Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
82 � TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ CỦA ỐC CỐI (CONUS SPP)TẠI VỊNH VÂN PHONG KHÁNH HÒA
DISTRIBUTION OF CONE SNAIL (CONUS SPP) AT VAN PHONG BAY, KHANH HOA
Đặng Thúy Bình, Bùi Vân Khánh, Nguyễn Thị Thu Nga Viện Ngiên cứu CNSH & MT - Trường Đại học Nha Trang
TÓM TẮTỐc cối (Conoidea) là giống ốc độc có giá trị mỹ nghệ và là nguồn dược liệu quý. Nghiên cứu này xác
định thành phần loài, đặc điểm phân bố của ốc cối tại vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) và xây dựng bản đồ phân bố của một số loài phổ biến. Tổng số 19 loài được tìm thấy tại 10 điểm thu mẫu đại diện cho mùa khô và mùa mưa. Số lượng cá thể/điểm thu mẫu vào mùa khô cao hơn mùa mưa và dao động từ 15 - 55/100m2. Các loài phổ biến là Conus textile (83 cá thể/ 8 điểm thu mẫu); C. striatus (54 cá thể/10 điểm thu mẫu); C. vexilum (42 cá thể/8 điểm thu mẫu); và C. miles (38 cá thể/6 điểm thu mẫu). Bản đồ phân bố của các loài ốc phổ biến cho thấy ốc cối hiện diện ở hầu hết các điểm thu mẫu nhưng mật độ phân bố mùa khô cao hơn mùa mưa (lần lượt là 29 - 55 và 12 - 22). Dữ liệu trên làm cơ sở cho các nghiên cứu bảo tồn nguồn lợi giống ốc cối có giá trị kinh tế và y học.
Từ khóa: Conus, bản đồ phân bố, vịnh Vân Phong, ốc cốiABSTRACT
The Cone snail (Conoidea) is the toxic Conus species known as precious drug. This study presents the species composition and distribution of Conus species at Van Phong Bay, Khanh hoa Province. Based on this data, the distribution of four common Conus species has been mapped. Nineteen species have been totally found at 10 sampling sites representatively for dry and rainy seasons. The number of individuals perlocation was found higher in dry than in the rainy seasons (29-55 and 12-22, respectively). Dominaant species are Conus textile (83 individuals/8 sampling sites); C. striatus (54 individuals/10 sampling sites); C. vexilum (42 individuals/8 sampling sites); and C. miles (38 individuals/6 sampling sites). The distribution maps show that diminant Conus species has been found in most of sampling sites, but the density is higher in dry season compared to the rainy one. These data can be used for further research on conservation of this high value and medical species.
Keywords: Conus, distribution map, Van Phong Bay, Cone snail
I. ĐẶT VẤN ĐỀBờ biển Việt Nam dài 3.260km và có hơn
3.000 đảo lớn nhỏ. Năm 1992, Trung tâm quan trắc bảo tồn thế giới (World ConservationMonitoring Center) đánh giá Việt Nam là một
trong 16 quốc gia có sự đa dạng di truyền cao trên thế giới. Đa dạng sinh học của Việt Nam đặc trưng bởi 11.458 loài động vật, 21.017 loài thực vật và 3.000 loài vi sinh vật. Việt Nam có tiềm năng về kinh tế biển với khoảng 20 hệ sinh
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG � 83
thái biển, trong đó có khoảng 11.000 loài bao gồm 2.500 loài cá biển, 225 loài tôm, hơn 200 loài thủy sinh vật, gần 700 loài động vật nổi và 100 loài thực vật rừng ngập mặn, 15 loài cỏ biển và hơn 6.000 loài động vật không xương sống. Theo ước tính, có khoảng 1.122km2 rạn san hô phân bố từ Bắc vào Nam, 90% các loài san hô cứng ở vùng biển Ấn Độ - Thái Bình Dương được tìm thấy ở Việt Nam (Dang và Chu, 2005).
Ở nước ta, ốc là một trong những nguồn lợi hải sản có mức độ phong phú về thành phần loài, có giá trị thực phẩm và kinh tế cao. Song những năm gần đây, tình trạng khai thác quá mức cộng với sự ô nhiễm môi trường đang làm cho nguồn lợi ốc có chiều hướng suy giảm nghiêm trọng. Nhiều loài nhuyễn thể có giá trị cao đang có nguy cơ tuyệt chủng như ốc tù và, ốc đụn, ốc bàn tay, trai tai tượng, ốc vú nàng (http://www.baomoi.com/Home/DuLich/cand.com.vn/).
Ốc cối là loại động vật thân mềm, có nọc độc, sống chủ yếu ở các vùng nước nông nhiệt đới. Ở Việt Nam có hơn 76 loài (Hylleberg và Kilburm, 2003) và khoảng 500 - 700 loài được ghi nhận trên toàn thế giới (Nam và cs, 2009; Cunha và cs, 2005). Chúng thường được khai thác để làm hàng mỹ nghệ và còn là nguồn thực phẩm cao cấp ở một số quốc gia như Vanuatu, New Caledonia, Philippines. Gần đây, ốc cối còn được biết đến như là một loại dược liệu quý để chữa các cơn đau mãn tính, ung thư và nhiều bệnh khác (Oliverra, 2002; Terlau và Olivera, 2004; Puillandre và cs, 2010).
Những nghiên cứu về ốc cối ở Việt Nam phần lớn vẫn còn ở mức độ khảo sát, thu thập mẫu và tư liệu liên quan (Hylleberg vàKilburm, 2003); phân loại, mô tả đặc điểm hình thái (Nguyễn Ngọc Thạch, 2002); xác định độc
tính và kiểm chứng tính chất của một số độc tố (http://www.vnio.org.vn/). Ngô Đăng Nghĩa và cs (2010) đã tiến hành khảo sát, phân loại, mô tả đặc điểm hình thái, xây dựng mối quan hệ tiến hóa và bước đầu khảo sát độc tính của các loài ốc cối thu tại vùng biển Nam Trung bộ. Tuy nhiên, những nghiên cứu sâu về đặc điểm phân bố của ốc cối vẫn còn rất hạn chế.
Nghiên cứu này xác định thành phần loài và đặc điểm phân bố ốc cối ở vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) để xây dựng bản đồ phân bố của một số loài ốc cối phổ biển làm cơ sở cho các nghiên cứu bảo tồn nguồn lợi giống thủy sản có giá trị kinh tế và y học.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm, phương pháp thu mẫu và phân loại
Mẫu ốc cối được thu 2 lần/ năm, đại diện cho mùa mưa và mùa khô (tháng 5 và tháng 10 năm 2010) quanh đảo Hòn Lớn thuộc vịnh Vân Phong (Khánh Hòa). Mẫu được thu theo phương pháp lặn quan sát theo mặt cắt(Transect surveys) và quan sát tự do không theo mặt cắt (free-swimming observations) (Hodgson,1998; English và cs, 1997).
Các thông tin liên quan đến địa điểm khảo sát (vị trí, thời gian) được mô tả và ghi chép đầy đủ vào sổ nhật ký thực địa làm cơ sở cho việc lập bản đồ phân bố sau này. Vị trí các mặt cắt (điểm khảo sát) có diện tích khoảng 100m2 và được xác định bằng máy định vị cầm tay GPS (Magellan JPS colour tract, hệ quy chiếu GW 84, Đài Loan). Ốc cối được định danh theo Röckel và cs (1995) và Nguyễn Ngọc Thạch (2007). Thông tin về 10 điểm thu mẫu được trình bày ở bảng 1.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
84 � TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
2. Nghiên cứu phân bố ốc cốiMẫu ốc cối được phân loại sơ bộ, đo kích
thước, khối lượng, và chụp ảnh, vận chuyển nhanh về phòng thí nghiệm trong nitơ lỏng, sau đó được lưu giữ ở -700C.
Dữ liệu phân bố (số cá thể/điểm thu mẫu) của một số loài phổ biến được sử dụng để xây dựng bản đồ phân bố bằng phần mềm Golden Software Surfer ver 8.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thành phần loài, mật độ phân bố ốc cốiChúng tôi đã tiến hành thu mẫu tại Vịnh
Vân Phong (Khánh Hòa) tại 10 điểm thu mẫu. Thành phần, số lượng cá thể và sự phân bố của các loài ốc cối được trình bày ở bảng 2. Qua khảo sát cho thấy ốc cối ở vịnh Vân Phong khá đa dạng về thành phần loài (bảng 2), cụ thể ở Vân Phong tìm thấy 19 loài tại các điểm thu mẫu khác nhau giữa mùa khô và mùa mưa (9 - 12 loài ở mùa khô và 5 - 9 loài ở mùa mưa). Hình thái ngoài của các loài trên được biển hiện ở hình 1. Một số loài biểu hiện sự đa dạng về mặt hình thái, có sự khác nhau về màu sắc và vân trên vỏ (C. caractericus, hình 1 - 22,23) hay sự
khác biệt về kiểu vân trên vỏ (C. betulinus, hình 1 - 4,5). Một số loài có đặc điểm hình thái rất giống nhau nên dễ gây nhầm lẫn (C. litteratus và C. leopardus, hình 1 - 1,2); C. bandanus vàC. marmoreus, hình 1 - 11,12).
Loài phổ biến nhất là Conus textile (83 cá thể tại 8/10 điểm thu mẫu (nhiều nhất là 18 cá thể tại điểm 3, ít nhất 5 cá thể ở điểm 8,9), Một số loài khác cũng khá phổ biến là C. striatus(54 cá thể phân bố khá đồng đều tại 10/10 điểm thu mẫu), loài C. vexilum (42 cá thể phân bố tại 8/10 điểm thu mẫu), và loài C. miles (38 cá thể phân bố tại 6/10 điểm thu mẫu). Loài C. betulinus và C. quercinuss có mật độ phân bố trung bình. Một số loài rất hiếm gặp như C. arenatus và C. leopardus. Các loài có kích thước lớn như C. textile, C. striatus, C. vexilum, C, betulinus, C. distans và C. leopardus. Loài có kích thước dao động lớn như C. litteratus và C. lividus. Số lượng cá thể tại các điểm thu mẫu dao động từ15 - 55/100m2 khu vực thu mẫu, cao nhất là tại điểm 3 và 5, lần lượt là 52 và 55 cá thể.
Kết quả cũng cho thấy tần xuất bắt gặp ốc cối vào mùa khô cao hơn so với mùa mưa(29 - 55 tổng cá thể/điểm thu mẫu vào mùa khô
Bảng 1. Vị trí các điểm thu mẫu ở Vân Phong (Khánh Hòa)
Ký hiệu Thời gian (mùa) Kinh độ Vĩ độ
D1 5/2010 (khô) 109°18’0.84”E 12°37’56.23”N
D2 5/2010 (khô) 109°18’25.88”E 12°38’52.65”N
D3 5/2010 (khô) 109°18’25.88”E 12°38’52.65”N
D4 5/2010 (khô) 109°18’34.30” 12°36’12.03”N
D5 5/2010 (khô) 109°21’24.82”E 12°34’10.39”N
D6 10/2010 (mưa) 109°22’33.27”E 12°33’11.45”N
D7 10/2010 (mưa) 1090. 19’.51.6”E 120.38’ 02.7”N
D8 10/2010 (mưa) 1090. 20’.19.4”E 120.38’ 02.7”N
D9 10/2010 (mưa) 1090. 17’.31.6”E 120.37’ 31.6”N
D10 10/2010 (mưa) 1090. 18’.36.9”E 120.38’ 39.6”N
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG � 85
và 15 - 22 tổng cá thể/điểm thu mẫu vào mừa mưa). (hình 2). Số lượng cá thể ốc tại từng điểm thu mẫu cũng nhiều hơn (5 - 18 đối với các loài phổ biển và 2 - 5 đối với các loài khá phổ biến. Tuy nhiên, đối với các loài hiếm đôi khi chỉ gặp 1 đến 2 cá thể. Về thành phần loài cũng có đặc điểm tương tự. Các điểm có số lượng loài nhiều là D1 và D4 (có 12 loài); tiếp theo là các điểm D2, D3, D5 và D7 (có 9 loài) (bảng 2)
Hình 2. Phân bố cá thể ốc cối theo điểm thu mẫutại vịnh Vân Phong.
Điểm 1 - 5 thu vào mùa khô và 6 - 10 thu vào mùa mưa
2. Đặc điểm phân bố ốc cốiSự phân bố của ốc cối được thể hiện bằng
bản đồ phân bố trên hình 3, các loài phổ biến
nhất C. textile, C. striatus, C. vexilum và C.
miles. Loài C. textile phân bố rộng (8/10 điểm)
và số cá thể được tìm thấy nhiều nhất ở các
điểm thu mẫu 2 - 5 (10 - 18 cá thể), trong khi đó
loài C. striatus và C. vexilum được tìm thấy ở
hầu hết các điểm với số lượng cá thể gần như
đồng đều (thấp nhất 4 cá thể, cao nhất 10 cá
thể). Loài C. miles được tìm thấy ở 6 điểm thu
mẫu với số lượng cá thể trung bình (5 - 8 cá thể).
IV. THẢO LUẬN
1. Thành phần loài, mật độ phân bố ốc cốiThành phần loài và sự phân bố của động
vật thân mềm đã được nghiên cứu trên hầu hết
các vùng biển thế giới, trong đó nhiều nhất là vùng biển Ấn Độ - Thái Bình Dương. Nguyễn Ngọc Thạch (2007) đã xác định có 39 loài ở Việt Nam thuộc họ Conidae, trong đó họ phụ Coninae gồm giống Conus L 1758 (loài đặc trưng (typespecies) là Conus marmoreus L 1758) được phân thành các lớp phụ Asprella Schaufuss, 1869; Chelyconus Morch, 1852; Darioconus
Iredale 1930; Hermes Montifort, 1810;Lithconus Morch, 1852; Phasmoconus Morch, 1852; Pimoconus Morch, 1852; Rhizoconus Morch, 1852; Stephanoconus Morch, 1852;Vigiconus Cotton, 1945; Viroconus Iradale, 1930. Tác giả cũng ghi nhận một số loài chưa được định danh, ví dụ ốc cối thon dài (Conus
sp1.), ốc cối thon nhí (Conus sp2.), ốc cối rãnh cạn (Conus (Rhizoconus) sp1.); ốc cối đáy bằng (Conus (Rhizoconus) sp1.).
Tập hợp tất cả các nghiên cứu trong và ngoài nước và các mẫu vật thu được về khu hệ động vật thân mềm biển Việt Nam từ trước đến nay sau khi xem xét và điều chỉnh, Hylleberg và Kilburn (2003) đã xác định biển Việt Nam có khoảng 2.200 loài thuộc 700 giống của 200 họ phụ đã được công bố ở Việt Nam. Trong đó, giống ốc cối được ghi nhận có khoảng 76 loài. Các tác giả cũng ghi chú 18 loài ốc cối được mô tả bởi Nguyễn Ngọc Thạch (2007) hoặc các công bố khác, nhưng những loài này không được ghi nhận có mặt ở Việt Nam hoặc tên của chúng đã thay đổi theo Röckel và cs (1995) như Conus luteus Sowerby, 1833; Conus monachus Linnaeus, 1758.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm thấy 19 loài tại vịnh Vân Phong (chiếm 30% số loài bắt gặp ở Việt Nam). Tất cả các loài trên đã được định danh chính xác dựa trên đặc điểm hình
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
86 � TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
thái và sự đa dạng về màu sắc và vân trên vỏ đã được ghi nhận (hình 1). Các loài phổ biển nhất là C. textile, C. striatus và C. vexilum. Kết quả này cũng khá phù hợp với các nghiên cứu trước đó (Ngô Đăng Nghĩa, 2010). Loài C. miles cũng phân bố rộng nhưng tần suất bắt gặp và số lượng cá thể ít hơn.
Tuy nhiên, qua đợt khảo sát tại vịnh Vân Phong, cũng như thu mẫu dọc bờ biển Nam Trung Bộ (Lý Sơn, Cù Lao Chàm, Bình Thuận, Sông Cầu) đều không thấy sự xuất hiện của ốc cối địa lý (C. geographus) là loài được công bố phổ biến ở Việt Nam. Đây là loài ốc ăn cá và được biết đến là một trong các loài có tính độc cao nhất trong số các loài ốc cối (http://vn.vinaseashells.com/oc-coi-nau.htm). Có thể ốc cối địa lý có thói quen săn mồi vào ban đêm, ban ngày thường vùi mình trong cát nên rất khó phát hiện hoặc do cơ thể có kích thước lớn, màu sắc đẹp nên chúng bị khai thác tập trung dẫn đến sự suy giảm về số lượng.
So sánh với dữ liệu phân bố của ốc cối thu ở Vân Phong năm 2009 (Ngô Đăng Nghĩa và cs, 2010), chúng tôi nhận thấy năm 2010 có sự đa dạng hơn về loài và số lượng cá thể. Cụ thể kết quả khảo sát ở 4 tỉnh (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa và Bình Thuận) năm 2009 tìm thấy 18 loài, trong đó ở vịnh Vân Phong có 12 loài tại 6 điểm thu mẫu. C. textile 13 cá thế, C. striatus 13 cá thể và C. vexilum 5 cá thể; Tuy nhiên loài C. miles có số lượng cá thể là 19, trong khi năm 2010 chúng tôi thu được loài C. striatus 54 cá thể, C. textile 83 cá thế và C. vexilum 42 cá thể; và C. miles có số lượng cá thể là 38. Có thể số lượng đợt/điểm thu mẫu năm 2010 nhiều hơn và tập trung vào mùa khô và đầu mùa mưa nên tần suất bắt gặp nhiều hơn so với mẫu thu năm
2009 (chủ yếu vào cuối mùa mưa).
Qua 2 đợt thu mẫu, chúng tôi nhận thấy tần
xuất bắt gặp ốc cối vào mùa khô cao hơn mùa
mưa (hình 2); Vào mùa mưa, có thể do nhiệt độ
xuống thấp hơn, chúng trốn vào các hốc, ghềnh
đá, rạn san hô. Theo điều tra khảo sát chúng
tôi nhận thấy vào mùa khô là lúc thu mẫu dễ và
nhiều nhất. Đồng thời kích cỡ mẫu ốc của cùng
loài thu vào vào mùa khô (6 - 8cm) lớn hơn hẳn
so với các mẫu thu được vào mùa mưa (3 - 4cm).
2. Đặc điểm phân bố ốc cốiGiống ốc cối thường phân bố ở vùng vĩ
độ giữa 400 Bắc và 400 Nam, thuộc các vùng
biển: Ấn Độ - Thái Bình Dương, Panamic,
Caribbean, Peruvian, Patagonic, Tây và Nam
Phi và Địa Trung Hải. Một vài loài có thể phân
bố ở vĩ độ trên 400 Bắc - Nam như ở Nam Phi.
Nam Australia, Nam Nhật Bản và biển Địa Trung
Hải. Nhìn chung, ốc cối xuất hiện ở hầu hết các
vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhưng đa
dạng nhất ở khu vực Ấn Độ - Tây Thái Bình
Dương (Indo-West Pacifi c). Mật độ phân bố lớn
nhất của chúng đạt 40 cá thể/m2 (Kohn và cs,
2001). Ốc cối được tìm thấy chủ yếu ở các rạn
san hô. Chúng có thể ở các vùng nước nông
gần rạn san hô, dưới rạn san hô, vùi mình trong
cát hoặc ở dưới các tảng đá hoặc sỏi (Röckel và
cs, 1995). Một vài loài ốc cối sống ở rừng ngập
mặn. Một số lượng đáng kể ốc cối sống xa bờ
hoặc ở những vùng nước sâu đến 400m (Röckel
và cs, 1995)
Ở Việt Nam, ốc cối phân bố chủ yếu ở các
vùng ven biển thuộc khu vực Nam Trung bộ từ
Đà Nẵng (Khánh Hòa, Bình Thuận...) đến Vũng
Tàu, Kiên Giang, và quanh các đảo (như Lý Sơn,
Cù Lao Chàm, Trường Sa, Hoàng Sa, Phú Quý,
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG � 87
Long Hạ, Côn Đảo). Các loài ốc được ghi nhận phổ biến ở Việt Nam như C. vexilum, C. quercinus,C. imperialis, C. striatus, C. generalis, C.
geographus, C. litteratus và C. distans. Chúng có dải phân bố rất rộng, từ vùng dưới triều đến độ sâu khá lớn, nhưng thường sống chui trong các kẽ rạn san hô ở độ sâu từ 10 - 70m. Đôi khi thấy chúng vùi trong cát ở vùng rạn phẳng. Một số loài có thể sống ở vùng xa bờ (http://vn.vinaseashells.com/oc-coi-nau.htm).
Dựa trên bản đồ phân bố của các loài ốc cối (hình 3) ta thấy loài C. textile, C. striatus và
C. vexilum có phạm vi phân bố gần như nhau, trong đó, loài C. textile có số lượng cá thể được tìm thấy nhiều nhất. Số lượng cá thể mùa khô cao hơn so với mùa mưa, đặc biệt đối với loài C. textile. Loài C. miles có mức độ phân bố đồng đều giữa mùa khô (Điểm D1, D4 và D5) và mùa mưa (Điểm D8, D9, D10) nhưng số lượng cá thể mùa khô tương đối nhiều hơn.
Loài C. textile được ghi nhận là phân bố trên toàn khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương (Röckel và cs, 1995). C. striatus phân bố ở rất nhiều vùng khác nhau tại khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, từ Nam Phi đến Biển Đỏ, Hawaii và bán đảo Pháp. Trong khi đó, loài C. vexilum được ghi nhận phân bố ở nhiều khu vực thuộc Ấn Độ - Thái Bình Dương như Aldabra, quần đảo Chagos, Tazania, Madagasca, Biển Đỏ. Theo Röckel va cs (1995), loài C. miles phân bố trên toàn khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, trừ vùng Biển Đỏ. Tuy nhiên, Vine (1986) lại ghi nhận sự có mặt của loài ở Biển Đỏ. Cả bốn loài trên đều có vùng phân bố rất rộng.
Việt Nam nằm trong khu vực Thái Bình Dương, vì vậy tần xuất bắt gặp các loài trên cũng rất cao. Kết quả của Ngô Đăng Nghĩa và cs
(2010) cũng cho thấy các loài trên bắt gặp ở các vùng khảo sát thuộc khu vực Nam Trung bộ với mật độ cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng khá phù hợp với các nghiên cứu trước đây.
Ốc cối được dùng làm hàng mỹ nghệ, vì
vậy các loài có kích thước lớn và màu sắc đẹp
đang bị khai thác với số lượng lớn. Tuy chưa
có loài ốc cối nào được xếp trong sách đỏ hoặc
được ghi nhận có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng
với tốc độ khai thác như hiện nay, loài ốc với giá
trị dược liệu cao sẽ phải đối mặt với nguy cơ
suy giảm nguồn lợi nghiêm trọng và ảnh hưởng
đến cấu trúc quần thể tự nhiên. Theo Ngô Đăng
Nghĩa và cs (2010) và kinh nghiệm của ngư dân
cho thấy càng xa bờ, ở độ sâu càng lớn thì khả
năng bắt gặp các loài ốc cối càng nhiều và có
kích thước lớn (6 - 8cm) so với gần bờ (3 - 4cm).
Điều này cũng có thể do sự tăng cường đánh
bắt ốc cối có kích thước lớn ở các khu vực gần
bờ trong những năm gần đây dẫn dến sư suy
giảm về số lượng và kích thước loài.
V. KẾT LUẬN Ốc cối là nguồn tài nguyên quý giá về mặt
mỹ nghệ và gần đây rất được chú trọng vì những
ứng dụng của độc tố trong nghiên cứu sinh học
thần kinh và y dược học. Ốc cối ở vịnh Vân Phong
(Khánh Hòa) khá đa dạng về loài (19 loài) và các
loài phổ biến có mật độ phân bố cao là Conus
textile; C. striatus; C. vexilum; và C. miles. Các
loài hiếm gồm C. arenatus và C. Leopardus. Ốc
cối có mặt ở hầu hết các điểm thu mẫu nhưng
mật độ phân bố mùa khô cao hơn mùa mưa. Kết
quả nghiên cứu về thành phần loài, mật độ và
khu vực phân bố của ốc cối ở vịnh Vân Phong
(Khánh Hòa) có thể làm cơ sở cho công tác bảo
tồn và bảo vệ nguồn lợi.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
88 � TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
Hình 1. Hình thái vỏ của các loài ốc cối phân bố ở biển Việt Nam 1. Conus leopardus; 2. C. litteratus; 3,4. C. betulinus, 5. C. quercinus; 6. C. terebra; 7. C. magus; 8. Conus cf. disstans;
9. C. distans; 10. C. textile; 11. C. bandanus; 12. C. marmoreus; 13. C. imperialis; 14, 15. C. vexilum; 16. C: capitaneus; 17. C. miles; 18. C. stratus;19. C. generalis; 20. C. lividus; 21. C. tessulates; 22,23. C. caracteriscus.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG � 89
Bản
g 2.
Thà
nh p
hần
và s
ố lư
ợng
các
loài
ốc
cối t
hu tạ
i vịn
h Vâ
n Ph
ong
(Khá
nh H
òa) n
ăm 2
010
STT
Tên
loài
D1
D 2
D 3
D 4
D5
D6
D 7
D 8
D 9
D10
Tổng
số
1C
. tex
tlie
10
1816
158
65
5
83
2C
. stri
atus
76
107
54
4
65
54
3C
. vex
illum
45
86
54
55
42
4C
. mile
s7
86
65
638
5C
. bet
lulin
us3
2
51
2
215
6C
. que
rcin
us
32
4
1
111
7C
. car
acte
riscu
s2
1
3
1
29
8C
. cap
itane
us2
3
2
1
8
9C
. mag
us1
1
3
1
17
10C
. ban
danu
s1
1
3
5
11C
. liv
idus
2
1
1
1
5
12C
. litt
erat
us1
3
1
5
13C
. dis
tans
1
1
2
4
14C
. gen
eral
is1
2
1
4
15C
. im
perri
alis
2
2
1
1
4
16C
. mar
mor
eus
2
11
4
17C
. tes
sula
tus
1
1
1
3
18C
. ter
ebra
1
2
3
19C
. leo
pard
us
1
1
Số c
á th
ể/Đ
iểm
thu
mẫu
3329
5553
3721
2215
2217
Số lo
ài/Đ
iểm
thu
mẫu
129
912
95
97
76
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
90 � TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
Hình 2. Bản đồ phân bố các loài ốc cối phổ biến(Conus textile, C. striatus, C. vexilum và C. miles) tại 10 diểm thu mẫu (đánh số từ D1 – D10) ở vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) năm 2010.
Độ lớn của các vòng tròn thể hiện số lượng cá thể ốc của từng loài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cunha RL, Castilho R, Ruber L, Zardoya R. 2005. Patterns of cladogenesis in the venomous marine gas-tropod genus Conus from the Cape Verde islands. Syst Biol, 54:634-650.
2. Dang Thi An, Chu Thị Thu Hà. 2005. Biodiverity in Vietnam. The 2005-report (the fourth) of Vietnam Environmental Monitors (VEM).
3. English, S., Wilkinson, C., Barker, V. 1997. Survey Manual for Tropical Marine resources. Second edition. Australian Institute of Marine Science. Townsville. Australia.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 3/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG � 91
4. Hodgson, G. 1998. Reef Check and sustainable management of coral reefs. Pp. 165-68. In: C.Wilkinson (ed) Status of Coral Reefs of the World: 1998. Australian Institute of Marine Science, Townsville, Australia 184 p.
5. Hylleberg, J and Kilburm, R.N. 2003. Marine Molluscs of Vietnam, Proceeding of. 16th InternationalCongress and Workshop, Tropical Marine Molluscs Program (TMMP).
6. Kohn AJ, Omori M, Yamakawa H, Koike Y. 2001. Maximal species richness in Conus: diversity, diet and habitat on reefs of northeast Papua New Guinea. Coral Reefs 20: 25–38.
7. Nam HH, Corneli PS, Watkins M, Olivera B, Bandyopadhyay P. 2009. Multiple genes elucidate theevolution of venomous snail-hunting conus species. Mol Phylogenet Evol, 53:645-652.
8. Ngô Đăng Nghĩa và cs. 2010. Báo cáo tổng kết dự án “Bảo tồn tiềm năng di truyền các loài thủy hải sản Việt Nam”. 2009-2010. 200 pp.
9. Nguyen Ngọc Thạch, 2007. Recently collected shells of Vietnam. L ‘Informator Piceno & N.N.T. Italy.10. Olivera BM. 2002. Conus venom peptides: reflections from the biology of clades and species. Annu Rev
Ecol Syst 33.11. Puillandre N, Watkins M, Olivera BM. 2010. Evolution of conus peptide genes: Duplication and positive
selection in the a-superfamily. J Mol Evol (in press)12. Röckel, D., Korn, W., Kohn, A.J., 1995. Manual of the Living Conidae (Vol. I: Indo- Pacifi c Region).
Verlag Christa Hemmen, Wiesbaden, Germany.13. Terlau, H., Olivera, B. M. 2004. Conus Venoms: A rich source of novel ion channel-targeted peptides.
Physiol Rev. 84: 41–68.14. Vine, K. 1986. Red Sea Invertebrates. Immel Publishing, London. 224 pp.