua của Thầy, mắt tôi
khép lại, hơi thở tôi sâu thêm, cổ tôi khô lên vì xúc động.
Một người bán – cụ già gần 80 tuổi, dùng chính sức lực còn lại của mình để
làm việc sống, mà không phải đi ăn xin, không phải làm gánh nặng cho cháu
con và xã hội; một người mua – một nhà sư hơn 40 năm xa quê hương Việt
Nam, hiểu và xúc động trước sự kiếm sống chân chính của cụ già đã biểu
hiện thành hành động mua sản phẩm bằng tình thương và lòng kính trọng, đã
làm tôi phải nhìn lại chính mình.
Tôi ước mơ tôi và mọi người trên quê hương Việt Nam có tinh thần lao động
như bà, được sống bằng đôi chân và đôi tay của chính mình, được làm việc
và cống hiến bằng tư duy và trí tuệ có tình thương như Thầy, để không ai sẽ
là gánh nặng cho xã hội, để tình yêu thương và sự cảm thông chia sẻ giữa
con người và con người được thắp sáng, thế giới hòa bình nhiều hơn, chiến
tranh và thù hận ít hơn.
53
TƯỞNG RẰNG ĐÃ BIẾT
Một lần nọ, tôi cùng chị Hà, Nga, Ngọc Anh; anh Minh Trung, chị Ngọc và
Minh Thành về Hà Tây thăm chùa Hưng Khánh, cùng đón mừng Phật Đản.
Hưng Khánh là một ngôi chùa huyện rất cổ kính, thấp và ẩn mình dưới những
tàng cây như bao ngôi chùa cổ trên quê hương Bắc Việt. Thầy Minh Đồng là
người trụ trì. Thầy là một vị sư trẻ, rất giỏi, một mình lo tổ chức cho cả ba ngôi
chùa, chăm sóc tinh thần cho hàng ngàn tín đồ, nhưng thầy vẫn chu toàn
công việc giáo hội và tham gia tích cực hoạt động xã hội. Chúng tôi rất kính
ngưỡng thầy.
Tôi sinh ra và lớn lên ở phía Nam, nhưng sống nhiều năm trong thiền môn,
tiếp xúc nhiều các nhà sư cũng như các anh chị phí Bắc, nên cũng biết khá
nhiều phong tục, văn hóa Bắc Kỳ, nhất là văn hóa Phật giáo Bắc. Tuy nhiên
đến Hà Tây lần này, chúng tôi vô cùng xúc động, rất thương người Phật Tử
chân quê. Từng hàng người đến chùa vui ăn buffer ( tiệc buffer miễn phí đầu
tiên tại chùa, do chị Hà từ Sài Gòn về đạo diễn), sau đó dâng hoa đăng mừng
Phật đản và cầu nguyện bình an cho gia đình và thế giới.
Tuyệt vời! nhìn những dòng người vui ăn buffer và đón mừng Phật đản mà tôi
cùng anh Minh Trung không thể không hoan hỷ nhập cuộc hòa vui. Hai chúng
tôi được bố trí dùng cơm riêng rất trân trọng, nhưng chúng tôi tình nguyện
sắp hàng như bao nhiêu người khác để cùng nhau nhận thức ăn và ngồi ăn
chung với mọi người để cùng chia vui ngày Phật giáng thế.
Chiều và đêm ấy trôi qua, sáng hôm sau mọi người lần lượt ra về, nhất là các
anh chị từ Hà Nội. chúng tôi cũng vậy, chuẩn bị hành lý đi thăm chùa Hương.
Sáng hôm đó, đang ăn cơm cùng nhau, thì có một bạn sinh viên con chị Hà
xin mẹ về lại Hà Nội. Anh nói: “mẹ cho một cuốc xe bus”. Chi Ngọc nhìn tôi;
54
Minh Thành cũng nhìn tôi. Các anh chị hiểu là bạn sinh viên xin mẹ tiền đi xe
bus, và có ý hỏi tôi có đúng không. Tôi hiểu ý các anh chị nên đáp: Đúng rồi,
bạn ấy xin tiền đi xe bus đấy!
Xa xa bên kia có tiếng cười khúc khích, nhìn về phía ấy thấy một bạn sinh
viên nữ Hà Nội. Chị Hà cũng cười và lên tiếng: cho một cuốc xe bus nghĩa là
cho bạn ấy đi nhờ đến trạm xe bus đấy, không phải xin tiền đi xe bus.
Ối giời ơi, ngạc nhiên quá. Ba người chúng tôi – tôi, chị Ngọc và Minh Thành
– sáu mắt nhìn nhau ngơ ngác.
Chúng tôi thật chủ quan! Cuộc đời có biết bao điều chưa biết, nhưng tưởng
rằng đã biết, thực ra không biết gì cả. Đã từng được học tam nhơn đồng hành
tất hữu ngã sư – ba người cùng đi, có một người là thầy ta – thế mà vẫn cứ
tự đại và ngủ quên trên cái hiểu biết tí hon của mình.
Tôi không biết hai người cùng ngạc nhiên như tôi có suy nghĩ gì không, riêng
tôi, đây là một lời nhắc nhở cho sự tỉnh thức và đức khiêm cung cần có của
một con người.
55
KIÊN NHẪNVÀ NHIỆT TÌNH
Tôi đi theo một đoàn Miền Nam viếng thăm chùa Hương. Trong đòn có một
chị tên Ngọc Anh rất thích uống cà phê. Khổ nỗi, chị không thích uống một
mình.
Chị hỏi tôi: Thầy uống cà phê không? cảm ơn chị, không, tôi trả lời. Chị tiếp
tục hỏi nhiều người bạn khác trong đoàn, nhưng cũng không ai uống cùng
chị. Từ buổi sáng bắt đầu đi, cho đến sau khi hoàn tất hành trình viếng thăm
chùa Hương hơn sáu giờ đồng hồ, chị vẫn kiên nhẫn, thỉnh thoảng rủ mọi
người.
Sau khi chiêm bái chùa Hương, chúng tôi trở về dừng chân đợi xe ở một
quán nước bên đường, chị Ngọc Anh vẫn không nản chí, lại một lần nữa rủ
chúng tôi uống cá phê.
Lúc ấy có lẽ là giờ linh, tôi là người hầu như không bao giờ uống cà phê, thế
nhưng tự nhiên lại là người đầu tiên đồng ý. Khi nghe tôi đồng ý uống, nhiều
người cũng vui theo uống, tôi thấy trên gương mặt dễ thương của chị Ngọc
Anh có một nụ cười. Chị đi pha cà phê, mang cho từng người, rất hoan hỉ.
Tôi là người vinh dự được chị pha cho ly đầu tiên. Nâng ly cà phê trong tay,
cảm ơn chị, mà lòng tôi cứ nghĩ về đức kiên nhẫn và lòng nhiệt tình. Người
xưa nói: nhẫn, nhẫn, nhẫn, oan gia tùng thử tận – nhẫn, nhẫn nhẫn, oan gia
từ đây hết. Tôi thấy thật có lý. Rõ ràng, chính sự kiên nhẫn và nhiệt tình của
chị Ngọc Anh đã gọi về cảm xúc trong chúng tôi, đã không ép mà như ép
chúng tôi vui vẻ hoàn thành mục tiêu của chị.
56
Uống ly cà phê của chị pha, từng ngụm, từng ngụm cho đến hết, tôi thích thú
vô cùng. Chị không chỉ cho tôi uống cà phê mà còn cho tôi học được bài học
kiên nhẫn và nhiệt tình.
LỜI KẾTCuộc sống của một đời người có thể dài mà cũng có thể rất ngắn. Những
biến động tâm lý và nhu cầu sinh lý của con người càng phức tạp và khó hiểu.
Đặc biệt sức mạnh thúc đẩy của những bản năng tiêu cực khó có thể trung
hòa.
Một con người muốn sống hạnh phúc, không chỉ quan tâm đến thức ăn và
chỗ ở, mà còn phải quan tâm đến những biến động tâm lý, rung động tình
cảm thuộc thế giới tinh thần, để từ đó học được những bài học riêng tư cho
những kinh nghiệm riêng tư của chính mình.
Cuộc sống con người, riêng việc mưu sinh đã bào mòn biết bao sinh lực và lý
tưởng cao thượng tốt đẹp. Nếu con người không biết tự học, tự kinh nghiệm
tích cực cho mình thông qua những diễn biến cuộc sống, hay nói cách khác
không có nghệ thuật tiếp xúc để thấy mình, để hoàn thiện nhân cách, để có
niềm vui đạo đức …để vững bước trên con đường mình chọn, con người ấy
sẽ rất mệt mỏi, thất vọng, bi quan và tự làm khô héo cuộc đời mình.
“Thấy mình” là một nghệ thuật sống hạnh phúc; “Thấy mình” là một điều kiện
cần của thành công. Không có thành công hạnh phúc nào tối thượng hơn
thành công hạnh phúc của kẻ tự chiến thắng. Tất nhiên bước đầu của công
trình tự thắng vĩ đại này là phải thấy được mình.
Đối với tôi, “thấy mình” là một niềm hạnh phúc, một bước đi phải có trên con
đường xây đắp tình yêu thương giữa những con người.
Ước mong các bạn cũng sẽ nhìn thấy sự cần thiết “thấy mình” trong cuộc
sống. Và, chúng ta cùng đi nhiều hơn, “thấy mình” nhiều hơn, để vui nhiều
hơn và thương yêu nhiều hơn trong sự khác biệt đa dạng của cuộc đời.
57
Namo Avalokitesvaraya, Gate!
Lumbini, 24 tháng 04 năm 2010
NHUẬN ĐẠT – T.M.T
CẢM ƠN CUỘC ĐỜI MẦU NHIỆM
THEO THẦY CHIÊM BÁI BUDDHA GAYA
58
THEO THẦY CHIÊM BÁI KHỔ HẠNH LÂM
THĂM BUDDHANATH, KATHMANDU, NEPAL
HẠNH PHÚC ĐƯỢC SỐNG BÊN THẦY
59
THĂM VIẾNG CỮU HOA SƠN, TRUNG QUỐC
CHIÊM BÁI LẠC SƠN PHẬT, TỨ XUYÊN, TRUNG QUỐC
60