BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI TỚI
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP
CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
(Phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng kinh tế)
Mã số: 62340410
HÀ NỘI - 2018
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS NGUYỄN THẾ CHINH
2. PGS.TS ĐINH ĐỨC TRƯỜNG
Phản biện 1: PGS. TS Nguyễn Mậu Dũng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Phản biện 2: TS. Nguyễn Hoàng Nam
Viện chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường
Phản biện 3: GS. TS Nguyễn Hồng Sơn
Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Vào hồi: 16 giờ 00 ngày 24 tháng 8 năm 2018
Có thế tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Đại học Kinh tế Quốc dân
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sư cân thiêt cua nghiên cưu
Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, tự do hóa thương mại có những
tác động trực tiếp và gián tiếp tới ô nhiễm môi trường của một ngành và một quốc
gia. Nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều nước trên thế giới như Hettige và cộng sự
(1996), Edward (1993), Mani và Wheeler (1999), Dean (2002), Ederington (2004),
Mani và Jha (2005), Guminlang (2011) đã cho thấy, không phải mọi tác động là
như nhau mà có sự khác nhau xuất phát từ đặc thù riêng của từng ngành và từng
quốc gia. Nhưng tổng hợp lại thì tác động tiềm tàng của tự do hóa thương mại đến
môi trường gồm: (i) tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường;
(ii) tự do hóa thương mại tác động tới môi trường thông qua sự chuyên môn hóa,
chuyển dịch cơ cấu trong ngành; (iii) tự do hóa thương mại tác động tới môi
trường thông qua kênh đầu tư, chuyển giao công nghệ; (iv) tự do hóa thương mại
tác động tới môi trường bằng hiệu ứng trực tiếp. Do vậy, cần có những công trình
nghiên cứu tiếp theo ở mức độ chi tiết hơn những kênh nào cũng như những yếu tố
nào diễn ra tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường và mức độ
tác động của nó đến các ngành và các doanh nghiệp.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới -
WTO (World Trade Organization) từ năm 2007. Cho đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới. Tự do hóa thương mại trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết, có tác động trực tiếp và nhanh nhất đến thương
mại quốc tế và đầu tư, từ đó lan tỏa đến sản xuất trong nước, tạo việc làm và giảm
nghèo. Ngoài ra, tự do hóa thương mại con có những tác động vô hình khác như
làm gia tăng nhận thức của xã hội về nhu cầu hội nhập, đổi mới mạnh mẽ thể chế
nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ. Tuy nhiên, Việt Nam
không thể ne tránh những vấn đề thương mại và suy thoái môi trường trong hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung và trong WTO nói riêng. Vấn đề thương mại và
môi trường trong các Hiệp định của WTO; hiệp định thương mại song phương, đa
phương được thể hiện dưới dạng tiêu chuân về quy trình sản xuất và chế biến, các
quy định về nhãn mác, các hệ thống phí, lệ phí liên quan đến môi trường đối với
các sản phâm xuất nhập khâu (MUTRAP, 2015).
Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng
toàn nền kinh tế của Việt Nam vì đây là ngành lớn, đóng góp hơn 70% tỷ trọng giá
trị xuất nhập khâu hàng hóa, đóng góp khoảng 18% vào GDP của cả nước. Khu
vực sản xuất công nghiệp từ giai đoạn năm 2007-2011 chịu ảnh hưởng lớn của sự
tăng giá đầu vào, lạm phát, suy thoái kinh tế thế giới, khủng hoảng nợ công…
khiến mức tăng trưởng chậm lại và hiệu quả thấp. Giai đoạn 2011-2015, sản xuất
công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số phát triển công nghiệp 2015 tăng khoảng
10%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng mạnh.
Cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp đã dần chuyển dịch theo hướng tích cực.
Công nghiệp khai khoáng giảm từ 37,1% năm 2011 xuống khoảng 33,1% năm
2015; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 50,1% năm 2011 lên 51,5% năm 2015.
Sau 10 năm gia nhập WTO, độ mở nền kinh tế Việt Nam đã tăng từ 144% năm
2007 lên 173% năm 2016 (Bộ Công Thương, 2017).
2
Như vậy, tự do thương mại đã thuc đây ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong những năm qua. Nhưng sự phát triển đó có
tác động đến chất lượng môi trường hay không? Đã có những nghiên cứu thực địa
chứng minh rằng, có mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường
từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (Hettige và cộng sự, 1996) hay (Dean, 2002;
Edwards, 1993; Ederington và cộng sự, 2004; Nguyen Duy Loi, 2010). Ở Việt Nam,
các nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại với ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và cho rằng đó là mối quan
hệ thuận chiều (Mani và Jha.S, 2005) (Pham Thai Hung và cộng sự, 2008). Tuy nhiên,
nghiên cứu này thực hiện khi Việt Nam mới bắt đầu gia nhập WTO, vì vậy chưa có
nhiều thời gian để kiểm định. Ngân hàng thế giới cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa
thương mại và ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt
Nam (WB, 2007), nhưng nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc xếp hạng các ngành gây ô
nhiễm môi trường .
Tóm lại, tự do thương mại có vai tro rất quan trọng đối với sự phát triển của
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam, nhưng đồng thời cũng gây ra những
tác động tới môi trường. Tuy nhiên, tác động này chưa được xác định rõ và đầy đủ
trên cả phương diện định tính và định lượng. Từ thực tế đó việc nghiên cứu sinh
(NCS) lựa chọn đề tài “Tác động cua tư do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo ở Việt Nam” có ý nghĩa quan trọng
cả mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng đung yêu cầu thực tiễn quản lý ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cưu
Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của tự do hóa thương mại tới
ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam từ đó đưa
ra các giải pháp phù hợp nhằm giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành này.
Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm
môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo;
- Phân tích thực trạng của tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam;
- Phân tích tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tác động của tự do hóa thương mại tới
ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cưu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Luận án nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tác
động tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
thông qua doanh nghiệp trong ngành, các doanh nghiệp được sử dụng theo ngành
3
cấp 4 và các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khâu.
Ngoài ra, NCS con nghiên cứu theo loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh
nghiệp và phân vùng kinh tế.
+ Thời gian: từ năm 2006 đến năm 2014, các giải pháp, kiến nghị được đề
xuất đến 2025, tầm nhìn 2035;
+ Không gian: Luận án nghiên cứu trên phạm vi cả nước Việt Nam, dựa
trên cách phân vùng của PCI gồm: Các thành phố trực thuộc Trung Ương, Đồng
bằng sông Hồng, Miền nui phía Bắc, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
4. Đóng góp mới cua luận án
Luận án này, nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Bên cạnh những kế
thừa, luận án đã khắc phục được một số hạn chế của các nghiên cứu đi trước. Sau
đây là một số đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: Luận án khẳng định tự do hóa thương mại có tác động tích
cực và tiêu cực tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Trong cùng một môi trường tự do thương mại như nhau thì loại hình, quy mô, khu
vực phân bố của doanh nghiệp có tác động đến ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở những cấp độ khác nhau.
Về mặt thực tiễn: Luận án đã xây dựng được khung lý thuyết, sử dụng mô
hình nghiên cứu của nhà kinh tế học Hettige và cộng sự cùng bộ dữ liệu mảng
được ghep nối từ bộ số liệu của GES và IPPS giai đoạn từ năm 2006 đến 2014.
Ngoài các biến thể hiện đặc điểm doanh nghiệp như yếu tố đầu vào, tuổi, vùng
phân bố thì luận án con sử dụng thêm các biến kiểm soát như: i) loại hình, quy mô
doanh nghiệp, ngành; ii) biến tương tác là tích số giữa tự do thương mại lần lượt
với loại hình và quy mô doanh nghiệp, ngành. Đặc biệt, luận án sử dụng tỷ lệ xuất
khâu, tỷ lệ nhập khâu và tỷ lệ tổng kim ngạch để làm thước đo của tự do hóa
thương mại, đây là thước đo được sử dụng rộng rãi ở trên thế giới, nhưng con hạn
chế ở Việt Nam.
Bằng chứng thực nghiệm khẳng định tự do hóa thương mại có tác động tích
cực và tiêu cực đến ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở
Việt Nam. Cụ thể, tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam biến thiên ngược chiều. Đây là kết quả khác
biệt so với những kết quả nghiên cứu trước đây.
Bên cạnh đó, chỉ có sự tương tác là tích số giữa tự do hóa thương mại và loại
hình, quy mô doanh nghiệp, ngành có tác động đến ô nhiễm môi trường. Trong
cùng một mức độ tự do hóa thương mại, ô nhiễm môi trường do doanh nghiệp FDI
gây ra lớn hơn DN ngoài NN; DN lớn gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn DN nhỏ
và DN siêu nhỏ. Đặc biệt, tốc độ gây ô nhiễm môi trường của ngành bân lớn hơn
nhiều lần ngành sạch, lần lượt là: ô nhiễm chất độc: 8,87 lần; ô nhiễm kim loại:
24,21 lần; ô nhiễm nước: 20,04 lần; ô nhiễm không khí là 22,85 lần. Cuối cùng,
khu vực Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long là
nơi tập trung nhiều DN gây ô nhiễm nhất. Đồng bằng sông Cửu Long và Miền nui
4
phía Bắc là hai khu vực được nhận thấy ô nhiễm nhiều nhất do ngành bân gây ra.
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án đưa ra các kiến nghị chính sách
nhằm giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
Thiếu hụt dữ liệu về ô nhiễm môi trường là một hạn chế trong nghiên cứu,
nhưng trong luận án này, NCS đã nghiên cứu và xử lý để có bộ dữ liệu về cường
độ ô nhiễm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Đây là một phần
đóng góp của luận án về cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực
công nghiệp chế biến, chế tạo. Bên cạnh đó, tác giả đã phân loại ngành sạch và
ngành bân ở cấp độ chi tiết 4 chữ số bằng việc sử dụng bộ dữ liệu GES và IPPS.
Đây là cấp phân loại ngành sạch – bân nối giữa VSIC và ISIC chi tiết nhất hiện
nay.
5. Cấu trúc cua luận án
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận về tác động của tự do hóa
thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Chương 4. Định hướng và giải pháp chính sách để giảm thiểu ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong bối cảnh tự do hóa thương
mại ở Việt Nam
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI TỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cưu về tác động cua tư do hóa thương mại tới
ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo
1.1.1 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp đinh tinh
1.1.2 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp đinh lương
1.1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu của luận án
Các nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu IPPS và GSO để đánh giá tác động của
tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
đều khẳng định rằng: quá trình hội nhập kinh tế thế giới, tự do thương mại đã tác
động đến môi trường, Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó.Tuy nhiên, đánh giá
tác động của tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam trong thời gian Việt Nam gia nhập WTO tới
nay thì con hạn chế. Đặc biệt là sử dụng mô hình của Hettige và cộng sự để đánh
giá tác động của tự do thương mại lên ô nhiễm môi trường trong ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam con ít. Vì vậy NCS lựa chọn mô hình lý
thuyết của Hettige và cộng sự để phân tích tác động động của tự do thương mại tới
ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam dưới
hai góc độ: Doanh nghiệp và ngành.
5
Về mặt lý thuyết, từ các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, tự do hóa thương
mại tác động tới môi trường cả mặt tích cực lẫn tiêu cực và bằng cả phương pháp
định lượng lẫn định tính. Vì vậy trong nghiên cứu của mình, NCS sử dụng cả
phương pháp định lượng và phỏng vấn chuyên gia để nghiên cứu tác động của tự
do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
thông qua các kênh: quy định môi trường; thay đổi quy mô sản xuất và thay đổi cơ
cấu nền kinh tế; di cư ô nhiễm từ các nước phát triển qua các nước đang phát triển
thông qua đầu tư. Đây là nghiên cứu chi tiết hơn các nghiên cứu trước đây ở Việt
Nam. Ngoài ra, xet dưới góc độ ngành, nghiên cứu của WB thực hiện ở Việt Nam
năm 2008 chỉ dừng lại ở xếp loại ngành sạch, ngành bân theo mã ngành ISIC bản
sửa đổi lần 3. Nhưng trong nghiên cứu này, ngoài xếp loại ngành sạch ngành bân
chi tiết nhất ở cấp độ 4 chữ số theo VSIC bản sửa đổi lần 4 thì NCS con so sánh
tốc độ gia tăng ô nhiễm giữa hai ngành sạch và bân để từ đó thấy được sự thay đổi
cơ cấu trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, NCS tiến hành đo lường tình trạng ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dựa trên lượng thải. Từ đó, NCS sử dụng
phương pháp định lượng để nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo qua thành phần ô nhiễm
là nước, không khí, chất độc và kim loại ở cấp độ DN thuộc ngành. Bởi hoạt động
sản xuất của các doanh nghiệp luôn thải ra chất thải ở thể lỏng và khí, các thành
phần ô nhiễm: nước, không khí, chất độc, kim loại được nghiên cứu nhiều ở trên
thế giới. Tình trạng ô nhiễm nước, không khí, chất độc, kim loại đang là vấn đề
môi trường trầm trọng ở Việt Nam. Tác động này được kiểm định qua biến loại
hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, phân loại ngành.
Cuối cùng, NCS tiến hành phỏng vấn sâu để bổ sung vào kết quả định lượng
và gợi ý chính sách để giảm nhẹ những tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở nước ta.
1.2 Cơ sở lý luận về tác động cua tư do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo
1.2.1 Một số vấn đề lý luận về tự do hóa thương mại
1.2.2 Một số vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
1.2.3 Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo
1.2.3.1 Khái niệm về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Tự do hóa thương mại tác động tích cực, tiêu cực đến các khía cạnh môi trường
xuất phát từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo gọi là tác động của tự do hóa thương
mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
1.2.3.2 Tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường trong ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo
Tóm lại, có 03 nhóm các quy định thương mại để xử lý các vấn đề môi trường:
- Để xử lý các vấn đề môi trường bên ngoài lãnh thổ thông qua các công cụ
thương mại như: cấm, hạn ngạch…;
6
- Để bù đắp đối với các quốc gia nới lỏng các quy định/ tiêu chuân về môi
trường thông qua đánh thuế hoặc biện pháp về hải quan;
- Các biện pháp phía sau biên giới: các biện pháp môi trường nội địa không trực
tiếp vào các quốc gia khác. Đây là nhóm công cụ không rõ ràng và dễ bị cho là có
nhiều nguy cơ gây ra các tranh chấp thương mại và tạo ra các rào cản thương mại,
như: thuế và các quy định nội địa của quốc gia nhập khâu được áp dụng không
phân biệt đối xử với các sản phâm được sản xuất trong nước và nhập khâu có thể
tạo ra rào cản thương mại cho quốc gia xuất khâu nếu các quy định môi trường ở
quốc gia nhập khâu cao hơn so với quốc gia xuất khâu. Các trợ cấp cho hàng hóa
xuất khâu gây ra sự gia tăng các vấn đề môi trường.
1.2.3.3 Tự do hóa thương mại tác động tới tăng năng suất của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo
Như vậy, tự do hóa thương mại tác động lên toàn bộ ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo.Tác động này bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn,
cũng như cả khu vực phi chính thức và chính thức. Đối với khu vực kinh tế chính
thức, việc giảm thuế hàng hóa cuối cùng làm tăng năng suất trung bình, với sự gia
tăng lớn nhất là kênh phân phối. Nếu các DN đầu tư công nghệ và phân phối lại lực
lượng sản xuất để tăng năng suất thì tác động của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường sẽ giảm đi và DN đó có khả năng thành công trong môi trường
tự do hóa thương mại. Ngược lại, nếu DN tăng năng suất bằng sản xuất nhiều hơn
sẽ dẫn đến sự phá sản và gia tăng ô nhiễm bởi cạn kiệt tài nguyên và gia tăng chất
thải.
1.2.3.4 Tự do hóa thương mại tạo sự di cư của các ngành công nghiệp bẩn đến các
nước đang phát triển
Từ lý thuyết của các nhà kinh tế đưa ra, NCS sử dụng dữ liệu để xem xét,
trong tiến trình tự do hóa thương mại, Việt Nam có nằm trong quy luật là “ổ chứa ô
nhiễm” của một nước đang phát triển thông qua dòng vốn FDI mà các nhà kinh tế
đã đưa ra? Thành phần môi trường bị ô nhiễm được xet đến trong nghiên cứu này
là nước, không khí, chất độc và kim loại.
1.2.3.5 Tự do hóa thương mại tạo sự chuyên môn hóa trong ngành công nghiệp bẩn
Với việc Việt Nam khai thác lợi thế cạnh tranh chính trong các mặt hàng
thâm dụng lao động và thâm dụng tài nguyên thiên nhiên xuất khâu sang các đối
tác thương mại chính. Những đối tác nhìn chung có các quy định môi trường
nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, sự mở cửa thương mại ấn tượng của Việt Nam có thể có
những ảnh hưởng tiêu cực lên môi trường. Bởi vì, để tiếp tục tăng trưởng nhanh
chóng như những năm vừa qua, Việt Nam có thể “chuyên môn hóa” trong những
ngành “thâm dụng ô nhiễm” hay những ngành có cường độ ô nhiễm cao (ngành
bân). Nghiêm cứu thực nghiệm của Mani và Jha năm 2005 đã cho chung ta thấy
điều đó (Mani và Jha.S, 2005). Như vậy, từ lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy, các
nước đang phát triển đang “chuyên môn hóa” trong những ngành “thâm dụng ô
nhiễm”. Vậy, Việt Nam có nằm trong quy luật đó hay không chính là mục tiêu của
nghiên cứu này.
1.2.3.6 Tự do thương mại tác động đến đến môi trường bằng chuyển giao công
nghệ, tri thức và đầu tư
7
Tự do hóa thương mại sẽ tạo điều kiện cho quốc gia tham gia giảm thiểu ô
nhiễm môi trường bằng việc áp dụng những công nghệ tiên tiến, công nghệ xanh.
Nhưng ngược lại, tự do thương mại sẽ tạo ra áp lực cho môi trường nếu quốc gia
đó bị hạn chế về tài chính, chính sách.
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Khung phân tích và giả thuyêt nghiên cưu
Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan về tác động của tự do hóa thương mại
tới ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp sản xuất. Để trả lời câu hỏi
nghiên cứu và kiểm định giả thuyết nghiên cứu, NCS sử dụng phương pháp nghiên
cứu định lượng với sự hô trợ của phần mềm kinh tế lượng Stata 12 và phương pháp
phỏng vấn, thống kê cùng với khung phân tích được sử dụng trong nghiên cứu này
như sau:
Sơ đồ 2.1: Khung phân tích
Nguồn: NCS Tổng hợp từ cơ sở lý luận
Định hướng và giải pháp chính sách giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ CNCBCT
trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở Việt Nam
trong
Cơ sở lý thuyết về tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi trường
từ ngành CNCBCT
Thực trạng ô nhiễm môi
trường ngành CNCBCT Thực trạng tự do hóa
thương mại ngành
CNCBCT
Tự do hóa thương
mại ngành CNCBCT
Ô nhiễm môi trường
từ ngành CNCBCT
Quy định môi trường
DN FDI gây ô nhiễm môi trường
nhiều hơn các loại hình DN khác
- Sử dụng biến kiểm soát loại
hình DN
DN lớn gây ô nhiễm môi trường
nhiều hơn các quy mô DN khác
- Sử dụng biến kiểm soát quy mô
DN
Cơ cấu của ngành CNCBCT ở
Việt Nam dịch chuyển theo chiều
hướng gia tăng ngành công
nghiệp bân
- Sử dụng biến kiểm soát ngành
8
Từ các mối quan hệ của khung phân tích này và dựa trên tổng quan nghiên
cứu, các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra để kiểm định thực nghiệm như sau:
Giả thuyết 1: Khi tự do thương mại gia tăng thì ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam gia tăng. (Dean, 2002)
(Gumilang, 2011; Mani và Wheeler, 1998).
Giả thuyết nghiên cứu: dưới góc độ ngành và Doanh nghiệp
Dưới góc độ ngành:
Giả thuyết 2: Khi tự do hóa thương mại gia tăng thì cơ cấu của ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam dịch chuyển theo chiều hướng gia tăng ngành
công nghiệp bẩn. Hay nói cách khác, khi tự do thương mại gia tăng thì tải lượng ô
nhiễm từ ngành bẩn lớn hơn ngành sạch. (Mani và Jha.S, 2005) (Mani và
Wheeler, 1999; Copeland và Taylor, 1994)
Dưới góc độ Doanh nghiệp:
Giả thuyết 3: Khi tự do hóa thương mại gia tăng thì Doanh nghiệp FDI gây
ô nhiễm môi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác (Grossman and Krueger,
1993) (Ederington và cộng sự, 2004).
Giả thuyết 4: Khi tự do thương mại gia tăng thì các doanh nghiệp có quy
mô lớn gây ô nhiễm môi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác. (Copeland và
Tayor, 2003) ((Mani và Jha.S, 2005)
2.2 Phương pháp nghiên cưu
2.2.1 Phương pháp thống kê mô tả
2.2.2 Phươg pháp nghiên cứu đinh lương
2.2.2.1 Mô hình đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường
Để ước lượng tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường
ngành công nghiệp, NCS sử dụng mô hình dưới dạng hàm tải lượng ô nhiễm tổng
quát được đề xuất trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự (Hettige và cộng sự,
1996) như sau:
P = β0 + β1 X+ β2 T+ β3 D+ui (1)
Trong đó, P là mức độ ô nhiễm, X là vec- tơ các yếu tố đầu vào, T là biến đại
diện cho tự do hóa thương mại, D là vec – tơ tập hợp các biến giả, ui là số hạng sai số
ngẫu nhiên.
Từ hàm tải lượng ô nhiễm tổng quát, NCS xây dựng mô hình nghiên cứu tải
lượng ô nhiễm của một doanh nghiệp và biểu diễn dạng tuyến tính như sau:
Pijt = β0 + β1 Xijt + β2 Tijt +Dijt β3 +ui (2)
Trong đó, Pijt là mức độ ô nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim
loại, nước, không khí) của doanh nghiệp thứ i thuộc ngành j theo thời gian t; Xijt
là yếu tố đầu vào; T là biến số đại diện cho mở cửa thương mại ; D là vec tơ
các biến kiểm soát bao gồm kiểm soát về quy mô doanh nghiệp, loại hình doanh
nghiệp và vùng miền phân bố; β là các vec – tơ hệ số của các tham số phù hợp;
ui là số hạng sai số ngẫu nhiên.
9
Ngoài ra, để đánh giá tổng quát hơn về tác động của tự do hóa thương mại
đến ô nhiễm môi trường ở cấp độ ngành, mô hình được sử dụng dưới dạng tuyến
tính là:
Pjt = β0 + β1 Xjt + β2 Tjt + Djt β3 +ui (3)
Trong đó, Pjt là mức độ ô nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim loại,
nước, không khí) của ngành thứ j theo thời gian t; Xjt là yếu tố đầu vào; T là biến
số đại diện cho mở cửa thương mại; D là vec tơ các biến kiểm soát bao gồm kiểm
soát về loại ngành và vùng miền phân bố; β là các vec – tơ của các hệ số của các
tham số phù hợp; ui là số hạng sai số ngẫu nhiên.
2.2.2.2 Phương pháp ước lượng
Mô hình chung của dạng số liệu mảng như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + vit hay Yit = β0 + βi*Xit +ci + uit (vit = ci + uit) (4)
Trong đó Yit là biến phụ thuộc; Xit là vec tơ các biến giải thích, vit là các yếu
tố ngẫu nhiên, ci là biến không quan sát được (thể hiện đặc điểm riêng của từng
quan sát hoặc từng đơn vị), uit thỏa mãn các giả thiết của phương pháp ước lượng
bình phương tối thiểu OLS.
Mô hình hồi quy gộp POLS
Nếu không có cit thì mô hình (4) khi được viết lại dưới dạng mô hình hồi
quy gộp (Pooled Model) như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + uit (4.1)
Trong đó Yit là biến phụ thuộc ; Xit là véc- tơ các biến giải thích trong phương trình
4.
Mô hình tác động cố đinh FEM
Mô hình FEM có dạng như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + ci + uit (4.2)
Mô hình FEM được ước lượng bằng phương pháp hồi quy cổ điến với biến
giả hoặc phương pháp biến đổi dọc như sau:
Có : Yi = β0 + βi*Xi + ci + uit
uuXXYY iittitiit
1
Phương pháp này giup loại bỏ những ảnh hưởng theo chiều ngang của ci và chỉ
còn lại những ảnh hưởng theo chiều dọc. Vì thế hàm còn có tên gọi là ước lượng dọc.
Mô hình hồi quy ngẫu nhiên REM
Cuối cùng, mô hình được lựa chọn sẽ sử dụng hồi quy robust để kiểm soát
các vi phạm về phương sai thay đổi và tự tương quan của sai số ngẫu nhiên
(Wooldridge, 2002), (Greene, 2003).
10
2.2.2.3 Dữ liệu
i) Nguồn dữ liệu
Trong nghiên cứu này NCS sử dụng dữ liệu doanh nghiệp được chiết từ bộ
Điều tra Doanh nghiệp (GES) do Tổng cục Thống kê (GSO) thực hiện trong giai
đoạn 2006 – 2014. Bộ dữ liệu điều tra doanh nghiệp cung cấp một nguồn thông tin
phong phu ở cấp độ doanh nghiệp, ngành, bao gồm: giá trị xuất nhập khâu, năm
thành lập, ngành hoạt động, hình thức sở hữu, cơ cấu vốn, cơ cấu việc làm, vùng
miền phân bố. Các thông tin này được khai thác để có một tập hợp dữ liệu về đặc
điểm của doanh nghiệp, ngành để sử dụng cho khung phân tích đã nêu trên.
Cường độ ô nhiễm được định nghĩa là: lượng ô nhiễm trên một đơn vị hoạt
động gây ra bởi các chất gây ô nhiễm. Sau đó, cường độ ô nhiễm được dùng làm
mức ô nhiễm ước tính, Hettige và cộng sự đã đưa ra nghiên cứu về cường độ ô
nhiễm năm 1996 (Hettige và cộng sự, 1996).
Cường độ ô nhiễm = Lượng ô nhiễm
Một đơn vị hoạt động gây ra ô nhiễm
ii) Xử lý dữ liệu
iii) Biến số và thước đo
* Biến phụ thuộc
Hệ thống IPPS sử dụng ba loại hệ số ô nhiễm, bao gồm: (i) các hệ số dựa vào
sản lượng; (ii) các hệ số dựa vào giá trị gia tăng; (iii) các hệ số dựa vào việc làm. Cả
ba loại hệ số trên đều được nhận thấy có tương quan cao với nhau. Nhưng ô nhiễm và
việc làm được nhận thấy có biến thiên cùng chiều nên các hệ số dựa vào việc làm
thường được dùng để ước tính ô nhiễm ở các nước đang phát triển. Điều này được
giải thích trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự năm 1995. Ngoài ra, hệ thống
IPPS được kiểm tra với bộ dữ liệu ngành ở Mỹ và ở Indonesia cho ô nhiễm nguồn
nước, nghiên cứu cho thấy sự thay đổi cao đối với cường độ ô nhiễm dựa trên hệ số
lao động. Mặc khác, bộ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO không có các thông tin
về sản lượng, giá trị gia tăng. Vì vậy trong luận án, NCS dựa vào việc làm để suy tính
giá trị ước tính tải lượng ô nhiễm .
Cường độ ô nhiễm = Lượng ô nhiễm (kg)
1.000 (Lao động)
Dựa trên công thức tính cường độ ô nhiễm, NCS sẽ tính tải lượng ô nhiễm.
Môi thành phần môi trường khác nhau thì tải lượng ô nhiễm sẽ khác nhau, vì chất
gây ô nhiễm khác nhau. Nhìn chung, tải lượng ô nhiễm được hiểu là: khối lượng
chất ô nhiễm có trong một đơn vị chất thải. Ví dụ: tải lượng ô nhiễm nước thải là
khối lượng chất ô nhiễm có trong một đơn vị nước thải.
Luận án sử dụng dữ liệu cường độ ô nhiễm công nghiệp (IPPS), cường độ ô
nhiễm bằng tải lượng ô nhiễm chia cho tổng lao động doanh nghiệp, vì vậy, tải
lượng được tính bằng:
11
Tải lượng ô nhiễm = Lượng ô nhiễm (kg) * Tổng lao động của doanh nghiệp
1.000 (Lao động)
Tải lượng ô nhiễm được lấy logarit trước khi đưa vào mô hình nghiên cứu.
Đối với môi chất ô nhiễm không khí, nước và các chất độc hại cho hơn 240 hóa
chất và kim loại, IPPS cung cấp một giá trị giới hạn thấp, giá trị giới hạn cao và
giá trị giới hạn trung vị. Trong nghiên cứu của WB áp dụng IPPS để tính ảnh
hưởng ô nhiễm từ các ngành công nghiệp năm 2008, đã sử dụng giá trị giới hạn
thấp của cường độ ô nhiễm, để áp dụng cho nhiều biện pháp bảo toàn của cường độ
ô nhiễm. Vì vậy, trong luận án này NCS cũng sử dụng giá trị giới hạn thấp của
cường độ ô nhiễm.
Cuối cùng, dựa vào nghiên cứu của Hettige và cộng sự (1995, trang 4) thì
“các cường độ ô nhiễm theo ngành luôn luôn có phân phối theo hàm số mũ, với
một ít ngành cường độ cao và nhiều ngành cường độ rất thấp”. Như vậy các giá trị
ước tính ô nhiễm nên được thực hiện ở càng chi tiết càng tốt. Vì vậy NCS sử dụng
các hệ số ô nhiễm ở cấp độ 4 chữ số, đây là cấp độ chi tiết nhất hiện có trong hệ
thống IPPS.
* Nhóm biến giải thich
Yếu tố đầu vào sản xuất được đo bằng K (nguồn vốn). Nguồn vốn (K) được
đại diện bởi nguồn vốn bình quân (trung bình cộng của nguồn vốn đầu năm và
nguồn vốn cuối năm) (Nguyễn Thị Cành, 2004; Bernanke và Gilchrist, 1996). Biến
số này được logarit hóa khi đưa vào mô hình hồi quy.
Halit (2003) ước tính tác động của tự do hóa thương mại đối với tăng trưởng
cho 120 quốc gia trong giai đoạn 1970-1997. Ông đã sử dụng hai phương pháp đo
độ mở của thương mại. Phương pháp đầu tiên được tính bằng cách sử dụng khối
lượng thương mại, bao gồm các tỷ lệ khác nhau của biến thương mại là: xuất khâu,
nhập khâu, tổng kim ngạch với GDP (Halit, 2003). Bên cạnh đó, Santos-Paulino
(2002) đã kiểm tra tác động của tự do hoá thương mại đối với tăng trưởng với 22
quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1972-1998. Ông đã sử dụng thước đo tăng
trưởng xuất khâu làm đại diện cho độ mở của nền kinh tế. Kết quả ước lượng bằng
phương pháp OLS cho thấy tăng trưởng xuất khâu nhanh hơn ở các nền kinh tế mở
(Paulino, 2002). Iscan Talan (1998) đã phân tích hiệu quả của sự mở cửa thương mại
đối với tăng trưởng năng suất tổng sản phâm cho các ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo ở Mexico trong giai đoạn 1970-1990. Để xác định hiệu quả năng suất của sự
tự do hóa thương mại, thước đo đại diện cho độ mở của thương mại chính là giá trị
xuất khâu. Kết quả là tự do hoá thương mại có những tác động tích cực đến tăng
trưởng năng suất (Talan, 1998).
Ngoài tình trạng thiếu đồng thuận về thước đo mức độ mở cửa của thương
mại, việc xây dựng một thước đo mở cửa thương mại phù hợp đoi hỏi phải có đầy
đủ dữ liệu. Do đó, việc lựa chọn thước đo tự do thương mại trong các nghiên cứu
12
thực nghiệm phụ thuộc vào sự sẵn có của số liệu và các mục tiêu nghiên cứu cụ
thể. Trong nghiên cứu này, để đo lường biến tự do thương mại, NCS sử dụng
thước đo, bao gồm:
(i) Tỷ lệ giữa giá trị xuất khâu với tổng doanh thu của ngành
(ii) Tỷ lệ giữa giá trị nhập khâu với tổng doanh thu của ngành
(iii) Tỷ lệ giữa tổng kim ngạch với tổng doanh thu của ngành
Trong đó, với cấp độ DN: giá trị xuất khâu, nhập khâu và tổng kim ngạch
được xác định bởi giá trị xuất khâu, nhập khâu và tổng kim ngạch của doanh
nghiệp thuộc cùng ngành tương ứng; tổng doanh thu được xác định bằng tổng
doanh thu của ngành cấp 4 tương ứng. Với cấp độ ngành: giá trị xuất khâu, nhập
khâu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu được xác định bằng tổng giá trị xuất khâu,
nhập khâu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu của ngành cấp 2 tương ứng.
Ngoài ra, luận án sử dụng biến tương tác là tích số giữa biến tự do hóa
thương mại với biến giả loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, ngành để
đánh giá ảnh hưởng của tự do hóa thương mại đến ô nhiễm môi trường so sánh
giữa loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh.
Nhóm biến kiểm soát đặc điểm của doanh nghiệp bao gồm: loại hình doanh
nghiệp, được chia thành doanh nghiệp Ngoài nhà nước (không bao gồm DN FDI)
(DN ngoài NN), doanh nghiệp FDI (DNFDI), doanh nghiệp trong nước (DNNN)
(Tổng cục thống kê, 2015); quy mô doanh nghiệp, được chia thành doanh nghiệp
lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ (Chính Phủ,
2009); ngành nghề kinh doanh và tuổi của doanh nghiệp.
Đối với biến loại hình doanh nghiệp, hai biến giả được sử dụng là DNNN và
DN ngoài NN. Trong đó, các biến số được gán giá trị bằng 1 nếu là đối tượng khảo
sát và 0 nếu khác. DN FDI được lựa chọn làm cơ sở để so sánh.
Đối với biến quy mô doanh nghiệp, ba biến giả được sử dụng là DN siêu
nhỏ, DN nhỏ và DN vừa. Trong đó, cá biến số được gán giá trị bằng 1 nếu là đối
tượng khảo sát và 0 nếu khác. DN lớn được lựa chọn làm cơ sở để so sánh.
Sở dĩ NCS sử dụng loại hình doanh nghiệp và quy mô doanh nghiệp làm nhóm
biến kiểm soát là vì: với loại hình doanh nghiệp, NCS tiến hành kiểm định theo giả
thuyết H3; con đối với quy mô doanh nghiệp, NCS tiến hành kiểm định theo giả
thuyết H4.
Tuổi doanh nghiệp được tính bằng hiệu số giữa năm điều tra khảo sát với
năm doanh nghiệp thành lập.
Djt là biến kiểm soát của ngành j theo thời gian t, bao gồm: ngành sạch và
ngành bân. Một biến giả được sử dụng là ngành sạch. Các biến số được gán giá trị
bằng 1 nếu là đối tượng khảo sát và 0 nếu khác. Ngành bân được lựa chọn làm cơ
sở để so sánh. Trên thế giới, cách tiếp cận “ngành sạch” và “ngành bân” được sử
dụng khá phổ biến. Đặc biệt là những nghiên cứu phân tích tác động của các hoạt
động sản xuất và chính sách thương mại tới môi trường. Theo nghiên cứu của Min
13
năm 1996, thì những ngành có chi phí giảm ô nhiễm trên một đơn vị sản lượng cao
thì được cho là ngành bân (Min, 1996). Theo Vutha và Jalilian (Vutha và
Jalilian.H, 2008), các ngành công nghiệp được phân loại dựa trên tổng lượng chất
thải độc hại thải ra môi trường nước, không khí và đất trên 1 triệu USD sản lượng.
Các ngành công nghiệp có tổng lượng chất thải độc hại ra môi trường lớn hơn
1.500 pound/ 1 triệu USD sản lượng là ngành bân nhất; từ 500 - 1.500 pound/1
triệu USD sản lượng là ngành bân trung bình; be hơn 500 pound/ 1 triệu USD sản
lượng là ngành ít bân (hay ngành sạch). Một phương pháp khác để phân biệt ngành
“bân” hay “sạch” là dựa vào cường độ ô nhiễm thực tế như trong nghiên cứu của
Wheeler và cộng sự năm 1998 (Mani và Wheeler, 1998). Trong nghiên cứu này,
những ngành có tải lượng ô nhiễm lớn là ngành “bân”, những ngành có tải lượng ô
nhiễm ít là ngành sạch. Cách phân loại này giup ước lượng các chênh lệch ô nhiễm
liên ngành đồng thời kiểm soát được các đặc điểm doanh nghiệp khác nhau thuộc
ngành. Từ những lý thuyết trên, luận án sẽ sử dụng phương pháp phân loại ngành
của Wheeler năm 1998. Theo đó, NCS chia tải lượng ô nhiễm ngành cấp 4 làm 3
khoảng, khoảng các ngành có tải lượng ô nhiễm lớn nhất là ngành bân và khoảng
các ngành có tải lượng ô nhiễm thấp nhất là ngành sạch.
Các nhân tố về mặt địa lý, 6 biến giả sẽ được sử dụng để đại diện cho 7 vùng
kinh tế của cả nước là thành phố trung ương, Đồng bằng Sông Hồng, Miền nui
phía Bắc, Duyên Hải, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long,
các biến giả được gán giá trị 1 nếu thuộc đối tượng nghiên cứu và 0 nếu khác,
trong đó thành phố trung ương được lựa chọn làm cơ sở để so sánh. Trong luận án
này, NCS sử dụng biến kiểm soát về mặt địa lý nhằm mục đích đánh giá quá trình
phân bố lực lượng sản xuất của Việt Nam trong quá trình tự do hóa thương mại.
1.2.3 Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
Để giải thích thêm cho các kết quả nghiên cứu thu được từ phương pháp
định lượng, NCS tiến hành phỏng vấn các chuyên gia với mong muốn có những
dữ liệu định tính để đối chiếu với kết quả nghiên cứu định lượng. NCS thực hiện
phỏng vấn hai nhóm chuyên gia: chuyên gia môi trường và chuyên gia thương
mại. Các chuyên gia được phỏng vấn là những người quản lý, tư vấn chính sách
pháp lý cho Chính phủ Việt Nam trong quản lý môi trường và thương mại. Câu
hỏi phỏng vấn là các câu hỏi mở, tập trung vào triết lý và mục tiêu của các chính
sách môi trường, thương mại trong tiến trình hội nhập, bảng câu hỏi được trình
bày trong phụ lục 4 của luận án.
14
CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI
TỚI Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN,
CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM
3.1 Thưc trạng tư do hóa thương mại ngành công nghiệp chê biên, chê tạo ở
Việt Nam
3.1.1 Quá trình cải cách thương mại của Việt Nam
3.1.2 Những yêu cầu về môi trường của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
trong thương mại quốc tế và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
3.1.3 Tình hình tự do hóa thương mại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở
Việt Nam
3.1.3.1 Thực trạng xuất nhập khẩu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt
Nam
Từ năm 2007 đến 2014, khoảng cách nhập siêu của ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo Việt Nam đang thu hẹp, đến năm 2014, cán cân xuất nhập của Việt
Nam đã gần cân bằng. Hàng hóa xuất khâu của Việt Nam tới các nền kinh tế thu
nhập thấp và trung bình rất đa dạng. Liên minh Châu Âu (EU) và Bắc Mỹ (Hoa
Kỳ và Canada) trở thành thị trường xuất khâu lớn của Việt Nam, chủ yếu là
hàng dệt may, giày dép và thủy sản. Mặc dù thị phần ở Bắc Mỹ, EU chiếm
bình quân không đến 20% tổng kim ngạch xuất khâu của Việt Nam, nhưng giá
trị xuất khâu đến hai thị trường này mang lại gần 50% tổng kim ngạch xuất
khâu của Việt Nam năm 2014.
3.1.3.2 Thực trạng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Doanh nghiệp FDI luôn là loại hình doanh nghiệp dẫn đầu về kim ngạch
xuất khâu (XK) của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
DN lớn cũng là những DN nhập khâu và tham gia thị trường nhập khâu
nhiều nhất, đạt mốc 50.000 triệu USD năm 2012.
3.1.3.3 Thực trạng thuế quan của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt
Nam
Hiện nay, để khuyến khích các doanh nghiệp, Chính phủ Việt Nam áp dụng
miễn thuế cho hầu hết các mặt hàng xuất khâu, một số rất nhỏ hàng hóa chịu thuế
xuất khâu là các loại tài nguyên.
3.2 Thưc trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo ở
Việt Nam
3.2.1 Thực trạng các chinh sách môi trường tác động tới ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo trên thế giới và ở Việt Nam
3.2.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở
Việt Nam
3.2.2.1 Ô nhiễm chất độc trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
15
Năm 2006 lượng chất độc của ngành chỉ ở mức 220 tấn, nhưng đến năm
2014 con số này đã tăng lên 366 tấn. Như vậy, thương mại và ô nhiễm chất độc
có mối quan hệ thuận chiều.
Lượng chất độc tăng đều trong tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. DN ngoài Nhà nước là loại hình DN thải ra
lượng chất độc cao nhất, hơn 200 tấn vào năm 2011
DN nhỏ là những DN gây ô nhiễm chất độc cao nhất cả về lượng thải và
bình quân
3.2.2.2 Ô nhiễm kim loại trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê, ô nhiễm kim loại trong ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo ở Việt Nam gia tăng trong suốt khoảng thời gian từ năm 2006 đến 2014.
DN ngoài Nhà nước là loại hình DN gây ô nhiễm kim loại nhiều nhất, tăng
từ 124 tấn năm 2006 lên 250 tấn năm 2011, sau đó giảm và giữ mức gần 220 tấn
DN lớn là những DN có tải lượng ô nhiễm kim loại lớn nhất, từ 134 tấn năm
2006 tăng lên 226 tấn năm 2014
3.2.2.3 Ô nhiễm nước trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Ô nhiễm nước trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam gia
tăng đều từ năm 2006 đến 2014.
DN ngoài Nhà nước là những DN gây ô nhiễm môi trường nước lớn nhất, tăng
từ 138 tấn năm 2006 lên 233 tấn năm 2011, sau đó giảm nhưng không đáng kể.
Ô nhiễm nước trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam chịu
sự tác động lớn của các DN thuộc quy mô DN lớn.
3.2.2.4 Ô nhiễm không khí trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Ô nhiễm môi trường không khí gia tăng trong quá trình tự do hóa thương
mại. DN ngoài Nhà nước là loại hình DN có tải lượng thải gây ô nhiễm không khí
nhiều nhất và tăng đều từ năm 2006 đến 2011, từ 408 tấn lên đến 671 tấn.
DN lớn là quy mô DN có tải lượng ô nhiễm nhiều nhất và bình quân ô
nhiễm cũng lớn nhất.
3.3 Đánh giá tác động cua tư do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chê biên, chê tạo ở Việt Nam
3.3.1 Mô tả thống kê và tương quan biến
3.3.1.1 Mô tả thống kê
3.3.2 Kết quả ước lương và phân tích ảnh hưởng của tự do hóa thương mại tới ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cấp độ doanh nghiệp
ở Việt Nam
Tự do hóa thương mại có tác động tích cực giup giảm thiểu ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Các biến về xuất-nhập
khâu và tổng kim ngạch có tác động ngược chiều với lượng thải trong hầu hết các
mô hình đánh giá. Điều này cho thấy khi xuất- nhập khâu và tổng kim ngạch gia
16
tăng, thì lượng thải các dạng chất độc, kim loại, nước và không khí từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng giảm.
Tại cùng mức độ tự do hóa thương mại thì doanh nghiệp (DN) FDI gây ô nhiễm
môi trường nhiều hơn DN Ngoài Nhà nước và DN Nhà nước. Việt Nam dường như
đang là “nơi tru ân ô nhiễm” thông qua các dự án FDI.
3.3.3 Kết quả ước lương và phân tích về ảnh hưởng của tự do hóa thương mại
tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cấp độ
ngành ở Việt Nam
Luận án đã phân loại ngành sạch, ngành bân dựa vào bộ dữ liệu cường độ ô
nhiễm công nghiệp của Ngân hàng thế giới và bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp.
Phân loại ngành sạch, ngành bân chi tiết đến cấp độ 4 chữ số theo mã VSIC là bộ
dữ liệu chi tiết nhất hiện nay.
Tóm lại, kết quả ước lượng cấp ngành củng cố thêm cho kết quả ước lượng cấp
doanh nghiệp rằng tự do thương mại không làm trầm trọng thêm vấn đề ô nhiễm môi
trường ở Việt Nam. Ngành bân là ngành gây ô nhiễm môi trường với tốc độ lớn hơn
ngành sạch. Đặc biệt, Việt Nam đang ưu tiên đầu tư, mở rộng quy mô các doanh nghiệp
thuộc ngành bân. Đây chính là hướng chuyển dịch cơ cấu đáng lo ngại ở nước ta. Vì
vậy, Chính phủ cần có chiến lược, lựa chọn ngành để hướng tới phát triển bền vững.
3.4 Đánh giá kêt quả chung
3.4.1 Kêt quả nghiên cưu tác động tư do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chê biên, chê tạo ở Việt Nam
Tự do hóa thương mại không làm cho vấn đề môi trường trở nên trầm trọng
hơn là kết quả nghiên cứu định lượng. Điều này cũng được sự đồng thuận của các
chuyên gia mà NCS phỏng vấn. Bởi vì, trong quá trình tự do hóa thương mại các
quy định, chính sách môi trường nhận được sự quan tâm và ưu tiên trong cả hai
lĩnh vực, thương mại và môi trường. Những chính sách thương mại và môi trường
được thực hiện dưới góc độ Chiến lược, chương trình hành động quốc gia, quy
định, rào cản, pháp lệnh…
Trong quá trình tự do hóa thương mại chính sách thương mại, môi trường đều
được ưu tiên ở mức độ cao và qua các giai đoạn: Ban hành chính sách, thực thi, bắt
buộc và tự nguyện. Chính sách môi trường, thương mại được ưu tiên, đổi mới qua các
giai đoạn.
Tự do hóa thương mại giúp nhận thức môi trường tăng lên, Việt Nam học hỏi được
nhiều kinh nghiệm của các quốc gia, cũng như đáp ứng được các yêu cầu của FTA
3.4.2 Hạn chê cua tư do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành
công nghiệp chê biên, chê tạo ở Việt Nam
Kết quả định lượng và phỏng vấn cho thấy, tự do hóa thương mại thuc đây
quá trình sản xuất gia tăng để đáp ứng nhu cầu xuất khâu, vì vậy gia tăng khả năng
khai thác tài nguyên hoặc nhập khâu nhiên liệu. Mặt khác, gia tăng sản lượng sẽ
gia tăng áp lực lên môi trường. Bởi vì, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có
17
khả năng tài chính để đổi mới, đầu tư công nghệ.
Tự do thương mại thu hut đầu tư FDI vào Việt Nam với tốc độ gia tăng
mạnh mẽ. Và lý thuyết đã chứng minh ô nhiễm dư cư từ các quốc gia phát triển
sang các quốc gia đang phát triển thông qua kênh FDI. Kết quả thực nghiệm ở
nghiên cứu này cũng cho thấy điều đó. Như vậy, FDI cũng gây ra tác động tiêu cực
cho môi trường ở Việt Nam.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Với mục tiêu phát triển kinh tế và trở thành nước công nghiệp vào năm
2020, vì vậy, một số động cơ khuyến khích kinh tế của Việt Nam ảnh hưởng đến
môi trường.
Việt Nam đang thu hut nguồn vồn FDI, vì vậy, DN FDI được ưu ái hơn về
chính sách đầu tư. Thông thường các dự án FDI là các dự án quy mô lớn, nhưng lại
đang tập trung ở những ngành gây ô nhiễm sâu. Mặt khác, các dự án FDI được
phân biệt đối xử với chính sách môi trường.
Về mặt công nghệ, hệ thống quy chuân môi trường Việt Nam chưa kiểm
soát hết giá trị thông số cao, số lượng thông số ít hơn các nước. Đánh giá công
nghệ không có sự sàng lọc, công nghệ sản xuất không có rào cản, ngưỡng để kiểm
soát. Việt Nam cần ưu tiên kiểm soát các ngành gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, cần có các yêu cầu về bảo vệ môi trường cao và tập trung vào các ngành gây ô
nhiễm môi trường lớn.
Cơ sở hạ tầng và sự phát triển thiếu quy hoạch cũng là nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường cục bộ giữa các vùng trong cả nước. Vì vậy, cần có các chính
sách để phân bổ lại các khu công nghiệp trên cả nước.
CHƯƠNG 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỂ GIẢM THIỂU Ô
NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ
TẠO TRONG BỐI CẢNH TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
4.1 Bối cảnh trong nước và quốc tê liên quan đên thương mại và môi trường
4.2 Định hướng giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chê
biên, chê tạo trong bối cảnh tư do hóa thương mại ở Việt Nam
Trong bối cảnh tự do thương mại, Việt Nam lồng ghép các nội dung bảo vệ
môi trường vào Chiến lược xuất nhập khâu hàng hóa ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo, lựa chọn mô hình, gắn tăng trưởng với chống ô nhiễm môi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu hướng tới quan điểm phát triển bền vững.
4.3 Một số giải pháp chính sách để giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở Việt Nam
4.3.1 Hoàn thiện các chinh sách môi trường và thương mại trong bối cảnh tự do
hóa thương mại
Kết quả thực nghiệm cho thấy, tự do hóa thương mại không làm trầm trọng
thêm vấn đề ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt
18
Nam. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng được cơ hội của quá trình tự do hóa thương
mại để phát triển kinh tế nhưng đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực
của nó đối với các vấn đề xã hội và môi trường. Do đó, cần thiết phải có sự phối
hợp chính sách trong phát triển thương mại và bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn
đầu của quá trình công nghiệp hóa.
Về phía Chính phủ:
- Điều chỉnh các chính sách thương mại phù hợp với các chuân mực thương
mại quốc tế;
- Có các biện pháp hữu hiệu và kịp thời ngăn ngừa và đối phó với nguy cơ ô
nhiễm môi trường qua biên giới;
- Bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học và các nguồn tài nguyên không tái tạo
khác, hạn chế ô nhiễm do tăng trưởng nóng của nền kinh tế;
- Đáp ứng các yêu cầu môi trường đối với sản phâm để nâng cao khả năng
tiếp cận thị trường;
- Quản lý chặt chẽ thị trường trong nước để hạn chế đến mức tối đa ảnh
hưởng đối với môi trường do đây mạnh sản xuất;
- Thực thi triển khai áp dụng hệ thống quản lý môi trường của doanh nghiệp
chặt chẽ và quết liệt;
- Hợp nhất các mục tiêu môi trường vào công tác kế hoạch hóa của quốc gia,
các ngành, các tỉnh, cũng như kế hoạch hóa phát triển các đô thị;
- Chuyển dần quản lý môi trường từ chủ yếu bằng các mệnh lệnh hành chính
sang, về cơ bản, các biện pháp kinh tế. Quản lý bằng mệnh lệnh hành chính nên
được áp dụng đối với những khu vực mà tình trạng ô nhiễm đã lên tới mức báo
động;
Về phía doanh nghiệp:
- Thường xuyên cập nhật thông tin về các tiêu chuân kỹ thuật môi trường từ
các nước nhập khâu;
- Chủ động đầu tư, đổi mới công nghệ, xây dựng quy trình sản xuất chế
biến đảm bảo các tiêu chuân môi trường trong nước và quốc tế;
- Triển khai áp dụng các hệ thống quản lý tiêu chuân chất lượng theo tiêu
chuân quốc tế và đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường nhằm nâng cao khả năng
tiếp cận thị trường xuất khâu, tăng cơ hội tham gia vào chuôi cung ứng bền vững
toàn cầu.
Về phía người lao động và người tiêu dùng:
Cần nâng cao nhận thức cộng đồng, người lao động trong công tác bảo vệ
môi trường là điều cần thiết. Vì yếu tố đầu vào lao động ảnh hưởng lớn tới ô nhiễm
môi trường trong ngành công nghiệp sản xuất. Do đó, cần có những chương trình
giáo dục, đào tạo, truyền thông bắt buộc về bảo vệ môi trường cho người lao động.
Những chính sách để hô trợ người tiêu dùng tiếp cận, sử dụng những sản
phâm thân thiện với môi trường. Một số sản phâm thân thiện với môi trường nhưng
19
chỉ dùng để xuất khâu mà chưa đến được với người dân Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam cần xây dựng hài hoa giữa chính sách thương mại và môi
trường đáp ứng các quy định về môi trường trong thương mại quốc tế trong các
chiến lược. Chiến lược xuất nhập khâu hàng hoá giai đoạn 2011 - 2020, định
hướng tới năm 2030 theo Quyết định 950/QĐ-TTg ngày 25/7/2012 đã đề ra mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khâu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các
sản phâm xuất khâu có giá trị gia tăng cao, sản phâm chế biến sâu, sản phâm có
hàm lượng công nghệ cao, sản phâm thân thiện với môi trường và việc giảm dần
nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản thô.
Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiên dùng bền vững giai
đoạn đến 2020 và tầm nhìn đến 2030 theo quyết định số 76/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ban hành ngày 11 tháng 01 năm 2016 đưa ra mục tiêu về xuất khâu bền
vững với việc nâng dần tỷ trọng sản phâm, dịch vụ thân thiện môi trường trong cơ cấu
xuất khâu.
4.3.2 Tái cơ cấu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo theo chiều hướng hạn
chế phát triển các ngành công nghiệp bẩn
Trong quá trình tự do hóa thương mại, đề án tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt
Nam cần hạn chế phát triển các ngành công nghiệp bân. Theo mô hình tăng trưởng
và theo định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 cũng như kết quả
nghiên cứu thì Việt Nam đang ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp “bân” vì
vậy Chính sách quản lý môi trường cần ưu tiên quản lý và can thiệp đối với các
ngành công nghiệp bân. Theo kết quả đánh giá, đã xác định được thành phần môi
trường ô nhiễm, ngành ô nhiễm và khu vực ô nhiễm trong ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo. Vì vậy, để giải quyết các vấn đề môi trường cần tiếp cận dưới nhu
cầu của quốc gia để xác định thành phần ô nhiễm quan trọng nhất, các doanh
nghiệp, khu vực cho sự ưu tiên. Với nguồn lực và khả năng có hạn Chính phủ
không thể thực hiện khắp cả nước mà cần phải có sự ưu tiên. Các ngành gây ô
nhiễm nhất cần phải có một khuôn khổ chính sách tốt và chương trình xử lý tại
chô. Bên cạnh đó cũng đoi hỏi sự củng cố, liên tục, điều chỉnh và quản lý một cách
hiệu quả hơn các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng. Do vậy, với nguồn lực và tài
chính có hạn nên ưu tiên tập trung xử lý và kiểm soát ô nhiễm độc hại, vì đây là
vấn đề nghiêm trọng không chỉ hiện tại mà con là tương lai của Việt Nam. Để xử
lý và kiểm soát độc hại trong cả nước thì Chính phủ sẽ phải chi một khoản tiền rất
lớn nhưng cần thiết và nếu so với vấn đề sức khỏe, năng suất mà con người phải
đối mặt với ô nhiễm thì đây con là chi phí ít tốn kem hơn.
Thực tế cho thấy, cơ cấu hàng xuất khâu chậm được cải thiện theo hướng kết
hợp hài hòa giữa phát triển xuất khâu và bảo vệ môi trường. Qúa trình chuyển dịch
cơ cấu xuất khâu của Việt Nam trong thời gian qua chưa thật bền vững. Tỷ trọng
hàng thô, sơ chế, giá trị gia tăng thấp còn cao. Việt Nam mới tận dụng được lợi thế
so sánh sẵn có để phát triển xuất khâu mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh để
20
phát triển xuất khâu.
Bên cạnh đó, khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thân
thiện với môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Bên cạnh đó cần
xử lý nghiêm những doanh nghiệp sử dụng, nhập khâu công nghệ lạc hậu, gây tổn
hại đến môi trường.
Việt Nam chưa có chính sách, biện pháp thỏa đáng nhằm khuyến khích
doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phâm và khả năng cạnh tranh của hàng hóa
xuất khâu. Việc nâng cao chất lượng sản phâm, đáp ứng các yêu cầu môi trường
đối với hàng hoá xuất khâu đang là thách thức đối với các doanh nghiệp nước ta
hiện nay.
4.3.3 Đặt chinh sách môi trường trong đàm phán FDI
Việt Nam cần có các chính sách tăng cường quản lý môi trường trong chính
sách thu hut vốn đầu tư cũng như các DN FDI. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy,
Việt Nam đang là quốc gia “tru ân ô nhiễm” thông qua các dự án FDI. Việt Nam
đang theo đuổi mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, vì vậy, các
chính sách khuyến khích kinh tế, thu hut đầu tư nước ngoài chưa thực sự chu trọng
đến công tác bảo vệ môi trường. Thật vậy, Việt Nam cần hạn chế những dự án FDI
gây ô nhiễm môi trường sâu. Vị trí địa lý để thực hiện những dự án FDI cũng là
điều rất quan trọng, quy hoạch tổng để phong ngừa các sự cố môi trường xảy ra.
Bên cạnh đó, cần thâm định công nghệ trước quá trình thực hiện dự án, tránh
những công nghệ lạc hậu đội lốt đầu tư. Mặt khác, trên thực tế, nước sở tại không
có thâm quyền trong công tác quản lý môi trường ở các doanh nghiệp FDI cũng là
bất cập rất lớn.
Ngoài ra, cần co chính sách, tỷ lệ ký quỹ, bảo hiểm đối với các dự án khai
thác khoáng sản là rất cần thiết để hạn chế sự cạn kiệt tài nguyên.
Chính phủ có nhiều biện pháp tập trung chỉ đạo nhưng do nhiều nguyên
nhân khác nhau, thực trạng ô nhiễm môi trường, những yếu kem, thách thức vẫn
hiện hữu, chưa có biện pháp giải quyết tập trung ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là các
địa phương đang là cơ quan quản lý, cấp giấy phep trực tiếp các dự án đầu tư.
Thực tế ở nước ta thời gian qua cho thấy việc cấp phep cho các dự án đầu tư nước
ngoài (FDI) đã được phân cấp mạnh về các tỉnh và không ít tỉnh đã chạy theo tốc
độ tăng trưởng GDP cao và chấp nhận các dự án FDI khai thác tài nguyên giá rẻ,
với công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, bị người dân phản
ứng mạnh mẽ. Ngoài ra phải có chế tài và khung rõ ràng, chấm dứt ưu đãi tài
nguyên giá rẻ, tăng cường giám sát các doanh nghiệp FDI về tuân thủ các tiêu chí
bảo vệ môi trường khói bụi, nước thải, tiếng ồn ngay từ khâu thiết kế và lựa chọn
công nghệ đến thi công vận hành.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai tro quan trọng trong sự tăng trưởng
kinh tế của đất nước, thể hiện ở việc chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khâu, tạo ra
nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng công
21
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng để phát triển bền vững thì cần phải biết nói không
với những dự án FDI có tác động xấu đến môi trường. Việc thu hut đầu tư nước
ngoài phải giảm thiểu tác động tới môi trường.
4.3.4 Hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo theo hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Mặc dù, chính sách thuế quan của Việt Nam đã sửa đổi theo hướng hội nhập,
thuc đây xuất nhập khâu, góp phần tăng trưởng kinh tế, đồng thời đã có tác dụng
nhất định đối với việc bảo vệ môi trường. Hầu hết các mặt hàng xuất khâu của
nước ta được hưởng mức thuế xuất khâu gần như bằng không (0%).
Việt Nam phải từng bước lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường vào các
chính sách phát triển được xác định trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoach,
chương trình phát triển xuất nhập khâu.Trong chính sách xuất khâu chú trọng đến
các sản phâm tiêu thụ ít nguyên liệu, năng lượng, ít gây ô nhiễm.Nhập khâu hàng
hóa chú trọng nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản
xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khâu, thúc
đây chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Áp lực cạnh tranh trên thị trường xuất khâu đã có những tác động tích cực
buộc các doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ và phương thức sản xuất
thân thiện môi trường, xuất khâu tạo thêm nguồn lực tài chính để phục hồi và tái
tạo môi trường. Nhập khâu hàng hóa đã chú trọng nguyên nhiên vật liệu, máy móc
thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất trong nước.Ý thức chấp hành các quy định
môi trường của doanh nghiệp đã được nâng lên, số doanh nghiệp triển khai áp
dụng tiêu chuân ISO 14000 vào quá trình sản xuất ngày càng nhiều.
Tuy nhiên, chính sách thuế quan chưa xác định đung giá trị thực của tài
nguyên trong cấu thành sản phâm xuất khâu, mức thuế xuất khâu đối với một số
mặt hàng chưa có tác dụng răn đe, hiện tượng xuất khâu khoáng sản ồ ạt vẫn con
xảy ra.Nhiều loại tài nguyên khác hẳn nhau về giá trị cũng như mức độ tác động
môi trường vẫn được xếp cùng một nhóm và chịu một khung thuế.
Chính vì vậy, NCS đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách xuất nhập
khâu theo hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững:
Việt Nam cần hoàn thiện chính sách thuế theo hướng kết hợp điều chỉnh
chính sách thuế xuất nhập khâu và hệ thống thuế nội địa nhằm đáp ứng các yêu cầu
cam kết hội nhập và bảo vệ môi trường.
Việt Nam cần hoàn thiện các chính sách phi thuế theo nguyên tắc không bóp
meo thương mại và nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
Việt Nam cần nghiên cứu xây dựng các quy định và tiêu chuân đối với
sản phâm hàng hóa nhập khâu, hình thành rào cản kỷ thuật của Việt Nam nhằm
hạn chế và ngăn ngừa việc nhập khâu hàng kem chất lượng.
Bộ Công thương cần nghiên cứu hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại
của các nước đối với hàng xuất khâu của Việt Nam; tuyên truyền nâng cao nhận
22
thức của các nhà sản xuất, xuất khâu về các loại rào cản của các nước nhập khâu
nhằm đây mạnh hoạt động xuất khâu, cải thiện chất lượng hàng hóa, tránh rủi ro
cho doanh nghiệp khi thực hiện các hợp đồng xuất khâu.
4.3.5 Quy hoạch vùng gắn liền với công tác bảo vệ các thành phần môi trường
ưu tiên
Chính phủ Việt Nam cần có chính sách quy hoạch vùng. Theo kết quả
nghiên cứu, Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long
là ba khư vực được nhận thấy ô nhiễm nhất. Để giải bài toán quy hoạch, không tập
trung vào ba khu vực nói trên thì Chính phủ cần có giải pháp chung cho các khu
vực kinh tế khác, như: giải pháp về huy động nguồn lực, định hướng đầu tư vào
các ngành chủ lực và dự án trọng điểm, ưu đãi về thuế đất, tạo dựng sự phối hợp và
liên kết phát triển trong vùng. Bên cạnh đó, các khu vực còn lại cần phải tạo lập
môi trường đầu tư hấp dẫn, có chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhận lực địa
phương.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần có chính sách quản lý môi trường ưu tiên đối với
các thành phần môi trường. Trong luận án này, NCS lựa chọn ô nhiễm chất độc, ô
nhiễm kim loại, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí để đánh giá tác động của tự
do hóa thương mại lên ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Kết quả thực nghiệm cũng như thực trạng đều cho thấy, tình trạng ô nhiễm của bốn
thành phần môi trường này đang là vấn đề báo động ở Việt Nam. Tải lượng ô
nhiễm của bốn thành phần này gia tăng cùng với quá trình tự do hóa thương mại.
Vì vậy, cần nâng tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, nước thải sinh
hoạt và công nghiệp đung quy chuân; đối với khí thải cần giám sát công nghệ, quá
trình xử lý các doanh nghiệp, khu công nghiệp chặt chẽ hơn.
Thực trạng cho thấy, quá trình công nghiệp hóa đang làm cho nguồn nước
mặt từ sông, ao hồ của Việt Nam lâm vào tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Rất nhiều
hệ thống sông đã trở thành sông chết. Mặc dù Chính phủ đã có đề án cải thiện các
hệ thống sông Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai, nhưng các hệ thống sông này hiện tại
vẫn nằm trong tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong báo cáo phân tích hiện trạng môi trường không khí xung quanh Bộ
Tài nguyên và Môi trường (2014), cho thấy, ô nhiễm không khí tập trung ở các đô
thị phát triển, các khu, cụm công nghiệp. Một số ngành công nghiệp như ngành
khai khoáng, nhiệt điện, xi măng…đang hoạt động vẫn tiếp tục phát thải vào môi
trường không khí một lượng bụi lớn, đây là những ngành được chia vào nhóm
ngành công nghiệp bân trong luận án này (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014).
Vì vậy sự cần thiết đối với Chính phủ Việt Nam là phải ưu tiên tập trung giải
quyết những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay như nước và không khí.
4.4 Kiên nghị
Việt Nam cần các chính sách hô trợ các nhà sản xuất đổi mới công nghệ,
định hướng phát triển vào các thị trường khó tính, đoi hỏi chất lượng cao. Ngoài
23
các hoạt động xuc tiến thương mại thông thường, con rất cần sự trợ giup của Nhà
nước trong việc đàm phán để ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa
phương với các quốc gia, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam nói chung và hàng
công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế
giới; kịp thời trợ giup pháp lý cho doanh nghiệp khi xảy ra các tranh chấp thương
mại. Lĩnh vực đầu tư, không đầu tư dàn trải vào tất cả các ngành, các lĩnh vực; tập
trung tối đa vào một số ngành, lĩnh vực, sản phâm chủ yếu nhằm thuc đây tăng
trưởng, xây dựng thương hiệu mạnh và chô đứng vững chắc trên thị trường trong
nước và nước ngoài, hạn chế mở rộng quy mô các ngành công nghiệp bân. Tiếp tục
đây mạnh thu hut đầu tư nước ngoài nhưng cần có chính sách quản lý môi trường,
đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý. Có chính sách ưu tiên thu hut những nhà đầu
tư chiến lược, những dự án có quy mô lớn trong ngành công nghiệp sạch, công
nghệ cao, công nghệ sạch, sản xuất hàng xuất khâu, công nghiệp hô trợ.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới nói chung và công nghiệp nói riêng
đang phát triển mạnh mẽ, nhất là lĩnh vực khoa học và công nghệ đã có những
bước tiến vượt bậc, để phát triển, Việt Nam cần phải đổi mới toàn diện, sâu sắc cả
nhận thức lý thuyết lẫn hành động chính sách về cơ cấu kinh tế, khoa học công
nghệ, quản lý kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì việc tăng cường hội
nhập kinh tế quốc tế, thuc đây tự do hóa thương mại với các quốc gia trên thế giới
được xem là bước đi có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển
nên kinh tế thị trường ở Việt nam.
Nghiên cứu thực nghiệm của luận án đánh giá tác động của tự do hóa thương
mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam đã
chỉ ra rằng, hầu hết các biến của tự do thương mại đều có ý nghĩa thống kê ở mức
10%. Chứng tỏ rằng, hầu hết những thay đổi của tự do thương mại đều ảnh hưởng
đến ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Trước hết là chỉ tiêu tỷ lệ xuất khâu, tỷ lệ nhập khâu và tỷ lệ tổng kim ngạch
có tác động ngược chiều với ô nhiễm môi trường ở cả cấp doanh nghiệp cũng như
cấp độ ngành. Kết quả này đung với thực tiễn, bởi khi tham gia các hiệp định
thương mại quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao công nghệ, chất
lượng sản phâm để xuất khâu những sản phâm đạt tiêu chuân với thị trường quốc
tế, người tiêu dùng khắt khe. Như vậy, tự do hóa thương mại không làm trầm trọng
thêm vấn đề môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
Kết quả này không ủng hộ giả thuyết H1 cũng như các nghiên thực nghiệm trước
đây ở Việt Nam.
Thật vậy, kết quả nghiên cứu trong luận án này nhận thấy kênh đầu tư là tác
nhân gây ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp trong quá trình tự do hóa
thương mại ở Việt Nam. Bởi vì, DN FDI là doanh nghiệp có giá trị xuất khâu lớn
24
nhất, đồng thời cũng là loại hình DN gây ô nhiễm môi trường lớn nhất trong hầu
hết thành phần của môi trường. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế, ủng hộ
giả thuyết H3 và một lần nữa ủng hộ lý thuyết các nước đang phát triển là “nơi tru
ân ô nhiễm” của Ederington và cộng sự; Rober Hoffmann; Grossman và Krueger.
Bên cạnh đó, kết quả ước lượng trong luận án cho thấy, DN lớn là DN gây ô
nhiễm môi trường nhiều nhất trong hầu hết các thành phần môi trường được xét
đến. Kết quả này ủng hộ giả thuyết H4. Mặc dù, DN lớn chỉ chiếm tỷ lệ 6% trong
tổng số DN ở Việt Nam và DN thuộc ngành bân. Vì vậy, Việt Nam không nên dựa
vào lợi thế so sánh của mình để tăng quy mô doanh nghiệp. Thực tế, các doanh
nghiệp có quy mô lớn ở Việt Nam như: dệt may, giày da, hóa chất, sắt thep… là
những doanh nghiệp phát triển dựa vào nguồn lao động giá rẻ. Do đó, ngoài chính
sách vĩ mô để quản lý đầu tư, công nghệ, chiều sâu thì các quy định về xử lý chất
thải tại các khu công nghiệp và người lao động cũng rất cần thiết để có thể giúp
giảm ô nhiễm công nghiệp.
Mặt khác, ở cấp độ ngành, kết quả ước lượng của luận án cho thấy, tốc độ
gây ô nhiễm môi trường của ngành bân lớn hơn rất nhiều lần ngành sạch trong
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Kết quả này phù hợp với lý
thuyết kinh tế và ủng hộ giả thuyết H2. Để thực hiện mục tiêu trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách cơ
cấu ngành hợp lý. Bởi theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm này, Việt Nam đang
thuc đây xuất khâu hàng hóa ở những ngành bân. Thật vậy, dệt may, sản xuất
thép, sản xuất giấy, sản xuất xi măng… là những ngành có tỷ lệ hàng hóa xuất
khâu lớn ở Việt Nam. Như vậy, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách
để cải cách thương mại song song với nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Cuối cùng, khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long
và Đông Nam Bộ được nhận thấy là những vùng ô nhiễm nhất ở Việt Nam.
Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách quy hoạch lại các khu công nghiệp,
khuyến khích các vùng kinh tế khác phát triển. Song song với điều này thì
Chính phủ cũng cần có các chính sách, chế tài để khắc phục môi trường hiện
trạng ở các khu công nghiệp.
Tóm lại, để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam cần thực hiện đồng bộ ở ba cấp là Chính
phủ, ngành, doanh nghiệp.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2017), Tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi
trường ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo,
Số 15, May-17
2. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Chu Thị Mai Phương (2017), Ô nhiễm không khí từ
ngành công nghiệp sản xuất ở Việt Nam trong quá trình tự do hóa thương mại và hội
nhập, Hội thảo cấp trường “Hội nhập và Tăng trưởng bao trùm ở Khu vực Châu Á
Thái bình dương”, 2017
3. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Chu Thị Mai Phương (2017), Impact of trade
liberalization and FDI on Environmental pollution in Vietnam manufacturing
industry , The 2nd Kobe University - Foreign Trade University Cooperation
Symposium, Kobe University, Japan.
4. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Chu Thị Mai Phương (2017), Impact of trade
liberalization and FDI on Water in Vietnam Manufacturing industry, 13th
International Conference on Humanities and Social Sciences (IC-HUSO2017),
Thailand.
5. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Chu Thị Mai Phương (2017), The impact of green
investing on the performances of enterprises in Vietnam: a study using both
quantitative and qualitative methods, 13th International Conference on Humanities
and Social Sciences (IC-HUSO2017), Thailand.
6. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Đinh Đức Trường (2016), Effects of Trade Liberalisation
on the Environment in the Manufacturing Sector in Vietnam, 12th International
conference on Humanities and Social Siences (IC-HUSO) 2016.14-15 /11/2016
7. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Chu Thị Mai Phương (2016), Trade and environment in
the field of fisheries: the situation in Vietnam and lessons from some ASEAN
countries. International conference "Beyond AEC: Implications for Co-operation
among ASEAN +6", 2016