Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 1/53
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN SỐ 05/2019
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo thiết bị điện gió
Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng
chất màu nhạy quang
Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh
Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa
Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo
Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản
Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
“Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời
Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ
di động tương lai
Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO
(ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt
Chế tạo gạch từ rác thải nhựa
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học
Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ
Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos
Y HỌC
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 2/53
Nghiên cứu và chế tạo thành công vật liệu kết xương titan
NÔNG NGHIỆP
Công nghệ sấy vi sóng trong bảo quản, chế biến nông sản và thực phẩm
Chế tạo máy thu gom nông sản tự động
Chế tạo hệ thống tưới cây bằng điện thoại
Thuyền phun thuốc đa năng
Máy cày đa năng
Máy phun thuốc trừ sâu tự động
Thùng trồng cây không cần tưới nước
Chế tạo dung dịch giữ nông sản tươi hơn 10 ngày
Nghiên cứu ứng dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công nghệ chuyển đổi cơ cấu cây
trồng đạt hiệu quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng
Quy trình nhân giống in vitro lan Dendrobium bằng mô phân sinh chồi
MÔI TRƯỜNG
Chế tạo hệ thống xử lý nước nuôi thủy sản
Phương tiện gom rác thủy bộ
Xử lý nước thải sinh hoạt bằng thiết bị lọc nhỏ giọt cải tiến với giá thể sinh học kiểu mới
Hệ thống xử lý nước thải sử dụng giá thể vi sinh
Nắp cống thoát nước tự động gạt rác
Giải pháp lấy nước ngầm kiểu mới
Giải pháp công nghệ trong đo đạc địa hình bãi bồi ven biển
LĨNH VỰC KHÁC
Phát hiện hư hỏng công trình xây dựng bằng phương pháp dao động
12 doanh nghiệp đầu tiên ngành phi thực phẩm đạt chuẩn hội nhập
Ra mắt Không gian đổi mới sáng tạo cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 3/53
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo thiết bị điện gió
Thiết bị điện gió của gia đình ông Bá.
Trong điều kiện lưới điện quốc gia
không thể kéo tới thì thiết bị điện gió của lão
nông Lê Thành Bá, ở xã Tân Hòa, huyện
Châu Thành A, là một giải pháp khả thi.
Tạo điện từ gió
Ông Bá kể, “Khu vườn của tôi trồng
đủ các loại cây ăn trái như xoài Đài Loan,
chanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn
nhưng nơi đây không có điện để tôi gắn mô tơ
tưới nước. Tôi đã 60 tuổi rồi nên không thể
xách từng thùng tưới cho cây được”. Trong
“cái khó, ló cái khôn”, vào tháng 6-2018, ông
Bá nghĩ đến cách tạo ra điện mà không cần
phải phụ thuộc vào điện lưới từ ngành điện.
Và rồi, ông bắt tay vào nghiên cứu và chế tạo
thành công quạt điện gió phát điện thông
minh. “Ban đầu, tôi định làm điện bằng tấm
pin năng lượng mặt trời nhưng chi phí cao
nên tôi tìm trên mạng các cách làm quạt điện
gió. Sau lần đầu thất bại, tôi vẫn tiếp tục
nghiên cứu, cuối cùng cũng thành công và lắp
đặt quạt điện gió phục vụ sinh hoạt và sản
xuất nông nghiệp”, ông Bá hào hứng chia sẻ.
Sau gần 100 ngày không rời mô hình,
ông Bá đã hoàn thành thiết kế cây quạt điện
gió gồm một số bộ phận chính như: bộ phận
tua bin phát điện, bộ tăng tốc, bánh lái điều
chỉnh hướng, cánh quạt đón gió dài 1,2m…,
đặc biệt chiếc quạt điện gió được gắn cao hơn
mặt đất khoảng 12m. Khi có gió, cánh quạt
xoay tạo ra dòng điện có công suất khoảng
1kW/giờ. Để hạn chế rủi ro, ông Bá đã lắp đặt
thêm bộ phận phanh tua bin ngắt điện phòng
khi có gió mạnh và bình ắc quy tích trữ đủ
điện năng. Tuy nhìn bề ngoài điện gió khá to
và nhiều chi tiết nhưng giá thành để làm nên
cả hệ thống điện gió khá rẻ. Ông Bá tính hết
chi phí khoảng 25 triệu đồng/cây quạt có
công suất 1kW/giờ nhưng phục vụ tốt cho
sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Với 3
công đất vườn, ông Bá có thể sử dụng được
cho việc bơm tưới cây trong thời gian 3 giờ.
Ngoài ra, khi nguồn điện cạn kiệt thì chỉ cần
1 giờ quạt gió xoay tích điện thì tiếp tục sử
dụng. Ưu điểm của thiết bị này chính là tích
điện bất kỳ thời gian nào dù ban ngày hay ban
đêm, đây là điều mà nguồn điện năng lượng
mặt trời không làm được. “Bây giờ, tôi không
lo về điện bơm nước tưới cây nữa. Nếu không
có gió, tôi sử dụng điện sinh hoạt bình thường
nhờ vào bình ắc quy tích trữ điện. Đồng thời,
với công suất tải điện 1kW/giờ thì một năm
tôi tiết kiệm khoảng 3.600 kW điện”, ông Bá
tâm sự.
Hiệu ứng lan tỏa
Ông Nguyễn Văn Phúc, Bí thư Đảng
ủy xã Tân Hòa, thông tin: Việc ông Bá chế
tạo được điện gió cơ bản phục vụ cho sinh
hoạt, sản xuất nông nghiệp, người dân địa
phương mừng lắm. Nhiều người đã tìm hiểu
thông tin đến để nhờ ông chế tạo về phục vụ
cho gia đình.
Như anh Huy, ngụ cùng địa phương
với ông Bá, đã mấy lần đến đặt hàng nhờ ông
làm cho một chiếc quạt. Anh Huy cho biết:
“Tôi có 7 công đất trồng cây ăn trái và nuôi
cá. Cũng cùng hoàn cảnh như ông Bá, mảnh
vườn tôi chưa có điện, nếu kéo điện lưới thì
phải mất hơn 50 triệu đồng, chưa kể tiền điện
phải trả hàng tháng. Vì vậy, tôi đã đặt hàng
ông Bá làm cây quạt điện gió có công suất
3kW/giờ để sử dụng mô tơ bơm nước công
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 5/53
suất 3 mã lực phục vụ tưới tiêu. Với công suất
này, ông Bá dự tính chi phí chỉ khoảng 30
triệu đồng, vì chỉ tăng thêm kích thước cánh
quạt và mua thêm bình ắc quy tích điện”.
Trước hiệu ứng mang lại bước đầu,
ông Bá chia sẻ thêm: “Những thiết bị mà tôi
chế tạo nên theo tính toán sẽ sử dụng được từ
10-20 năm. Để cải tiến tốt hơn cho sản phẩm,
tới đây tôi tiếp tục nghiên cứu chế tạo quạt
điện gió cánh đứng nhằm tạo ra điện năng
lớn hơn, hướng đến sản xuất đại trà, giảm giá
thành để phục vụ nhu cầu của người dân”.
Bí thư Đảng ủy xã Tân Hòa Nguyễn
Văn Phúc cho biết thêm: “Mô hình điện gió
này rất thông minh, giải quyết nhu cầu sử
dụng điện của người dân địa phương, nhất là
đối với những khu vực nông thôn chưa kết nối
được điện lưới quốc gia. Chúng tôi rất khâm
phục ông Bá vì ông đã chế tạo ra được thiết
bị giúp tiết kiệm điện năng mà còn phục sản
xuất nông nghiệp tốt. Chúng tôi sẽ tuyên
truyền và khuyến khích người dân sử dụng
quạt điện gió gắn liền sản xuất nông nghiệp
để gia tăng lợi nhuận cho gia đình”.
Nguồn:Trúc Linh,
baohaugiang.com.vn, 11/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy quang
TS Nguyễn Tuyết Phương (bìa trái) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu về pin mặt trời.
Hiện nay việc tận dụng không gian
kiến trúc để hấp thu năng lượng mặt trời, tạo
nguồn năng lượng sạch chưa được chủ đầu tư
các tòa nhà cao tầng quan tâm.
Vì vậy, đề tài “Các giải pháp tăng
cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin
quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy
quang” của TS Nguyễn Tuyết Phương (Khoa
Hóa, Trường Đại học Khoa học Tư nhiên -
Đại học Quốc gia TPHCM) và cộng sự hy
vọng sẽ góp phần “xanh” hóa được những tòa
nhà bê tông cốt thép ở đô thị.
Pin quang điện hóa sử dụng chất màu
nhạy quang, hay còn gọi pin mặt trời chất
màu nhạy quang (dye-sensitized solar cells) là
loại pin mới, được xếp vào nhóm thế hệ thứ 3
sau pin silicon, pin màng mỏng vô cơ. Pin
này có ưu điểm dễ chế tạo, giá thành thấp,
hiệu quả hoạt động cao (trên 40%) trong điều
kiện ánh sáng yếu nên phù hợp các ứng dụng
trong nhà.
Nói về quá trình và cơ duyên nghiên
cứu đề tài này, TS Nguyễn Tuyết Phương cho
rằng các kết quả nghiên cứu trong thời gian
học tập, công tác ở tại Đan Mạch đã giúp giải
thích được vai trò của từng chất trong pin và
độ bền của pin để tiếp tục phát triển, tối ưu
thành phần dung dịch điện ly; sử dụng các chất
phụ gia mới để tăng độ bền của pin. “Kết quả
cho thấy độ bền của pin được cải thiện đáng
kể từ 60% tăng lên 90%. Hơn thế nữa, nghiên
cứu đã tiếp tục phát triển những hệ điện ly mới
dễ tổng hợp, giá thành thấp, thân thiện với môi
trường và cải thiện tốt độ bền của pin”, TS
Nguyễn Tuyết Phương khẳng định.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 6/53
Để tăng hiệu năng hoạt động của pin,
TS Phương đã phát triển phương pháp biến
tính bề mặt điện cực của pin bằng các phương
pháp hóa học, điện hóa. Phương pháp điện
hóa còn cho phép đánh giá hiệu quả của quá
trình biến tính điện cực, giúp xác định một
cách gián tiếp những yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu năng hoạt động của pin do biến tính bề
mặt gây ra, để từ đó sử dụng phương pháp
biến tính phù hợp.
36 tuổi đời, ngoài những giờ trên giảng
đường, hàng tuần, tiến sĩ Phương vẫn trao đổi
làm việc với các giáo sư nước ngoài và được
các thầy gửi hóa chất, tặng trang thiết bị để
nghiên cứu và giảng dạy. Đặc biệt là với GS
Torben Lund (Trường Roskilde, Đan Mạch)
đã hỗ trợ, khuyến khích để ngày nay TS
Phương là một trong số ít chuyên gia về lĩnh
vực pin mặt trời của Việt Nam.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cơ
bản mà các nhà khoa học như TS Phương
đang gặp khi triển khai vào thực tiễn còn hạn
chế. Sở dĩ có điều đó là do các nghiên cứu
ứng dụng cần phải có sự phối hợp liên ngành
và đa ngành; trong khi nghiên cứu của các
nhà khoa học tập trung vào chuyên môn sâu
và chuyên ngành hẹp.
Mặt khác thị trường khoa học công
nghệ hiện nay mới được hình thành, cơ chế
chính sách và thông tin khoa học chưa hoàn
thiện, còn thiếu kết nối giữa nhà khoa học và
doanh nghiệp; nhiều sản phẩm nghiên cứu
hữu ích, có giá trị thực tiễn cao nhưng không
thể có địa chỉ chuyển giao. Trong khi các
doanh nghiệp cần sản phẩm lại đi tìm kiếm,
thậm chí phải mua của nước ngoài với giá
cao. Từ đó, gây lãng phí cả tiền bạc, thời gian
và chất xám của nguồn lực trong nước.
Pin có thể uốn dẻo, nhiều màu sắc Nghiên cứu của TS Nguyễn Tuyết Phương
tập trung vào 2 yếu tố: độ bền và hiệu
năng hoạt động của pin quang điện hóa sử
dụng chất màu nhạy quang phức chất
Ruthenium để góp phần đẩy nhanh quá
trình thương mại hóa loại pin này. Điểm
đặc biệt là giúp các doanh nghiệp có thể
sản xuất ra những “tấm dán” pin mặt trời
có thể uốn dẻo, bẻ cong, nhiều màu sắc…
để sử dụng làm cửa kính cho các tòa nhà
cao tầng, vừa đáp ứng thẩm mỹ về mặt
kiến trúc vừa chuyển hóa quang năng
thành điện năng.
Nguồn: Quang Huy, sggp.org.vn,
04/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh
Đề tài do tác giả Nguyễn Vinh Tiệp và
cộng sự (Trung tâm Phát triển KH&CN Trẻ)
thực hiện nhằm nghiên cứu và phát triển hệ
thống phần mềm cho phép người sử dụng tìm
kiếm từ kho dữ liệu video lớn các phân đoạn
video chứa thông tin tương ứng với hình
ảnh/vật mẫu trong thế giới thực.
Hiện nay, các hệ thống tương tác thông
minh ngày càng được quan tâm và có những
ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. Các hệ
thống này sử dụng những kênh đầu vào theo
hướng tiếp cận tương tự như các giác quan
của con người (như thị giác, thính giác, vị
giác, khứu giác,...) nên cần giải quyết nhiều
bài toán cơ bản liên quan đến các kênh dữ
liệu đầu vào như dữ liệu hình ảnh, âm thanh
và các cảm biến khác.
Đề tài tập trung nghiên cứu, xây dựng
các thuật toán tìm kiếm đối tượng dựa vào
đặc trưng thị giác trên kho dữ liệu lớn và xây
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 7/53
dựng ứng dụng tương tác minh họa. Khái
niệm tìm kiếm dựa trên đặc trưng thị giác
được hiểu theo nghĩa đối tượng tìm kiếm là
ảnh hoặc video được đánh chỉ mục hoàn toàn
tự động mà không có sự can thiệp của con
người. Bài toán tìm kiếm này có rất nhiều ứng
dụng trong thực tế như ứng dụng tìm kiếm
hình ảnh, hệ thống giám sát, quản lý thương
hiệu, quảng cáo. Đối với những đối tượng tìm
kiếm của ảnh mẫu, người sử dụng có thể quan
tâm đến toàn bộ cảnh vật trong ảnh cho đến
những đối tượng với kích thước lớn nhỏ khác
nhau. Khi tìm kiếm với những đối tượng ít
đặc trưng, ví dụ như những đối tượng nhỏ
hoặc không có nhiều hoa văn, giả thuyết của
mô hình BOW (Bag of Visual Word) bị vi
phạm. Cho dù sử dụng các kỹ thuật hậu xử lý
nâng cao của mô hình BOW cũng như kiểm
tra ràng buộc hình học, mở rộng truy vấn vẫn
không giải quyết được vấn đề trên.
Do vậy, nhóm tác giả đề xuất phương
pháp kiểm tra ràng buộc mới trong đó dung
hợp mô hình BOW (tiếp cận từ dưới đi lên
hay còn gọi là bottom up) và phương pháp
phát hiện đối tượng (tiếp cận từ trên xuống
hay còn gọi là top down). Đóng góp chính
của đề xuất này là khai thác hiệu quả mối
quan hệ về vị trí của các từ thị giác (visual
word) với vị trí đề xuất đối tượng (object
instance propsal) được ước lượng bởi bộ phát
hiện đối tượng. Trong quá trình phát triển các
thuật toán phục vụ cho bài toán tìm kiếm đối
tượng dựa vào thông tin thị giác, nhóm tác giả
cũng xây dựng các hệ thống tương tác đi kèm
để minh họa cho ý tưởng tương tác và tiềm
năng ứng dụng thực tế như hệ thống tra cứu
thông tin du lịch, văn hóa và sản phẩm, hệ
thống khuyến nghị hỗ trợ gợi nhớ hình ảnh có
liên quan dựa trên mạng xã hội.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
08/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa
Nhóm tác giả Phạm Hoàng Bảo, Trần
Huỳnh Duy, Nguyễn Thị Thanh Thùy (sinh
viên Trường đại học khoa học tự nhiên
TP.HCM) đã nghiên cứu đề tài Ứng dụng
công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS
trong việc hỗ trợ cứu hỏa và dập lửa khi xảy
ra hỏa hoạn.
Chỉ trong 9 tháng đầu của năm
2018, cả nước xảy ra 2.989 vụ cháy, làm 73
người tử vong và 163 người bị thương, tổng
thiệt hại lên đến 1.590 tỷ đồng. Để giảm thiểu
những tổn thất mất mát xảy ra quá lớn cần
phải phát hiện đám cháy xảy ra ở giai đoạn
đầu chưa lan rộng và có những biện pháp sơ
tán người dân ra đến nơi an toàn sớm nhất.
Đồng thời khi quét nhiệt, lính cứu hỏa có thể
phát hiện nhiệt độ cao ở một vài điểm trong
tòa nhà, đó chính là nơi nguyên nhân dẫn đến
cháy nổ cần phải dập tắt đám cháy tại điểm
gây cháy trước để tránh lây lan.
Từ đó, nhóm đã thực hiện một App –
Web cứu hộ, phần mềm được sử dụng hệ
thống định vị GPS trong nhà (nơi không gian
hẹp) để xác định đúng vị trí của người gặp
nạn và hướng dẫn hướng đi an toàn rời khỏi
tòa nhà.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 8/53
Xét ở một phòng của một căn hộ cụ
thể, khi có tai nạn xảy ra, chuông báo cháy
của tòa nhà sẽ hoạt động mạnh mẽ. Khi người
trong phòng phát hiện có hỏa hoạn, trước tiên
họ sẽ dùng những biện pháp thô sơ như đeo
khẩu trang thấm nước, đeo mặc nạ chống độc
v.v… Sau đó dùng thiết bị di động có kết nối
3G/4G dùng App được cài đặt/đăng nhập tài
khoản từ trước để định vị vị trí của bản thân.
Sau đó, khi rời khỏi cửa, thiết bị quét nhiệt
tòa nhà sẽ cung cấp cho người dùng địa điểm
an toàn để thoát hiểm.
Còn ở bên ngoài, những người cứu hộ
sẽ thực hiện công tác phun nước dập lửa,
đồng thời có nhân viên đăng nhập vào Web
được cung cấp có hình mô phỏng toàn tòa
nhà, từ đó có thể thấy người còn kẹt lại trong
căn nhà thông qua thiết bị định vị của họ
được thể hiện bằng những chấm đỏ. Từ đó, có
thể cứu hộ người dân một cách nhanh chóng,
hạn chế được số người chết do ngạt thở khi có
hỏa hoạn xảy ra.
Việc ứng dụng phần mềm đã giúp đem
lại hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội như:
giảm thiệt hại tài sản, cụ thể là xác định được
chính xác nguồn gây cháy để tập trung chữa
cháy khu vực đó; giảm sự cháy lan qua khu
vực lân cận, giúp giảm mất mát tài sản lẫn
thiệt hại chung cư; nhờ vào chức năng định vị
vị trí người dân mà giảm được số lượng
người thương vong; công tác cứu hỏa, hỗ trợ
dễ dàng và người dân dựa vào đó có thể tìm
được đường thoát an toàn.
Một cách tổng quát, theo bạn
Phạm Hoàng Bảo, đại diện nhóm tác giả, việc
xây dựng mô hình 3D mô phỏng tòa nhà kết
hợp với cảm biến nhiệt và định vị GPS nhằm
cung cấp vị trí người sử dụng trong toà nhà,
hệ thống GPS cần phải có độ chính xác cao
trong không gian nhỏ. Dựa vào cảm biến
nhiệt kết hợp với mô hình 3D của toà nhà mà
ta có được cái nhìn tổng quát về đám cháy và
hướng đám cháy lây lan.
Về hướng phát triển phát triển tiếp
theo, có thể phát triển ứng dụng nhầm cập
nhật các thông số quan trắc không khí trong
toà nhà (như nồng độ O2, nồng độ CO2), giúp
dự báo khả năng cháy khi có cháy và liên hệ
với tổng đài 114. Có thể gửi cả thông tin về
tòa nhà như nơi bắt đầu cháy, nồng độ O2 và
CO2 khi đó ra sao v.v… để lực lượng cứu hỏa
có thể chuẩn bị dụng cụ đầy đủ nhằm ứng
phó.
Điều kiện cần thiết là mỗi chung
cư cần trang bị thiết bị cảm biến nhiệt, ít nhất
mỗi tầng một máy nhằm hỗ trợ tốt nhất cho
ứng dụng. Tổ chức một khóa học hướng dẫn
sử dụng ứng dụng cho sở cứu hỏa và người
dân trong các chung cư nhằm đảm bảo sử
dụng một cách hiệu quả trong trường hợp
khẩn cấp nhất.
Đây là đề tài đã được chọn vào vòng
thuyết trình cuộc thi: “Tìm kiếm giải pháp,
sản phẩm GIS TP.HCM năm 2018” do Sở
KH&CN TP.HCM tổ chức.
Nguồn: Mai Thy,
khoahocphothong.com.vn, 25/03/2019
Trở về đầu trang
*************
Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 9/53
Nhóm nghiên cứu Nguyễn Tấn Toàn,
Vũ Thanh Nguyên, Trịnh Quốc Sơn, Lê Đình
Tuấn từ Trường đại học công nghệ thông tin
TP.HCM và Trường đại học kinh tế công
nghiệp Long An đã nghiên cứu phương pháp
phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn
dịch nhân tạo kết hợp thông tin từ cấu trúc PE
của tập tin trên hệ điều hành Windows.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu về
một phương pháp phát hiện virus dựa trên
giải thuật của hệ miễn dịch nhân tạo (AIS),
kết hợp với thông tin được trích xuất từ cấu
trúc Portable Executable (PE) của các tập tin
trên hệ điều hành Windows, nhằm giúp giảm
chi phí trích xuất đặc trưng từ việc dùng đặc
trưng của cấu trúc PE và tăng thêm sự đa
dạng của các bộ phát hiện thông qua giải
thuật hệ miễn dịch nhân tạo. Phương pháp đã
được thực nghiệm với các bộ dữ liệu và các
bộ phân lớp khác nhau (SVM, Naïve Bayes
và Decision Tree). Kết quả thực hiện cho thấy
độ chính xác của phương pháp có thể đạt lần
lượt 89,25%, 79,93% và 87,38% khi sử dụng
SVM, Naïve Bayes và Decision Tree trong
giai đoạn phân lớp.
Hiện nay, để phát hiện virus máy tính,
hai phương pháp kinh điển nhất là phương
pháp dựa trên chữ ký và phương pháp dựa
trên hành vi. Nhưng so với thời điểm hiện tại,
hai phương pháp này không đủ tốt để giải
quyết vấn đề của virus. Phương pháp dựa trên
chữ ký cơ bản có nhược điểm là không thể
nhận dạng được các virus chưa biết (mới hoặc
là biến thể của virus trước đó). Trong khi đó,
phương pháp dựa trên hành vi mặc dù có thể
phát hiện được các virus chưa biết dựa trên
chuỗi hành vi của tập tin nhưng chi phí để
phân tích của phương pháp này rất tốn kém.
Do đó, gần đây, để tìm ra các phương
pháp tốt hơn, nhiều phương pháp mới dựa
trên khai thác dữ liệu, máy học, thống kê, hệ
miễn dịch nhận tạo đã được các nhiều khoa
học quan tâm. Đi theo xu hướng đó, nhóm
nghiên cứu tiếp cận theo hướng phát hiện
virus mới dựa trên các giải thuật của hệ miễn
dịch nhân tạo, kết hợp với thông tin được
trích xuất từ cấu trúc PE của tập tin trên hệ
điều hành Windows, với mong muốn đóng
góp về nghiên cứu thử nghiệm một cách tiếp
cận mới với việc kết hợp giá trị của dữ liệu
PE trong phát hiện virus và khả năng xây
dựng, đa dạng hóa các bộ phát hiện (detector)
của AIS khi lượng dữ liệu huấn luyện còn hạn
chế so với lượng dữ liệu thực tế trong phát
hiện virus máy tính trên hệ điều hành
Windows.
Kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học
đã tiếp cận việc phát hiện virus máy tính bằng
phương pháp sử dụng AIS kết hợp với thông
tin được trích xuất từ cấu trúc PE. Phương
pháp tiếp cận của bài báo có thể dự đoán các
tập tin chưa biết trước đó với một hiệu suất
khá tốt.
Các thử nghiệm đã cho thấy rằng cách
tiếp cận của bài báo có thể đạt lần lượt độ
chính xác trung bình là 89,25%, 79,93%, và
87,38% khi sử dụng SVM, Naive Bayes, và
Decision Tree. Về lý thuyết, thông tin số thực
từ cấu trúc PE có sự khác nhau trong miền giá
trị giữa tập tin sạch và tập tin virus. Bên cạnh
đó, các DLL quan trọng chứa các hàm liên
quan đế đọc, viết, copying dữ liệu... của hệ
thống và đây là các loại hành vi mà virus
thường sử dụng nên các DLL chứa các hành
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 10/53
vi này thường xuyên được gọi trong các virus
máy tính. Do đó, mà việc kết hợp thông tin
dạng số từ thông tin của các PE header và
thông tin của DLL có thể sẽ là đặc trưng tốt
trong phân biệt virus và tập tin sạch.
Trong giai đoạn sử dụng AIS, NSA sẽ
loại bỏ các vector đặc trưng không tốt khi nó
quá gần giống với tập tin sạch nhằm để giảm
thiểu sai sót trong bước dự đoán và giữ lại các
vector đặc trưng tốt cho quá trình tạo các bộ
phát hiện. Để làm cho hệ thống có thể dự
đoán được virus chưa biết tốt hơn, một biến
thể của Clonalg được sử dụng để nhân bản
các bộ phát hiện với một vài đột biến nhằm
làm cho các bộ phát hiện trở nên đa dạng hơn.
Tuy nhiên, việc tìm một bộ phân biệt virus và
tập tin sạch một cách thủ công là tương đối
khó nên phương pháp phân lớp được sử dụng.
Để phân lớp, các vector nguy hiểm được tính
toán, chuẩn hóa và trải qua quá trình phân lớp
nhằm tạo bộ phân lớp cho việc dự đoán virus.
Đó là các nguyên nhân lý giải cho việc
phương pháp có thể đạt được kết quả khá tốt
như mong đợi.
Trong tương lai, để làm cho phương
pháp này trở nên tốt hơn, nhóm nghiên cứu
cho biết sẽ đánh giá phương pháp bằng các
đặc trưng khác, các biến thể của giải thuật
AIS khác nhau cùng với tập các dữ liệu đa
dạng, phong phú hơn. Bên cạnh đó, ở thời
điểm hiện tại, hệ thống chỉ có thể dự đoán
được một tập tin là virus hay tập tin sạch nên
các nỗ lực để dự đoán được kiểu virus sẽ
được đầu tư nhằm làm cho hệ thống tốt hơn.
Nguồn: N.Quỳnh,
khoahocphothong.com.vn, 20/03/2019
Trở về đầu trang
*************
Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản
Hoạt động đào tạo nội bộ thường xuyên tại Vitalify Asia.
Từ tháng 4/2019, hệ thống RPA (
Robotic Process Automation - dịch vụ tự động
hóa quy trình bằng Robot) có tích hợp AI (trí
tuệ nhân tạo) để dự đoán hiệu quả của mỗi bất
động sản một cách tự động và các giải pháp tối
ưu cho các công ty môi giới bất động sản
chính thức được giới thiệu tại Nhật Bản.
Dịch vụ do Vitalify Asia - công ty
chuyên phát triển các ứng dụng trên
Mobile/Web và nghiên cứu phát triển công
nghệ AI tại Hồ Chí Minh sở hữu, và công ty
TNHH RPA Retech Lab - đối tác kinh doanh
vận hành và triển khai.
“Hankyou baizou kun”
(https://www.rparetechlab.com/hankyobaizo/)
do nhóm kỹ sư AI Việt Nam phát triển là dịch
vụ tân tiến nhất được vận hành theo nguyên
tắc đó là AI sẽ tuyển chọn và đề cử những dự
án bất động sản thích hợp cho từng nhà môi
giới. Việc này không những giúp cắt giảm
đáng kể chi phí mà còn thu hút khách hàng
tiềm năng. Loại đặc thù công việc này trước
đây chỉ có thể thực hiện được bởi đội ngũ
nhân viên kinh doanh bất động sản có nhiều
năm kinh nghiệm.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 11/53
Những thành viên trong nhóm phát
triển “Mobile AI Lab" thuộc công ty Vitalify
Asia là những kỹ sư AI ưu tú nằm trong bảng
xếp hạng Top 1% trên Kaggle - một sân chơi
cạnh tranh về AI của Google. Họ luôn tích
cực tiếp cận, tích luỹ những kỹ thuật mới; và
hàng ngày tiến hành nghiên cứu, phát triển AI
bằng cách lựa chọn những chủ đề đa dạng
khác nhau mà họ cảm thấy hứng thú.
Ông Hà Quốc Hiền - Phó Giám đốc
công ty TNHH Vitalify Asia nhấn mạnh: “Để
thực hiện dự án này, chúng tôi đã gặp phải
một vài khó khăn. Đầu tiên, đó là phân tích và
chuẩn hóa dữ liệu. Khi nhận dữ liệu bất động
sản từ khách hàng Nhật mình đã phải làm việc
với họ để phân tích ý nghĩa của từng dữ liệu,
ngoài ra mình cũng phải chuẩn hóa dữ liệu đó
để có thể sử dụng được. Thứ hai là xây dựng
mô hình bài toán phù hợp với yêu cầu của
khách hàng cũng như phù hợp với kiến thức
và nghiệp vụ trong lĩnh vực bất động sản tại
Nhật Bản. Thứ ba là xây dựng công thức để
đánh giá về bài toán đã làm được.”
Bên cạnh đó Vitalify Asia có đội phát
triển dự án chuyên nghiệp, nhất quán từ tích
hợp mô hình AI vào hệ thống Web cho đến
khi triển khai ra thị trường. Cụ thể trên 10
năm phát triển Vitalify Asia luôn cập nhật
những công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất và áp
dụng mô hình Agile Scrum để có thể phát
triển tất cả các công đoạn của dự án chỉ với
đội ngũ gồm PM (quản lý dự án) và những kỹ
sư full stack.
Nhờ vào việc vận dụng những kinh
nghiệm phát triển thực tiễn được tích lũy
trong thời gian qua và cách tổ chức hệ thống
như trên; cùng với sự chỉ đạo, hướng dẫn của
ông Hà Quốc Hiền- Phó Giám Đốc công ty;
Vitalify Asia đã tạo nên một môi trường làm
việc lý tưởng thu hút nhiều nhân tài với năng
lực sáng tạo, khả năng tư duy cao và sự nỗ
lực không ngừng từ các kỹ sư Việt Nam để
hướng tới sự phát triển thành công các dịch
vụ tiên tiến trong một khoảng thời gian ngắn.
Trong khoảng thời gian gần đây, năng
lực của các kỹ sư Việt Nam đã không ngừng
được nâng cao ở mặt kỹ thuật mà còn ở nhiều
phương diện khác như là kỹ năng giao tiếp
với nước ngoài; sự linh hoạt, uyển chuyển; và
năng lực sáng tạo. Tiếp tục đà phát triển này,
năng lực kỹ sư Việt Nam được kỳ vọng sẽ
ngày càng phát triển nhanh hơn trong tương
lai. Vitalify Asia sẽ khai thác triệt để môi
trường đầy tiềm năng này để có thể bắt kịp
thời đại Công Nghệ 4.0 mà các nước đang
hướng tới và cung cấp các dịch vụ do Việt
Nam phát triển ra thị trường thế giới.
Nguồn: thoidai.com.vn, 23/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 12/53
Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng giới thiệu bo mạch điện tử Raspberry Pi
Vì được trang bị nhiều năm nên các
dàn máy tính để bàn của Bệnh viện Nhi đồng
1 đã xuống cấp, không ít trong số đó khi sử
dụng phát ra tiếng ồn rất lớn. Với một bệnh
viện luôn quá tải người bệnh, lại thêm tiếng
ồn của các thiết bị điện tử, khiến không khí
các phòng khám thêm phần bí bách. Là
Trưởng phòng Công nghệ thông tin của Bệnh
viện Nhi đồng 1, thạc sĩ Đặng Thanh Hùng
nghĩ đến giải pháp làm sao để thay thế những
cục CPU cổ điển bằng loại thiết bị khác, hiện
đại hơn. Anh bắt tay vào tìm hiểu các thiết bị
thay thế.
Từ nguồn tài liệu trong và ngoài nước,
kỹ sư Đặng Thanh Hùng biết đến bo mạch
điện tử Raspberry Pi có khả năng thay thế cục
CPU mà chức năng không thay đổi. Lục tìm
các địa chỉ bán thiết bị điện tử tại TPHCM,
anh Hùng vui mừng khi thấy sản phẩm này có
ở thị trường với giá tương đối rẻ. Sau khi âm
thầm thử nghiệm trên máy tính để bàn của cá
nhân, anh khá hài lòng với thiết bị thay thế
này. Với máy tính đơn lẻ thì quá ổn, nhưng
với hệ thống cả trăm dàn máy, làm sao để vận
hành tối ưu nhất lại là thách thức không nhỏ.
Anh Hùng tiếp tục nghiên cứu cách vận hành
nó trên hệ thống hàng trăm máy tính. Sau 3
tháng anh đã tìm ra cách vận hành khả quan.
Giữa năm 2016, anh Hùng mạnh dạn đề xuất
ban giám đốc bệnh viện cho thay thế cuốn
chiếu (máy nào xuống cấp, hư hỏng thì thay
trước), từng bước chuẩn hóa máy tính để bàn
của toàn bệnh viện.
Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng cho biết, bo
mạch điện tử Raspberry Pi với kích thước chỉ
lớn hơn chiếc thẻ ATM, nếu tính cả hộp bảo
quản thì bằng gói thuốc lá (kích thước bằng
1/100 CPU cổ điển), nhưng đầy đủ chức năng
của một cục CPU cổ điển, hoàn toàn thay thế
chỗ đứng của cục CPU trong dàn máy tính.
Các bo mạch sẽ được kết nối với máy chủ
thành một hệ thống vận hành khép kín. Đặc
biệt, sản phẩm này hoạt động theo cơ chế ảo
hóa máy chủ bằng phần mềm Proxmox mở
rộng để kết nối từ bo mạch qua mạng nội bộ
vào máy chủ.
Đầu năm 2017, ban giám đốc Bệnh
viện Nhi đồng 1 đồng ý đưa công trình sáng
tạo vào áp dụng cuốn chiếu tại bệnh viện.
Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng phân tích, sở dĩ
anh thuyết phục ban giám đốc bệnh viện thay
thế bo mạch Raspberry Pi cho CPU bởi nó có
rất nhiều ưu điểm. Cụ thể, mỗi bo mạch điện
tử mua mới có giá gần 2 triệu đồng, nhưng
CPU mua mới giá trung bình là 8 triệu đồng,
vì vậy khi đầu tư thiết bị này, bệnh viện tiết
kiệm được 3/4 chi phí đầu tư trang thiết bị. Vì
Raspberry Pi hoạt động theo cơ chế ảo hóa
máy chủ bằng phần mềm Proxmox mở rộng
nên hoàn toàn không mất chi phí mua phần
mềm bản quyền như một số hệ thống khác.
Đặc biệt, thiết bị này giúp tiết kiệm
điện, trung bình mỗi cục CPU khi sử dụng sẽ
tiêu thụ hết 150 - 200w điện/giờ, trong khi
sản phẩm mới chỉ tiêu thụ hết 4w điện/giờ,
như vậy về điện năng, bo mạch điện tử
Raspberry Pi tiết kiệm gần 40 lần so với
CPU. Với máy tính bàn sử dụng CPU, khi
thiết bị bị lỗi phần mềm, nhân viên kỹ thuật
phải tới tận nơi để kiểm tra, sữa chữa, nhưng
với bo mạch điện tử Raspberry Pi, toàn bộ lỗi
phần mềm đều được sửa chữa trên hệ thống
máy chủ. Ước tính mỗi ngày tiết kiệm được
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 13/53
từ 2 - 3 công làm việc. Ngoài ra, bo mạch
điện tử Raspberry Pi không tỏa nhiệt ra ngoài
môi trường và khi thiết bị hư hỏng, lượng rác
thải điện tử cũng sẽ giảm rất nhiều so với
CPU cổ điển và tiết kiệm được diện tích
không gian đặt.
“Giai đoạn đầu, chúng tôi thay thế
100 bo mạch điện tử Raspberry Pi cho 100
cục CPU cổ điển ở những dàn máy tính để
bàn cũ nhất. Kết quả là hệ thống vận hành tốt
ngoài mong đợi, không bác sĩ nào phàn nàn
về thiết bị máy tính. Sau thành công ở giai
đoạn đầu, hiện toàn Bệnh viện Nhi đồng 1 đã
thay thế gần 300 cục CPU bằng bo mạch
Raspberry Pi. Tính ra, trong năm vừa qua,
bệnh viện đã tiết kiệm được gần 500 triệu
đồng tiền điện. Nếu thay thế 600 CPU của
toàn bộ máy tính hiện hữu trong bệnh viện thì
mỗi năm cũng tiết kiệm được gần 1 tỷ đồng”,
kỹ sư Hùng cho biết.
Kết quả mà giải pháp này mang lại đã
khiến cho một số bệnh viện trên địa bàn
TPHCM quyết định học hỏi và áp dụng, như
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Bệnh viện Da
Liễu TPHCM,….
Nguồn: Thu Hường, sggp.org.vn,
02/04/2019
Trở về đầu trang
*************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
“Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật
Sinh viên và doanh nghiệp cùng thực hiện dự án "Bàn tay robot Uplift".
“Bàn tay robot Uplift” là sáng kiến của
một startup nhằm tạo cơ hội cho những người
khuyết tật tại Việt Nam được lắp tay điện và
giới thiệu việc làm miễn phí.
Đây là hoạt động hợp tác giữa Vulcan
Augmetics Social Enterprise (doanh nghiệp
khởi nghiệp chuyên sản xuất tay chân giả linh
hoạt giá rẻ) và Đại học RMIT Việt Nam.
Theo đó, sinh viên Đại học RMIT Việt Nam
sẽ tham gia trực tiếp vào các công đoạn của
dự án “Bàn tay robot Uplift” nhằm nâng cao
kỹ năng, kỹ thuật và công nghệ.
Sinh viên được yêu cầu nghiên cứu và
chế tạo một cánh tay điện có thể hỗ trợ người
khuyết tật làm một số công việc cụ thể như
rửa chén bát. Sinh viên phải tạo ra những
chuyển động của cánh tay robot để người
khuyết tật có thể thực hiện nhiều công việc
một cách bình thường.
PGS Eric Dimla, Trưởng khoa Khoa
học và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam
cho biết, sinh viên sẽ hoàn thành thiết kế cơ
học và bản mẫu điều khiển điện tử đầu tiên.
Các em sẽ kết hợp hai phần lại với nhau và
thử hệ thống trong thời gian tới đây.
“Chúng tôi sẽ cùng với doanh nghiệp
tham gia vào hoạt động hỗ trợ để quảng bá
nhằm giúp dự án tiếp cận với cộng đồng”-
PGS Eric Dimla nói.
Ông Rafael Masters, Nhà sáng lập và
là Giám đốc điều hành của Vulcan
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 14/53
Augmetics, cho biết, đây là một phần trong
dự án “Bàn tay robot Uplift” nhằm tạo cơ hội
cho 30 người khuyết tật tại Việt Nam được
lắp tay điện và giới thiệu việc làm miễn phí.
Dự án này đã dành chiến thắng trong
Giải thưởng Doanh nhân cộng đồng (Blue
Venture Award) đầu tiên tại Việt Nam vào
đầu năm nay. Dự án sẽ đại diện cho Việt Nam
tham gia tranh tài trên đấu trường quốc tế -
the Venture, được tổ chức vào tháng 5 này.
“Chúng tôi đánh giá cao về những
sinh viên tham gia dự án. Đây là những người
trẻ có tư duy cấp tiến, rất có khả năng thích
ứng và hết sức chủ động. Chúng tôi tin tưởng,
với sự đóng góp lớp của sinh viên trong dự án
này, những mục tiêu quan trọng trong kiến
tạo ra những đóng góp có giá trị và tạo ảnh
hưởng cho xã hội tại Việt Nam sẽ thành hiện
thực”- ông Rafael Masters nói.
Nguồn: Hà Thế An, khampha.vn,
22/04/2019
Trở về đầu trang
*************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai
Gia Hân và Minh Hạnh thực hiện công đoạn chiết phẩm màu.
Lê Nguyễn Gia Hân và Lê Thị Minh
Hạnh, học sinh lớp 9/5 trường THCS Thống
Nhất, thành phố Huế, đã nghiên cứu sản xuất
thành công phẩm màu thực phẩm từ những
nguyên liệu dễ kiếm, giá rẻ như quả gấc, quà
dành dành và lá gai.
Minh Hạnh cho biết, phẩm màu là chất
phụ gia thực phẩm được sử dụng rất nhiều
trong chế biến thực phẩm, là một trong những
chỉ tiêu đánh giá chất lượng cảm quan thực
phẩm và góp phần làm tăng cảm giác ngon
miệng, kích thích sự thèm ăn.
“Khác với phẩm màu tổng hợp, phẩm
màu tự nhiên được làm từ những chất màu
sẵn có trong thực vật tự nhiên, không gây độc
và không gây ra những mùi vị lạ cho thực
phẩm. Sử dụng chất màu tự nhiên không chỉ
cải thiện được hình thức bên ngoài mà còn
làm tăng giá trị đinh dưỡng của thực phẩm”,
Hạnh nhấn mạnh.
Gia Hân cho biết, để tạo ra được các
phẩm màu này khá đơn giản. Trước tiên, các
nguyên liệu được xử lý sạch, sấy khô và xay
bột mịn. Đối với nguyên liệu là quả gấc nên
chọn trái tươi, ruột chín đỏ, tách hạt và màng
xung quanh hạt, sấy ở 70oC với thời gian 20
phút. Sau đó, tách màng xung quanh hạt và
sấy khô ở 110oC với thời gian 60 phút, đạt độ
ẩm dưới 5% rồi làm nguội.
Dành dành chọn trái cây màu vàng
tươi, lấy hạt, rửa sạch với nước, và sấy khô ở
110oC với thời gian 60 phút để đạt độ ẩm
dưới 5%, làm nguội, xay thành bột mịn. Còn
với lá gai thì chọn lá xanh tươi, rửa sạch bằng
nước, đun sôi lá với nước nóng ở 100oC trong
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 15/53
10 phút, sau đó sấy khô ở nhiệt độ 110oC để
đạt độ ẩm dưới 5%.
Tiếp theo, cân 1 gam nguyên liệu khô
cho vào bình cầu 500 ml. Thêm 50 ml ethanol
thực phẩm. Đặt trên máy khuấy từ gia nhiệt
có lắp đặt hệ thống làm lạnh ngưng tụ hồi lưu.
Nhiệt độ chiết 70oC, thời gian chiết 60 phút
đối với phẩm màu đỏ từ quả gấc và phẩm
màu vàng từ dành dành; thời gian chiết 90
phút đối với phẩm xanh từ lá Gai.
Phẩm màu thu được cần được bảo
quản và lưu giữ trong ngăn mát tủ lạnh để sử
dụng dần.
Bước đầu, hai bạn đã thử 'nhuộm màu'
cho hai loại sản phẩm chế biến có gia nhiệt,
gồm đông sương làm từ rong biển và hạt trân
châu làm từ bột năng và bột gạo. Kết quả cho
màu sắc đậm đẹp, không có mùi vị lạ.
“Hiện tại, chúng em đang nghiên cứu
sản xuất thêm 2 phẩm màu đỏ và tím từ củ
dền đỏ và từ bắp cải tím. Theo em, việc sản
xuất các phẩm màu thực phẩm từ thiên nhiên
với nguyên liệu sẵn có, dễ làm tại các hộ gia
đình, nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe, nâng
cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng”,
Gia Hân nói.
Hạt trân châu sau khi được 'nhuộm màu
Theo cô giáo Phan Thị Ngọc Hóa, giáo
viên hướng dẫn thực hiện đề tài, Gia Hân và
Minh Hạnh là các học sinh rất đam mê nghiên
cứu khoa học.
“Với quy trình chế biến đơn giản này
hoàn toàn có thể sản xuất ra các phẩm màu
100% tự nhiên thay thể cho phẩm màu tổng
hợp, góp phầm bảo vệ sức khỏe cho mọi
người”, cô Hóa cho biết thêm.
Vừa qua, đề tài của hai em được trao
giải Nhì tại Cuộc thị Khoa học kỹ thuật tỉnh
Thừa Thiên Huế năm học 2018-2019.
Nguồn: Hồ Thành, khampha.vn,
22/04/2019
Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời
Nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn
Trọng Hiếu tại Đại học quốc gia Australia
(ANU), trường đại học hàng đầu của
Australia và thế giới, mới đây đã công bố một
loạt phát hiện đột phá có thể giúp cách mạng
hóa công nghệ năng lượng mặt trời.
Theo phóng viên TTXVN tại Sydney,
trong khi đa số các nghiên cứu tập trung vào
cải thiện chất lượng của phần lõi bên trong
pin mặt trời, nhóm nghiên cứu của TS. Trọng
Hiếu tập trung vào lớp màng mỏng bên trên
của pin, vốn mỏng hơn vài ngàn lần so với
tóc người. Lớp vỏ mỏng này dùng để dẫn
điện từ pin và bảo vệ phần lõi.
Đầu năm 2018, nhóm nghiên cứu phát
hiện lớp vỏ mỏng này có thể phát ra ánh sáng
rất đặc biệt. Họ nhanh chóng nhận ra sự hiện
diện của các nguyên tử hydro làm thay đổi
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 16/53
đáng kể các đặc tính của ánh sáng này. Đây là
thông tin mà sau đó có thể được sử dụng để
tìm hiểu những gì xảy ra bên trong lớp màng
mỏng. Cuối năm 2018, nhóm tiếp tục tìm ra
một phương pháp để tích hợp các nguyên tử
hydro vào lớp màng này để cải thiện chất
lượng của toàn bộ pin.
Theo TS. Hiếu, hydrogen là nguyên tố
nhẹ nhất trong bảng tuần hoàn nhưng cực kỳ
mạnh để chữa lành “vết thương” của vật liệu
bán dẫn. Thật không may, trong tự nhiên, nó
thường tồn tại ở dạng phân tử (hai nguyên tử
liên kết với nhau).
Nhóm nghiên cứu đã khắc phục điều
này bằng cách đặt một vật liệu khác có nhiều
hydro nguyên tử lên trên lớp màng, sau đó
đẩy các nguyên tử hydro riêng lẻ vào trong
màng bằng cách làm nóng mẫu ở 4000C.
TS. Hiếu cho biết, khi các nguyên tử
hydro được “tiêm” vào lớp màng, thay vì lõi
tế bào, hiệu suất của toàn bộ pin được tăng
lên đáng kể.
Nghiên cứu sinh Trương Ngọc Thiện,
thành viên người Việt Nam duy nhất trong
nhóm nghiên cứu, cho biết thêm, khi dùng vật
liệu silicon chất lượng cao, việc cải thiện lõi
tế bào chỉ đạt mức độ giới hạn. Do đó, cải
thiện lớp màng là một bước rất quan trọng để
đạt được pin mặt trời hiệu quả cao.
Theo nghiên cứu sinh Trương Ngọc
Thiện, những khám phá này chắc chắn sẽ
giúp sản xuất pin mặt trời silicon mạnh hơn
và hiệu quả hơn bởi các nhà khoa học đã biết
cách điều khiển hàm lượng hydro bên trong
lớp màng để có pin mặt trời tốt hơn”.
TS. Hiếu cho biết vài năm trở lại đây,
có vài chục nhóm nghiên cứu về công nghệ
mới này trên phạm vi toàn cầu. Cuối năm
2017, khi ý tưởng vừa nhen nhóm, anh rất lo
lắng, nhưng sau khi tuyển được một nhóm
sinh viên xuất sắc đầu năm 2018 thì nhóm bắt
tay vào việc thực hiện dự án này.
Nguồn: Ngọc An,
khoahocphothong.com.vn, 10/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động tương lai
Th.S Nguyễn Văn Mỷ tại Trung tâm Nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử.
Công trình “Nghiên cứu chế tạo vật
liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong
pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động
tương lai” của thạc sĩ - nghiên cứu sinh
Nguyễn Văn Mỷ ở Trung tâm Nghiên cứu vật
liệu cấu trúc nano và phân tử - Đại học Quốc
gia TPHCM đã tạo ra sức bền lớn hơn cho pin
năng lượng, có hiệu quả cao khi ứng dụng
vào việc sản xuất pin cho các thiết bị di động,
đặc biệt với pin cho xe hơi điện.
Thế giới luôn chạy đua tìm nguồn
năng lượng tốt hơn, sạch hơn, bền hơn và khi
nói về pin nhiên liệu thì xu hướng nghiên
cứu, phát triển pin có dung lượng cao hơn,
bền hơn ngày càng phổ biến và cấp thiết hơn.
Sự bùng nổ gần đây của xe điện đặt ra yêu
cầu nghiên cứu các ứng dụng của pin để tích
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 17/53
trữ và vận chuyển năng lượng nhanh và bền
bỉ. Gần đây, Nhật Bản đã có kế hoạch sử
dụng những chiếc xe sử dụng pin nhiên liệu
thay thế cho xăng dầu để chở vận động viên
đến các nơi thi đấu tại Olympic Tokyo năm
2020. Trong đó, “thêm sức bền” cho pin
nhiên liệu là một vấn đề đặt ra cho nguồn
năng lượng này.
Thạc sĩ - nghiên cứu sinh Nguyễn Văn
Mỷ cho biết: Trong số các thành phần cấu tạo
pin nhiên liệu, việc phát triển vật liệu làm
màng trao đổi proton, có khả năng hoạt động
trong điều kiện thực tế được quan tâm sâu
sắc. Các vật liệu làm màng trao đổi proton
truyền thống là các polyme perfluorosulfonic
(PFSA), tức là Nafion được hydrat hóa hoàn
toàn, có khả năng đạt được độ dẫn proton cao
khoảng 1 x 10-1 S cm-1 tại 800C. Tuy nhiên,
độ ẩm tương đối (RH) cần phải cao hơn 98%.
Với độ ẩm này, chỉ một sự dao động nhiệt độ
nhỏ, có thể gây ra sự ngưng tụ nước dẫn đến
mất hiệu suất của pin nhiên liệu cũng như tốn
chi phí lớn trong việc duy trì độ ẩm cao.
Ngoài ra, pin nhiên liệu hydro cần hoạt
động tốt ở nhiệt độ cao để giảm sự đầu độc của
khí CO đối với xúc tác Pt trên điện cực. Tuy
nhiên, tại nhiệt độ cao hơn 800C, cấu trúc
Nafion không bền (trương nở về mặt cơ học)
dẫn đến làm giảm độ dẫn proton. Do đó, cần
thiết kế và tổng hợp các vật liệu mới làm màng
trao đổi proton với độ dẫn proton cao, hoạt
động tốt ở nhiệt cao và độ ẩm thấp hơn 98%.
Vật liệu khung hữu cơ kim loại (Metal-
organic frameworks - MOFs) là loại vật liệu
xốp có diện tích bề mặt cao được tạo thành từ
các cụm kim loại và các cầu nối hữu cơ. Loại
vật liệu này đang thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học trên thế giới và được ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau như là lưu trữ,
tách khí, hấp phụ khí nhà kính như CO2 hay
CH4, xúc tác dị thể, đầu dò hóa học… Gần
đây, vật liệu nano MOFs được sử dụng rộng
rãi để làm vật liệu màng trao đổi proton nhờ có
độ bền nhiệt và hóa học cao cũng như có thể
đưa chất mang proton vào cấu trúc MOFs
thông qua tương tác axit-bazơ.
“Cho đến năm 2017 và 2018, lần đầu
tiên chúng tôi đã tổng hợp thành công hai loại
vật liệu Zr-MOFs mới, chưa từng được công
bố trên thế giới (được đặt tên lần lượt là
VNU-17 và VNU-23) trên cơ sở các liên kết
sulfonat của cầu nối hữu cơ với các cụm kim
loại Zr. Giá trị độ dẫn proton này cao hơn rất
nhiều so với các vật liệu MOFs truyền thống
và gần tiệm cận giá trị độ dẫn proton của các
vật liệu công nghiệp cũng như phù hợp với
điều kiện thực tế sử dụng pin nhiên liệu cho
các loại xe hơi”, ông Mỷ cho biết thêm.
Với công trình này, ông Nguyễn Văn
Mỷ đã đóng góp lớn vào hệ thống thư viện về
vật liệu mới trên thế giới: VNU-17 và VNU-
23 là hai cấu trúc hoàn toàn mới và chưa từng
được công bố. Hai vật liệu HIm11VNU-17 và
His8.2VNU-23 thể hiện giá trị dẫn proton
vượt trội so với các vật liệu MOFs khác. Vật
liệu His8.2VNU-23 có giá trị độ dẫn >10-2 S
cm-1 (95oC, 85 %RH) tương tự với độ dẫn
proton của vật liệu truyền thống Nafion
nhưng khắc phục hoàn toàn nhược điểm của
Nafion khi được đo lường ở độ ẩm thấp hơn
và nhiệt độ cao. Và hơn nữa, đề tài có khả
năng ứng dụng cao (vì quá trình tổng hợp vật
liệu từ các nguồn rẻ tiền như muối ZrOCl2 và
linker H2NDC) để làm màng trao đổi proton
trong thực tế với loại pin nhiên liệu hydro.
Nguồn: Kim Thanh, sggp.org.vn,
06/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 18/53
Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt
Nhằm nghiên cứu chế tạo thành công
dây nano của một số ôxít kim loại đa thành
phần ABO như ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4
bằng phương pháp bốc bay nhiệt nhằm ứng
dụng trong lĩnh vực cảm biến khí và quang
xúc tác, nhóm nghiên cứu do TS. Đỗ Đăng
Trung, Trường Đại học Phòng cháy Chữa
cháy, Bộ Công An đứng đầu đã tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chế tạo và
khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa
nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4)
bằng phương pháp bốc bay nhiệt”.
Sau một thời gian triển khai thực hiện,
nhóm nghiên cứu đã thu được các kết quả
như sau:
1. Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính
chất của dây nano ABO
- Đã chế tạo thành công dây nano
Zn2SnO4 bằng phường pháp bốc bay nhiệt.
Hỗn hợp bột nguồn gồm ZnO:C:Sn. Tỷ lệ
thành ZnO:C là 1:1 và thành phần Sn thay đổi
trong khoảng từ 2 đến 10% tổng khối lượng.
Tính chất về cấu trúc và hình thái của dây
nano Zn2SnO4 đã được chúng tôi nghiên cứu
bằng phương pháp SEM và XRD. Ảnh hưởng
của hàm lượng Sn đền cấu trúc và hình thái
của dây nano Zn2SnO4 cũng đã được chúng
tôi nghiên cứu. Các kết quả này đã được công
bố trên tạp chí ISI. Bên cạnh đó, nhóm nghiên
cứu cũng đã nghiên cứu chế tạo dây nano đa
nguyên loại Indium-Tin-Oxide (ITO) và dây
nano SnWO4. Tuy nhiên, việc chế tạo loại
dây này khá phức tạp, kết quả nghiên cứu
hính thái sản phẩm thu được cho thấy không
phải là dây nano ITO cũng như SnWO4. Kết
quả thu được chưa đủ tốt để công bố trên các
công trình khoa học.
- Việc nghiên cứu chế tạo dây nano đa
nguyên (ABO) bằng phương pháp bốc bay
nhiệt khá phức tạp. Trong báo cáo định kỳ,
nhóm có đề xuất mở rộng nghiên cứu chế tạo
dây nano đa nguyên bằng phương pháp hóa
học và kết quả là đã nghiên cứu chế tạo thành
công dây nano ZnO bằng phương pháp thủy
nhiệt hóa học khá đơn giản. Các kết quả
nghiên cứu này được chúng tôi công bố trên
tạp chí Journal of Electronic Materials.
Phương pháp nghiên cứu này có thể được
phát triển để chế tạo loại dây nano đa nguyên
trong thời gian tới bằng cách đưa thêm các
tiền chất khác nhau.
- Đã thành công trong việc sử dụng
phương pháp thủy nhiệt ở áp suất cao và chế
tạo thành công thanh, dây nano MnWO4 sử
dụng hỗn hợp tiền chất chứa các ion Mn2+ và
W2+. Các điều kiện thí được tối ưu để chế tạo
thanh nano MnWO4 với độ lặp lại khá tốt.
Các kết quả nghiên cứu này cũng đã được
chúng tôi công bố trên tạp chí Journal of
Alloys & compounds. Theo hướng nghiên
cứu này nhóm cũng đã tiến hành nghiên cứu
chế tạo thanh, dây nano ZnWO4 và SnWO4
bằng phương pháp thủy nhiệt hóa học ở áp
suất cao. Các kết quả nghiên cứu được trình
bày chi tiết trong phần phụ lục của báo cáo.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 19/53
- Đã nghiên cứu cấu trúc dây nano đa
nguyên CoAl2O4 sử dụng khuông chitosan.
Cấu trúc này có độ xốp khá cao, có tiềm năng
ứng dụng trong vật liệu cảm biến khí và
quang xúc tác.
2. Ứng dụng vật liệu chế tạo được
trong lĩnh vực cảm biến khí và xúc tác
- Đã nghiên cứu chế tạo thành công
cảm biến dây nano Zn2SnO4 bằng phương
pháp mọc trực tiếp lên điện cực và khảo sát
được khả năng nhạy khí NO2 của cảm biến.
Ảnh hưởng của hàm lượng Sn đến tính chất
nhạy khí của dây nano cũng đã được nghiên
cứu. Các kết quả nghiên cứu chính đã được
công bố trên tạp chí Journal of Alloys &
compounds . Các kết quả cho thấy rằng, cảm
biến dây nano Zn2SnO4 nhạy khá tốt với khí
NO2. So với cảm biến dây nano ZnO, độ đáp
ứng của cảm biến dây nano Zn2SnO4 lớn hơn
rất nhiều, độ đáp ứng với 10ppm NO2 ở 200
độ C lên đến gần 35 lần. Trong khi đó độ đáp
ứng với các khí khác như CO, H2, H2S và
NH3 chỉ trong khoảng từ 1.1 đến 2.2 lần, có
nghĩa cảm biến dây nano Zn2SnO4 có độ chọn
lọc khá tốt với khí NO2.
- Đã nghiên cứu một cách có hệ thống
tính chất dây khí của dây nano ZnO và dây
nano Zn2SnO4, sử dụng cảm biến chế tạo
bằng phương pháp mọc trực tiếp trên điện
cực. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
khoảng cách từ đế cảm biến đến vật liệu
nguồn có ảnh hưởng mạnh đến tính chất nhạy
khí của dây nano Zn2SnO4. Trong khi với
cùng khoảng cách nghiên cứu, thì cảm biến
dây nano ZnO hầu như không ảnh hưởng
nhiều đến tính chất nhạy khí của cảm biến.
Các kết quả đưa đến một lưu ý quan trọng
trong việc chế tạo số lượng lớn (chế tạo trên
diện tích lớn) cảm biến dây nano Zn2SnO4
bằng phương pháp bốc bay nhiệt để đạt được
hiệu suất chế tạo mong muốn khi ứng dụng
trong thực tế. Các kết quả này được trình bày
trong phần phụ lục của báo cáo kèm theo.
- Đã nghiên cứu khả năng nhạy khí
NH3 của cảm biến thanh nano MnWO4 chế
tạo bằng phương pháp nhỏ phủ đơn giản. Các
kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cảm biến
thanh nano nhạy tốt với khí NH3 ở nhiệt độ
400 độ C (nhiệt độ tối ưu). Độ đáp ứng của
cảm biến khá tuyến tính với nồng độ khí NH3
trong khoảng nồng độ từ 10 đến 1000 ppm.
Chi tiết các kết quả nghiên cứu này được
công bố trên tạp chí Journal of Alloys &
compounds.
Như vậy, các kết quả nghiên cứu đề tài
thu được có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu này có tiềm năng để phát
triển các sản phẩm cảm biến khí thế hệ mới
với nhiều tính năng ưu việt so với cảm biến
truyền thồng. Do đó, nhóm nghiên cứu rất
mong nhận được hỗ trợ để thực hiện các
nghiên cứu tiếp theo.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
26/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo gạch từ rác thải nhựa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 20/53
Nhóm học sinh đang chế tạo sản phẩm gạch polymer từ nhựa thải
Nhóm học sinh Nguyễn Trần Tiến,
Trần Thị Kiều Trang, Võ Thị Mỹ Trâm, Phan
Quốc Huy, Trần Lê Anh Đức, Trần Thái Minh
Quang (lớp 11, Trường THPT Cao Thắng, TP.
Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế) đã chế tạo thành
công sản phẩm gạch polymer từ nhựa thải
nhưng có chất lượng tương đương với gạch
block thông thường.
Gạch polymer của nhóm là loại gạch
không nung, được làm ra bởi 4 nguyên liệu là
xi măng, cát sạn (hỗn hợp giữa cát và sạn),
nhựa xay, nước. Nhóm học sinh đã thu gom
rác thải nhựa (như vỏ tivi, vỏ máy tính, bàn
chải đánh răng, bàn phím, con chuột máy
tính...), rửa sạch và cắt nhỏ. Sau đó, phối trộn
với xi măng, cát sạn và nước rồi đổ vào
khuôn, tạo ra gạch.
Nhóm có 4 mẫu thực nghiệm với tỉ lệ
trộn nhựa khác nhau. Như với mẫu có 0,85 kg
xi măng, 300 gr nhựa và 7,5 kg cát, nước, các
em đã làm nên sản phẩm “gạch nhựa” block
đặc khối lượng 9,8 kg, có kích thước
100x185x280 mm. Hoặc với lượng xi măng
trên, lượng nhựa tăng lên 600 gr, cát giảm
còn 6 kg và nước thì tạo ra sản phẩm gạch
block tương tự với trọng lượng 9,4 kg…
Sau thời gian bảo dưỡng 28 ngày,
nhóm đã đưa mẫu thực nghiệm đi kiểm tra
thông số kĩ thuật ở Xưởng gạch ngói màu
terizzo thuộc Công ty Xi măng Long Thọ
(Huế). Qua kiểm tra về cường độ chịu nén,
lực phá hoại, cường độ trung bình (MPA)…
theo tiêu chuẩn phương pháp thí nghiệm
TCVN 6477-2016, mẫu TN3 là phù hợp với
tất cả mọi công trình, còn TN4 phù hợp với
các công trình chịu lực ít.
Với tính ứng dụng cao, sản phẩm đã
mang về cho nhóm giải Ba cuộc thi Khoa học
kỹ thuật cấp tỉnh vừa diễn ra đầu năm 2019.
Sắp tới, nhóm sẽ nghiên cứu thử
nghiệm xây dựng công thức phối trộn đưa
lượng nhựa thải vào nhiều hơn trong một viên
gạch, thay thế một lượng cát, sạn để tạo vật
liệu mới nhẹ hơn, bền hơn...
Nguồn: BT, baochinhphu.vn,
19/04/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 21/53
Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học
Đặc điểm hình thái của Aristolochia nuichuaensis
Theo TS. Đỗ Văn Trường, Bảo tàng
thiên nhiên Việt Nam, Mộc hương Núi Chúa
(Aristolochia nuichuaensis), một loài thực vật
mới cho khoa học vừa được phát hiện và mô
tả từ Vườn quốc gia Núi Chúa, tỉnh Ninh
Thuận, Việt Nam.
Trên thế giới, chi Mộc hương
(Aristolochia L.) gồm khoảng 600 loài phân
bố chủ yếu vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, là
một trong những nhóm thực vật quan trọng, có
giá trị làm cảnh, làm thuốc hay cung cấp thức
ăn cho sâu non thuộc họ Bướm phượng
(Papilionidae, Lepidoptera). Ở Việt Nam, chi
này được biết khoảng 25 loài thuộc 2 phân chi
Aristolochia và Siphisia. Trong khi nghiên cứu
đa dạng chi Mộc hương ở Việt Nam, các nhà
khoa học thuộc Bảo tàng thiên nhiên Việt
Nam, Viện sinh thái học Miền Nam, thuộc
Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt
Nam và cán bộ Vườn quốc gia Núi Chúa, tỉnh
Ninh Thuận, đã phát hiện và mô tả một loài
thực vật mới thuộc họ Mộc hương
(Aristolochiaceae) ở Vườn quốc gia Núi Chúa,
tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Loài thực vật mới
có tên khoa học là Mộc hương Núi Chúa,
Aristolochia nuichuaensis V.T.Do & H.T.Luu.
Loài mới có đặc điểm hình thái tương
tự với các loài Aristolochia baenzigeri, A.
bidoupensis, và A. petelotii; tuy nhiên, loài
mới được phân biệt với các loài kể trên bởi
những đặc trưng hình thái như: phiến lá hình
tim, trục cụm hoa dài đến 20 cm, phần trên
của ống bao hoa hình trụ, thuôn dài và hẹp
hơn nhiều so với phần dưới, mặt ngoài duy
nhất màu tím, mặt trong duy nhất màu trắng,
môi hình chuông, đường kính 4.5-5 cm, thùy
không cuộn lại, bề mặt ngoài màu trắng với
nhiều đường gờ màu tím nổi rõ, bề mặt trong
màu trắng với nhiều đường gờ lõm và mụn
cơm, họng hình ellip, màu trắng;
gynostemium với 3 thùy nhọn. Những đặc
điểm hình thái trên đặt loài mới này trong
phân chi Siphisia.
Đây là loài thứ 8 của phân chi Siphisia
được phát hiện và mô tả gần đây ở Việt Nam
và nâng tổng số loài của phân chi Siphisia ở
Việt Nam lên 16 loài. Nhóm nghiên cứu cũng
liệt kê thành phần loài, phân bố và xây dựng
khóa định loại cho tất cả các loài của phân chi
Siphisia ở Việt Nam.
Nguồn: A.T,khoahocphothong.com.vn,
18/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 22/53
Đề tài do tác giả Ngô Đại Nghiệp và
cộng sự (Đại học Khoa học Tự nhiên,
TP.HCM) thực hiện nhằm tạo chế phẩm có
chứa astaxanthin từ nấm men Rhodosporidium
sp. và vi tảo Haematococcus pluvialis và β-
glucan từ Rhodosporidium sp. và
Saccharomyces cerevisiae, ứng dụng trong thực
phẩm chăn nuôi làm tăng phẩm chất vật nuôi.
Trong tự nhiên, các loài cá nhiệt đới
thường có nhiều màu sắc khác nhau và chính
đặc điểm này làm cho chúng trở nên rực rỡ,
thu hút hơn và làm cho chúng có giá trị kinh tế
không chỉ phục vụ cho nền công nghiệp cá
cảnh trong nước mà còn có khả năng tiến tới
xuất khẩu. Thực tế khi nuôi các loại cá cảnh
như cá dĩa, để nhuộm màu cơ, da hay làm cho
cá cảnh có màu vàng cam hay đỏ, thức ăn nuôi
công nghiệp thường được bổ sung sắc tố, làm
cho cá có màu sắc đẹp hơn. Các sắc tố hiện
diện trên da, đóng một vai trò quan trọng đối
với giá trị thương mại của các loài cá cảnh.
Astaxanthin và β-glucan là hai hợp chất có
nhiều tiềm năng trong việc tăng màu sắc và
sức đề kháng cho cá cảnh, đã được sử dụng
như là thành phần bổ sung trong thực phẩm
cho một số đối tượng thủy hải sản. Trong
nghiên cứu này, astaxanthin được thu nhận từ
tảo Haematococcus pluvialis và nấm men
hồng Rhodosporidium sp., β-glucan được thu
từ nấm men hồng, nấm men bia và nấm men
bánh mì (Saccharomyces cerevisiae).
Các kết quả thu được cho thấy,
Haematococcus pluvialis có hai pha sinh
trưởng và tạo astaxanthin. Môi trường tăng
sinh tốt nhất cho loài H. pluvialis là BG11 ở
điều kiện sục khí với cường độ ánh sáng
2Klux, thời gian chiếu 12 giờ ở 25oC trong
thời gian 14 ngày. Trong giai đoạn tạo
astaxanthin, khi sử dụng môi trường BG11
nuôi tĩnh thì từ 18 ngày trở đi mới có sự tích
lũy astaxanthin. Khi tăng nhiệt độ lên 37oC
thì thời gian bắt đầu tích lũy là ngày thứ 10 và
đạt 2,68% ở ngày thứ 22. Khi nuôi trong môi
trường RM không có nitơ và phospho với thời
gian chiếu sáng 24 giờ/ngày hàm lượng
astaxanthin tích lũy chiếm tới 2,67% trọng
lượng tế bào chỉ sau 10 ngày gây stress.
Trong khi nấm men Rhodosporidium
sp. cho sinh khối có nhiều astaxanthin tối ưu
khi nuôi cấy với tỷ lệ giống bổ sung 10% vào
thời điểm 74 giờ. Cụ thể hàm lượng
astaxanthin là 2309,17μg/l và trọng lượng
sinh khối khô thu được là 6,1696 g/l hay
374,29 μg/g sinh khối khô. Ngoài ra cũng đã
xác định được điều kiện thích hợp cho thu
nhận hàm lượng β-glucan là 64,87% ở nồng
độ NaOH 0,5M trong thời gian 4 giờ, nhiệt độ
100oC, tỷ lệ mẫu:NaOH là 1:5. Ngoài ra, quy
trình thích hợp để tách chiết β-glucan từ vách
tế bào nấm men cho cả men bia và men bánh
mì là NaOH 1M, đun ở 1000C trong 4 giờ với
tỷ lệ NaOH (ml):vách tế bào (g) = 1:5.
Sau ba tháng thí nghiệm, kết quả cho
thấy màu sắc của cá dĩa đỏ ở các nghiệm thức
có sự khác nhau rõ rệt ở nồng độ 90mg/kg
thức ăn. Cá dĩa có màu sắc đậm nhất ở
nghiệm thức chế phẩm thương mại với số
điểm trung bình là 28,25; kế đến là nghiệm
thức astaxanthin tách chiết tương ứng với số
điểm 26,23; nghiệm thức đối chứng không sử
dụng astaxanthin cho kết quả màu sắc trên da
cá dĩa nhạt nhất với 20,48 điểm. Sau 30 ngày
cho cá ăn thức ăn có bổ sung β-glucan với các
nồng độ khác nhau 0,1%, 0,5% và 1%, ở
nghiệm thức cho ăn ở nồng độ 1% có khả
năng kích thích miễn dịch cho cá dĩa. Đồng
thời β-glucan có khả năng kích thích tăng sức
đề kháng hơn là trị bệnh.
Từ kết quả thử nghiệm xác định được
chế phẩm bổ sung cho thức ăn cho cá dĩa đỏ
có thể làm đậm màu của cá và làm tăng hệ
miễn dịch (tăng tổng số tế bào bạch cầu ở cá)
là hàm lượng astaxanthin và β-glucan lần lượt
là 90mg/kg thức ăn và 10g/kg thức ăn.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 23/53
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
14/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos
Đề tài do tác giả Đoàn Thị Mộng
Thắm và cộng sự (Trung tâm Phát triển
KH&CN Trẻ) thực hiện nhằm phân lập các
vi khuẩn có khả năng làm suy giảm
chlorpyrifos, một chất diệt côn trùng
phosphate hữu cơ, được sử dụng rộng rãi
trong nông nghiệp. Đồng thời, góp phần
cung cấp thông tin về một số chủng loài vi
khuẩn có khả năng phân giải chlorpyrifos
của nước ta.
Chlorpyrifos là một chất độc thần
kinh, gây bất hoạt enzyme acetyl
cholinesterase, có vai trò điều hòa sự dẫn
truyền thần kinh, từ đó gây chết côn trùng.
Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc trừ sâu quá
mức và không đúng cách dẫn đến dư lượng
thuốc trừ sâu vượt quá giới hạn cho phép
trong nông sản và thực phẩm, ảnh hưởng đến
môi trường và sức khỏe con người. Chúng có
thể gây ra ngộ độc cấp tính và nguy hiểm
cho người và động vật, đặc biệt là động vật
chân đốt và các loài thủy sinh.
Vi khuẩn từ lâu được các nhà khoa học
biết đến với khả năng phân giải thuốc trừ sâu
và các hợp chất dị sinh có hại khác trong đất.
Chúng không chỉ có khả năng sinh trưởng
nhanh, thích nghi tốt với các điều kiện môi
trường sống khác nhau, không cạnh tranh đất
với thực vật, mà còn có khả năng tạo ra môi
trường thuận lợi cho hệ thống rễ cây tăng
trưởng tốt trong đất.
Từ 50 mẫu đất thu thập được ở 50 nơi
trồng lúa, rau màu và cây ăn quả, nhóm tác giả
đã phân lập được 107 chủng vi khuẩn có khả
năng sinh trưởng trên môi trường muối khoáng
(MSM) bổ sung 300 μg/mL chlorpyrifos. Trong
đó, đề tài đã tuyển chọn được 20 chủng vi
khuẩn có khả năng sinh trưởng mạnh trên môi
trường MSM – Agar 300 μg/mL chlorpyrifos
là: Burkholderia vietnamiensis (2.8),
Ochrobactrum intermedium (2.10), Bacillus
megaterium (3.6), Pseudomonas luteola (5.1),
Bacillus curculans (5.2), Pantoea dispersa (5.4),
Paenibacillus validus (6.2), Burkholderia
graminis (6.3), Paenibacillus nanensis (8.2),
Pseudomonas duriflava (13.1), Pseudomonas
citronellolis (13.3), Burkholderia diffusa (13.4),
Bacillus megaterium (15.3), Burkholderia
graminis (16.2), Burkholderia stabilis (16.3),
Klebsiella pneumonia (18.1), Burkholderia
vietnamiensis (26.1), Pseudomonas
nitroreducens (27.2), Pseudomonas aeruginosa
(30.1), Ochrobactrum tritici (49.1). Các chủng
tuyển chọn được định danh theo phương pháp
phân tích hình thái, sinh lí, sinh hóa dựa trên
khóa phân loại Bergey 1994 thuộc 7 chi
(Burkholderia, Ochrobactrum, Pseudomonas,
Bacillus, Pantoea, Paenibacillus và Klebsiella).
Trong đó, 4 chủng là Pseudomonas
duriflava 13.1, Bacillus megaterium 15.3,
Burkholderia graminis 16.2 và Burkholderia
stabilis 16.3 có khả năng phân giải
chlorpyrifos trên môi trường MSM – Agar
chứa 100 – 300 μg/mL chlorpyrifos mạnh
nhất, độ lớn vòng phân giải đạt 7 - 11 mm
sau 10 ngày nuôi cấy. Chủng Burkholderia
stabilis 16.3 được phân lập từ ruộng lúa (tỉnh
Bình Dương) có khả năng phân giải
chlorpyrifos trên môi trường có hoặc không
có sự hiện diện của glucose, làm giảm lượng
chlopyrofos lần lượt là 189,22 và 173,13
μg/mL sau 15 ngày nuôi cấy.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 24/53
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
18/03/2019
Trở về đầu trang
**************
Y HỌC
Nghiên cứu và chế tạo thành công vật liệu kết xương titan
Khoa vật liệu, Trường đại học bách
Khoa Hà Nội đã nghiên cứu và chế tạo thành
công vật liệu titan xốp và titan đặc, có tiềm
năng trong việc ứng dụng kết xương. Tuy
nhiên, cần phải đánh giá tính tương thích sinh
học của vật liệu trên mô hình động vật thí
nghiệm trước khi thực hiện thử nghiệm lâm
sàng. Vì vậy, các bác sĩ Lê Văn Quân, Bệnh
viện quân y 103, Cấn Văn Mão, Học viện
quân y, đã tiến hành nghiên cứu.
Động vật nghiên cứu là 12 con thỏ
khỏe mạnh, cân nặng khoảng 2 - 2,5 kg. Sau
phẫu thuật, toàn bộ động vật đều tỉnh sau 1 -
3 giờ, có thể tự ăn uống sau 12 giờ, tỷ lệ sống
100%. Động vật đi lại ít, chậm trong vòng 24
giờ đầu sau mổ.
Trước phẫu thuật, trọng lượng trung
bình của thỏ ở ba nhóm dao động từ 2,61 -
2,64 kg và không có sự khác biệt về trọng
lượng giữa các nhóm. Trọng lượng của động
vật ở các nhóm cho thấy quá trình phát triển
của động vật bình thường, tương ứng với lứa
tuổi động vật từ 6 - 8 tháng. Sau phẫu thuật 1
tuần, trọng lượng của động vật nghiên cứu hầu
như không khác biệt so với trước phẫu thuật ở
cả 2 nhóm, cân nặng của thỏ không giảm so
với trước phẫu thuật. Kết quả này cho thấy
phẫu thuật đặt vật liệu vào xương đùi thỏ
không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe động
vật, điều này cũng phù hợp với thực tế quan
sát thấy thỏ vẫn ăn uống, đi lại bình thường.
Thân nhiệt của thỏ ở thời điểm trước
phẫu thuật có giá trị trung bình 37,38 -
38,40 C. Đây là giá trị thân nhiệt tương tự như
trên thỏ khỏe mạnh, không có tình trạng bệnh
lý gây viêm nhiễm khi đo qua đường hậu môn.
Như vậy, động vật được lựa chọn nghiên cứu
đảm bảo khỏe mạnh và tương đồng giữa các
nhóm ở thời điểm chưa phẫu thuật. Sau phẫu
thuật 1 ngày và 1 tuần, thân nhiệt của thỏ
không có xu hướng tăng hơn so với thời điểm
trước khi phẫu thuật. Điều này cho thấy phẫu
thuật đặt vật liệu vào xương đùi thỏ không gây
viêm làm tăng thân nhiệt, đây là phản ứng
bình thường của cơ thể khi có can thiệp ngoại
khoa mà đảm bảo vô trùng.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về số lượng bạch cầu trước và sau
phẫu thuật đặt vật liệu kết xương ở cả hai
nhóm titan xốp và titan đặc. Số lượng bạch
cầu là một chỉ số đánh giá tình trạng viêm.
Kết quả này cùng với thay đổi nhiệt độ tại
chỗ và toàn thân của động vật cho thấy vật
liệu kết xương có tính tương thích sinh học
cao và không gây phản ứng viêm trên động
vật thực nghiệm.
Về tình trạng tại chỗ, vết mổ có dấu
hiệu phù nề, xung huyết nhẹ trong 3 ngày đầu
tiên, không có dịch thấm băng, không có hiệt
tượng chảy máu, chảy dịch từ vết mổ. Sau 7
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 25/53
ngày, mép vết mổ khít, tổ chức dưới da không
bị căng phồng, tràn dịch, tràn khí, hết tình
trạng phù nề, xung huyết. Sau phẫu thuật 1
tuần và 1 tháng, bóc tách kiểm tra cân cơ tại
chỗ vết mổ ở cả hai nhóm đều thấy: tổ chức
dưới da vùng ghép và xung quanh không thấy
biến đổi bất thường. Không có hạch, không
xơ hóa. Không thấy các mảnh vụn của vật
liệu rơi ra. Vùng mô cơ tiếp xúc trực tiếp với
vật liệu và xung quanh vật liệu có màu đỏ
hồng như những vùng khác, không quan sát
thấy vật liệu ngấm màu ra xung quanh.
Khối mô cơ chứa vật liệu đàn hồi tốt,
màu sắc hồng, trong, giống như vùng mô cơ
xung quanh. Vật liệu áp sát vào xương, màu
sáng, xung quanh không thấy hình ảnh viêm,
hoại tử. Có hiện tượng mô phát triển che phủ
vật liệu, không có hiện tượng tạo xơ hay vật
liệu bám lỏng lẻo trên bề mặt xương. Kết quả
này phù hợp với tiến trình liền vết thương, tạo
sẹo của vết thường không có biến chứng.
Kết quả trên hình ảnh mô bệnh học
cho thấy không có hiện tượng viêm tại tổ
chức xương và phần mềm xung quanh vị trí
đặt vật liệu kết xương.
Kết quả nghiên cứu, qua theo dõi tình
trạng toàn thân và tại chỗ trên động vật
nghiên cứu tại các thời điểm trước phẫu thuật,
sau phẫu thuật 1 ngày, 1 tuần cho thấy các chỉ
số thu được đều nằm trong phạm vi bình
thường trên thỏ khỏe mạnh và tương tự người
khỏe mạnh. Ở thời điểm sau nghiên cứu 1
tháng vết mổ liền sẹo tốt, hình ảnh đại thể
xung quanh vùng đặt vật liệu bình thường,
không thấy có hình ảnh gây viêm xương, hoại
tử xương. Hình ảnh vi thể trên mô bệnh học
không thấy hiện tượng viêm xương và tổ chức
phần mềm xung quanh. Điều này cho thấy vật
liệu titan xốp và titan đặc có tính tương thích
sinh học cao, không gây biến chứng khi đưa
vào xương đùi thỏ.
Nguồn: N.Quỳnh,
khoahocphothong.com.vn, 11/04/2019
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP
Công nghệ sấy vi sóng trong bảo quản, chế biến nông sản và thực phẩm
Thiết bị ứng dụng công nghệ sấy vi sóng.
Hiện nay, nhu cầu về sử dụng công
nghệ vi sóng trong bảo quản và chế biến thực
phẩm, nông sản là rất cao. Hướng phát triển
là các công ty cần làm chủ công nghệ vi sóng
để đáp ứng thị trường trong nước. Xuất phát
từ thực tế trên, sáng nay ngày 19/4/2019,
Trung tâm thông tin và thống kê KH&CN
TP.HCM (CESTI - Sở KH&CN TP.HCM), tổ
chức buổi báo cáo chủ đề “Hướng ứng dụng
công nghệ sấy vi sóng trong bảo quản, chế
biến nông sản và thực phẩm”.
TS. Nguyễn Đình Uyên - Công ty cổ
phần giải pháp nông nghiệp 5D – cho biết, với
các thiết bị sấy truyền thống như sấy đối lưu,
sấy tiếp xúc truyền nhiệt, sấy bức xạ … vốn là
phương pháp hút ẩm, làm mất nước từ bề mặt
bên ngoài sản phẩm. Phương pháp sấy sử dụng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 26/53
công nghệ vi sóng là phương pháp mà tất cả
các thành phần của vật liệu được làm khô do
nhiệt được thâm nhập bằng những tia sóng siêu
nhỏ, từ trong lõi sản phẩm ra bên ngoài bề mặt.
Vi sóng làm các phân tử nước rung, dao động
một cách nhanh chóng và bay hơi. Phương
pháp vi sóng này không chỉ tiết kiệm năng
lượng dùng công suất thấp hơn so với các hệ
thống sấy cũ mà còn giữ lại hầu hết chất dinh
dưỡng, màu sắc ban đầu của sản phẩm. Đặc
biệt, có thể tiêu diệt hầu hết 2 vi khuẩn E.coli
và Samonella tồn tại trong sản phẩm.
Hệ thống bao gồm: phần tạo vi sóng;
phần dẫn năng lượng vi sóng; băng tải;
buồng sấy và hệ thống vào ra đảm bảo an
toàn sóng điện từ.
Tại Việt Nam, có nhiều công ty đã bán
thiết bị dùng sóng siêu cao tần cho ngành chế
biến thực phẩm nhưng chưa có công ty nghiên
cứu và chế tạo thiết bị dùng sóng siêu cao tần.
Hiện Công ty cổ phần giải pháp nông nghiệp
5D và Công ty cổ phần máy và thiết bị công
nghiệp quốc tế là 2 đơn vị đã nghiên cứu và
thành công trong việc chế tạo ra hệ thống ứng
dụng công nghệ sấy vi sóng dùng trong nông
sản và thực phẩm như: xoài, mít, đậu phộng,
bột bánh, gạo, hạt điều, hạt cacao, ớt v.v…
Đánh giá tính hiệu quả về mặt kinh tế
và xã hội của việc ứng dụng phương pháp
trên, ông Đào Quốc Hưng - tổng giám đốc
Công ty cổ phần máy và thiết bị công nghiệp
quốc tế - cho biết, đơn vị chủ động hoàn toàn
từ nguồn vật tư trong nước đặc biệt là thiết bị
cao áp; sản phẩm do đội ngũ nghiên cứu Việt
Nam thiết kế và sản xuất nên có giá thành
hợp lý; thiết bị đơn giản tự động, dễ chế tạo,
vận hành; sản phẩm tiết kiệm điện năng nên
thân thiện với môi trường …
Trước năm 2009, sóng siêu cao tần đã
được dùng rộng rãi để diệt vi khuẩn trong
ngành y tế: dụng cụ y khoa, dụng cụ nha khoa,
tròng mắt không tiếp xúc.
Nguồn: Tuyết Mai,
khoahocphothong.com.vn, 22/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo máy thu gom nông sản tự động
Với niềm đam mê nghiên cứu, tìm tòi
sáng tạo, hai học sinh ở huyện miền núi Ninh
Sơn (Ninh Thuận) đoạt giải nhất cuộc thi Khoa
học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh
trung học năm học 2018 - 2019.
Thực và Nguyên cùng nhau trao đổi,
lấy ý tưởng từ chiếc máy hút bụi trong nhà và
chiếc máy thu gom rác thải để chế tạo ra mô
hình máy thu gom nông sản điều khiển tự
động, giúp nông dân thu gom nông sản sau khi
phơi khô, tiết kiệm chi phí. Ý tưởng đã nhận
được sự ủng hộ, hướng dẫn tận tình của thạc sĩ
Nguyễn Trần Thái Vũ, giáo viên bộ môn vật lý
và là giáo viên chủ nhiệm của hai em.
Sau nhiều tháng thầy trò cùng nhau
thiết kế, thử nghiệm, sản phẩm dự thi máy
điều khiển tự động thu gom nông sản trên sân
Đến năm 2009, Cơ quan quản lý
thuốc và thực phẩm của Hoa Kỳ (FDA) ra
quyết định được dùng sóng siêu cao tần để
diệt khuẩn trong quy trình bảo quản thức
ăn đóng hộp.
Từ năm 2009 đến nay, việc dùng
sóng siêu cao tần càng ngày càng phát
triển. Hiện tại trên thế giới, sóng siêu cao
tần đang được dùng trong rất nhiều lĩnh
vực như: diệt khuẩn cho thức ăn, sấy trái
cây, sấy gỗ, diệt mọt trong đậu, gạo v.v…
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 27/53
phơi đã hoàn thành với tổng chi phí hơn 10
triệu đồng.
Trần Hoàng Nguyên (trái) và Nguyễn Hữu Thực với sản phẩm dự thi đoạt giải nhất
Về nguyên lý hoạt động: Khi hoạt
động, hệ thống quét sẽ đẩy nông sản lên
khoang chứa. Băng chuyền có gắn các gàu
múc để đưa nông sản lên cao và đổ vào máng
dẫn. Nông sản theo máng rơi vào bao thông
qua giá treo đã được lắp ở vị trí ngay bên
dưới máng dẫn. Khi nông sản chứa vào bao
đến một trọng lượng xác định sẽ gây ra lực đủ
lớn để tạo lực nén lên hệ thống băng chuyền
tải đẩy bao chứa nén lên công tắc làm ngắt
mạch, đồng thời hệ thống chổi quét và băng
chuyền tải ngừng hoạt động.
Sau 2 giây, động cơ của hệ thống băng
chuyền đẩy bao chứa nông sản ra phía sau, đi
qua máy may miệng bao; song song đó là
động cơ băng chuyền dẫn bao chứa đến vị trí
sẵn sàng tiếp nhận ngay bên dưới máng dẫn.
Khi giai đoạn may bao kết thúc, bao chứa
nông sản rời băng chuyền thì công tắc đóng
mạch kích hoạt hệ thống quét và băng chuyền
tải hoạt động.
Quá trình được lặp lại cho đến khi máy
di chuyển đến vị trí dừng cuối sân phơi. Tại
vị trí dừng cuối sân phơi, sử dụng vật cản
cách điểm kết thúc một khoảng, cảm biến
khoảng cách sẽ điều khiển dừng toàn bộ hoạt
động của máy; đồng thời cung cấp tín hiệu để
còi hoạt động, báo hiệu kết thúc công việc.
Tại cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp
quốc gia học sinh trung học năm học 2018 -
2019 (khu vực phía nam), sản phẩm máy điều
khiển tự động thu gom nông sản trên sân phơi
đã vượt qua nhiều sản phẩm đến từ các tỉnh,
thành phố đoạt giải nhất.
Nguồn:Thiện Nhân, thanhnien.vn,
05/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo hệ thống tưới cây bằng điện thoại
Mô hình hệ thống tưới cây điều khiển bằng điện thoại.
Đam mê nghiên cứu khoa học từ nhỏ,
em Huỳnh Tấn Cường, học sinh lớp 11B5
trường THPT Lý Thường Kiệt, huyện Hóc
Môn, TP.HCM đã khiến nhiều thầy cô bất ngờ
khi tự mình nghiên cứu và chế tạo thành công
hệ thống tưới cây điều khiển bằng điện thoại.
Hệ thống giúp người sử dụng tiết kiệm
được thời gian chăm sóc cây, mọi thao tác
đều được tự động hóa. Người sử dụng có thể
điều khiển hệ thống tưới cây từ xa.
Đồng thời, sử dụng hệ thống tưới phun
sương sẽ tiết kiệm nguồn nước đáng kể. Tùy
vào diện tích vườn mà có hệ thống tưới cây
phù hợp. Khu vườn rộng 20m2 chỉ mất
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 28/53
khoảng 1.000.000đ cho hệ thống tưới cây
bằng điện thoại.
Bộ điều khiển của hệ thống sẽ lấy dữ
liệu từ cảm biến độ ẩm đất, cảm biến nhiệt
độ, cảm biến độ ẩm không khí và lưu lượng
nước. Thông tin sau khi thu thập được
chuyển về máy chủ, thông qua điện thoại
người dùng có thể kiểm tra và điều khiển hệ
thống tưới cây từ xa. Đặc biệt, mô hình điều
khiển này có thể sử dụng cả trên 2 hệ điện
hành Android và IOS.
Hệ thống tưới cây điều khiển bằng
điện thoại giúp Cường gặt hái được nhiều
thành công tại nhiều cuộc thi như: giải nhất
cuộc thi Khoa học sáng tạo huyện Hóc Môn,
giải nhì cuộc thi Khoa học sáng tạo khối
THPT cấp Thành phố.
Cô Nguyễn Thị Hiền - giáo viên dạy
môn Vật lý chia sẻ: “Trong quá trình hướng
dẫn và đồng hành em ở các cuộc thi, cô thấy
Cường là một học sinh năng động, có tố
chất và rất đam mê nghiên cứu sáng tạo. Sau
khi thi học kì 2, Cường còn dự định lắp
đặt hệ thống tưới cây tự động cho vườn cây
của trường, góp phần giúp nhà trường có
vườn cây tươi mát hơn”.
Thầy cô đánh giá Cường là học sinh có
tố chất trong lĩnh vực nghiên cứu và tin học.
Vừa qua, em Huỳnh Tấn Cường đã dành
được huy chương đồng cuộc thi Olympic
30/04 toàn miền Nam, giải ba cuộc thi Robot
sáng tạo của Thành đoàn.
Hệ thống tưới cây tự động bằng điện
thoại giúp người sử dụng thuận tiện hơn trong
việc chăm sóc khu vườn của mình. Vừa giúp
gia đình có khoảng cây xanh trong nhà, tiết
kiệm được lượng nước tưới cây đáng kể, vừa
góp phần làm khu vườn trở nên tươi mát,
không khí trong lành hơn. Hi vọng hệ thống
sẽ được nhân rộng hơn để mỗi hộ gia đình là
một “mảng xanh” của thành phố.
Nguồn: Ngọc Thạch – Huế Xuân,
moitruongvadothi.vn, 16/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Thuyền phun thuốc đa năng
Cô giáo hướng dẫn và hai học sinh sáng chế thuyền phun.
Thuyền phun đa năng hoạt động trong
ao nuôi thủy sản, có thể tự động phun nước
và các loại thuốc phòng, trị bệnh cho cá...
giúp tiết kiệm khoảng 50% chi phí so với
phun thuốc thông thường. Đây là sản phẩm
do hai em Ngô Nguyễn Hoàng Anh và Võ
Thị Xuân Mai, học sinh lớp 9A3 Trường
THPT Cây Dương (H.Phụng Hiệp, Hậu
Giang), sáng chế.
Để hoàn thiện sản phẩm, hai em đã vận
dụng kiến thức được học và tìm hiểu thêm
thông tin trên mạng. Thiết bị được tích hợp sử
dụng pin năng lượng mặt trời, bộ sạc trữ điện;
2 ắc quy; bộ phận phun thuốc gồm: ống nhựa
hút nước, van điều chỉnh, lược nước, khay
chứa thuốc, mô tơ trộn, vòi phun... Nguyên lý
hoạt động là sau khi bật công tắc khởi động,
bộ thu có nhiệm vụ giải mã tín hiệu (xử lý
thông tin) và điều khiển thiết bị, như: phun
thuốc, rẽ trái, rẽ phải... Khi mô tơ chạy, nước
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 29/53
sẽ dẫn lên 2 ống dẫn. Ống thứ nhất gắn một
lưới lọc để nước qua bút đo độ pH, đo nhiệt
độ, tiếp tục qua ống đồng để làm mát mô tơ
và thải ra ngoài bằng ống cao su. Ống thứ hai
cung cấp nước và lấy thuốc trong khay thông
qua công tắc điều chỉnh. Thuốc được hút vào
mô tơ trộn, sau đó đẩy hỗn hợp ra các vòi và
phun ra ao.
Chị Võ Thị Ngọc Nghĩa (35 tuổi, ngụ
ấp Mỹ Lợi B, xã Hiệp Hưng, H.Phụng Hiệp,
Hậu Giang) kể: “Thời gian qua tôi có sử
dụng thiết bị phun thuốc điều khiển tự động
của các em để chăm sóc cá trong 2 ao nuôi.
Thiết bị có 3 vòi phun nên rất tiện dụng, có
thể phun đều khắp mặt ao, vừa giảm được
công lao động vừa bảo vệ sức khỏe”.
Cô Bùi Thị Ngọc Thúy, giáo viên
hướng dẫn cho Xuân Mai và Ngọc Anh, nhận
xét: “Mặc dù mới học lớp 9 nhưng các em có
sự sáng tạo rất cao khi nghiên cứu và lắp ráp
thiết bị. Hơn nữa, giá thành của sản phẩm
cũng khá hợp lý, với khoảng 2,5 triệu
đồng/thuyền thì phù hợp túi tiền của người
nông dân”.
Thiết bị đã giành giải nhất cuộc thi
Sáng tạo thanh, thiếu niên nhi đồng tỉnh Hậu
Giang năm 2018. Hiện sản phẩm được thử
nghiệm tại một số ao nuôi cá ở địa phương và
được đánh giá cao. Thời gian tới, Xuân Mai
và Ngọc Anh dự định cải tiến thành máy phun
thuốc cho ruộng, rẫy để giúp người nông dân
giảm nhẹ công chăm sóc và giảm chi phí sản
xuất.
Nguồn: Duy Tân, thanhnien.vn,
16/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Máy cày đa năng
Tiến và ông Phạm Ngọc Anh kiểm tra máy cày trước khi cày đất.
Từ những chiếc xe máy cà tàng bỏ đi
và một vài vật dụng khác, anh Đặng Ngọc
Tiến (SN 1987, ở thôn Phú Hội, xã An Ninh
Đông, huyện Tuy An) đã sáng chế ra chiếc
máy cày đa năng, thay thế việc cày bừa bằng
trâu bò và sức người cho hàng chục hộ nông
dân ở địa phương.
Tiến tự mình sáng chế ra chiếc máy
cày đất từ động cơ xe máy cũ. Tiến thổ lộ,
trong một lần tình cờ xem ti vi về chương
trình nhà nông tại một tỉnh ở Tây Bắc, thấy
người dân dùng máy cày đất được chế tạo từ
động cơ xe máy, anh nảy sinh ý tưởng, tìm tòi
nghiên cứu chế tạo chiếc máy cày một lưỡi,
vừa cày vừa bừa thay cho cày, bừa bằng trâu
bò. Tiến mua một chiếc xe máy cũ, tháo bộ
khung sườn bán phế liệu, còn phần động cơ
anh mang đến tiệm sửa xe làm lại máy để
động cơ mạnh lên. Tiếp đó, Tiến mua sắt V5
về thiết kế khung sườn và mua nhông xe ba
gác độ lại làm nhông máy cày, rồi lấy sắt la 5,
dày 5 ly gò lại làm vòng tròn bánh lồng. Trục
bánh lồng được làm bằng thép Φ32 đặc; tay
cầm điều khiển làm bằng ống thép Φ34 độ
lại,…
Sau khi hoàn thành các bộ phận của
chiếc máy cày, Tiến độ dây ga bằng một cần
lắc để người cày “bỏ số” đơn giản và dễ điều
chỉnh tốc độ. “Qua hơn 1 tháng nghiên cứu,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 30/53
lắp ráp, tôi đã hoàn thành chiếc máy cày đầu
tiên và cho cày thử rất hữu dụng. Còn hiện
tại, để hoàn thành một chiếc máy cày bằng
động cơ xe máy, tôi chỉ cần khoảng 6 ngày.
Mỗi chiếc được bán với giá 7-7,8 triệu đồng,
tùy thuộc vào yêu cầu thiết kế của người dân.
Đến nay, tôi đã cung cấp cho bà con 12
chiếc; nhiều nông dân trong huyện tiếp tục
đến đặt hàng theo yêu cầu”, Tiến cho biết.
Theo ông Anh, nếu như trước đây, để
cày 4 sào đất tại Động Sặc, ông mất 3 ngày
thì nay cày bằng máy chỉ mất 6 giờ đồng hồ.
Những người không có bò phải thuê người
khác cày thì mỗi ngày phải trả 400.000-
500.000 đồng, tùy vào thời điểm. Trong khi
đó, cày máy ít tốn kém, mỗi sào chỉ tốn 1,2 lít
xăng. Còn cày trở hay cày đất nhẹ, 8 sào chỉ
tốn 5 lít xăng.
Là người đặt mua chiếc máy cày đầu
tiên do anh Tiến chế tạo, ông Nguyễn Văn
Chiên (còn gọi là Tám Chiên) ở Phú Hạnh
cho biết: “Sở dĩ, tôi mạnh dạn mua chiếc máy
cày này là vì khi Tiến chế tạo xong và đem
cày thử, tôi thấy rất hiệu quả. Với lại, Tiến
cũng cam kết bảo hành một năm. Trong ba
năm qua, nhờ chiếc máy cày này mà gần
6.000m2 đất thổ và đất rẫy của gia đình tôi
không phải cày bò. Dù đất ở đây rất nặng,
nhưng chiếc máy cày của gia đình chưa biết
hư là gì. Trước đây, tôi phải nuôi hai con bò
đực to, hàng ngày chăm lo đủ thứ. Còn bây
giờ nuôi bò đủ thịt, tôi bán được vài chục
triệu đồng/con mỗi năm; tiết kiệm, dành dụm
được một số tiền đáng kể”.
Thấy được lợi ích thiết thực của chiếc
máy cày do Tiến chế tạo và giá thành phù hợp
với túi tiền, nhiều người dân ở huyện Tuy An
đã đến cơ sở của Tiến đặt hàng, mua về cày,
giải phóng sức kéo của trâu, bò.
Nguồn: Trung Hiếu,
baophuyen.com.vn, 15/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Máy phun thuốc trừ sâu tự động
Võ Văn Trí giới thiệu clip thực nghiệm sản phẩm của mình tại Hội thi khoa học kỹ thuật Quốc gia dành cho học sinh phổ thông mới được tổ chức
tại TP.HCM
Mới học lớp 9 nhưng Võ Văn Trí đã
“tái sinh” những đồ bỏ đi để tạo ra một chiếc
máy phun thuốc trừ sâu và chính em là người
thử nghiệm sản phẩm ngay trên chính vườn ớt
nhà mình.
Khi được hỏi về lý do làm chiếc máy
phun thuốc trừ sâu, Trí hồn nhiên: “Mỗi lần
thấy ba em ra đồng đi phun thuốc trừ sâu rất
vất vả vì phải mang đồ bảo hộ. Có hôm ba em
bị nhiễm thuốc về phải uống nước pha đường.
Nhà em có tới mấy công ruộng và hoa màu
nên em muốn giúp ba đỡ vất vả hơn”.
Chiếc máy phun xịt tự động của Võ
Văn Trí, lớp 9 trường tiểu học và THCS An
Lộc (huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp) có ba
chức năng chính: phun thuốc trừ sâu, tưới
phân và lấy nước.
Máy hoạt động gồm 1 động cơ điện
12V, công suất 180W. Hai bên được bố trí 2
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 31/53
cần xịt với chiều dài hơn 1 mét và nhiều
béc phun kết nối thùng chứa với dung tích 50
lít. Trên 1 công vườn ớt (1000 mét vuông)
máy phun thuốc trừ sâu mất 30 phút với
khoảng 50 lít nước là hoàn thành. Người sử
dụng chỉ cần bơm lấy nước vào thùng, hòa
thuốc trừ sâu và kéo máy di chuyển trên vườn
để thực hiện phun xịt. Máy của Trí còn có
chức năng tưới nước phân bón cho cây.
“Bình thường ba em phun thuốc, tưới
phân trên 1 công vườn ớt mất hơn 1 giờ đồng
hồ. Nhưng từ khi có máy này, ba em đỡ vất vả
hơn, thời gian phun thuốc cũng nhanh hơn
trước. Lúc trước em mua vật liệu về làm máy,
ba cứ tò mò. Sau này ba mới hiểu là làm giúp
ba nên ba em vui lắm”- Trí kể.
Quá trình làm máy của Trí cũng
khá gian nan. Sống ở vùng quê nghèo, khan
hiếm các thiết bị điện tử, Trí phải tận dụng
những vật dụng bỏ đi để làm máy. Hai cần
phun được trí cải tiến và tận dụng lại từ cần
phun thuốc trừ sâu cũ. Thùng chứa cũng được
em sử dụng lại từ thùng nhựa cũ bỏ đi trong
nhà. Nguồn điện được Trí tháo từ bình ắc quy
xe máy cũ.
Trí chỉ có mong muốn, sản phẩm mini
này có thể đến với nhiều bà con nông dân.
Cậu học trò này cũng nhẩm tính được chi phí
cho sản phẩm thương mại hóa của máy vào
khoảng 3 triệu đồng.
“Em biết rằng, nhiều người đã làm sản
phẩm này, thậm chí có người còn sử dụng
thiết bị bay để phun thuốc. Nhưng những sản
phẩm này rất đắt tiền. Chiếc máy của em nằm
ở phân khúc bình dân, dễ sử dụng và tiện lợi
với người nông dân”- Trí tự tin nói.
Đánh giá sản phẩm học trò mình, thầy
Huỳnh Ngọc Cung, giáo viên Vật lý trường
tiểu học và THCS An Lộc cho biết, mặc dù
sản phẩm không mới, nhưng nó giải quyết
được vấn đề thực tiễn tại địa phương. Điều đó
cũng thể hiện sự tìm tòi, quan sát từ những vấn
đề thực tế của học sinh để đưa ra giải pháp.
“Máy sẽ còn phải cải tiến nhiều vì cơ
cấu di chuyển chỉ phù hợp với địa hình bằng
phẳng, còn các dạng địa hình gồ ghề hay
ngập nước máy ko đáp ứng được. Hiện nay
máy cũng phải sử dụng sức người để kéo và
trong tương lai tôi sẽ cùng với em tiếp tục
nghiên cứu để chế tạo hệ thống điều khiển từ
xa cho sản phẩm này”- thầy Cung nói.
Nguồn: Hà Thế An, khampha.vn,
22/03/2019
Trở về đầu trang
**************
Thùng trồng cây không cần tưới nước
Ông Nguyễn Quang Ngọc (51 tuổi) ở
Đắk Lắk, đã tiến hành nghiên cứu và sáng chế
thành công “Thùng trồng cây không cần tưới
nước”. Sản phẩm đã được Cục Sở hữu trí tuệ
(Bộ KH-CN) cấp bằng độc quyền sáng chế.
Ông Ngọc bộc bạch, mô hình “thùng
trồng cây không cần tưới nước” nói nôm na
là kỹ thuật trồng cây không mất công tưới
nước, được phỏng theo cấu trúc 3 tầng của
rừng Amazon, một trong những nơi có hệ
thống thực vật tốt nhất thế giới. Cách trồng
cây mới này được ông nghiên cứu và thử
nghiệm hơn 5 năm.
Khi lắp đặt xong, cho đất và trồng cây
vào thùng. Ở lần cấp nước đầu tiên, nước vào
thùng qua miệng sao cho thấm đều hết đất.
Nước tiếp tục di chuyển xuống đáy thùng và
dâng lên cho đến khi cao bằng lỗ mực nước
thì chảy ra ngoài, dừng việc cấp nước.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 32/53
Nhà sáng chế “chân đất” Nguyễn Quang Ngọc (bìa phải) và cộng sự bên những cây lên xanh tốt
với chậu trồng cây không cần tưới.
Trong quá trình trồng, nhu cầu cấp
thoát nước của cây diễn ra một cách tự động,
cây luôn luôn đủ khí và nước, do đó việc
chăm sóc cần rất ít sự tác động của bàn tay
con người ngoài việc cấp phân, khoáng chất
và thu hoạch. Ngoài ra, cách làm này còn tiết
kiệm được chi phí, mang lại hiệu quả trong
quá trình canh tác cây trồng. Cây trồng được
ở mọi nơi.
Sáng chế này của ông Ngọc đã được
Công ty CP Trái Đất xanh tươi chuyển sang
chế tạo sản phẩm thực tế là thùng và chậu
trồng cây, xuất khẩu sang thị trường châu Âu,
Mỹ, Australia, Nhật… Giải pháp được đánh
giá hữu ích cho các công ty môi trường có sử
dụng cho các công trình công cộng; các hộ
dân ứng dụng trong việc trang trí thảm xanh
cho nhà cao tầng. Giá thành mỗi thùng hoặc
chậu chỉ dao động khoảng 200.000 - 500.000
đồng/sản phẩm.
Ông Ngọc hy vọng, nếu được ứng
dụng rộng rãi, sản phẩm sẽ giúp các thành
phố lớn của Việt Nam nhìn từ trên cao, hay
tại những quảng trường, đường phố trung tâm
sẽ là những thảm xanh tươi mát.
Nguồn: Quang Huy, sggp.org.vn,
27/03/2019
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo dung dịch giữ nông sản tươi hơn 10 ngày
Bùi Thị Khánh Linh (phải) giới thiệu sản phẩm
Tại cuộc thi Công nghệ chế biến sau
thu hoạch năm 2019 vừa tổ chức tháng
4/2019, sinh viên Bùi Thị Khánh Linh, Đại
học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia
TPHCM) giành giải Nhất với nghiên cứu và
chiết xuất dung dịch chitosan từ vỏ tôm, cua
cùng với dịch chiết polyphenols trong trà
xanh để thay thế hóa chất bảo quản nông sản.
Nghiên cứu được đánh giá cao trong
bối cảnh nông sản Việt bị thất thoát nhiều sau
thu hoạch và các chất bảo quản hóa học có
nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng.
Bùi Thị Khánh Linh chia sẻ, chitosan
có nguồn gốc từ loài giáp xác, có khả năng
tạo màng bảo quản phân hủy sinh học. Tuy
nhiên, chitosan lại có khả năng kháng oxy
hóa và kháng khuẩn kém. Để khắc phục
nhược điểm này, Linh tiến hành nghiên cứu
biến tính chitosan với dịch chiết polyphenols
từ lá trà xanh tạo màng bảo quản nông sản,
ngăn chặn xuất hiện nấm mốc, đốm thâm, giữ
được độ xanh tươi của nông sản.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 33/53
So sánh trên các mẫu chuối cho thấy, ở
điều kiện thường (nhiệt độ phòng), mẫu chuối
không sử dụng chất bảo quản đã chín sau 3
ngày, 5 ngày bắt đầu có đốm đen (bị oxy hóa)
và đến ngày thứ 7 bị thối.
Mẫu chuối bảo quản bằng polyphenols
chín ngay sau 2 ngày, 4 ngày xuất hiện đốm
đen và 8 ngày sau có nấm mốc trên vỏ. Mẫu
được phun dung dịch chitosan chín sau 10
ngày, lớp vỏ chuối chỉ chuyển vàng và thối ở
nửa thân dưới quả chuối.
Với mẫu phun sương biến tính
chitosan với dịch chiết polyphenols có thời
gian chín lâu nhất (khoảng 10 ngày), vỏ vẫn
còn duy trì được màu xanh, chỉ xuất hiện thối
ở đầu cuống nhưng không bị nấm mốc trên
thân, khối lượng giảm ít.
Đánh giá về sản phẩm này, GS.TS
Đống Thị Anh Đào, Bộ môn Công nghệ thực
phẩm, Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia
TPHCM, Chủ tịch Hội đồng Giám khảo cho
biết, đây là một nghiên cứu có sự đầu tư và
hàm lượng khoa học cao. Sinh viên đã giải
thích được cơ chế giúp nông sản kháng khuẩn
tốt hơn mà vẫn giữ được chất dinh dưỡng,
chất lượng như ban đầu.
Kết quả nghiên cứu này tạo tiền đề cho
việc phát triển chuỗi công nghệ lưu giữ và gia
tăng chất lượng nông sản Việt Nam nhằm
cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khấu.
Nguồn: BT, baochinhphu.vn,
22/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu ứng dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công nghệ chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng
Trong những năm gần đây nhiều kết
quả nghiên cứu và mô hình chuyển đổi cơ cấu
cây trồng đã được chuyển giao và ứng dụng
hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp vùng đồng
bằng sông Hồng. Tuy nhiên việc phân tích
đánh giá cụ thể các kết quả này để trở thành
hệ thống lý luận để phục vụ việc xây dựng
nông thôn mới cho vùng chưa được hoàn
thiện. Chưa xây dựng được hệ thống các giải
pháp KHCN đồng bộ (cánh đồng mẫu lớn, cơ
giới hóa trong sản xuất, tổ chức nông dân,
liên kết thị trường...) áp dụng cho toàn bộ cơ
cấu cây trồng trong 1 năm để thúc đẩy và phát
huy hết tiềm năng hiệu quả kinh tế- xã hội các
hệ thống cây trồng của vùng. Vấn đề nghiên
cứu về chuỗi giá trị cho 1 số cây trồng hàng
hóa chủ lực chưa được tập trung, vì vậy nhiều
mô hình cho năng suất cây trồng cao nhưng
chưa cho hiệu quả kinh tế cao. Chính vì
những lý do trên, nhóm nghiên cứu do TS. Lê
Quốc Thanh Thời, Trung tâm Chuyển giao
công nghệ và Khuyến nông đứng đầu đã tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ứng
dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công
nghệ chuyển đổi cơ cấu cây trồng đạt hiệu
quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng”
nhằm phục vụ xây dựng nông thôn mới, đáp
ứng yêu cầu thực tế đang đặt ra.
Sau một thời gian triển khai gian thực
hiện (2013 - 2016), nhóm nghiên cứu thu
được các kết quả như sau:
1. Đã thu thập, hồi cứu, khảo sát bổ
sung các dữ liệu tự nhiên, xã hội, các kế
hoạch, quy hoạch phát triển vùng ĐBSH.
Phân vùng nghiên cứu theo đặc điểm địa
hình, vị trí địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội
và hình thái sản xuất vùng ĐBSH. Đánh giá,
làm rõ các nghiên cứu về hệ thống cây trồng
và chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên thế giới
và ở trong nước.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 34/53
2. Đánh giá được hiện trạng sản xuất
và cơ cấu cây trồng của vùng ĐBSH và đề
xuất các giải pháp KHCN phục vụ chuyển đổi
cơ cấu cây trồng: lựa chọn giống phù hợp,
hoàn thiện kỹ thuật canh tác, bố trí mùa vụ,
xây dựng cơ cấu cây trồng hợp lý có hiệu quả
kinh tế và bền vững. Đánh giá được các cơ
cấu cây trồng hiệu quả, cần mở rộng cho
ĐBSH. Đánh giá được thuận lợi và hạn chế
của vùng ĐBSH trong việc sản xuất nông
nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng phục
vụ xây dựng NTM.
3. Về giải pháp KHCN cho vùng
ĐBSH chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho vùng:
* Về giống cây trồng: Đề tài đã lựa
chọn được 16 giống cây trồng có năng suất
cao, ngắn ngày, chống chịu và có chất lượng
tốt, phù hợp cho từng cơ cấu của các tiểu
vùng sinh thái và hoàn thiện quy trình thâm
canh cho từng giống gồm:
+ 3 giống lúa ngắn ngày, năng suất
cao, chất lượng: HT9, ĐS3 và J01 có TGST
vụ mùa 100-108 ngày, năng suất : 55-65
tạ/ha, góp phần tăng vụ và giải quyết vấn đề
thời vụ cho sản xuất cây vụ đông.
+ 3 giống ngô, năng suất cao, chất
lượng: Đường lai 20, HN88, NK4300 phù
hợp với vùng sản xuất hàng hóa ven đô, vùng
thâm canh ngô hè và ngô đông.
+ 2 giống lạc, năng suất cao, chất
lượng: L23 và L26, đáp ứng với chân đất 1
lúa 2 màu và chân đất chuyên màu.
+ 2 giống đậu tương, năng suất cao,
chất lượng: ĐVN14, Đ2101 góp phần bổ sung
vào cơ cấu giống và mở rộng diện tích đậu
tương đông.
+ 2 giống khoai tây, năng suất cao,
chất lượng: Diamant và Solara.
+ 2 giống bí xanh, năng suất cao, chất
lượng: Tre việt, bí xanh số 1.
+ 2 giống rau, năng suất cao, chất
lượng: bắp cải và súp lơ.
* Về kỹ thuật thâm canh: Xây dựng
được 7 gói quy trình kỹ thuật (QTKT) canh
tác cho 7 công thức luân canh cây trồng
(CTLC) trên 3 chân đất chính của vùng
ĐBSH đạt hiệu quả kinh tế cao:
(1) Trên chân đất 2 lúa - 1 màu:
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa Mùa - đậu tương Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa Mùa - khoai tây Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa Mùa - bí xanh Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa chét - bí xanh Thu Đông”
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lúa
Xuân - lúa chét - ngô Thu Đông”
(2) Trên chân đất 1 lúa - 2 màu:
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lạc Xuân
- lúa Mùa - Khoai tây Đông”
(3) Trên chân đất chuyên màu:
+ QTKT áp dụng cho CTLC “lạc Xuân
- ngô Hè Thu - cải bắp Đông
- Đánh giá và hoàn thiện kỹ thuật sản
xuất lúa chét ở Hà Nội và Nam Định, giúp
giải quyết được vấn đề thời vụ của cây vụ
đông ưa ấm ở ĐBSH (Ngô, đậu tương, rau
màu). Chiều cao gốc cắt để chét có mối quan
hệ tương quan nghịch với TGST của lúa chét
và chiều cao cây.
- Xác định được thành phần của giá thể
làm bầu cải tiến gieo ngô ở các tỉnh trong
vùng, góp phần tăng hiệu quả và nhân rộng
quá trình cơ giới hóa.
4. Xây dựng được 53 ha cây trồng các
loại trên cho 7 công thức luân canh trên 3
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 35/53
chân đất tại 3 tỉnh Hưng Yên, Hà Nội và Nam
Định. Trong đó: Lúa 29 ha, Lạc: 6 ha, Ngô: 5
ha, Bí xanh: 5 ha, Khoai tây: 3 ha, Đậu tương:
3 ha, rau bắp cải: 2 ha. Các công thức luân
canh cây trồng trong mô hình tại các tỉnh đều
cho năng suất cao hơn so với sản xuất đại trà
và cho hiệu quả kinh tế vượt hơn so với sản
xuất đại trà từ 21.150.000 đ/ha đến
39.954.000 đ/ha, vượt sản xuất đại trà từ 35,2
- 126,2%. Các công thức luân canh có sử
dụng giống mới cho lợi nhuận cao, dễ áp
dụng và người dân chấp nhận nhân rộng: Lúa
xuân (BT7) - lúa chét (BT7) - bí xanh đông
(bí xanh số 1); Lúa xuân (ĐS3) - lúa mùa
(HT9) - bí xanh đông (bí xanh số 1); Lúa
xuân (ĐS3) - lúa mùa (HT9) - khoai tây đông
(Diamant); Lạc xuân (L26) - ngô hè thu
(NK4300) - bắp cải đông (bắp cải kk cross);
Lạc xuân (L23) - lúa mùa (HT9) - khoai tây
đông (Solara); Lúa xuân (BT7) - lúa chét
(BT7) - ngô đông sớm (HN88).
Nhóm nghiên cứu kiến nghị cho phép
ứng dụng, nhân rộng kết quả một số mô hình
hiểu quả kinh tế cao ra sản xuất thông qua các
Dự án phát triển nhằm đóng góp tích cực hơn
nữa trong xây dựng nông thôn mới ở các giai
đoạn tiếp theo của Chương trình.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
04/05/2019
Trở về đầu trang
**************
Quy trình nhân giống in vitro lan Dendrobium bằng mô phân sinh chồi
Đánh giá một số dòng lan lai mới
(Dendrobium) được lai tạo ra tai Trung tâm
Công nghệ sinh học TP.HCM là đề tài do tác
giả Phan Diễm Quỳnh và cộng sự (Trung tâm
Công nghệ sinh học TP.HCM) thực hiện
nhằm phát triển một số dòng lan lai
(Dendrobium) được tạo ra tại Trung tâm
Công nghệ sinh học TP.HCM, có đặc điểm ra
nhiều hoa, kiểu đẹp, lâu tàn, kháng sâu bệnh,
đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp đô thị
và thị trường hoa lan của Thành phố và các
tỉnh lân cận.
Theo các chuyên gia về lan, nghề trồng
lan sẽ đem lại một lợi nhuận không nhỏ cho
nhà sản xuất lan nếu họ biết khai thác thế
mạnh. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, nếu trồng phong lan cắt
cành nhóm lan Dendrobium và Mokara, mỗi
ha đất trồng có thể cho thu nhập 500 triệu - 1
tỷ đồng/năm, con số này cao hơn nhiều lần so
với trồng lúa và một số hoa màu khác. Để
tăng cường số lượng cây giống cung cấp cho
người trồng lan, nhiều đơn vị đã tập trung
nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học
trong việc chọn tạo giống mới, đẩy mạnh
nhân giống đảm bảo chất lượng và số lượng
cung ứng cho sản xuất. Mỗi năm Trung tâm
Công nghệ sinh học TP.HCM cung cấp ra thị
trường trên 100.000 cây lan con các loại,
trong đó chú trọng giống hoa chủ lực của
thành phố là Dendrobium và Mokara.
Với đề tài này, nhóm tác giả đã hoàn
thiện quy trình nhân giống in vitro lan
Dendrobium bằng mô phân sinh chồi có kết
hợp giữa nuôi cấy trên môi trường lỏng lắc và
môi trường đặc. Áp dụng quy trình cải tiến
này đã rút ngắn thời gian nhân giống từ 5 - 6
tháng. Từ quy trình này đề tài đã nhân giống
được 73.853 cây in vitro, bao gồm 37.528 cây
in vitro đang nuôi trong phòng thí nghiệm,
26.455 cây in vitro đang giai đoạn cây con
ngoài vườn ươm và 9.780 cây đã trưởng
thành đang ra hoa ngoài vườn.
Đề tài cũng chọn được 6 dòng lan lai
có triển vọng (BCH 12-4, BCH 12-15, BCH
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 36/53
385-2, BCH 385-5, BCH 424-1,BCH 424-3)
có ưu thế lai cao, thích nghi với điều kiện khí
hậu tại TP.HCM, cây sinh trưởng phát triển
khỏe, ít sâu bệnh, siêng hoa, chất lượng cành
hoa vượt trội so với giống lan nhập nội đang
trồng phổ biến. Trong đó, 4 dòng (BCH 12-4,
BCH 12-15, BCH 424-1, BCH424-3) được
khai thác theo hướng cắt cành và 2 giống
(BCH 385-2, BCH385-5) sản xuất theo
hướng trồng chậu.
Ngoài ra, đề tài đã xây dựng 3 mô hình
sản xuất thử nghiệm lan Dendrobium theo
hướng công nghệ cao cho thấy cây thích nghi
tốt với điều kiện trồng, sinh trưởng khỏe, ít
nhiễm sâu bệnh, ra hoa tập trung, màu sắc
hoa đẹp, lâu tàn. Mô hình phù hợp với điều
kiện phát triển nông nghiệp đô thị tại
TP.HCM. Thu nhập từ việc bán hoa cắt cành
từ các dòng lan lai mới cao hơn so với giống
đối chứng Dendrobium Sonia từ 19 – 183,8
triệu đồng/1.000m2/năm.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
11/04/2019
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Chế tạo hệ thống xử lý nước nuôi thủy sản
Thầy Lê Phong Dũ (phải) - Phó Hiệu trưởng Trường Thực hành Sư phạm Trà Vinh cùng
em Thạch Huỳnh Nhật Thành và Nguyễn Đinh Đình Thi với hệ thống đèn UV khử trùng nước cấp
ao nuôi thủy sản.
Từ những trăn trở trong việc sử dụng
hóa chất để xử lý ao nuôi tôm cùng với niềm
đam mê khoa học, Thạch Huỳnh Nhật Thành
và Nguyễn Đinh Đình Thi (HS lớp 11 chuyên
Toán - Hóa, Trường Thực hành Sư phạm Trà
Vinh) đã cùng nhau tìm tòi và sáng tạo thành
công “Hệ thống đèn UV khử trùng nước cấp
ao nuôi thủy sản”.
Trong nuôi trồng thủy sản, việc xử lý
nước cấp, vi sinh vật gây bệnh và sự phát
triển của các loài tảo không mong muốn cứ
lặp đi lặp lại mỗi vụ. Vì thế, sáng tạo các
phương pháp phù hợp để bảo vệ môi trường,
tránh tác động xấu đến sức khỏe và kinh tế là
nguyện vọng của Thi và Thành.
Hai em ấp ủ ước mơ chế tạo từ 2 năm
trước và đã ứng dụng kiến thức toán học, vật
lý, sinh học và hóa học để nghiên cứu thiết
lập hệ thống nước đầu nguồn vào ao nuôi.
Sau nhiều lần thử nghiệm hệ thống đèn
UV, Thi và Thành tìm ra thiết kế tốt nhất để
đem lại hiệu quả cao nhất, ước lượng được
chi phí đầu tư và tuổi thọ (9.000 giờ) của
chiếc đèn.
Mô hình mô phỏng hệ thống xử lý
nước cấp bằng đèn UV ngoài thực tế có tổng
giá trị khoảng 20 triệu đồng. Nếu mỗi vụ sử
dụng bộ đèn 10 ngày cho 2.000m2 (tương
đương 2 ao 1.000m2), mỗi năm nuôi 3 vụ. Khi
đó, thời gian sử dụng đèn sẽ là 12,5 năm. Như
vậy, nếu đầu tư 1 lần có thể sử dụng trên 10
năm, đây là giải pháp tối ưu thay thế các hóa
chất gây tổn hại cho môi trường. Đồng thời,
nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản, bảo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 37/53
vệ sức khỏe con người, giảm chi phí đầu tư,
tăng lợi nhuận.
Đầu tiên, nguồn nước sông được dẫn
vào hệ thống lọc thô để loại bỏ các tạp chất
và giảm độ đục. Hệ thống lọc thô thường sử
dụng là các lưới lọc bằng thép để chặn các tạp
chất có kích thước lớn (cành cây, cá tạp…).
Để lọc các tạp chất nhỏ hơn và giảm
độ đục có thể sử dụng hệ thống lọc ly tâm do
đáp ứng được công suất lớn. Sau đó, nước
được máy bơm dẫn vào hệ thống diệt khuẩn
bằng đèn UV. Với hệ thống đèn UV với công
suất lớn sẽ loại bỏ toàn bộ các mầm bệnh, vi
sinh vật, rong tảo và các động vật nguyên
sinh. Do đó, nước sau khi xử lý sẽ đáp ứng
được nhu cầu cho nuôi thủy sản.
Kết quả xử lý chứng minh khả năng
diệt virus của hệ thống đèn UV và phương
pháp hóa chất là như nhau.
Thầy Lê Phong Dũ - Phó Hiệu trưởng
Trường Thực hành Sư phạm Trà Vinh, cho
biết: Thiết kế này là một trong những phương
pháp sử dụng công nghệ xanh mang đến
những lợi ích to lớn cho môi trường.
Về kinh tế thì vật tư dễ tìm, có sẵn ở
mọi nơi, giá thành thấp, đầu tư một lần có thể
sử dụng trong một thời gian dài.
Về con người, có thể giúp đỡ cho người
nuôi thủy sản tiếp cận với công nghệ tương lai,
ngăn ngừa hóa chất gây hại, đảm bảo an toàn
thực phẩm bắt đầu ngay từ giai đoạn xử lí
nước, tiết kiệm lượng lớn tiền đầu tư.
Về môi trường thì không sử dụng các
hóa chất độc hại, bảo vệ môi trường khỏi các
tác động tiêu cực của hóa chất.
Nguồn: Hoài Anh - Yến Nhi,
giaoducthoidai.vn, 16/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Phương tiện gom rác thủy bộ
Nhóm bạn trẻ với mô hình phương tiện thu gom rác thủy bộ.
Tại ngày hội khoa học công nghệ dành
cho sinh viên ĐH Đà Nẵng năm 2019 vừa
qua, mô hình thủy bộ thu gom rác thải bãi
biển, mặt nước của nhóm sinh viên ĐH Bách
khoa Đà Nẵng nhận được nhiều sự quan tâm.
Phương tiện hữu dụng này là sáng chế
của nhóm bạn trẻ Võ Anh Khoa, Trần Văn
Nhật, Trương Văn Bình, Võ Văn Khoa, Lê
Thanh Trãi, Đinh Văn Hiệp, đều là sinh
viên ngành kỹ thuật tàu thủy, khoa cơ khí
giao thông, ĐH Bách khoa Đà Nẵng.
Bạn Võ Anh Khoa cho biết môi trường
đang bị ô nhiễm nặng nề bởi rác thải và phải
mất nhiều công sức để làm sạch rác trên mặt
biển, ao hồ. Từ thực trạng đó, nhóm nghĩ ra
việc chế tạo một "robot" có thể thay con
người vớt rác bằng phương pháp thủ công.
Nắm vững các kiến thức chuyên ngành
học ở trường và tìm thêm ở sách vở, cùng sự
trợ giúp của giảng viên, nhóm đã mất nhiều
tháng để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
Bạn Trần Văn Nhật cho biết phương
tiện có các bộ phận cửa gom, thân chính,
băng tải, buồng nén, thùng rác, bánh xích và
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 38/53
trụ xoay. Điều đặc biệt nhất là sản phẩm được
chế tạo bằng composite sợi thủy tinh vừa có
trọng lượng nhẹ và không bị oxy hóa hay ăn
mòn bởi nước biển.
Phương tiện hoạt động bằng pin điện.
Khi hoạt động trên cát, hệ thống bánh xích sẽ
giúp di chuyển một cách dễ dàng ở nhiều bề
mặt và di chuyển trên mặt nước bằng hệ thống
Water Jet (thiết bị phụt) bố trí bên trong hai
thân. Khi phương tiện chạy dọc trên mặt nước
hay mặt cát, rác được thu vào cửa gom rồi dẫn
đến băng tải thiết kế dạng lưới. Thiết kế này
giúp trả lại nước biển và cát. Rác được chuyền
qua băng tải lưới vào hệ thống xử lý. Tùy theo
chức năng được thiết kế riêng, rác có thể được
nghiền nát hoặc ép chặt tại buồng nén rồi đẩy
vào buồng chứa. Công nhân môi trường chỉ
việc tháo thùng rác khi đầy.
Khó khăn nhất của nhóm là phải mất
rất nhiều thời gian và công sức vì không có
trang thiết bị, máy móc chuyên dụng để hoàn
chỉnh thiết kế. Tất cả phải thực hiện bằng các
thiết bị cầm tay nhưng phải đảm bảo tính
chính xác trong từng chi tiết.
"Qua nhiều lần chạy thử nghiệm, sản
phẩm đã đáp ứng được những tiêu chí cơ bản
đặt ra về hiệu suất và tính ổn định. Nhóm
mình tin tưởng về tính khả thi của phương
tiện khi đưa vào thực tiễn" - Võ Anh Khoa
khẳng định.
Hiện nhóm đang có hướng phát triển
thêm những tính năng bổ sung và điều chỉnh
về kết cấu, kích thước để đưa sản phẩm vào
sử dụng thực tế. Để tối ưu khả năng thu gom
rác, sản phẩm thực tế dự tính sẽ có kích thước
tương đương một chiếc xe bán tải.
Anh Võ Duy Minh, bí thư Thành đoàn
Đà Nẵng, đánh giá: "Mô hình có khả năng
ứng dụng cao, có thể thay thế con người
trong việc dọn vệ sinh bờ biển, sông, hồ...
đem lại hiệu quả tích cực, giảm nhân công và
phòng tránh các rủi ro trong lao động".
Hiện Thành đoàn và Hội Doanh nhân
trẻ TP Đà Nẵng đã có kế hoạch hỗ trợ nhóm
phát triển sản phẩm và đưa vào thị trường. Sản
phẩm hoàn thiện dự tính với chi phí sản xuất
khoảng 300 triệu đồng, thấp hơn nhiều so với
các thiết bị cùng chức năng trên thế giới.
Nguồn: Đoàn Nhạn, tuoitre.vn,
29/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Xử lý nước thải sinh hoạt bằng thiết bị lọc nhỏ giọt cải tiến với giá thể sinh học kiểu mới
Đề tài Xử lý nước thải sinh hoạt bằng
thiết bị lọc nhỏ giọt cải tiến với giá thể sinh
học kiểu mới, do nhóm nghiên cứu Trần
Minh Thảo, Phạm Phú Song Toàn, Phùng
Minh Tùng, Phan Minh Thông, Trường đại
học sư phạm kỹ thuật Đà Nẵng thực hiện.
Trong nghiên cứu này, nước thải sinh
hoạt được xử lý bằng mô hình thiết bị lọc sinh
học nhỏ giọt cải tiến. Hệ thống hoạt động với
tải lượng hữu cơ 1,2 kg BOD/m3/ngày đêm.
Kết quả cho thấy, hiệu quả xử lý tốt nhất với
lượng giá thể chiếm 75% thể tích thiết bị. Với
lượng giá thể này, hiệu quả xử lý ở các thời
gian lưu nước khác nhau (2, 4, 6, 8 và 10 tiếng)
cũng được nghiên cứu. Kết quả là hệ thống xử
lý tốt BOD và dinh dưỡng (hiệu quả 90,7; 78,7
và 77,1% lần lượt đối với BOD, N và P).
Lọc sinh học nhỏ giọt (TF) là một công
nghệ hiếu khí với nhiều ưu điểm như vận hành
ổn định, cấu tạo đơn giản, có thể hoạt động ở
các tải lượng hữu cơ khác nhau một cách hiệu
quả và đặc biệt là tiết kiệm năng lượng. Trong
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 39/53
thiết bị TF, lớp màng vi sinh hình thành trên
giá thể sinh học (GTSH) tạo nên 2 vùng: hiếu
khí - nằm trên bề mặt và thiếu khí - nằm ở lớp
bên trong, giữa lớp hiếu khí và bề mặt GTSH.
Chính vì lý do này mà trong thiết bị TF cùng
một lúc xảy ra hai quá trình: nitrat và khử
nitrat hóa, xử lý N một cách hiệu quả. Tuy
nhiên, thiết bị này cũng còn tồn tại một số
nhược điểm cần khắc phục: dễ tích tụ sinh
khối trong lớp GTSH, gây tình trạng tắc nghẽn
và ảnh hưởng đến phản ứng sinh học hiếu khí,
làm giảm hiệu quả xử lý, thường xuyên phải
bảo trì hệ thống và dễ gây mùi nếu để vùng kỵ
khí chiếm thể tích lớn trong thiết bị. Về
GTSH, đây cũng là một nhược điểm của loại
công nghệ này. Hiện nay có nhiều loại GTSH
được áp dụng và bán trên thị trường: dạng sợi,
cầu, tổ ong, bánh xe… Tuy nhiên, các loại giá
thể này có giá thành cao, qua thực tế sử dụng
cho thấy không bền trong điều kiện nước thải
và có bề mặt riêng thấp.
Một số nghiên cứu về TF đã được thực
hiện. Tải lượng hoạt động của một TF thường
được thiết kế trong khoảng 1 - 75 m3/m2/ngày
đêm. Chiều cao bể phản ứng thông thường
được chọn ở 1,8 - 2,4 m. Tuy nhiên, bể càng
sâu thì hiện tượng tắc nghẽn càng dễ xảy ra,
tổn áp tăng nhanh. Đây là hiện tượng gây
nhiều khó khăn và tốn kém ở khâu vận hành
hệ thống trong thực tế. Ngoài ra, tải lượng
hữu cơ thường được khống chế trong khoảng
0,07 - 3,2 kg BOD/m3 /ngày đêm.
Một thiết bị lọc sinh học nhỏ giọt được
cải tiến (upgraded Trickling Filter-uTF) để
khắc phục các hạn chế của công nghệ này sẽ
bổ sung thêm một sự lựa chọn nữa cho các
công nghệ xử lý nước thải tiết kiệm năng
lượng và có khả năng ứng dụng rộng rãi.
Trong nghiên cứu này, thiết bị lọc nhỏ giọt
tiên tiến xử lý nước thải điển hình của các
khu công nghiệp (KCN) tại Đà Nẵng: KCN
Hòa Khánh, KCN Liên Chiểu, KCN Hòa
Cầm. Hiệu quả xử lý và thời gian thích nghi
được đánh giá ở các lượng GTSH và thời gian
lưu khác nhau.
Kết quả cho thấy, với nghiên cứu thiết
bị lọc sinh học nhỏ giọt cải tiến so với thiết bị
truyền thống, hiệu quả xử lý được cải thiện.
Một vài chế độ vận hành được thử nghiệm đã
làm sáng tỏ một số vấn đề: khi GTSH chiếm
75% thể tích ngập nước, quá trình denitrat
hóa xảy ra nhiều nhất và hiệu quả xử lý tốt
nhất. Hiệu quả xử lý BOD đạt 89,6 - 92,7%,
xử lý TN đạt 78,8 - 82,5%, xử lý TP đạt 77,2
- 81,9% với thời gian lưu nước là 10 giờ. Mức
độ DO trong pha nước ở 1,2 - 3,1 mg/L, tạo
môi trường thiếu khí trong lớp màng vi sinh
bám trên GTSH. Khi lượng GTSH chiếm
75% thì DO nằm trong khoảng 1,2 - 3,1
mg/L, tạo môi trường thiếu khí trong lớp
màng vi sinh bám trên GTSH và thời gian
thích nghi là ngắn nhất với 20 ngày. Thời
gian lưu nước 6 tiếng được xem là tối ưu nhất
trong việc xử lý các hợp chất hữu cơ và dinh
dưỡng. Việc bố trí nước ngập 50 mm so với
mức GTSH làm tăng thời gian lưu nước và
tiếp xúc nước - biofilm. Ngoài ra, trong suốt
quá trình hoạt động, không có hiện tượng tắc
nghẽn cục bộ và các đường ống thoát. Nước
ngập giúp cặn lơ lửng mềm và có kích thước
nhỏ, giảm thiểu vấn đề tắc nghẽn.
Nguồn: Như Ngọc,
khoahocphothong.com.vn, 03/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 40/53
Hệ thống xử lý nước thải sử dụng giá thể vi sinh
Hệ thống xử lý nước thải sử dụng giá
thể vi sinh cho hiệu quả cao, diện tích nhỏ
gọn, không gây mùi hôi và tiết kiệm chi phí
xử lý.
Công nghệ xử lý nước thải này có xuất
xứ từ Nhật, sử dụng vi sinh vật để xử lý các
thành phần ô nhiễm có trong nước thải.
Khác với các phương pháp xử lý nước
thải ứng dụng công nghệ sinh học truyền
thống, công nghệ xử lý nước thải tại nguồn
không thông qua bể tự hoại sử dụng vi sinh vật
bám dính lên giá thể lơ lửng, chuyển động liên
tục trong nước thải, từ đó tăng mật độ vi sinh
vật trên một đơn vị thể tích, tăng diện tích tiếp
xúc giữa vi sinh vật và nước thải, tăng hiệu
quả xử lý.
Nhờ ứng dụng công nghệ xử lý nước
thải bằng giá thể vi sinh nên hệ thống chỉ cần
diện tích nhỏ, đa dạng vị trí và cơ động trong
lắp đặt. Công nghệ không gây mùi hôi, phát
sinh ít bùn thải, thân thiện với môi trường và
tiết kiệm tối đa chi phí xử lý và vận hành. Khi
muốn nâng công suất xử lý, người dùng chỉ
cần bổ sung giá thể. Công nghệ cũng cho phép
cải tạo bể tự hoại 3 ngăn hiện hữu thành hệ
thống xử lý nước thải tại nguồn.
Công nghệ xử lý nước thải do Công ty
Đại Nam giới thiệu. Theo đại diện của công ty,
hệ thống đã được lắp đặt tại nguồn không qua
bể tự hoại cho nhiều đơn vị, cơ sở sản xuất
kinh doanh trên cả nước với độ ổn định và tin
cậy trong vận hành, mang lại hiệu quả kinh tế
cao, rút ngắn thời gian thu hồi vốn. Giải pháp
đặc biệt hiệu quả cho các nhà hàng, khách sạn,
tòa nhà, phòng khám, cơ sở sản xuất có diện
tích hạn chế.
Nguồn: Phạm Sơn, khampha.vn,
23/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Nắp cống thoát nước tự động gạt rác
Hai học sinh Nguyễn Tiến Nam và
Nguyễn Minh Hiển có chung niềm đam mê
khoa học đã sáng chế cống có khả năng tự
động gạt rác.
Xuất phát từ thực tế địa phương khi
thường xảy ra tình trạng ngập nước tại các
tuyến phố sau các trận mưa, cả hai ấp ủ ý
tưởng giải quyết bài toán này.
“Chúng em xem thời sự và tìm hiểu
trên mạng internet thì thấy tình trạng này cũng
xảy ra phổ biến ở những thành phố lớn trên cả
nước và mang đến nhiều hậu quả nghiêm
trọng. Mà một trong những nguyên nhân là do
rác thải bít tắc miệng cống thoát nước dẫn đến
hạn chế dòng chảy hoặc làm tắc đường ống
thoát nước. Do đó cả hai nảy sinh ý tưởng tạo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 41/53
một nắp cống có khả năng tự gạt rác để giải
quyết được tình trạng rác thải tắc trên nắp
cống gây ngập ở các tuyến phố”, Nam kể.
Cả hai định hướng dự án với hệ thống
cống thoát nước bám sát vỉa hè nên nước mưa
sẽ chảy thành dòng xuống. Nghĩ là làm, Nam
và Hiển đã đi đo và tính toán thực tế với nắp
cống dài 80 cm và rộng 40 cm.
Nguyên tắc hoạt động của hệ thống vốn
là những kiến thức vật lý đơn giản về tính toán
lực và hệ thống ròng rọc, vật liệu chế tạo
thông dụng.
Tính toán phần cào gạt rác có thể dọn
được lượng rác thải bị tắc khoảng 10kg, hai
em thiết kế vật đối trọng 15kg.
“Chúng em tính phần đối trọng cộng
với lực gạt rác sẽ nhỏ hơn hoặc bằng trọng
lượng của khay nước và lượng nước trong
khay. Như vậy khi khay tích được với lượng
nước 25 kg thì hệ thống sẽ tự động gạt rác mà
không phụ thuộc vào lưu lượng của dòng
nước”, Hiển nói.
Khi có lượng nước mưa đổ xuống thì
khay nước sẽ dần đẩy, hạ xuống thấp và qua
hệ thống ròng rọc kéo được cần gạt rác hoạt
động và vật đối trọng đi lên.
Khi khay xuống một điểm nhất định,
van xả sẽ mở ra để thoát lượng nước trong đó
bằng hệ thống dây động liên đới. Khi đó vật
đối trọng sẽ nặng hơn và kéo ngược khay nước
và cần gạt rác về vị trí ban đầu để tiếp tục một
chu trình đẩy rác trên miệng cống mới.
Hai nam sinh cho rằng điểm tích cực
của dự án này là tận dụng ngay chính nguồn
năng lượng từ nước mưa đổ vào cống thoát
nước thành cơ năng thay thế sức người trong
việc gạt rác ra khỏi miệng cống. Qua đó, giảm
bớt sức lao động của công nhân môi trường,
tiết kiệm chi phí nạo vét, khai thông cống.
“Em nghĩ sản phẩm này sẽ khả thi hơn
và giảm được sức lao động, thậm chí hoàn
toàn có thể thay thế sức người trong việc cào
gạt rác khi trời đang mưa bằng việc sử dụng
chính nguồn năng lượng từ nước mưa khi chảy
vào nắp cống”, Nam chia sẻ.
Ngoài ra, Nam và Hiển cũng thiết kế
thêm hệ thống để khi lượng nước mưa đổ vào
miệng nắp cống qua ròng rọc sẽ tạo nguồn
điện làm sáng đèn trên nắp cống nhằm cảnh
báo người đi đường được biết.
Khi có ý tưởng, các em đã đề xuất ngay
với giáo viên hướng dẫn để có thêm những tư
vấn. Từ lúc có ý tưởng cho đến khi hoàn thành
mô hình và thử nghiệm thành công mất 6
tháng với chi phí từ 2-2,5 triệu đồng.
Hai nam sinh chia sẻ, đây chỉ là mô
hình còn hướng phát triển thì các em sẽ nghiên
cứu thêm nhiều về vật liệu chống bị ăn mòn
trong hệ thống.
Dự án của Nam và Hiển từng giành
được giải Nhất cuộc thi khoa học kỹ thuật
dành cho học sinh trung học cấp tỉnh do Bắc
Ninh tổ chức.
Nguồn: vietnamnet.vn 10/03/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 42/53
Giải pháp lấy nước ngầm kiểu mới
Mới đây, Văn phòng chương trình Tây
Bắc, Đại học quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã
tổ chức nghiệm thu đề tài cấp nhà nước thuộc
chương trình khoa học công nghệ phục vụ
phát triển bền vững vùng Tây Bắc: “Nghiên
cứu đề xuất và ứng dụng các giải pháp khoa
học, công nghệ phù hợp nâng cao hiệu quả
các công trình đập dâng vùng Tây Bắc”, do
TS. Nguyễn Chí Thanh, Viện khoa học thủy
lợi Việt Nam làm chủ nhiệm.
Đề tài đã xây dựng được công trình
thử nghiệm ứng dụng giải pháp lấy nước
ngầm kiểu mới thay thế kiểu lấy nước truyền
thống cho công trình đập dâng tại xã Cốc San,
Bát Xát, Lào Cai.
Sau 2 năm triển khai đến nay, đề tài
sản phẩm đã được đăng ký sáng chế “Phương
pháp thu nước ngầm đáy sông, suối kiểu nằm
ngang do Cục sở hữu trí tuệ, Bộ khoa học
công nghệ cấp”. Bên cạnh hoạt động thực
tiễn, đề tài còn có 4 bài báo khoa học, 2 đầu
sách chuyên khảo sắp xuất bản và đào tạo
được 2 thạc sĩ.
Theo ông Đinh Văn Sửu, phó chi cục
trưởng Chi cục thủy lợi tỉnh Lào Cai, với đặc
điểm nổi bật của khí hậu vùng Tây Bắc nói
chung và Lào Cai nói riêng, lượng mưa quá
thấp chỉ vào khoảng 1.500 mm, trong khi đó
lượng bốc hơi hàng năm lên đến 800 mm. Địa
hình vùng Tây Bắc vô cùng hiểm trở có độ
dốc lớn và bị phân cắt rất mạnh là các dãy núi
cao xen lẫn các thung lũng nhỏ hẹp. Các
thung lũng này thường bị chia cắt bởi các
sông suối nhỏ. Các đặc thù tự nhiên nêu trên
tạo cho khu vực Tây Bắc có các khu vực
trồng lúa (khu tưới) nhỏ hẹp với diện tích phổ
biến từ 10 đến 50 ha. Để cấp nước phục vụ
sản xuất cho các khu tưới đó thì công trình
hiệu quả nhất là đập dâng. Do vậy, hàng năm
khi lũ về đập thường bị hư hỏng, bị bồi lấp,
cuốn trôi... dẫn đến hiệu quả cấp nước của các
công trình này bị suy giảm nghiêm trọng.
Theo kết quả thống kê của các tỉnh trên địa
bàn nghiên cứu, hầu hết các công trình đập
dâng này chỉ đảm bảo được khoảng 50 - 60%
năng lực so với thiết kế, thậm chí rất nhiều
công trình không còn khả năng cấp nước.
Ông Sửu đánh giá cao mô hình thiết kế
đập dâng, mô hình này đạt tiêu chí của đơn vị
đặt hàng. Ông mong muốn chương trình Tây
Bắc phối hợp với đơn vị chủ trì đề tài sớm triển
khai rộng rãi dự án mô hình thu nước ngầm
này, để bà con địa phương thuộc tỉnh Lào Cai
có nguồn nước ổn định để tăng gia sản xuất,
cũng như thay hệ thống lọc thô của hệ thống
cấp nước sạch của địa phương hiện nay.
TS. Nguyễn Chí Thanh cho biết, trong
quá trình thực hiện đề tài, nhóm đã nghiên
cứu sâu và đã đề xuất được bộ tiêu chí đánh
giá hiệu quả đập dâng, các vấn đề như: hiệu
quả kinh tế, hiệu quả xã hội, tính dễ bị tổn
thương. Qua quá trình vận hành được các
chuyên gia, người dân địa phương đánh giá
đạt hiệu quả thu nước tốt, thi công nhanh và
đơn giản, dễ dàng vận hành và bảo dưỡng, độ
ổn định cao đã được kiểm chứng là ổn định
sau 2 đợt lũ lớn.
Các đoàn kiểm tra, thanh tra của Sở,
Bộ khoa học và công nghệ cùng với các
chuyên gia đã có kết luận và đánh giá cao về
tính hiệu quả, tính sáng tạo của công nghệ và
đã có đề nghị bằng văn bản để cho phép tiếp
tục nghiên cứu triển khai nhân rộng mô hình.
Nguồn: NHƯ QUỲNH,
khoahocphothong.com.vn, 19/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 43/53
Giải pháp công nghệ trong đo đạc địa hình bãi bồi ven biển
Nông dân xã Minh Thuận, huyện U Minh Thượng làm đất chuẩn bị thả nuôi vụ tôm nước lợ tránh
hạn mặn.
Việt Nam có đường bờ biển rất dài với
nhiều nguồn lợi phong phú nhưng cũng
thường xuyên chịu tác động từ tự nhiên và con
người. Hiện, công tác đo đạc địa hình dải ven
bờ biển nước ta gặp nhiều khó khăn do sự
phức tạp của điều kiện địa lý, tự nhiên.
Chính vì thế, việc tìm ra giải pháp công
nghệ trong đo đạc địa hình phục vụ xây dựng
cơ sở dữ liệu địa lý cho các khu vực bãi bồi
ven biển Việt Nam là rất cần thiết nhằm đáp
ứng nhu cầu quản lý tổng hợp các nguồn tài
nguyên, phát triển kinh tế bền vững và đảm
bảo an ninh quốc phòng.
Qua nhiều nghiên cứu và khảo sát thực
địa, nhóm kỹ sư Nguyễn Thị Kim Dung,
Dương Hồng Yên, Nguyên Thị Thanh Huệ
Anh thuộc Tổng công ty Tài nguyên và Môi
trường Việt Nam đưa ra các phương án tối ưu
trong việc kết hợp nhiều công nghệ khác nhau
cho việc đo đạc từng khu vực địa hình bãi bồi
ven biển cụ thể.
Theo đó, khu vực bãi bồi ven biển Bắc
Bộ nên áp dụng công nghệ bay quét chụp ảnh
số Lidar tận dụng vào thời điểm triều kiệt,
quang mây nhằm tăng cường tối đa khả năng
thu nhận tín hiệu đo độ cao địa hình; áp dụng
các công nghệ đo sâu địa hình, kế hoạch đo
được lập chi tiết đảm bảo phù hợp với tình
trạng ngập nước.
Sau khi thu nhận dữ liệu độ cao bằng
hai công nghệ trên sẽ sử dụng công nghệ định
vị GPS đo bù, phủ kín dữ liệu, rà soát khoanh
vùng các khu vực còn sót, hở, dữ liệu lỗi...
Đối với khu vực bãi bồi ven biển miền
Trung, công nghệ đo sâu đóng vai trò chủ đạo,
vừa đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật vừa
đảm bảo tính kinh tế. Đồng thời, công nghệ
GPS cũng được áp dụng để đo bù hoặc khi
không thể sử dụng công nghệ đo sâu.
Tại miền Nam, công nghệ thích hợp
nhất trong việc đo đạc địa hình các bãi bồi ven
biển là công nghệ bay quét chụp ảnh số Lidar.
Bên cạnh đó, do chế độ bán nhật triều không
đều, thời gian con nước lên xuống nhanh nên
công tác trực bay hoặc kết hợp công nghệ khác
cần được thực hiện chính xác đến từng giờ.
Khu vực này cũng cần được áp dụng
công nghệ đo sâu địa hình với kế hoạch đo lập
chi tiết đảm bảo phù hợp với tình trạng ngập
nước; sử dụng công nghệ GPS để đo bù, rà
soát các khu vực hở, sót dữ liệu...
Kỹ sư Nguyễn Thị Thanh Huệ Anh
cho biết chúng tôi đã thử nghiệm việc kết hợp
các công nghệ đo khác nhau cho vùng bãi bồi
cửa sông Diêm Hộ, huyện Thái Thụy, tỉnh
Thái Bình.
Địa hình tương đối bằng phẳng, hơi
nghiêng về phía biển với độ dốc không lớn,
các bãi lầy ven biển có rừng sút vẹt dầy, cao.
Khu vực thử nghiệm có diện tích khoảng
45km2 bao gồm các dạng địa hình cơ bản như
địa hình hoàn toàn khô cạn, không chịu ảnh
hưởng của thủy triều; khu vực bán ngập, thời
gian ngập nước theo lịch triều.
Các công nghệ được áp dụng là sử
dụng dữ liệu nhận được từ công nghệ bay quét
chụp ảnh số Lidar cho phần đất liền. Phủ kín
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 44/53
khoảng 2/3 diện tích; công nghệ đo sâu hồi âm
đơn tia cho phần diện tích còn lại; công nghệ
GPS đo kiểm tra 54 điểm...
Kết hợp các kết quả đã đạt độ chính xác
độ cao thỏa mãn yêu cầu đặt ra. Có thể nói,
phương pháp phối hợp các công nghệ trong đo
đạc địa hình ven biển là khả thi, cho phép thực
hiện các nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu
không gian địa lý đối với các khu vực bãi bồi,
cửa sông và ven biển.
Để tăng tính hiệu quả của giải pháp cần
lựa chọn thời điểm đo tối ưu để thực hiện đo
đạc phù hợp với loại công nghệ áp dụng trên
cơ sở theo dõi điều kiện khí tượng, hải văn,
lịch triều của từng khu vực bờ biển.
Dữ liệu được đồng bộ, tích hợp với các
loại dữ liệu địa lý khác trong hệ thống cơ sở
dữ liệu quốc gia, cho phép quản lý, chia sẻ và
cập nhật biến động kịp thời, đáp ứng các nhu
cầu sử dụng khác nhau, hạn chế đầu tư chồng
chéo, trùng lặp.
Nguồn: Hoàng Nam, vietnamplus.vn,
30/04/2019
Trở về đầu trang
**************
LĨNH VỰC KHÁC
Phát hiện hư hỏng công trình xây dựng bằng phương pháp dao động
Nhóm nghiên cứu của PGS.TS.
Nguyễn Việt Khoa, Viện cơ học đã nghiên
cứu thành công đề tài: “Phát hiện hư hỏng của
kết cấu bằng các phương pháp dao động”.
Các công trình dân dụng được xây
dựng ngày càng nhiều. Vì vậy, vấn đề an toàn
của kết cấu công trình luôn là vấn đề được
quan tâm hàng đầu trong suốt quá trình thiết
kế, thi công và trong quá trình hoạt động của
nó. Mặc dù quá trình thiết kế, thi công các kết
cấu xây dựng ngày càng được hoàn thiện
nhưng sai sót luôn xảy ra dẫn đến kết cấu
luôn tồn tại những khiếm khuyết. Hơn nữa,
trong quá trình hoạt động, các kết cấu thường
phải chịu nhiều loại tải trọng khác nhau.
Những tải trọng mạnh gây ra do thiên tai như
động đất, sóng thần, bão tố thương gây sụp đổ
tức thời hoặc gây ra những hư hỏng đột ngột
trong kết cấu như méo móp, gãy đứt…
Tuy nhiên, các tải trọng lặp lại thường
xuyên như tải trọng sóng, gió tác dụng lên các
kết cấu giàn khoan ngoài biển, công trình cao
tầng… có thể không gây ra những hư hỏng
tức thời nhưng lại có thể gây nên những hư
hỏng do mỏi như vết nứt. Theo thời gian, các
vết nứt này sẽ phát triển dần và làm suy yếu
kết cấu và khi đạt đến giới hạn mỏi thì sẽ dẫn
đến sự sụp đổ của toàn bộ kết cấu gây ra thiệt
hại lớn về người và của. Vì thế, việc phân tích
động lực học kết cấu nhằm phát hiện sớm hư
hại là công việc vô cùng quan trọng.
Nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Việt
Khoa nhằm mục tiêu phát triển các phương
pháp dao động,̣ phục vụ việc phát hiện hư
hỏng của kết cấu dựa trên số liệu mô phỏng
số và kiểm chứng bằng số liệu đo đạc trong
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 45/53
phòng thí nghiệm, nhằm xác định khả năng
ứng dụng phương pháp trong thực tế.
Kết quả dề tài đã đưa ra 3 phương
pháp mới để phát hiện hư hỏng trong kết cấu
bao gồm:
- Phát triển phương pháp phát hiện vết
nứt dựa trên hiện tượng vết nứt thở.
- Phát triển phương pháp phát hiện vết
nứt dựa trên chỉ số độ cứng phần tử.
- Phát triển phương pháp phát hiện vết
nứt dựa trên tương tác khối lượng tập trung -
vết nứt.
Nguồn: N.Ngọc,
khoahocphothong.com.vn, 18/04/2019
Trở về đầu trang
**************
12 doanh nghiệp đầu tiên ngành phi thực phẩm đạt chuẩn hội nhập
12 doanh nghiệp đầu tiên đạt chứng nhận chuẩn hội nhập ngành phi thực phẩm.
Sau hơn 6 tháng chính thức triển khai,
bộ tiêu chuẩn dành cho doanh nghiệp phi thực
phẩm đạt chuẩn hội nhập đã chính thức được
công bố. Ngay tại sự kiện khai mạc hội chợ
hàng VN chất lượng cao diễn ra tại TP.HCM
tối 26/04, Hội doanh nghiệp hàng VN chất
lượng cao đã trao giấy chứng nhận chuẩn hội
nhập cho 12 doanh nghiệp phi thực phẩm đầu
tiên.
Đây được xem là chiếc “giấy thông
hành” cho các sản phẩm xuất khẩu ngành phi
thực phẩm có thể đưa sản phẩm mình sang
các thị trường quốc tế. Bộ tiêu chuẩn ngành
phi thực phẩm được Hội doanh nghiệp hàng
VN chất lượng cao thực hiện sau khi công bố
bộ tiêu chuẩn cho ngành thực phẩm 2 năm
trước đó.
Ông Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng
Bộ Khoa học và Công nghệ, Thành viên hội
đồng thẩm định bộ tiêu chuẩn hội nhập cho
ngành phi thực phẩm, đánh giá cao sáng kiến
của Hội doanh nghiệp hàng VN chất lượng cao
trong việc xây dựng hai bộ tiêu chuẩn quan
trọng cho ngành thực phẩm và phi thực phẩm.
Với việc ra đời các bộ tiêu chuẩn, các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ
nâng cao được sức cạnh tranh trên trường
quốc tế. Mặt khác việc doanh nghiệp đi theo
con đường tiêu chuẩn, chất lượng sẽ giải
quyết được vấn đề “giải cứu” trong các ngành
nông sản.
“Tôi tin tưởng, những doanh nghiệp
vừa đạt chuẩn sẽ coi đây là đòn bẩy cho sự
phát triển của mình và đầu tư nâng cao chất
lượng, ổng định doanh thu và tạo ra những
sản phẩm mới. Các sản phẩm xuất khẩu chủ
lực của doanh nghiệp sẽ vào được các thị
trường khó tính như EU, Mỹ, ASEAN,…”-
ông Quân nói.
Nguồn: Hà Thế An, khampha.vn,
27/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 46/53
Ra mắt Không gian đổi mới sáng tạo cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long
Quang cảnh lễ Ra mắt
Với Không gian đổi mới dành cho nhà
sáng chế vừa đi vào hoạt động, sinh viên,
doanh nhân trẻ và giảng viên giờ đây đã có
thể tiếp cận được với các máy in 3D, máy cắt
laser và các công cụ công nghệ cao khác.
Sáng 5-4, Trường Đại học Cần Thơ đã
ra mắt Không gian đổi mới dành cho nhà sáng
chế, thắp sáng hoạt động đổi mới sáng tạo của
sinh viên khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
Tham dự buổi ra mắt có lãnh đạo TP
Cần Thơ, Đại học Cần Thơ, Cơ quan Phát
triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Đại học
Bang Arizona và các doanh nghiệp ngành
công nghệ.
Không gian đổi mới dành cho nhà sáng
chế (MIS) tại Đại học Cần Thơ là không gian
sáng chế thứ ba được Dự án USAID BUILD-
IT hỗ trợ xây dựng.
Khi MIS đi vào hoạt động, sinh viên,
doanh nhân trẻ và giảng viên giờ đây đã có
thể tiếp cận được với các máy in 3D, máy cắt
laser, và các công cụ công nghệ cao khác.
Qua đó cùng nhau hợp tác để thiết kế, xây
dựng, và chế tạo các nguyên mẫu sản phẩm
và giải pháp đổi mới dựa trên nền tảng kỹ
thuật với mục tiêu phục vụ cho cộng đồng.
Phát biểu tại buổi lễ ra mắt, GS.TS Hà
Thanh Toàn, Hiệu trưởng Trường Đại học
Cần Thơ chia sẻ: “Chúng tôi khuyến khích
sinh viên và giảng viên của trường sử dụng
hiệu quả MIS nhằm phục vụ cho việc nghiên
cứu và hoạt động chuyên môn của mình. Với
MIS, các ý tưởng hay và sáng tạo có thể trở
thành các sáng chế phục vụ cho nghiên cứu
của giảng viên và sinh viên cũng như toàn thể
cộng đồng.”
Một công trình thiết bị ngoại vi (cánh tay rô - bốt) được sinh viên ĐH Cần Thơ sáng chế
Tại sự kiện, ông Michael Greene,
Giám đốc USAID tại Việt Nam nhận định:
“MIS sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển đổi từ
các phương pháp giảng dạy truyền thống
sang mô hình học tập trải nghiệm hiện đại;
hỗ trợ các nỗ lực của Đại học Cần Thơ trong
việc hợp tác với khu vực tư nhân”.
Tại lễ ra mắt, các đại biểu đã tham
quan các công trình, sản phẩm và giải pháp
do sinh viên tạo ra bằng cách sử dụng các
công cụ được cung cấp trong dự án Không
gian đổi mới dành cho nhà sáng chế.
Nguồn: Cao Phong, sggp.org.vn,
05/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 47/53
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1
Nghiên cứu một số tính chất phân tử của ung thư vòm
họng trên người bệnh Việt Nam.
PGS. TS. Lê Huyền Ái Thúy
- Trường Đại học Mở
TP.HCM
2
Xây dựng bản đồ nhạy cảm môi trường đường bờ, ứng phó
sự cố tràn dầu trên địa bàn thành phố.
TS. Đào Nguyên Khôi -
Trung tâm Quản lý nước và
Biến đổi khí hậu
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án Chủ nhiệm/ CQ chủ trì
Ngành Kinh tế
1 17/04/2019 Giải pháp nâng cao hiệu quả trả lương cho
lao động trực tiếp trong doanh nghiệp may.
ThS. NCS. Lê Thị Kim
Tuyết - Trường Đại học
Công nghiệp Dệt May Hà
Nội
2 12/04/2019 Xây dựng hướng dẫn xác định trọng yếu
kiểm toán chi đầu tư phát triển trong các
cuộc kiểm toán ngân sách địa phương.
TS. Đặng Anh Tuấn và
KS. Lê Ngọc Thọ - Kiểm
toán Nhà nước khu vực IV
3 23/04/2019 Vấn đề giải pháp nâng cao hiệu quả điều
hành chính sách nhà nước nhằm ổn định thị
trường tài chính Việt Nam.
PGS.TS Lê Thị Mận -
trường Đại học Kinh tế -
Tài chính TP.HCM
4 24/04/2019 Giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng Hệ
thống quản lý chất lượng theo TCVN 9001
tại Kho bạc Nhà nước Thừa Thiên Huế.
Thạc sỹ Nguyễn Hoàng
Đệ và Thạc sỹ Hà Văn
Dũng - Kho bạc Nhà nước
Thừa Thiên Huế
5 17/04/2019 Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu
phạt vi phạm hành chính qua Kho bạc Nhà
nước Bà Rịa - Vũng Tàu.
Kho bạc Nhà nước
6 08/04/2019
Tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu
chứng nhận “ Chè Yên Thế” dùng cho
sản phẩm chè khô huyện Yên Thế,
tỉnh Bắc Giang.
Viện Kinh tế và Phát triển
- Học viện Nông nghiệp
Việt Nam
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 48/53
7 16/04/2019 Tác động của những hiệp định thương mại tự
do đối với thành phố Cần Thơ và giải pháp
ứng phó.
Ông Phạm Bình An - Viện
Kinh tế Xã hội thành phố
Cần Thơ
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
8 26/04/2019
Nghiên cứu lập trình mạch điện sử dụng bộ
lập trình cỡ nhỏ để chế tạo các mạch điều
khiển động cơ và điều khiển chiếu sáng tại
trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà
Nội.
Th.s Vũ Văn Thảo -
Trường Đại học Công
nghiệp Dệt May Hà Nội
9 04/04/2019 Nghiên cứu xây dựng giải pháp bảo vệ không
gian hồ trong đô thị thích ứng biến đổi
khí hậu.
TS.KTS Nuyễn Thị Bích
Thuận - Tổng hội Xây
dựng Việt Nam
10 10/04/2019 Điều tra thành phần loài và đề xuất mô hình
phát triển cây sa nhân tại tỉnh Thừa Thiên
Huế để tạo nguồn dược liệu.
Trường đại học Y Dược
Huế
11 25/04/2019 Xây dựng quy trình trồng và nhân giống Hoa
Hồng cổ Sapa và Hải Phòng tại Long Xuyên,
An Giang.
ThS. Nguyễn Thị Mỹ
Duyên - Trường Đại học
An Giang
12 23/04/2019 Ứng dụng quy trình kỹ thuật trồng táo theo
tiêu chuẩn VietGap tại xã Cam Thành Nam,
thành phố Cam Ranh.
KS. Bùi Văn Binh - Trung
tâm Nông nghiệp Công
nghệ cao Khánh Hòa
13 24/04/2019 Hoàn thiện và chuyển giao quy trình sử dụng
đèn LED cho nghề lưới vây xa bờ tỉnh
Khánh Hòa.
ThS. Nguyễn Văn Nhuận -
Trường Đại học Nha Trang
14 09/04/2019 Nghiên cứu chế tạo cừ bê tông chất lượng
siêu cao thay thế cừ Larsen thép (Cọc ván
ép).
TS. Nguyễn Công Thắng -
Trường Đại học Xây dựng
Hà Nội
15 11/04/2019 Khảo nghiệm, chọn tạo các giống hoa và
cây kiểng tiềm năng phục vụ phát triển du
lịch Bảy Núi, An Giang.
ThS. Nguyễn Hoài Vững -
Trung tâm Công nghệ sinh
học An Giang
16 24/04/2019
Xây dựng mô hình ứng dụng, chuyển giao
công nghệ sinh sản nhân tạo và nuôi thương
phẩm cá chạch sông (Mastacembelus
amatus) tại tỉnh Phú Thọ.
PGS.TS Cao Văn - Trường
Đại học Hùng Vương
17 08/04/2019 Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây
dựng vùng chè Yên Thế năng suất, chất
Viện Nghiên cứu và Phát
triển Vùng - Bộ KH&CN
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 49/53
lượng phục vụ xuất khẩu.
18 08/04/2019
Nghiên cứu tuyển chọn cây đầu dòng và
một số biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng
năng suất, chất lượng cây vú sữa huyện Tân
Yên, tỉnh Bắc Giang.
Viện Nghiên cứu Rau quả
19 02/04/2019 Nghiên cứu diễn biến xâm nhập mặn vùng
ven biển tỉnh Quảng Nam, đề xuất và giải
pháp.
Viện địa lý
20 04/04/2019 Trồng thử nghiệm cây Macadamia trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang.
Chi cục Kiểm lâm tỉnh
Tuyên Quang
21 12/04/2019 Xây dựng mô hình trồng thử nghiệm cây
trôm trên vùng khô hạn thuộc khu vực biên
giới của tỉnh Đắk Lắk.
TS. Phạm Trọng Nhân -
Viện Khoa học Lâm nghiệp
Nam Trung bộ và Tây
Nguyên
22 25/03/2019
Khảo sát thực nghiệm và đề xuất giải pháp
tối ưu hóa kỹ thuật sửa chữa, nâng cấp cầu
bê tông sử dụng tấm sợi polyme gia cường
ở tỉnh Cà Mau.
PGs.Ts. Nguyễn Minh
Long và Ths. Lê Minh
Luân, - Ban Quản lý dự án
xây dựng công trình giao
thông
23 22/04/2019 Nghiên cứu công nghệ và thiết kế chế tạo hệ
thống thiết bị cắt, tách gáo và làm sạch vỏ
nâu cơm dừa.
Kỹ sư cơ khí Cao Minh
Đạt - DNTN Phương Nhi
24 05/04/2019
Tuyển chọn và nhân giống vô tính cây bơ
(Persea americana Mill.) trồng bằng hạt, hoa
tự thụ, cho trái ổn định và phẩm chất trái
ngon trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
TS. Lê Hữu Hải - Trường
Đại học Tiền Giang
25 24/04/2019
Ứng dụng khoa học và công nghệ sử dụng
phân bón hữu cơ vi sinh Hudavil trên một số
cây trồng tại tỉnh Cao Bằng góp phần phát
triển nông nghiệp bền vững.
Sở Khoa học và Công nghệ
tỉnh Cao Bằng
26 16/04/2019 Nghiên cứu cơ sở khoa học sinh thái để phát
triển nông nghiệp bền vững thị xã Duyên
Hải, tỉnh Trà Vinh.
TS Nguyễn Văn Tú - Viện
Sinh học Nhiệt đới
27 16/04/2019
Nghiên cứu thực nghiệm sinh sản nhân tạo,
ương và nuôi thương phẩm cá Dìa bông
(Siganus guttatus, Bloch 1787) tại Bình
Định.
KS Phan Thanh Việt -
Trung tâm Giống Nông
nghiệp
28 16/04/2019 Nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm chiết PGS.TS Nguyễn Quang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 50/53
xuất từ cây quế và cây chiêu liêu trong bảo
quản trái bơ và chanh dây tại tỉnh Đắk Lắk.
Vinh - Viện Công nghệ
Sinh học và Môi trường,
Trường Đại học Tây
Nguyên
29 16/04/2019
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình
thâm canh hồ tiêu theo tiêu chuẩn VietGAP
nhằm phòng bệnh chết nhanh, chết chậm góp
phần xây dựng nông thôn mới bền vững và
xây dựng nhãn hiệu hồ tiêu tại huyện Tân
Phú, tỉnh Đồng Nai.
Phòng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn huyện Tân
Phú và Trung tâm Nghiên
cứu cây ăn quả miền Đông
Nam
30 23/04/2019 Nghiên cứu bảo tồn nguồn gen cây mãng cầu
ta (Na) đặc hữu của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
KS. Đỗ Văn Thịnh - Trung
tâm Nghiên cứu Cây ăn quả
miền Đông Nam Bộ
Ngành Y dược
31 29/03/2019 Đánh giá hiệu quả can thiệp đến kiến thức
sử dụng kháng sinh của người dân trong
điều trị tại tỉnh Hải Dương.
TS. Nguyễn Thị Hường
32 05/04/2019
Nghiên cứu thành phần các hoạt chất có tác
động hỗ trợ điều trị ung thư đường tiêu hóa
từ củ ngải bún (Boesenbergia pandurata) ở
An Giang.
PGS.TS. Nguyễn Trung
Nhân - Trường Đại học
Khoa học tự nhiên và
Trung tâm công nghệ sinh
học An Giang
33 12/04/2019
Xây dựng mô hình can thiệp dự phòng,
sàng lọc và kiểm soát ung thư cổ tử cung
của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49
tuổi) dựa vào y tế xã tỉnh Bình Định.
TS Trương Quang Đạt -
Liên hiệp các Hội khoa
học và kỹ thuật Bình Định
34 25/04/2019
Giải pháp phòng chống dịch bệnh truyền
nhiễm để đảm bảo sức khỏe cán bộ chiến sĩ
và học viên đang học tập và làm việc tại
cơ sở 3 Trường Đại học Phòng cháy
chữa cháy.
Thiếu tá Nguyễn Thanh
Vân - Trường Đại học
Phòng cháy chữa cháy
35 26/04/2019 Nghiên cứu quy trình điều chế Felodipin
làm thuốc điều trị bệnh cao huyết áp.
PGS.TS. Vũ Minh Tân -
Trường Đại học Công
nghiệp Hà Nội
36 22/04/2019 Xây dựng mô hình quản lý, chăm sóc sức
khỏe người dân tại cộng đồng bằng sổ sức
khỏe điện tử.
TS. Nguyễn Đình Học -
Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 51/53
Ngành Giáo dục đào tạo
37 24/04/2019
Giải pháp nâng cao hiệu quả tự học học
phần Kĩ thuật May của sinh viên ngành
Công nghệ May đáp ứng yêu cầu gắn đào
tạo với thực tế sản xuất hàng xuất khẩu.
ThS. Dương Thị Hồng
Lượng - Trường Đại học
Công nghiệp Dệt May Hà
Nội
38 12/04/2019 Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
quản lý đào tạo của Kiểm toán nhà nước.
TS. Nguyễn Hữu Hiểu và
TS. Lê Anh Vũ Trường
Đào tạo và Bồi dưỡng
nghiệp vụ kiểm toán
39 24/04/2019 Ứng dụng của việc sử dụng portfolio- hồ sơ
sinh viên trong việc cải thiện học từ vựng
của sinh viên Đại Nam.
ThS. Phùng Thị Yên -
Trường Đại học Đại Nam
40 24/04/2019 Sử dụng trò chơi ngôn ngữ để tạo hứng thú
học tiếng Anh cho sinh viên năm nhất Đại
học Đại Nam.
Th.S Nguyễn Thị Nhiên -
Trường Đại học Đại Nam
41 19/04/2019 Nghiên cứu giải pháp tạo nguồn đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Thiếu tướng, TS Nguyễn
Xuân Trường - Trường
Đại học Chính trị
42 25/04/2019
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phối
hợp thực hiện công tác đào tạo bậc trung
cấp hệ chính quy tại cơ sở 3, Trường Đại
học Phòng cháy chữa cháy.
Đại úy Phạm Thị Hồng
Biên - Trường Đại học
Phòng cháy chữa cháy
43 25/04/2019
Giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp với lực
lượng Công an cơ sở làm tốt công tác bảo
đảm an ninh trật tự xung quanh khu vực
trường đóng quân tại Cơ sở 3 Trường Đại
học Phòng cháy chữa cháy.
Trung tá Bùi Đức Thịnh
và Thiếu úy Vũ Chiến
Thắng - Trường Đại học
Phòng cháy chữa cháy
44 26/04/2019
Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác đào tạo và bố trí,
sử dụng cán bộ công chức người dân tộc
thiểu số tỉnh Bình Phước.
Ông Nguyễn Thành
Chương - Sở Nội Vụ tỉnh
Bình Phước
45 24/4/2019
Nghiên cứu thiết kế và chế tạo bộ Duplexer,
bộ khuếch đại công suất (PA) và bộ tản nhiệt
hiệu suất cao cho hệ thống RRU (Remote
Radio Unit).
Thạc sĩ Đỗ Trọng Tấn -
Trung tâm Công nghệ Vi
điện tử và Tin học (IMET)
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 52/53
Ngành văn hóa xã hội
46 29/03/2019
Tổng kết lịch sử Công an tỉnh Sông Bé
(nay là Bình Dương và Bình Phước)
giúp tỉnh Kratíe (Campuchia), giai đoạn
1978 – 1991.
Công an tỉnh Bình Phước
47 19/04/2019 Nghiên cứu giải pháp tạo nguồn cán bộ
chính trị cấp phân đội (CBCTCPĐ) trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Thiếu tướng, TS Nguyễn
Xuân Trường - Trường Sĩ
quan Chính trị
48 23/04/2019 Điều chỉnh hệ thống đô thị quốc gia đến
năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050.
KTS. Phạm Thị Nhâm -
Viện Quy hoạch đô thị và
nông thôn quốc gia
49 11/04/2019 Nghiên cứu thiết kế cây xanh đường phố
trong các đồ án quy hoạch đô thị Việt Nam.
ThS.KTS. Nguyễn Thị
Hồng Diệp - Viện Quy
hoạch Đô thị và Nông
thôn Quốc gia
50 17/4/2019 Xung đột xã hội và những vấn đề đặt ra đối
với công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở
nước ta hiện nay.
Thiếu tướng, PGS.TS Trần
Vi Dân
51 10/04/2019
Đánh giá thực trạng môi trường lao động,
công tác quản lý an toàn vệ sinh lao động
và sức khỏe người lao động tại các cơ sở
sản xuất VLXD có sử dụng tro, xỉ, thạch
cao tại Việt Nam.
TS.Bác sĩ Lê Thị Hằng -
Bệnh viện Xây dựng
52 11/04/2019 Nghiên cứu thiết kế cây xanh đường phố
trong các đồ án quy hoạch đô thị Việt Nam.
ThS.KTS. Nguyễn Thị
Hồng Diệp - Viện Quy
hoạch Đô thị và Nông
thôn Quốc gia
53 25/04/2019 Văn học đại chúng trong bối cảnh văn hóa
Việt Nam đương đại.
PGS.TS. Nguyễn Đăng
Điệp l - Viện Văn học
54 24/04/2019 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
lực lượng CSKV trong phòng ngừa tội
phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Thượng tá Hoàng Giang
Nam - Phòng PX03, Công
an tỉnh Quảng Bình
55 11/04/2019 Diễn ngôn phát triển, chuyển đổi sinh kế và
biến đổi văn hoá ở người Ê Đê và Cơ Ho,
Tây Nguyên.
TS. Hoàng Cầm - Viện
Nghiên cứu Văn hóa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 53/53
56 04/04/2019 Vai trò của già làng và người có uy tín
trong phát triển bền vững vùng đồng bào
dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước.
TS. Nguyễn Văn Thắng,
Trường đại học Thủ đô Hà
Nội
57 26/04/2019 Đổi mới, nâng cao chất lượng đánh giá, xếp
loại tổ chức Công đoàn.
Ths. Đặng Quang Hợp -
Viện Công nhân và Công
đoàn
58 26/04/2019 Những giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam
hiện nay.
PGS.TS. Trần Thị Minh
Thi - Viện Nghiên cứu Gia
đình và Giới
59 26/04/2019 Văn học trào phúng Việt Nam (Từ thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX).
PGS.TS. Vũ Thanh - Viện
Văn học
60 05/04/2019 Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng gắn
với xóa đói giảm nghèo ở miền Tây
Nghệ An.
Th.S Đậu Quang Vinh -
Trung tâm Khoa học xã
hội và Nhân văn
Trở về đầu trang
**************