gia hÀ khoa xà vÀ nhÂn · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân...

227
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC HỘI VÀ NHÂN VĂN ------- ------- TRẦN THỊ THU HOÀI SBIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945 LUẬN ÁN TIẾN CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2012

Upload: others

Post on 02-Jan-2020

6 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------- -------

TRẦN THỊ THU HOÀI

SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ

Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2012

Page 2: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------- -------

TRẦN THỊ THU HOÀI

SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ

Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945

Chuyên ngành : Chính trị học

Mã số : 62 31 20 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. Bùi Thanh Quất

HÀ NỘI - 2012

Page 3: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. TỔNG QUAN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH

TRỊ, BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ ...................................................................... 8

1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu và tình hình nghiên cứu ......................... 8

1.1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu ...................................................................... 8

1.1.2. Tổng quan các vấn đề đã được nghiên cứu .......................................... 23

1.2. Một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị .................... 26

1.2.1. Quan niệm về chính trị, biến đổi chính trị ............................................ 26

1.2.2. Chính trị Việt Nam trong lịch sử, biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858

đến 1945 - Một số nhận thức chung .................................................... 39

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 47

Chương 2. SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ CHÍNH TRỊ

PHONG KIẾN SANG CHÍNH TRỊ THỰC DÂN - PHONG KIẾN ........ 49

2.1. Quá trình và nội dung biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến

sang chính trị thực dân - phong kiến ............................................... 49

2.1.1. Lực lượng nắm giữ, ảnh hưởng tới quyền lực nhà nước gắn với kiểu và

hình thức nhà nước ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược .... 49

2.1.2. Quá trình thay đổi lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt gắn với

thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược . 53

2.2. Nguyên nhân biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang chính

trị thực dân - phong kiến .................................................................. 69

2.2.1 Nguyên nhân trực tiếp .......................................................................... 69

2.2.2. Nguyên nhân sâu xa ............................................................................ 80

2.3. Việc xác lập các cơ sở cho sự tồn tại của chính trị thực dân - phong

kiến .................................................................................................... 90

Page 4: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

2.3.1. Thiết lập các công cụ bảo vệ chính quyền ............................................ 90

2.3.2. Xác lập cơ sở kinh tế cho sự cai trị thuộc địa ....................................... 95

2.3.3. Xác lập cơ sở tư tưởng, văn hoá cho sự cai trị thuộc địa .................... 105

2.3.4. Xác lập cơ sở xã hội cho sự cai trị thuộc địa ...................................... 113

Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 127

Chương 3. SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ TỪ CHÍNH TRỊ THỰC DÂN

PHONG KIẾN SANG CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ NHÂN DÂN ............... 129

3.1. Quá trình lựa chọn kiểu nhà nước cho bài toán độc lập ở Việt Nam

từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX .................................... 129

3.1.1. Khuynh hướng tái lập kiểu nhà nước phong kiến cuối thế kỷ XIX ..... 129

3.1.2. Khuynh hướng xác lập kiểu nhà nước tư sản đầu thế kỷ XX .............. 131

3.1.3. Khuynh hướng lựa chọn kiểu nhà nước XHCN đầu thế kỷ XX .......... 143

3.2. Quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản và sự

chuẩn bị các tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà nước

mới ở Việt Nam ............................................................................... 174

3.2.1. Quá trình nhận thức từ nhà nước công nông binh đến nhà nước dân chủ

nhân dân và hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản ......................... 174

3.2.2. Chuẩn bị các hình thức tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà

nước mới ở Việt Nam ....................................................................... 178

3.3. Quá trình xác lập chính trị dân chủ nhân dân thay thế chính trị

thực dân - phong kiến ..................................................................... 179

3.3.1. Sự thay thế lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước từ thực dân phong

kiến sang nhân dân Việt Nam ........................................................... 179

3.3.2. Xác lập các yếu tố của một nền chính trị mới .................................... 188

3.3.3. Ý nghĩa và hệ quả của sự biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong

kiến sang chính trị dân chủ cộng hoà ................................................ 195

Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 201

KẾT LUẬN ............................................................................................... 203

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN ................................................................................................. 207

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 208

Page 5: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ Viết tắt

Chủ nghĩa tư bản - CNTB

Tư bản chủ nghĩa - TBCN

Chủ nghĩa thực dân - CNTD

Chủ nghĩa đế quốc - CNĐQ

Chủ nghĩa xã hội - CNXH

Xã hội chủ nghĩa - XHCN

Chủ nghĩa cộng sản - CNCS

Cộng sản chủ nghĩa - CSCN

Giai cấp công nhân - GCCN

Giai cấp tư sản - GCTS

Page 6: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận án

Chọn vấn đề “ Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945” làm đề tài

nghiên cứu và viết công trình luận án tiến sĩ chính trị học, tác giả xuất phát từ

những căn cứ sau đây:

Trước hết, xuất phát từ nhu cầu phát triển của chính trị học ở Việt Nam.

Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người. “Chính trị đụng

chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi

mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất

nghiêm túc, ... bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện

dân chủ” [24,tr.54]. Nói đến chính trị là nói đến “vận mệnh thực tế của hàng triệu

con người” [79,tr.150]. Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, ngày nay,

chính trị đang trở thành lĩnh vực hoạt động ngày càng có vai trò quan trọng trong

việc tác động trực tiếp đến sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Lịch sử Việt Nam

cũng như lịch sử thế giới đã cho thấy: “Ở mỗi bước ngoặt lịch sử của mỗi quốc gia

dân tộc, trước những cơ may và những thử thách của lịch sử, sự hưng thịnh và suy

vong của quốc gia dân tộc phụ thuộc vào các giải pháp chính trị, chiến lược phát

triển mà giai cấp lãnh đạo thông qua nhà nước hay chính phủ của nó lựa chọn”

[50,tr.103]. Đặc biệt ở nước ta, thực tiễn 25 năm đổi mới cho thấy nhu cầu nghiên

cứu chính trị với tính cách là một khoa học ngày càng trở nên cấp thiết.

Tuy nhiên, chính trị học là một ngành khoa học mới ở Việt Nam. Chính trị học,

với tính cách vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật, sự vắng mặt của chính trị

học với tư cách là một khoa học độc lập ở nước ta trong một thời gian dài khiến cho

cả mặt khoa học lẫn mặt nghệ thuật của chính trị chưa được nghiên cứu thấu đáo.

Trong sự mới mẻ của khoa học chính trị ở Việt Nam nói chung thì lịch sử chính trị

Việt Nam còn là một miền đất mới, chưa khai thác được là bao. Đây là lãnh địa

rộng lớn cho các nghiên cứu về lịch sử chính trị, đặc biệt lịch sử chính trị cận, hiện

đại Việt Nam.

Page 7: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

2

Lựa chọn đề tài này cho luận án tiến sĩ chính trị học của mình, tác giả mong

muốn góp phần nhỏ bé vào việc lấp dần khoảng trống đó của chính trị học ở Việt

Nam, một ngành khoa học mới và có nhiều triển vọng phát triển trong tương lai.

Thứ hai, lựa chọn đề tài này, nghiên cứu lịch sử từ góc nhìn chính trị học, là

một cách làm phong phú con đường nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam. Lịch sử là

những gì đã qua. Song, chính những gì đã qua đó có ý nghĩa không thể phủ nhận

với những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong hiện tại và tương lai. Về vai trò của lịch sử,

có thể thấy lịch sử như một chiếc gương chiếu hậu mà nhìn vào đó chúng ta có thể

tự tin để tiến lên phía trước. Tuy nhiên, để có thể khai thác nhiều hơn từ những sự

kiện, những vấn đề lịch sử thì việc tiếp cận lịch sử từ nhiều góc nhìn khác nhau

đang là một vấn đề đặt ra với các nhà nghiên cứu. Có lẽ hiếm có một dân tộc nào

trên thế giới có lịch sử hào hùng và bi tráng như dân tộc Việt Nam. Việc làm cho

những trang sử bi hùng của dân tộc ngấm vào máu mỗi người Việt Nam, trở thành

sức mạnh trong suy nghĩ và hành động của các thế hệ người Việt Nam nhằm đưa

nước ta thành một nước giàu mạnh sánh vai các cường quốc năm châu là một nhiệm

vụ thiêng liêng đặt ra với các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt với tầng lớp trí thức.

Thêm một cách tiếp cận cho nghiên cứu các vấn đề lịch sử - tiếp cận chính trị học -

sẽ là hữu ích trong việc biến quá khứ, biến lịch sử thành sức mạnh cải biến hiện

thực và thực hiện các mục tiêu, khát vọng của mỗi người Việt Nam chúng ta cũng

như của cả dân tộc Việt Nam.

Có một ngôi chùa cổ ở Nhật Bản mà huyền thoại kể rằng, đứng ở bất cứ chỗ

nào trong chùa cũng không thể đếm hết số cột của nó. Hình tượng này ngụ ý rằng, ở

bất cứ góc nhìn nào, chúng ta cũng chỉ là người khiếm thị, cũng chỉ thấy được một

mặt nào đó của vấn đề mà thôi. Khát vọng của con người là có thể nhìn thấy được

nhiều mặt của vấn đề buộc người ta phải tìm kiếm cho mình những góc nhìn mới để

có cái nhìn toàn diện hơn về những vấn đề vốn quen thuộc. Lựa chọn đề tài này cho

luận án, tác giả mong góp một cách nhìn mới về những vấn đề quen thuộc. Đó là

cách nhìn chính trị học cho những vận động về chính trị ở Việt Nam giai đoạn

1858-1945. Đề tài sẽ góp phần luận giải sự phát triển có tính quy luật của chính trị ở

Page 8: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

3

nước ta từ 1858 đến 1945 dưới giác độ của khoa học chính trị. Giai đoạn lịch sử

1858-1945 đã được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu từ

nhiều cách tiếp cận khác nhau: sử học, văn học, xã hội học, kinh tế học, luật học,

tôn giáo học, hành chính học,... Tuy nhiên, tiếp cận dưới giác độ của khoa học chính

trị thì hầu như số lượng các công trình nghiên cứu còn rất khiêm tốn. Cùng một đối

tượng, tuy nhiên, những cách tiếp cận khác nhau sẽ cho phép có những kiến giải

khác nhau về đối tượng đó.

Việc nhìn nhận lại những vấn đề lịch sử và tiếp tục có những kiến giải thoả

đáng, khoa học về một thời kỳ đầy biến động trong lịch sử dân tộc, đặc biệt dưới

một góc nhìn mới - góc nhìn chính trị học, với những công cụ tư duy mới luôn luôn

là một điều có ý nghĩa. Dưới ánh sáng của lý luận chính trị học, chúng ta có một

công cụ tư duy mới là những khái niệm, phạm trù của khoa học chính trị để cùng

với những công cụ tư duy đã có, chúng ta có thể có những kết luận chuẩn xác hơn

về những vấn đề lịch sử thời kỳ cận, hiện đại. Từ đó có thể rút ra những bài học và

kinh nghiệm quý báu cho hiện tại và tương lai.

Thứ ba, xuất phát từ việc lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc của Đảng

cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và

việc thực hiện con đường đó hiện nay. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay có

nhiều biến động phức tạp, đặc biệt sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và

Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX cùng với sự điều chỉnh, thích nghi của các

nước TBCN để CNTB tiếp tục tồn tại và phát triển trong hình thái hiện đại của nó,

câu hỏi về tính đúng đắn, khoa học của con đường phát triển của Việt Nam ngày

càng được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Vì sao Việt Nam khẳng định đi lên

theo con đường này và vẫn kiên định sự lựa chọn con đường này trong sự biến động

phức tạp của tình hình khu vực và thế giới. Nhìn về cội nguồn là để hướng tới tương

lai. Tìm câu trả lời cho hiện tại từ lịch sử, từ quá khứ của dân tộc là một trong

những điều mà tác giả luận án đặt ra trong đề tài nghiên cứu của mình. Thông qua

nghiên cứu sự vận động có tính quy luật của chính trị Việt Nam thời kỳ cận, hiện

đại gắn với sự vận động chung của lịch sử dân tộc, tác giả mong muốn góp thêm

Page 9: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

4

một tiếng nói cho sự luận giải để trả lời câu hỏi này, từ đó giúp chúng ta vững tin

bước đi lên trên con đường đã chọn.

Thứ tư, xuất phát từ nhu cầu của bản thân tác giả, là một người Việt Nam, là

một người nghiên cứu và giảng dạy khoa học xã hội ở Việt Nam, với khao khát

“tường gốc tích nước nhà Việt Nam” để không ngừng hoàn thiện kiến thức của

mình và truyền lửa đến các thế hệ người học thông qua các bài giảng khoa học, giàu

tính thuyết phục, tác giả chọn một vấn đề lịch sử từ cách tiếp cận chính trị học cho

công trình nghiên cứu của mình.

Từ những lý do cơ bản nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Sự biến đổi chính trị ở

Việt Nam từ 1858 đến 1945” cho luận án tiến sĩ chính trị học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích: Bằng lý luận chính trị học, luận án chỉ ra sự vận động có tính

quy luật của chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945. Đó là sự vận động từ chính trị

phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến và từ chính trị thực dân - phong

kiến sang chính trị dân chủ nhân dân. Trên cơ sở đó, hiểu rõ con đường phát triển từ

độc lập dân tộc đến CNXH của Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ

+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị ở Việt Nam.

+ Làm rõ sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ chính trị phong kiến sang chính trị

thực dân - phong kiến.

+ Làm rõ sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ chính trị thực dân - phong kiến

sang chính trị dân chủ nhân dân.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng: Luận án tập trung nghiên cứu sự biến đổi chính trị ở Việt Nam

trong giai đoạn từ 1858 đến 1945 tập trung chủ yếu ở sự thay đổi giai cấp cầm

quyền gắn với sự thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể

chế nhà nước qua hai bước biến đổi: biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang

chính trị thực dân - phong kiến và biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong

kiến sang chính trị dân chủ nhân dân.

Page 10: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

5

3.2. Phạm vi

Thứ nhất, về cách tiếp cận, luận án nghiên cứu vấn đề từ giác độ của khoa học

chính trị chứ không phải từ cách tiếp cận sử học hay một chuyên ngành nào khác.

Thứ hai, về mặt thời gian, luận án giới hạn đối tượng nghiên cứu trong giai

đoạn từ 1858 đến 1945, từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đến khi cách

mạng Tháng Tám 1945 thành công lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuy

nhiên, luận án không chỉ dừng lại ở sự kiện ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nhà nước mới mà còn nghiên cứu những tháng

ngày đầu tiên sau khi nhà nước mới ra đời và có những hoạt động nhất định thể hiện

bản chất của một nhà nước kiểu mới phân biệt với nhà nước kiểu cũ ở Việt Nam

trước thời điểm đó.

Thứ ba, về không gian, luận án không nghiên cứu sự biến đổi chính trị một cách

chung chung mà giới hạn phạm vi nghiên cứu ở Việt Nam gắn với những điều kiện

lịch sử, địa lý, văn hoá, truyền thống... mang đậm sắc thái Việt Nam.

Thứ tư, về nội hàm khái niệm “biến đổi chính trị”, đây là một khái niệm rộng,

tác giả luận án không có tham vọng đưa ra một lý luận chung về biến đổi chính trị

có thể áp dụng cho nhiều trường hợp khác nhau. Trong luận án này, biến đổi chính

trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 được tác giả giới hạn trong phạm vi sự thay đổi

giai cấp cầm quyền gắn với sự thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ

chính trị, thể chế nhà nước qua hai bước biến đổi: Thứ nhất, biến đổi chính trị từ

chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến. Thứ hai, biến đổi chính trị

từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận chính trị học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh cùng các văn kiện liên quan của Đảng cộng sản Việt Nam.

Có nhiều cách tiếp cận chính trị học của các trường phái nghiên cứu khác nhau.

Tác giả luận án đứng trên cách tiếp cận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác

Lênin làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu của mình. Các lý thuyết của các nhà kinh

điển của chủ nghĩa Mác Lênin đặc biệt như: Lý luận Hình thái kinh tế xã hội, biện

Page 11: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

6

chứng giữa cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, biện chứng giữa tồn tại xã hội - ý

thức xã hội là những lý thuyết có thể coi là xương sống mà tác giả dựa vào đó để

triển khai những ý tưởng nghiên cứu trong luận án. Mặt khác, tư tưởng Hồ Chí

Minh - chủ nghĩa Mác Lênin ở Việt Nam, những nội dung chủ yếu trong tư tưởng

chính trị Hồ Chí Minh như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân

tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, tư

tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới… là những

cơ sở lý luận không thể thiếu cho tác giả trong khi thực hiện luận án của mình.

Các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt các văn kiện của Đảng thời

kỳ tiền khởi nghĩa thể hiện đỉnh cao trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh có

thể coi như cơ sở lý luận quan trọng dựa vào đó tác giả có thể hoàn thành công trình

nghiên cứu của mình.

Như vậy, lý luận chính trị học Mác xít chính là nền tảng lý luận chủ yếu tác giả

lựa chọn khi triển khai luận án về biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945.

4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án dựa trên phương pháp luận Mác xít,

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể là phương pháp

hệ thống nhìn thế giới như một chỉnh thể mà Việt Nam là một bộ phận hữu cơ

không thể tách rời của chỉnh thể ấy. Nhìn toàn bộ xã hội như một hệ thống mà chính

trị chỉ là một yếu tố cấu thành hệ thống đó. Phương pháp lịch sử cụ thể xem xét

phân tích sự vận động của chính trị ở Việt Nam trong những điều kiện nhất định của

tình hình thế giới và trong nước, trong những tác động cụ thể của những nhân tố

khách quan và chủ quan. Phương pháp so sánh để nhìn thấy sự tương đồng, dị biệt

trong sự vận động của chính trị ở Việt Nam so với sự vận động chính trị ở các nước

trong khu vực và trên thế giới (So với Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ...). Phương pháp

logic để nhìn thấy bản chất của vận động chính trị được biểu hiện thông qua vô vàn

những hiện tượng chính trị cụ thể… Để triển khai vấn đề nghiên cứu, luận án sử

dụng các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.

Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu lịch sử chính trị, tác giả chú trọng kết hợp phương

Page 12: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

7

pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử với phương pháp nghiên cứu của khoa học

chính trị cũng như phương pháp liên ngành chính trị - lịch sử.

5. Đóng góp mới của luận án về mặt khoa học

Nhìn nhận, phân tích lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 dưới góc độ của

khoa học chính trị để luận giải một số vấn đề như:

- Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX

- Cơ sở khoa học của con đường phát triển độc lập dân tộc đi lên CNXH ở nước

ta.

6. Ý nghĩa của luận án

6.1. Về lý luận: là một công trình nghiên cứu về lịch sử chính trị, luận án góp

phần vào việc phát triển bộ môn “Lịch sử chính trị Việt Nam”, một bộ phận hữu cơ

của ngành khoa học chính trị ở nước ta.

6.2. Về thực tiễn: luận án làm sáng tỏ sự vận động có tính quy luật của chính trị

ở Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại dưới giác độ của khoa học chính trị mà con đường

chúng ta đang đi ngày hôm nay chỉ là sự tiếp nối và phát triển hợp quy luật con

đường ông cha đã lựa chọn trong quá khứ, kế thừa những thành quả mà ông cha đã

đạt được bằng biết bao máu và nước mắt. Từ đó, trân trọng những thành quả của

cha ông và vững tin vào con đường phát triển của Việt Nam hiện nay. Luận án cũng

cung cấp thêm một cách nhìn, một cách đánh giá đối với nhiều vấn đề lịch sử quen

thuộc với người Việt Nam.

Với hai ý nghĩa nổi bật nêu trên, luận án có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập khoa học chính trị ở Việt Nam, cho

những ai quan tâm đến con đường phát triển của dân tộc, từ đó củng cố niềm tin vào

con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tìm thấy cho dân tộc từ trái tim nồng nàn

yêu nước và trí tuệ thiên tài của Người.

7. Kết cấu luận án

Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, mở đầu,

kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án, thư

mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.

Page 13: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

8

Chương 1

TỔNG QUAN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH TRỊ,

BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ

1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu và tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu

Đây là một luận án lịch sử chính trị, do đó tư liệu, tài liệu phục vụ cho luận án

có thể khái quát thành hai nhóm chính: Nhóm tư liệu, tài liệu sử học và nhóm tư

liệu, tài liệu chính trị học liên quan trực tiếp, gián tiếp đến đề tài nghiên cứu.

a. Nhóm tư liệu, tài liệu sử học liên quan đến đề tài nghiên cứu

Tác giả ý thức rõ ràng rằng đây là một luận án thuộc chuyên ngành chính trị

học, tuy nhiên là lịch sử chính trị Việt Nam, do đó những tư liệu, tài liệu lịch sử

được sử dụng trong luận án là những chất liệu không thể thiếu để làm nổi rõ nội

dung chính trị học, chất chính trị học. Luận án bàn tới sự biến đổi chính trị ở Việt

Nam trong thời gian từ 1858 đến 1945. Sự biến đổi chính trị này không thể tách rời

bức tranh tổng thể của xã hội Việt Nam cũng như bức tranh chung của lịch sử các

nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Á, lịch sử thế giới cận, hiện đại với nhiều

thăng trầm, biến động. Mặt khác, sự biến đổi chính trị cũng không thể tách rời

những vận động về kinh tế, về văn hoá, xã hội, tư tưởng... trong lòng xã hội Việt

Nam thời kỳ cận, hiện đại. Những vận động về chính trị mà trung tâm là thay đổi

giai cấp cầm quyền gắn với thay đổi kiểu nhà nước và hình thức nhà nước sẽ dẫn tới

sự thay đổi của đời sống chính trị gắn với những con người chính trị (Thủ lĩnh chính

trị, quần chúng nhân dân), các phong trào chính trị, các hoạt động chính trị, các

quan hệ chính trị, đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền... Mặt khác, có thể

thấy, trong thời kỳ lịch sử này, chính trị Việt Nam đã vận động từ chính trị phong

kiến sang chính trị thực dân - phong kiến và cuối giai đoạn này chuyển sang chính

trị dân chủ nhân dân. Như vậy, nghiên cứu sự biến đổi chính trị trong thời cận, hiện

đại không thể không khai thác một lượng tư liệu khá lớn liên quan đến chế độ thuộc

địa của Pháp ở Việt Nam cùng với những tư liệu liên quan đến chế độ phong kiến

Page 14: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

9

nhà Nguyễn và chế độ dân chủ nhân dân. Tuy nhiên những tài liệu lịch sử chính trị

chuyên sâu về những nội dung kể trên ở Việt Nam chưa nhiều, tác giả khai thác

thông qua những tài liệu lịch sử chung về từng giai đoạn lịch sử cụ thể trong đó chế

độ chính trị đó tồn tại. Do đó, để có được thông tin về những vấn đề trên phục vụ

cho luận án, những tư liệu, tài liệu sử học dùng trong luận án theo tiêu chí nội dung

có thể phân thành một số nhóm chính sau:

* Nhóm tư liệu, tài liệu về lịch sử cận, hiện đại của thế giới, của các nước trong

khu vực Đông Nam Á, châu Á; lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cũng như lịch sử Việt

Nam thời cận, hiện đại.

* Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn và xã hội

Việt Nam dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn đặc biệt ở thời Tự Đức.

* Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và

xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của Pháp.

* Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ dân chủ nhân dân.

Trước hết, không phải là một người nghiên cứu lịch sử mà là một người nghiên

cứu chính trị học tiếp cận và xử lý nguồn sử liệu khổng lồ với tác giả là một điều

không dễ dàng. Do đó, những tư liệu, tài liệu về phương pháp luận sử học đặc biệt

có ý nghĩa với tác giả. Mặc dù tác giả không phân những tư liệu, tài liệu này thành

một nhóm, song những tư liệu loại này cho phép tác giả có thể thâu tóm và làm chủ

ở mức độ nhất định nguồn sử liệu, trên cơ sở đó xử lý dưới giác độ của khoa học

chính trị. Những tác phẩm loại này có thể kể ra điển hình như: Triết học lịch sử hiện

đại của Hà Văn Tấn, Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin bàn về khoa

học lịch sử.

Với các nhóm tư liệu, tài liệu sử học nêu trên, tác giả luận án đã khai thác, sử

dụng theo hướng cụ thể như sau:

Để có những thông tin về bức tranh của thế giới trong gần một thế kỷ từ 1858

đến 1945 với những đường nét cơ bản nhất cho chúng ta thấy bối cảnh chung trong

đó những biến đổi chính trị diễn ra tại Việt Nam, luận án sử dụng khá nhiều các tác

phẩm đại cương sử, thông sử về lịch sử thế giới cận hiện đại như: Lịch sử thế giới

Page 15: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

10

hiện đại từ 1917 đến 1945 (quyển A và B) do Nguyễn Anh Thái chủ biên, Lịch sử

thế giới của Trần Thị Vinh, Lịch sử thế giới cận đại của Vũ Dương Ninh, Nguyễn

Văn Hồng, Quan hệ quốc tế thế kỷ XX của Nguyễn Quốc Hùng,... Việt Nam định vị

ở đâu, chịu sự tác động và chi phối của những nhân tố quốc tế nào?... Những tác

phẩm về lịch sử thế giới cận, hiện đại sẽ cung cấp cho tác giả nguồn tư liệu hữu ích

để nhìn Việt Nam trong bức tranh chung, nhìn sự vận động của Việt Nam trong sự

vận động chung của các quốc gia trong khu vực và thế giới.

Những tác phẩm lịch sử liên quan đến các quốc gia trong khu vực thời kỳ

cận, hiện đại cung cấp nguồn tư liệu cho phép tác giả có thể so sánh vấn đề nghiên

cứu ở Việt Nam với các nước trong khu vực như Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ...

Trước hết là các tác phẩm lịch sử chung về khu vực cũng như lịch sử chung của các

quốc gia này, có thể kể ra như: Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E Hall, Lịch sử phát

triển Đông Nam Á của Mary Somers Heid Hues, Lịch sử Đông Nam Á do Lương

Ninh chủ biên, Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á ASEAN (Trước công nguyên

đến thế kỷ XX) của Nguyễn Văn Nam, Lịch sử Nhật Bản của P.H.P. Mason & J.G.

Caiger do Nguyễn Văn Sỹ biên dịch,...

Sau nữa là tư liệu liên quan đến các sự kiện lớn xảy ra ở các quốc gia trong khu

vực thời kỳ cận, hiện đại có mối quan hệ, ảnh hưởng nhất định tới đời sống chính trị

Việt Nam như Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX - đầu thế

kỷ XX do Vũ Dương Ninh chủ biên, Mấy vấn đề lịch sử châu Á và lịch sử Việt Nam,

một cách nhìn của Nguyễn Văn Hồng, Con đường cứu nước trong đấu tranh giải

phóng dân tộc ở một số nước châu Á do Đỗ Thanh Bình chủ biên, “Đông Du Trung

Quốc - Việt Nam”- một hiện tượng lịch sử khu vực thời cận đại; Tôn Trung Sơn -

Hồ Chí Minh, mối đồng cảm lịch sử và thời đại của Nguyễn Văn Hồng, Tôn Trung

Sơn và các nhà cách mạng Việt Nam của Phạm Xanh, Vấn đề xây dựng bộ máy nhà

nước hiện đại ở Nhật Bản dưới chính quyền Minh Trị của Đặng Xuân Kháng, Nhật

Bản và phong trào Đông Du - Tính hai mặt của Nhật Bản thời Minh Trị của Eto

Shinkichi (trong kỷ yếu hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất). Trong tác

phẩm của Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh: Quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị

Page 16: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

11

Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhiều nội dung cũng đề cập đến lịch sử so

sánh có thể sử dụng và khai thác cho luận án. Nhiều tác phẩm của Mác trong bộ

Mác - Ănghen toàn tập bàn về sự cai trị của thực dân Anh ở Ấn Độ hay tác phẩm

của Hồ Chí Minh so sánh sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam với sự cai trị của

thực dân Anh ở Ấn Độ, sự cai trị của các đế quốc khác ở Trung Quốc... đều được

tác giả tham khảo và sử dụng trong luận án ở mức độ khác nhau. Luận án tiến sĩ

Lịch sử của Nghiên cứu sinh Trần Thị Thanh Vân về Chính sách thực dân của Anh

ở Ấn Độ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX cũng là một nguồn tài liệu tham khảo có

ý nghĩa cho tác giả trong triển khai luận án của mình đặc biệt khi so sánh cách tổ

chức bộ máy chính quyền thực dân của Anh ở Ấn Độ và của thực dân Pháp ở Đông

Dương, Việt Nam.

Luận án tập trung nghiên cứu biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945.

Khoảng thời gian gần trăm năm này chỉ là một giai đoạn trong lịch sử nhiều nghìn

năm của dân tộc Việt Nam. Chúng ta không thể nghiên cứu về giai đoạn lịch sử này

mà không thấy Việt Nam 1858-1945 định vị trong nhiều nghìn năm lịch sử dân tộc

như thế nào, gắn kết với quá khứ dân tộc và kế thừa những di sản của ông cha để

xây dựng nên thời đại của mình ra sao?... Những tác phẩm về lịch sử Việt Nam

trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt những cuốn thông sử về lịch sử Việt Nam cận,

hiện đại cung cấp cho tác giả một nguồn tư liệu hữu ích sử dụng trong luận án.

Nhóm thông tin này cho phép tác giả có cái nhìn tổng thể về Việt Nam 1858-1945

định vị trong lịch sử nhiều nghìn năm của dân tộc cũng như tình hình kinh tế, chính

trị, văn hoá, xã hội,... Việt Nam ngót một thế kỷ đầy bi tráng (1858-1945) trong đó

diễn ra những biến đổi lớn về mọi mặt của đời sống xã hội mà biến đổi chính trị là

nội dung đang được tác giả quan tâm nghiên cứu. Những tác phẩm lịch sử chung

của Việt Nam có thể kể ra điển hình như: Tiến trình lịch sử Việt Nam do Nguyễn

Quang Ngọc chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam của Trương Hữu Quýnh, Đinh

Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, Việt Nam một thiên lịch sử của Nguyễn Khắc Viện, Lịch

sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884 của Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn,...

Cùng với những tư liệu, tài liệu lịch sử chung này là những tác phẩm lịch sử

Page 17: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

12

Việt Nam liên quan trực tiếp đến giai đoạn 1858-1945. Đây là nguồn tư liệu, tài

liệu được khai thác, sử dụng nhiều trong luận án khi phân tích bối cảnh lịch sử xã

hội trong đó những biến đổi chính trị diễn ra. Sự vận động trong các lĩnh vực khác

nhau của đời sống xã hội dưới chính sách cai trị của các chính quyền trong thời kỳ

1858-1945 cũng được khai thác từ nguồn tư liệu, tài liệu này. Nguồn tư liệu, tài liệu

này còn cho chúng ta thấy những yếu tố mang tính nguồn gốc, nguyên nhân của

những biến đổi chính trị diễn ra ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ

XX. Những tác phẩm có thể kể ra như: Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay của Trần

Bá Đệ, Lịch sử Việt Nam, tập II, 1858-1945 do Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Lịch

sử Việt Nam 1858-1896 do Vũ Huy Phúc chủ biên, Lịch sử Việt Nam 1897-1918

của tập thể tác giả Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh

Xuân Lâm, Lịch sử Việt Nam, tập VIII, 1919-1930 của Viện Sử học, Việt Nam

những sự kiện lịch sử (1858-1918) của Dương Kinh Quốc, Lịch sử cận - hiện đại

Việt Nam, một số vấn đề nghiên cứu của Đinh Xuân Lâm...

Trong giai đoạn lịch sử gần trăm năm từ 1858 đến 1945, quyền lực nhà nước ở

Việt Nam đã chuyển từ tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam sang tay GCTS

Pháp rồi sang nhân dân Việt Nam. Ba kiểu nhà nước gắn với ba chế độ chính trị đã

nối tiếp nhau tồn tại ở nước ta là chế độ phong kiến nhà Nguyễn, chế độ thuộc địa

kiểu cũ của thực dân, đế quốc và chế độ dân chủ nhân dân. Nghiên cứu biến đổi

chính trị trong giai đoạn lịch sử này thực chất là nghiên cứu sự thay thế giai cấp

cầm quyền gắn với sự thay thế kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, nghiên cứu bước

chuyển từ chế độ chính trị này sang chế độ chính trị kia. Do đó, một trong những

nguồn tư liệu, tài liệu sử học đặc biệt quan trọng được khai thác và sử dụng trong

luận án là những nội dung liên quan đến ba chế độ chính trị đã tồn tại ở Việt Nam từ

1858 đến 1945 và xã hội Việt Nam dưới các chế độ chính trị đó.

Trước hết, liên quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn và xã hội Việt Nam

dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn đặc biệt thời Tự Đức, luận án sử dụng

những tư liệu, tài liệu gốc của triều đình nhà Nguyễn cùng các tài liệu viết về nhà

Nguyễn và xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn của các tác giả khác nhau. Tư liệu,

Page 18: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

13

tài liệu thuộc nhóm này có thể kể ra như: Đại Nam thực lục chính biên của NXB

Khoa học Xã hội, Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc của Văn Tạo (Kỷ yếu Hội thảo

Quốc tế Việt Nam học lần 2), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua Triều

Nguyễn của Nguyễn Thế Anh, Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây

dưới triều Nguyễn (1802-1858) của Trần Nam Tiến, Nước Đại Nam đối diện với

Pháp và Trung Hoa của Yoshiharu Tsuboi, Nỗ lực ngoại giao cuối cùng của triều

Nguyễn vào mùa xuân 1878 của Lê Nguyễn, Nước Việt Nam trên đường suy vong

của Bùi Quang Tung; Nhìn lại quan hệ Pháp - Việt Nam - Trung Quốc qua các bản

hiệp ước cuối thế kỷ XIX của Vũ Dương Ninh; Các tác phẩm của Lý nhân Phan Thứ

Lang như Giai thoại và sự thật về Bảo Đại - Vua cuối cùng triều Nguyễn hay

Những câu chuyện về cuộc đời Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn...

sẽ cung cấp những tư liệu lịch sử bổ ích cho việc triển khai luận án.

Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn và Việt

Nam dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn sẽ giúp tác giả có cái nhìn khái quát cũng

như chi tiết về xã hội Việt Nam trước khi bị phương Tây xâm lược và thôn tính,

luận giải được phần nào những nguyên nhân của việc Việt Nam mất nước vào tay

Pháp và dẫn đến chính trị thực dân - phong kiến thay thế chính trị phong kiến ở

nước ta. Đặc biệt những tư liệu, tài liệu về thể chế, thiết chế chính trị nhà Nguyễn,

một kiểu nhà nước phong kiến ở phương Đông dưới hình thức chế độ phong kiến

chuyên chế tập quyền cùng được chiết xuất từ nhóm tài liệu này, tuy không nhiều.

Trong phần lớn phạm vi về khoảng thời gian được luận án nghiên cứu (1858-

1945), ở Việt Nam là sự tồn tại của chính trị thực dân - phong kiến. Chế độ này là

chế độ chính trị tiếp sau chế độ chính trị phong kiến nhà Nguyễn. Trong quá trình

vận động, trong khi tạo ra những cơ sở cho sự tồn tại của nó, chế độ chính trị thực

dân - phong kiến cũng đã tạo ra những tiền đề về nhiều mặt cho sự phủ nhận chính

nó và sẽ thay thế nó bởi chế độ dân chủ nhân dân. Bởi vậy, nhóm tài liệu liên quan

đến chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và Việt Nam dưới chế độ thuộc địa

của thực dân tư bản Pháp chiếm một dung lượng đáng kể trong nguồn tài liệu tham

khảo cho việc triển khai luận án. Trước hết là những tài liệu liên quan đến CNTD và

Page 19: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

14

sự xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp như: Biện hộ cho sứ mệnh khai hoá

Đông Dương của Pierre Pasquier, Huyền thoại đồng hoá và lý thuyết về CNĐQ tại

Việt Nam trước năm 1914 của Clarke W.Garrett (từ trang web http://www.gio-

o.com); CNTD: một bộ luật phi lịch sử và những con người vô trách nhiệm của

Alanh Rút sô, CNTD, hồ sơ chưa khép lại của Vũ Dương Ninh,... Diện mạo chung

của Việt Nam và Đông Dương thời Pháp thuộc với những tác phẩm như: Đông

Dương ngày ấy của Claude Bourrin, Việt Nam thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế

Anh, Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc của Lê Nguyễn... Diện mạo về mọi mặt của

xã hội Việt Nam dưới tác động của chính sách thuộc địa của thực dân Pháp trước

hết là diện mạo của nền kinh tế là một nhóm tài liệu quan trọng với những tác

phẩm như: Sự thật về kế hoạch khai thác Đông Dương lần thứ nhất của thực dân

Pháp của Gerard Sassges, Những nghiên cứu ở Việt Nam về sự biến đổi kinh tế các

nước Đông Nam Á thời thuộc địa của Văn Ngọc Thành, Trần Anh Đức, Cơ cấu kinh

tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945) của Nguyễn Văn Khánh, những tác

phẩm của Tạ Thị Thúy như: Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc

địa lần thứ hai của người Pháp (1919-1930), Về vấn đề đầu tư của Pháp trong cuộc

khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam.

Nhóm tư liệu, tài liệu cung cấp diện mạo về văn hoá, tư tưởng, con người

trong xã hội thuộc địa như: Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam với Pháp của Phan Ngọc,

Nhà trường Pháp ở Đông Dương của Trịnh Văn Thảo, Người Pháp và An Nam, bạn

hay thù của Phillippe Devillers, Phác thảo lịch sử nghiên cứu vấn đề con người và

văn hoá Việt Nam dưới thời Pháp thuộc của Phan Hữu Dật, Phản ứng của thực dân

đối với dân bản xứ của Virginia Thompson, Người Pháp tại Đông Dương, một vài

cảm nghĩ của các thanh tra thuộc địa của Reuben Garner (từ trang web

http://www.gio-o.com).

Nhóm tư liệu, tài liệu về kết cấu xã hội, giai cấp ở Việt Nam thời Pháp thuộc

như: GCCN Việt Nam, sự hình thành và sự phát triển của nó từ giai cấp “tự mình”

đến giai cấp “cho mình” của Trần Văn Giàu, Hoạt động chấn hưng thực nghiệp

của tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX của Trần Viết Nghĩa, Suy nghĩ về GCTS dân tộc,

Page 20: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

15

quá khứ và hiện tại của Vũ Dương Ninh, Tinh thần dân tộc trong kinh doanh của

các nhà doanh nghiệp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, trường hợp Bạch Thái Bưởi

của Phạm Xanh,…

Tư liệu, tài liệu về các tổ chức chính trị và các phong trào chính trị ở Việt

Nam thời Pháp thuộc thể hiện trong nhóm tác phẩm như: Việt Nam Quốc dân đảng

trong lịch sử cách mạng Việt Nam; 100 năm Đông Kinh nghĩa thục của nhiều tác

giả do NXB Tri thức ấn hành năm 2008, Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải

cách văn hoá đầu thế kỷ XX của Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa Thục trong dòng

chảy của tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 của Phạm Ngọc Thạch...

Lịch sử không phải là những gì chung chung, trừu tượng mà gắn với nó là

những con người cụ thể cùng sự nghiệp chính trị của họ trong bối cảnh lịch sử nhất

định. Do đó, nhóm tư liệu về những nhân vật lịch sử cụ thể trong giai đoạn lịch sử

1858-1945 sẽ giúp tác giả có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về một thời đầy biến

động trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt, nhóm tư liệu này sẽ giúp tác giả nhận rõ hơn

biểu hiện và những tác động của biến đổi chính trị in hằn lên cuộc sống của cá nhân

con người cũng như giai cấp, tầng lớp xã hội mà họ đại diện. Các tác phẩm thuộc

nhóm này có thể kể ra như: Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), tập 1, con người của

Trương Bá Cẩn, Nguyễn Trường Tộ và thời đại: Những nghịch lý trong lịch sử nhà

Nguyễn - một cách tiếp cận mới của Phạm Xanh; Nguyễn An Ninh của nhóm tác giả

Hà Huy Giáp, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân; Phan Châu Trinh, cuộc đời và tác

phẩm của Nguyễn Quang Thắng, Tuyển tập Phan Châu Trinh của Nguyễn Văn

Dương; Phan Bội Châu (1867-1940), con người và sự nghiệp của nhóm tác giả

Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Vương, Những hoạt động của

Phan Bội Châu ở Nhật Bản của Nguyễn Tiến Lực; Tiểu luận bằng tiếng Pháp trong

thời gian 1922-1932 của Phạm Quỳnh, Luật sư Phan Văn Trường của Nguyễn Phan

Quang, Phan Văn Hoàng, ...

Nhóm tư liệu, tài liệu về chế độ thuộc địa và liên quan đến chế độ thuộc địa kể

trên cung cấp dữ liệu chủ yếu cho phần triển khai nội dung luận án. Thông qua

nguồn tư liệu, tài liệu này, tác giả có thể khai thác để vạch ra những biểu hiện trên

Page 21: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

16

nhiều mặt của chế độ thuộc địa, sự khác biệt so với chế độ phong kiến trước nó,

những yếu tố tiền đề, mầm mống cho sự vận động tiếp theo của xã hội Việt Nam

cũng sẽ được gợi mở và tìm thấy trong nguồn tư liệu này. Những hệ quả và tác động

trên từng mặt, từng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội cũng như những tác động

tổng hợp của sự biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân -

phong kiến cũng được khai thác từ đây.

Một trong những lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX - Người có vai

trò to lớn và ghi dấu ấn đậm nét trong bước chuyển từ chế độ thực dân - phong kiến

sang chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Cuộc

đời, sự nghiệp và những cống hiến vĩ đại của Người cho sự hồi sinh của dân tộc

Việt Nam trong thế kỷ XX là không thể phủ nhận. Do đó một nhóm tư liệu không

thể thiếu cho luận án chính là nhóm tư liệu về Hồ Chí Minh liên quan đến luận

án. Nhóm này có thể gồm những tác phẩm của Hồ Chí Minh hoặc tác phẩm của các

nhà nghiên cứu viết về Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài luận án nghiên cứu. Các

tác phẩm có thể kể ra ở đây gồm:

Thứ nhất, những tác phẩm của Hồ Chí Minh liên quan đến vấn đề nghiên cứu

được khai thác chủ yếu trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập. Trước hết là những tác

phẩm Người viết về CNTD Pháp ở Việt Nam, ở Đông Dương và CNTD nói chung

trên thế giới điển hình như: tác phẩm Tình hình Đông Dương (viết ngày 19-12-

1924), Vấn đề Đông Dương (1925), Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), CNĐQ

Pháp ở Viễn Đông - Varen và Đông Dương (1925), Những vấn đề châu Á (1925),

Nông dân Trung Quốc (1925), Lối cai trị của người Anh (1925), “Văn minh” Pháp

ở Đông Dương (1927), Những tội ác kinh khủng của CNĐQ Pháp ở Đông Dương

(1927), Sự thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương (1927)... Những tác phẩm

của Người về phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân ở các

thuộc địa khắp nơi trên thế giới từ châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh cũng là một

nguồn tư liệu hữu ích. Sau nữa là thư từ, giao dịch của Hồ Chí Minh với các tổ chức

quốc tế lớn như Quốc tế cộng sản, Quốc tế công nhân, Quốc tế nông dân, đảng cộng

sản Pháp và các đảng cộng sản trên thế giới... đặc biệt trong những năm 20 của thế

Page 22: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

17

kỷ XX nhằm kết nối phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế

giới, biến cách mạng Việt Nam thành một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới.

Phân tích của Hồ Chí Minh năm 1927 về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới như:

Lịch sử cách mệnh Mỹ, Cách mệnh Pháp, Lịch sử cách mạng Nga. Phân tích của Hồ

Chí Minh về các giai cấp trong xã hội Việt Nam, đặc biệt khẳng định của Người về

vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam, vị trí, vai trò của từng lực lượng xã

hội với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Tác phẩm Tuyên ngôn độc

lập 2-9-1945 của Người khẳng định tầm vóc của một sự kiện chính trị lớn của Việt

Nam, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong sự tiến hoá của dân tộc Việt Nam.. là nguồn

tư liệu, tài liệu không thể thiếu cho việc triển khai luận án.

Thứ hai, những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh liên quan đến luận án của các

tác giả trong và ngoài nước. Đây là nguồn tư liệu hữu ích cho việc triển khai luận

án. Đặc biệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là tư

tưởng xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và là hướng đạo cho sự

phát triển của cách mạng Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại. Tư tưởng của Người về

xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là nguồn tài liệu gắn liền với nội dung

luận án.

Với nguồn tư liệu, tài liệu này, tác phẩm của các tác giả trong nước có thể kể ra

là: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ

Nguyên Giáp chủ biên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với

CNXH của Phạm Ngọc Anh, Hoàng Trang ... Các tác phẩm liên quan đến tư tưởng

Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, có thể kể ra là: Tư tưởng

Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, sự hình thành và phát triển của Hoàng Văn

Hảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Pháp quyền kiểu mới ở Việt

Nam của Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về

nhà nước và pháp luật của Bộ Tư pháp, Nhà nước và cách mạng Việt Nam những

năm 1945-1946, những sáng tạo của Hồ Chí Minh của Lê Phương Thảo, Chủ tịch

Hồ Chí Minh lãnh đạo Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến đầu tiên ở nước ta của

Song Thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh với xây dựng nhà nước và công tác cán bộ của

Page 23: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

18

Lê Duy Truy...

Các tác phẩm khác viết về Hồ Chí Minh liên quan đến luận án có thể kể ra như:

Tìm hiểu thêm quá trình từ Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc (qua khai thác

các tư liệu mới về nhóm yêu nước người Việt tại Pháp đầu thế kỷ XX) của Lê Thị

Kính, Hồ Chí Minh, nhà cách mạng dân tộc hiện thân của văn hóa châu Á và thời

đại của Nguyễn Văn Hồng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tuyên ngôn độc lập của chủ

tịch Hồ Chí Minh, giá trị lý luận và ý nghĩa thời đại của trường Đại học Khoa học

Huế,...

Tác phẩm của các tác giả nước ngoài về Hồ Chí Minh liên quan đến luận án có

thể kể ra là: Nền tảng văn hoá dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh của John Lê

Văn Hoá, Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam của Daniel Hémery, Hồ Chí

Minh, a Journey; Hồ Chí Minh, story on the trail của tác giả Lady Borton...

Nhóm tư liệu, tài liệu về Hồ Chí Minh cung cấp những thông tin cho thấy tác

động của nhân tố chủ quan ở đây là vai trò của lãnh tụ chính trị với sự vận động của

xã hội Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại. Quá trình tìm đường cứu nước của Người với

những bước chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, sự phủ nhận các con đường cứu

nước gắn với các kiểu nhà nước phong kiến, tư sản, khẳng định con đường cứu

nước gắn với nhà nước kiểu mới - nhà nước XHCN, những phân tích của Người về

xã hội Việt Nam, về tình hình quốc tế là những nguồn tư liệu có ý nghĩa trong việc

xem xét sự vận động về chính trị của Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại.

Nhóm tài liệu sử học liên quan đến cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam

mùa thu 1945 lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nguyên nhân, diễn

biến, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm... cung cấp các dữ liệu lịch sử luận

giải, minh hoạ cho bước chuyển thứ hai về chính trị trong giai đoạn lịch sử 1858-

1945. Đó là bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ

nhân dân. Nhóm này có thể kể ra trước hết là các nghị quyết, văn kiện của Đảng

cộng sản Đông Dương, tác phẩm của các đảng viên cộng sản ưu tú chỉ đạo cho sự

phát triển của cách mạng Việt Nam thời kỳ tiền khởi nghĩa như: Nghị Quyết trung

ương 8 tháng 5-1941, Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta...

Page 24: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

19

Ngoài ra, các tư liệu về cuộc cách mạng Tháng Tám như: Cách mạng Tháng Tám

trong mắt sử gia nước ngoài của Hoàng Thư, Cách mạng Tháng Tám, khởi đầu của

quá trình hội nhập quốc tế; Thời cơ cách mạng Tháng Tám trên bình diện quốc tế

1945 của Vũ Dương Ninh, Cách mạng Tháng Tám là sáng tạo của Trần Quang

Huy, Thêm một tư liệu lịch sử về giành chính quyền tháng 8 năm 1845 ở Việt Nam

của Nguyễn Văn Khoan, Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn độc lập của Vũ Thị Kim

Yến. Đặc biệt tác phẩm Hiến pháp 1946 cung cấp cho tác giả luận án một cái nhìn

tổng quát cũng như bản chất của một chế độ chính trị mới chưa từng có trong lịch

sử Việt Nam nhiều nghìn năm. Đó là chế độ dân chủ nhân dân.

Việc phân nhóm tư liệu, tài liệu sử học thành các nhóm nhỏ như trên chỉ có ý

nghĩa tương đối phục vụ cho nghiên cứu. Vì thực ra tư liệu trong các nhóm nhiều

khi đan xen, bao trùm, chứa đựng lẫn nhau. Ví như trong nhóm tư liệu lịch sử chung

của Việt Nam từ 1858 đến 1945 đã chứa đựng những tư liệu về cả ba chế độ chính

trị phong kiến, thực dân - phong kiến, dân chủ nhân dân ở mức độ ít nhiều. Hay như

nhóm tư liệu liên quan đến Hồ Chí Minh dù do Người viết hay do các tác giả khác

viết về Người, chúng ta có thể thấy các thông tin về lịch sử thế giới, lịch sử các

nước trong khu vực châu Á, Đông Nam Á cũng như lịch sử chung của Việt Nam

cận, hiện đại, thông tin về các chế độ chính trị, các phong trào, hoạt động chính trị,

các nhân vật chính trị...

Việc phân loại trên đặc biệt có ý nghĩa với tác giả khi tập trung khai thác thông

tin sâu về một nhóm vấn đề lịch sử cụ thể phục vụ cho việc luận giải một nội dung

nhất định mà quá trình nghiên cứu đặt ra.

b. Nhóm tư liệu, tài liệu chính trị học liên quan đến đề tài nghiên cứu

Đây là một đề tài thuộc mã ngành khoa học chính trị. Thực chất là đề tài lịch sử

chính trị nên những tư liệu chính trị học là nguồn tư liệu tối quan trọng cho việc

triển khai luận án. Nhóm tư liệu này giúp tác giả xây dựng khung lý thuyết cho việc

triển khai những nội dung cụ thể của biến đổi chính trị ở Việt Nam trong giai đoạn

lịch sử 1858-1945.

Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng việc phân thành nhóm tư liệu sử học và nhóm

Page 25: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

20

tư liệu chính trị học trong phần nghiên cứu tổng quan cũng chỉ mang tính tương đối.

Vì có những tư liệu là lịch sử chính trị có thể xếp vào nhóm tư liệu sử học hoặc tư

liệu chính trị học đều có thể được, ví như nhóm tư liệu về chính quyền thuộc địa đã

kể ra ở trên.

Trước hết phải kể đến là những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen,

V.I.Lênin về chính trị và những tác phẩm bàn về chính trị Mác xít liên quan

đến luận án như: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen, Ngày

mười tám tháng sương mù của Bonapat; Bàn về quyền uy của Ph.Ăngghen, Nguồn

gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước của Ph.Ăngghen, Nhà nước

và cách mạng của V.I.Lênin, Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin

và Hồ Chí Minh của Lê Minh Quân,... Những tác phẩm loại này củng cố thêm nhận

thức của tác giả về khái niệm chính trị, sự vận động của chính trị... theo quan điểm

của chủ nghĩa Mác Lênin, khu biệt nó với nhận thức về chính trị, sự vận động của

chính trị... của các trường phái nghiên cứu khác nhau.

Tài liệu liên quan đến triết học chính trị, đến phương pháp luận chính trị

học, lý luận chung về chính trị như: Phân tích triết học những vấn đề cơ bản về

chính trị và khoa học chính trị của Nguyễn Hữu Khiển, Biện chứng của tư tưởng

Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam của Lại Quốc Khánh, Suy nghĩ thêm về quyền

lực như một phạm trù khoa học của Bùi Thanh Quất, Mối quan hệ giữa quá trình

chính trị với quá trình dân tộc trong lịch sử Việt Nam của Bùi Thanh Quất, Thiết

chế chính trị, di sản và kế thừa của Phan Huy Lê, Định chế chánh trị và tổ chức

công quyền Việt Nam của Nguyễn Văn Tường, Quyền lực của Bertrand Russel, ...

Những tư liệu liên quan trực tiếp đến lý luận chung về nhà nước như vấn đề

kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể chế, thiết chế chính trị là

những tư liệu được khai thác nhiều cho luận án. Những tư liệu này chủ yếu là các

giáo trình Chính trị học, giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của các

trường Đại học, các Học viện ở Việt Nam đã nêu trong thư mục tài liệu tham khảo.

Những tư liệu này đặc biệt có ý nghĩa với tác giả trong việc đưa ra những khái niệm

cơ bản liên quan đến luận án như khái niệm chính trị, biến đổi chính trị,...

Page 26: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

21

Nhóm tư liệu về lịch sử chính trị nói chung, lịch sử chính trị Việt Nam nói

riêng, đặc biệt lịch sử chính trị liên quan đến giai đoạn 1858-1945 cũng là một

nhóm tư liệu đặc biệt hữu ích và không thể thiếu. Đó là các tác phẩm về lịch sử các

học thuyết chính trị pháp lý, lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, lịch sử các các tổ

chức chính trị, các phong trào chính trị, đặc biệt sự vận động của phong trào giải

phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản như các cuốn: Lịch sử các học

thuyết chính trị pháp lý của Đinh Văn Mậu, , Lịch sử các học thuyết chính trị trên

thế giới do Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái dịch, Lịch sử các học thuyết chính

trị của Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2 của Lê

Sĩ Thắng, Quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu

thế kỷ XX của Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh; Sự phát triển của tư tưởng ở Việt

Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám (Tập 1,2) của Trần Văn Giàu; Việt

Nam Quốc dân Đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam của Nguyễn Văn Khánh...

Nghiên cứu biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 dù giới hạn nội hàm

khái niệm “biến đổi chính trị” trong phạm vi nào, theo nghĩa nào thì những tri thức

về lịch sử chính trị Việt Nam giai đoạn này cũng luôn luôn cần thiết và hữu ích.

Những tài liệu chuyên khảo liên quan đến những vấn đề chính trị Việt Nam

giai đoạn 1858 - 1945. Thực ra trong nhóm tư liệu, tài liệu sử học ở trên cũng đã

bao gồm những tư liệu, tài liệu này, vì trong lịch sử chung của Việt Nam cận, hiện

đại không thể không có lịch sử chính trị, song tác giả tập trung riêng thành một

nhóm vì nội dung “chính trị học” cũng như mối liên quan mật thiết của những tư

liệu, tài liệu này với đề tài nghiên cứu. Trong đó bao gồm các tư liệu, tài liệu chính

trị học liên quan đến chính quyền phong kiến như các tác phẩm của của Trần Văn

Giàu: Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1858, Sự phát triển

của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám, Tập 1: Hệ ý thức

phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử... Các tư liệu, tài liệu

chính trị học về chính trị thực dân - phong kiến, chính quyền thuộc địa như: Thể

chế chính trị Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám dưới góc nhìn hiện đại của

Lưu Văn An, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám 1945

Page 27: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

22

của Dương Kinh Quốc, Hệ thống ngạch bậc công chức của chính quyền thuộc địa ở

Bắc và Trung Kỳ qua bản nghị định năm 1936 của Nguyễn Văn Khánh, Về mô hình

nhà nước trong các tổ chức chính trị trước năm 1930 của Nguyễn Văn Khánh, Nội

các Trần Trọng Kim, bản chất, vai trò và vị trí lịch sử của Phạm Hồng Tung, Nền

tảng nội các Trần Trọng Kim (4-1945) của Nguyễn Đình Lê, ...

Liên quan đến chính trị dân chủ nhân dân như các tác phẩm: Nhà nước và

cách mạng Việt Nam những năm 1945-1946, những sáng tạo của Hồ Chí Minh của

Lê Phương Thảo, Hiến pháp 1946; Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, sự

hình thành và phát triển của Hoàng Văn Hảo; Lập nên chế độ dân chủ cộng hòa,

thắng lợi lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 của Ngô Đăng Tri.

Trong“Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam” của Lại Quốc

Khánh có những nội dung bàn về chế độ dân chủ nhân dân rất hữu ích trong việc

nghiên cứu triển khai đề tài này. Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng tuy xếp vào

nhóm tư liệu chính trị học, nhưng nhiều tác phẩm vừa được kể ra ở trên là tác phẩm

sử học mang thông tin chính trị học.

Nội dung chủ yếu của đề tài bàn về biến đổi chính trị thời kỳ cận, hiện đại ở

nước ta. Đây là nội dung mới của chính trị học, đồng thời là lĩnh vực nhạy cảm, có

tác động sâu sắc và toàn diện đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong

một thời kỳ lịch sử gần trăm năm đã qua và còn lâu dài về sau. Do đó, ngoài các tài

liệu lịch sử và tài liệu chính trị học kể trên, để triển khai luận án, tác giả còn tham

khảo một lượng tài liệu nhất định liên quan đến vấn đề phương pháp luận, đến

tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, lịch sử, truyền thống... của đất

nước, con người Việt Nam, đến mối quan hệ giữa chính trị với các lĩnh vực

khác nhau của đời sống xã hội, đến quy luật và xu hướng phát triển chung của

xã hội hiện đại... Các tài liệu thuộc loại này được dùng tham khảo cho luận án khá

đa dạng, phong phú được trình bày trong thư mục tài liệu tham khảo của luận án.

Page 28: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

23

1.1.2. Tổng quan các vấn đề đã được nghiên cứu

Thông qua phần tổng quan tư liệu, tài liệu với những nhóm vấn đề đã được

khái quát ở trên, có thể thấy phần nào những nội dung đã được nghiên cứu liên

quan đến đề tài mà tác giả lựa chọn. Có thể tổng hợp lại như sau:

Thứ nhất, đã có những công trình nghiên cứu liên quan đến “biến đổi chính

trị” ở Việt Nam cũng như “biến đổi chính trị” trên thế giới trong lịch sử tồn tại và

phát triển của nhân loại, song chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp đến

vấn đề được nêu ra trong luận án (tức biến đổi chính trị từ 1858 đến 1945). Cho dù

nhiều nghiên cứu đề cập tới những vấn đề với những tên gọi khác nhau cũng có

những nội dung gần gũi với khái niệm “biến đổi chính trị” được nêu trong luận án.

Ví như C.Mác, Ph.Ăngghen bàn tới sự thay thế hình thái kinh tế xã hội này bởi một

hình thái kinh tế xã hội khác, trong sự vận động đó, các ông có bàn tới sự vận động

của kiến trúc thượng tầng trong đó có sự thay đổi thiết chế nhà nước, sự thay đổi từ

giai cấp cầm quyền này sang giai cấp cầm quyền khác. Thực chất trong đó có “điều

được gọi” là (theo luận án này) “biến đổi chính trị”. Sự vận động từ chế độ cộng sản

nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ, từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ

phong kiến, sang chế độ TBCN rồi tiến tới chế độ cộng sản văn minh mà nguyên

nhân sâu xa của nó chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đây thực

chất chính là sự “biến đổi chính trị” rất gần gũi với cách tiếp cận của luận án. Hay

trong lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1858, khi bàn tới sự xâm lược của phong

kiến phương Bắc với nước ta, dưới sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, một kiểu

nhà nước phong kiến đã xuất hiện ở nước ta thay cho trạng thái nhà nước Văn Lang

- Âu Lạc (một hình thức nhà nước sơ khai ở Việt Nam) thì đây cũng chính là “biến

đổi chính trị” theo cách nhìn của luận án này. Như vậy, có thể thấy, dù chưa có

công trình nào gọi những vận động về chính trị ấy theo cách gọi của tác giả luận án

là “biến đổi chính trị” nhưng thực chất đã có những công trình nghiên cứu về nội

dung này, song trực tiếp như đề tài mà tác giả lựa chọn thì chưa có công trình nào.

Thứ hai, khi nghiên cứu giai đoạn lịch sử từ 1858 đến 1945, đã có nhiều công

trình nghiên cứu sự vận động, biến đổi của các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.

Page 29: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

24

Sự biến đổi về kinh tế, sự biến đổi về văn hoá tư tưởng, sự biến đổi trong cấu trúc

xã hội,... Nghiên cứu về sự vận động trên lĩnh vực kinh tế có thể kể ra điển hình như

tác giả Nguyễn Văn Khánh, nghiên cứu vận động trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá

như Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, nghiên cứu sự vận động trên lĩnh vực xã hội, kết

cấu giai cấp như Nguyễn Ái Quốc... Về lĩnh vực chính trị trong giai đoạn 1858-

1945 có thể thấy:

+ Đã có các nghiên cứu về từng chế độ chính trị tồn tại trong giai đoạn lịch sử

này. Nghiên cứu về chế độ phong kiến chuyên chế nhà Nguyễn, về chế độ thuộc

địa, về chế độ dân chủ nhân dân. Điển hình cho những nghiên cứu kiểu này như các

tác phẩm “Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám 1945”

của Dương Kinh Quốc, tác phẩm “Thể chế chính trị Việt Nam trước cách mạng

Tháng Tám dưới góc nhìn hiện đại” của Lưu Văn An hay giáo trình lịch sử nhà

nước pháp luật Việt Nam của các trường Đại học, các Học viện ở nước ta... Tuy

nhiên đây là những nghiên cứu “tĩnh”, chỉ ra nội dung cụ thể của từng chế độ chính

trị thay vì chỉ ra sự vận động từ chế độ chính trị này sang chế độ chính trị khác.

Luận án của tác giả tập trung nghiên cứu “sự biến đổi” tức một trạng thái “động”

thay vì trạng thái tĩnh mà các nghiên cứu vừa chỉ ra ở trên đã đề cập đến.

+ Trong giai đoạn 1858- 1945, đã có những công trình nghiên cứu mang tính

chính trị học về từng bước chuyển. Hoặc từ chế độ phong kiến độc lập sang chế độ

thuộc địa, hoặc từ chế độ thuộc địa sang chế độ dân chủ nhân dân gắn với hai mốc:

Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Pháp và cuộc cách mạng Tháng Tám năm

1945. Gắn với mỗi bước chuyển này là nhiều biến cố lịch sử khác nhau, nhiều sự

kiện lịch sử đa dạng, phong phú. Sự chuyển biến về tư tưởng chính trị, sự chuyển

biến về tổ chức bộ máy chính quyền, sự xuất hiện của các lãnh tụ chính trị, sự vận

động của các phong trào chính trị... Tuy nhiên vì chỉ nghiên cứu riêng từng bước

chuyển do đó không cho phép chúng ta có thể nhìn thấy một sự vận động liên tục và

liền mạch của lịch sử chính trị Việt Nam cận, hiện đại như điều mà luận án mong

muốn hướng tới..

+ Cũng đã có những công trình đề cập tới cả hai bước chuyển này từ phong

Page 30: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

25

kiến sang thực dân - phong kiến rồi sang dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, khi nghiên

cứu cả hai bước chuyển này thì các tác giả chủ yếu tiếp cận từ góc độ sử học thiên

về sự kiện, biến cố lịch sử theo hướng mô tả lịch sử, hoặc nếu tiếp cận từ giác độ

chính trị học thì tập trung vào một nội dung hẹp ví như nghiên cứu sự biến chuyển

tư tưởng chính trị hoặc sự vận động của các phong trào chính trị trong giai đoạn

1858-1945). Đây không phải là nội dung mà tác giả luận án muốn đề cập.

Khái quát lại, có thể thấy, liên quan đến đề tài luận án, có nhiều công trình

nghiên cứu đã đề cập tới ở khía cạnh này, khía cạnh kia. Đã có những công trình

nghiên cứu có nội dung rất gần với khái niệm “biến đổi chính trị” được sử dụng

trong luận án song không nghiên cứu vấn đề này trong giai đoạn từ 1858 đến 1945.

Mặt khác, cũng có những công trình nghiên cứu giai đoạn 1858-1945 về sự vận

động trên các mặt kinh tế, văn hoá, tư tưởng, xã hội. Về chính trị, giai đoạn này, các

nghiên cứu hoặc là nghiên cứu vấn đề ở trạng thái “tĩnh”, hoặc cũng có những

nghiên cứu ở trạng thái “động” song không hoàn toàn giống như cách tiếp cận của

luận án. Luận án tiếp cận từ góc nhìn chính trị học để vạch ra sự vận động có tính

quy luật của chính trị Việt Nam cận, hiện đại, tập trung vào sự thay đổi giai cấp

cầm quyền gắn với thay đổi kiểu nhà nước và hình thức nhà nước, chế độ chính trị,

thể chế nhà nước. Từ giác độ nghiên cứu của khoa học chính trị giúp người đọc có

thể hình dung một cách rõ nét, có căn cứ khoa học về con đường phát triển liền

mạch của Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại và tương lai trong tương quan so sánh

với con đường phát triển của các nước trong khu vực, từ đó vững tin trên con đường

mà chúng ta đã chọn thì cũng chưa có công trình khoa học nào đề cập một cách trực

tiếp như cách đặt vấn đề của luận án.

Như vậy, nghiên cứu về “Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945”

có thể và cần phải được đặt ra. Từ những lý do cơ bản trên, tác giả lựa chọn đề tài:

“Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945” cho luận án tiến sĩ chính trị

học của mình.

Page 31: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

26

1.2. Một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị

1.2.1. Quan niệm về chính trị, biến đổi chính trị

a. Quan niệm về chính trị và cách sử dụng một số thuật ngữ liên quan

Chúng ta đang sống trong một xã hội chính trị, tức là xã hội trong đó còn tồn tại

giai cấp, còn nhà nước. Chính trị là một vấn đề được đề cập hàng ngày trên các

phương tiện thông tin đại chúng. Chính trị ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống chung

của cả cộng đồng cũng như số phận mỗi cá nhân. Cùng với sự phát triển về mọi mặt

của đời sống xã hội, sự quan tâm của con người đến chính trị ngày một gia tăng.

Tuy nhiên, không phải đến bây giờ con người mới quan tâm đến chính trị, mà chính

trị là một vấn đề được quan tâm từ rất sớm trong lịch sử phát triển nhân loại. Các

trường phái nghiên cứu khác nhau có nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. Luận

án tiếp cận chính trị trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin.

Về sự ra đời của chính trị, có thể thấy, chính trị là một hiện tượng lịch sử, xuất

hiện trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người trên những tiền

đề về kinh tế, xã hội... xác định. Khi loài người vừa xuất hiện trên trái đất, chưa có

chính trị. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là xã hội tiền chính trị, con người sống với

nhau bình đẳng trong thị tộc, bộ lạc. Những thành viên của thị tộc, bộ lạc không

chịu sự ép buộc, áp đặt của người chỉ huy. Mọi người tham gia vào thị tộc, bộ lạc

một cách hoàn toàn tự nhiên, theo bản năng vì nếu tách khỏi cộng đồng đó, con

người khó lòng tồn tại. Họ chưa ý thức được lợi ích cũng như tính tất yếu của việc

tham gia. Thị tộc lập ra Hội đồng thị tộc để tổ chức và quản lý thị tộc. Hội đồng thị

tộc là cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc, quyết định của Hội đồng thể hiện ý

chí chung của tất cả các thành viên trong thị tộc đó. Hội đồng này bầu ra những

người đứng đầu để quản lý các công việc chung. Tuy nhiên, quyền lực của Hội

đồng và người đứng đầu hoàn toàn không dựa trên một bộ máy cưỡng chế đặc biệt

nào và người đứng đầu không có bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào. Sản xuất ngày

càng phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng cao (qua 3 lần phân công lao

động xã hội: sự tách biệt của ngành chăn nuôi khỏi trồng trọt, sự tách biệt của thủ

công nghiệp khỏi ngành nông nghiệp, sự ra đời của thương nghiệp), sự xuất hiện

Page 32: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

27

của cải thừa và sự chiếm đoạt của thừa, vốn là của chung của cộng đồng, thành của

riêng của một nhóm người dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu. Giai cấp xuất hiện.

Tập đoàn người chiếm đoạt tư liệu sản xuất trở thành giai cấp thống trị, số đông còn

lại trong xã hội trở thành giai cấp bị thống trị. Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy

bạo lực và sử dụng nó như công cụ nhằm tổ chức xã hội theo một trật tự có lợi nhất

cho giai cấp mình. Nhà nước ra đời, chính trị xuất hiện. Như vậy, từ chế độ chiếm

hữu nô lệ, loài người bước vào trạng thái xã hội chính trị. Trạng thái này tiếp tục

kéo dài tới chế độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Xã hội chính trị phát triển ngày

càng phong phú với các biểu hiện đa dạng của nó. Xã hội chính trị là xã hội có giai

cấp, có nhà nước. Gắn với sự phát triển của xã hội loài người từ hình thái kinh tế xã

hội chiếm hữu nô lệ tới hình thái kinh tế xã hội phong kiến, TBCN rồi tới XHCN là

sự biến đổi từ chính trị chiếm hữu nô lệ sang chính trị phong kiến, tới chính trị tư

sản rồi sang chính trị quá độ lên CNXH. Đây là bước phát triển tất yếu tiến tới văn

minh trong sự phát triển của xã hội loài người do sự tiến hóa không ngừng của lực

lượng sản xuất.

Đến xã hội XHCN, dù không còn cơ sở kinh tế cho đối kháng giai cấp, nhưng

các giai cấp với các lợi ích khác biệt nhau vẫn tồn tại, Nhà nước vẫn còn, đó vẫn là

một xã hội chính trị. Chỉ tới xã hội cộng sản văn minh, khi lực lượng sản xuất phát

triển ở trình độ cao, chế độ tư hữu tư liệu sản xuất không còn nữa, giai cấp biến mất,

nhà nước tiêu vong, lúc đó sẽ không còn chính trị. Loài người sẽ sống trong trạng

thái xã hội phi chính trị. Thay cho xã hội cũ “với những giai cấp và đối kháng giai

cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người sẽ

là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[88,tr.628]. Như vậy, chính

trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện trong quá trình tồn tại, phát triển của xã hội

loài người. Chính trị có quá trình ra đời trên những tiền đề nhất định về kinh tế, xã

hội. Nó tồn tại, phát triển và sẽ tiêu vong khi những tiền đề cho sự tồn tại của nó

không còn nữa.

Theo V.I. Lênin: “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước,

là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội

Page 33: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

28

dung hoạt động của nhà nước” [77,tr.404].

Cùng với việc đưa ra quan niệm như trên về chính trị, V.I. Lênin cũng khẳng

định: “Vấn đề chính quyền là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Giai

cấp nào giữ chính quyền, điều đó quyết định tất cả” [78, tr.268]

Chính trị gắn liền với chính quyền. Giai cấp nào nắm chính quyền (hay giai cấp

cầm quyền), thì chính quyền đó sẽ chịu sự chi phối của hệ tư tưởng chính trị của

giai cấp đó với những con người chính trị cụ thể đại diện cho lợi ích của giai cấp

cầm quyền. Giai cấp cầm quyền sẽ tổ chức bộ máy nhà nước, tìm phương thức thực

thi quyền lực nhà nước một cách phù hợp nhất với những điều kiện khách quan, chủ

quan hiện có và theo hướng có lợi nhất cho lợi ích của giai cấp cầm quyền. Mọi

hoạt động chính trị, phong trào chính trị, quyết sách chính trị trong ngắn hạn cũng

như dài hạn do giai cấp cầm quyền khởi xướng suy cho cùng dù phải tính tới lợi ích

của các giai cấp khác thì cũng hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi ích cho giai cấp

cầm quyền.

Khái niệm chính trị có nội hàm rộng lớn. Bất kì hoạt động nào trong xã hội dù

là hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội... cũng có thể có tính chất chính trị nếu như

việc giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới lợi ích của giai cấp cầm

quyền, gắn với chính quyền nhà nước, gắn với lợi ích dân tộc.

Hồ Chí Minh, trong tác phẩm “Thường thức chính trị” [97, tr.201] đã đưa ra 49

nội dung nghiên cứu khác nhau về chính trị trong đó nội hàm của chính trị đã được

thể hiện khá cụ thể và sinh động. Xoay quanh 49 nội dung được phân tích luận giải

trong tác phẩm này, có thể thấy vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân, vấn đề

tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như của các tổ chức chính trị, đặc

biệt là đảng chính trị để đem lại lợi ích cao nhất cho nhân dân Việt Nam là vấn đề

chính trị được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.

Có thể quan niệm một cách chung nhất, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin,

“chính trị là phạm vi hoạt động gắn với quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và

các nhóm lợi ích xã hội khác nhau, mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và

sử dụng quyền lực nhà nước” [51,tr.15]

Page 34: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

29

Để hiểu rõ hơn về chính trị, chúng ta có thể nhận diện chính trị với mấy biểu

hiện chủ yếu. Các biểu hiện đó có thể coi là các yếu tố cấu thành chính trị:

- Con người chính trị gắn với lý luận chính trị, tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng

chính trị, nghĩa vụ chính trị và lợi ích chính trị mà họ theo đuổi.

- Thể chế chính trị, hệ thống bộ máy quyền lực: Đảng, Nhà nước, các tổ chức

chính trị - xã hội và quan hệ giữa chúng

- Các hoạt động chính trị, các phong trào chính trị.

- Các quyết sách chính trị như quan điểm, đường lối, chính sách chính trị.

- Lý luận quan hệ quốc tế như: hệ thống các quan hệ quốc tế, bản chất các cuộc

chiến tranh, các vấn đề dân tộc và chính trị thế giới, con đường củng cố hoà bình,

cùng tồn tại hoà bình của các quốc gia [51,tr.32]...

Dù tiếp cận chính trị từ biểu hiện nào của nó thì một nguyên tắc phương pháp

luận là các biểu hiện trên của chính trị không tồn tại biệt lập mà có quan hệ cấu trúc

với nhau. Do đó, dù nghiên cứu chính trị gắn với con người chính trị, lý luận chính

trị, hệ tư tưởng chính trị hay nghiên cứu chính trị dưới góc độ thể chế, bộ máy

quyền lực; hoạt động chính trị, phong trào chính trị, quyết sách chính trị ít nhiều

cũng liên quan đến các phương diện còn lại.

Có nhà nghiên cứu tiếp cận chính trị từ một cách khác, đó là từ “hai phương

diện chủ yếu” của chính trị:

Bất kỳ một nền chính trị nào cũng bao gồm hai phương diện chủ yếu:

phương diện bạo lực và phương diện xây dựng, tương quan giữa hai phương

diện đó thể hiện tính chất và trình độ dân chủ của một chế độ xã hội. Phương

diện bạo lực bao giờ cũng cần tới những khoa học giúp cho chính trị tăng

cường sức mạnh bạo lực, còn phương diện xây dựng lại cần tới những khoa

học mang tính nhân văn. Chính vì lẽ đó mà trong biết bao thế kỷ, các chế độ

chuyên chế xưa kia chỉ coi trọng những nhà chế tạo vũ khí [162, tr.9]

Nói đến chính trị, người ta thường đề cập tới khái niệm đời sống chính trị. Theo

tác giả, các yếu tố cấu thành chính trị trong mối quan hệ tổng hoà với nhau trong

một không gian, thời gian nhất định tạo thành đời sống chính trị của một quốc gia,

Page 35: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

30

dân tộc trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Khi xem xét đời sống chính trị của một

quốc gia thì yếu tố trung tâm không thể bỏ qua là sự tồn tại và hoạt động của chính

quyền nhà nước và ảnh hưởng của nó đến các vấn đề chính trị khác.

Do đó, cũng có thể tiếp cận chính trị thông qua những nội dung chủ yếu của đời

sống chính trị (nội dung này có nhiều điểm trùng hợp với các yếu tố cấu thành

chính trị ở trên) gồm:

- Tư tưởng, hệ tư tưởng chính trị

- Hệ thống chính trị (đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, mối

quan hệ giữa chúng, các cơ chế, nguyên tắc vận hành hệ thống chính trị…)

- Các quá trình chính trị

- Con người chính trị và văn hóa chính trị….

Thật không đơn giản để đưa ra một câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi chính trị là gì.

Cần nhìn chính trị từ các góc nhìn khác nhau, trên những lát cắt khác nhau mới có

thể có một câu trả lời thoả đáng. Chẳng hạn như, nếu nhìn chính trị từ phương diện

con người thì cần nghiên cứu: ý thức chính trị, niềm tin chính trị, tư tưởng chính trị,

văn hoá chính trị, hành vi chính trị, con người chính trị. Nếu nhìn chính trị từ

phương diện kĩ thuật thì cần nghiên cứu: các mô hình thể chế, thiết chế chính trị, hệ

thống chính trị, các công nghệ chính trị, …Chúng ta cần căn cứ theo từng trường

hợp cụ thể để có những cách tiếp cận phù hợp.

Nói đến chính trị, không thể không bàn đến quyền lực chính trị. Đây là khái

niệm trung tâm của khoa học chính trị. C. Mác và Ph.ăng ghen trong “Tuyên ngôn

đảng cộng sản” khẳng định rằng: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là

bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [88, tr.628].

Tuy nhiên, trong khoa học chính trị còn có khái niệm quyền lực nhà nước. Vậy

mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước được thể hiện như

thế nào? Vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Mục tiêu

chính trị cao nhất của một giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp là giành được

quyền lực nhà nước, nghĩa là quyền được tổ chức xã hội như một chỉnh thể thành

nhà nước (nhà nước - xã hội), bằng bộ máy nhà nước (nhà nước - bộ máy) hay

Page 36: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

31

chính là bộ máy chính quyền. Và, quyền lực nhà nước được hiểu là quyền lực chính

trị của giai cấp cầm quyền [124]. Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị nhưng

không phải mọi quyền lực chính trị đều là quyền lực nhà nước. Trong xã hội chính

trị, có quyền lực chính trị của giai cấp thống trị thì cũng có quyền lực chính trị của

giai cấp bị thống trị. Quyền lực chính trị của giai cấp bị thống trị không phải là

quyền lực nhà nước. Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay

đổi căn bản của quyền lực nhà nước bằng việc chuyển chính quyền nhà nước từ

tay giai cấp này sang tay giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn tới thay đổi căn bản tính

chất của chế độ chính trị.

Quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, nó sẽ được sử dụng trước hết

để phục vụ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực đó. Tuy nhiên khi phục vụ cho lợi ích

của giai cấp cầm quyền, nó không thể không phục vụ lợi ích của bộ phận còn lại

trong xã hội ở chừng mực nhất định. Đó là chức năng giai cấp và chức năng xã hội

của nhà nước. Mối quan hệ giữa hai chức năng này sẽ cho thấy phần nào bản chất

thực sự của một nền chính trị. Xu hướng vận động hợp quy luật của chính trị trong

lịch sử là chức năng giai cấp sẽ ngày càng giảm đi nhường chỗ cho chức năng xã

hội.

Quyền lực chỉ nảy sinh trong mối quan hệ, quyền lực chính trị cũng vậy. Trong

mối quan hệ quyền lực này, một bên sẽ là lực lượng nắm giữ quyền lực chính trị và

bên kia là đối tượng chịu sự chi phối của quyền lực chính trị. Khi quyền lực chính

trị đã chuyển thành quyền lực nhà nước, giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước (giai

cấp cầm quyền) thường là giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất của một phương

thức sản xuất thống trị trong xã hội. Giai cấp đó có thế lực về kinh tế và do đó nắm

quyền tổ chức xã hội như chỉnh thể thành nhà nước, trở thành giai cấp thống trị xã

hội. Đứng trong bộ máy quyền lực của giai cấp thống trị, tức là trong bộ máy nhà

nước thì không phải là toàn bộ giai cấp thống trị mà là đại diện của giai cấp ấy. Lực

lượng đại diện ấy với quyền lực nhà nước trong tay sẽ làm mọi việc để mưu cầu lợi

ích cho toàn bộ giai cấp thống trị trong đó có bản thân họ.

Trong thực tế, lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước không phải bao giờ cũng

Page 37: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

32

là một giai cấp mà có thể là liên minh giai cấp, một lực lượng xã hội nào đó hoặc

liên minh các lực lượng xã hội đó. Trong luận án, tác giả dùng các thuật ngữ “lực

lượng nắm giữ quyền lực nhà nước”, “lực lượng cầm quyền”, “giai cấp nắm giữ

quyền lực nhà nước”, “giai cấp cầm quyền”, “giai cấp thống trị” để chỉ lực lượng

này. Trong luận án này, lực lượng này có thể là giai cấp địa chủ phong kiến Việt

Nam, giai cấp tư sản Pháp hoặc GCCN, nhân dân Việt Nam.

Đại diện của giai cấp thống trị trong bộ máy nhà nước của giai cấp đó trong

luận án này được tác giả định danh bằng các thuật ngữ như: “lực lượng đại diện

trực tiếp của giai cấp cầm quyền”, “lực lượng trực tiếp nắm giữ quyền lực nhà

nước”, “lực lượng trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước”. Họ có thể là vua quan

nhà Nguyễn đại diện cho giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam. Họ cũng có thể là

thực dân Pháp ở Đông Dương, ở Việt Nam là một bộ phận của giai cấp tư sản Pháp.

Tuy nhiên, khi đặt giai cấp bị thống trị trong tương quan đối lập với giai cấp

thống trị, nhiều trường hợp tác giả sử dụng thuật ngữ “lực lượng nắm giữ quyền lực

nhà nước”, “lực lượng cầm quyền”, “giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước”, “giai

cấp cầm quyền”, “giai cấp thống trị” là để chỉ toàn bộ giai cấp thống trị hoặc đại

diện của giai cấp đó trong bộ máy nhà nước của họ. Chẳng hạn, khi tác giả dùng

thuật ngữ “lực lượng cầm quyền” thì có thể hiểu là bọn thực dân Pháp ở Đông

Dương, ở Việt Nam hoặc toàn bộ giai cấp tư sản Pháp.

Giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước có vai trò và khả năng to lớn trong việc

chi phối các quá trình, các diễn biến chính trị trong xã hội. Giai cấp thống trị sử

dụng bộ máy nhà nước để tổ chức xã hội theo hướng tối đa hoá lợi ích của họ đồng

thời trấn áp các giai cấp, lực lượng xã hội khác khi họ có biểu hiện chống lại sự áp

đặt của giai cấp thống trị. Với các giai cấp không thống trị xã hội, với tư cách là chủ

thể quyền lực chính trị của mình, họ sử dụng quyền lực ấy để đấu tranh với mục tiêu

trực tiếp là giành cho mình vị thế chính trị ngày càng cao trong xã hội, làm sao để

gây ảnh hưởng với nhà nước, làm cho tiếng nói của họ ngày càng có trọng lượng

đối với các quyết định chính trị của giai cấp cầm quyền. Tất cả sự tranh đấu đó

nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là giành về tay mình quyền tổ chức xã hội như

Page 38: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

33

chỉnh thể thành nhà nước phù hợp với lợi ích căn bản của giai cấp mình.

Ngoài những thuật ngữ trên, trong luận án, tác giả nhiều lần sử dụng các thuật

ngữ sau:

Chính quyền thuộc địa là khái niệm chỉ bộ máy nhà nước mà giai cấp tư sản

Pháp thiết lập ở thuộc địa Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung sau khi

chúng thôn tính được vùng đất này. Chính quyền này gồm hai bộ phận đó là: chính

quyền thực dân và chính quyền phong kiến bản xứ. Chính quyền thực dân là chính

quyền mà thực dân Pháp ở Việt Nam (lực lượng đại diện cho giai cấp tư sản Pháp)

trực tiếp nắm giữ những vị trí chủ chốt trong bộ máy quyền lực. Chính quyền này

chính là nhà nước bảo hộ. Chính quyền phong kiến bản xứ là chính quyền phong

kiến cũ được thực dân Pháp giữ lại và cải biến theo chủ đích của mình để phục vụ

cho việc thực hiện mục tiêu chính trị của chúng. Trong luận án, khái niệm chính

quyền thuộc địa và khái niệm chính quyền thực dân - phong kiến hay nhà nước thực

dân - phong kiến có thể được dùng với ý nghĩa như nhau.

Nói đến chính trị không thể không bàn đến nhà nước. Vấn đề giành, giữ và thực

thi quyền lực nhà nước là một trong những nội dung chủ đạo khi bàn tới chính trị và

các vấn đề chính trị. Căn cứ vào lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác

- Lênin, người ta đưa ra khái niệm kiểu nhà nước và phân loại nhà nước theo các

kiểu này. “Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù

của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của

nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [168,tr.56].

Khi đề cập đến kiểu nhà nước, người ta hiểu đó là nhà nước của giai cấp nào,

tồn tại trên nền tảng kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.

Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử xã hội có giai cấp là

bốn kiểu nhà nước đó là: Kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu

nhà nước tư sản và kiểu nhà nước XHCN. Ba kiểu đầu là những kiểu nhà nước của

giai cấp bóc lột, được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư kiệu sản xuất, là công

cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự bóc lột của giai cấp thống

trị đối với đông đảo quần chúng lao động. Nhà nước XHCN là kiểu nhà nước mới,

Page 39: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

34

dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, có bản chất khác với các kiểu nhà nước

của giai cấp bóc lột. Nhà nước XHCN thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội [168,tr.56,57]

Sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử là một tất yếu khách quan. Thông

thường, nó được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã hội như ở nước Pháp

năm 1789 hoặc bằng những cuộc cải cách có tính cách mạng như ở nước Nhật năm

1868 với phong trào Minh Trị Duy Tân. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra

tiến trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử

phát triển nhân loại. Từ hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thủy tiến lên hình

thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, tới phong kiến, TBCN rồi XHCN. Tương ứng

với sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử là sự thay đổi từ kiểu nhà

nước chiếm hữu nô lệ sang kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản rồi kiểu

nhà nước XHCN. Sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử cũng thể hiện sự tiến

triển của loài người về văn minh chính trị. Tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi

quốc gia dân tộc mà sự thay thế kiểu nhà nước ở các nước khác nhau diễn ra theo

những cách thức hết sức khác nhau.

Trong một kiểu nhà nước, giai cấp cầm quyền có nhiều cách tổ chức và thực thi

quyền lực nhà nước, hay nói cách khác, có nhiều hình thức nhà nước khác nhau.

Hình thức nhà nước chính là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương

pháp để thực thi quyền lực nhà nước. Mỗi kiểu nhà nước thường có những hình

thức nhà nước đặc trưng nhất định. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành các

hình thức nhà nước là: Cơ sở kinh tế của nhà nước; tương quan lực lượng giữa các

giai cấp, các tầng lớp trong xã hội; mức độ gay gắt của cuộc đấu tranh giành và giữ

chính quyền; đặc điểm lịch sử, truyền thống dân tộc; hoàn cảnh quốc tế và các điều

kiện khác có ảnh hưởng khi thành lập nhà nước; trình độ dân trí...

Hình thức nhà nước gồm hình thức chính thể và hình thức cấu trúc nhà nước.

Khi bàn tới hình thức chính thể, người ta đề cập tới cách thức, trình tự để lập ra

các cơ quan cao nhất của nhà nước và mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau.

Khi quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người

Page 40: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

35

đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thế tập, ta có chính thể quân chủ. Còn khi

quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về một cơ quan được nhân dân hoặc tầng lớp

quý tộc bầu ra trong một thời gian nhất định, ta có chính thể cộng hoà. Ngoài hai

hình thức chính thể cơ bản như trên, còn có thể có những hình thức chính thể biến

dạng như chính thể quân chủ tuyệt đối (hay quân chủ chuyên chế), chính thể quân

chủ hạn chế, chính thể cộng hoà quý tộc và chính thể cộng hoà dân chủ. Khi người

đứng đầu nhà nước nắm giữ toàn bộ quyền lực tối cao của nhà nước, toàn quyền

quyết định các vấn đề đối nội, đối ngoại của nhà nước mà không có bất cứ sự chia

sẻ nào ta có chính thể quân chủ tuyệt đối. Việt Nam thời các vua Nhà Nguyễn trị vì

đến trước 1858 thuộc loại này. Khi quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan cao

nhất của nhà nước thuộc về đông đảo nhân dân (chứ không chỉ thuộc về tầng lớp

quý tộc) chúng ta có chính thể cộng hoà dân chủ. Việt Nam sau cách mạng Tháng

Tám năm 1945 thuộc loại này.

Hình thức cấu trúc nhà nước là cách cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành

chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa các đơn vị hành chính lãnh thổ với nhau cũng

như mối quan hệ giữa trung ương với địa phương [33,tr.56]. Cấu trúc nhà nước có

hai loại là nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang. Nhà nước Việt Nam thời nhà

Nguyễn đến khi bị thực dân Pháp xâm lược (1858) là một nhà nước đơn nhất trong

đó chủ quyền chung do triều đình phong kiến đứng đầu là các Vua nhà Nguyễn nắm

giữ, có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ Trung ương xuống địa

phương, có một hệ thống pháp luật thống nhất trong cả nước và chỉ tồn tại một loại

quy chế thần dân. Khi Pháp thôn tính nước ta, đặc biệt khi Liên bang Đông Dương

thuộc Pháp ra đời năm 1887, Việt Nam trở thành một yếu tố, một phần tử của Liên

bang này. Đến lượt nó, Liên bang Đông Dương lại chỉ là một phần tử của một hệ

thống lớn hơn đó là nhà nước tư sản Pháp với nhà nước ở chính quốc và nhà nước

thực dân ở các thuộc địa của Pháp. Thời Pháp thuộc, nước Việt Nam thống nhất

trước đây bị chia thành ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các quy chế cai trị

khác nhau cho mỗi kỳ.

Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước.

Page 41: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

36

Các phương pháp này rất đa dạng song được phân thành hai loại chính là các

phương pháp dân chủ và các phương pháp phản dân chủ. Trong thời kỳ thuộc Pháp

nửa sau thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX, dưới sự cai trị chuyên chế, phản động của

thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam không có chút quyền tự do dân chủ nào. Cho tới

khi chế độ dân chủ cộng hoà được thành lập sau cách mạng Tháng Tám năm 1945,

chế độ mới bằng phương pháp quản lý dân chủ đã đem lại những quyền lợi cơ bản,

thiết thực cho đông đảo nhân dân Việt Nam.

Trong luận án sử dụng khái niệm “chế độ thuộc địa” chỉ chế độ chính trị mà

thực dân Pháp thiết lập ở thuộc địa Việt Nam và Đông Dương sau khi chúng thôn

tính được vùng đất này. “Chế độ phong kiến” chỉ chế độ chính trị mà giai cấp địa

chủ phong kiến Việt Nam thiết lập ở nước ta trong lịch sử mà liên quan trực tiếp tới

nội dung luận án là chế độ phong kiến nhà Nguyễn. “Chế độ dân chủ cộng hòa” hay

“chế độ dân chủ nhân dân” là chế độ chính trị mà nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh

đạo của đảng cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thiết lập sau thành

công của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thể chế chính trị: là một hệ thống bao gồm các quy định, luật lệ, giá trị, chuẩn

mực tạo nên nguyên tắc tổ chức và cách thức vận hành của chế độ chính trị, là hình

thức biểu hiện các thành tố của hệ thống chính trị đồng thời là cơ sở chính trị - xã

hội quy định tính chất, nội dung của chế độ chính trị nhằm đảm bảo duy trì, củng

cố, thực hiện quyền lực và lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Thể chế chính trị

gồm thể chế của đảng chính trị, thể chế nhà nước, thể chế của các tổ chức chính trị -

xã hội... trong đó thể chế nhà nước là cơ bản và quan trọng nhất. Thể chế nhà nước

là những quy định của pháp luật do nhà nước ban hành được đảm bảo thực hiện

bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước và có tính bắt buộc chung đối với toàn xã

hội.

Kiểu nhà nước, hình thức nhà nước và chế độ chính trị có quan hệ chặt chẽ với

nhau. Trong một kiểu nhà nước nhất định thường có các hình thức nhà nước đặc

thù và gắn với một chế độ chính trị tương ứng. Tính chất, nội dung của chế độ

chính trị lại được quy định thông qua thể chế chính trị, đặc biệt là thể chế nhà

Page 42: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

37

nước.

Để một sự cai trị chính trị được thực hiện, cần có cơ sở về mọi mặt từ chính

trị đến kinh tế, văn hoá, xã hội… và chính những cơ sở đó cũng cho thấy bản chất

của một nền chính trị: tiến bộ hay phản động, phục vụ đông đảo người lao động hay

áp bức người lao động để làm lợi cho một thiểu số người thuộc giai cấp cầm quyền.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng, khi một chính quyền củng cố cơ sở về mọi mặt

cho sự cai trị chính trị của nó cũng chính là gieo những hạt mầm cho sự phủ nhận

và thủ tiêu chính bản thân nó. Do đó, cơ sở cho sự tồn tại và khẳng định một nền

chính trị này lại chính là tiền đề cho việc xuất hiện một nền chính trị mới thay thế

nó.

Như vậy, có thể thấy, chính trị là một khái niệm phức tạp. Luận án tiếp cận

chính trị trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin theo các yếu tố cấu thành của

chính trị, theo các nội dung hợp thành đời sống chính trị của một quốc gia, dân tộc.

Trong đó, nhà nước là vấn đề trung tâm của chính trị. Vấn đề giai cấp nào nắm giữ

quyền lực nhà nước, kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể chế

nhà nước là những vấn đề chính trị được tác giả luận án quan tâm khai thác trong

công trình này.

b. Quan niệm về biến đổi chính trị

Từ quan niệm về chính trị ở trên, tác giả đưa ra quan niệm về biến đổi chính trị

như khái niệm công cụ cho việc nghiên cứu biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858

đến 1945.

Các nghiên cứu chính trị học chính thống ở Việt Nam từ trước đến nay chưa có

một quan niệm cụ thể nào về “biến đổi chính trị”. Từ nội hàm rộng và tính phức tạp

của khái niệm chính trị, có thể thấy “biến đổi chính trị” cũng là một khái niệm phức

tạp, đa nghĩa.

Tiếp cận từ các yếu tố cấu thành chính trị, từ nội dung của đời sống chính trị có

thể hiểu theo nghĩa chung nhất, biến đổi chính trị là sự biến đổi trong các yếu tố

cấu thành chính trị, biến đổi nội dung của đời sống chính trị. Theo nghĩa này,

biến đổi chính trị gồm: biến đổi hệ tư tưởng chính trị, biến đổi thể chế, chế độ chính

Page 43: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

38

trị, biến đổi của các quá trình chính trị, biến đổi văn hóa chính trị, con người chính

trị… Sự biến đổi của từng yếu tố cấu thành chính trị trên không tách rời nhau mà

quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau theo nghĩa sự thay đổi yếu tố này của

chính trị dẫn tới những thay đổi trong các yếu tố khác của chính trị. Và đến lượt nó,

sự thay đổi đó lại là nguyên nhân cho những thay đổi khác của chính trị.

Tiếp cận từ bản chất giai cấp của chính trị, có thể hiểu biến đổi chính trị là biến

đổi cơ cấu giai cấp và quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đối với việc

tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước. Hạt nhân của biến đổi chính trị hiểu theo

nghĩa này là sự thay đổi giai cấp cầm quyền. Và chính sự thay đổi giai cấp cầm

quyền sẽ dẫn tới thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể

chế nhà nước.

Sự thay đổi giai cấp cầm quyền gắn với sự thay đổi kiểu, hình thức nhà nước,

thể chế nhà nước và chế độ chính trị là vấn đề mà luận án muốn bàn tới.

Nếu khảo sát biến đổi chính trị theo nghĩa chung nhất, sẽ phải khảo sát sự biến

đổi trong toàn bộ các yếu tố cấu thành chính trị và mối quan hệ giữa chúng. Đây

không phải vấn đề tác giả muốn tập trung nghiên cứu. Trong luận án này, biến đổi

chính trị được triển khai theo hướng tập trung khảo sát sự biến đổi trong một yếu tố

cấu thành chính trị đó là bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu sự biến đổi trong

bộ máy nhà nước cũng nhiều vấn đề cần bàn (ví như con người trong bộ máy nhà

nước, quy trình đưa ra các quyết sách chính trị trong bộ máy nhà nước, tính chất kỹ

thuật trong tổ chức bộ máy nhà nước…). Trong luận án, tác giả không nghiên cứu

mọi nội dung biến đổi trong bộ máy nhà nước. Tất nhiên đó là về mặt phương pháp

luận. Trên thực tế, khi nghiên cứu biến đổi chính trị của quốc gia, dân tộc dù theo

nghĩa nào thì cũng không thể không đề cập tới những biến đổi nhất định trong đời

sống chính trị của quốc gia, dân tộc đó.

Page 44: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

39

1.2.2. Chính trị Việt Nam trong lịch sử, biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến

1945 - Một số nhận thức chung

a. Chính trị Việt Nam trong lịch sử - Những nhân tố tác động và một số đặc

điểm chủ yếu

Trên cách tiếp cận chính trị của chủ nghĩa Mác Lênin, tiểu mục này đi sâu làm

rõ những đặc điểm của chính trị Việt Nam trong lịch sử làm tiền đề cho nghiên cứu

về biến đổi chính trị ở nước ta thời cận hiện đại.

Khi nghiên cứu đề tài về lịch sử chính trị của một nước phương Đông như Việt

Nam, cùng với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về chính trị,

không thể không tìm hiểu những đặc điểm mang tính đặc thù của chính trị Việt

Nam.

Chính trị Việt Nam trong lịch sử bị chi phối bởi những yếu tố chủ yếu sau:

Thứ nhất, chính trị Việt Nam trong lịch sử chịu sự chi phối của những điều

kiện lịch sử, xã hội Việt Nam.

Khái quát các nghiên cứu của các học giả nước ngoài về văn hoá chính trị Việt

Nam nói riêng và văn hoá chính trị Á Đông nói chung, nhà nghiên cứu Phạm Hồng

Tung đã khẳng định năm điểm xuất phát cũng có thể coi như năm yếu tố chi phối

chính trị Á Đông trong đó có chính trị Việt Nam. Năm yếu tố đó là [173, tr.130]:

Một là môi trường sinh thái mang “thuỷ tính” cao hay chính là nền sản xuất

nông nghiệp lúa nước của các nước Á Đông. Chính môi trường đậm chất thuỷ tính

này tạo cho chính trị Á Đông một sự linh hoạt, mềm dẻo và độ thích nghi cao.

Hai là phương thức sản xuất châu Á - một phương thức sản xuất đặc thù của

các nước phương Đông. Đây là một phương thức sản xuất mang đặc trưng tổng hợp

của cả phương thức sản xuất theo kiểu chiếm hữu nô lệ và phương thức sản xuất

phong kiến. Trong phương thức sản xuất này ruộng đất là của chung và có sự tồn tại

dai dẳng của chế độ công xã nông thôn với chế độ tự quản.

Ba là yếu tố xã hội, sự phân hoá, phân tầng xã hội không triệt để của xã hội Á

Đông làm cho chỉ số “di động xã hội” cao. Yếu tố này chính là hệ quả của yếu tố

hai ở trên. Trong xã hội Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, việc thay đổi

Page 45: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

40

thân phận của con người từ giai tầng xã hội này sang giai tầng xã hội khác không

quá khó khăn như các xã hội trong đó có sự phân chia giai tầng, đẳng cấp gay gắt. Ở

Việt Nam “Con vua thì lại làm vua. Con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Nhưng “Khi nào

dân nổi can qua. Con vua thất thế lại ra quét chùa”.

Bốn là yếu tố tư tưởng: Châu Á là cái nôi của nhiều tôn giáo lớn và cũng là quê

hương của nhiều học thuyết chính trị nổi tiếng. Những tôn giáo và học thuyết ấy ảnh

hưởng mạnh mẽ tới văn hoá chính trị của các dân tộc trong khu vực này trong đó có

Việt Nam. Do chịu ảnh hưởng của Nho giáo, chính trị Việt Nam cũng như nhiều

nước trong khu vực có xu hướng hướng tới sự hài hoà, tôn trọng và khuất phục

quyền uy, tôn ti trật tự xã hội nhiều hơn là sự cạnh tranh. Vì vậy, chính trị Việt Nam

có xu hướng hướng tới vai trò chủ đạo của một chính đảng [173, tr.126].

Năm là giao lưu văn hoá với phương Tây và các khu vực khác của thế giới. Sự

giao lưu này có thể là do các nước châu Á chủ động hoặc là do sự cưỡng bức, áp đặt

từ một tác nhân bên ngoài. “Sự va chạm của các nền văn minh” tác động tới văn hoá

chính trị Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính “sự va chạm” này tạo ra

những nền chính trị ngoại nhập ở các nước châu Á. Và đến lượt nó, chính những

nền chính trị ngoại nhập này tác động đáng kể tới diện mạo của các nước châu Á

trên nhiều phương diện của đời sống xã hội.

Năm yếu tố chi phối chính trị Á Đông ở trên cũng là những yếu tố chi phối

chính trị Việt Nam ở những mức độ nhất định. Tuy nhiên, ở nước ta cần đặc biệt

nhấn mạnh đến lịch sử sản xuất nông nghiệp lúa nước và lịch sử chống ngoại xâm.

Đây là những yếu tố quan trọng góp phần tạo ra những đặc điểm riêng biệt của

chính trị Việt Nam trong lịch sử.

Thứ hai, chính trị Việt Nam trong lịch sử chịu sự chi phối bởi hoàn cảnh ra đời

của nhà nước đầu tiên ở Việt Nam. Sự ra đời của nhà nước đầu tiên này cũng chịu

tác động nhất định của các điều kiện lịch sử xã hội vừa phân tích ở trên. Hoàn cảnh

này tạo ra những đặc điểm riêng biệt của nhà nước ở Việt Nam và của chính trị Việt

Nam so với các quốc gia khác trên thế giới.

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin thì chính trị là sản phẩm của

Page 46: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

41

mối quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của nhân loại. Chính

trị gắn với nhà nước. Khi mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội phát triển đến

mức không thể điều hoà được, nó có nguy cơ phá tan trật tự xã hội hiện hành, lúc đó

nhà nước ra đời để đưa xã hội vào vòng ổn định, trật tự.

Tuy nhiên, với điều kiện lịch sử địa lý đặc thù của các nước châu Á, phương

Đông, trên nền tảng của một phương thức sản xuất châu Á, Ph.Ăngghen trong tác

phẩm “Chống Đuy ring” đã khẳng định: “Trên cơ sở phân hoá xã hội là tiền đề vật

chất không thể thiếu được, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu

tranh tự vệ làm cho nhà nước ban đầu vốn là “chức năng xã hội” tiêu biểu cho lợi

ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang địa vị độc lập với xã hội” và cuối cùng

“vươn lên thành thống trị đối với xã hội” [7, tr252]. Như vậy, nghiên cứu sự ra đời

của nhà nước ở châu Á, phương Đông, ngoài quy luật chung trong sự hình thành

nhà nước là gắn với sự xuất hiện giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp, cần đặc biệt

chú ý tới tính đặc thù trong sự ra đời của nó đó là: xuất phát từ nhu cầu thuỷ lợi và

cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để sinh tồn.

Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt về địa lý, tự nhiên của Việt Nam, nhà

nước đầu tiên ở Việt Nam ra đời trên cơ sở một xã hội phân hoá chưa sâu sắc mà

xuất phát từ nhu cầu đoàn kết cộng đồng để đắp đê làm thuỷ lợi và chống ngoại xâm

nên trong nhà nước đó tính cộng đồng là đặc tính nổi trội, tính giai cấp khá mờ

nhạt. Quyền lực nhà nước ở Việt Nam không điển hình như ở Phương Tây. Các nhà

nước nối tiếp nhau tồn tại trong lịch sử Việt Nam không thể không chịu ảnh hưởng

một cách sâu sắc bởi đặc tính này. Trong lịch sử Việt Nam, người lãnh đạo đất

nước, ở đây là nhà vua cùng với dòng họ của ông ta “phải là người lãnh đạo được

nhân dân đánh bại xâm lăng và bảo vệ được đê điều. Do đó, mỗi lần có nguy cơ

ngoại xâm thì ở Việt Nam diễn ra một sự thay đổi triều đại nếu cần phải có người

xứng đáng” [104, tr.41]. Và như là kết quả tất yếu, lực lượng nào thành công trong

việc lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm, lực lượng đó sẽ được suy tôn.

Do đó, có thể thấy, một trong những đặc trưng nổi bật của chính trị Việt Nam, ý

thức chính trị của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trước hết là ý thức về cộng đồng,

Page 47: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

42

tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Điều này cũng dẫn tới một hệ quả là với

người Việt Nam, Tổ quốc cao hơn tất cả. Nhà nghiên cứu văn hoá Phan Ngọc đã

khái quát: “Người Việt Nam là con người Tổ quốc luận”. Văn hoá chính trị của

người Việt Nam mang tính “Tổ quốc luận” rất đậm nét. Mọi giá trị của người Việt

quy về giá trị thiêng liêng, cao quý nhất đều gắn với giá trị về Tổ Quốc, về độc lập

dân tộc và chủ quyền lãnh thổ nên dân tộc Việt Nam hàng nghìn năm không có kẻ

thù nào chinh phục và đánh bại được. Cũng chính vì vậy, lòng yêu nước, quyết tâm

chiến đấu vì từng tấc đất của Tổ quốc, ý thức về chủ quyền quốc gia của người Việt

Nam đã trở thành một nét độc đáo trong văn hoá chính trị Việt Nam. Để bảo vệ chủ

quyền quốc gia này, ở Việt Nam, “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, “khi nào Tây

nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Sau này, Hồ Chí Minh đã

khái quát thành chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Hướng tới

mục tiêu độc lập cho dân tộc trong nhiều trường hợp trở thành yếu tố trung tâm để

cố kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam - vốn không hoàn toàn thuần nhất - thành

một khối thống nhất để chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm.

Sau này, từ thực tế của lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, trên cơ sở

hiểu sâu sắc truyền thống dân tộc Việt, Hồ Chí Minh đã khẳng định: chủ nghĩa dân

tộc là một động lực lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng ở nước ta. Chủ nghĩa dân

tộc ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước chân chính, là tinh thần đại đoàn kết trong

cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Khai thác và phát huy được đặc trưng này của

chính trị Việt Nam là một trong những cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt

Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đây

cũng chính là một trong những nét đặc thù của chính trị Việt Nam. Thông thường,

nói đến chính trị, người ta nhấn mạnh tính giai cấp, tuy nhiên, với chính trị Việt

Nam thì không hẳn như vậy. Trong “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ”,

Hồ Chí Minh khẳng định, ở Việt Nam: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra

giống như ở phương Tây” [100, tr.464]. Từ thực tiễn nước ta đầu thế kỷ XX, Hồ

Chí Minh nhận thấy, Việt Nam là một đất nước với một nền kinh tế nghèo nàn, lạc

hậu, kém phát triển tất yếu phân hoá giai cấp sẽ mờ nhạt, các giai cấp vẫn có sự

Page 48: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

43

tương đồng lớn: “Những kẻ mà ở đó (Việt Nam) được coi là đại địa chủ thì chỉ là

những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ.

Không có tỉ phú người An Nam” [100, tr.464]. Khoảng cách giữa các giai cấp và

lực lượng xã hội là không lớn, do đó, sự xung đột về quyền lợi giữa các lực lượng

xã hội khác nhau là rất nhỏ bé và hầu như không đáng kể:

Nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn;

nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng

chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ

lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng có công

đoàn, kẻ thì chẳng có tơ rớt; người thì nhẫn nhục chịu số phận của mình, kẻ thì vừa

phải trong sự tham lam của mình. [100, tr.464]

Và sản phẩm của tất cả thực tế đó là cuộc đấu tranh giai cấp sẽ kém gay gắt.

Không như ở phương Tây, các nước phương Tây là các nước có kinh tế phát triển

do đó sản phẩm là phân hoá giai cấp sẽ sâu sắc và đấu tranh giai cấp sẽ quyết liệt,

mạnh mẽ. Mặt khác, đầu thế kỷ XX, chúng ta đang bị người nước ngoài nô dịch.

Với một dân tộc không cam chịu thân phận nô lệ, không chịu khom lưng, quỳ gối

làm nô lệ cho ngoại bang, tất yếu người Việt Nam sẽ kết thành một khối vững chắc

để chiến đấu và chiến thắng, giữ cho tên gọi Việt Nam. Còn các nước phương Tây

là các nước giàu có, các nước phát triển, họ chủ yếu đi xâm lược chứ không bị xâm

lược. Và vì vậy, vấn đề dân tộc ở các nước này được đặt ra không giống ở nước ta.

Sản phẩm tất yếu là chính trị ở Việt Nam, tính dân tộc sẽ vượt trội hơn hẳn tính giai

cấp chứ không như ở phương Tây. Hồ Chí Minh khẳng định “Giờ đây, người ta sẽ

không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại

và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi...

nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế” [100, tr.467]. Với

nhận thức như vậy, Người kêu gọi “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh

Quốc tế Cộng sản” [100, tr467]

Thứ ba, chính trị Việt Nam suốt chiều dài lịch sử phần lớn thời gian là sự tồn

tại của chế độ quân chủ chuyên chế. Sự tồn tại lâu dài của chế độ quân chủ chuyên

Page 49: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

44

chế với quyền lực tối thượng nằm trong tay nhà Vua và một vương triều, nơi một

người ngồi trên muôn người, do đó ở nước ta, các lãnh tụ luôn giữ một vai trò đặc

biệt trong việc đoàn kết xã hội, định hướng sự phát triển của cả cộng đồng. Quyền

uy chính trị của họ có được là nhờ vị trí, uy tín cá nhân của họ trong cộng đồng.

Trải qua hàng nghìn năm quân chủ, qua những triều đại phong kiến hưng thịnh

với vua sáng, tôi hiền, lịch sử chính trị Việt Nam đã kết tụ và lắng đọng những tư

tưởng chính trị trở thành đặc trưng của chính trị Việt Nam. Đó là tư tưởng khoan

dân: khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, một thượng sách để giữ nước. Đó

là tư tưởng nhân nghĩa: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đó còn là tư tưởng thân

dân: được dân thì được nước mà mất dân thì mất nước...

Nếu như nói tới chính trị là nói tới sự phân chẻ xã hội thành hai nửa đối lập, kẻ

thống trị và người bị thống trị thì ở Việt Nam sự thống nhất của hai nửa đối lập đó

có thể coi là tính trội. Lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam đã chứng minh chân lý:

Vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước góp sức từ lâu đã kết dân tộc Việt

Nam vốn chưa giàu có về kinh tế trở thành một sức mạnh vô địch để chiến đấu và

chiến thắng ngoại xâm. Có thể thấy, đại đoàn kết dân tộc, chính trị thân dân là

một nội dung nổi bật trong tư tưởng chính trị Việt Nam.

Như vậy, có thể khái quát một số đặc điểm của chính trị Việt Nam trong lịch

sử là:

Trước hết, nền chính trị hướng tới độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, tôn

vinh lòng yêu nước

Thứ hai, nền chính trị hướng tới đại đoàn kết toàn dân, tính cộng đồng, tinh thần

dân tộc

Thứ ba, nền chính trị hướng tới sự hợp tác là chính thay vì mâu thuẫn giữa

người cai trị và người bị cai trị

Thứ tư, nền chính trị thân dân, khoan dân, nhân nghĩa, lấy dân là gốc

Thứ năm, nền chính trị trong đó các lãnh tụ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng

Những đặc điểm của chính trị Việt Nam trong lịch sử được khái quát ở trên là

những yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét sự vận động chính trị ở nước ta thời

Page 50: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

45

cận, hiện đại.

b. Biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 – Một số nhận thức chung

b1. Hai bước biến đổi căn bản

Thống nhất với quan niệm về biến đổi chính trị đã chỉ ra ở trên, biến đổi chính

trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 được hiểu là hai bước biến đổi. Thứ nhất, biến đổi

từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến. Thứ hai, biến đổi từ

chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân. Hai bước biến đổi

chính trị căn bản này gắn với hai bước ngoặt quan trọng trong sự vận động của dân

tộc. Bước ngoặt thứ nhất, Việt Nam bị thực dân tư bản Pháp xâm lược và thôn tính.

Sự kiện này đã biến Việt Nam từ một dân tộc độc lập, có chủ quyền thành một dân

tộc thuộc địa, một dân tộc nô lệ, chịu sự đè nén của CNTB ngoại bang. Bước ngoặt

thứ hai là cuộc cách mạng giành độc lập của nhân dân Việt Nam tháng Tám năm

1945 thành công đã đưa Việt Nam từ dân tộc nô lệ, mất tên trên bản đồ chính trị thế

giới thành một dân tộc độc lập, khẳng định lại vị thế quốc tế của dân tộc. Như vậy,

sự vận động về chính trị của Việt Nam giai đoạn lịch sử này gắn liền với sự vận

động chung của toàn dân tộc trong tiến trình phát triển.

Trong bước biến đổi chính trị thứ nhất, giai cấp cầm quyền từ giai cấp địa chủ

phong kiến Việt Nam mà vua quan nhà Nguyễn là lực lượng đại diện đã chuyển

sang GCTS Pháp mà lực lượng thực dân Pháp ở Việt Nam là đại diện. Gắn với nó là

một kiểu nhà nước mới đặc thù ở Việt Nam do GCTS Pháp thiết lập ra. Kiểu nhà

nước mới ấy nằm trong phạm trù của kiểu nhà nước tư sản, trên nền tảng một

phương thức sản xuất TBCN đã phát triển cao ở Pháp mà Pháp từng bước du nhập

vào Việt Nam thay thế kiểu nhà nước phong kiến đã tồn tại lâu dài trên đất nước ta.

Hình thức nhà nước cũng thay đổi từ một nhà nước phong kiến quân chủ

chuyên chế sang nhà nước thực dân tư sản kết hợp phong kiến không kém phần

phản động, chuyên chế. Từ mô hình một nhà nước phong kiến Việt Nam đơn nhất,

sự thống trị của GCTS Pháp ở nước ta đã biến Việt Nam thành bộ phận của một nhà

nước liên bang thuộc một nhà nước lớn hơn đó là nhà nước tư sản Pháp. Cách thức

tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước cũng thay đổi từ chỗ thống nhất tập trung

Page 51: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

46

trong cả nước từ trung ương đến địa phương, Việt Nam dường như trở thành ba

quốc gia với những quy chế cai trị riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc

Pháp.

Trong bước biến đổi chính trị thứ hai, giai cấp cầm quyền từ GCTS Pháp mà

lực lượng thực dân Pháp ở Việt Nam là đại diện chuyển sang quân phiệt Nhật (là bộ

phận của GCTS Nhật) rồi sang nhân dân lao động Việt Nam mà GCCN Việt Nam là

đại diện. Hình thức nhà nước từ một nhà nước thực dân phong kiến thuộc phạm trù

nhà nước tư sản chuyển sang một nhà nước dân chủ nhân dân nằm trong phạm trù

của một nhà nước XHCN. Từ một bộ phận trong Liên bang Đông Dương thuộc

Pháp, chúng ta đã thiết lập được một nhà nước riêng cho Việt Nam, trở thành một

nhà nước dân tộc độc lập có tên trên bản đồ chính trị thế giới. Từ một nhà nước

chuyên chế, phản động với những biện pháp cai trị phản dân chủ chúng ta đã thiết

lập một nhà nước dân chủ cho đông đảo nhân dân Việt Nam.

b2. Bản chất của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945

Bản chất của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 là việc giải quyết

mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp ở nước ta. Do mất nước về tay thực dân

Pháp đã dẫn tới chính trị thực dân - phong kiến thay thế chính trị phong kiến. Và

sau này, trong cách mạng Tháng Tám 1945, do thắng thực dân phát xít mà ta lấy lại

được đất nước, chính trị dân chủ nhân dân đã thay thế chính trị thực dân - phong

kiến. Như vậy, vấn đề lực lượng nào nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong

thời kỳ 1858-1945 liên quan chặt chẽ đến việc độc lập hay mất nước, chịu lệ thuộc,

làm nô lệ cho ngoại bang. Vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc quan hệ chặt chẽ với

nhau.

b3. Logic của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945

Ở bước biến đổi thứ nhất, chính trị mới thay thế chính trị phong kiến là chính trị

áp đặt từ bên ngoài vào. Đó là sản phẩm của một cuộc chiến tranh xâm lược bằng

bạo lực của một tên thực dân phương Tây đã ở trình độ TBCN phát triển với một

dân tộc phong kiến phương Đông. Là chính trị áp đặt nên logic vận động của chính

trị giai đoạn này là: Thực dân Pháp tiến hành cướp quyền cai trị và xác lập bộ máy

Page 52: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

47

cai trị cùng các công cụ bạo lực, sau đó mới thiết lập các cơ sở về mọi mặt cho sự

tồn tại của nền chính trị đó từ cơ sở kinh tế đến văn hoá, xã hội, tư tưởng...

Ở bước biến đổi thứ hai, chính trị dân chủ nhân dân thay thế chính trị thực dân -

phong kiến là kết quả sự vận động nội tại trong lòng xã hội Việt Nam mà điểm nút

chính là cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chính cơ sở về mọi mặt cho sự tồn

tại và phát triển của chính trị thực dân - phong kiến mà thực dân Pháp thiết lập ở

nước ta trong quá trình vận động của nó lại tạo ra những tiền đề cho sự ra đời của

một nền chính trị mới phủ nhận chính nó. Nền chính trị nào phù hợp với những tiền

đề đó sẽ có nhiều cơ hội được khẳng định, bằng không, nó sẽ không có cơ sở để tồn

tại. Và khi nền chính trị mới - chính trị dân chủ nhân dân ra đời, về nguyên lý, nhân

dân lao động Việt Nam lại phải thiết lập những cơ sở cho sự tồn tại của nó.

Tiểu kết chương 1

Trong chương đầu tiên này, cơ sở về tư liệu, tài liệu cho triển khai những vấn đề

nghiên cứu đã được tác giả tập trung làm rõ. Với ý nghĩa là một luận án lịch sử

chính trị, hai nhóm tư liệu, tài liệu quan trọng được tác giả khai thác và sử dụng

trong luận án là nhóm tư liệu, tài liệu sử học và nhóm tư liệu, tài liệu chính trị học.

Hai nhóm tư liệu này đã được chia thành các nhóm nhỏ hơn và cách thức sử dụng

từng nhóm tư liệu, tài liệu trong luận án cũng được tác giả trình bày trong phần tổng

quan. Những vấn đề đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án được khái

quát, tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp đến vấn đề được

nêu trong luận án khiến cho vấn đề nghiên cứu “ sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ

1858 đến 1945” có thể và cần phải được đặt ra.

Trong nội dung “một số vấn đề lý luận về chính trị và biến đổi chính trị” cung

cấp những khái niệm công cụ cho việc triển khai vấn đề nghiên cứu ở hai chương

sau. Khái niệm chính trị được tiếp cận trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin

được phân tích theo các yếu tố cấu thành của chính trị, các biểu hiện để nhận diện

chính trị, các nội dung của đời sống chính trị. Vấn đề chính quyền nhà nước là vấn

Page 53: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

48

đề cơ bản của chính trị với các nội dung như: Lực lượng cầm quyền, kiểu nhà nước,

hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể chế nhà nước là nội dung được tập trung

luận giải trong luận án. Tác giả cũng đưa ra những quan niệm về biến đổi chính trị

theo các cách tiếp cận khác nhau và khẳng định lại phạm vi nghiên cứu của luận án:

Trong luận án này, biến đổi chính trị được hiểu theo nghĩa sự thay đổi giai cấp cầm

quyền gắn với sự thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể

chế nhà nước.

Từ đặc điểm ra đời của nhà nước ở Việt Nam, tác giả rút ra những đặc điểm

chung của chính trị Việt Nam trong lịch sử. Những đặc điểm này ảnh hưởng không

nhỏ tới sự vận động của chính trị trong đó có biến đổi chính trị. Bản chất và logic

của hai bước biến đổi chính trị căn bản của chính trị Việt Nam từ 1858 đến 1945

cũng được phân tích trong chương này.

Gắn với các khái niệm công cụ trên là các thuật ngữ được sử dụng nhiều lần

trong luận án cũng được nêu trong chương.

Nội dung của chương 1 là bộ công cụ cần thiết để tác giả tiếp tục đi sâu khảo sát

những nội dung của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 được trình bày

ở chương 2 và chương 3.

Page 54: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

49

Chương 2

SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ CHÍNH TRỊ

PHONG KIẾN SANG CHÍNH TRỊ THỰC DÂN - PHONG KIẾN

2.1. Quá trình và nội dung biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang

chính trị thực dân - phong kiến

Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ chính trị phong kiến sang chính trị thực

dân - phong kiến gắn liền với quá trình giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam mà

vua quan nhà Nguyễn là lực lượng đại diện mất vị trí là giai cấp cầm quyền và trở

thành tay sai cho giai cấp cầm quyền mới là giai cấp tư sản Pháp mà thực dân Pháp

ở nước ta là lực lượng đại diện.

2.1.1. Lực lượng nắm giữ, ảnh hưởng tới quyền lực nhà nước gắn với kiểu và

hình thức nhà nước ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược

Trước 01-9-1858, quyền lực nhà nước ở Việt Nam nằm trong tay giai cấp địa

chủ phong kiến mà đại diện là vua quan nhà Nguyễn: “Vua là người đứng đầu tối

cao Nhà nước phong kiến, với đầy đủ mọi quyền hành đối nội và đối ngoại, lập

pháp và hành pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam” [127, tr273]. Mặt khác, quyền lực

này chịu sự ảnh hưởng nhất định của triều đình Bắc Kinh.

a. Quyền lực của Vương triều Nguyễn trong một nhà nước phong kiến quân

chủ chuyên chế tập quyền

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở

Phú Xuân, mở đầu cho sự tồn tại của Vương Triều Nguyễn ở Việt Nam. Đây là một

chế độ quân chủ phong kiến chuyên chế điển hình với quyền lực tập trung tuyệt đối

trong tay vua. Vua là con Trời, thay Trời để trị vì, chăn dắt muôn dân. Vua nhà

Nguyễn có quyền lực rất lớn. Và để hạn chế sự phân chia quyền lực, nhà Nguyễn

đặt ra luật “tứ bất”: không lập Tể tướng, không lập Hoàng hậu, không lập Thái tử,

không lập Trạng nguyên. Khi quyền lực nhà nước mất về tay thực dân Pháp, các

quy định này không được duy trì. Điển hình thời vua Bảo Đại (đời vua thứ 13 của

vương triều Nguyễn), Bảo Đại phong “Nam Phương hoàng hậu” cho vợ mình là

Page 55: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

50

Nguyễn Hữu Thị Lan.

Trong chế độ này, trung quân ái quốc là tiêu chí đạo đức cao nhất của người

quân tử. So với nền quân chủ các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, mức độ

chuyên chế dưới triều Nguyễn được tăng cường. Từ năm 1831, Minh Mệnh, một

đấng minh quân đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính trên quy mô lớn nhằm

tổ chức thống nhất hệ thống chính quyền từ trung ương tới cơ sở, hoàn thiện cơ cấu

tổ chức bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, tăng cường hơn nữa sự tập trung

quyền lực nhà nước vào nhà vua [167,tr.276].

Dưới triều Nguyễn, cũng như nhiều triều đại phong kiến Việt Nam khác, việc

khẳng định chủ quyền quốc gia được hết sức coi trọng. Đó là một cách để khẳng

định quyền lực của Vương Triều. Trước hết, chủ quyền quốc gia được khẳng định

bằng cách đặt tên nước, định kinh đô, xưng danh hiệu. Triều Nguyễn định đô ở Phú

Xuân, vùng đất nằm giữa lãnh thổ Việt Nam, gánh hai đầu đất nước. Sau khi lên

ngôi vua, Gia Long phái sứ thần sang nhà Thanh xin phong Vương và đặt tên nước

là Nam Việt. Tuy nhiên, năm 1804, vua Thanh phái sứ thần sang phong Vương cho

Gia Long và đặt tên nước là Việt Nam. Cuối đời vua Minh Mạng (1820-1840), vào

năm 1838, tên nước được đổi thành Đại Nam. Chế độ cha truyền con nối được thực

hiện như một nguyên tắc nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của vương triều. Vua

Minh Mạng, với hi vọng nghiệp đế vương sẽ truyền lại cho 20 đời con cháu, đã làm

bài thơ “Đế hệ thi” thể hiện khát khao này. Những từ trong bài thơ là những từ đầu

tiên trong tên gọi của các thế hệ con cháu vua Nguyễn, sau từ này mới là tên của gia

đình đặt cho.

Miên, Hường, Ưng, Bửu, Vĩnh

Bảo, Quý, Định, Long, Trường

Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật

Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương [159,tr.194]

Tuy nhiên, thực tế mới chỉ truyền được đến từ thứ 5 - Vĩnh Thuỵ, tức Bảo Đại

thì Vương Triều này đã hoàn toàn biến mất.

Việc xác định chủ quyền quốc gia còn thể hiện bằng việc xác định vấn đề biên

Page 56: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

51

giới. Triều Nguyễn đã cho xây dựng hàng chục đồn bảo ở vùng biên giới phía Bắc,

khẳng định chủ quyền biển đảo (Phú Quốc, Côn Đảo, Hoàng Sa, Trường Sa…), lập

thuỷ đội Hoàng Sa để quản lý và xây dựng quần đảo Hoàng Sa (tháng 8-1803), mở

rộng cương vực quốc gia về phía Tây và phía Nam bằng các hoạt động quân sự,

ngoại giao, khai khẩn đất hoang... Năm 1805, Gia Long cho triển khai vẽ bản đồ đất

nước. Dưới sự cai trị của các vua nhà Nguyễn, lãnh thổ quốc gia đã được mở mang

rất nhiều so với trước đây và về cơ bản giống với lãnh thổ Việt Nam ngày nay.

Quyền lực nhà nước của các vua Nguyễn còn được thể hiện khá rõ nét ở việc

xây dựng một nền hành chính thống nhất và chính sách ngoại giao mềm dẻo

nhưng cương quyết, đặt biệt với nước láng giềng phía Bắc là Trung Quốc. Gia Long

chính là người đặt nền móng cho quá trình xây dựng hệ thống chính quyền trong cả

nước với hình thức quân chủ chuyên chế.

Thời Nguyễn, tổ chức nhà nước từ Trung ương đến địa phương được thiết lập

khá thống nhất và chặt chẽ. Ở Trung ương, tổ chức nhà nước gồm lục bộ (bộ Lại,

Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do Thượng thư đứng đầu mỗi bộ. Tổ chức về quân sự có

ngũ Phủ Đô đốc. Ngoài ra còn có các cơ quan cao cấp phụ trách các mảng chuyên

môn. Ở địa phương, ngoài các cơ quan cai quản chung, còn có các cơ quan phụ

trách từng phần việc có phân công, phân nhiệm rõ ràng. Điều đặc biệt đáng nói

trong tổ chức nhà nước phong kiến Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng

là tổ chức quản lý cấp làng xã. Mặc dù Vua trong xã hội phong kiến là người có

quyền lực tối thượng song trong cả một giai đoạn lịch sử dài, ở Việt Nam, “phép

Vua” vẫn thua “lệ làng”. Chính quyền tự trị của làng xã và một số tập quán chính trị

khác là những yếu tố hạn chế ở mức độ nhất định quyền lực của các vua nhà

Nguyễn. Với cách tổ chức quản lý cấp xã ở Việt Nam, làng xã Việt Nam tồn tại như

những ốc đảo bên cạnh chính quyền Trung ương. Đây là cái nôi lưu giữ những bản

sắc văn hoá Việt. Do đó, từ bao đời, ở Việt Nam, mất nước nhưng không mất làng,

chúng ta vẫn là chính chúng ta chứ không bị đồng hoá bởi đội quân xâm lược. Nhà

sử học Dương Kinh Quốc đã khái quát: “Chính quyền cấp trên mà trực tiếp là cấp

tỉnh, mới chỉ dừng lại ở cửa ngõ của xã, chứ chưa thâm nhập được vào trong nội bộ

Page 57: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

52

hoạt động của xã” [127]. Sự tồn tại khá bền vững của tổ chức chính quyền cấp xã là

một biểu trưng quyền lực chính trị thực sự của người dân Việt.

Nhà Nguyễn đặt ra luật Gia Long (hay bộ Hoàng Việt luật lệ) để điều chỉnh các

quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ Gia Long đến Tự Đức, các vua

triều Nguyễn đều quan tâm đến xây dựng luật pháp và chú trọng đến việc áp dụng

pháp luật. Ngoài bộ luật trên thì các tập Hội điển (các văn bản pháp luật đã được

vua ban hành hoặc phê chuẩn để bổ sung cho luật) như Hội điển toát yếu, Khâm

định Đại Nam Hội điển sự lệ, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam Điển Lệ toát yếu…

cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì đất

nước trong trật tự phong kiến.

Như vậy, có thể thấy, trước khi Pháp xâm lược nước ta, quyền lực nhà nước ở

Việt Nam tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến mà trực tiếp là trong tay

các ông Vua nhà Nguyễn. Để thực hiện việc cai trị, quyền lực này đã được thể hiện

tập trung trong Bộ máy Hành chính triều Nguyễn được tổ chức khá chặt chẽ và

thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trước khi Pháp xâm lược nước ta, chính

trị ở Việt Nam là chính trị phong kiến.

b. Sự ảnh hưởng của triều đình Bắc Kinh (nhà Thanh) với Vương triều

Nguyễn

Trước 1858, Việt Nam là một nước phong kiến độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế,

quyền lực của các vua quan nhà Nguyễn còn chịu sự ảnh hưởng nhất định bởi triều

đình Mãn Thanh (Trung Quốc). Là một nước nhỏ tồn tại bên cạnh một nước láng

giềng lớn mạnh (Trung Quốc), nhà Nguyễn cũng như nhiều triều đại phong kiến

Việt Nam trước đây đã thực hiện một chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt với

Trung Quốc, điển hình như: Chấp nhận việc tấn phong danh hiệu Quốc Vương của

Hoàng đế Trung Hoa, chấp nhận các nghi lễ cống, nạp thường niên đối với triều

đình Bắc Kinh và một số các yêu sách khác của triều đình Bắc Kinh trong chừng

mực không tổn hại tới chủ quyền quốc gia... Dù không chính thức, bất thành văn,

không trực tiếp và không bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, song quyền lực và

sự ảnh hưởng của phong kiến phương Bắc với các đời vua nhà Nguyễn cũng là một

Page 58: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

53

yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét sự thay đổi của giai cấp cầm quyền ở nước ta

nửa sau thế kỷ XIX (đặc biệt là sự tranh chấp Pháp - Trung về vấn đề Việt Nam).

2.1.2. Quá trình thay đổi lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt gắn với

thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược

a. Thực dân Pháp thâu tóm dần quyền lực của Vương triều Nguyễn (tính đến

1884) và chấm dứt ảnh hưởng của triều đình Bắc Kinh

Năm 1834, Vua Minh Mạng chia nước ta thành 3 kỳ: Bắc Kỳ (chỉ phần đất từ

Ninh Bình trở ra), Trung Kỳ (phần đất từ Thanh Hoá đến Bình Thuận) và Nam Kỳ

(phần đất từ Biên Hoà trở vào). Nam Kỳ lại được chia thành 6 tỉnh do đó thường

được gọi là Nam Kỳ lục tỉnh hay lục tỉnh [200].

a1. Thực dân Pháp thâu tóm quyền lực của Vương triều ở Nam Kỳ và tổ

chức cai trị

Sau khi nổ súng vào Đà Nẵng ngày 01-9-1858, Pháp mở rộng cuộc chiến tranh

xâm lược vào phía Nam. Khi chiếm xong 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (nhà Nguyễn đã

thừa nhận bằng hiệp ước Nhâm Tuất ký với Pháp năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây

Nam Kỳ (năm 1867) (được nhà Nguyễn thừa nhận bằng hiệp ước Giáp Tuất 1874).

Với hiệp ước này, triều Nguyễn đã thừa nhận chủ quyền của Pháp trên toàn xứ Nam

Kỳ. Pháp xoá bỏ cách phân chia địa giới cũ của triều Nguyễn. Các quan triều Nguyễn

ở Nam Kỳ lục tỉnh sau khi Pháp chiếm hoặc bãi quan trở về làm thường dân, hoặc trở

thành các lãnh tụ chống Pháp quyết liệt, một phần nhỏ thân Pháp, làm tay sai cho

chúng. Bộ máy chính quyền địa phương của triều Nguyễn ở Nam Kỳ tan rã.

Thực dân Pháp thực hiện chế độ cai trị của chúng ở Nam Kỳ qua hai giai đoạn.

Giai đoạn đầu từ 1862 đến 1879 là giai đoạn cai trị của các thống đốc quân sự (các

thống soái). Thực dân Pháp thành lập soái phủ (hay suý phủ) Nam Kỳ (chính là trụ

sở của thống đốc Nam Kỳ đặt tại Sài Gòn) do các đô đốc hải quân Pháp đứng đầu

trông coi việc cai trị hành chính và quân sự. Nhiệm vụ chủ yếu của soái phủ Nam

Kỳ lúc này là ổn định tình hình và mở rộng việc chiếm đóng về quân sự. Giai đoạn

hai từ 1879, Pháp đặt chức Thống đốc Nam Kỳ (thống đốc dân sự) để cai trị xứ này.

Chức vụ này trực thuộc Bộ Thuộc địa và Hải quân Pháp.

Page 59: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

54

Nam Kỳ được Pháp cai trị theo quy chế thuộc địa, không có quan hệ phụ thuộc

vào Nam Triều (có thể hiểu Nam Kỳ được cai trị như một địa phương của nước

Pháp). Với thể chế trực trị có tính chất thôn tính, đồng hoá, Nam Kỳ thuộc địa được

cai trị bằng một bộ máy quyền lực hoàn toàn do người Pháp nắm giữ, thực hiện các

mục tiêu chính trị của người Pháp. Từ sau hiệp ước Giáp Tuất (1874), quyền lực

nhà nước ở Nam Kỳ - một vùng đất thuộc lãnh thổ Việt Nam – nằm trong tay GCTS

Pháp chứ không thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam nữa. Từ năm 1888

(thời vua Đồng Khánh), Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cũng trở thành nhượng địa

của Pháp (tức cùng thể chế trực trị như Nam Kỳ tuy nằm trong lãnh thổ bảo hộ bản

xứ).

Vào năm 1883 với hiệp ước Hácmăng [199] địa giới Nam Kỳ thuộc Pháp thêm

tỉnh Bình Thuận (điều 2). Như vậy Nam Kỳ có địa giới từ phía bắc tỉnh Bình Thuận

trở vào. Với việc nhượng Bình Thuận cho Pháp, món nợ mà Việt Nam còn thiếu

của Pháp coi như đã được thanh toán xong (điều 26) (món nợ đây là khoản chiến

phí 280 vạn lạng bạc tương đương 4 triệu đô la Mỹ mà Pháp buộc Triều đình Huế

phải trả cho liên quân Pháp - Tây Ban Nha trong hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862).

Đưa tỉnh Bình Thuận vào địa giới Nam Kỳ và coi hành động này là “Nhượng Bình

Thuận cho Pháp”, lời khẳng định trong hiệp ước như một lời tuyên bố đất Nam Kỳ

thực sự là của nước Pháp chứ không còn là của nước Việt Nam nữa. Nam Kỳ thuộc

sự quản lý của Bộ Thuộc địa và Hải quân Pháp. Năm 1879, Bộ Thuộc địa tách khỏi

Bộ Hải quân, Nam Kỳ trực thuộc Bộ Thuộc địa Pháp.

Tuy không du nhập hoàn toàn vào thuộc địa những thể chế cơ bản của nền dân

chủ tư sản, song đặc biệt với Nam Kỳ, một xứ được cai trị theo quy chế thuộc địa,

hơi hướng của nền dân chủ tư sản phương Tây cũng được thể hiện phần nào.

Có thể thấy, từ một vùng đất thuộc quyền quản lý và cai trị của triều đình nhà

Nguyễn, sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của Pháp, với các hiệp ước ký giữa

triều Nguyễn và thực dân Pháp, quyền lực nhà nước ở Nam Kỳ giờ đây hoàn toàn

nằm trong tay GCTS Pháp mà thực dân Pháp ở Nam Kỳ là lực lượng đại diện trực

tiếp. Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam không còn chút quyền lực nhà nước nào

Page 60: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

55

với vùng đất này. Nam Kỳ từ chỗ được cai trị bởi một nhà nước quân chủ phong

kiến chuyên chế tuyệt đối đã chuyển sang là đối tượng cai trị của một nhà nước

cộng hoà tư sản phương Tây mà trực tiếp là bộ máy cai trị của tư sản thực dân Pháp

ở Nam Kỳ đứng đầu là thống đốc người Pháp. Trên vùng đất này, cách tổ chức và

quản lý xã hội theo trật tự phong kiến đã bị thay thế bởi một cách tổ chức và quản lý

xã hội hoàn toàn mới mẻ theo kiểu dân chủ tư sản phương Tây. Đây là một sự biến

đổi lớn về chính trị trên xứ Nam Kỳ. Là đất thuộc địa, là dân thuộc địa, dù được cai

trị theo quy chế gần giống một địa phương của nước Pháp, Nam Kỳ cũng không thể

nào trở thành một “địa phương” bình đẳng với các địa phương khác của Pháp được.

a2. Thực dân Pháp thâu tóm quyền lực của vương triều ở Bắc Kỳ, Trung

Kỳ và tổ chức cai trị

Sau khi thôn tính Nam Kỳ, thực dân Pháp thâu tóm quyền lực của Vương

triều ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và tổ chức cai trị hai xứ này theo đường lối bảo hộ.

Sau khi thôn tính được Nam Kỳ, thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược

ra Bắc Kỳ và cả nước. Chúng đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (năm 1873), đánh Bắc Kỳ

lần thứ hai (năm 1882). Lợi dụng việc vua Tự Đức băng hà (7-1883), triều đình rối

loạn vì suy tôn vua mới, tháng Tám-1883, Pháp đã tấn công cửa biển Thuận An, cổ

họng của Kinh thành Huế. Thuận An thất thủ. Triều đình đã lùi từng bước trước đội

quân xâm lược và kết quả là liên tiếp trong 2 năm, triều đình đã ký với Pháp 2 hiệp

ước bán nước. Với hiệp ước Hác Măng ký năm 1883 (hiệp ước Quý Mùi) và hiệp

ước Patơnốt ký năm 1884 (hiệp ước Giáp Thân), thực dân Pháp đã hoàn tất việc

thôn tính Việt Nam từ Bắc chí Nam.

Về cơ bản, với hiệp ước Hác Măng [200] ký giữa Pháp với triều đình Huế,

Pháp đã thôn tính được toàn bộ đất nước ta. Hiệp ước Patơnốt sau này chỉ có vài

thay đổi nhỏ so với hiệp ước Hác Măng. Một bản hiệp ước 27 điểm (hiệp ước Hác

Măng) Pháp soạn thảo sẵn theo ý đồ chính trị của mình, ép Triều đình Huế ký trong

thế hoàn toàn bị động (thua về quân sự, triều chính đang hỗn loạn,...) đã quyết định

vận mệnh của toàn dân tộc Việt Nam.

Với hiệp ước Hác Măng, nước Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp

Page 61: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

56

(điều1). Việt Nam bị chia thành ba xứ với ba chế độ chính trị khác nhau, như ba

nước riêng biệt. Địa giới các kỳ thời Minh Mạng đã bị Pháp thay đổi.

Về quy chế cai trị, xứ Trung Kỳ (An Nam) và xứ Bắc Kỳ là hai xứ bảo hộ. Ở

hai xứ này vẫn do Hoàng đế An Nam trị vì nhưng phải đặt dưới sự bảo hộ của Pháp.

Ở Bắc Kỳ là chế độ bảo hộ trực tiếp còn Trung Kỳ là chế độ bảo hộ gián tiếp. Ở

đây, hệ thống hành chính bản xứ được duy trì, người Pháp cai trị gián tiếp qua

ngạch quan lại Việt. Điều đó có nghĩa là ở hai xứ này có hai hệ thống chính quyền

cùng tồn tại, một hệ thống của thực dân Pháp và một hệ thống của người bản xứ tồn

tại trong quan hệ phụ thuộc với hệ thống của thực dân Pháp.

Trên danh nghĩa là hai xứ bảo hộ, truy nhiên trên thực tế, ở Bắc Kỳ và Trung

Kỳ, chính sách của Pháp rất nhập nhèm và hoàn toàn không rõ ràng là bảo hộ hay

thuộc địa dù về mặt hình thức bộ máy Nam Triều vẫn được thừa nhận trên danh

nghĩa. Nói như Phạm Quỳnh: “Bắc Kỳ (cả Trung Kỳ cũng tương tự như vậy) là xứ

mà người ta đã gọi là “một xứ bảo hộ pha tạp” hay một “thuộc địa-bảo hộ”, nghĩa là

đó là một xứ bảo hộ ở đó được áp dụng các phương thức quản lý trực tiếp, hoặc là

một xứ bảo hộ đang trên đường trở thành một thuộc địa” [129, tr.351].

Về cơ cấu quyền lực nhà nước ở hai xứ này, Bắc Kỳ, từ Hà Tĩnh trở ra, có một

trú sứ (sau này gọi là thống sứ) ở Hà Nội, một trú sứ ở Hải Phòng. Mỗi tỉnh duyên

hải hay tỉnh lớn cũng có một trú sứ (sau này gọi là công sứ). Các trú sứ không tham

dự chi tiết vào công việc nội bộ của các tỉnh nhưng có quyền kiểm soát quan Việt

Nam các hạng và có thể thuyên chuyển những ai có thái độ hay hành động không

tốt với các quan chức Pháp (điều 12,14). Các trú sứ có quyền hành và nghĩa vụ rất

lớn: có quân lính để giữ gìn an ninh; có Bố chánh giúp việc để thông qua quy chế

thuế khoá, kiểm soát việc thu thuế và sử dụng số thuế thu được; kiểm soát việc tuần

phòng của quan Việt Nam; là cầu nối trong giao dịch công vụ giữa các quan lại,

viên chức Pháp với nhà cầm quyền Việt Nam; có quyền xử các vụ án dân sự,

thương mại, tiểu hình sự có yếu tố của người nước ngoài ở Việt Nam; có toàn quyền

sắp đặt và cai trị việc thương chính…

Với Trung Kỳ (An Nam), từ Đèo Ngang đến địa giới phía bắc tỉnh Bình Thuận,

Page 62: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

57

sẽ “tự cai trị lấy như cũ”, không có sự kiểm soát của nước Pháp ngoại trừ việc công

chánh, thương chánh và những việc cần chủ trương hợp nhất hoặc tư vấn kỹ thuật của

người châu Âu (điều 6). Như vậy Nam Triều (Triều đình nhà Nguyễn) vẫn được duy

trì để “cai trị” An Nam (Trung Kỳ). Thực tế, “tháng 10-1897 Triều đình bù nhìn cũng

phải ra một điều ước cam kết nhượng cho thực dân Pháp quyền khai khẩn đất hoang.

Tiếp đó với Nghị định 01-5-1900 đã phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất trong luật

pháp phong kiến, quyền sở hữu tối cao về ruộng đất trước kia thuộc nhà Vua nay bị

bãi bỏ và chuyển sang cho “Nhà nước bảo hộ”” [72, tr.179]. Các quyền về quân sự,

đặc biệt về ngoại giao Pháp gần như thâu tóm toàn bộ. Nam Triều phải gọi hết quân

đội đã đem ra Bắc Kỳ về để thực hiện hoà bình (điều 4), Pháp được quyền đóng quân

ở những nơi Pháp muốn. Tổng uỷ viên Pháp chủ trương việc ngoại giao cho nước

Nam (điều 11). Tại Huế có một Khâm sứ là đại diện cho Chính phủ bảo hộ, trông

nom việc thi hành hiệp ước và giao dịch với Nam triều. Sau khi ép thành Thái ra đạo

dụ ngày 27-9-1897, toàn bộ quyền cai trị giao cho toà Khâm sứ.

Như vậy ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, trên danh nghĩa là hai chính quyền của người

bản xứ và của thực dân Pháp cùng tồn tại, cùng hoạt động và cai trị Việt Nam. Tuy

nhiên, với những quy định trong hiệp ước Hác Măng như trên thì quyền lực thực tế

nằm trong tay thực dân Pháp, quyền lực của Triều đình ở đây chỉ còn tồn tại trên

danh nghĩa mà thôi. Hệ thống quan lại người Pháp có quyền kiểm soát, chi phối hệ

thống quan lại người Việt. Thực chất, với những quy định của hiệp ước Hác Măng,

các quyền đối nội, đối ngoại cơ bản của Việt Nam đều do thực dân Pháp chi phối.

Từ lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, an ninh quốc phòng đến lĩnh vực

ngoại giao đều do Pháp quyết định. Các chính quyền tồn tại và hoạt động trên cơ sở

nguồn tài chính chủ yếu là thuế. Nhưng, quy chế thuế khoá, việc thu thuế và sử

dụng thuế ở Bắc Kỳ theo hiệp ước này hoàn toàn do Pháp quyết định. Số thuế thu

được sẽ được trích giao một phần cho chính phủ Việt Nam.

Hiệp ước Patơnôt [200](1884) ký giữa triều Nguyễn và thực dân Pháp cơ bản

giống với hiệp ước Hác Măng. Hiệp ước này hoàn thiện việc biến nước ta thành

thuộc địa của Pháp, xác định rõ vị thế của nhà Nguyễn bên cạnh chính quyền thực

Page 63: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

58

dân Pháp.

Với hiệp ước Patơnôt, địa giới các kỳ được điều chỉnh lại: Bắc Kỳ, xứ bảo hộ,

chỉ còn lại từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình trở ra tới biên giới Việt - Trung (bị

thu hẹp lại); Trung Kỳ, xứ bảo hộ, từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình đến địa giới

phía nam tỉnh Bình Thuận (được mở rộng ở cả hai đầu Bắc, Nam); Với việc điều

chỉnh lại địa giới các kỳ như trên, địa phận các kỳ trở lại y nguyên như quy định của

vua Minh Mạng trước đây. Nếu như trong hiệp ước Hác măng ký năm 1883, nhập

tỉnh Bình Thuận vào Nam Kỳ thuộc Pháp, món nợ chiến phí của Việt Nam với Pháp

coi như được thanh toán xong thì ngay một năm sau đó, với hiệp ước Patơnốt, Bình

Thuận lại được “trả lại” cho Trung Kỳ của Nam Triều. Thực chất, dù có được gọi

tên là gì đi nữa: thuộc địa hay bảo hộ, thì quyền lực nhà nước trên toàn đất nước

Việt Nam giờ đây nằm trong tay thực dân Pháp. Sự điều chỉnh địa giới các kỳ lúc

này thực ra chỉ là một trò hề chính trị nhằm mị dân mà thôi.

Nam Kỳ, xứ thuộc địa, từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào (thu hẹp

lại). Nam Triều được quyền cai trị vương quốc An Nam chỉ trên danh nghĩa. Với

hiệp ước này Pháp đã thâu tóm quyền lực nhà nước về tay mình, cơ bản xoá bỏ

quyền lực của chế độ phong kiến Việt Nam. Các vua triều Nguyễn sau này tồn tại

như những con bài cho sự vận hành guồng máy cai trị của CNTD. Trong hiệp ước

này, Pháp đặt chức Tổng trú sứ thay cho chức trú sứ ở Huế trước kia. Tổng trú sứ

nắm toàn bộ quyền hành của viên trú sứ ở Huế trước đây và chỉ đạo mọi hoạt động

của các viên công sứ Pháp đứng đầu các tỉnh ở Bắc Kỳ nên Tổng trú sứ thường

được gọi là Toàn quyền lưỡng kỳ. “Vua Việt Nam” phụ thuộc một vị công chức cao

cấp của Bộ Thuộc địa Pháp - Viên Toàn quyền.

Như vậy, cùng với các sự kiện nổi bật về quân sự, các hiệp ước được ký kết

giữa thực dân Pháp và triều Nguyễn đã khẳng định sự thắng thế của thực dân Pháp

với Triều đình phong kiến Việt Nam. Tổ chức manh nha của chính quyền thuộc địa

dần được thiết lập, bắt đầu từ ba tỉnh miền Đông vào năm 1862, tiếp đến ba tỉnh

miền Tây vào năm 1874 và tới năm 1884 trên phạm vi cả nước.

Page 64: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

59

a3. Thực dân Pháp chấm dứt ảnh hưởng của Triều đình Bắc Kinh với nhà

Nguyễn

Cùng với quá trình thâu tóm dần quyền lực nhà nước từ vua quan nhà Nguyễn

về tay mình là quá trình thực dân Pháp chấm dứt ảnh hưởng của triều đình Bắc

Kinh.

Trong nhiều thế kỷ tồn tại của chế độ phong kiến Việt Nam cho đến trước khi

thực dân Pháp xâm lược nước ta, quyền lực nhà nước ở Việt Nam chủ yếu nằm

trong tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam mà triều đình phong kiến là lực

lượng đại diện. Tuy nhiên, quyền lực này chịu sự ảnh hưởng ít nhiều của triều đình

Bắc Kinh, lúc đó là triều Mãn Thanh.

Sự xâm lược của Pháp tới Việt Nam đã “động chạm” tới cả hai hệ thống quyền

lực này. Với các bước tiến về quân sự của Pháp trên cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam của

Việt Nam mà kết quả là các hiệp ước giữa Việt Nam với Pháp (vào các năm 1862,

1874, 1883, 1884), về cơ bản Pháp đã thâu tóm được hệ thống quyền lực thứ nhất.

Mặt khác, sự xâm lược của Pháp với Việt Nam, đặc biệt hai lần đánh Bắc Kỳ,

Pháp đã đe doạ trực tiếp tới quyền tôn chủ của Trung Hoa đối với Việt Nam, thậm

chí vùng biên giới Trung Hoa giáp Việt Nam có thể bị Pháp đe doạ. Do đó, nhân

việc nhà Nguyễn sai sứ thần sang cầu viện nhà Thanh đánh Pháp, phong kiến Trung

Quốc không ngần ngại đưa quân sang Việt Nam nhằm các mục tiêu chính trị của

mình. Cuộc chiến Pháp - Thanh bùng nổ (1884-1885) đan xen với cuộc chiến Pháp -

Việt ngay sau hiệp ước Patơnôt. (ở đây Triều đình nhà Nguyễn đầu hàng nhưng

nhân dân Việt Nam vẫn ngoan cường chống trả quân xâm lược). Pháp đã chiến

thắng trong cuộc chiến Pháp - Thanh và làm chủ toàn bộ Bắc Kỳ. Để khẳng định

chính thức quyền lực của mình trên toàn cõi Việt Nam, Pháp đã ký với nhà Thanh

Hoà ước Thiên Tân 1885. Hiệp ước này đã loại bỏ nhà Thanh khỏi vấn đề Việt

Nam, buộc nhà Thanh phải thừa nhận quyền thống trị của Pháp ở Việt Nam. Sau khi

ký với nhà Nguyễn hiệp ước Patơnôt và trước khi kí với nhà Thanh hoà ước Thiên

Tân, Pháp cũng đã buộc nhà Nguyễn phải nấu chảy chiếc ấn bạc của phong kiến

phương Bắc cấp cho Gia Long trong lễ phong vương - một biểu tượng của sự lệ

Page 65: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

60

thuộc của Nam Triều vào Triều đình Mãn Thanh - nhằm buộc nhà Nguyễn xoá bỏ

mọi quan hệ ràng buộc với Trung Quốc. Như vậy, quyền lực của Pháp ở Việt Nam

đã được khẳng định sau khi loại bỏ, phủ nhận cả hai hệ thống quyền lực trên. Tiếp

theo, với Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh 1895, Pháp đã

hoàn tất việc phân định biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc nhằm khẳng định

địa giới bảo hộ của mình.

Như vậy, sau một loạt hiệp ước được ký kết giữa thực dân Pháp với nhà

Nguyễn của Việt Nam và giữa thực dân Pháp với nhà Mãn Thanh của Trung Hoa,

thực dân Pháp đã thâu tóm được quyền lực nhà nước trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

b. Thực dân Pháp khẳng định vai trò là lực lượng nắm giữ quyền lực nhà

nước ở Việt Nam và tổ chức, hoàn thiện bộ máy cai trị

b1. Thực dân Pháp hoàn thiện bộ máy cai trị theo lãnh thổ (các Kỳ) sau

1884 và tổ chức bộ máy cai trị các cấp từ trung ương đến địa phương

Trong quá trình thâu tóm dần quyền lực nhà nước từ giai cấp địa chủ phong

kiến Việt Nam về tay mình trước 1884, giai cấp tư sản Pháp cũng đã từng bước tổ

chức cai trị ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Quá trình tổ chức cai trị theo lãnh thổ

ngày càng được thực dân Pháp củng cố và hoàn thiện sau năm 1884.

Sau 1884, Pôn Đume là người thiết kế thực sự cho chế độ thuộc địa Pháp ở

Đông Dương, người được đánh giá là đã“đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh

nghiệm chủ nghĩa hầu như “thủ công" sang giai đoạn tổ chức hệ thống. Chính ông

đã tạo dựng bộ máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong thực tế

sẽ được duy trì nguyên vẹn đến tận 1945” [208], đã “đánh đòn quyết định vào chủ

quyền thống nhất vốn có của Việt Nam”, tăng cường đáng kể quyền lực của GCTS

Pháp trong tương quan so sánh với quyền lực của giai cấp địa chủ phong kiến Việt

Nam so với hiệp ước Patơnốt 1884.

Với Bắc Kỳ, viên Thống sứ - người đứng đầu hệ thống chính quyền thực dân

Pháp ở Bắc Kỳ- được Toàn quyền Đông Dương uỷ thác toàn bộ hoặc một phần

quyền lực của mình để chủ động trong việc cai trị Bắc Kỳ về mọi mặt. Triều đình

Huế chỉ còn chút quyền ban phẩm hàm cho quan chức địa phương nhưng cũng phải

Page 66: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

61

qua Phủ thống sứ. “Đối với hệ thống quan lại người Việt ở Bắc Kỳ thuộc quyền

quản lý của Triều đình Huế thì thống sứ Bắc Kỳ cũng thông qua viên Kinh lược Bắc

Kỳ… để phát huy quyền lực thực dân của mình” [127, tr.139]. Sau này, khi bãi bỏ

chức Kinh lược thì thống sứ đã “thực sự khống chế toàn bộ giới quan lại người Việt

ở Bắc Kỳ”. Đó chính là hai bước của một thủ đoạn nham hiểm, mị dân: Đặt chức

Kinh lược Bắc kỳ và bãi bỏ chức này, chuyển toàn bộ chức năng của Kinh lược sứ

vào tay Thống sứ. Ngay cả những việc mà trước đó chỉ vua mới có quyền như xét

và ban cấp phẩm hàm thì sau này thống sứ Bắc Kỳ cũng thôn tính quyền đó về tay

mình. Thống sứ Bắc Kỳ có “quyền lập quy, quyền hành pháp, và quyền tư pháp ở

Bắc Kỳ” [127, tr.140]. Thực chất, với các bước đi rất bài bản như trên, quyền lực

của Nam Triều với Bắc Kỳ cũng đã bị thực dân Pháp loại bỏ dần dần.

Với Trung Kỳ, quyền lực của Triều đình chỉ còn lại trong phạm vi xứ Trung

Kỳ. Tuy nhiên, quyền lực này thực chất cũng chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Bằng các

thủ đoạn chính trị nham hiểm, thực dân Pháp dần thâu tóm quyền lực đối với xứ

Trung Kỳ vào tay viên Khâm sứ Pháp (gần giống thống sứ Bắc Kỳ). Khâm sứ

Trung Kỳ không chỉ chi phối Phủ Tôn nhân, Viện Đô sát mà còn nắm toàn bộ tài

chính, trả lương cho Nam triều, chi phối lục bộ [103, tr.226, 227]. Khâm sứ thậm

chí còn duyệt các đạo dụ vua ban trước khi nó được ban bố ra công chúng. Trên cơ

sở pháp lý là các hiệp ước đã ký giữa triều Nguyễn và thực dân Pháp, cùng với việc

củng cố bộ máy hành chính, Pháp tăng cường các lực lượng quân sự và nắm hết các

quyền chỉ huy quân đội cả Pháp và Việt.

Nam Kỳ trực trị gần như trở thành một nước khác tách khỏi Việt Nam, bộ máy

cai trị ở xứ này ngày càng được hoàn thiện theo mô hình của nền chính trị tư sản

phương Tây.

Tóm lại, trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp thực chất nằm trong tay thực dân Pháp, Triều đình phong kiến nhà Nguyễn chỉ

còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn chút quyền lực thực tế nào mà là tay sai của

thực dân để nô dịch, áp bức nhân dân ta.

Quá trình tổ chức cai trị từ trung ương đến địa phương được thực dân Pháp

Page 67: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

62

tiến hành đồng thời với tổ chức cai trị theo lãnh thổ.

Tại Nam Kỳ, thực dân Pháp đã hành động giống như nhận định của Mác, Ăng

ghen: “Bất cứ ở chỗ nào mà GCTS chiếm được chính quyền thì nó đạp đổ những

quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên. Tất cả những mối liên hệ phức tạp và

muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến với “những bề trên tự nhiên”

của mình đều bị GCTS thẳng tay phá vỡ [88, tr.599,600]. Tại đây, bộ máy cai trị từ

trung ương đến địa phương được tổ chức như một tỉnh của nước Pháp. Bộ máy cai

trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ được tổ chức tới tất cả các cấp. Đứng đầu bộ máy

cai trị này là Thống đốc Nam Kỳ và một loạt cơ quan phụ tá. Về mặt hành chính,

Nam Kỳ được chia thành tỉnh, thành phố. Tỉnh ở Nam Kỳ không chia thành phủ -

huyện như trước đây mà lập một số trung tâm hành chính (một cấp đơn vị hành

chính chưa hoàn chỉnh) và chia thành các tổng. Tổng lại được chia thành xã. Các

nhân vật đứng đầu các cơ quan hành chính này được tuyển qua các cuộc thi công

chức, được xếp vào ngạch hành chính và ăn lương của nhà nước Pháp.

Tuy nhiên, tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, thực dân Pháp không xoá bỏ chính quyền

phong kiến cũ mà duy trì chính quyền này, ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, đồng thời

thiết lập thêm một hệ thống chính quyền do thực dân trực tiếp cai trị. Chúng tổ chức

bộ máy cai trị kiểu “tuy hai mà một” [127, tr.175]- hai hệ thống chính quyền cùng

thực hiện một mục tiêu chính trị. Thực dân Pháp đã thực thi “chính sách “Hợp tác”

nhằm lấn dần đất, chiếm dần quyền, biến vua quan Nam Triều thành công cụ thống

trị của chúng ở cấp chính quyền Trung ương” [127, tr.245].

Ở cấp phủ, huyện, đạo, châu (ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ) thì “trước năm 1919, tỉnh

được chia thành phủ, phủ chia thành huyện hay đạo hoặc châu (ở miền núi). Từ năm

1818, phủ, huyện, đạo, châu đều là cấp hành chính tương đương nhau” [2, tr.228].

Quản lý ở cấp này đều là chính quyền phong kiến. Tuy nhiên, bằng nhiều cách khác

nhau, giới cầm quyền thực dân Pháp cũng dần thâu tóm việc bổ dụng, thuyên

chuyển, thăng giáng đội ngũ quan lại ở cấp này mà trước đây vốn thuộc thẩm quyền

của Vua nhà Nguyễn.

Tuy nhiên, ở cấp làng xã (ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ), thực dân Pháp đã “duy trì một

Page 68: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

63

cách trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ kỹ” của làng xã phục vụ cho sự

cai trị của chúng. Vì theo cách nhận định của các tên thực dân cáo già về tổ chức làng

xã của Việt Nam thì “mỗi làng xã sẽ là một nước cộng hoà nhỏ, độc lập trong giới

hạn những quyền lợi địa phương... được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỷ luật, rất có

trách nhiệm với chính quyền cấp trên” [127, tr.226, 227]. Với những đặc điểm như

vậy, duy trì tổ chức hành chính cấp xã sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự duy trì trật tự

và đảm bảo cho những hoạt động mang tính chất lợi ích xã hội, giảm bớt khó khăn và

giảm bớt tốn kém trong việc thu các loại thuế trực thu, tránh được một sự tiếp xúc

trực tiếp giữa chính quyền của người Pháp với dân chúng [127, tr.227].

Thực dân Pháp đã can thiệp vào tổ chức quản lý cấp xã ở Việt Nam, làm lung

lay rường cột của xã hội Việt Nam truyền thống một cách khá tinh vi. Bằng chính

sách “Cải lương hương chính” (hay chính là việc tổ chức lại bộ máy hành chính xã),

thực dân Pháp đã “nắm quyền giám sát và kiểm soát tối cao về nhân sự bộ phận

quyết nghị cấp xã”, “ giám sát và kiểm soát mọi hoạt động nội bộ của xã”, “quyết

định việc lựa chọn lý, xã trưởng”[127, tr.230, 234]- “chiếc ổ khoá” để thâm nhập

vào cơ chế quản lý và hoạt động của xã thôn Việt Nam. Điều đặc biệt tinh vi và

hiểm độc của thực dân Pháp là thông qua việc giám sát và kiểm soát mọi hoạt động

nội bộ của xã, chúng đã can thiệp vào cơ sở kinh tế của làng xã là khu vực “bản xã

công điền công thổ”- tức tài sản riêng của tập thể làng xã. Dưới sự cai trị của Pháp,

Hội đồng Kỳ mục của xã chỉ có quyền quản lý số tài sản này, còn chính quyền thực

dân Pháp có toàn quyền sử dụng (Cho thuê, cho lĩnh canh hoặc bán...). Như vậy, các

cơ quan quyết nghị, cơ quan chấp hành của làng xã cuối cùng đều nằm dưới sự chi

phối của thực dân Pháp. Sự tồn tại khá bền vững của tổ chức chính quyền cấp xã là

một biểu trưng quyền lực chính trị thực sự của người dân Việt cuối cùng đã bị thực

dân Pháp phá vỡ một cách tinh vi.

Như vậy, với Bắc Kỳ và Trung Kỳ, ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, có hai hệ

thống chính quyền tồn tại: Chính quyền phong kiến bản xứ và chính quyền thực

dân. Tuy nhiên, ở cấp làng xã, chỉ duy nhất có chính quyền phong kiến bản xứ hoạt

động dưới sự chi phối và can thiệp của thực dân. Một hệ thống chính quyền được

Page 69: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

64

cấu thành từ hai bộ phận: Chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai cho chính

quyền thực dân là một cách rất hiệu quả để giai cấp tư sản Pháp tối đa hoá quyền

lực thực dân của chúng trên đất nước ta.

Có thể thấy, với sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của thực dân Pháp, quyền

lực nhà nước ở Việt Nam từ tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam đã dần

chuyển sang tay GCTS Pháp mà thực dân Pháp ở nước ta là kẻ đại diện trực tiếp.

Tuy nhiên, GCTS Pháp không du nhập hoàn toàn mô hình nhà nước Pháp ở chính

quốc vào thuộc địa Việt Nam. Trên cơ sở đặc điểm riêng của từng vùng, Thực dân

Pháp đã chia Việt Nam thành ba kỳ với ba quy chế pháp lý hay ba chế độ chính trị

khác nhau. Kiểu nhà nước phong kiến đã dần chuyển sang một kiểu nhà nước có

tính chất tư sản (đặc biệt ở Nam Kỳ) với những nét đặc thù trong điều kiện tồn tại ở

một nước thuộc địa. Nhà nước quân chủ phong kiến chuyên chế đã nhường chỗ cho

nhà nước thực dân phong kiến - một nhà nước “lưỡng thể về chính trị”, một nhà

nước có sự kết hợp và pha trộn của hai tính chất phong kiến và tư sản. Cách tổ chức

và thực thi quyền lực nhà nước có nhiều thay đổi so với thời kỳ phong kiến trước

đây. Nhà nước từ chỗ là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến để nô dịch và bóc

lột nhân dân (chủ yếu là nông dân) trở thành công cụ của thực dân, phong kiến nô

dịch, áp bức toàn thể nhân dân Việt Nam, làm giàu cho bọn thực dân xâm lược và

phong kiến bản xứ.

b2. Thành lập Liên bang Đông Dương và Bộ Thuộc địa

Việc thành lập Liên bang Đông Dương thuộc Pháp trong đó có ba kỳ của

Việt Nam đánh dấu cho việc chính thức xác lập bộ máy chính quyền thuộc địa trên

toàn đất nước Việt Nam. Đó là một cách mà giai cấp tư sản Pháp với lực lượng đại

diện là bọn thực dân Pháp ở Đông Dương khẳng định vai trò là lực lượng nắm giữ

quyền lực nhà nước ở Đông Dương và Việt Nam.

Sau khi thôn tính được toàn bộ Việt Nam bằng hiệp ước Patơnôt (1884), ba năm

sau, vào năm 1887, Pháp thành lập Liên bang Đông Dương (Indochine Francaise -

Liên bang xứ bảo hộ và thuộc địa) còn gọi là Đông Dương thuộc Pháp hoặc xứ

Đông Pháp. (Chú ý rằng về mặt địa lý, tên gọi Đông Dương - Indochine còn có thể

Page 70: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

65

bao gồm cả Thái Lan, Miến Điện và Mã Lai. Liên bang Đông Dương ở đây không

hiểu theo nghĩa này). Liên Bang Đông Dương gồm các xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam

Kỳ, Ai Lao, Cao Miên và vùng nhượng địa Quảng Châu Loan.

Chính quyền Liên Bang được giai cấp tư sản Pháp tổ chức khá quy củ với

những quyền hạn như: Liên lạc với chính quốc, thay mặt các xứ trong ứng xử ngoại

giao, điều hành quân đội và các quyền về tài chính. Triều đình Huế lĩnh lương từ

Chính phủ Bảo hộ. Đặc biệt viên Toàn quyền Đông Dương - chức vụ đứng đầu

trong Liên Bang Đông Dương, là người đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Pháp,

hành xử như một nguyên thủ, là người có uy quyền cực lớn. Viên Toàn quyền là

người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Nam Kỳ.

Riêng với Bắc Kỳ và Trung Kỳ thì Hoàng đế nhà Nguyễn vẫn là người có quyền tối

thượng, tuy nhiên hoàn toàn trên danh nghĩa. Cả ba nhân vật đứng đầu ba kỳ gồm

Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ đều nằm dưới quyền

giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền. Khâm sứ Trung Kỳ có thể được

Tổng uỷ viên Pháp giao toàn bộ uy quyền hoặc một phần uy quyền về ngoại giao.

“Những người vì lý do khoa học hay lý do khác muốn du lịch trong nước Việt Nam

chỉ được phép do Khâm sứ Pháp ở Huế, Thống đốc Nam Kỳ hay Tổng uỷ viên của

chính phủ Pháp ở Bắc Kỳ làm môi giới xin cho mà thôi, khi họ được giấy phép thì

phải trình lên chính phủ Việt Nam kiểm nhận” (điều 21, hiệp ước Hác Măng).

Khi Liên bang Đông Dương ra đời năm 1887, “chính quyền thuộc địa được xác

định một cách thống nhất về mô hình, cơ cấu tổ chức, về chỉ đạo về phương thức

hoạt động” [127, tr.275]. Đó là “mốc chuyển hoá của chính quyền phong kiến vào

phạm trù chính quyền thuộc địa” [127, tr.275]. Có thể thấy, dù ba kỳ ở Việt Nam

được cai trị theo ba quy chế có tên gọi khác nhau: Nam Kỳ - Thuộc địa, Bắc Kỳ -

Bảo hộ trực tiếp, Trung Kỳ - Bảo hộ gián tiếp nhưng thực chất, chính quyền nhà

nước ở ba kỳ đều thuộc phạm trù chính quyền thuộc địa.

Như vậy, có thể thấy, nguyên tắc tập trung quyền lực trong tay Vua nhà Nguyễn

trước đây, sau khi Việt Nam bị Pháp thôn tính, đặc biệt sau khi Liên bang Đông

Dương ra đời, đã chuyển sang “nguyên tắc tập trung quyền lực trong tay người

Page 71: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

66

Pháp” [167, tr.245]. “Nếu chính sách chia để trị là hình thức thì nguyên tắc tập

trung quyền lực là nội dung của phương thức cai trị… Sự kết hợp đó là sự kết hợp

giữa tính hình thức và tính thực chất của phương thức cai trị” [167, tr.426]

Việt Nam từ một quốc gia thống nhất với một bộ máy nhà nước duy nhất trong

cả nước dưới thời nhà Nguyễn độc lập giờ bị chia thành “ba quốc gia” tương ứng

với ba Kỳ với các quy chế cai trị khác nhau, với ba hệ thống chính quyền cho mỗi

Kỳ là bộ phận của chính quyền Liên bang Đông Dương. Và chính quyền Liên bang

Đông Dương cũng chỉ là yếu tố cấu thành của chính quyền của GCTS Pháp. Cơ cấu

tổ chức quyền lực ở Việt Nam lúc này nằm trong cơ cấu quyền lực của nhà nước

Pháp với nền cộng hoà thứ ba, bị chi phối bởi khung chế định của Hiến pháp nền

cộng hoà thứ ba (1875). Đã có một sự thay đổi lớn trong hình thức cấu trúc nhà

nước ở Việt Nam.

Việc thành lập Bộ Thuộc địa là một minh chứng rõ ràng hơn cho việc cả ba

Kỳ của Việt Nam dù quy chế cai trị khác nhau nhưng đều là thuộc địa của thực dân

Pháp. Trước đây, Nam Kỳ thuộc Bộ Thuộc địa và Hải quân, sau này bộ này tách ra

thành Bộ Thuộc địa và Bộ Hải quân thì Nam Kỳ thuộc Bộ Thuộc địa. Trước đây

Bắc Kỳ, Trung Kỳ thuộc Bộ Ngoại giao, khi Bộ Thuộc địa ra đời, Bắc Kỳ, Trung

Kỳ cũng chuyển sang trực thuộc Bộ Thuộc địa. Việc đưa Bắc Kỳ, Trung Kỳ cùng

với Nam Kỳ nằm dưới sự quản lý của Bộ Thuộc địa không chỉ tạo thuận lợi cho

Pháp trong quá trình cai trị Việt Nam mà đây còn là những bước đi hết sức bài bản,

có chủ đích của thực dân Pháp nhằm che đậy bản chất xâm lược núp dưới chiêu bài

“khai hoá văn minh” của chúng.

c. Vài nét so sánh chính trị thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương, Việt

Nam với chính trị thuộc địa của thực dân Anh ở Ấn Độ

Có thể thấy, sau khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thôn tính, Pháp đã

áp đặt một nền chính trị, một phương thức cai trị không giống như nền chính trị mà

thực dân Anh thiết lập ở Ấn Độ thời thuộc Anh.

Trước hết, thực dân Anh cai trị Ấn Độ theo kiểu trực tiếp trong khi Pháp thực

hiện chính sách chia để trị một cách triệt để, cai trị cả theo cách trực tiếp lẫn

Page 72: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

67

gián tiếp. Lý giải điều này phải xuất phát từ hai yếu tố đó là đặc điểm của bản thân

kẻ thống trị và đặc điểm của dân tộc thuộc địa.

Chế độ thuộc địa với quy chế cai trị trực tiếp là một mô hình mà nhiều nước đế

quốc áp dụng cho các vùng lãnh địa dưới tầm kiểm soát của chúng. Sự rời rạc, lỏng

lẻo trong tổ chức xã hội của các vùng đất bị thôn tính là điều kiện thuận lợi để

CNTD có thể dễ dàng xoá đi cách tổ chức xã hội truyền thống và áp đặt một quy

chế cai trị theo kiểu trực tiếp ở đó.

Với trường hợp Ấn Độ, chính chế độ đẳng cấp nặng nề và sự phân tầng xã hội

sâu sắc cùng với “chủ nghĩa dân tộc” yếu là những yếu tố thuận lợi cho việc áp đặt

một chế độ cai trị hoàn toàn mới theo kiểu quy chế thuộc địa. Mặt khác, với kẻ xâm

lược là thực dân Anh, một tên thực dân thương mại và công nghiệp, lối kinh doanh

theo kiểu thương mại và công nghiệp đã tạo ra cách tư duy và ứng xử đặc thù của

Anh với các thuộc địa của của mình, đó là “độ thoáng” nhất định với thuộc địa.

Việc xoá bỏ ngay một cách khá triệt để những yếu tố bản địa và áp dụng những yếu

tố mới trong sự cai trị chính trị là một “cái gu” phổ biến của tên thực dân “phớt Ăng

Lê” này.

Trong khi đó, thực dân Pháp, một đế quốc cho vay nặng lãi có quan niệm tĩnh

hơn, muốn ổn định đến mức bảo thủ, muốn kìm giữ con nợ hoặc thuộc địa trong thế

phụ thuộc vĩnh viễn, một tên thực dân có khuynh hướng tìm cách quản lý hành

chính và thu thuế hơn là khuyến khích tự do kinh doanh [177, tr.191,192] thì việc

áp dụng một quy chế chính trị hoàn toàn mới cho vùng đất hải ngoại mà chúng

chinh phục được là điều không dễ được chúng lựa chọn. Cùng với đó, chính đặc

điểm Việt Nam là một đất nước trải dài với tính đa dạng và sự khác biệt khá rõ nét

giữa các vùng miền ở Việt Nam là một yếu tố quan trọng cho việc áp đặt quy chế

cai trị của Pháp trên đất nước ta. Thực dân Pháp - một tên thực dân cáo già - đã

nghiên cứu khá kỹ đất nước Việt Nam trước khi đặt các Kỳ của Việt Nam dưới các

quy chế cai trị khác nhau.

Chỉ với Nam Kỳ, vùng đất mới được khai phá và sát nhập vào Việt Nam sau

này, Pháp mới áp đặt quy chế thuộc địa, cai trị trực tiếp. Như thế thì có lợi hơn cho

Page 73: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

68

việc phát huy quyền lực thực dân của Pháp, cho dù không hoàn toàn phù hợp với

tính cách bảo thủ của chúng. Từ thời các Chúa Nguyễn và sau này là Vương Triều

Nguyễn, việc mở mang bờ cõi, khai phá các vùng đất mới ở phương Nam luôn luôn

được coi trọng. Lãnh thổ quốc gia ngày càng được mở rộng. Nam Kỳ chính là một

bộ phận của vùng đất mới này. Do đó, tổ chức chính trị và hành chính tại đây chỉ

bắt đầu có từ thời nhà Nguyễn và vẫn trong tình trạng lỏng lẻo, chưa hoàn thiện,

tính ổn định của cộng đồng chưa cao. Chính vì vậy, khi thực dân Pháp tấn công

Nam Kỳ, bộ máy cai trị bản xứ nhanh chóng bị phá vỡ. Thực tế này tạo điều kiện

thuận lợi cho thực dân Pháp áp dụng và thực thi chế độ thuộc địa ở nơi đây nhằm

“chuyển biến họ dần dần theo hình ảnh của nước Pháp, bằng cách đưa vào tập tục

của họ các luật và hiến pháp của mẫu quốc” [129, tr355].

Vì sao thực dân Pháp không áp dụng với Bắc Kỳ và Trung Kỳ một quy chế cai

trị giống như Nam Kỳ? Một trong những lý do là vì Bắc Kỳ, Trung Kỳ là những

vùng đất có lịch sử lâu đời, là cái nôi của một dân tộc có bề dày truyền thống, “là

một dân tộc với ý nghĩa đầy đủ của từ này, một dân tộc đồng nhất hơn cả các dân

tộc đồng nhất, một dân tộc có tính cách, có truyền thống và thiên tài riêng, một dân

tộc từ ít nhất hai nghìn năm nay đã phát triển trong một môi trường đặc biệt, khiến

nó phân biệt rõ ràng với các dân tộc khác” [129, tr.355], một dân tộc “vẫn là chính

nó bất chấp mười thế kỷ chịu cảnh Bắc thuộc” [129, tr.355]. Một dân tộc như vậy

không dễ để thôn tính theo kiểu đồng hoá. Mặt khác, “người ta có thể bác bỏ Triều

đình và các quan lại hiện nay vào bất cứ lúc nào, nhưng sẽ rất khó để có cái thay thế

họ” [129, tr.356]. Từ thực tế lịch sử, văn hoá của Bắc Kỳ và Trung Kỳ, rõ ràng việc

giữ lại bộ máy Nam Triều cho sự cai trị của thực dân Pháp hoàn toàn rất có lợi so

với việc xoá bỏ nó đi. Do vậy, ở hai xứ này, không có gì tốt hơn là chế độ bảo hộ

tức bằng phương pháp “liên hiệp và hợp tác”. Việc áp đặt quy chế bảo hộ và nửa

bảo hộ cho các xứ này vì thế là sự lựa chọn của thực dân Pháp.

Thể chế chính trị cũng như chính sách cai trị của thực dân Anh được thiết lập

nhằm bóc lột thuộc địa bằng cách tăng cường đầu tư vào các thuộc địa, khuyến

khích tự do kinh doanh, xâm nhập về kinh tế trong khi thể chế chính trị và chính

Page 74: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

69

sách cai trị của thực dân Pháp được xác lập chủ yếu bóc lột thuộc địa thông qua

khai thác các nguồn tài nguyên đến kiệt quệ. “Điều này cũng góp phần lý giải tại

sao những thuộc địa của Anh có quan hệ kinh tế thị trường và đầu tư phát triển hơn,

dễ dàng hội nhập vào hệ thống kinh tế- chính trị toàn cầu hơn các thuộc địa của

Pháp, Hà Lan…[177, tr.192]. Ngược lại, các thuộc địa của Pháp, sau ngày độc lập

hầu như bị kiệt quệ hoàn toàn.

Chính bởi thể chế chính trị với chính sách cai trị trực tiếp, mềm mỏng, nhân

nhượng, khôn khéo của người Anh khiến Ấn Độ và các thuộc địa khác của Anh

thường đấu tranh với mục tiêu tự trị, sau đó mới đến độc lập và các nước này đều

chấp nhận là thành viên trong khối Liên hiệp Anh sau ngày độc lập. Còn với thể chế

chính trị với chính sách cai trị khá cứng nhắc, cột chặt thuộc địa với chính quốc

của thực dân Pháp khiến các dân tộc Đông Dương không thể tin vào “nước mẹ

Pháp” và muốn giành độc lập hoàn toàn. Sau ngày giải phóng, các thuộc địa của

Pháp đều không muốn tham gia khối Liên hiệp Pháp, sau này là Cộng đồng Pháp

[177,tr.194].

Có thể thấy, sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của Pháp đã dẫn tới sự du nhập

ở mức độ nhất định thể chế chính trị của nước Pháp vào nước ta, làm biến đổi cơ

bản thể chế chính trị truyền thống Việt Nam. Dù sự du nhập với mục đích tối ưu lợi

ích thực dân song nó đã “tạo ra một quá trình tiếp thu chính thể dân chủ đại nghị từ

phương Tây, vốn là trung tâm của các cuộc cách mạng tư sản... Đây là yếu tố đảm

bảo cho các hoạt động dân chủ trong xã hội và so với chế độ phong kiến, nó tiến bộ

hơn rất nhiều” [114, tr.264,265].

2.2. Nguyên nhân biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang chính trị thực

dân - phong kiến

2.2.1 Nguyên nhân trực tiếp

Ngày 01-9-1858 thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên lên bán đảo Sơn Trà (Đà

Nẵng) mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau gần 30 năm vũ trang xâm

lược, ngày 06-6-1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký với Pháp hiệp ước Patơnôt -

Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. “Văn bản này cũng chính là khai tử cho

Page 75: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

70

quyền đối ngoại, và là bản khai sinh cho quyền nội trị mang tính chất nô lệ của

chính quyền nhà Nguyễn đối với thực dân Pháp” [127, tr53]. Sau sự kiện này, thực

dân Pháp đã dần thiết lập một hệ thống chính quyền thuộc địa ở Việt Nam và Đông

Dương. Một nền chính trị thực dân - phong kiến chính thức được xác lập thay thế

cho nền chính trị phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta. Do đó,

xem xét nguyên nhân sự biến đổi chính trị này thực chất là luận giải các lý do dẫn

tới một cuộc chiến tranh xâm lược mà phần thắng thuộc về kẻ đi xâm lược - thực

dân Pháp. Các lý do này phải được xem xét từ cả 2 phía: kẻ đi xâm lược và người bị

xâm lược.

a. Sự cạnh tranh quyền lực quốc tế giữa Pháp với các nước tư bản Phương

Tây thúc đẩy Pháp xâm lược Việt Nam

Mặc dù Pháp không phải người phương Tây đầu tiên có mặt trên đất nước ta

nhưng âm mưu Pháp xâm lược Việt Nam lại xuất hiện từ rất sớm - từ những

năm đầu thế kỷ XVII. Sự cạnh tranh quyền lực quốc tế giữa các nước TBCN, đặc

biệt giữa Pháp với Anh đã dẫn đến việc đầu thế kỷ XIX, Hoàng đế nước Pháp đã

khẳng định rằng: “Sự thiết lập một căn cứ của Pháp tại vùng biển Trung Hoa về mặt

quân sự là một điều kiện rất có lợi trong trường hợp Pháp đánh nhau với nước Anh”

[72, tr28] .

Lên ngôi năm 1802, Gia Long trả ơn Giáo hội Pháp đã giúp ông ta đoạt ngôi

báu bằng cách sử dụng tới 40 người Pháp (vốn là các giáo sĩ) làm cố vấn. Những

người Pháp này tuy đã ở lại Việt Nam sinh sống và làm quan cho triều Nguyễn,

song vẫn không quên bổn phận của mình với Giáo hội và nước Pháp. Ở trong kinh

thành Huế, họ nắm hầu hết bí mật quốc gia và thực chất đã trở thành những mật

thám đắc lực của nước Pháp. Điều này tạo cơ hội vô cùng thuận lợi cho Pháp trong

việc nắm bắt những thông tin về nội tình Việt Nam cho một âm mưu xâm lược sau

này của chúng với nước ta.

Năm 1857, nước Anh đang dính líu đến cuộc nổi loạn ở Ấn Độ và do đó sẽ

không đủ sức mạnh để ngăn cản Pháp giành một bàn đạp tại Đông Nam Á. Đây là

một thời điểm đặc biệt thuận lợi. Và Pháp đã cho tàu chiến tới Đà Nẵng kiếm cớ

Page 76: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

71

gây sự với Việt Nam. Khi được tin báo từ một giáo sĩ về tình hình Việt Nam năm

1857: “Những người Anh đang dòm ngó Đà Nẵng, họ sẽ đi trước chúng ta nếu họ

biết đề án đánh chiếm của chúng ta” [103, tr.208], Napôlêông III đã cho thành lập

Uỷ ban nghiên cứu vấn đề Nam Kỳ để “xét lại hiệp ước Vécxây” nhằm đẩy nhanh

tiến trình thực hiện mục tiêu xâm lược Việt Nam.

Khi CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN nửa sau thế kỷ XIX thì một trong

những đặc điểm quan trọng nhất của chính sách đối ngoại của các cường quốc lớn là

cuộc cạnh tranh xâm lược thuộc địa. Thực tế đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển

không ngừng trong lực lượng sản xuất (LLSX) xã hội. “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi

nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, GCTS xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải

xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp

nơi” [88, tr.601].

Trong quá trình đó hầu hết các nước thuộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh

nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển đều trở thành món mồi béo bở của các nước đế

quốc phương Tây. Đó là thời kỳ, như Mác nói: “nông thôn phải phụ thuộc vào

thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn

minh, nó (GCTS) đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc

tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây…. GCTS lôi cuốn đến cả

những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh… nó tạo ra một thế giới theo hình

dạng của nó” [88, tr.602]. Những cuộc khủng hoảng trong lòng xã hội TBCN (điển

hình như nạn dịch thừa) được GCTS khắc phục bằng nhiều cách, trong đó có cách

bóc lột triệt để hơn nữa những thị trường cũ đồng thời chiếm những thị trường mới.

Ngay với Trung Quốc, một nước luôn tự coi mình là trung tâm của thế giới

giữa bốn bề là man di, mọi rợ, dị tộc cũng đã bị phương Tây xâu xé và đã phải

khuất phục phương Tây. Tư bản Pháp trong quá trình phát triển thành CNĐQ cho

vay nặng lãi, bị thúc ép bởi những nhu cầu của sự phát triển mới nên nhu cầu xâm

lược nước ngoài để tìm kiếm thị trường ngày càng trở nên cấp bách. Như vậy, xâm

lược thuộc địa có thể coi như là một đáp án cho bài toán được tạo ra bởi áp lực của

sự phát triển kinh tế chứ không phải nước Pháp đã vượt qua khoảng cách 15.000 km

Page 77: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

72

để sang Đông Dương vì một điều nhân nghĩa.

Trên đà bành trướng sang phương Đông, đến giữa thế kỷ XIX, các nước đế

quốc phương Tây đã thâm nhập sâu vào các nước châu Á, đặc biệt các nước nghèo

nàn, lạc hậu, kém phát triển. Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam cũng đứng trước

nguy cơ bị xâm lược. Trong số các nước tư bản phương Tây đang nhòm ngó và lăm

le xâm lược nước ta lúc bấy giờ, Pháp là nước có nhiều “dây mơ rễ má” lâu đời với

nhà Nguyễn. Chúng có mưu đồ xâm lược nước ta từ lâu nên đã cất công tìm hiểu và

hiểu khá rõ nội tình đất nước ta. Sau khi nền Đế chế thứ hai - một hình thái chuyên

chế của GCTS Pháp - được xác lập (năm 1852) việc ráo riết đẩy mạnh xâm chiếm

thuộc địa ngày càng trở thành nội dung nổi bật trong chính sách ngoại giao của

nước Pháp. Chúng đã tiến hành chiến tranh xâm lược ở nhiều nơi trên thế giới: xâm

lược ở châu Phi (Tuynidi, Cônggô, Xênêgan, Ghinê, Tây Xuđan, Đahômây…),

cùng với các đế quốc khác xâu xé Trung Quốc. Thực chất, đó là cuộc chạy đua

giành giật thị trường giữa Pháp với các nước tư bản khác ở vùng Viễn Đông và ở

các khu vực nghèo nàn lạc hậu khác của thế giới.

Trước thái độ ngày càng nhượng bộ của triều Nguyễn, tiếp tục viện cớ phía Việt

Nam không thi hành nghiêm túc hiệp ước kí năm 1874 giữa triều Nguyễn và thực

dân Pháp, ở Pháp đã xuất hiện một trào lưu dư luận biện minh cho hành vi bành

trướng đế quốc của Pháp và thúc đẩy tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở

Đông Dương. Chủ nghĩa bành trướng này cho rằng:

Việc chinh phục thuộc địa là một vấn đề sinh tồn của nước Pháp, vì nước Pháp

chẳng là gì bên cạnh những quốc gia khổng lồ như Nga, Đức, Anh, Hoa Kỳ và

cả Trung Hoa nữa… Sự bành trướng hải ngoại như một phương tiện cho phép

nước Pháp chiếm lại địa vị của nó trên chính trường quốc tế… Chính sách

thực dân là con đẻ của chính sách kỹ nghệ, và phải làm xuất hiện nhiều lớp

người tiêu thụ mới, nếu không xã hội tân thời sẽ thất bại; chính sách thực dân

cũng cho phép nước Pháp tham dự vào việc phân chia thế giới và tạo cơ hội

truyền bá văn minh Pháp cho các dân tộc da vàng, da đen. [2, tr 85].

Tư tưởng này càng củng cố quyết tâm của thực dân Pháp vốn đang khao khát

Page 78: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

73

thị trường là phải xâm lược bằng được thuộc địa và thúc đẩy cuộc chiến tranh xâm

lược Việt Nam của chúng.

b. Các chính sách và ứng xử chính trị sai lầm của triều Nguyễn - cái cớ cho

thực dân Pháp xâm lược Việt Nam

Với âm mưu xâm lược Việt Nam được ấp ủ từ rất sớm, sau nhiều cố gắng, nỗ

lực bằng con đường hoà hảo, đàm phán ngoại giao để từng bước thâm nhập thị

trường Việt Nam không thành, thực dân Pháp quay sang sử dụng vũ lực. Và với

phương pháp mới này, vấn đề là phải tìm một lý do. Lý do đó được Pháp tìm ra

trong chính sách kinh tế và đối ngoại của Triều đình nhà Nguyễn (trực tiếp là thời

vua Tự Đức, làm vua từ 1848 đến 1883).

Một là chính sách với đạo Thiên Chúa (còn gọi là đạo Gia tô hoặc Công

giáo) của triều Nguyễn

* Trước năm 1858.

Trừ Gia Long - người trực tiếp chịu ơn các giáo sỹ phương Tây trong cuộc

cạnh tranh quyền lực và đoạt được ngôi báu - có thái độ khoan dung với đạo Thiên

Chúa trong thời gian trị vì, các đời vua tiếp sau Gia Long (Minh Mạng, Thiệu Trị,

Tự Đức), trước 1858, đều có chủ trương cấm đạo Thiên Chúa cùng với chính sách

giảm thiểu đến mức tối đa các sự tiếp xúc giữa nước Việt Nam và Tây phương vì

những lý do chủ yếu sau:

Trước hết, vì không kiểm soát được tình hình trong nước cũng như hoạt động

của các cha cố trong bối cảnh đất nước loạn lạc triền miên và các cuộc nổi dậy diễn

ra khắp nơi, triều đình cho là các cha cố đã can thiệp vào chính trị. Thiên Chúa

giáo bị xem như là nguồn gốc phát sinh những sự hỗn loạn trong xã hội Việt Nam

đương thời, Thiên Chúa giáo mở đường cho đạo quân xâm lược, giáo hội tiếp tay

cho giặc, một số giáo dân không chỉ là tín đồ của đạo Thiên Chúa mà còn là kẻ phản

bội Tổ quốc.

Thứ hai, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của Thiên Chúa giáo trong một xã

hội cổ truyền phương Đông chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo như nước ta,

Triều Nguyễn cũng không phải không có lý khi lo sợ rằng Thiên Chúa giáo sẽ làm

Page 79: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

74

lay chuyển căn bản rường cột của xã hội cổ truyền Việt Nam, đánh mất vai trò độc

tôn về tư tưởng tinh thần của học thuyết Nho giáo. Mặt khác, Thiên Chúa giáo đụng

chạm tới những vấn đề tín ngưỡng sâu xa của dân tộc Việt Nam đặc biệt tục thờ

cúng tổ tiên. Các vua nhà Nguyễn luôn coi Khổng giáo là chính đạo, coi người

phương Tây và tất cả văn hoá, văn minh của họ là man di. Thiên Chúa giáo bị nhìn

như tà đạo. Nhìn đạo Thiên Chúa qua lăng kính của Nho giáo, coi Nho giáo là

khuôn vàng thước ngọc, những gì trái với khuôn vàng thước ngọc ấy là sai, là bỏ đi,

Triều đình đã có cái nhìn khá tiêu cực về Thiên Chúa giáo. Thực tế, sự lo lắng này

cũng không phải không có lý khi phương cách truyền đạo của các giáo sĩ phương

Tây giai đoạn đầu ở nước ta cũng rất cực đoan. Trong điều kiện Việt Nam trước khi

đạo Thiên Chúa du nhập là một quốc gia đã có nền văn hoá định hình, thực tế này

làm mối lo ngại của nhà Nguyễn về sự đổ vỡ của một trật tự xã hội đã được thiết lập

từ lâu, sự biến mất của các yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc ngày càng tăng lên.

Sau nữa, các vua nhà Nguyễn (trừ Gia Long) do không có những hiểu biết nhất

định về đạo Thiên Chúa nên tin vào những thông tin hoang đường, xuyên tạc, sai

lệch, nhảm nhí, vô căn cứ về đạo này. Từ đó đưa ra chính sách cấm đạo.

Với những lý do trên, nhằm duy trì trật tự xã hội phong kiến cổ truyền và bảo

vệ hệ tư tưởng chính trị của xã hội phong kiến, chính sách với Thiên Chúa giáo

của Triều Nguyễn qua các đời vua đến trước năm 1858 là chính sách cấm đạo.

Bằng chứng là từ khi lên ngôi (1848) đến trước khi Pháp xâm lược nước ta (1858),

Tự Đức đã ban bố hàng loạt chỉ dụ cấm đạo. Tuy nhiên, Triều đình đã phạm phải

sai lầm là không phân biệt được thiểu số giáo dân lầm đường với đa số giáo dân yêu

nước, bất hợp tác với giặc. Đúng là các nhà truyền giáo phương Tây trên thực tế đã

phục vụ đắc lực cho CNTD, tuy nhiên, cái hỏng không phải ở bản thân giáo lý công

giáo mà là sự xuyên tạc và mưu đồ chính trị của các giáo sĩ thừa sai khi thực hiện

công cuộc truyền giáo. Dù rằng sau này, do tương quan so sánh lực lượng giữa ta và

Pháp quá chênh lệch, do nhu cầu cố kết cộng đồng tạo ra sức mạnh toàn dân, do sự

phát triển của nhận thức, Tự Đức và triều Nguyễn đã có cái nhìn khách quan hơn,

mềm dẻo hơn trong việc đưa ra chính sách với đạo Thiên Chúa và giáo dân. Tuy

Page 80: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

75

nhiên, khi triều đình nhận thức được điều này thì đã là quá muộn vì thực dân Pháp

chỉ cần một cái cớ. Mà cái cớ đó chúng đã kiếm được trong chính sách với đạo

Thiên Chúa của triều Nguyễn trước thời điểm 1858.

Thực tế, chính sách cấm đạo của Triều Nguyễn không phải không có những hạt

nhân hợp lý, đúng đắn. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là thực dân Pháp đang cần tìm một

cái cớ cho hành động xâm lược. Và chính sách này, trong bối cảnh đó, trở thành

một cơ hội tốt để thực dân Pháp thực hiện mục tiêu xâm lược Việt Nam. Với lý do

bảo vệ các giáo sỹ, giáo dân, bảo vệ đạo Thiên Chúa, ngày 01-9-1858 thực dân

Pháp đã nổ súng xâm lược Việt Nam.

Tuy nhiên, bước ngoặt 1858 cũng chưa thể dẫn ngay tới biến đổi chính trị ở

Việt Nam. Diễn biến của chính sách với đạo Thiên Chúa của triều Nguyễn là một

trong những nguyên nhân luận giải cho việc Việt Nam mất nước về tay Pháp.

* Sau năm 1858.

Sau khi Pháp nổ sung xâm lược Việt Nam (1858), cho tới trước năm 1862, về

cơ bản, chính sách cấm đạo của triều Nguyễn vẫn tiếp tục được duy trì với mức

độ ngày càng gay gắt hơn. Tuy nhiên sau khi Pháp đã chiếm được ba tỉnh miền

đông Nam Kỳ, thì từ 1862, động thái của Tự Đức và triều đình với Thiên Chúa

giáo đã có những thay đổi căn bản. Ngay trong khoản 2 của hiệp ước Nhâm Tuất

kí ngày 05-6-1862 giữa Pháp với triều Nguyễn, Triều đình lần đầu tiên đã thừa nhận

quyền tự do truyền đạo và theo đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Lý do là nhà Nguyễn

lo sợ Pháp tiếp tục lấy cớ bảo vệ Thiên Chúa giáo để chiếm nốt ba tỉnh miền tây

Nam Kỳ. Tiếp ngay sau đó, nhân sinh nhật mình, ngày 13-7-1862, Tự Đức lại ra

tiếp một đạo dụ thể hiện thái độ ôn hoà với giáo dân và Thiên Chúa giáo. Từ chỗ

cấm đạo một cách gay gắt trước 1862, sau khi mất đất, triều đình tỏ ra ngày càng

yếu thế và nhượng bộ dần dần với thực dân Pháp nói chung và Thiên Chúa giáo nói

riêng. Thậm chí tháng 7 năm 1864, triều đình còn ra một chỉ dụ kêu gọi sự bình tĩnh

của văn thân, sĩ tử trước những chính sách ôn hoà, hợp tác của triều đình với Thiên

Chúa giáo, kêu gọi hoà hợp lương - giáo, trừng trị những hành động quá khích của

văn thân gây tổn hại cho Thiên Chúa giáo. Năm Tự Đức thứ 16 (1864), nhà Vua đã

Page 81: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

76

ra dụ rằng “Dân theo đạo cũng là con đỏ của triều đình, nếu ghét bỏ quá lắm, giết

sạch hết cả, chỉ tổ gây hiềm khích, hại đến hoà khí, không phải là cách yên dân”

[23, tr.29]. Tuy nhiên, với dã tâm xâm lược nước ta, thực dân Pháp không thoả mãn

với việc chiếm ba tỉnh miền Đông và việc tự do truyền đạo như Triều đình đã thừa

nhận. Năm 1867, chúng đánh chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, biến Nam Kỳ

thành thuộc địa của chúng. Lo ngại Pháp sẽ Bắc tiến sau những hành động gây rối

do chúng chỉ đạo ở Hà Nội, triều đình lại tiếp tục có những sự nhân nhượng trong

chính sách với Thiên Chúa giáo. Điều khoản IX của hiệp ước 1874 đã hoàn toàn

thừa nhận việc truyền đạo và theo đạo Thiên Chúa ở Việt Nam thậm chí phủ

nhận chính những chỉ dụ cấm đạo của Triều đình trước đây: “Nhìn nhận đạo

Thiên Chúa dạy dân làm lành. Hoàng đế Việt Nam bãi bỏ những dụ cấm đạo trước

đây và ban phép cho tất cả dân chúng trong nước được phép tự do theo đạo và hành

đạo” [59, tr.246].

Có thể thấy, sự nhượng bộ của Tự Đức và triều Nguyễn về tôn giáo với thực

dân Pháp đã không đạt được mục tiêu giữ những vùng đất chưa bị mất và chuộc lại

được những vùng đất đã mất. Thực dân Pháp đã nắm được những điểm yếu của

triều đình nên triều đình càng nhân nhượng chúng càng lấn tới và cuối cùng đã xâm

lược toàn bộ nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của chúng.

Như vậy, logic chung là: Do triều Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa, Pháp lấy cớ

bảo vệ các nhà truyền giáo, bảo vệ giáo dân và đạo Thiên Chúa đã xâm lược nước ta

tháng 9-1858. Khi thấy không thể đương đầu với đạo quân xâm lược với vũ khí hiện

đại hơn ta rất nhiều, đặc biệt sau khi mất ba tỉnh miền đông Nam Kỳ, triều Nguyễn

đã nới dần việc cấm đạo mong giữ được những phần đất chưa mất và chuộc lại

những vùng đất đã mất. Tuy nhiên, với mục tiêu thôn tính nước ta, thực dân Pháp

không thoả mãn với những gì chúng đã đạt được và tiếp tục lấn tới dù chính sách

với đạo Thiên Chúa của triều Nguyễn ngày càng tỏ ra mềm dẻo, ôn hoà. Cứ như

vậy, nắm được điểm yếu của triều Nguyễn, bằng phương pháp lấn dần từng bước

theo kiểu “tằm ăn lá dâu”, Pháp đã thôn tính được toàn bộ Việt Nam vào năm 1884.

Hai là chính sách bế quan toả cảng của triều Nguyễn

Page 82: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

77

Trong xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ của các quốc gia TBCN phương

Tây, hầu hết các vua Triều Nguyễn đều cố cưỡng lại ảnh hưởng của phương Tây

bằng chính sách bế quan toả cảng về thương mại khiến cho nền kinh tế Việt Nam

không có điều kiện giao lưu, mở rộng buôn bán với nước ngoài. Triều đình chỉ mở

nhỏ giọt một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui tới buôn bán. Nhà nước quy định

chỉ được nhập những hàng hoá phục vụ cho Triều đình và cấm tàu nước ngoài

không được mua tơ lụa, thóc gạo trong nhân dân. Tàu buôn nước ngoài tới buôn bán

ở nước ta không những bị khám xét rất kỹ mà còn có thể bị trưng dụng phục vụ cho

các công việc của Triều đình. Chính sách “bế quan toả cảng” có quan hệ chặt chẽ

với chính sách cấm đạo Thiên Chúa vì đằng sau các giáo sĩ là các thương gia. Sứ

mệnh kinh tế và sứ mệnh tôn giáo mà nước Pháp giao cho các thương gia và các

giáo sĩ luôn đi song hành với nhau. Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến

triều Nguyễn thi hành chính sách này là do tư duy ấu trĩ, lạc hậu, bảo thủ của những

người đứng đầu triều đình, luôn cho là mình hơn người, mình là bậc nhất thiên hạ

nên không cần phải mở cửa ra bên ngoài. Hơn nữa, do yếu kém trong quản lý nên

việc mở cửa đất nước, cho nước ngoài vào nước ta buôn bán thực tế đã xuất hiện

tình trạng các thương nhân nước ngoài lấn át thương nhân Việt Nam và Triều đình

không thể kiểm soát nổi tình hình. Tất cả các lý do trên là nguyên nhân cơ bản dẫn

tới chính sách ngoại thương ngày càng được thắt chặt của triều Nguyễn mà sản

phẩm cuối cùng của nó là chính sách bế quan toả cảng, đóng cửa đất nước.

Thực tế lịch sử chứng minh, vì triều Nguyễn đóng cửa đất nước, thực hiện bế

quan toả cảng nên Pháp đã lấy đó làm một trong những cái cớ để xâm lược Việt Nam.

Và sau khi bị xâm lược, dưới nhiều sức ép, triều Nguyễn không thể tiếp tục thực hiện

chính sách bế quan toả cảng được nữa. Sau khi kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất năm

1874, Việt Nam buộc phải mở 3 thương khẩu cho hoạt động mậu dịch quốc tế: “các

nhà buôn ngoại quốc được quyền thiết lập thương điếm, chính phủ Pháp sẽ đặt các vị

lãnh sự tại đây để giải quyết những sự tranh tụng liên hệ đến người Pháp và người

ngoại quốc. Sự thông thương trên sông Nhị, từ cửa biển đến Vân Nam trở nên tự do”

[4, tr.82]. Cảng Hà Nội và Hải Phòng được mở cửa cho việc ngoại thương từ tháng 9

Page 83: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

78

năm 1875 và cảng Quy Nhơn từ tháng 11 năm 1876. Song:

Việc mở cửa khẩu đã có những hậu quả tại hại, đặc biệt ở Bắc Kỳ, và Triều

đình vì thiếu kinh nghiệm cùng chính sách kinh tế, thiếu nhân viên chuyên môn, nên

không có khả năng kiểm soát những cơ chế của thương nghiệp với nước ngoài.

Triều đình cũng không biết đến cả cái cơ chế định giá của thị trường tự do (vốn đã

quá quen thuộc với phương Tây nhưng lại vô cùng xa lạ với Việt Nam), Triều đình

không kiểm soát được hữu hiệu các đồn thương chính, việc mở cửa các bến cảng

càng tạo thêm thế thượng phong của người Hoa trong phạm vi thương nghiệp.

Ngoài ra, một số người Hoa còn đúc cả tiền đồng giả và đưa vào Bắc Kỳ một số

lượng rất lớn (mà Triều đình không thể kiểm soát nổi) [170, tr278-280].

Trong khi, “Tây phương muốn kiểm tra thị trường Viễn Đông, chính phủ Pháp

mong được triều đình Huế hiến cho đặc quyền buôn bán tại Việt Nam. Song triều

đình Huế đều bác bỏ các đề nghị thông thương của Pháp” [4, tr.14].

Ngày 23-01-1857, phái viên của Napôlêông III là Môngtinhi cập bến Đà Nẵng

yêu cầu được tự do truyền đạo và buôn bán… Vấp phải thái độ của triều đình Huế

cương quyết cự tuyệt không tiếp…Tư bản Pháp đã lấy cớ trả thù việc triều đình Huế

không tiếp nhận quốc thư của Pháp do tàu chiến Catina đem đến tháng 9 năm 1856,

cho là “làm nhục quốc kỳ” Pháp. [131, tr.484-486]

Như vậy, logic vấn đề cũng giống hệt như với chính sách cấm đạo, nhà Nguyễn

thi hành chính sách “bế quan toả cảng” về thương mại, Pháp lấy cớ đó để xâm lược

nước ta. Sau khi bị xâm lược, triều Nguyễn phải dần nới lỏng chính sách này, thậm

chí thủ tiêu luôn chính sách này. Song, đã là quá muộn. Những cái cớ cho một cuộc

viễn chinh xâm lược được Pháp đưa ra đã khởi đầu một giai đoạn bi tráng của lịch

sử Việt Nam thời cận đại.

Ba là ứng xử chính trị lún sâu vào hoà hoãn của triều Nguyễn khiến thực

dân Pháp không quá khó khăn trong việc mở rộng phạm vi cuộc chiến tranh

Sau sự kiện 01.9.1858, triều Nguyễn lại mắc hàng loạt sai lầm trong ứng xử

chính trị, đặc biệt trong quan hệ đối ngoại. Với cách ứng xử lún sâu vào giải pháp

hoà hoãn của triều đình nhà Nguyễn , thực dân Pháp đã không quá khó khăn trong

Page 84: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

79

việc mở rộng phạm vi cuộc chiến tranh. Chúng dùng áp lực buộc triều Nguyễn ký

hiệp ước Nhâm Tuất (1862) cắt nhường 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ (Gia Định, Định

Tường, Biên Hoà) và đảo Côn Lôn cho Pháp. Quyết định hoà hoãn của triều

Nguyễn cho thấy họ hoàn toàn không đánh giá được tình hình và tương quan lực

lượng địch - ta lúc bấy giờ: “Sung sướng thay, khi chúng ta (Thực dân Pháp) chờ

đón cái tối thiểu thì người An Nam lại xin nghị hoà” [127, tr.61]. Tiếp đó, bắt mạch

thế yếu của triều Nguyễn, thực dân Pháp đã liên tục lấn tới. Phan Thanh Giản không

những chấp nhận nộp thành Vĩnh Long mà còn viết thư khuyên quan lại hai tỉnh An

Giang và Hà Tiên hạ khí giới. Kết quả là “chỉ trong vòng 5 ngày, thực dân Pháp đã

chiếm xong 3 tỉnh miền tây Nam Kỳ mà không mất một viên đạn” [9, tr.265]. Sau

khi lục tỉnh Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay Pháp, Tự Đức “đã gởi nhiều phái bộ đi

thương lượng tại Pháp và Sài Gòn nhằm lấy lại xứ Nam Kỳ (điển hình như cử Phan

Thanh Giản sang Pháp xin “chuộc đất”). Mặt khác, ông vẫn gửi sứ bộ đều đặn đi

Bắc Kinh để giữ hoà hiếu với Trung Hoa.

Tự Đức không hề có tính toán lợi dụng mâu thuẫn Pháp - Thanh về vấn đề Bắc

Kỳ, đặc biệt khi chiến tranh Pháp - Thanh đã diễn ra song song với cuộc chiến đấu

của nhân dân ta, khi Pháp đánh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, mà chỉ loay hoay xin sửa lại

hoà ước 1862, liên tiếp cử các phái đoàn ngoại giao qua Pháp xin thương lượng,

trong khi kẻ thù ráo riết chuẩn bị chiến tranh. [103, tr.216]

Vì thiếu phương tiện từ bên trong, nên hoạt động ngoại giao của ông sẽ tạo ra

sự tranh giành giữa hai cường quốc và kết thúc bằng một cuộc chiến mà

chiến trường lại ở ngay trên đất nước Việt Nam [170, tr310].

Hiệp ước đầu hàng đầu tiên của nhà Nguyễn ký kết với quân xâm lược (Hiệp

ước Nhâm Tuất 1862) đã chứa đựng những sai lầm tai hại. Hệ lụy của nó là hàng

loạt những ứng xử sai lầm tiếp theo của triều Nguyễn đã làm đất nước rơi sâu thêm

vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn tới một cuộc

khủng hoảng chính trị trong nội bộ Triều đình mà kết quả cuối cùng của nó là chúng

ta đã không đủ sức giữ được giang sơn, đất nước.

Thật vậy, ngay trong hiệp ước 1862, khi chiến tranh mới bắt đầu chưa bao lâu,

Page 85: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

80

triều Nguyễn đã chấp nhận bồi thường chiến phí cho giặc, mỗi năm 280 vạn lạng

bạc và trả trong 10 năm. Để có được số tiền bồi thường chiến phí đó cộng với hàng

loạt chi phí khác, triều Nguyễn đã buộc phải thực hiện các biện pháp tình thế như:

Tăng thuế đặc biệt là thuế ruộng với nông dân và diêm dân (Năm 1873, thuế cho

ruộng tư nông nghiệp tăng gấp 3 lần năm 1869, gấp 2 lần năm 1871 [127, tr.64]);

cho bỏ tiền để mua phẩm hàm hoặc giảm tội; cho phép sử dụng thuốc phiện để có

thể tăng thêm ngân sách từ thuế đánh vào loại hàng hoá đặc biệt này; bán ruộng đất

công để có thêm tiền chi phí cho các nhu cầu của Triều đình... Tất cả những biện

pháp tình thế đầy mạo hiểm đó đã dẫn tới mâu thuẫn ngày càng tăng giữa Triều

đình với nhân dân, làm suy yếu sức mạnh dân tộc. Những biện pháp đó không

những không gỡ rối được tình hình mà lại làm phát sinh thêm những tiêu cực mới,

buộc Triều đình phải có những ứng xử “không thể chấp nhận được” vì đã ở trong

tình trạng bất lực. Trước nạn tiền giả tràn ngập thị trường, không thể quản lý nổi,

Triều đình đã cho phép tiền giả được tự do lưu hành, thậm chí còn quy định tỷ giá

giữa tiền giả và tiền thật “1 đồng tiền đồng loại giả ăn 2 đồng tiền kẽm, 1 đồng tiền

đồng loại thật ăn 6 hoặc 4 đồng tiền kẽm, tuỳ theo nó nặng 9 phân hay 7 phân trở

xuống” [127, tr.68]. Sự hợp pháp hoá tệ mua quan bán tước làm đồi bại và thoái hoá

bộ máy chính quyền vốn đã rệu rã, suy yếu. Nạn chiếm công vi tư, nạn hút thuốc

phiện... diễn ra tràn lan, phổ biến khắp nơi. Đất nước chìm sâu vào cuộc khủng

hoảng kinh tế - xã hội đẩy những mâu thuẫn trong nội bộ vương Triều trở nên ngày

càng sâu sắc. Tất cả những thực tế đó đều đóng góp ít nhiều vào việc luận giải vì

sao chúng ta mất nước vào tay Pháp.

2.2.2. Nguyên nhân sâu xa

a. Nền chính trị lạc hậu, sản phẩm của trạng thái lạc hậu của nền kinh tế, là

nguyên nhân cơ bản dẫn đến đất nước suy yếu về nhiều mặt do đó không đủ sức

kháng cự trước sự tấn công từ bên ngoài

Một nền chính trị lạc hậu, không phù hợp với xu thế phát triển chung và điều

kiện lịch sử cụ thể của đất nước là nguyên nhân quan trọng dẫn tới nội tình đất nước

suy yếu về nhiều mặt. Và chính sự chênh lệch về trình độ nhiều mặt của kẻ đi xâm

Page 86: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

81

lược và đối tượng bị xâm lược, đặc biệt là sự suy yếu toàn diện của Việt Nam dưới

triều Tự Đức là nguyên nhân chính dẫn đến mất nước và biến đổi chính trị.

Không vượt được cái bóng của Bắc Kinh, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam

từ bao đời luôn lấy mô hình chính trị Trung Hoa làm mẫu mực cho sự phát triển của

dân tộc mình. Thời Nguyễn cũng vậy, mô hình chính trị Trung Hoa vẫn tiếp tục

được sử dụng ở nước ta. Đó là mô hình một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt

đối dựa trên học thuyết Nho giáo. Mô hình cai trị này trong bối cảnh quốc tế lúc bấy

giờ đã tỏ rõ tính bảo thủ, lạc hậu khi các nhà nước tư sản đã ngày càng phát triển và

thể hiện tính ưu việt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở các quốc gia

phương Tây. Ngay trong điều kiện cụ thể của đất nước thời nhà Nguyễn, mô hình

này cũng thể hiện sự bất cập trên nhiều phương diện. Trong bối cảnh lãnh thổ đất

nước thời Nguyễn đã thống nhất và được mở rộng nhiều so với trước kia, nhiều

cộng đồng cư dân mới trước đây không thuộc nước ta, nay trở thành bộ phận hữu cơ

của dân tộc, thì cách cai trị và lối khoa cử theo kiểu Trung Hoa càng tỏ ra không

phù hợp. Với tiếng Hán là văn tự chính thức được sử dụng trong bộ máy nhà nước

trong khi quần chúng nhân dân, đặc biệt là chủ cũ của các vùng đất phía Nam hoàn

toàn xa lạ với thứ văn tự này đã đào một hố sâu ngăn cách giữa chính quyền và

nhân dân: “Quan chức Việt Nam xem giống như người Trung Hoa và dân quê Việt

Nam là người Á Châu vùng Đông Nam” [171, tr.216]. “Chữ Trung Hoa có một âm

đọc An Nam, có một nghĩa bằng tiếng bình dân (Nôm) phát âm khác tiếng Hán,

thành ra khi người ta đọc, thí dụ, cho một can phạm dốt nghe câu phán quyết buộc

tội, anh ta không hiểu gì hết, và sau khi đọc xong, nhân sĩ phải tóm lược bằng tiếng

Nôm ý nghĩa của câu văn đã đọc” [171, tr.226]. Phương thức cầm quyền như vậy đã

khiến cho mối quan hệ giữa quan và dân ngày càng xa cách.

Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đó là những triết lý kinh điển của

Nho giáo và cũng là yếu tố làm nên thành công của nhiều triều đại phong kiến Việt

Nam trong lịch sử. Song các vua nhà Nguyễn đã không phát huy được kinh nghiệm

và bài học quý báu này. Trong khi đời sống của nhân dân, chủ yếu là nông dân ngày

càng khốn cực thì việc xây dựng lăng tẩm, thành quách nguy nga tráng lệ của vua

Page 87: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

82

quan càng làm lòng dân oán thán:

“Vạn niên là vạn niên nào

Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.

Với các nhân sĩ - vốn là chỗ dựa tin cậy và quan trọng của triều đình phong kiến

- thái độ của triều đình với họ cũng không có gì là tốt đẹp. Đặc biệt, trong hoàn

cảnh khó khăn, khi ngoại bang nhòm ngó, Tự Đức vẫn giữ thái độ: “coi quần chúng

như gồm toàn “những kẻ khố rách” sẵn sàng đi theo phe địch, và ông không bao giờ

chịu lắng nghe những đòi hỏi của dân chúng. Đàng khác, Tự Đức đã coi giai cấp

văn thân như một nhóm bất mãn, sai lầm và không thấu hiểu ý tốt của nhà vua”

[170, tr.309]. Vậy Triều đình dựa vào đâu để cai trị đất nước và giữ vững nền độc

lập dân tộc? Với cách cai trị như trên, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã tự cô

lập mình, tự làm giảm sức đề kháng trước bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài.

Trong bối cảnh nền quân chủ chuyên chế đã không còn là một nền chính trị tiến

bộ và có khả năng thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong hoàn cảnh mới thì việc

củng cố chế độ chính trị đó, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước trung ương

tập quyền, tăng cường hơn nữa sự tập trung quyền lực nhà nước vào nhà vua của

các vua nhà Nguyễn càng thúc đẩy nền chính trị đó kết thúc sự tồn tại của nó một

cách nhanh hơn. Hệ thống quan liêu với nhiều tầng nấc và có nhiều đặc quyền đặc

lợi của chế độ phong kiến Việt Nam mà Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục duy trì đã trở

thành chướng ngại vật trong việc phát huy sức mạnh của toàn dân tộc vào xây dựng

và phát triển đất nước. Tư tưởng phép vua thua lệ làng đã trở nên ngày càng xa lạ

với văn minh chính trị của nhân loại khi mô hình nhà nước pháp quyền đã trở thành

một hiện thực có tính hấp dẫn trên thế giới lúc bấy giờ.

Tư duy nệ cổ, muốn tái tạo những định chế không còn thích hợp và liên hệ gì

với thực tế của đất nước là một trong những nguyên nhân khiến chính trị ở Việt

Nam không đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển đất nước và ngày càng lạc hậu

so với văn minh chính trị thế giới.

Trong khuôn khổ một nền quân chủ chuyên chế dựa trên nền tảng Nho giáo với

tầm nhìn của những người lãnh đạo đất nước không vượt qua được cái bóng của

Page 88: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

83

Bắc Kinh như vậy, các quyết sách chính trị được đưa ra cũng không có khả năng

thúc đẩy sự phát triển của đất nước theo kịp sự phát triển của cộng đồng quốc tế.

Nền chính trị lạc hậu với các quyết sách chính trị không phù hợp đã dẫn đến sự

yếu kém của Việt Nam trên nhiều mặt:

Trước hết, về kinh tế, nhà Nguyễn đã không có được những chính sách kinh tế

phù hợp ở tầm vĩ mô để mở đường cho sản xuất phát triển. Trong nước thì trọng nông

ức thương, đối ngoại thì bế quan toả cảng. Trong khi tình hình chung của thế giới:

Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới… Thay cho tình trạng cô lập

trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển

những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc... Nó buộc

tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư bản, nếu không sẽ

bị tiêu diệt [88, tr.598, 601,602].

Thì ở Việt Nam, thời Nguyễn, nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế

nông nghiệp lạc hậu với dân số phần lớn là nông dân. Dù trọng nông ức thương

song chính sách khuyến nông cũng không được quan tâm thoả đáng dẫn đến kỹ

thuật sản xuất nông nghiệp lạc hậu, trình độ canh tác của nông dân rất thấp kém.

Đặc biệt thời Tự Đức là thời mà nền nông nghiệp Việt Nam lâm vào cuộc khủng

hoảng trầm trọng. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, phần lớn các vua

nhà Nguyễn vẫn có tư tưởng coi thương nghiệp là nghề mạt, coi lý thuyết sỹ nông

hoán vị như một chu kỳ vận hành khép kín nên xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX

hoàn toàn vẫn là một xã hội nông nghiệp lạc hậu. Nền kinh tế tài chính nước ta

trong nửa đầu thế kỷ XIX đã suy đốn trầm trọng về mọi mặt. Do chính sách của

triều Nguyễn, các yếu tố TBCN mới nảy sinh trong nền kinh tế, đang trên đà phát

triển tự nhiên và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội hồi đó, đều bị

bóp nghẹt. Trên cơ sở đó, nền tài chính quốc gia ngày một kiệt quệ. Đời sống nhân

dân ngày càng cực khổ.

Kinh tế khó khăn lại là nguyên nhân dẫn đến những rối loạn về xã hội. Mối

mâu thuẫn giữa lực lượng phong kiến thống trị với nhân dân chủ yếu là nông dân đã

trở nên vô cùng gay gắt và đã bộc lộ ra ngoài một cách sâu sắc với hàng loạt các

Page 89: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

84

cuộc khởi nghĩa nông dân suốt cả mấy đời vua triều Nguyễn. Để ổn định tình hình

nhằm bảo vệ trật tự phong kiến theo hướng đảm bảo đặc quyền, đặc lợi cho vua

quan phong kiến, triều Nguyễn đã thi hành những chính sách đàn áp, khủng bố, dìm

các cuộc khởi nghĩa của nông dân trong bể máu.

Khi kinh tế khó khăn, đời sống của số đông nhân dân không được bảo đảm, ở

Việt Nam hải tặc và cướp nổi lên khắp nơi. Họ không phải những người xa lạ trong

xã hội Việt Nam.

Bọn hải tặc đa số nguyên là các người đánh cá và các tiểu thương sống trên

những thuyền nhỏ, nhưng đôi khi cũng là dân quê nữa. Còn bọn cướp, người

ta thấy trong số họ những dân quê, những thợ thủ công, những quân sĩ và rất

nhiều dân thất nghiệp. Mối liên lạc giữa những kẻ ngoài vòng pháp luật

người Việt Nam và người Trung Hoa là phức tạp. Dưới triều Tự Đức, con số

người sống ngoài vòng pháp luật ngày càng tăng khi người Pháp và Trung

Hoa xen vào việc trong nước [171, tr.253, 254].

Ngoài ra, hoạt động của cướp xuất thân từ các dân tộc thiểu số miền núi càng

làm cho tình hình rối loạn và Triều đình không thể kiểm soát nổi.

Về mặt khách quan, lịch sử Việt Nam là lịch sử khẳng định sự độc lập với nước

láng giềng phương Bắc - Trung Hoa. Nhưng do quá trình hình thành của Vương

triều Nguyễn (ở phía Nam), các vua triều Nguyễn không xuất hiện như những

“Nguyên thủ Quốc gia” (Vương) - điều mà các triều đại phong kiến Việt Nam trước

đây đều gắng sức khẳng định trước các triều đại phong kiến Trung Quốc - mà chỉ

như hậu duệ của quý tộc địa phương (Chúa). Thực tế đó khiến uy thế, quyền lực của

nhà Nguyễn trong dân bị hạn chế rất lớn.

Việt Nam bị Pháp xâm lược và thôn tính ở đời vua thứ tư nhà Nguyễn, đó là Tự

Đức. Dù không phải nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất nước và biến đổi chính trị,

nhưng có thể thấy rằng, Tự Đức bước lên sân khấu chính trị trong một hoàn cảnh

khó khăn của tình hình trong nước cộng với những bất lợi cá nhân làm cho sự

nghiệp đế vương của ông càng thêm trắc trở. Mặt khác, ông là người:

Thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya... thiếu tính

Page 90: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

85

quyết đoán, thường dựa vào triều thần, bàn việc triều thần thì rất bảo thủ, do

đó khi trên thế giới, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, các

cường quốc đang cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thì vua tôi chỉ lo

việc nghiên bút, bàn đến Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa làm tấm

gương [159, tr.196, 197].

Hơn nữa:

Vua này (Tự Đức) bị nhốt lỏng trong cung, chỉ được tiếp xúc với hoàng thân

và vài quan đại thần; còn hễ đi ra được khỏi cung thì để đi săn bắn, đi tế thiên

địa hoặc đi thăm lăng tẩm của tổ tiên; Vua ấy có thể làm được gì để chống lại

chúng ta (thực dân Pháp) chăng? Hễ Vua đi tới đâu kẻ nhỏ đều trốn tránh,

còn các quan đều quỳ mọp, mắt không dám nhìn lên. Nhà Vua chỉ nghe, chỉ

thấy là ở nhờ Cơ Mật Viện. Tuy nhà Vua lo lắng việc quốc gia, nhưng thật ra

cách sống như thế này khiến nhà Vua không thể cai trị nước một cách thực tế

được [171, tr.19]

Có thể thấy, một nền chính trị lạc hậu với các quyết sách chính trị không phù

hợp của những người lãnh đạo đất nước với tầm nhìn hạn hẹp đã là nguyên nhân

quan trọng dẫn tới sự suy yếu của đất nước về nhiều mặt. Thực tế này dẫn tới sự suy

giảm sức đề kháng của dân tộc trước một kẻ thù mạnh hơn từ phương Tây tới. Và

đây là nguyên nhân sâu xa của việc Việt Nam bị Pháp thôn tính dẫn tới biến đổi

chính trị ở Việt Nam từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân – phong kiến.

b. Nền chính trị lạc hậu, tầm nhìn hạn hẹp của những người lãnh đạo đất

nước không tạo ra những tiền đề cho một phong trào cải cách, canh tân đất nước

hầu thoát khỏi nguy cơ bị thôn tính

Trong bối cảnh nửa sau thế kỷ XIX, hầu hết các nước châu Á đều bị phương

Tây nhòm ngó, song không phải tất cả các nước đó đều bị phương Tây thôn tính.

Theo giáo sư Vũ Dương Ninh: “Trong bối cảnh đó, các cuộc vận động cải cách

chính là một phương thức ứng phó với nguy cơ xâm lược của CNTD phương Tây”

[111, tr352]. Cũng giống như Việt Nam, trước sức ép của các nước phương Tây,

nước Nhật phong kiến khoảng giữa thế kỷ XIX, chính quyền Bakufu (1651-1841)

Page 91: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

86

trong những năm cuối cầm quyền cũng buộc phải ký với các nước phương Tây các

hiệp ước bất bình đẳng. Điều đó đã khiến Nhật Bản tụt xuống hàng thấp kém. Tuy

nhiên, nước Nhật đã lùi một bước ngắn để tiến những bước khổng lồ. Cuộc Minh

Trị Duy Tân của Nhật đã biến Nhật từ một quốc gia phong kiến lạc hậu thành một

nước tư bản phát triển và thoát được cảnh mất nước. Nhìn lại lịch sử, có thể thấy,

Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX (năm 1863) đã xuất hiện những tư tưởng canh tân

nhưng trên thực tế ở Việt Nam không có một phong trào canh tân làm biến đổi đất

nước như Nhật Bản. Ngoài những lý do thuộc về bản thân những tư tưởng canh tân

ở nước ta như: các đề nghị canh tân là quá ít ỏi, tiếng nói của những người có tư

tưởng canh tân không thật sự có trọng lượng với chính quyền, bản thân các tư tưởng

canh tân chưa vượt ra khỏi hệ tư tưởng phong kiến, những người có tư tưởng canh

tân đều là những người chủ hoà trong khi những người chủ chiến lại không có tư

tưởng canh tân (trong điều kiện cụ thể ở nước ta bấy giờ thì canh tân là để giữ nước,

giữ nước là một mục tiêu cấp bách và đúng đắn. Nếu không giữ được nước thì tất cả

những chủ trương canh tân khác đều trở thành vô nghĩa và ảo tưởng), ngành in ấn

chưa phát triển nên những tư tưởng canh tân không được phổ biến rộng rãi… thì

không thể không đề cập đến một yếu tố vô cùng quan trọng để những tư tưởng canh

tân có thể trở thành phong trào cải cách đó là những tiền đề được tạo ra trước đó

cho canh tân thành công. Nếu như ở Nhật Bản chúng ta nhìn thấy một sự tiếp nối

giữa các chính quyền: “Suốt trong thời kỳ Tokugawa, một số điều kiện đi trước cho

hiện đại hoá đã được phát triển… Tuy nhiên, trong thời đại Minh Trị, chính quyền

và nhân dân Nhật Bản đã tự đặt cho mình nhiệm vụ đầy tham vọng là quyết tâm

đuổi kịp những quốc gia tiên tiến về mặt kỹ thuật ở phương Tây” [85, tr.294]. Cho

dù “những điều kiện đi trước” được tạo ra làm tiền đề cho công cuộc Duy Tân sau

này “chỉ là ngẫu nhiên” vì trước thời Minh Trị, “những khái niệm như hiện đại hoá

và tiến bộ chưa bao giờ được đặt ra một cách có ý thức làm mục tiêu của chính

quyền” [85, tr.294], nhưng những gì xảy ra ở nước Nhật trước Duy Tân cũng cho

thấy một cách rõ ràng sự mẫn cảm đặc biệt về chính trị của người lãnh đạo đất

nước về con đường phát triển của dân tộc. Trước 1868, như là kết quả đấu tranh

Page 92: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

87

quyết liệt trong lĩnh vực chính trị, một “thể chế chính trị đề ra vì Duy Tân” đã được

xác lập. Ở Nhật Bản, thời kỳ Edo (1600-1868) đã diễn ra những biến đổi kinh tế, xã

hội, văn hoá và học thuật quan trọng tạo những tiền đề cho canh tân. “Chính nhờ có

những tiền đề đó mà cuộc cải cách Minh Trị đã có thể diễn ra mau chóng, mạnh mẽ

sớm đi đến thắng lợi và trở thành cuộc cải cách điển hình của châu Á’’ [111,

tr.355]. Canh tân, hiện đại nửa sau thế kỷ XIX trong cách hiểu của người Nhật có

nghĩa là: “Có một hệ thống kinh tế của tư bản công nghiệp và một chế độ chính trị

lập hiến tự do hoặc nửa tự do như ở Hoa Kỳ và một số nước châu Âu” [85, tr.294].

Nếu ở Nhật như vậy thì ở Việt Nam tầm nhìn của các nhà lãnh đạo đất nước

thời đó trong một nền chính trị lạc hậu đã không cho phép ra đời những yếu tố làm

tiền đề cho canh tân thành công. Ở Việt Nam, trước khi các tư tưởng canh tân được

đề xuất từ dưới lên, không có một sự đổi mới nào trong bộ máy chính quyền mà

ngược lại các vua nhà Nguyễn đều có ý thức củng cố chế độ quân chủ chuyên chế

tập trung cao độ. Như vậy, chúng ta không có tiền đề về chính trị cho canh tân. Hơn

nữa, chính sách trọng nông ức thương, bế quan toả cảng, kìm hãm sự phát triển của

các yếu tố kinh tế hàng hoá, kinh tế TBCN đang nảy sinh… lại không cho phép xuất

hiện các yếu tố làm tiền đề kinh tế - xã hội cho canh tân. Thiếu tiền đề về mọi mặt,

lại không được sự ủng hộ của chính quyền, ý tưởng của các nhà canh tân Việt Nam

chỉ tồn tại trên giấy hoặc được thực hiện một cách cầm chừng, nhỏ giọt, không đủ

sức thay đổi diện mạo kinh tế xã hội Việt Nam để đủ sức kháng cự trước sức mạnh

từ bên ngoài.

Như vậy là, giống như Việt Nam, trước sự tấn công từ bên ngoài, vì yếu hơn,

Nhật buộc phải ký những hiệp ước bất bình đẳng, nhưng rồi bằng canh tân (mà tiền

đề cho cuộc chuyển mình này đã được tạo ra bằng sự mẫn cảm chính trị đặc biệt của

giới cầm quyền trước thời Minh Trị, và sự nghiệp này đã được thực hiện với một

quyết tâm lớn của chính quyền Minh Trị vì danh dự của Nhật bản), Nhật đã “xét lại

các hiệp định” nhằm “chấm dứt được một hoàn cảnh không bình đẳng và bất công

đã kéo dài hơn bốn mươi năm” [85,tr.304]. Về thực chất, việc lấy lại quyền bình

đẳng với các nước phương Tây của Nhật thành công là do nước Nhật lúc bấy giờ đã

Page 93: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

88

“ngang ngửa” trình độ về nhiều mặt với phương Tây. “Việc xét lại các hiệp định

không phải chỉ là các cuộc đàm phán ngoại giao kéo dài…việc xét lại các hiệp định

chỉ có thể thực hiện nếu các thể chế luật pháp và chính trị của Nhật Bản cũng giống

như những thể chế hiện hành ở phương Tây” [85,tr.304]. Trở thành nước TBCN để

chống lại sự tấn công của đế quốc tư sản là con đường đi của nước Nhật.

Còn với trường hợp Việt Nam, tuy có ý tưởng canh tân song không có một

phong trào cải cách vì nhiều lý do trong đó lý do quan trọng là sự lạc hậu của nền

chính trị, sự bảo thủ của giới cầm quyền, tầm nhìn hạn hẹp của họ đã không tạo ra

được những tiền đề cho một phong trào canh tân cũng như việc triển khai những tư

tưởng đó một cách có ý thức rộng rãi trong đời sống xã hội.

Rõ ràng chính quyền nước Nhật đã ý thức rất rõ, trong tư thế hoàn toàn chủ

động và chuẩn bị rất chu đáo cho một cuộc duy tân đất nước. Họ chủ động thành lập

một phái đoàn gồm 50 chuyên gia là đại thần, quan chức đủ các lĩnh vực kinh tế,

chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội, ngoại giao... do đại thần Iwakura Tomoni dẫn

đầu đi công du 12 nước Âu Mỹ trong thời gian 1 năm 10 tháng để học tập những cái

hay của các nước trên thế giới. Còn ở ta, cũng rất gần thời điểm đó, Bùi Viện, một

nhà canh tân cùng vài chiến hữu, một cánh buồm, một con thuyền lênh đênh vượt

biển đi tìm một hướng đi cho dân tộc. Rõ ràng từ thực tế đó có thể dự cảm tương

lai, kết quả của Duy Tân Nhật Bản và canh tân Việt Nam.

Với trường hợp Thái Lan lại khác. Ở Thái Lan cũng diễn ra cải cách cùng thời

với Việt Nam nhưng chủ yếu do vị trí địa lý đặc biệt, nằm trong vùng tranh chấp

giữa các đế quốc cộng với chính sách ngoại giao mềm dẻo, khéo léo mà Thái Lan

may mắn giữ được độc lập, không bị phương Tây thôn tính. Tuy nhiên, “vì xu thế

chung của khu vực, các nước đế quốc vẫn dùng sức ép quân sự, kinh tế, chính trị để

đặt Thái Lan vào khu vực ảnh hưởng. Đến năm 1890, Anh đã giữ được vị trí chủ

chốt trong nền kinh tế Thái Lan mặc dù không đánh chiếm bằng vũ lực”

[101,tr.353]

Như vậy, trong quá trình CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN, sự cạnh tranh

quyền lực quốc tế giữa các nước đế quốc là không thể tránh khỏi và ngày càng trở

Page 94: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

89

nên gay gắt. Trong bối cảnh đó, các nước nhược tiểu trở thành đối tượng bị xâm lược

của các nước đế quốc. Chính sách cấm đạo Thiên Chúa hay bế quan toả cảng của

triều Nguyễn chỉ là cái cớ cho hành vi xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. Những

ứng xử chính trị sai lầm của giới cầm quyền trong bối cảnh nước sôi lửa bỏng càng

thúc đẩy nhanh quá trình Pháp xâm lược và thôn tính Việt Nam. Chính nền chính trị

lạc hậu, tầm nhìn hạn hẹp của giới cầm quyền là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nội

tình đất nước suy yếu, đất nước rơi vào loạn lạc, khủng hoảng triền miên. Thực tế đó

làm suy yếu sức mạnh và mất sức đề kháng của dân tộc trước một kẻ thù mới lạ, lớn

mạnh hơn mình về nhiều mặt từ phương Tây tới. Nền chính trị đó cũng cản trở việc

tạo ra những yếu tố như là những tiền đề cho một phong trào canh tân - lối thoát hữu

hiệu khỏi sự nô dịch và thôn tính của tư bản phương Tây. Trong bối cảnh đó, ở nước

ta những tư tưởng canh tân được đưa ra một mặt là muộn trước đòi hỏi của thực tế đất

nước song quan trọng nó không thể trở thành một phong trào cải cách như ở Nhật

Bản vì thiếu những tiền đề cần thiết. Hơn nữa thái độ của Triều đình với vấn đề canh

tân đất nước là khá bị động. Và việc đất nước rơi vào tay kẻ xâm lược dẫn tới biến

đổi chính trị trong bối cảnh như vậy hoàn toàn có thể lý giải được.

Cuộc đối đầu Pháp - Việt phải chăng là cuộc đụng độ giữa các nền văn minh mà

thắng lợi thuộc về kẻ đi xâm lược có trình độ phát triển cao hơn hẳn đối tượng bị

xâm lược? Đó là sự chiến thắng của một nền văn minh công nghiệp với một nền văn

minh nông nghiệp, là chiến thắng của một nước tư bản phát triển với một nước

phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Là sự chiến thắng của hình thái kinh

tế xã hội TBCN với hình thái kinh tế xã hội phong kiến. Và lối thoát cho trạng thái

bị thôn tính và chịu lệ thuộc không phải là bạo lực mà là cải cách. Tuy nhiên, điều

này thì chính quyền nhà Nguyễn ở Việt Nam đã không làm được như chính quyền

Minh Trị ở Nhật Bản - trở thành chính quyền tư sản để chiến thắng một chính quyền

tư sản khác. Kết quả là nền chính trị phong kiến ở Việt Nam đã bị chính trị thực dân

- phong kiến thực chất là thuộc phạm trù chính trị tư sản thay thế, trong khi ở Nhật

Bản, chính trị phong kiến đã được thay thế bằng chính trị tư sản mà lực lượng nắm

giữ quyền lực nhà nước chính là giai cấp tư sản Nhật Bản.

Page 95: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

90

2.3. Việc xác lập các cơ sở cho sự tồn tại của chính trị thực dân - phong kiến

2.3.1. Thiết lập các công cụ bảo vệ chính quyền

Để sự cai trị chính trị có thể được thực hiện, giai cấp tư sản Pháp mà thực dân

Pháp ở Đông Dương, Việt Nam là lực lượng đại diện đã xác lập trước hết các công

cụ bạo lực như: Quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù, pháp luật thực dân… nhằm

chống lại các cuộc nổi dậy và các sự phản kháng.

a. Thiết lập lực lượng quân đội, cảnh sát

Thực dân Pháp sau khi thôn tính được từng phần nước ta, chúng đã từng bước

thiết lập lực lượng quân đội và cảnh sát.

Trước hết, chúng khôi phục lại một bộ phận quân đội của triều đình phong kiến cũ.

Khi triều đình Huế mất chủ quyền, thì lực lượng lính cơ, lực lượng quân sự cấp tỉnh

của nhà nước phong kiến bị giải thể. Tuy nhiên đến tháng 9-1891, Toàn quyền Đông

Dương ra nghị định cho thiết lập lại và chính quy hoá lực lượng lính cơ ở Bắc Kỳ. Lực

lượng này do quan lại Việt Nam trực tiếp phụ trách nhưng đặt dưới sự giám sát và kiểm

soát của các công sứ chủ tỉnh [126, tr.211]. Lực lượng này khi mới được tổ chức lại chỉ

gồm người Việt, sau đó thực dân thiết lập thêm lực lượng lính cơ người dân tộc và lính

cơ người Trung Quốc ở nước ta nhằm thực hiện chính sách dùng người Việt đánh

người Việt, dùng người dân tộc để đánh người dân tộc, dùng người dân tộc này đánh

người dân tộc khác nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Sau đó, vào

năm 1894, chúng đã thiết lập lại lực lượng lính cơ ở Trung Kỳ.

Sau khi khôi phục lại một bộ phận quân đội triều đình, năm 1900, thực dân

Pháp ra luật tổ chức quân đội thuộc địa [126, tr.268] quy định chi tiết, cụ thể về các

bộ phận cấu thành quân đội thuộc địa, nhiệm vụ của từng lực lượng, cơ quan chủ

quản, ngân sách cho từng bộ phận của lực lượng quân đội thuộc địa. Với luật này,

chế độ thuộc địa mà thực dân Pháp thiết lập ở nước ta đã thực sự có một trụ cột

vững vàng về quân sự để bảo vệ cho sự tồn tại của nó.

Chưa thực sự an tâm với tình hình an ninh ở Đông Dương, năm 1904, Tổng

thống Pháp ra sắc lệnh tổ chức lực lượng quân dự bị người bản xứ ở Đông Dương

[126, tr.291]. Lực lượng này mỗi năm phải tập trung để luyện tập tối đa 15 ngày và

Page 96: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

91

có thể bị động viên bất cứ khi nào chính quyền cần đến. Sau này vào năm 1910, sắc

lệnh của Tổng thống Pháp quy định: Tất cả thanh niên Việt Nam sau khi mãn hạn đi

lính thường trực, phải chuyển sang lực lượng quân dự bị cho tới khi nào đủ 15 năm

- kể cả thời gian tại ngũ, mới được giải ngũ hoàn toàn. Quy định này đã tăng thêm

sức mạnh cho lực lượng quân dự bị cả về số lượng và tính chuyên nghiệp nhằm đảm

bảo tính chủ động cho chính quyền mỗi khi cần huy động sức mạnh của quân đội.

Nam Kỳ, một thuộc địa của Pháp, nơi mọi người dân ở đây đều mang quốc tịch

Pháp (song không phải tất cả mọi người đều có tư cách công dân Pháp) thì lực

lượng thanh niên đã bị bắt phải gia nhập lực lượng quân đội chính quy bằng hình

thức rút thăm để tăng thêm sức mạnh quân sự cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, với

Bắc Kỳ và Trung Kỳ là các xứ bảo hộ và nửa bảo hộ thì thành niên bị cưỡng bức đi

lính theo sự chỉ định của chính quyền cấp xã.

Như vậy, thông qua hàng loạt các nghị định khác nhau, thực dân Pháp đã thiết

lập ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng lực lượng quân đội bằng cách

khôi phục lại một bộ phận quân đội phong kiến cũ và thiết lập thêm những lực

lượng quân sự mới gồm quân thường trực, quân dự bị, lực lượng chính quy và nhiều

lực lượng không chính quy khác với thành phần đa dạng từ lính Pháp đến lính các

thuộc địa khác của Pháp, lính bản xứ người Việt gồm cả người Kinh và người các

dân tộc ít người khác.

Không chỉ quan tâm xây dựng lực lượng quân đội thuộc địa, năm 1915, sắc lệnh

Tổ chức và sử dụng lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông Dương [126, tr.357]-

còn gọi là địa phương quân - đã được Tổng thống Pháp ban bố. Sắc lệnh đã quy

định chi tiết các đối tượng trực thuộc lực lượng này, cơ quan chủ quản, cách thức

tuyển lựa, vị trí, vai trò, chức năng của lực lượng địa phương quân trong từng hoàn

cảnh cụ thể (trong thời bình, khi hữu sự và khi có chiến tranh xảy ra). Và khi chiến

tranh thế giới 1914-1918 sắp kết thúc, vào năm 1917, chúng đã thiết lập ở thuộc địa

Nam Kỳ một lực lượng cảnh sát người Việt (tức lực lượng dân vệ hoặc lính thủ bộ)

nhằm tăng cường an ninh cho thuộc địa.

Như vậy, với các chính sách về xây dựng quân đội và cảnh sát, với một lộ trình

Page 97: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

92

có chủ đích rõ rệt, thực dân Pháp đã thiết lập ở nước ta một bộ máy an ninh khá quy

củ gồm quân đội và cảnh sát tạo cơ sở cho sự tồn tại và cai trị chính trị của chúng.

b. Thiết lập hệ thống pháp luật, toà án, nhà tù

* Pháp luật: Hệ thống pháp luật thời Pháp thuộc được thiết lập ở Việt Nam với

các mục đích chủ yếu sau:

- Duy trì chế độ thuộc địa ở Đông Dương, bảo vệ địa vị thống trị của người

Pháp ở Đông Dương và vị trí phụ thuộc của phong kiến bản xứ

- Khai thác triệt để và bóc lột sức người sức của ở thuộc địa.

- Bảo đảm sự độc quyền của tư bản Pháp, buộc nền kinh tế ở thuộc địa hoàn

toàn phụ thuộc vào chính quốc [167, tr.400]

Nhìn chung, trong giai đoạn đầu cai trị nước ta, thực dân Pháp vẫn sử dụng bộ

luật Gia Long của triều Nguyễn. Tuy nhiên, dần dần chúng đưa luật của chính quốc

vào thay thế dần luật pháp phong kiến Việt Nam. Mới đầu, chúng đưa một vài bộ

luật và một số điều khoản trong luật chính quốc áp dụng ở thuộc địa, sau mở rộng

dần ra về cả số bộ luật và số điều khoản được áp dụng. Bắt đầu áp dụng ở Nam Kỳ,

xứ thuộc địa, sau lan dần ra các xứ còn lại. Ví như năm 1877, chúng áp dụng bộ

hình luật của Pháp vào Nam Kỳ, đến 1883, chúng cho thi hành một số điều khoản

trong bộ dân luật Pháp cũng ở Nam Kỳ. Song phải tới 1890, chúng mới áp dụng các

bộ luật này vào Bắc Kỳ. Ở Nam Kỳ thuộc địa, tất cả mọi người đều mang quốc tịch

Pháp, song chúng phân ra thành “công dân Pháp” và “thần dân của nước Pháp”. Với

mỗi loại người này, chúng áp dụng một loại luật khác nhau, ứng xử theo quy chế

phân biệt đối xử. Ai là công dân Pháp thì xét xử theo pháp luật Pháp, ai không phải

là công dân Pháp thì xét xử theo pháp luật của Nam Triều kết hợp với những quy

định mới của thực dân Pháp đối với các xứ là thuộc địa.

Với quy chế thuộc địa, ở Nam Kỳ, dần dần hệ thống pháp luật của thực dân

Pháp được sử dụng như hệ thống pháp luật chính thức và duy nhất, pháp luật triều

Nguyễn đã không còn được áp dụng ở xứ này (nhất là sau khi bãi bỏ chế độ “tư

cách bản xứ” có nghĩa mọi người dân ở Nam Kỳ đều mang quốc tịch Pháp, đều là

“người Pháp”)

Page 98: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

93

Với quy chế bảo hộ, ở Bắc Kỳ, dần dần thực dân Pháp đã sửa đổi một cách có

hệ thống các bộ luật cũ ở Bắc Kỳ và ban hành các bộ luật mới ở xứ này phù hợp với

mục tiêu và lợi ích của thực dân Pháp.

Với quy chế nửa bảo hộ, ở Trung Kỳ, trên danh nghĩa, hệ thống pháp luật cũ và

bộ luật Gia Long vẫn được áp dụng, nhưng thực dân Pháp đã tìm mọi cách can

thiệp, chi phối và đi tới chỗ vô hiệu hoá hệ thống pháp luật Nam Triều (ví như ép

triều đình thay đổi, sữa chữa các điều luật theo ý chúng.

Sự áp dụng luật pháp tư sản ở mức độ nhất định của thực dân Pháp ở nước ta dù

với mục đích chủ yếu là phục vụ cho lợi ích của CNTD và GCTS Pháp song đã tạo

ra “nền tảng mới của luật pháp các nước Đông Nam Á thuộc địa…Với hệ thống luật

pháp tư sản được đưa vào thuộc địa, nó đã góp phần phá vỡ những hủ tục truyền

thống phong kiến của xã hội cổ truyền, từng bước đưa các nước này vào thời đại

văn minh” [114, tr.265].

* Hệ thống toà án: Với việc đặt 3 kỳ 3 chế độ chính trị khác nhau, hệ thống toà

án ở 3 kỳ cũng có những điểm khác biệt nhất định.

Năm 1862, Pháp thôn tính được 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ thì hai năm sau đó,

vào năm 1864, thực dân Pháp ban hành sắc lệnh đầu tiên về tổ chức tư pháp ở Nam

Kỳ. Theo đó, ở Nam Kỳ có hai hệ thống toà án song song tồn tại: hệ thống toà Tây

án (tức toà án Pháp) chuyên xét xử người Pháp và hệ thống toà Nam án (còn gọi toà

án Nam) chuyên xét xử người Việt và người Châu Á cư trú tại Nam Kỳ. Dù tồn tại

cả toà án Pháp và toà án Nam song những sự vụ quan trọng, đặc biệt liên quan đến

quyền lợi của nước Pháp đều do các toà án Pháp xét xử. Thực tế, với nhiều quy định

cụ thể có thể thấy toà án Pháp có nhiều quyền lực hơn hẳn toà án Nam. Ngay trong

tổ chức hệ thống toà án Nam, chỉ có toà đệ nhất cấp là các vị trí chủ chốt do người

Việt nắm giữ, còn ở các cấp cao hơn, các quan chức cao cấp trong hệ thống toà án

này đều do người Pháp nắm giữ. Từ năm 1881, chính thức bãi bỏ các toà Nam án,

không phân biệt quốc tịch, tất cả đều do toà án Pháp xét xử. Tuy nhiên người Việt

và người châu Á sẽ xét xử theo thể chế riêng, người Pháp và người Âu sẽ xét xử

theo thể chế riêng. Sau này, từ năm 1903, tất cả người Việt Nam cư trú ở Nam Kỳ

Page 99: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

94

đều do các toà Tây án xét xử theo luật pháp của nước Pháp. Những “cải cách tư

pháp” như vậy đã biến người dân Việt Nam hầu hết không biết tiếng Pháp, mỗi khi

có việc kiện tụng, đều phải nhờ đến thông ngôn, trở thành món mồi cho thực dân

xâu xé. Vấn đề tư pháp là một trong những mối quan tâm lớn của bọn thực dân, vì

vậy, chúng quy định viên chức hạng nhất mới được phụ trách tư pháp, đây là những

viên chức có thâm niên và nhiều kinh nghiệm. Tổ chức tư pháp ngày càng được

chính quy hoá và chuyên nghiệp hoá. Thời kỳ cai trị đầu tiên, chức năng tư pháp và

hành chính còn nằm trong tay một viên quan cai trị thì sau này Pháp đã tách bạch

hai chức năng đó ra. Các thành phố nhượng địa như Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng

cũng có tổ chức toà án giống như ở thuộc địa Nam Kỳ.

Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ vì là xứ bảo hộ và nửa bảo hộ nên bên cạnh hệ thống

toà án Pháp, hệ thống toà án Nam vẫn được duy trì.

Có thể thấy, hệ thống tổ chức toà án ở Việt Nam thời Pháp thuộc dù bên cạnh

toà án Pháp vẫn còn tồn tại các toà án Nam, đặc biệt ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nhưng

trên thực tế, quyền tư pháp chủ yếu nằm trong tay thực dân, chịu sự chi phối của

thực dân. Toà án Nam có phạm vi xét xử và thẩm quyền hết sức hạn hẹp, chỉ được

xét xử người Việt, với những tội danh không đe doạ đến sự tồn vong của chính

quyền. Như vậy, một “thiết chế pháp lý lưỡng hành” [178,tr.284] đã được Pháp thiết

lập và duy trì ở nước ta nhằm tăng cường sức mạnh cho bộ máy thống trị và áp chế

của nhà cầm quyền Pháp.

Trên một cách khái quát khác có thể thấy, ở Việt Nam thời Pháp thuộc có hai

loại nguồn luật được sử dụng đó là nguồn luật của Pháp và nguồn luật của phong

kiến bản xứ. Vì có ba quy chế chính trị cho ba kỳ nên tương ứng cũng có ba quy chế

pháp lý. Với Nam Kỳ và các thành phố nhượng địa khi xét xử toà án Pháp sẽ áp

dụng luật pháp của Pháp. Với Trung Kỳ, khi xét xử toà án Nam Triều sẽ áp dụng

luật pháp Nam Triều được ban bố thi hành ở Trung Kỳ. Với Bắc Kỳ, khi xét xử các

toà án Nam Triều ở đây cũng áp dụng luật pháp Nam triều đã được ban bố thi hành

ở Bắc Kỳ. Với đối tượng áp dụng pháp luật thì có hai quy chế pháp lý ứng dụng cho

hai loại người. Với người Pháp và những ngoại kiều được biệt đãi như người Pháp,

Page 100: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

95

người Việt Nam sinh ra ở vùng đất thuộc địa, dù đang sống ở đâu trên đất Việt Nam

đều do toà án Pháp xét xử bằng pháp luật của Pháp. Với người Việt Nam là thần

dân của Hoàng đế nhà Nguyễn, những ngoại kiều không được hưởng biệt đãi như

người Pháp đều do toà án Nam Triều xét xử theo luật pháp phong kiến

[167,tr.393,398].

* Hệ thống nhà tù: Bên cạnh hệ thống toà án là hệ thống nhà tù dày đặc từ

huyện, tỉnh đến toàn Đông Dương. Các nhà tù lớn ở Việt Nam thời thuộc địa luôn

chật kín tù nhân, phần lớn là các tù chính trị. “Về chi phí, riêng ở Bắc Kỳ, năm

1909, tiền chi tiêu để giữ gìn trật tự” (hành chính, cảnh sát, sen đầm, khố xanh) gấp

bốn lần khoản tiền chi cho giáo dục, y tế, nông nghiệp, công chính” [163, tr110].

2.3.2. Xác lập cơ sở kinh tế cho sự cai trị thuộc địa

Một sự thống trị chính trị bao giờ cũng phải tồn tại trên một cơ sở kinh tế nhất

định. Sau khi có quyền lực nhà nước, thực dân Pháp đã thiết lập cơ sở kinh tế cho

sự thống trị chính trị của chúng ở Việt Nam chủ yếu thông qua chính sách thuế;

chính sách cướp đoạt ruộng đất và bóc lột địa tô; chính sách đầu tư tư bản để khai

thác tài nguyên và bóc lột nhân công.

a. Chính sách thuế

Đây là chính sách kinh tế trực tiếp tạo ra nguồn thu cho ngân sách chính quyền

thuộc địa, đảm bảo tài chính cho chính quyền này tồn tại và hoạt động. Trước hết,

về vị trí vai trò của thuế trong nền kinh tế thuộc địa, chính sách tài chính và thuế

được coi như xương sống trong các chính sách kinh tế của Pháp. Chính sách ấy đảm

bảo cho toàn bộ công cuộc khai thác Đông Dương của Pháp một nguồn tài chính tại

chỗ. Trong thời Pháp thuộc, Pháp sử dụng thuế chủ yếu để tăng ngân sách, bần

cùng hoá người Việt Nam tạo khoảng cách ngày càng xa giữa kẻ cai trị và người bị

cai trị để duy trì nền cai trị ấy. Mặt khác, thuế được sử dụng như công cụ đắc lực để

Pháp thực hiện chính sách độc quyền thương mại, biến Việt Nam thành thị trường

riêng của Pháp. Ở đây, thuế mang tính chất cống nạp nhiều hơn là một công cụ điều

tiết kinh tế. Pháp đã tạo ra một nền kinh tế mà trong đó người dân phải đóng thuế

một cách tuỳ tiện, bất cứ cái gì, bất cứ hoạt động gì cũng có thể bị đánh thuế. Các

Page 101: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

96

sắc thuế và cách thu thuế đều do Chính phủ Bảo hộ quyết định. Chính sách thuế

khoá đã đem lại cho ngân sách Đông Dương những nguồn thu lớn. Mục tiêu của

chính sách thuế cho thấy Việt Nam là một thuộc địa khai thác của Pháp. Trong thời

Pháp thuộc, thuế không chỉ đơn thuần là một chính sách kinh tế mà còn mang tính

chất của một chính sách văn hoá - xã hội, dùng để bần cùng hoá, kìm kẹp người

Việt Nam trong vòng nô lệ, dưới sự “bảo hộ của nước mẹ Pháp”.

Về nội dung của chính sách thuế: Sau khi Pháp hoàn thành cuộc bình định trên

đất nước ta và bước vào thời kỳ khai thác thuộc địa, gánh nặng thuế má đối với

người dân Việt Nam nói chung và người nông dân nói riêng đã tăng lên đột ngột. Ở

đây chúng ta quan tâm nhiều hơn tới các sắc thuế mà đối tượng của nó là bộ phận

dân cư chiếm tỉ trọng cao nhất trong xã hội (đó chính là nông dân). Ngoài loại thuế

cũ là thuế trực thu được sửa đổi và tăng cường cả về quy mô và mức độ, người

Việt Nam phải chịu loại thuế mới (thời phong kiến không hề có) là thuế gián thu.

Thuế gián thu là một loại thuế của xã hội hiện đại tuy nhiên được Pháp khai thác, sử

dụng với một cách thức lạc hậu để tối đa hoá lợi ích thực dân.

Chưa khi nào người dân Việt Nam lại phải đóng thuế nhiều như vậy. Thuế trực

thu gồm nhiều loại (thuế ruộng, thuế thân, thuế nhân lực hay thuế lao dịch, thuế

chợ, thuế đò, thuế thuyền bè, thuế kiểm lâm, thuế cầm đồ…) trong đó quan trọng

nhất là thuế ruộng, thuế thân, thuế nhân lực.

Dưới thời Pháp, thuế ruộng đất về thể thức được duy trì như dưới thời nhà

Nguyễn, nhưng Pháp đã điều chỉnh bằng nhiều cách nhằm thu được lượng thuế lớn

nhất có thể. Các chính sách miễn, giảm thuế dưới thời phong kiến bị bãi bỏ. Pháp

còn “đẻ ra” nhiều loại thuế mới cho nông dân như thuế bách phân phụ thu (thường

bằng 15% thuế chính ngạch). Thuế mất đi chức năng là công cụ điều tiết kinh tế mà

trở thành công cụ bóc bột của bọn thực dân, phong kiến với đông đảo nhân dân. Với

chính sách thuế như trên, người dân, trước hết là nông dân Việt Nam bị bần cùng

hoá và lâm vào cảnh khốn cùng.

Thuế thân: Chưa lúc nào trong lịch sử Việt Nam, thẻ tuỳ thân lại quan trọng

như vậy với sự tồn tại của mỗi người nông dân (đó là thẻ chứng nhận người đó đã

Page 102: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

97

đóng thuế thân, hoặc được miễn, giảm thuế, là vật chứng minh sự tồn tại hợp pháp

của mỗi người nông dân). Dù chỉ là chiếc thẻ nộp thuế nhưng dường như nó lại có

khả năng chứng minh nhân cách của con người!? “Mỗi người An Nam lúc nào cũng

phải mang theo mình thẻ thuế thân, khi hỏi phải xuất trình; ai quên hoặc đánh mất

sẽ bị bỏ tù” [92, tr.75]. Dưới thời Pháp thuộc, đối tượng đóng thuế thân được mở

rộng tối đa, tất cả nông dân, người khá giả cũng như người bần hàn đều phải đóng

thuế thân. Nhiều đối tượng thời phong kiến được miễn thuế thân thì nay đều phải

nộp thuế thân với suất thuế tăng vọt.

Ở Nam Kỳ, số người phải đóng thuế thân tăng gấp 3 lần trước đó, mức thuế

thân tăng gấp 7 lần so với trước đó… Với cách đóng thuế này của thực dân

Pháp, nông dân ở Bắc Kỳ, loại tráng hạng phải nộp thuế thân tăng gấp 20 lần,

còn lão hạng và dân đinh hạng nộp thuế tăng gấp 40 lần [59, tr.310,311].

Từ khi thực dân Pháp sang Việt Nam, thuế lao dịch được ấn định cho nội đinh,

quy định giá trị bằng tiền tệ từng ngày lao dịch, và bắt người dân phải chuyển sang

tiền chuộc để đưa vào ngân sách. Tuy vậy, khi cần huy động nhân công, chính phủ

bảo hộ vẫn huy động dù đã đóng tiền chuộc rồi. Thuế lao dịch được quy định cụ thể

với mỗi người dân cho ngân sách từng cấp từ xã đến tỉnh. “Nhà nước không nuôi ăn

trong thời gian lao động như trước và trước đây mỗi năm chỉ phải đi một lần, nay

thì đi vô tội vạ… Phải chăng đó là những ân huệ mà người An Nam chưa nhận ra

được” [59, tr.313,314]. Khi cần huy động nhân lực làm những con đường chiến

lược, chính phủ thuộc địa không nề hà bắt tất cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con

đều phải đi lao dịch. Dưới thời phong kiến những mệnh lệnh nghiêm ngặt nhất cũng

chỉ quy định những đàn ông khoẻ mạnh mới phải đi lao dịch. Do không có tiền nộp

thuế, dân nhiều khi phải bỏ làng đi lang thang, phiêu bạt. Dưới thời Pháp thuộc,

thuế trực thu không còn giữ được tính tương đối cố định mà trở thành một thứ thuế

có thể co giãn trên “chiếc lưng cao su” của những người dân Việt Nam.

Chính sách thuế thời thuộc Pháp hầu hết do chính quyền thuộc địa đặt ra, chính

quyền cấp xã do người bản xứ đứng đầu thường được giao nhiệm vụ đi thu thuế.

Gánh nặng của vô vàn các loại thuế đè lên đầu người dân khiến họ khó lòng kham

Page 103: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

98

nổi. Do đó, các đội thu thuế còn có binh lính đi kèm để cưỡng bức nộp thuế. Do

thuế má nặng nề như vậy, quá khả năng chịu đựng của người dân nên phát sinh

nhiều tệ nạn, tiêu cực. Bọn quan lại địa phương tha hồ có dịp nhũng nhiễu dân lành.

Những sắc thuế trực thu đánh trực tiếp vào từng người dân trở thành món mồi béo

bở làm giàu cho bọn thực dân và phong kiến.

Tàn bạo nhất là thuế gián thu, nguồn thu quan trọng nhất cho ngân sách thuộc

địa, đặc biệt là thuế muối, rượu, thuốc phiện. Thực dân Pháp thu các loại thuế này

qua hình thức độc quyền, đem lại nguồn thu lớn. Thuế muối, từ một loại thuế trực

thu trong thời phong kiến, Pháp chuyển thành thuế gián thu đánh vào người tiêu

dùng. Mà muối là một mặt hàng thiết yếu, không ai không phải tiêu dùng đến nó.

Pháp bắt những diêm dân sau khi sản xuất xong phải bán ngay và bán hết muối cho

chính quyền thuộc địa với giá bèo bọt. Sau đó, chính họ lại phải đi mua lại muối của

chính quyền cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân của mình với một mức giá cao gấp

nhiều lần. Dẫn tới nghịch lý là dân của một nước nhiệt đới có đường bờ biển dài

hàng ngàn kilômét như Việt Nam nhiều gia đình phải nhịn ăn muối vì không có tiền

mua muối.

Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, rượu từ một nghề phụ cho kinh tế nông nghiệp

được nâng lên thành một ngành công nghiệp nhẹ tương đối lớn. Chúng đã thành lập

những công ty lớn sản xuất rượu với số lượng không hạn chế, bằng mọi nguyên liệu

có thể sản xuất được và cấm ngặt sản xuất rượu trong dân. Để đạt được mức lãi

khổng lồ như mong muốn, chính sách tiêu thụ rượu của Pháp đã biến rượu thành sản

phẩm bắt buộc phải tiêu dùng với mỗi người dân Việt Nam. Rượu được định mức sử

dụng trên mỗi đầu người dân Việt. “Và thuế rượu được quan niệm là một loại thuế

gián thu, đã trở thành thuế trực thu, gần gũi với thuế thân” [59, tr.320].

Thuốc phiện, một mặt hàng bị cấm ngặt dưới thời Nguyễn thì sang thời Pháp

được khuyến khích tiêu dùng. Thuốc phiện là mặt hàng độc quyền của thực dân

Pháp ở Đông Dương. Thuế từ mặt hàng độc hại này đã đem lại món tiền lớn cho

ngân sách chính quyền thuộc địa. Và lẽ dĩ nhiên, bọn phong kiến bán nước, ăn theo

chính quyền này cũng được hưởng lợi.

Page 104: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

99

Dưới thời thuộc Pháp, mọi thứ đều có thể bị đánh thuế. Với thuế đò, nhiều

người dân đã không dám qua sông. Với một địa hình như nước ta, sông suối nhiều

vô kể, thì đây cũng là một nguồn thu đáng kể. Qua ghi chép của một giám mục công

giáo người Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ, nhiều người Việt Nam cưỡi trâu bơi qua

sông để cày ruộng của mình ở bờ bên kia cũng bị bắt ép phải trả thuế đò. Nhiều

người nghèo khổ chỉ đem đi chợ bán dăm xu trầu không hay mía cũng phải trả tiền

đò cho những chủ thầu đò cả đi lẫn về. Thật khó mà tưởng tượng nổi! Người An

Nam “thà vứt của đi còn hơn là phải đóng thuế hết khoản này đến khoản khác mãi

mãi không thôi. Ở một số vùng, nhân dân buộc lòng phải nhổ thuốc, chặt cau để

tránh những phiền nhiễu vì thuế mới” [92, tr.76].

Thuế còn được dùng làm công cụ để duy trì vị trí độc quyền thương mại ở Đông

Dương cho thực dân Pháp. Hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam bị đánh với mức

thuế cao hơn nhiều lần so với hàng hoá Pháp dẫn tới không nước nào có thể cạnh

tranh được với Pháp trên thị trường Việt Nam. Hàng hoá Việt Nam sản xuất ra Pháp

bắt phải bán cho chúng với mức giá bèo bọt trong khi người Việt Nam phải mua

hàng hoá Pháp với giá cao. Với các sắc thuế đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu,

Việt Nam trở thành thị trường riêng của tư bản Pháp.

Như vậy, chính sách thuế mà thực dân Pháp sử dụng ở nước ta đã tạo ra một

“chính quyền ăn bám” trên mồ hôi, nước mắt và máu của những người dân thuộc

địa. Chính sách đó đã đẩy người dân Việt Nam, phần lớn là nông dân vào bước

đường cùng, thôi thúc ý thức tự giải phóng trong họ, tạo tiền đề cho sự ra đời của

một nền chính trị mới, tiến bộ thay thế nền chính trị phản động mà thực dân Pháp

thiết lập ở nước ta.

b. Chính sách ruộng đất và địa tô

Đây là các chính sách kinh tế tạo tiềm lực tài chính, đảm bảo sức mạnh kinh tế

cho giai cấp cầm quyền và lực lượng tay sai của chúng cũng như các lực lượng trực

tiếp nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Thực dân Pháp đã thực thi chính sách

cướp đoạt ruộng đất và bóc lột địa tô tạo điều kiện cho việc thiết lập, củng cố liên

minh đế quốc - phong kiến và làm đầy hầu bao tầng lớp thống trị.

Page 105: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

100

Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp - một bộ phận của GCTS Pháp - là lực

lượng trực tiếp nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam. “Điều kiện căn bản của sự

tồn tại và của sự thống trị của GCTS là sự tích luỹ của cải vào tay những tư nhân, là

sự hình thành và tăng thêm tư bản” [88, tr.612]. Ở một nước nông nghiệp như Việt

Nam thì sự tích tụ đó thể hiện trước hết và tập trung ở ruộng đất.

Trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam là kinh tế nông nghiệp

với hai ngành chính là nông nghiệp và thủ công nghiệp. Người lao động trong nền

kinh tế đó chủ yếu là nông dân và thợ thủ công mà phần nhiều nông dân đồng thời

cũng là thợ thủ công trong lúc nông nhàn. Trong một nền kinh tế như vậy, tư liệu sản

xuất chủ yếu là ruộng đất phần lớn nằm trong tay địa chủ phong kiến và một phần

nhỏ thuộc sở hữu cá thể của nông dân. Trong phương thức sản xuất phong kiến, bóc

lột địa tô là hình thức bóc lột chủ yếu của địa chủ phong kiến với nông dân.

Sau khi Pháp thôn tính Việt Nam, khảo sát sự thay đổi về sở hữu ruộng đất giúp

chúng ta thấy được sự thay đổi cơ bản trong lĩnh vực sản xuất của xã hội, từ đó

thấy được sự thay đổi trong trong lĩnh vực chính trị. Bởi nguyên tắc chung lực

lượng nào nắm quyền lực kinh tế người đó sẽ nắm quyền lực chính trị mà đỉnh cao

là quyền lực nhà nước và chi phối quyền lực ấy.

Trong suốt thời kỳ thuộc Pháp, đã có một sự thay đổi lớn trong vấn đề sở hữu

ruộng đất ở Việt Nam thông qua chính sách cướp đoạt ruộng đất của nông dân.

Nhưng điều không thay đổi là nông dân vẫn là người có ít ruộng đất nhất, thậm chí

không còn chút ruộng đất nào trong tay. Và thực sự, họ không còn là nông dân

nguyên nghĩa nữa. Ruộng công, ruộng của nông dân mắc nợ không trả được thì bị

bọn địa chủ và chức dịch xã chiếm đoạt, biến thành ruộng tư. Một phần ruộng khá

lớn khác thì lọt vào tay bọn điền chủ Pháp. Sự tích tụ và tập trung tư bản xảy ra cả ở

trong lĩnh vực nông nghiệp.

Với đủ mọi mánh khoé tàn ác, chúng (thực dân Pháp) đã cướp đoạt tới

470.000 ha năm 1913 so với 10.000 ha năm 1890, dữ dội nhất là ở Nam Kỳ.

Đã xuất hiện những tên điền chủ lớn, có trong tay từ 2.000 đến 20.000 mẫu

tây… Vì thế, vào năm 1914, Nam Kỳ đã có thể xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo,

Page 106: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

101

đem lại cho tư bản Pháp mối lợi khổng lồ [103, tr.228].

Từ 1897 khi cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp được triển khai thì

tốc độ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân đã được Pháp đẩy mạnh trong cả nước.

Đặc biệt, Nghị định ngày 01-5-1900 với nội dung là phủ nhận quyền sở hữu ruộng

đất trong pháp luật phong kiến, xoá bỏ quyền sở hữu ruộng đất tối cao của nhà vua

chuyển sang cho nhà nước bảo hộ, quy định các quan Pháp đứng đầu các xứ có

quyền cấp đất cho mỗi người mỗi lần từ 300 ha trở lên thì việc thực dân Pháp chiếm

đoạt ruộng đất của nông dân Việt Nam ngày càng trở nên phổ biến. Sau khi vùng

đất đỏ Tây Nguyên được phát hiện thì mỗi tấc đất nơi đây đều đứng trước nguy cơ

rơi vào tay đế quốc, phong kiến. Thực dân Pháp đã biến diện tích đất đai khổng lồ

mà chúng chiếm được thành đồn điền trồng lúa, trồng cây công nghiệp và thu

những nguồn lợi lớn, tạo ra nguồn tài chính quan trọng đảm bảo cho một sự thống

trị chính trị của chúng trên đất nước ta. Đây là một hình thức bóc lột theo kiểu

TBCN trong lĩnh vực nông nghiệp đã xuất hiện ở nước ta.

Để củng cố lực lượng địa chủ phong kiến làm tay sai đắc lực cho thực dân xâm

lược, Pháp đã tạo điều kiện cho bọn địa chủ phong kiến tự do cướp đoạt ruộng đất

của nông dân Việt Nam, khuyến khích chúng đẩy mạnh các thủ đoạn bóc lột nông

dân. Kết quả là giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam ngày càng được tăng cường

về cả số lượng và quy mô ruộng đất chiếm hữu, thủ đoạn bóc lột nông dân. Với các

biện pháp trên, quyền lợi của địa chủ phong kiến Việt Nam ngày càng gắn chặt với

quyền lợi của đế quốc thực dân.

Sở hữu phần lớn ruộng đất ở Việt Nam, hai lực lượng địa chủ phong kiến Việt

Nam và tư sản Pháp đã bóc lột nông dân Việt Nam ngày càng tàn bạo hơn bằng địa

tô. Đây là một hình thức bóc lột điển hình trong phương thức sản xuất phong kiến

với các hình thức như lĩnh canh thu tô, cho mướn ruộng, mướn ruộng có tạm ứng

vốn của chủ đất, mướn ruộng trả địa tô bằng sức lao động. Một phần ruộng đất nhỏ

hơn được chúng dùng để kinh doanh theo lối TBCN. Hình thức bóc lột địa tô cùng

quy mô ruộng đất được tích tụ, tập trung ngày càng lớn trong tay địa chủ phong

kiến Việt Nam và tư sản Pháp làm nông dân bị bần cùng hoá ngày càng nhiều và

Page 107: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

102

buộc phải đi vay nợ lãi của địa chủ phong kiến Việt Nam hoặc tư sản Pháp. Như

vậy, địa chủ phong kiến, thực dân ngày càng giàu lên trên sự bần cùng của người

dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân. Sức mạnh kinh tế của chúng ngày càng

được tăng cường.

c. Chính sách đầu tư tư bản để khai thác tài nguyên, bóc lột nhân công

Hai cuộc khai thác thuộc địa của tư sản Pháp ở Việt Nam đã thiết lập nên nền

kinh tế thuộc địa. Đó là một nền kinh tế tồn tại trên cơ sở phức hợp của hai phương

thức sản xuất phong kiến và TBCN. Chính quyền thuộc địa đã duy trì phương thức

sản xuất phong kiến nhưng không lặp lại trọn vẹn và phát triển chế độ phong kiến.

Mặt khác, chúng cho thiết lập phương thức sản xuất TBCN nhưng lại kìm hãm sự

phát triển của CNTB ở nước ta. Tình trạng này đã làm cho người Việt Nam “đã khổ

vì sự phát triển của sản xuất TBCN, lại còn khổ vì sự phát triển ấy chưa được đầy

đủ” [127, tr.294]. Mục tiêu của các cuộc khai thác thuộc địa nhằm: cướp bóc vơ

vét, khai thác của cải ở thuộc địa đưa về chính quốc; biến Đông Dương thành thị

trường cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, lao động rẻ mạt cho chính quốc và thành thị

trường tiêu thụ cho công nghiệp và thương mại Pháp. Nếu có phát triển công nghiệp

thì nền công nghiệp đó không được làm hại công nghiệp chính quốc mà phải bổ

sung cho công nghiệp chính quốc - một nền công nghiệp mà “không dùng những

nguyên liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa xôi nhất trên

trái đất và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được

tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa” [88, tr.601]. Tư bản được đầu tư vào đây

không phải để kỹ nghệ hoá Việt Nam mà là để khai thác, sản xuất những sản phẩm

có thể xuất cảng ngay không cần chế biến. Bằng nhiều chính sách kinh tế khác

nhau, Pháp đã “tạo ra được một sự bổ trợ mang tính chất bất bình đẳng và đơn

phương của thuộc địa nông nghiệp Việt Nam đối với chính quốc công nghiệp Pháp”

[127, tr.295]. Mục tiêu của các cuộc khai thác thuộc địa chi phối mọi hoạt động

kinh tế của Pháp ở Việt Nam và được thể hiện rõ trong cơ cấu vốn đầu tư đặc biệt

trong cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế thuộc địa. Thực dân giảm chi phí tăng lợi

nhuận không bằng cách đầu tư kĩ thuật mà bằng cách bóc lột nhân công rẻ mạt,

Page 108: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

103

dùng bạo lực và các công cụ bóc lột phi kinh tế khác để bần cùng hoá những người

lao động.

Trong công nghiệp thì ngành thu hút sự quan tâm lớn của các nhà tư bản là

ngành khai thác mỏ. Với một nguồn tài nguyên mỏ dồi dào về cả chủng loại và trữ

lượng như Việt Nam, lại phần lớn là mỏ lộ thiên, ngành khai thác mỏ rõ ràng đem

lại cho thực dân Pháp nguồn lợi nhuận khổng lồ. Phần lớn các xí nghiệp công

nghiệp nằm trong tay các tập đoàn tư bản lớn. Tiếp theo là công nghiệp chế biến để

phục vụ nhu cầu tại chỗ và sơ chế các nguyên liệu cho xuất khẩu. Ngành vận tải với

việc xây dựng các tuyến đường thuỷ, bộ, sắt, hàng không và phát triển các phương

tiện vận tải nhằm tạo tiện lợi cho giao thông. Có như vậy, việc khai thác thuộc địa,

buôn bán mới dễ dàng và khi có sự vụ gì thì phái quân đội đi đánh dẹp cũng thuận

lợi. Phát triển ngành vận tải ở Việt Nam là công cụ để thực dân có thể phát triển các

ngành kinh tế khác. Trong nông nghiệp, lối kinh doanh theo kiểu kinh tế đồn điền

ra đời và hoạt động khá hiệu quả, đem lại cho các chủ đồn điền những nguồn lợi

lớn. Ngành thương mại rất phát triển trong thời Pháp thuộc với sự ra đời của một

hệ thống chợ - là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh buôn bán sôi động. Hoạt

động ngoại thương được bảo vệ bằng hàng rào quan thuế thực sự đã biến Việt Nam

thành thị trường riêng của thực dân Pháp. Cán cân xuất nhập khẩu thời Pháp thuộc

thường thặng dư nhưng đó không phải là thành quả của một cơ cấu thuận lợi mà là

một triệu chứng chậm tiến của nền kinh tế khi các nguồn lợi nhuận phần lớn đều

được các chủ tư bản chuyển về chính quốc. “Ngoại thương càng phát triển và thặng

dư trong cán cân thương mại càng lớn, nền kinh tế thuộc địa càng rơi vào tình trạng

phát triển một cách bất hợp lý, thuộc địa càng bị bóc lột nhiều hơn, càng nghèo hơn

và càng chậm tiến hơn” [179, tr.170]. Các hoạt động tài chính chịu sự điều khiển

bởi hai đại ngân hàng: Ngân hàng Pháp - Hoa và ngân hàng Đông Dương. Các

nhóm tài chính khai thác kinh tế Việt Nam đại diện cho quyền lợi của giới kỹ nghệ

Pháp, chủ yếu nhằm mục đích sao cho tư bản đầu tư vào Việt Nam sinh lợi nhiều và

mau chóng. Sự đầu tư tư bản vào Việt Nam của các nhóm tài chính không phù hợp

với các nhu cầu kinh tế thực thụ của Việt Nam.

Page 109: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

104

Nhìn chung, chính sách cai trị về kinh tế của thực dân Pháp làm cho nền kinh tế

của Việt Nam mang một diện mạo mới, đa dạng hơn trong cơ cấu ngành nghề, các

lĩnh vực hoạt động, hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế ấy

đã làm phá sản nền kinh tế Việt Nam truyền thống, bần cùng hoá người lao động và

đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các chủ tư bản. Lực lượng này chính là chủ

thể mới của quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Cơ cấu kinh tế đó cho thấy rõ Việt

Nam là một thuộc địa khai thác của Pháp chứ không phải một thuộc địa di dân.

Khai thác tài nguyên thiên nhiên, sức lao động rẻ mạt, thị trường rộng lớn của Việt

Nam một cách hiệu quả nhất, làm giàu cho tư bản chính quốc, làm bần cùng hoá

người lao động Việt Nam, làm đất nước Việt Nam tiêu điều, xơ xác là những hệ quả

tất yếu mà nền kinh tế đó tạo ra.

Có thể thấy, thực dân Pháp đã tạo cơ sở kinh tế cho sự thống trị chính trị của

chúng ở Việt Nam bằng những chính sách nổi bật như: Chính sách thuế, chính sách

cướp đoạt ruộng đất và bóc lột địa tô, chính sách đầu tư tư bản để khai thác tài

nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt. Các chính sách kinh tế của Pháp đã tạo ra những

nguồn thu lớn cho ngân sách thuộc địa, đảm bảo nguồn tài chính cho việc duy trì và

hoạt động của bộ máy quyền lực của Pháp ở nước ta. Chính sách này cũng tạo ra lợi

nhuận khổng lồ cho tư bản Pháp - chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước ở Việt

Nam và lực lượng tay sai của chúng là một bộ phận địa chủ phong kiến Việt Nam

bán nước. Chính sách này còn củng cố liên minh đế quốc - phong kiến, yếu tố

không thể thiếu tạo nên chính quyền thuộc địa.

Dưới sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, một phương thức sản xuất có

tính chất TBCN đã dần du nhập vào Việt Nam. Kết quả là “các quan hệ tư bản hoà

trộn đan xen và trùm lên các quan hệ phong kiến, thống trị và chi phối các quan hệ

phong kiến, trở thành nhân tố quyết định xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam.

Đây chính là hình thái kinh tế xã hội đặc thù của các nước thuộc địa TBCN” [63,

tr.156]. Như vậy, trong nền kinh tế này có sự tồn tại song hành của hai phương thức

sản xuất: phương thức sản xuất TBCN và phương thức sản xuất phong kiến.

Như vậy, cùng với việc thâu tóm dần quyền lực nhà nước từ tay giai cấp địa chủ

Page 110: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

105

phong kiến Việt Nam về tay mình, GCTS Pháp đã thiết lập cơ sở kinh tế cho sự

thống trị chính trị của chúng ở nước ta. Và trên nền tảng một “hình thái kinh tế xã

hội đặc thù của các nước thuộc địa TBCN” trong đó các quan hệ tư bản trở thành

nhân tố quyết định xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam, thực chất một kiểu nhà

nước mới mang tính chất của kiểu nhà nước tư sản đã manh nha ra đời và dần dần

thay thế kiểu nhà nước phong kiến đã tồn tại lâu dài ở nước ta.

2.3.3. Xác lập cơ sở tư tưởng, văn hoá cho sự cai trị thuộc địa

“Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng

của giai cấp thống trị” [88, tr.625]

“Phàm một dân tộc đi chinh phục một dân tộc khác, đương nhiên không để cho

dân tộc đó có tư tưởng độc lập” [137, tr.96]

Một sự cai trị chính trị không chỉ cần cơ sở kinh tế mà còn cần một nền tảng tư

tưởng tinh thần cho sự tồn tại và hoạt động của nó. Sau khi thôn tính hoàn toàn

nước ta với hiệp ước Patơnôt năm 1884, cùng với việc thiết lập cơ sở kinh tế cho sự

cai trị thuộc địa, thực dân Pháp tiến hành đẩy mạnh việc du nhập hệ tư tưởng - văn

hoá tư sản phương Tây vào nước ta phù hợp với lợi ích thực dân TBCN. Giai đoạn

nửa sau thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX ở nước ta là giai đoạn diễn ra một cách

mạnh mẽ sự giao thoa cũ mới, đan xen giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại trên

tất cả mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có tư tưởng- văn hoá. Trong nội dung

này, tác giả không xem xét toàn bộ những yếu tố về văn hoá tư tưởng trong cả một

giai đoạn lịch sử mà chỉ xét những yếu tố văn hoá, tư tưởng được thiết lập theo

chủ đích của lực lượng cầm quyền nhằm duy trì tốt nhất sự thống trị chính trị và

tối đa hoá lợi ích của chúng.

a. Quy định về việc sử dụng ngôn ngữ

Trước hết, thực dân Pháp thực hiện các biện pháp nhằm loại trừ dần chữ Hán

ra khỏi đời sống xã hội. Sau khi thôn tính được Nam Kỳ, từ năm 1878 chính quyền

thuộc địa ở Nam Kỳ quy định chữ Hán trong giấy tờ công văn của các cơ quan

hành chính được thay bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Quy định này nhằm cắt đứt

mối quan hệ lâu đời về văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các kỳ thi theo lối

Page 111: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

106

cũ bằng chữ Hán cũng dần bị xoá bỏ. Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở ba

tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Dưới áp lực của chính quyền thuộc địa, năm 1915 vua Duy

Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương, Hội, Đình) ở Bắc Kỳ; năm 1918, vua

Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi ở Trung Kỳ; năm 1919, bãi bỏ hoàn toàn

các trường dạy chữ Nho thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt dạy bằng chữ

Pháp và chữ Quốc ngữ. Trước đó, trong Bộ Học chính Tổng quy năm 1917, việc

dạy chữ Nho đã bị Thực dân Pháp quy định và kiểm soát hết sức chặt chẽ, gắt gao

để tránh việc các thầy đồ tuyên truyền tư tưởng yêu nước, chống Pháp. Nhà nước

bảo hộ chỉ mở các trường dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Các trường dạy chữ Nho

đều được xếp vào hạng trường tư. Điều này cho thấy sự “quan tâm” đặc biệt của

thực dân Pháp với một ngôn ngữ vốn đã được sử dụng quen thuộc trong xã hội Việt

Nam hàng nghìn năm.

Ở bậc tiểu học toàn phần, chỉ khi nào phụ huynh học sinh và chính quyền địa

phương đề nghị thì người đứng đầu cấp xứ, sau khi tham khảo ý kiến hội

đồng hàng tỉnh mới được ra quyết định đưa môn chữ Nho vào dạy, nhưng

cũng chỉ ở hai lớp cuối. Người đứng đầu xứ phải có trách nhiệm báo cáo

riêng việc dạy chữ Nho với Toàn quyền [179, tr.215].

Năm 1932, bộ máy quan lại trong Triều đình phong kiến cũng bị thực dân Pháp

bắt buộc phải bỏ dùng chữ Hán, thay bằng chữ Pháp hay chữ Quốc ngữ. Ngôn ngữ

không chỉ là công cụ, phương tiện để truyền tải thông tin mà còn là một yếu tố của

văn hoá. Việc thực dân Pháp loại trừ từng bước ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa

ra khỏi đời sống xã hội Việt Nam nhằm thay đổi tư duy người Việt, hướng tinh thần

người Việt tới một hệ thống giá trị mới có lợi cho sự cai trị thực dân.

Cùng với việc loại bỏ dần chữ Hán trong đời sống xã hội, thực dân Pháp tiến

hành phổ biến chữ Quốc ngữ ở một mức nhất định phù hợp với lợi ích của

chúng. Với sự tương đồng về mẫu tự La tinh giữa chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, thực

dân Pháp cho phổ biến chữ Quốc ngữ để tạo thuận lợi cho việc truyền bá chữ Pháp.

Vì khi người Việt quen với mẫu tự La tinh trong chữ Quốc ngữ sẽ dễ dàng học tiếng

Pháp hơn. Mặt khác, thực dân Pháp lợi dụng chữ Quốc ngữ để truyền bá văn hoá

Page 112: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

107

Pháp. Những tay bồi bút thực dân sau khi thấm nhuần những tư tưởng thực dân sẽ

chuyển tải những tư tưởng đó đến đông đảo quần chúng Việt Nam bằng chữ Quốc

ngữ. Vì dù sao người Việt học chữ Quốc ngữ cũng dễ dàng hơn học chữ Pháp.

Trong chương trình giáo dục thời Toàn quyền Merlin, ba lớp đầu bậc tiểu học, học

sinh học bằng chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, sau này khi phong trào truyền bá Quốc

ngữ của những người Việt Nam yêu nước phát triển rầm rộ và ngày một lan rộng thì

Pháp lại lo sợ và cấm đoán. Thực tế này cho thấy, thực dân Pháp phổ biến chữ Quốc

ngữ ở Việt Nam hoàn toàn không vì lợi ích của người Việt Nam mà chủ yếu vì lợi

ích của bọn thực dân.

Ưu tiên cho việc truyền bá tiếng Pháp trong xã hội Việt Nam đặc biệt trong hệ

thống giáo dục. Đây là thứ tiếng chiếm ưu thế trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt

mà thực dân Pháp thiết lập tại Việt Nam và là ngôn ngữ chính ở bậc đại học. Thậm

chí trong hệ thống giáo dục này, môn lịch sử Việt Nam, học sinh người Việt cũng

phải học bằng tiếng Pháp. Trường trung học Pháp -Việt hệ bốn năm, mỗi tuần có

27,5 giờ lên lớp thì 12 giờ dành cho học tiếng Pháp, 8 giờ học toán, lý, hoá…cũng

bằng tiếng Pháp. Chương trình học được “Pháp hoá” tới mức có những lúc, 14/16

môn bậc tiểu học được dạy bằng tiếng Pháp. Suốt những thập niên đầu từ khi thôn

tính được nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, nền giáo dục mang tính chất Pháp mà

thực dân thiết lập ở nước ta chủ yếu là các trường thông ngôn nhằm truyền bá tiếng

Pháp ở xứ thuộc địa. Sau này thời Toàn quyền Varenne, còn có nghị định mở thêm

lớp dự bị chỉ để dạy tiếng Pháp cho học sinh, nâng số năm học ở bậc tiểu học từ 5

năm lên 6 năm. Trong xã hội, những người thường xuyên dùng tiếng Pháp như

ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu thường được trọng dụng và dễ được tiếp nhận vào “làng

Pháp”. Một trong những quy định bắt buộc để người bản xứ có thể nhập quốc tịch

Pháp là “biết tiếng Pháp đến một trình độ khá” [92, tr.86].

Như vậy, với chủ trương loại bỏ dần chữ Hán, phát triển chữ Quốc ngữ ở mức

nhất định phù hợp với lợi ích thực dân, ưu tiên cho việc truyền bá tiếng Pháp trong

đời sống xã hội, thực dân Pháp muốn loại trừ dần ảnh hưởng của văn hoá Trung

Hoa với Việt Nam, làm lu mờ dẫn tới phủ nhận dần văn hoá bản địa truyền thống

Page 113: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

108

Việt Nam, truyền bá ngày càng rộng rãi văn hoá và văn minh Pháp vào nước ta,

hướng người Việt Nam tới văn hoá, văn minh và lối tư duy theo kiểu Pháp.

b. Chính sách giáo dục

Giáo dục là một phương thức quan trọng để Pháp thiết lập cơ sở về văn hoá tư

tưởng cho sự cai trị chính trị của chúng. Thông qua giáo dục chúng truyền bá, áp đặt

văn hoá, tư tưởng thực dân tư sản. Sự áp đặt này được thể hiện qua nhiều nội dung

của chính sách giáo dục như: mục tiêu giáo dục, cấu trúc hệ thống giáo dục, nội

dung chương trình giáo dục, phương thức giáo dục…Ở đây không tập trung phân

tích toàn bộ chính sách giáo dục hay nền giáo dục thực dân mà chỉ quan tâm đến

một khía cạnh nhỏ đó là những nội dung của chính sách giáo dục thực dân mà thông

qua đó, chúng áp đặt văn hoá, tư tưởng cho người Việt Nam.

Sau khi thôn tính nước ta, nền giáo dục Nho học bị loại bỏ dần dần thay thế

bằng nền giáo dục Pháp - Việt. Việc bỏ dần các kỳ thi chữ Hán ở từng kỳ và trên

phạm vi toàn quốc đánh dấu nền giáo dục cửa Khổng sân Trình dần khép lại

nhường chỗ cho một nền giáo dục thực dân. Mục tiêu của nền giáo dục này trước

hết là để đào tạo những người bản xứ ở vị trí những người thừa hành, phục vụ

chính sách cai trị của Pháp ở nước ta chứ không phải tạo ra những người Việt Nam

ở vị trí những chủ nhân của đất nước. Chính vì vậy, trong hệ thống giáo dục, Pháp

chỉ dạy một số môn cần thiết đối với những người ở vị trí thừa hành, tay sai chứ

không dạy những môn để làm Người, làm chủ đất nước.

Một trong những mục tiêu chủ yếu của hệ thống giáo dục này là truyền bá văn

hoá và văn minh Pháp (chỉ những nội dung có lợi cho sự cai trị của Pháp ở nước ta)

và tư tưởng “khai hoá văn minh” để người Việt Nam phải biết ơn công khai hoá đó,

tôn thờ, ngưỡng mộ, sùng bái, trung thành với nước Pháp. Có một lớp người thừa

hành ở các vị trí khác nhau trong hệ thống chính quyền được đào tạo theo chủ đích

của thực dân Pháp, mang trong mình tư tưởng thực dân và lòng trung thành với

nước Pháp là một trong những điều kiện tối quan trọng để bộ máy chính quyền thực

dân có thể được duy trì và thực hiện sự cai trị chính trị. Tuy nhiên, cuối cùng, mục

đích của giáo dục thực dân cũng hướng tới mục tiêu kinh tế.

Page 114: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

109

Trước tiên, giáo dục có kết quả tăng cường dồi dào giá trị sản xuất của thuộc

địa. Ngoài ra, nó phải chọn lọc và đào tạo những tay hợp tác, những công

chức bản xứ, lương trả ít tốn hơn cho ngân sách thuộc địa. Phải huấn luyện

quen việc các “nhà cầm quyền bản xứ” mà các hiệp ước bảo hộ và sự sáng

suốt của một chính sách chính trị sơ đẳng bắt chúng có bổn phận duy trì làm

trung gian giữa chúng ta và dân tộc bản xứ [152, tr.18]

Về mặt cấu trúc, hệ thống giáo dục Pháp - Việt được thực dân Pháp phát triển

theo cấu trúc hình Kim Tự Tháp. Nền giáo dục này gồm hai phần là giáo dục phổ

thông gồm bậc tiểu học, bậc cao đẳng tiểu học, bậc trung học và giáo dục cao đẳng

chuyên nghiệp, đại học. Tuy nhiên, với chủ trương phát triển theo chiều ngang, nền

giáo dục này chủ yếu phát triển bậc tiểu học, chủ yếu dạy cho học sinh biết đọc, biết

viết mà thôi. Kìm hãm giáo dục để thực hiện chính sách ngu dân, giữ khoảng cách

an toàn giữa kẻ cai trị (thực dân Pháp) và người bị cai trị (người dân Việt Nam) là

chủ đích của thực dân Pháp nhằm duy trì sự thống trị chính trị lâu dài trên đất nước

này.

Nội dung chương trình giáo dục tập trung nhiều đến “ơn khai hoá của mẫu

quốc”. Từ đó muốn gây dựng ở người học lòng trung thành với nước Pháp và chế

độ cai trị thuộc địa (đặc biệt qua những môn học như môn “Luân lý” và “Công dân

giáo dục”). Bài diễn thuyết của toàn quyền Varenne ngày 21-12-1925 tại Hội đồng

Chính phủ khẳng định:

… Điều quan trọng là phải dạy trẻ con thế nào cũng phải nói đến nước Pháp,

phải dạy cho nó biết đối với các cường quốc thì địa vị của một nước đã nhận

cái chức trách khai hoá cho dân bản xứ này bước lên con đường văn minh

Tây Âu như thế nào? [179, tr.224]

Nội dung chương trình giáo dục Pháp - Việt mô phỏng chương trình giáo dục

của Pháp nhưng nặng hơn. Phương thức giảng dạy mang tính chất nhồi sọ, nô dịch,

ngu dân, thi cử khó khăn, nhiều điều kiện, thủ tục làm cho người học, đặc biệt

người học ở nông thôn rất khó có thể học lên cao được. Trẻ con vỡ lòng chưa thạo

tiếng mẹ đẻ đã phải học tiếng Pháp (sau này sửa lại ba lớp đầu bậc tiểu học học chữ

Page 115: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

110

Quốc ngữ, hai lớp cuối bậc này học tiếng Pháp), vì thế số người bỏ học nhiều và

tình trạng mù chữ vẫn phổ biến trong dân chúng. Mặt khác sự không tương đương

về bằng cấp (quy định bằng Pháp cao hơn bằng Việt) cũng gây ra nhiều khó khăn

cho những người muốn học cao lên. Đây cũng là chủ đích của thực dân nhằm kìm

kẹp người Việt Nam trong vòng ngu dốt, lạc hậu để dễ bề cai trị. Bằng chính sách

giáo dục “thực dân Pháp giành quyền “đào tạo văn hoá” và sau đó là nghề nghiệp

cho người dân thuộc địa ngay từ thủa ấu thơ” [127, tr.264]

Lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết:

Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và viên chức nhỏ

đủ số cần thiết phục vụ bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục

đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục

như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một

lòng trung thực giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn

mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình

và đang áp bức mình [127, tr.265].

Như vậy, thông qua chính sách giáo dục, Pháp đã cố gắng truyền bá những tư

tưởng thực dân phản động ở nước ta làm cơ sở cho sự cai trị chính trị của chúng.

Chúng tạo ra một lớp người thừa hành bản xứ trung thành với thực dân, đế quốc, có

tâm lý tự ti, vong bản của kẻ bị nô dịch. Chúng cũng cố gắng tạo ra một đám đông

quần chúng dốt nát, tăm tối.

c. Đầu tư vào lĩnh vực văn hoá và quy định về báo chí, xuất bản

Trước hết, có thể thấy, dưới thời thuộc Pháp, sự đầu tư vào lĩnh vực văn hoá

ngày càng tăng. Không chỉ vốn của tư bản tư nhân mà còn cả vốn của tư bản nhà

nước đầu tư vào kinh doanh trong lĩnh vực này. Một số tờ báo, được coi là công cụ

tuyên truyền chủ yếu cho sự cai trị thực dân còn do chính quyền bảo trợ. Số công ty

kinh doanh trên lĩnh vực văn hoá cũng như số vốn đầu tư vào lĩnh vực này ngày

càng tăng. Các lĩnh vực được đầu tư ngày càng rộng mở: xuất bản, in ấn, báo chí,

phim ảnh, sân khấu (tuồng chèo, cải lương, xiếc, ca hát, kịch nói,...). Ngay trong

lĩnh vực xuất bản, số ấn phẩm cũng được gia tăng đáng kể về số lượng và chủng

Page 116: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

111

loại. Ngoài báo chí xuất bản định kì là các loại ấn phẩm khác.

Trong 5 năm 1919-1925 có 26 tờ báo và tạp chí mới ra đời, nhiều hơn tổng

số báo và tạp chí xuất bản trong 54 năm trước (1865-1919)... Mỗi năm có

hàng trăm, thậm chí hàng ngàn loại ấn phẩm ra đời. Các ấn phẩm đó tập

trung nhiều hơn ở Nam Kỳ, nơi việc ấn hành được tự do hơn, rồi Bắc Kỳ, sau

cùng là Trung Kỳ [179, tr.260,261].

Mục đích lớn nhất của chính quyền thực dân khi tạo điều kiện cho các hoạt

động đầu tư này là nhằm tạo ra những công cụ tuyên truyền cho CNTD ăn sâu, bám

rễ vào thuộc địa bên cạnh mục tiêu thứ yếu là thu lợi nhuận từ việc đầu tư, kinh

doanh trong lĩnh vực này.

Cùng với các chính sách trên là chính sách với các ấn phẩm, báo chí mà nổi

bật là chính sách kiểm duyệt gắt gao với các loại ấn phẩm, báo chí xuất bản ở Việt

Nam. Sự phát triển rầm rộ của các hoạt động báo chí, xuất bản ở khắp ba kỳ đã làm

cho thực dân lo ngại. Chúng liên tục ra các sắc lệnh nhằm kiểm soát hoạt động của

lĩnh vực nhạy cảm này như: sắc lệnh 25-5-1881, sắc lệnh 30-12-1898, nghị định 30-

6-1899, sắc lệnh 05-8-1914, sắc lệnh 12-10-1919, nghị định 31-01-1922, sắc lệnh

04-10-1927, nghị định 10-11-1927, nghị định 20-12-1927... Phạm vi kiểm duyệt

cũng ngày càng mở rộng. Nam Kỳ thuộc địa và các nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng,

Đà Nẵng đúng ra phải được hưởng quy chế tự do báo chí của chính quốc như sắc

lệnh năm 1881 nhưng lo sợ sự phát triển của báo chí sẽ là công cụ để dân chúng

thuộc địa chống lại chế độ thực dân nên năm 1899, Pháp đặt cả ba kỳ Việt Nam

trong cùng một chế độ về báo chí. Các cơ quan quản lý báo chí cũng ngày càng

được tăng cường. Mới đầu công việc này chỉ thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng thuộc

địa sau này mở rộng ra cả Cục những vấn đề chính trị bên chính quốc. Nội dung

kiểm duyệt cũng ngày càng chặt chẽ hơn đặc biệt với báo chí đối lập (với CNTD) và

báo xuất bản bằng tiếng Pháp. Các báo muốn tồn tại hoặc phải ca ngợi CNTD, công

ơn khai hoá của nước mẹ đại Pháp, chấp nhận chính sách thuộc địa và chế độ cai trị

của người Pháp, ủng hộ chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề, bôi nhọ CNCS, cách mạng

tháng Mười, chống phá phong trào đấu tranh của nhân dân ta... hoặc bàn đến những

Page 117: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

112

vấn đề ngoài chính trị. Các báo xuất hiện ngoài mong muốn của chính quyền có thể

bị đình bản bất cứ lúc nào và các chủ bút bị thực dân Pháp trừng phạt rất nặng nề

(hoặc phạt tiền hoặc ngồi tù).

Thực dân Pháp còn thiết lập cơ sở tư tưởng, văn hoá cho sự cai trị chính trị bằng

các công cụ phi văn hoá như sử dụng chính sách thuế, áp đặt định mức sử dụng

rượu và thuốc phiện trên đầu người dân nhằm đầu độc nhân dân, làm cho ngu dân

để dễ bề cai trị...

“Bên cạnh không khí tự do đối với các hoạt động văn hoá thân thực dân là một

không khí mất tự do đối với trào lưu văn hoá yêu nước, cách mạng” [179, tr.269].

Chính sách văn hoá của thực dân Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói

riêng có tính chất hai mặt. Một mặt, nó tạo ra các hoạt động văn hoá thực dân đáp

ứng được ở mức độ nhất định mục tiêu tuyên truyền chủ nghĩa, tư tưởng thực dân ở

nước ta. Mặt khác nó tạo ra những hiệu ứng nằm ngoài mong muốn của kẻ đã tạo ra

nó - đó là một trào lưu văn hoá yêu nước, cách mạng, góp phần truyền bá những tư

tưởng tích cực, tiến bộ trong nhân dân, tạo tiền đề cho những bước tiến mới của

phong trào dân tộc ở nước ta.

Nội dung hệ tư tưởng, văn hoá thực dân Pháp cố công thiết lập ở nước ta như

bệ đỡ tinh thần cho sự cai trị chính trị của chúng tập trung cho việc ca ngợi nước

Pháp, công ơn khai hoá của nước mẹ Pháp, sự biết ơn của người Việt với công ơn

khai hoá này, làm cho người Việt hướng tới và ngưỡng mộ văn hoá Pháp và văn

minh phương Tây (ở đây là một thứ văn hoá phản động chứ không phải tư tưởng

dân chủ tư sản tiến bộ của Pháp) hay ít nhất chấp nhận “sự đô hộ của Pháp là một

thực tế mà chúng ta không thể làm gì chống lại nó và chúng ta phải coi nó là một

yếu tố. Hãy chấp nhận nó với tất cả các hậu quả của nó, và hãy tìm cách rút ra từ đó

cái khả năng có lợi nhất” [130, tr.329]... từ đó có tâm lý vong bản, tự ti, coi thường

văn hoá truyền thống của dân tộc, phủ nhận văn hoá, lịch sử dân tộc, tự coi mình

thấp kém. Mặt khác cùng với việc truyền bá tư tưởng thực dân là truyền bá tư tưởng

chống cộng, chống tất cả những gì là văn minh, tiến bộ có nguy cơ tràn đến đất

nước này và đe doạ tới an ninh của chế độ thực dân.

Page 118: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

113

Như vậy, bằng những quy định trong việc sử dụng ngôn ngữ, bằng chính sách

giáo dục, chính sách đầu tư vào lĩnh vực văn hoá và những quy định về báo chí,

xuất bản, thực dân Pháp đã ra sức truyền bá tư tưởng, văn hoá thực dân, phủ nhận

văn hoá, truyền thống bản địa của Việt Nam. Chúng cố gắng tạo ra những con

người (cả người Việt và người Pháp) có “tâm hồn thực dân” làm cơ sở về tư tưởng,

văn hoá cho sự cai trị chính trị của chúng.

2.3.4. Xác lập cơ sở xã hội cho sự cai trị thuộc địa

Thực dân Pháp cai trị thuộc địa Việt Nam thông qua bộ máy chính quyền thuộc

địa. Bộ máy đó gồm hai hệ thống chính quyền đó là: hệ thống chính quyền của

người Pháp ở Việt Nam (hay chính quyền thực dân) và hệ thống chính quyền của

người bản xứ (hay chính quyền phong kiến bản xứ). Để tiến hành việc cai trị, thực

dân Pháp đã tiến hành thiết lập cơ sở xã hội cho cả hai hệ thống chính quyền này.

a. Cơ sở xã hội cho hệ thống chính quyền thực dân

Cơ sở xã hội cho hệ thống chính quyền thực trước hết phải kể đến là một bộ

phận của GCTS Pháp ở Việt Nam. Đây là cơ sở xã hội đặc biệt quan trọng cho sự

cai trị thuộc địa. Đó là lực lượng “có ưu thế tuyệt đối trong xã hội Việt Nam” thời

Pháp thuộc. “Những nhà tư sản đó dày dạn kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, lại

được hỗ trợ bởi một nền tài chính hùng mạnh và được sự ưu tiên, ưu đãi của chính

quyền thực dân nên luôn đứng ở vị trí then chốt trong nền kinh tế” [63, tr.68]. Họ có

vị trí “yết hầu” trong nền kinh tế Đông Dương và chi phối nhiều hoạt động khác

trên đất nước ta. Địa vị kinh tế và chính trị của họ ở Đông Dương nói chung và Việt

Nam nói riêng ngày càng được củng cố do được chính quyền ưu tiên đặc biệt, nhất

là trên lĩnh vực kinh tế. Họ có “quyền được vay vốn ngân hàng, quyền được thầu

các công trình lớn, quyền được miễn giảm thuế” [63, tr.64].

Chính sách nhượng đất, lập đồn điền của thực dân Pháp còn sản sinh ra một lực

lượng địa chủ người nước ngoài ở Việt Nam mà chủ yếu là địa chủ Pháp. Họ là

những người Pháp ở thuộc địa Việt Nam, có trong tay một lượng ruộng đất nhất

định (ít hơn so với tư sản Pháp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp) và sử dụng

nó như công cụ để bóc lột nông dân Việt Nam. Ranh giới giữa địa chủ Pháp và tư

Page 119: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

114

sản Pháp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đôi khi khá mong manh. Lực

lượng địa chủ Pháp cũng là một cơ sở xã hội cho chính quyền của thực dân Pháp ở

nước ta.

Sau nữa, phải kể đến là những người Pháp khác (không kể GCTS Pháp và địa

chủ Pháp đã trình bày ở trên) theo bước chân của kẻ xâm lược sang Đông Dương và

Việt Nam. Họ hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng ở thời kỳ đầu thì

đông nhất là cảnh sát và binh lính, lực lượng đại diện cho đội quân viễn chinh xâm

lược và là công cụ của chính quyền thực dân. Sau khi bình định được đất nước ta

(sau 1874 ở Nam Kỳ và sau 1884 ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ) thì không thể không kể

đến đội ngũ quan lại và công chức người Pháp trong chính quyền thuộc địa ở Việt

Nam. Đây chính là lực lượng đại diện trực tiếp cho giai cấp cầm quyền trong bộ

máy nhà nước của họ. Lực lượng này được đào tạo trong các trường như: Trường

Tập sự sau đổi thành Trường Thông ngôn (thành lập tại Sài Gòn, 1873) và sau nữa

là Trường Thuộc địa (thành lập ở Pari, 1889). Với cách tuyển chọn bài bản và quy

củ, đội ngũ này sau khi tốt nghiệp được trang bị “những kiến thức thực dân” như:

kiến thức về lập pháp ở chính quốc và thuộc địa, kiến thức về tổ chức cai trị ở Đông

Dương (lịch sử xâm chiếm Đông Dương, việc thiết lập Liên bang Đông Dương,

những nguyên lý chung của công cuộc thực dân của nước Pháp...) bên cạnh những

kiến thức chuyên ngành (đã có trước khi được xét dự thi vào các trường đào tạo

này). Và với bước đường “quan lộ” được quy định khá chặt chẽ từ quan cai trị tập

sự lên quan cai trị hạng 5 rồi hạng 4, hạng 3, hạng 2, hạng nhất, lên lãnh đạo cấp xứ

rồi lãnh đạo cấp toàn Liên bang, thực dân Pháp đã tạo ra một đội ngũ quan lại và

công chức cai trị “giàu kinh nghiệm thực dân”. Đây là một cơ sở xã hội vững chắc

cho sự cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương.

Hàng nghìn người Âu này đã được hưởng những sự ưu đãi đặc biệt (về mọi

mặt so với người bản xứ) để trở thành một cơ sở xã hội không thể thiếu của chính

quyền thực dân. Tất cả các công dân Pháp đều được khuyến khích khi có ý định

sang Đông Dương định cư. “Đa số cư dân Pháp tại Đông Dương là các công chức -

có nghĩa là các khách trọ tạm thời tại các thuộc địa, là những kẻ, với chức vụ bảo

Page 120: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

115

đảm, tự nhiên phải ngả về một chính sách thống trị” [197]. Bên cạnh sự hấp dẫn về

chức quyền, họ còn bị thu hút sang Đông Dương bởi số lương bổng lớn hơn nhiều

so với ở chính quốc. Trong bộ máy chính quyền thuộc địa quan chức từ cấp tỉnh trở

lên phần lớn đều do người Pháp nắm giữ. Họ có vị thế, vai trò và tiếng nói đặc biệt

trong chính quyền này. Một số cơ quan chủ chốt của chính quyền thì 100% là người

Pháp. Sử dụng họ như công cụ đắc lực, không thể thiếu của chính quyền nên chính

quyền đã dành cho họ những quy chế ưu tiên, ưu đãi rất lớn. Năm 1913, có khoảng

23.700 người Pháp trên toàn Đông Dương (phần lớn họ sống ở Việt Nam) so với

dân số Việt Nam lúc đó là 14.165.000 người [63, tr.66]. Năm 1937, số người Pháp ở

Việt Nam là 30.000 người trong đó một nửa là những quân nhân… vai trò quan

trọng ở trong tay các công chức người Pháp và các tư nhân hoạt động trong những

lĩnh vực kỹ nghệ, thương mãi và ngân hàng [4, tr.240,241]. Người Pháp ở Việt Nam

phần lớn sinh sống tại các đô thị lớn - nơi có điều kiện tốt về nhiều mặt so với nông

thôn. Họ sống trong những khu riêng - khu người Pháp - phân biệt với những khu

bản xứ: “Pháp kiều sống trong những khu riêng biệt ở các đô thị lập nên một xã hội

đóng chặt, có những thành kiến và những quy định riêng của nó. Họ rất ít tiếp xúc

với dân Việt ngoài những sự tiếp xúc kinh tế hay hành chánh cần thiết”[4, tr.241].

Con cái họ phần lớn theo học những trường dành riêng cho người Pháp, chứ rất ít

học trong những trường Pháp - Việt có cả học sinh người bản xứ. Họ nhìn người

Việt Nam một cách méo mó qua lăng kính những người Việt Nam phục vụ cho họ

(người bồi, người bếp…). Chính vì vậy, những người Pháp này thường coi thường,

khinh bỉ người bản xứ. Nhìn chung, bộ phận Pháp kiều ở Việt Nam dù là nhà tư sản

hay binh lính, cảnh sát, công chức thuộc địa… họ đều được xử sự theo nguyên tắc

phân biệt đối xử so với người bản xứ để thực sự trở thành một cơ sở xã hội cho sự

thống trị chính trị.

Người Pháp, từ viên Tây Đoan cho đến Toàn quyền Đông Dương đều được

ưu đãi và kính trọng đối xử. Tất cả các nhà kinh doanh Pháp đều được quyền

ưu tiên về mọi mặt. Chính quyền thuộc địa luôn khích lệ, tạo điều kiện cho

họ[63, tr.72].

Page 121: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

116

Một bộ phận khác trong hệ thống chính quyền thực dân là cơ sở xã hội không

kém phần quan trọng cho sự cai trị thuộc địa của thực dân Pháp là đội ngũ công

chức, viên chức, binh lính người Việt hưởng lương trong bộ máy hành chính của

Pháp. Lực lượng này năm 1904 ở Bắc Kỳ được thực dân Pháp quy định “nằm trong

diện hàng năm xét tăng phẩm hàm… Từ hàm nhất phẩm đến hàm tam phẩm do

Toàn quyền Đông Dương ban cấp. Từ hàm tứ phẩm trở xuống đến cửu phẩm do

Thống sứ Bắc Kỳ ban cấp” [127, tr.266]. Ở Trung Kỳ muộn hơn, vào năm 1912,

Pháp quy định “việc ban cấp phẩm hàm cho các công chức và binh lính người Việt

làm tại các công sở của Pháp”[127, tr.266] để họ có thể trở thành cơ sở xã hội cho

sự cai trị chính trị của chúng. Lực lượng này chiếm số lượng rất ít ỏi như phòng

thương mại Hà Nội có 10 người thì chỉ có 2 người Việt, 8 người Pháp; sở canh nông

Bắc Kỳ chỉ có 1/5 số người là người Việt… và có vị trí vai trò rất hạn chế trong hệ

thống chính quyền thực dân. Họ có vị trí “đa số là tư vấn, không có quyền quyết

nghị, trong một số cơ quan còn cấm không được đề cập đến các vấn đề chính trị”

[63, tr.63]. Lực lượng này là chiếc cầu nối giữa chính quyền thực dân và người bản

xứ, phần lớn họ là trí thức Tây học thân Pháp, được Pháp tạo ra bằng con đường

giáo dục và cho hưởng những quyền lợi nhất định để phục vụ cho chúng. “Nền giáo

dục mới (nền giáo dục Pháp - Việt) hướng tới một sự đồng hoá tách rời khỏi hoàn

cảnh truyền thống, và chỉ giới hạn cho một thiểu số mà nó muốn làm trở thành

những nhân viên thừa hành” [4, tr.219]. Ngay trong chính sách giáo dục đã hàm ý

rất rõ mục tiêu lựa chọn những công chức tương lai cho nền chính trị thuộc địa: “chỉ

những phần tử thông minh nhất (trong dân bản xứ) mới lên học những lớp cao đẳng

tiểu học trong các trường “franco-annamites”để sau này có thể theo học những

trường trung học mà chương trình giảng huấn hoàn toàn là chương trình Pháp” [4,

tr.216]. Tuy nhiên, họ luôn chịu một chính sách phân biệt đối xử công khai của

chính quyền thuộc địa. Nếu như trong công sở có hai người, một Pháp và một Việt

có bằng cấp tương đương, người Pháp được xếp ở ngạch cao hơn, lương bổng cũng

cao hơn hẳn.

Như vậy, lực lượng tư sản Pháp ở Việt Nam, cảnh sát, binh lính, công chức

Page 122: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

117

người Pháp, đội ngũ công chức, viên chức người Việt hưởng lương trong bộ máy

hành chính của Pháp đều là cơ sở xã hội quan trọng cho chính quyền thực dân. Với

mỗi đối tượng này, thực dân tư sản Pháp đều có chính sách về kinh tế, chính trị phù

hợp để đảm bảo lợi ích nhất định của họ nhằm hướng họ phục vụ một cách tốt nhất

cho sự nghiệp của nước Pháp tại Việt Nam.

b. Cơ sở xã hội cho hệ thống chính quyền phong kiến bản xứ

Trước khi tạo ra những lực lượng xã hội làm cơ sở cho hệ thống chính quyền

phong kiến bản xứ, thực dân Pháp đã thẳng tay loại trừ những lực lượng xã hội mà

theo chúng là rất nguy hiểm cho sự cai trị thuộc địa. Trước hết là với giới sĩ phu

đặc biệt là số quan lại có thái độ chống Pháp. Theo nhận thức của chúng: “Rõ ràng

là vì bọn sĩ phu có quyền hành to lớn... nên chúng ta cần phải loại trừ bọn đó đi.

Chừng nào bọn sĩ phu còn tồn tại, chừng đó chúng ta còn lo” [127, tr.255]. Và âm

mưu đó của Pháp đã được cụ thể hoá trong nhiều văn kiện điển hình như trong điều

14, hiệp ước Hácmăng và điều 7 hiệp ước Patơnốt. Tuy nhiên, thực tiễn đã dạy

chúng rằng: “Kẻ nào nắm được những phần tử có học, sẽ nắm được vương quốc,

bởi vậy phải sử dụng họ chứ không phải là chống lại họ” [127, tr.257, 258]. Với sự

thay đổi trong nhận thức như vậy, thực dân Pháp đã chuyển từ đường lối tiêu diệt

tầng lớp sĩ phu sang đường lối thi hành những chính sách, thủ đoạn nhằm nắm và

sử dụng những người có học phục vụ cho sự cai trị chính trị của chúng.

Trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, chính quyền phong kiến là lực lượng lãnh

đạo dân tộc. Sau khi thôn tính đất nước ta, Pháp duy trì một bộ phận của chính

quyền phong kiến và sử dụng chính quyền này làm công cụ cho sự cai trị thuộc địa.

Với chính quyền địa phương cấp xã, thực dân Pháp duy trì hình thức quản lý

cấp xã đã bị chế độ phong kiến bản địa làm biến chất làm công cụ thống trị chính trị

của chúng ở địa phương. Do đó chúng đặc biệt chú ý tới những con người hoạt động

trong các tổ chức hành chính cấp xã này. Trong bộ máy hành chính cấp xã, thực dân

Pháp đã nhận thức được khá rõ vai trò của lý trưởng hoặc xã trưởng. Nhân vật này

là chiếc cầu nối giữa xã và chính quyền cấp trên. Đó là “chiếc ổ khoá” cần nắm lấy

để có thể thâm nhập vào xã thôn Việt Nam. Do vậy, chính quyền thực dân đã quy

Page 123: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

118

định việc chọn lý trưởng, xã trưởng phải do chúng quyết định. Xã chỉ có quyền lựa

chọn và giới thiệu. Với các nhân vật khác thuộc bộ máy hành chính làng xã, chúng

khống chế, ràng buộc bằng các hình thức khen thưởng và kỷ luật để thực hiện mục

tiêu của chúng. Mặt khác, chúng mở rộng quyền lực của lý trưởng, xã trưởng rất

nhiều so với trong chế độ phong kiến. Lý trưởng, xã trưởng không chỉ có nhiệm vụ

chấp hành những quyết định của Hội đồng Kỳ mục xã như dưới thời phong kiến mà

còn được bàn và quyết nghị việc làng - một điều mà dưới chính quyền phong kiến

không được phép. Với việc “nặn ra” các lý trưởng, xã trưởng theo mong muốn của

thực dân, “chính quyền thực dân không còn dừng lại ở cửa ngõ xã như chính quyền

phong kiến trước đây nữa, mà nó đã thâm nhập sâu vào những hoạt động nội bộ của

xã, thông qua việc nắm bộ phận quyết nghị xã” [127, tr.235]. Như vậy, ở cấp chính

quyền địa phương, lý trưởng, xã trưởng thực sự đã trở thành một cơ sở xã hội đắc

lực cho sự cai trị thực dân.

Thực dân Pháp đã có chính sách riêng với bộ phận quan lại phong kiến trong

chính quyền cấp Tỉnh và cấp Trung ương:

Hệ thống quan lại phong kiến được cải tạo dần dần bằng nhiều biện pháp cho

phù hợp với hoàn cảnh mới. Hệ thống này được thiết lập chủ yếu qua con

đường khoa cử nên để thực hiện mục đích trên, thực dân Pháp thay đổi một

số quy chế nhằm cải tạo dần tầng lớp trí thức cũ: năm 1898 thêm vào chương

trình thi Hương hai môn tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Năm 1897 mở Trường

Hậu bổ ở Hà Nội để đào tạo các trí thức có chút kiến thức Tây học ra làm

quan phục vụ chính quyền thuộc địa [63, tr.61].

Thái độ của thực dân với các quan chức bản xứ được chúng xác định như sau:

“Về phương diện xã hội thì ta tỏ cách tử tế với các quan chức bản xứ, những chức

dịch ta nên tỏ lòng trọng đãi cho xứng đáng” [179, tr.40]

Việc sử dụng đội ngũ quan chức bản xứ này được thực dân Pháp ý thức một

cách rõ ràng và chúng sử dụng lực lượng này một cách đầy mưu mô, xảo quyệt:

Biến đội ngũ các quan chức (quan chức bản xứ) thành một liên minh có ý

thức và có sức mạnh hơn là những tay sai không quyền lực, không sáng kiến,

Page 124: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

119

không ý chí… tức là những người cộng tác thông minh, có ý thức và mạnh,

có giá trị, có quyền lực thực sự, đóng đủ ba vai trò là những người chỉ điểm,

những người cộng tác và người có trách nhiệm [179, tr.44]

Để tạo ra những kẻ cai trị bản xứ, thực dân Pháp dần thiết lập chương trình giáo

dục Pháp - Việt thay thế chương trình giáo dục thời phong kiến. Sau này, vào năm

1917, Trường Hậu bổ được thay bằng Trường Pháp chính đào tạo lớp học sinh tân

học ra làm quan theo ngạch Tây. Đây là một lộ trình đã được tính toán rất chi tiết và

bài bản nhằm mục tiêu giảm dần quyền lực của các thế lực phong kiến cũ và tăng

dần quyền lực của thực dân Pháp và lực lượng “phong kiến mới” ở Việt Nam. Tuy

nhiên, một điều đáng lưu tâm ở đây là không phải toàn bộ lớp học sinh tân học do

Pháp đào tạo đều đi theo Pháp và tạo thành cơ sở xã hội cho sự cai trị của chúng ở

nước ta. Một số đã đi theo cách mạng và chống Pháp quyết liệt bằng chính những

kiến thức đã học được từ trường Pháp.

Bằng chính sách “Cải lương hương chính” chúng đã từng bước “đưa giai cấp

địa chủ mới, sản phẩm của chế độ giáo dục thực dân lên thay thế lớp địa chủ cũ chịu

ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo” [62, tr.65]. Biện pháp này cũng làm cho mối

quan hệ giữa thực dân Pháp và đội ngũ quan lại bản xứ (tay sai của Pháp) ngày càng

gắn bó chặt chẽ.

Như vậy là tập đoàn thống trị thực dân Pháp đã chuẩn bị khá tinh vi và khá

chu đáo để đưa toàn bộ lớp tri thức tân học... mà kiến thức do thực dân Pháp

nhồi nhét, phẩm hàm do thực dân Pháp ban cấp, chức vụ do thực dân Pháp

bổ nhiệm về chế ngự nông thôn là cấp chính quyền thấp nhất trong hệ thống

chính quyền thuộc địa của chúng [127, tr.267]

Một bộ phận tối quan trọng khác tạo cơ sở xã hội vững chắc cho sự cai trị thực

dân là lực lượng địa chủ phong kiến. Trong chế độ thuộc địa, giai cấp địa chủ gia tăng

về số lượng so với thời phong kiến. Dưới sự dung dưỡng của thực dân Pháp, thế lực

kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp địa chủ phong kiến không những không bị suy

giảm mà còn được củng cố và phát triển. “Bên cạnh các địa chủ “nhà quê” là các địa

chủ người nước ngoài và các địa chủ người Việt khác, được sinh ra trong cơ chế

Page 125: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

120

“nhượng đất, lập đồn điền”” [179, tr.587]. Thông qua nhiều chính sách của thực dân

Pháp, điển hình là chính sách điền địa, sự tích tụ và tập trung ruộng đất vào tay lực

lượng này ngày càng cao. “Sự tập trung đất đai trong tay một số điền chủ là một sự

kiện ngày một phát triển dưới thời Pháp thuộc… Chính sách điền thổ của chính

quyền thuộc địa đã tạo thuận lợi cho sự thành lập các đại địa sản” [4, tr.225,226]. Đó

là chính sách bán những lô đất rộng mới được khai khẩn với giá rẻ làm cho những

tiểu nông không có tư bản không thể trở thành chủ sở hữu của những lô đất này. Việc

mua bán mà một bên là chính quyền cũng loại bỏ những người không am hiểu thủ tục

hành chính có thể sở hữu được những lô đất đó thay vào là những người Việt làm

trong bộ máy chính quyền thực dân Pháp vì thông thạo thủ tục và đầy đủ thông tin đã

mua được với giá hời. Chính sách của thực dân Pháp dẫn tới sự bần cùng hoá nông

dân, làm cho nông dân lâm vào cảnh nợ nần mà kết quả là: “Tình trạng mắc nợ của

nông dân đưa đến sự cầm cố hay bán đợ đất đai, khiến đất cày ngày một tập trung

trong tay các phú nông và các chủ đất cũ” [4, tr225].

Sự phân hoá trong giai cấp địa chủ phong kiến thành địa chủ nhỏ, địa chủ vừa

và địa chủ lớn ngày càng rõ rệt. Đã xuất hiện những đại địa chủ, nhất là ở Nam Kỳ.

Họ lập nên một tầng lớp thượng lưu. Thế lực kinh tế của giai cấp này được đo bằng

số ruộng đất tập trung trong tay họ. Việc sở hữu diện tích canh tác lớn là công cụ để

giai cấp địa chủ, phong kiến duy trì sự bóc lột đối với nông dân, đảm bảo sự tồn tại

của một trật tự xã hội phù hợp với lợi ích của bọn thực dân, phong kiến. Mặt khác,

bộ phận này thông qua các chính sách của chính quyền thực dân, thường được đưa

vào bộ máy chính quyền cơ sở (hai trong một, vừa là địa chủ, vừa là quan cai trị)

nên cùng với quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị của địa chủ, phong kiến Việt

Nam ngày càng được củng cố. Giai cấp địa chủ chiếm đa số trong cơ cấu chính

quyền các hương thôn như trong Hội đồng Kỳ mục, Hội đồng Tộc biểu,… Thực dân

Pháp còn tạo điều kiện cho lực lượng này tham gia vào các tổ chức chính quyền

bên trên như các Hội đồng Dân biểu, Hội đồng Quản hạt… Một bộ phận trong lực

lượng xã hội này sống tại các đô thị lớn theo nếp sống mới của Phương Tây, con cái

họ đa phần được gửi đi du học tại châu Âu làm cho mối quan hệ và sự phụ thuộc

Page 126: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

121

của họ với thực dân ngày càng lớn. Được thực dân đảm bảo cả về quyền lực kinh tế

và quyền lực chính trị, sự trung thành và mối quan hệ gắn bó giữa địa chủ phong

kiến Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng bền chặt.

Một bộ phận người Việt khác mà Pháp cũng rất chú ý trong chính sách với họ là

tư sản mại bản. Họ là những người đứng ra bao thầu các bộ phận kinh doanh của

Pháp như thầu làm cầu đường, đồn bốt… hay làm đại lý phân phối hàng hoá của

chúng trong nhân dân. Khi hàng hoá Pháp nhập vào Việt Nam tăng mạnh sau chiến

tranh thế giới 1914-1918 thì số người làm đại lý phân phối hàng hoá Pháp cũng tăng

lên nhanh chóng. Có người còn góp cổ phần với Pháp. Bộ phận tư sản mại bản ngày

càng đông đảo lên với sự đầu tư của tư bản Pháp. Một số đã có trong tay những sản

nghiệp lớn. Quyền lợi của lực lượng này gắn chặt với thực dân. Lực lượng này

thường chấp nhận các tập tục và lối sống Tây phương và thường gửi con em đi du

học ở Pháp. Mặc dù, GCTS Việt Nam, gồm tư sản mại bản và tư sản dân tộc, bị

thực dân Pháp chèn ép và cản trở từ nhiều phía, hạn chế sự phát triển và thường ở

một trạng thái thấp kém về chính trị. Họ không đủ sức mạnh kinh tế để thể hiện các

tham vọng chính trị của họ. Tuy nhiên, lực lượng tư sản mại bản này vì có quyền lợi

gắn bó với thực dân Pháp, sự tồn tại của họ có lợi cho sự cai trị thuộc địa nên lực

lượng này nhìn chung được thực dân khá ưu ái về mặt kinh tế so với tư sản dân tộc.

Một bộ phận địa chủ phong kiến (đặc biệt đại địa chủ) cùng với một số lực

lượng xã hội khác thuộc tầng lớp tư sản mại bản (như các thương gia và các doanh

gia), những viên chức người Việt trong bộ máy hành chính của Pháp … mà lợi ích

của họ gắn chặt với CNTD tập hợp thành tầng lớp thượng lưu bản xứ. Lực lượng

này là bộ phận xã hội không thể thiếu cho sự cai trị thuộc địa và là đối tượng chính

trong chính sách “Bản xứ” của thực dân Pháp ở Việt Nam. “Cái cốt lõi của chính

sách này là tạo ra và dựa vào một tầng lớp “thượng lưu”, “ưu tú” để lôi kéo các tầng

lớp xã hội khác trong công cuộc khai thác về kinh tế và “chinh phục trái tim, khối

óc” dân thuộc địa” [179, tr.35]. Nếu chính sách này được thực hiện thành công,

người bản xứ (mà chủ yếu là tầng lớp thượng lưu bản xứ) sẽ trở thành công cụ đắc

lực để Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, từ đó giải toả những khó khăn trong

Page 127: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

122

nước Pháp và giúp Pháp bành trướng thế lực ra bên ngoài, khẳng định vị thế của

mình trên trường quốc tế. Như vậy, chính sách này không chỉ giúp Pháp thực hiện

thành công sự cai trị chính trị tại thuộc địa Việt Nam mà sâu xa hơn còn giúp Pháp

khẳng định vị thế quốc tế của mình. Đầu tư cho tầng lớp này thực dân Pháp có mục

đích là để tạo ra “những cộng tác viên trung thực và trung thành” cho chế độ thuộc

địa, để họ “duy trì cái trật tự”, kỷ cương trong nước (vì muốn khai thác thuộc địa

phải có một sự yên ổn về chính trị). Và, “những người tài giỏi có thể cùng chúng tôi

(thực dân Pháp) ra cáng đáng cái trách nhiệm nặng nề trong việc cai trị xứ này”

[179, tr.36]. Họ chính là cơ sở xã hội tối quan trọng của chế độ thuộc địa của Pháp

tại Việt Nam. Biện pháp để tạo ra lực lượng thượng lưu bản xứ như mong muốn của

nhà cầm quyền Pháp rất đa dạng. Có thể thông qua giáo dục “phải dạy cho bọn

thượng lưu ngày càng có học…biết cái danh nghĩa làm dân, vừa có quyền lợi, vừa

có nghĩa vụ”, có thể bằng biện pháp kinh tế “ban cho (bọn thượng lưu bản xứ)

những quyền lợi tương đương cho xứng đáng”, bằng thái độ ứng xử “tỏ ra tử tế”,

“tỏ lòng trọng đãi” và bằng tổng hợp nhiều phương pháp: “phải để cho bọn thượng

lưu trí thức được có địa vị cao trọng và xứng đáng, giống như người Hà Lan đã làm

được ở Ja va” [179, tr.43]. Nhà cầm quyền phải có biện pháp làm cho bọn thượng

lưu bản xứ ngày càng đông thêm lên, “phải tìm đường mở rộng lần lần cái bọn

thượng lưu ấy ra”. “Chính sách bản xứ” được thực dân nhìn nhận là “cái gốc của sự

yên ổn”. Chính sách này có quá nhiều “ưu việt”. Thứ nhất, về mặt chính trị, nó mị

dân, tạo ra “cảm giác giả tạo về sự độc lập, tự chủ” khi người bản xứ điều hành

người bản xứ, tránh cho thực dân phải xuất đầu lộ diện trực tiếp, đảm bảo “uy tín

của chế độ cai trị” và làm cho người bản xứ không bị mặc cảm vì bị áp bức bởi

người ngoại quốc. Thứ hai, về kinh tế, nó tiết kiệm cho ngân quỹ rất nhiều vì lương

của một viên chức bản xứ thấp hơn nhiều so với lương của một viên chức người Âu

(thấp hơn khoảng 10 lần).

Như vậy, bằng các chính sách khác nhau, thực dân Pháp đã cố gắng loại trừ,

tiêu diệt những lực lượng xã hội mà sự tồn tại của họ đe doạ tới sự sống còn của

chính quyền thuộc địa mà trước hết và quan trọng nhất là tầng lớp sĩ phu. Tiếp đó,

Page 128: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

123

bằng nhiều cách khác nhau, chúng tạo ra và củng cố địa vị cho những lực lượng xã

hội cả người Pháp cũng như người Việt, có lợi ích gắn bó chặt chẽ với thực dân. Họ

là: tư sản Pháp, cảnh sát, binh lính, công chức người Pháp, công chức người Việt

trong bộ máy hành chính của Pháp, quan chức và công chức trong chính quyền

phong kiến cũ, địa chủ Việt Nam bán nước (phần lớn là đại địa chủ), tư sản mại

bản. Trong đó bộ phận người Việt có lợi ích gắn chặt với lợi ích thực dân, phụ

thuộc hữu cơ vào lợi ích thực dân được gọi là tầng lớp thượng lưu bản xứ, được

Pháp đối xử bằng “chính sách bản xứ”. Tất cả những lực lượng kể trên đều được

thực dân ưu ái ở các mức độ khác nhau tuỳ theo lợi ích mà họ có thể đem lại cho

bọn thực dân và cho chế độ cai trị của chúng.

Kẻ cai trị tất yếu phải có người bị cai trị. Và những người bị cai trị cũng là một

cơ sở xã hội quan trọng của sự cai trị thuộc địa. Họ là khối quần chúng đông đảo

(phần lớn là nông dân, công nhân) bị bần cùng hoá đến độ dường như tê liệt khả

năng chống đỡ và tồn tại không như những con người nữa: “bị bịt mồm và bị giam

hãm, bị làm cái đồ để tế ông thần tư bản, người ta tin rằng bầy người đó không sống

nữa, không biết suy nghĩ nữa và hoàn toàn vô dụng trong việc cải tạo xã hội”

(Nguyễn Ái Quốc). Trong quá trình cai trị Việt Nam gần trăm năm, thực dân Pháp

gần như không đoái hoài gì đến nhu cầu, lợi ích và khát vọng của lực lượng xã hội

này. Tất cả những gì chúng làm chỉ càng làm cho mâu thuẫn giữa những người bị

cai trị với kẻ thống trị ngày càng sâu sắc và chúng đã phải trả giá đắt cho điều đó.

Từ các cơ sở của chính trị thực dân - phong kiến mà Pháp thiết lập ở nước

ta, có thể có một vài nhận xét như sau:

Những cơ sở về mọi mặt cho sự cai trị thuộc địa mà thực dân Pháp thiết lập ở

nước ta nhằm tối đa hoá lợi ích thực dân đã tạo ra một diện mạo mới của dân tộc

Việt Nam trên nhiều phương diện. Nằm ngoài chủ đích thực dân, những tiền đề cho

sự ra đời một xã hội mới tiến bộ hơn đã manh nha hình thành từ chính những cơ

sở do chúng thiết lập. Và bên cạnh những tác động tiêu cực, những cơ sở được tạo

ra đó cũng chứa đựng ít nhiều những nhân tố tích cực với sự phát triển của xã hội

đúng như Mác đã chỉ ra tính hai mặt của CNTD: Mặt phá hoại và mặt xây dựng.

Page 129: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

124

Một mặt, nó tiêu diệt xã hội cũ của châu Á, mặt khác, nó xây dựng những cơ sở vật

chất của xã hội phương Tây ở châu Á [89,tr.285]. Hay nói như David Pickus, đó là

một “sự tàn phá mang tính sáng tạo”. Ông khẳng định: “sự đứt gãy của hệ thống xã

hội phương Đông bởi bàn tay của tư bản châu Âu là một điều gì đó khiến cho lịch

sử tiến về phía trước và dịch chuyển đi lên” [195].

Trên nền tảng một phương thức sản xuất có tính chất TBCN cao hơn hẳn

phương thức sản xuất phong kiến đang tồn tại ở Việt Nam trước khi nước ta bị xâm

lược dần được định hình, thực dân Pháp đã dần thiết lập một quan hệ sản xuất mới

và tương ứng với nó là các nhân tố mới trong kiến trúc thượng tầng và đời sống xã

hội. Về mặt kỹ thuật, có thể khẳng định, những yếu tố nhất định của văn minh

phương Tây đã hiện diện ở nước ta dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Giáo sư Trần

Văn Giàu cho rằng: “Pháp đã lần lần tạo ra được một số cơ sở vật chất, cơ sở kĩ

thuật (bến tàu, cầu đường, dây thép, nhà máy, xưởng sửa chữa…) cho một cuộc đầu

tư quy mô lớn. Hệ thống đường bộ, đường sắt xuyên Đông Dương, kênh đào được

hoạch định, khởi công và hoàn thành từng bộ phận trong thời gian lịch sử từ cuối

thế kỉ XIX đến trước Chiến tranh thế giới. Phần nhiều các xí nghiệp, nhà máy, công

ty thương mại, ngân hàng quan trọng nhất Đông Dương cũng đều được dựng lên

trong thời gian này... Điều mới mẻ là sự xuất hiện các thành thị…” [38,

tr.15,18].Trong cuốn “Lịch sử Đông Nam Á”, các tác giả cũng khẳng định: “Về

khía cạnh kinh tế, CNTD có đầu tư và khai thác. Sự đầu tư đó (cả về cơ sở vật chất

như cơ sở hạ tầng, hay đặt nền móng cho các quốc gia này bước vào xã hội công

nghiệp, hoà nhập với thị trường thế giới; hoặc trong lĩnh vực nghiên cứu khu vực

nhiệt đới như nghiên cứu nông nghiệp nhiệt đới…) tạo cơ sở để sau này Đông Nam

Á có bước đệm phát triển” [114, tr.248]. Các thế lực đế quốc đã cung cấp cho các

nước Đông Nam Á một khối lượng vốn và kĩ năng công nghệ, đặc biệt những yếu tố

kinh tế TBCN xuất hiện. Đây là điều kiện tốt cho nền kinh tế Đông Nam Á tiếp tục

phát triển trong các giai đoạn độc lập sau đó. PGS Nguyễn Văn Hồng đánh giá về

chế độ thực dân một cách khái quát trên cả hai mặt như sau: “Hàng trăm năm dưới

ách thống trị thực dân, dù bị phá hủy, cả cái có giá và cả trở lực “sức ì của truyền

Page 130: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

125

thống” (retarding forces) ngay cả nếp sống dù thói quen, tập quán nhưng phản khoa

học của các dân tộc lạc hậu, thì bản thân sự “phá hoại xã hội châu Á” cũng không

phải hoàn toàn là không có mặt tích cực, tạo mặt bằng cho công cuộc xây dựng xã

hội mới. CNTB thực dân tuy có mặt kìm hãm, phá hủy song ta phải thấy mặt nó đã

kích thích, vun trồng một xã hội mới, nhập kỹ thuật sản xuất kinh doanh, đầu tư

nâng cao sản xuất xã hội và cả tư tưởng tự do dân chủ được truyền bá”[56, tr.88,89].

Hay như nhà nghiên cứu Lê Doãn Tá nhận định: “CNTB đế quốc ... phá vỡ hàng

rào ngăn cách giữa các dân tộc. Sự quốc tế hoá đời sống kinh tế chung gắn với sự

xuất khẩu tư bản, khai thác các thuộc địa. Tất nhiên gắn với nó đã từng là sự nô

dịch, bạo lực, bóc lột nhân lực, vật lực, tài lực các thuộc địa mà các dân tộc phải

đứng lên chống lại CNĐQ thực dân. Song về mặt khách quan mà nói, dù chỉ giới

hạn trong sự quốc tế hoá đời sống kinh tế theo chiều dọc của hệ thống thuộc địa của

một nước đế quốc nhất định, sự quốc tế hoá đời sống kinh tế ấy cũng đã tạo ra tiền

đề kinh tế cho sự phát triển, kể cả tạo ra giai cấp vô sản bản xứ ở các thuộc địa,

tạo tiền đề vật chất, tiền đề kinh tế cho sự thống nhất và hoà nhập quốc tế về sau

này” [207]

Những cơ sở về nhiều mặt cho sự cai trị thuộc địa mà Pháp tạo ra ở nước ta

nhằm mục tiêu nô dịch người dân thuộc địa, phục vụ cho CNTD. Nhưng nếu như

chúng ta giành được độc lập, thoát khỏi sự nô dịch của CNTD, chúng ta sẽ có cơ

hội được sử dụng các “thành quả” này cho sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập

quốc tế.

Triết lý phát triển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn khẳng định rằng: trên nền tảng

sự phát triển của phương thức sản xuất, kiến trúc thượng tầng của một xã hội, vấn

đề là con người với tư cách con người cá nhân cũng như con người cộng đồng phải

được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, được tạo điều kiện để có thể phát

triển mọi năng lực trong tự do và sáng tạo. CNTD, chính trị thực dân - phong kiến

đã tạo nên những sự thay đổi đáng kể trong lực lượng sản xuất ở các thuộc địa theo

hướng phát triển đồng thời với những giá trị nhất định trong các mặt, các yếu tố của

đời sống xã hội nhưng trên cơ sở nô dịch con người (nhân dân thuộc địa), biến con

Page 131: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

126

người thành súc vật, thành “bầy người”. Xét ở yếu tố phát triển con người thì chính

trị thực dân - phong kiến là một nền chính trị cực kỳ phản động và phi nhân tính. Và

sự biến đổi từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến là một bước

lùi về mặt phẩm giá con người.

Tuy nhiên, cũng phải thấy mặt thứ hai của sự tàn bạo, phi nhân tính này. Chính

sự cai trị phản động, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân trong một đất nước với nền văn

hoá, truyền thống lâu đời như Việt Nam lại tạo thành sức mạnh khổng lồ của sự

phản kháng và thủ tiêu chính chế độ thực dân này hướng tới một chế độ đối lập

với chế độ thuộc địa. Như vậy, sự cai trị này gián tiếp lại trở thành động lực cho sự

phát triển dân tộc: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một

cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”

[91, tr.28]. Đây chính là một yếu tố quan trọng được tạo ra từ sự cai trị thực dân đặt

tiền đề cho sự phủ nhận chính chế độ chính trị đó.

Bước chuyển từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến ở

nước ta là một thực tế lịch sử. Bước chuyển đó đã tác động tới sự vận động của dân

tộc Việt Nam ở nhiều chiều cạnh. Những yếu tố nó tạo ra như là tiền đề cho một sự

vận động tiếp theo của xã hội Việt Nam khẳng định một chân lý: mọi sự phát triển

của phương Đông do phương Tây đem lại đều được đổi bằng máu, bùn và sự tủi

nhục. Đó là cái giá phải trả cho một sự phát triển không xuất phát từ cái đầu của

chính bản thân mình khi mình đã bị tước mất quyền lực. Đúng là, nếu chúng ta

không định được tương lai của bản thân, chúng ta có nguy cơ trở thành một bộ phận

trong tương lai của kẻ khác. Điều đó hiện diện thật rõ nét trong lịch sử Việt Nam

thời cận, hiện đại.

Page 132: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

127

Tiểu kết chương 2

Sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX do

nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó không thể không đề cập đến là sự yếu kém

của nền chính trị phong kiến nhà Nguyễn như là sản phẩm phản ánh trạng thái lạc

hậu, yếu kém của nền chính trị phong kiến nhà Nguyễn, cùng tầm nhìn hạn hẹp của

những người lãnh đạo đất nước, đặc biệt dưới thời Tự Đức. Chính sự yếu kém của

nền chính trị phong kiến đã làm cho đất nước suy yếu về nhiều mặt do đó không đủ

sức kháng cự trước sự tấn công từ bên ngoài. Mặt khác, sự yếu kém về chính trị

cũng cản trở việc tạo ra những tiền đề cho một phong trào canh tân đất nước - lối

thoát hữu hiệu khỏi sự thôn tính của phương Tây. Việc Pháp xâm lược Việt Nam là

dấu mốc quan trọng đánh dấu sự biến đổi chính trị trên đất nước ta từ chính trị

phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến thuộc phạm trù chính trị tư sản.

Quyền lực nhà nước từ tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam mà vua quan

nhà Nguyễn là lực lượng đại diện đã dần chuyển sang tay GCTS Pháp mà thực dân

Pháp ở nước ta là lực lượng đại diện. Đặc biệt khi Liên bang Đông Dương được

thành lập trong đó có ba kỳ của Việt Nam, cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước ở

Việt Nam lúc này nằm trong cơ cấu quyền lực của nhà nước Pháp với nền Cộng hoà

thứ ba, bị chi phối bởi khung chế định của Hiến pháp nền Cộng hoà thứ ba (1875).

Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, khi hình thái kinh tế - xã hội có tính chất

TBCN được thiết lập ở nước ta thì có thể khẳng định, về cơ bản kiểu nhà nước ở

Việt Nam đã thay đổi từ kiểu nhà nước phong kiến sang kiểu nhà nước có tính chất

tư sản. Một nhà nước quân chủ chuyên chế phong kiến tập quyền đã chuyển dần

sang nhà nước “lưỡng thể về chính trị” trong đó nhà nước thực dân tư sản có quyền

hành thực sự, còn nhà nước phong kiến bản xứ ở vị trí tay sai, bù nhìn. Dù tổ chức

cai trị trên các vùng lãnh thổ khác nhau của Việt Nam tuân theo những quy chế

chính trị và quy chế pháp lý khác nhau song về bản chất, cả ba kỳ ở Việt Nam đều

là thuộc địa của Pháp, nằm trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa. Tuy không du

nhập hoàn toàn vào thuộc địa Nam Kỳ những thể chế cơ bản của nền dân chủ tư

Page 133: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

128

sản, song trên vùng đất này, cách tổ chức và quản lý xã hội theo trật tự phong

kiến đã bị thay thế bởi một cách tổ chức và quản lý xã hội hoàn toàn mới mẻ theo

phương thức của nền dân chủ tư sản phương Tây. Còn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ

thay vì một chính quyền phong kiến duy nhất như trước đây, có hai hệ thống

chính quyền cùng tồn tại, đó là chính quyền thực dân tư sản và chính quyền

phong kiến bản xứ tồn tại trong quan hệ phụ thuộc vào chính quyền thực dân tư

sản.

Một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam giờ bị chia thành ba xứ như ba

quốc gia nằm trong “Liên bang Đông Dương” thuộc Pháp. Sự thiết lập và vận hành

của một nền chính trị ở Việt Nam mà lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước là

GCTS Pháp, hướng tới phục vụ quyền lợi của GCTS Pháp đã làm thay đổi về mọi

mặt diện mạo xã hội Việt Nam. Với công cụ chủ yếu là bộ máy chính quyền, thực

dân Pháp đã thiết lập các cơ sở về mọi mặt từ các công cụ bạo lực, đến các cơ sở

kinh tế, văn hoá, tư tưởng, xã hội… cho sự tồn tại của nền chính trị ấy. Và đến lượt

nó, chính những cơ sở được Pháp tạo ra nhằm củng cố cho sự tồn tại của một chế độ

chính trị do chúng nắm giữ quyền lực lại trở thành những yếu tố mang tính tiền đề

cho sự ra đời của một nền chính trị mới tiến bộ hơn thay thế nó. Đó chính là biện

chứng của sự vận động, phát triển nói chung trong đó có sự vận động về chính trị

mà biến đổi chính trị là một hình thức vận động cụ thể.

Page 134: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

129

Chương 3

SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ TỪ CHÍNH TRỊ THỰC DÂN PHONG

KIẾN SANG CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ NHÂN DÂN

3.1. Quá trình lựa chọn kiểu nhà nước cho bài toán độc lập ở Việt Nam từ nửa

sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX

3.1.1. Khuynh hướng tái lập kiểu nhà nước phong kiến cuối thế kỷ XIX

Một kiểu nhà nước bao giờ cũng được biểu hiện cụ thể trong một hình thức nhà

nước nhất định. Khuynh hướng chính trị này tái lập kiểu nhà nước phong kiến dưới

hình thức nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Tiêu biểu cho

khuynh hướng chính trị này không thể không kể đến vua Hàm Nghi và tướng Tôn

Thất Thuyết. Là những người đứng đầu phe chủ chiến trong triều đình, trong dụ

Cần Vương Hàm Nghi ngày 06-6-1888 viết: “Trẫm vâng noi đại thống, nối tiếp cơ

đồ lớn lao, nhưng vận nước gian truân, bọn giặc thôn tính, thế thậm lan dần, không

thể tạm yên. Vì thế đã mật triệu các bề tôi vào viện Cơ Mật uống máu ăn thề, hẹn

trước hết đánh phá tại kinh thành, sau đó đuổi dài vào Gia Định” [201]. “Noi đại

thống, nối tiếp cơ đồ lớn lao” ở đây chính là tiếp tục chế độ quân chủ cha truyền con

nối hàng nghìn năm ở Việt Nam. Kêu gọi nhân dân phò vua cứu nước, sau khi giành

độc lập lại tiếp tục xây dựng chế độ phong kiến ở nước ta chính là con đường của

các lãnh tụ Cần Vương. Với tôn chỉ này, “ái quốc” đã có thể gắn với “trung quân”.

Tư tưởng chính trị đã trở thành nền tảng cho chế độ phong kiến Việt Nam suốt

chiều dài lịch sử được khơi dậy trong bối cảnh đất nước nguy nan đã trở thành động

lực thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp phát triển.

Là một người đứng đầu triều đình phong kiến nhà Nguyễn, trong một nền quân

chủ đã có bề dày hàng nghìn năm ở nước ta, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho

giáo, việc hướng đất nước theo mô hình phong kiến sau ngày độc lập của những

lãnh tụ Cần Vương là điều dễ hiểu. Những lãnh tụ yêu nước này chưa vượt ra khỏi

nguồn gốc xuất thân của mình để hướng tới một chân trời mới, mở ra một hướng đi

mới cho dân tộc. Nền quân chủ đã toả sáng trong nhiều triều đại phong kiến Việt

Page 135: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

130

Nam, làm rạng danh cho dân tộc trong các triều đại phong kiến lớn như Lý, Trần,

Lê… đã không còn đủ sức cứu dân tộc Việt Nam trong bối cảnh lịch sử này. Khi mà

nhiều người đứng đầu triều đình đã phản bội lại lợi ích dân tộc, xã hội phong kiến

không còn là một xu thế phát triển hợp quy luật, ở Việt Nam nó đã đến độ suy tàn,

cuộc sống của nhân dân đói khổ, các cuộc đấu tranh của nông dân chống triều đình

đã diễn ra ở khắp đất nước trong nhiều năm thì ngọn cờ quân chủ dù có làm dấy lên

những cuộc khởi nghĩa chống Pháp oanh liệt nhưng cũng không đủ sức làm thay đổi

thân phận nô lệ của dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Điều mà các lãnh tụ

Cần Vương đầy nhiệt huyết còn thiếu là tầm nhìn thời đại để nhìn thấy xu thế phát

triển tất yếu của xã hội. Và số phận bi thương của họ là kết cục tất yếu của những

con đường như vậy. Một Hàm Nghi bị tù đày, sống lưu vong nơi đất khách quê

người: “Những người giúp việc bị chặt đầu và nhà vua bị đưa đi đày ở đảo

Rêuyniông ở Châu Phi” [93, tr.33]. Một Đả Thạch Ông - Tôn Thất Thuyết thác nơi

xứ người.

Mặt khác, có thể thấy một trong những nguyên nhân thất bại của Cần Vương -

phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến điển hình ở Việt Nam

- là do vấn đề lực lượng. Phong trào Cần Vương dù cũng đã dấy lên nhiều cuộc khởi

nghĩa chống Pháp oanh liệt khắp ba miền song không thực sự thu hút được đông

đảo lực lượng nhân dân hưởng ứng và đi theo, đặc biệt các nhà Nho, lực lượng tinh

hoa trí tuệ trong xã hội phong kiến. Trước thực tế một số ông vua triều Nguyễn cam

tâm bán nước, phản bội lại lợi ích dân tộc, một câu hỏi lẩn quất trong đầu họ: Khi

vua không trung với nước nữa thì bề tôi có nhất thiết phải trung với vua nữa hay

không. Và trong khi nhiều nhà Nho vẫn giữ tư tưởng trung quân song “có một số

người thấy được rằng: có một cái phân biệt với vua, cao hơn vua, ấy là đất nước;

khi có mâu thuẫn giữa trung vua với yêu nước thì người dân phải đặt nước lên trên

vua” [37, tr234]. Với nhận thức này “ái quốc” đã có sự độc lập nhất định với

“trung quân” chứ không gắn hữu cơ với “trung quân” như trước nữa. Cũng chính vì

vậy, ngọn cờ “ái quốc - trung quân” không thực sự có sức hấp dẫn và lôi cuốn đông

đảo nhân dân hưởng ứng. Thực tế này dẫn tới sự hạn chế về lực lượng trong con

Page 136: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

131

đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến.

Có thể thấy, trên nền một phương thức sản xuất TBCN phát triển cao hơn hẳn

phương thức sản xuất phong kiến, các nhà nước tư sản đã xuất hiện ở phương Tây

và ngày càng tỏ rõ ưu thế của mình với sự phát triển kinh tế xã hội thì việc tái lập

một mô hình nhà nước nằm trong kiểu nhà nước phong kiến ở Việt Nam lúc đó

hoàn toàn không phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Và sự thất bại

của một con đường cứu nước gắn với kiểu nhà nước phong kiến là hoàn toàn có thể

lý giải được.

Dù thất bại, song khuynh hướng tái lập kiểu nhà nước phong kiến vẫn âm ỉ

cháy. Đó vẫn là khao khát và mục đích hướng tới của nhiều người thuộc dòng dõi

hoàng tộc đặc biệt là các vị vua nhà Nguyễn. Khuynh hướng này kéo dài đến tận

mùa thu năm 1945 khi vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, nộp ấn kiếm cho đại diện nhà

nước Việt Nam mới. Đó là lời tuyên bố chính thức chấm dứt sự tồn tại trên thực tế

của chế độ phong kiến ở Việt Nam. Tuy nhiên, không phải vậy mà tư tưởng quân

chủ của những người bảo hoàng đã hết. Nó còn tồn tại dai dẳng mãi tới sau này.

3.1.2. Khuynh hướng xác lập kiểu nhà nước tư sản đầu thế kỷ XX

a. Dưới hình thức quân chủ lập hiến

Tiêu biểu cho khuynh hướng chính trị này là sự nghiệp chính trị của lãnh tụ

Phan Bội Châu. Ông xuất thân từ một nhà Nho yêu nước. Trong giai đoạn đầu của

sự nghiệp chính trị của mình, khi xông pha tìm con đường cứu dân, cứu nước Phan

Bội Châu cũng thể hiện rõ khuynh hướng quân chủ trong tư tưởng và nhận thức của

mình. Ngưỡng mộ mô hình chính trị của Nhật Bản, ông hướng tới một chế độ quân

chủ lập hiến theo kiểu Nhật chứ không phải quân chủ chuyên chế như mô hình đã

tồn tại bấy lâu trong lịch sử dân tộc.

“Kìa xem Nhật Bản người ta

Vua dân như thể một nhà kính yêu

Chữ bình đẳng đặt đầu chính phủ ” [154, tr.192]

Phan Bội Châu miêu tả nước Việt Nam dưới chế độ chuyên chế phong kiến thật

thiểu não, ảm đạm, thiếu sức sống: “nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ, uể oải

Page 137: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

132

một thân bệnh, tôn quân quyền, ức dân quyền, trọng hư văn, khinh võ sĩ… Than ôi,

nguy ngập lắm thay” [17, tr.434, 435].

Ông lên tiếng phê phán nền quân chủ chuyên chế:

Về chính giáo thì chứa chất hủ lậu, mọi việc đều mô phỏng Minh Thanh, văn

nhân thì khư khư giữ theo sách cũ, tự khoe đắc chí; võ sĩ thì cốt ở cờ trống

mỹ quan, côn quyền coi như trò chơi, tự cho là không ai hơn được. Đáng bỉ

hơn hết là ức chế dân quyền, coi thường dư luận, phàm bàn việc quốc gia đại

kế, nhân dân chỉ được ở ngoài hỏi rồi than thở mà thôi [17, tr.34]

Trong tác phẩm nổi tiếng “Hải ngoại huyết thư”, ông chỉ ra nguyên nhân mất

nước là do sự quan liêu của chính thể quân chủ, vua quan không biết gì tới đời sống

của nhân dân, nhân dân thờ ở với việc nước, coi đó không phải là việc của mình:

“Một là vua sự dân chẳng biết

Hai là quan chẳng thiết gì dân

Ba là dân chỉ biết dân

Mặc quân với quốc, mặc thần với ai” [154, tr.242]

Ông coi vua như dân tặc - tức kẻ thù của nhân dân, ông coi chuyên chính của

lực lượng cầm quyền như nọc độc, ông thấy sự bất công của một chế độ trong đó

một người ngồi trên ngàn vạn người dân, sống trên mồ hôi nước mắt của ngàn vạn

người này. Mặc dù vậy, trong tư tưởng của Phan Bội Châu vẫn còn một sự vấn

vương, lưu luyến rõ nét với nền quân chủ đã tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta. Ông

chỉ chủ trương khiển trách, trừng phạt những vua tệ, quan hư chứ không chủ trương

lật đổ ngai vàng, biểu tượng quyền lực của xã hội phong kiến. Phê phán quân chủ

song không thể rời bỏ nó, ông đã giải quyết mâu thuẫn này bằng một mô hình chính

thể theo kiểu quân chủ lập hiến của Nhật Bản. Trong mô hình này vừa có vua làm

biểu tượng quyền lực quốc gia, mặt khác, vai trò của dân cũng được coi trọng ở

mức độ nhất định và vì vậy, quyền lực của vua không còn là tối thượng nữa.

Như vậy, “Phan Bội Châu trong thời kỳ đầu của sự nghiệp chưa thể chấm dứt

ngay những ràng buộc với tư tưởng trung quân, đặt tư tưởng dân chủ, cách tân của

mình trên giá đỡ của ý thức hệ Nho giáo… Ông thành lập một tổ chức cách mạng

Page 138: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

133

lấy tên là Duy Tân Hội, nhưng lại suy tôn Kỳ ngoại hầu Cường Để làm Hội chủ,

theo quan niệm suy tôn minh chủ, với mục đích khôi phục nước Việt Nam, lập ra

một chính phủ độc lập” [140, tr.148, 149].

Phong trào Đông Du với những cuộc đi ra nước ngoài của tầng lớp trí thức sang

Nhật Bản cũng không đạt được mục tiêu cuối cùng, Nhật đã trục xuất sinh viên An

Nam ra khỏi nước Nhật. Và kết quả đau buồn của phong trào là: “Tất cả những

người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm đều bị đưa đi đày. Tất cả các trường tư thục

đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nước ngoài đều bị cấm. Tất cả những người

lãnh đạo hoặc bị coi là người lãnh đạo - khoảng 200 - đều bị chặt đầu” [93, tr.32].

Tuy nhiên, phải thấy rằng, Phan Bội Châu chủ trương quân chủ như một “thủ

đoạn để giành độc lập”, để tập hợp lực lượng chống Pháp. Theo nhận thức của ông vì

nhiều người chống Pháp trung thành với tư tưởng quân chủ nên muốn thống nhất họ

trong một khối thì phải chủ trương quân chủ. Những người yêu nước này khá xa lạ

với tư tưởng cộng hoà, nên nếu chủ trương cộng hoà họ sẽ bỡ ngỡ, lo âu và khó thống

nhất được họ. “Quân chủ lập hiến hay cộng hoà dân chủ đều là thủ đoạn. Thủ đoạn

giành độc lập. Cái nào thích hợp thì dùng, cốt yếu là đánh đuổi Pháp, khôi phục chủ

quyền, còn với phương pháp nào, thủ đoạn nào thì tuỳ lúc thích nghi” [38, tr.118].

Mặc dù sau này, khi ông đã nhận thấy cái hay của dân chủ so với quân chủ,

trong điều kiện cụ thể của Việt Nam khi dân trí còn thấp, trình độ còn kém người

châu Âu, ông vẫn chủ trương quân chủ.. Ông khẳng định với Phan Chu Trinh,

mươi, mười lăm năm nữa, ở Việt Nam đưa ra học thuyết dân chủ thì ông sẽ là người

tán thành đầu tiên. Rõ ràng rằng, Phan Bội Châu trong tiến trình nhận thức của

mình, ông không chỉ đi từ tư tưởng quân chủ đến tư tưởng dân chủ mà ông còn nhận

thấy trình độ dân trí là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng một nền

dân chủ. Dân chủ nghĩa là dân là chủ, dân làm chủ. Mà muốn là chủ, muốn làm chủ

phải có ý thức làm chủ, năng lực làm chủ. Do vậy, dân chủ gắn liền với dân trí. Dù

chưa nêu được hết các điều kiện cơ bản cho việc thực thi một nền dân chủ trong

tương lai (dân sinh, dân trí, dân quyền), song rõ ràng, nhận thức của Phan Bội Châu

trong thời kỳ đầu hoạt động cách mạng có thể coi như bước nhận thức quá độ cho

Page 139: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

134

sự phát triển tư tưởng chính trị Việt Nam từ quân chủ đến dân chủ.

Có thể thấy, trong giai đoạn đầu của sự nghiệp chính trị của mình, Phan Bội

Châu hướng tới mô hình quân chủ lập hiến. Sau này dưới những tác động của điều

kiện trong nước và quốc tế, tư tưởng của ông có nhiều biến chuyển theo hướng ngày

càng tiến bộ. Sai lầm của ông chính là tư tưởng chủng tộc. Ông thấy “đồng châu,

đồng chủng, đồng văn” mà chưa thấy bản chất của tư bản, đế quốc nên đưa mâu

thuẫn chủng tộc thành vấn đề lý giải sự xâm lược của tư bản phương Tây. Rõ ràng

tư tưởng cầu ngoại viện đặt trong bối cảnh đầu thế kỷ XX ở Việt Nam đã không còn

phù hợp, cơ hội đã trôi qua. Nước Nhật giờ đây đã không còn là một nước nhược

tiểu như trước cuộc Duy Tân mà đã trở thành đế quốc. Nó nhìn thế giới bằng con

mắt của một đế quốc. Dựa vào một đế quốc để đánh một đế quốc khác. Con đường

này đúng là “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Như vậy, trong giai đoạn đầu sự nghiệp chính trị của mình, Phan Bội Châu đã

khởi xướng và dẫn dắt một phong trào giải phóng dân tộc theo mô hình quân chủ

lập hiến kiểu tư sản như Nhật Bản. Tuy nhiên vì những lý do khách quan và chủ

quan khác nhau, con đường này đã không thể thực hiện thành công ở nước ta.

b. Dưới hình thức dân chủ cộng hoà tư sản

Sự thất bại của phong trào Cần Vương của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và thất

bại của Duy Tân Hội của Phan Bội Châu có thể coi như dấu chấm hết cho một

khuynh hướng cứu nước hướng tới một mô hình xã hội đã trở nên quá lạc hậu so

với xu hướng phát triển chung của nhân loại hoặc không phù hợp với hoàn cảnh

nước ta. Tác động của những sự kiện chính trị lớn trên thế giới vào nước ta cũng

như sự vận động nội tại của phong trào cách mạng Việt Nam đã làm xuất hiện một

khuynh hướng cứu nước mới - khuynh hướng dân chủ tư sản, hướng tới một nền

dân chủ cộng hoà tư sản sau ngày độc lập. Khuynh hướng chính trị này ảnh hưởng

khá mạnh mẽ tới đời sống nhiều mặt của xã hội Việt Nam trong khoảng 30 năm đầu

thế kỷ XX.

Về sự thâm nhập của tư tưởng dân chủ tư sản vào Việt Nam, có thể khẳng định

sự xuất hiện của thực dân Pháp ở nước ta - một kẻ thù hoàn toàn mới từ phương

Page 140: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

135

Tây, quê hương của những tư tưởng dân chủ tư sản nổi tiếng thế giới - là một trong

những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy cho việc thâm nhập và hấp thu những tư

tưởng dân chủ tư sản vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Song song với quá

trình quảng bá của chính kẻ xâm lược cho tất cả những gì là “tinh hoa”, là “đẹp đẽ”

của văn minh phương Tây, ở người bị xâm lược cũng xuất hiện một nhu cầu tìm

hiểu nền văn minh của kẻ thù. Từ đó hiểu bản chất kẻ đang nô dịch mình để có một

phương cách phù hợp chống lại chúng. Tư tưởng dân chủ tư sản thâm nhập vào

nước ta chủ yếu qua ba con đường: Từ Trung Quốc, Nhật Bản và từ Pháp.

Cuối thế kỷ XIX, ở Trung Quốc diễn ra phong trào Dương Vụ dưới thời vua

Quang Tự. Quang Tự triệu tập hai thầy trò Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu làm

cách mạng để canh tân đất nước. Tuy nhiên, phong trào này đã thất bại. Hai thầy trò

phải chạy sang Nhật lánh nạn. Tại đây, họ xuất bản báo chí truyền bá cho tư tưởng

dân chủ tư sản. Tờ báo Thanh Nghị của họ chuyên đăng bài về tư tưởng dân chủ tư

sản đã được truyền về Trung Quốc sau đó vào Việt Nam. Những tư tưởng đó làm

bật dậy hướng đổi mới cho những người Việt Nam yêu nước. Mặt khác, năm 1911,

cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc bùng nổ đã đánh vào triều đại phong kiến

cuối cùng của Trung Quốc, mở ra một thời đại mới ở đất nước này. Tư tưởng Chủ

nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn với hệ giá trị phát triển: dân tộc độc lập, dân

quyền tự do, dân sinh hạnh phúc đã ảnh hưởng tới nhiều người Việt Nam yêu nước,

làm trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản có điều kiện bùng phát ngày càng mạnh mẽ ở

nước ta.

Con đường thứ hai là con đường từ đất nước mặt trời mọc. Năm 1905, chiến

tranh Nga- Nhật kết thúc với thắng lợi thuộc về nước Nhật. Lịch sử Á Đông chưa có

một trận thắng nào vẻ vang như vậy, nó đã được ghi nhận như một bước ngoặt lớn

của các dân tộc châu Á thời hiện đại. Chiến thắng này đã thức tỉnh các dân tộc châu

Á vì lần đầu tiên người da vàng đã chiến thắng người da trắng, người châu Á đã

chiến thắng người châu Âu. Các nước châu Á có cảm tình ngay với Nhật và hướng

theo con đường của Nhật vì Nhật đã rửa nhục cho giống da vàng và da đen. Nếu

như trước đó, các dân tộc này trông cậy nhiều vào sự giúp đỡ của Trung Hoa thì nay

Page 141: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

136

họ hướng sang nước Nhật. Các sĩ phu Việt Nam truyền tay nhau những cuốn sách

về Nhật Bản và công cuộc Minh Trị Duy Tân như: Nhật Bản quốc chí, Nhật Bản

duy tân khảng khái sử, Nhật Bản tam thập niên duy tân sử... và viết nhiều bài ca

ngợi công cuộc duy tân này.

Tư tưởng dân chủ tư sản từ Phương Tây với tư tưởng của các nhà khai sáng nổi

tiếng như: Môngtetxkiơ, Rutxô, Vônte... cũng theo chân các thầy giáo Pháp vào Việt

Nam. Dù chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân ở nước ta, song thực dân

Pháp vẫn buộc phải phát triển giáo dục ở mức độ nhất định để đào tạo những công

chức thuộc địa. Mặt khác, không phải mọi người Pháp đều là thực dân và không phải

mọi mong muốn của bọn thực dân đều được thực hiện đúng như chúng kỳ vọng, nên

thông qua các thầy giáo Pháp tiến bộ, lần đầu tiên, các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác

ái và nhiều tư tưởng dân chủ khác đã được người Việt Nam biết tới. Đây là hệ tư

tưởng mới với người Việt Nam. Nó đánh thức những khát vọng tiềm ẩn chưa được

gọi tên trong nhiều người dân Việt. Nhận thức về dân chủ làm xuất hiện những nhu

cầu dân chủ. Khát vọng tự do, bình đẳng, bác ái, hướng tới một xã hội dân chủ dần

xuất hiện theo sự thâm nhập của tư tưởng dân chủ tư sản vào nước ta. Nó đặt tiền đề

tư tưởng cho việc khởi xướng xây dựng một nền chính trị dân chủ thay thế nền chính

trị chuyên chế đang tồn tại. Nó mở đường cho một trào lưu cách mạng hoàn toàn mới

ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX - trào lưu dân chủ tư sản.

Sau thất bại của phong trào Đông Du, Phan Bội Châu từ bỏ lập trường quân

chủ lập hiến, thành lập Việt Nam Quang Phục hội (1912), hướng đến mục tiêu xây

dựng nước cộng hoà dân chủ tại Việt Nam sau khi đánh đuổi thực dân Pháp. Tuyên

ngôn của Việt Nam Quang Phục hội khẳng định:

“Muốn cho ích nước lợi nhà

Ắt là dân chủ cộng hoà mới xong” [38, tr.119]

Theo ông thì chính thể dân chủ cộng hoà là một chính thể rất tốt đẹp trong đó

quyền bính của nước ta là của chung toàn dân do nhân dân quyết định. Quang Phục

quân trong khi vừa đánh đuổi giặc Pháp, đồng thời cũng vừa xây dựng một nước

cộng hoà dân chủ.

Page 142: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

137

Ông cũng đã hình dung ra mô hình tổ chức của chính thể gồm ba viện: thượng

nghị viện, trung nghị viện, hạ nghị viện, một thể chế trong đó người dân có quyền

quyết định những công việc chung. Về cơ bản tư tưởng của ông giai đoạn Quang

Phục hội dù đã vượt khỏi mô hình quân chủ lập hiến nhưng cũng vẫn chỉ dừng lại ở

chính thể đại nghị tư sản. Hướng theo tư tưởng này, song bản thân Phan Bội Châu

cũng chưa thật sự nhận thức được bản chất của nền dân chủ tư sản phương Tây nên

không thể tránh khỏi những yếu tố ảo tưởng trong hành động của Việt Nam Quang

phục hội do ông là thủ lĩnh.

Sau khi Quang Phục hội thất bại, mặc dù ông đã bước đầu tiếp cận chủ nghĩa

Mác nhưng ông cũng không tiến xa hơn trong nhận thức và hành động vì nhiều lý

do khách quan và chủ quan khác nhau. Phần vì bị thực dân Pháp giam lỏng ở Huế

suốt những năm tháng cuối đời. Từ 1926 trở đi, Phan Bội Châu bị cách ly với thực

tế đấu tranh của dân tộc. Phần do hạn chế trong nhận thức và tiếp cận thông tin,

chính ông cũng tự thừa nhận vì không biết các ngôn ngữ thông dụng của thế giới

ông như người mù trong thế giới này .

Có thể thấy sự chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu phản ánh quá trình

chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX tạo

ra phong trào chống Pháp từ khuynh hướng quân chủ sang khuynh hướng dân chủ

tư sản cho một Việt Nam độc lập. “Phan Bội Châu đã làm được bước chuyển hết

sức căn bản từ tư tưởng quân chủ sang dân chủ dẫn dắt cho dân tộc đi đến tiếp thu

chủ nghĩa Mác - Lênin” [19, tr183].

Cũng với khuynh hướng dân chủ tư sản, một nhà yêu nước tiêu biểu không thể

không kể tới là Phan Chu Trinh. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng, cha

làm quan giữ chức Quản cơ sơn phòng trong triều, sau này thân phụ ông tham gia

tích cực phong trào Cần Vương chống Pháp. Bản thân ông cũng đỗ phó bảng và làm

quan cho nhà Nguyễn. Song, do có cơ hội tiếp cận với những tư tưởng mới và giao

thiệp với những người yêu nước có tư tưởng canh tân nên Phan Chu Trinh đã có

nhiều nhận thức mới, tiến bộ so với phần lớn người Việt nam đương thời. Ông bôn

ba nhiều nước trên thế giới, đặc biệt có một thời gian khá dài sống tại Pháp, một

Page 143: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

138

trong những cái nôi của tư tưởng dân chủ, đã giúp ông có cái nhìn tiến bộ so với tư

tưởng truyền thống ở Việt Nam đương thời. Từ thực tiễn xã hội Việt Nam những

năm đầu thế kỷ XX, trước sự bất lực của triều đình phong kiến, ông nhận thấy làm

quan cũng chỉ “vinh thân phì gia” chứ không giúp gì nhiều cho dân tộc. Do đó, ông

đã từ quan để mưu làm việc lớn. Phan Chu Trinh phê phán triều đình, phê phán chế

độ phong kiến chuyên chế, ví quan quân triều đình phong kiến như các quân cờ trên

bàn cờ tướng: “Một ông tướng lác đứng trong cung. Sĩ tượng khoanh tay chẳng vẫy

vùng” [23, tr.71]. Ông đau đớn trước cảnh đồng bào bị đoạ đày: “Hồn Tổ quốc nặng

trĩu trên vai, xót vì quốc dân đồng bào đương rên xiết bởi cường quyền áp chế” [23,

tr695]. Trong chế độ quân chủ, dân trí không thể mở mang được và cũng chính vì

sự hạn hẹp trong nhận thức của người dân mà chế độ quân chủ có đất để dung

dưỡng: “Một nước bao nhiêu triệu dân mà chỉ giao phó quyền chính cho một ông

vua thì chẳng là ngu xuẩn lắm ư?” [23, tr.785]. Chế độ quân chủ đã đặt vua với dân

ở vị trí hoàn toàn đối lập, người dân không được tôn trọng: “Vua tôn như thánh, như

thần. Phận tôi rơm rác, thân dân trâu bò” [23, tr.290]. Trên lập trường dân chủ, ông

phê phán vua Khải Định bằng tác phẩm “Thư thất điều”, luận tội vua và phán xét

vua đáng bị chém đầu. Đây là một ý tưởng quá mới mẻ trong một xã hội chuyên chế

phong kiến với tư tưởng trung quân được đặt lên hàng đầu hàng nghìn năm như

Việt Nam.

Từ chỗ phê phán chế độ phong kiến, ông so sánh chủ nghĩa quân trị (quân chủ)

và chủ nghĩa dân trị (dân chủ) ông khẳng định: “Ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn

cái chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo cái ý riêng của một người hay một nước

thì cái nước đó không khác nào là một đàn dê, được no ấm vui vẻ hay phải đói rét

khổ sở chỉ tuỳ theo lòng một người chăm. Còn theo cái chủ nghĩa dân trị thì tự quốc

dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung cả nước, lòng quốc

dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người tài giỏi làm cho hay lắm,

không đến nỗi phải cúi đầu khốn nạn làm tôi mọi một nhà, một họ nào cả” [38

tr.460]. Kế thừa những tư tưởng canh tân nửa sau thế kỷ XIX ở Việt Nam, tiếp thu

tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, Phan Chu Trinh nhận thấy: “Chủ nghĩa dân

Page 144: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

139

chủ chính là một vị thuốc rất thần hiệu để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy”

[23, tr.784]. Ông tôn những nội dung của dân chủ là thánh thần và khẳng định đây

là một trào lưu rộng khắp thế giới: “Công quyền là thánh, tự do là thần. Khắp thế

giới tôn dân tự chủ” [23, tr.309]. Ông hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc nhưng

theo ông muốn độc lập trước hết phải đánh đổ quân chủ, xây dựng chế độ dân chủ.

Tư tưởng dân chủ của Phan Chu Trinh hướng vào việc khai dân trí, chấn dân khí,

hậu dân sinh, làm cho nước nhà cường thịnh, khôi phục, chấn hưng đất nước. Theo

ông, có làm như vậy mới lấy lại được độc lập cho đất nước. Hướng tới độc lập dân

tộc song ông không có chủ trương đánh Pháp, thậm chí còn phê phán gay gắt những

người có tư tưởng này. Theo ông, cần ỷ Pháp cầu tiến bộ. Ông mong muốn dựa vào

lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Pháp để tiến hành cải cách. Ông đã thiết lập

mối quan hệ với nhiều người Pháp tiến bộ để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.

Rõ ràng, ông đã có một sự nhầm lẫn khi xác định đâu là kẻ thù chính. Mặt khác,

tính ảo tưởng, mơ hồ về chính trị cũng được thể hiện trong tư tưởng chính trị của

ông. Làm sao một nước đế quốc có thể cho một thuộc địa của nó có tự do, dân chủ?

Con đường của ông hướng đất nước tới một chế độ dân chủ kiểu Pháp - một chế độ

dân chủ tư sản, dân chủ cho số ít những kẻ có tiền, có lẽ ông cũng chưa nhận thức

rõ điều này. Vì khi đặt ra chủ trương khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, rõ

ràng ông đã rất quan tâm đến vai trò của đông đảo nhân dân. Chủ trương đánh vào

sự hủ lậu, thối nát của xã hội phong kiến rồi xây dựng một chính thể cộng hoà dân

chủ theo kiểu tư sản ở nước ta của Phan Chu Trinh, theo nhà nghiên cứu Trần Văn

Giàu là “đặt cày trước trâu”. Làm như vậy chỉ để triển lãm trâu và cày chứ không

cày được thước đất nào. Còn người cùng thời với ông là Phan Bội Châu thì đặt câu

hỏi: Dân không còn nữa thì chủ với ai? Theo Phan Bội Châu, giành độc lập dân tộc

phải là vấn đề cốt yếu trước khi thực hiện mục tiêu dân chủ.

Sau này trong nghị quyết Hội nghị trung ương 8 của Đảng cộng sản Đông

Dương tháng 5-1941, Hồ Chí Minh đã khẳng định mối quan hệ dân tộc- giai cấp:

Quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc

gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,

Page 145: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

140

không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc

gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn

năm cũng không đòi lại được [28, tr.113].

Theo khuynh hướng chính trị này, còn phải kể tới Việt Nam Quốc dân đảng,

một tổ chức chính trị được thành lập theo mô hình Trung Quốc Quốc dân đảng của

Tôn Trung Sơn. Điều lệ của tổ chức này cũng khẳng định: “Xây dựng nền cộng hoà

dân chủ trực tiếp” [38, tr.580], lấy ba nguyên tắc “tự do, bình đẳng, bác ái” của cách

mạng tư sản Pháp làm khẩu hiệu cho mình. Tuy mục tiêu hướng về chính thể dân

quốc theo mô hình Trung Hoa dân quốc của Tôn Trung Sơn song Việt Nam Quốc

dân đảng lúng túng trong việc xác định một chủ nghĩa, khẳng định lập trường chính

trị của mình, Việt Nam Quốc dân đảng lúc thì khẳng định lý tưởng của cách mạng

Pháp, lúc lại “bưng” toàn bộ chủ nghĩa Tam Dân vào đảng. Hồ Chí Minh sau này đã

đặt câu hỏi về Việt Nam Quốc dân đảng:

Muốn một nước cộng hoà nhưng là thứ cộng hoà nào? Sẽ cai trị quốc gia như

thế nào? Với phương pháp gì người ta sẽ xây dựng lại kinh tế quốc gia? Làm

thế nào để nâng cao mức sống của những tầng lớp lao động, thợ thuyền,

nông dân và trí thức? Về những điều này, Việt Nam Quốc dân đảng chưa có

chương trình rõ rệt (Theo Trần Dân Tiên (1975), Những mẩu chuyện về đời

hoạt động của Hồ Chủ Tịch, NXB Văn học, Hà Nội, tr.73)

Thực tế, Việt Nam Quốc dân đảng đã đứng trên lập trường của GCTS để giải

quyết vấn đề dân tộc, nước cộng hoà trong mong muốn của Việt Nam Quốc dân

đảng chính là cộng hoà tư sản. Theo tác giả Nguyễn Văn Khánh trong công trình

chuyên khảo về Việt Nam Quốc dân đảng đã khẳng định: “mục đích cuối cùng của

Việt Nam Quốc dân đảng là dùng bạo lực đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp

để giành độc lập, thành lập chính phủ cộng hoà, thực hiện quyền tự do dân chủ và

mở đường cho CNTB phát triển ở Việt Nam” [65,tr.81]. Tuy nhiên do không có chủ

nghĩa xác định, không quan tâm đến lý luận, tư tưởng, không chú ý đến tuyên

truyền, huấn luyện, cách làm thì khá phiêu lưu, mạo hiểm, chưa nhìn thấy vai trò to

lớn của nhân dân… nên phong trào hoạt động chính trị của Việt Nam Quốc dân

Page 146: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

141

đảng theo khuynh hướng tư sản cũng đã thất bại.

Lịch sử đã chứng minh, khuynh hướng chính trị chống thực dân Pháp cứu nước

theo tư tưởng dân chủ tư sản không có tiền đề về nhiều mặt để có thể giành thắng

lợi ở nước ta. Muốn thực hiện con đường cách mạng tư sản và xây dựng xã hội

TBCN thì tất yếu phải có cơ sở xã hội là một GCTS đủ sức mạnh về nhiều mặt. Ở

nước ta đầu thế kỷ XX, theo nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu “tư tưởng tư sản

không có GCTS” [38, tr.121] nên tư tưởng này không có chân đế, không có bệ đỡ

xã hội để thâm nhập vào cuộc sống và chuyển thành một chế độ xã hội mang tính

hiện thực. Một thực tế là ở nước ta, lực lượng tiếp nhận và hoạt động chính trị theo

tư tưởng tư sản phương Tây thời kỳ đầu là những nhà Nho cấp tiến, thời kỳ sau là

những trí thức Tây học chứ không phải những người đại diện cho GCTS dân tộc

nên khuynh hướng chính trị này tuy hướng tới chống thực dân giành độc lập dân tộc

nhưng cũng không thể thắng lợi.

GCTS Việt Nam xuất hiện như là hệ quả của chính sách cai trị về kinh tế của

thực dân Pháp. GCTS Việt Nam gồm hai bộ phận là tư sản mại bản và tư sản dân

tộc thì: “Tư sản mại bản, thà chịu kinh tế nước nhà phụ thuộc vào đế quốc chứ

không muốn giải phóng nông dân, không muốn công nghệ nước ta được phát triển”

[95, tr.208]. Như vậy, lực lượng tư sản mại bản không những không lãnh đạo được

cách mạng mà còn là đối tượng của cách mạng. Còn tư sản dân tộc dù có tinh thần

chống đế quốc vì bị đế quốc ngăn trở nhưng họ là bộ phận của giai cấp bóc lột nên

họ cũng sợ giai cấp bị bóc lột nổi lên đấu tranh. Về mặt kinh tế, tư sản dân tộc lại có

dính líu ít nhiều với địa chủ phong kiến nên bộ phận này vừa muốn cách mạng, vừa

muốn thoả hiệp.

Tư sản Việt Nam phần lớn là tư sản thương nghiệp chứ không phải tư sản công

nghiệp, không có thế lực kinh tế, phụ thuộc vào tư bản nước ngoài. Sinh ra ở một

nước thuộc địa “không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp”

[100, tr.64] GCTS Việt Nam nhỏ yếu về kinh tế, bạc nhược về chính trị, thoả hiệp

với đế quốc để mưu sự sống còn nên đã không đủ sức làm trụ cột cho một chế độ

TBCN ở Việt Nam sau ngày độc lập. Mặt khác, tư sản Việt Nam lại ra đời muộn so

Page 147: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

142

với GCCN. Khi tư sản Việt Nam ra đời thì công nhân Việt Nam đã từng bước

khẳng định được ưu thế về chính trị và tinh thần của mình trong vai trò một lực

lượng lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Ngày mai bắt đầu từ hôm nay. Và theo logic đó, hôm nay có khởi nguồn từ hôm

qua. Xem xét trường hợp Việt Nam và Ấn Độ, có thể nhận thấy sự khác biệt rõ nét.

Sự cai trị của thực dân Anh với thuộc địa Ấn Độ khác với sự cai trị của Pháp với

thuộc địa Việt Nam. Điều này đã tạo ra những cơ sở xã hội hết sức khác nhau cho

con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và sự phát triển của Ấn Độ, Việt Nam sau

ngày độc lập. Nếu như thực dân Anh cai trị Ấn Độ theo lối đầu tư tư bản để phát

triển một cách chủ định phương thức sản xuất TBCN ở nước này, thì “Nước mẹ

Pháp” lại không muốn “đứa con yêu” Việt Nam phát triển theo con đường tiến bộ.

Chúng muốn kìm kẹp Việt Nam trong phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu để

dễ bề cai trị, hạn chế sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN ở Việt Nam. Cách

cai trị thuộc địa của Anh cho phép ra đời ở Ấn Độ một GCTS bản xứ đủ sức mạnh

kinh tế, uy thế chính trị để dẫn dắt Ấn Độ sau ngày độc lập đi lên theo con đường

TBCN. Còn với cách cai trị của Pháp cản trở sự ra đời của một GCTS bản xứ đủ

sức mạnh về mọi mặt để dẫn dắt dân tộc phát triển theo con đường TBCN.

Dù không thành công trên hiện thực song trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt

Nam đầu thế kỷ XX, phong trào chính trị theo khuynh hướng tư tưởng dân chủ tư

sản vẫn là một phong trào có nhiều yếu tố tiến bộ. Nó mở ra một cách nhìn, một

hướng tư duy cho những người yêu nước Việt Nam để từ đó có thể hướng tới những

chân trời mới tươi sáng hơn.

Như vậy, có thể thấy, việc tìm tòi, hướng dẫn và tổ chức hoạt động của các trào

lưu chính trị khác nhau nhằm đích chung là giải bài toán độc lập của Việt Nam cuối

thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra rất sôi động. Quân chủ hay dân chủ, quân chủ

chuyên chế hay quân chủ lập hiến, dân chủ kiểu Nhật hay kiểu Pháp… Tựu trung có

thể thấy các con đường này xoay quanh việc tìm kiếm một kiểu nhà nước gắn với

một hình thức nhà nước phù hợp với Việt Nam. “Sự tìm tòi thể nghiệm có thể đạt

đến thành công, có thể thất bại, song lại tạo tiền đề cho sự hình thành cái mới, cái

Page 148: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

143

phù hợp hơn với tiến trình vận động của lịch sử” [140, tr.152]. Con đường cách

mạng vô sản của Hồ Chí Minh gắn với kiểu nhà nước XHCN mà lịch sử Việt Nam

đã tiếp nhận và từng bước hiện thực hoá ở nước ta là một sự tiếp nối hợp quy luật

sau hàng loạt những phương sách, con đường cứu nước khác nhau thất bại. Đúng

như lời nhận xét của tiến sĩ Unselt Jorgen: “Nếu không có những kinh nghiệm của

Phan Bội Châu thì cũng không thể có sự thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó

là một sự kế thừa biện chứng” [154, tr.275]

Chính những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, bằng những gợi mở sâu

sắc trong tư tưởng yêu nước gắn với các phong trào chính trị có thiên hướng dân

chủ, đã báo trước bước ngoặt cách mạng của tư tưởng Việt Nam gắn với phong trào

chính trị theo khuynh hướng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc là thủ lĩnh.

3.1.3. Khuynh hướng lựa chọn kiểu nhà nước XHCN đầu thế kỷ XX

Dưới góc nhìn chính trị học, có thể thấy: Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước

thực chất Người nghiên cứu các kiểu nhà nước trên thế giới, các hình thức nhà

nước trên thế giới và tìm một kiểu nhà nước, một hình thức nhà nước phù hợp

nhất với Việt Nam.

a. Quá trình Nguyễn Ái Quốc tìm một con đường giải phóng dân tộc gắn với

tìm kiếm kiểu nhà nước cho Việt Nam

Trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, Người đã quan tâm

nghiên cứu nhiều kiểu nhà nước đang tồn tại trên thế giới đó là kiểu nhà nước tư sản

ở thuộc địa, kiểu nhà nước tư sản ở chính quốc và kiểu nhà nước mới đó là kiểu nhà

nước XHCN ở nước Nga, Xô Viết.

Trước hết là nhìn nhận, đánh giá của Nguyễn Ái Quốc về một hình thức đặc

biệt của kiểu nhà nước của giai cấp tư sản tồn tại ở thuộc địa Việt Nam dưới hình

thức chế độ thực dân phong kiến.

Các khuynh hướng cứu nước gắn với việc tìm kiếm các mô hình nhà nước khác

nhau của những người Việt Nam yêu nước đã tỏ rõ lập trường chung của các tầng

lớp nhân dân Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam với chế độ thực dân phong kiến

mà thực dân Pháp thiết lập ở nước ta. Đó là một thái độ căm phẫn, lên án và mong

Page 149: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

144

muốn thay thế chế độ chính trị này bằng một chế độ chính trị tốt đẹp hơn. Thái độ

của Nguyễn Ái Quốc với chế độ chính trị này góp thêm một tiếng nói cho việc lên

án và thủ tiêu chế độ chính trị tàn bạo này. Và Nguyễn Ái Quốc có thể coi là người

Việt Nam đầu tiên đã có “công trình” nghiên cứu để vạch tội và tuyên án CNTD

một cách mạnh mẽ, kiên quyết, đầy sức thuyết phục đến như vậy. Người viết “Bản

án chế độ thực dân Pháp” như lời tuyên chiến với CNTD. Và không chỉ tuyên án,

Nguyễn Ái Quốc còn là người bằng những hoạt động chính trị không mệt mỏi của

mình đã thực hiện bản án đó đến cùng.

Xem xét, đánh giá một chế độ chính trị có nhiều cách. Xem xét kẻ cai trị cùng bộ

máy chính quyền của chúng, người bị cai trị và sự phát triển chung của xã hội dưới sự

cai trị chính trị đó là một trong những cách để đánh giá một chế độ chính trị.

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sinh ra khi bước chân của quân xâm lược đã

giày xéo lên đất nước ta gần 1/3 thế kỷ. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bản

thân Người cảm nhận sâu sắc sự tàn bạo phi nhân tính của CNTD trên quê hương

Việt Nam đầy đau khổ của Người cũng như tất cả các thuộc địa khác trên thế giới.

Về diện mạo của xã hội thuộc địa và thân phận những người dân thuộc địa dưới

chế độ chính trị thực dân, Nguyễn Ái Quốc đã khái quát năm 1919: “Từ khi bị Pháp

chiếm, đất nước chúng tôi hầu như luôn luôn sống lay lắt ngày này qua ngày khác,

không hề biết chính quyền muốn dẫn mình đi đến đâu” [91, tr.6]. Và nửa thế kỷ sau

khi đặt ách thống trị trên đất nước ta: “Thật đáng buồn thay khi thấy rằng sau 50

năm thống trị mà những người đại diện cho nước Cộng hoà Pháp ở Đông Dương

vẫn cứ ngoan cố kìm chân người bản xứ trong vòng nô lệ, không cho họ hưởng một

chút quyền tự do nào cũng như các quyền khác theo luật pháp” [91, tr.12]. Một tình

trạng vô vọng, bế tắc bao trùm tất cả dưới sự cai trị của CNTD.

Trong chế độ này, người Việt Nam không còn tồn tại như những con người:

“CNTB Pháp đã vào Đông Dương từ hơn nửa thế kỷ nay, vì lợi ích của nó, nó đã

dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những bị áp

bức, bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm…

người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác

Page 150: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

145

để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ” [91, tr.22,23]. “Tính mạng của

một con người An Nam bị rẻ rúng không đáng giá một trinh”. Người An Nam bị coi

là “hạng người thấp kém”, là “nô lệ”, là “những súc vật phải điều khiển bằng roi

vọt”, là “lũ ròi bọ” mà chỉ có “ba-toong, súng ngắn, súng dài” mới “xứng đáng” với

họ. Họ bị bọn thực dân “róc thịt” mãi. Họ “phải è ra mà chịu công ơn bảo hộ của

nước Pháp. Riêng người nông dân An Nam lại càng phải è ra mà chịu sự bảo hộ ấy

một cách nhục nhã hơn” [92, tr.82]. “Annamít và Angiêriêng đâu phải là người! Đó

là bọn “nhà quê” bẩn thỉu, bầy “bicốt” (con dê con) bẩn thỉu. Cần quái gì phải có

công lý đối với những giống ấy” [92, tr.90]. Luôn luôn có sẵn “một kho đầy ắp

những hình phạt” [92, tr.90] để giáng vào đầu những con người khốn khổ ấy.

Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Chưa có bao giờ, ở một nước nào mà người ta

lại vi phạm mọi quyền làm người một cách dã man, độc ác và trắng trợn đến thế”

[92, tr.112]. Và “để dạy cho mọi người sống cho ra sống, người ta bắt đầu bằng việc

giết họ đi đã” [92, tr.33]. Mỗi thuộc địa, CNTD sử dụng những biện pháp tàn bạo

khác nhau để cai trị, nhưng các thuộc địa đều giống nhau ở một điểm “Giữa An

Nam với Công Gô, Máctiních hay Tân Đào, không hoàn toàn giống nhau chút nào,

trừ sự cùng khổ” [91, tr.63].

Thực tế đó tại các thuộc địa, ngay cả người Pháp ở chính quốc cũng không thể

phủ nhận. Sau lời phát biểu tại Đại hội Toàn quốc lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp của

Nguyễn Ái Quốc, chủ tịch phiên họp Êminguđơ phải thừa nhận: “Qua những loạt

vỗ tay tán thành đại biểu Đông Dương, có thể thấy rằng toàn thể Đảng xã hội đều

đứng về phía đồng chí để phản đối những tội ác của GCTS” [91, tr.24].

Những con người trong bộ máy chính quyền thực dân-“tinh hoa của các cặn

bã” lượm lặt từ các nước châu Âu.

Con người trong bộ máy chính quyền thực dân là sự dung nạp của tất cả những

cặn bã từ chính quốc thải ra, từ viên chức bình thường cho đến nhân vật chóp bu là

viên Toàn quyền.

Về các quan cai trị thì: “Sang Bắc Kỳ, các ông Toàn quyền chỉ nhằm một mục

đích là: tìm chỗ bổ dụng bạn bè, con cháu thân thuộc và bọn vận động bầu cử của

Page 151: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

146

những bậc thế quyền có thể làm chỗ dựa cho mình” [92, tr.55]; “Các viên Toàn

quyền lớn, Toàn quyền bé được nước mẹ ký thác vận mệnh xứ Đông Dương, nói

chung đều là bọn ngu xuẩn, bọn đểu cáng” [92, tr.84]. Tất cả sự xa hoa, tráng lệ,

thừa mứa trong cuộc sống của các quan cai trị thuộc địa đều dựa trên ngân sách

được bòn rút từ những người bản xứ nghèo khổ, bị bần cùng hoá đến cùng cực.

“Quan Toàn quyền chưa vừa ý với những lâu đài tráng lệ mà ngài ở tại Sài Gòn và

Hà Nội, còn phải cần thêm cho ngài một biệt thự ở bãi biển nữa. Ngân sách Đông

Dương lại phải “è lưng ra gánh”... Tiền nhà cửa, bàn ghế, điện nước của các vị đó

đều do công quỹ đài thọ cả. Ngoài ra, những người đánh xe, lái xe, giữ ngựa, làm

vườn, tóm lại, tất cả những kẻ hầu người hạ của họ cũng đều do nhà nước trả tiền

công” [92, tr.71, 72].

Còn các ngài viên chức trong bộ máy chính quyền thuộc địa thì là “những tên

ngu xuẩn tò mò ưa xoi mói” [92, tr.86]. Dù trước khi sang Đông Dương họ xuất

thân từ đâu (một anh hàng cháo, một anh giám thị trong các nhà trường) thì khi sang

Đông Dương, họ đều trở thành các “ông vua con”, sống một cuộc sống đế vương

trên máu và nước mắt của người dân thuộc địa. Những viên chức trong bộ máy này

là những viên chức “ăn hại ngân sách mà thường chẳng được tích sự gì cả”. Họ là

“những nhân tố ăn bám... đè nặng lên lưng nhân dân lao động”[92, tr.54]. Họ được

“giao phó những quyền hạn rộng rãi và ghê gớm” trong khi “không đủ những tư

cách cần thiết” [92, tr.71] tương xứng. Họ “rất hiền từ đối với bọn côn đồ... nhưng

đối với dân hiền lành thì lại là chuyện khác” [92, tr.61]. Một chính quyền được tạo

nên từ những con người mà “so với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp

đường còn là những người lương thiện” [92, tr.69]. Ngay cả một tên lính thực dân

cũng phải thốt ra trong cuốn nhật ký đi đường của mình rằng: “Quả thật, chúng tôi

đã có tâm hồn thực dân” và tự thừa nhận: “chúng ta còn độc ác, còn dã man hơn cả

bọn kẻ cướp nhà nghề”[92, tr.63] khi tận mắt chứng kiến tất cả những tội ác man rợ,

khủng khiếp mà chính bọn chúng đã gây ra với đồng loại (những người bản xứ). Và

một nhà văn chính quốc khi sang thăm Đông Dương đã viết: “Hình như họ (các

quan bảo hộ người Pháp) chỉ làm những điều khiến cho sự có mặt của chúng ta trở

Page 152: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

147

thành một điều xấu xa bỉ ổi không ai chịu được” [92, tr.62].

Có thể thấy: Thuộc địa là một “thiên đường ở trần gian” cho các quan cai trị,

nơi mà “cái gì người ta (người châu Âu ở Đông Dương) cũng được phép và có thể

làm được” [92, tr.33]. Nơi đây “tất cả những ai có tí chút quyền hành trong tay cũng

đều sử dụng và lạm dụng quyền hành để thả cửa làm bậy vì họ biết chắc rằng sẽ

không bị tội vạ gì hết” [92, tr.57]. Nơi đây, không có luật lệ và công lý mà chỉ có

một thứ luật rừng được các “nhà khai hoá” sử dụng một cách phổ biến và thường

xuyên. “Chẳng có luật lệ nào khác ngoài sự tuỳ tiện của bọn nhà đoan” [93, tr.75].

Và “khi người ta đã là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man

mà vẫn cứ là người văn minh nhất” [92, tr.56].

Tóm lại có thể tìm thấy trong chính quyền thuộc địa “tinh hoa của các cặn bã”

lượm lặt ở tất cả các nước châu Âu. Với một bộ máy được tạo nên từ những hạng

người có tố chất xấu xa như vậy thì để bộ máy đó có thể tồn tại và hoạt động,

nguyên tắc hoạt động của luật pháp và bộ máy chính quyền thuộc địa luôn là: “bằng

bất cứ giá nào nhất thiết phải giữ uy tín cho kẻ đi chinh phục” và “bảo vệ uy tín của

chủng tộc thượng đẳng”.

Bộ máy chính quyền thực dân - Một bộ máy cồng kềnh, quan liêu, tham nhũng.

Đó là một bộ máy ăn bám khổng lồ. Hãy làm một phép so sánh giản đơn: “Ở

thuộc địa Anh, cứ 66.150 người dân thì có một viên chức người Âu, còn ở thuộc địa

Pháp thì cứ 3.490 người dân đã có một viên chức người Âu” [92, tr.55]. Trong bộ

máy đó tồn tại nhan nhản những “viên chức giữ những chức vụ vô dụng” và thậm

chí còn “dốt đặc” nhưng vẫn được nhận những “đồng lương rất hậu”. Đây còn điển

hình là một bộ máy quan liêu. Các viên thanh tra thuộc địa, hàng năm ngốn của

ngân khố một số tiền khổng lồ cho công việc thanh tra “thế nhưng các ngài thanh tra

thì không bao giờ rời khỏi Pari và đối với các thuộc địa thì các ngài cũng không

hiểu biết gì hơn là hiểu biết ông Trăng già” [92, tr.69]. Đó còn là một bộ máy vô

trách nhiệm và vô cảm khi sử dụng những đồng tiền ngân sách một cách phung phí,

tuỳ tiện và bừa bãi: “Hết hành vi điên rồ này đến hành vi điên rồ khác đã phung phí

đồng tiền mà người dân An Nam khốn khổ đã phải đổ mồ hôi nước mắt mới kiếm

Page 153: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

148

được” [92, tr.68]. Một bộ máy hoạt động một cách tuỳ tiện, không tuân theo một

nguyên tắc nào: “Khi cần tiền, nhà nước bảo hộ Pháp chỉ có việc thay đổi hạng

ruộng. Chỉ một nét bút thần kì là họ biến một đám ruộng xấu thành ruộng tốt” [92,

tr.83]. Bộ máy nhà nước thực dân tồn tại và hoạt động không phải để thực hiện

những việc công ích mà chỉ để thực hiện sự cai trị chính trị nhằm vơ vét đầy túi

tham cho những kẻ cai trị. Đúng là một bộ máy “cướp giật được hợp pháp hoá”:

Một số phiên họp của Hội đồng Quản hạt chỉ là để bàn việc cướp giật công quỹ

một cách có phương pháp... Kho bạc có vơi đi chút ít thì đã có những quý quan làm

cho nó đầy lại một cách nhanh chóng. Với quyền hành sẵn có, họ sức cho dân bản xứ

biết nhà nước cần một khoản tiền bao nhiêu đó, rồi họ phân bổ cho các làng phải đóng

góp. Và các làng lo vội vàng tuân lệnh để khỏi bị trừng phạt ngay lập tức [92, tr.70].

Bọn thực dân với quyền lực trong tay ngày càng phè phỡn trên máu và nước

mắt của những người bản xứ: “Tất cả bọn chúng chỉ có mỗi cái tài là phung phí

công quỹ, còn người An Nam khốn khổ thì cứ nai lưng đóng góp, đóng góp mãi”

[92, tr.71]. Tệ tham nhũng đã bòn rút gần như sạch trơn ngân sách chính quyền:

“Trong số 12 triệu đồng của ngân sách Nam Kỳ, thì 10 triệu đồng đã tìm cách chui

sâu vào túi các ngài viên chức rồi” [92, tr.99]

Và hành động của bộ máy chính quyền ấy cũng thật quái đản. Ví như, để giải

quyết nạn đói, chính phủ bắt giam một số đông người đói. Và để cho bọn người đói

đừng coi nhà tù là nơi cứu tế, người ta không cho họ ăn gì hết cho đến chết!

Chế độ thuộc địa, chính quyền thuộc địa đã thực thi một chính sách ngu dân

triệt để hòng “làm cho dân ngu để dễ trị”. Nơi đây “ngay cả cái quyền sơ đẳng là

viết thư cho nhau, họ (người bản xứ) cũng không được hưởng. Sự vi phạm tự do cá

nhân ấy lại ghi thêm một thành tích cho cái chế độ lạm quyền, cái chế độ mật thám

bỉ ổi đương hoành hành ở các thuộc địa” [92, tr.100].

Từ việc tố cáo tội ác kinh tởm của CNTD khắp nơi trên thế giới, Nguyễn Ái

Quốc kết luận rằng: “Thế giới sẽ chỉ có nền hoà bình cuối cùng khi tất cả các dân

tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật CNĐQ ở khắp mọi nơi

mà họ gặp nó”[91, tr.11]. Kết luận này chính là sự phủ nhận của Nguyễn Ái Quốc

Page 154: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

149

với chính trị thực dân - phong kiến - một hình thức đặc biệt của nhà nước của

giai cấp tư sản đã bị thực dân hóa ở các thuộc địa của CNTB.

Trong nhận thức của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chính trị thực dân -

phong kiến sẽ phải được xoá bỏ ở Việt Nam và phải được thay thế bằng một chế độ

chính trị phù hợp với sự phát triển tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, thay thế chính trị

thực dân - phong kiến bằng nền chính trị nào thì lúc đó bản thân Người chưa tìm ra

câu trả lời.

Tiếp theo là nhìn nhận, đánh giá của Nguyễn Ái Quốc về kiểu nhà nước tư sản

tồn tại ở các nước tư bản phát triển dưới hình thức chế độ dân chủ tư sản ở Mỹ,

Pháp.

Bản chất của một chế độ chính trị thể hiện rõ nhất ở chỗ nó đại diện cho lợi ích

của ai, phục vụ cho ai. Trong quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm cho

dân tộc một con đường sống, nghiên cứu xã hội tư bản và các cuộc cách mạng nổi

tiếng thế giới như cách mạng Anh, Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh nhận thấy nhiều điều

nghịch lý.

Sự tương phản giữa những khẩu hiệu mỹ miều trên lá cờ của cách mạng tư sản

Pháp mà Nguyễn Ái Quốc được nghe thấy từ khi học trường Quốc học Huế với sự

dã man, tàn bạo của thực dân Pháp trên quê hương đau khổ của Người đã thôi thúc

Người đến nước Pháp để khám phá những gì thực sự ẩn giấu đằng sau cái gọi là “tự

do - bình đẳng - bác ái”. Đến Pháp, Người có dịp nghiên cứu bản “Tuyên ngôn

nhân quyền và dân quyền” của cách mạng Pháp 1789. Trong thời kỳ mà nền chuyên

chế phong kiến đang thống trị thế giới, mọi quyền con người bị tước đoạt, bản tuyên

ngôn là một văn kiện chính trị, pháp lý tiến bộ khi nó khẳng định quyền tự do, bình

đẳng, quyền chống áp bức của con người. Nhà nước đảm bảo quyền tự do có nghĩa

là mọi người có thể làm tất cả những gì không gây hại cho người khác và không bị

pháp luật nghiêm cấm. Quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân. Luật

pháp phải biểu hiện ý chí của tất cả các thành viên trong xã hội...

Tuy tuyên ngôn Pháp khẳng định quyền bình đẳng của con người nhưng tại

Đông Dương thuộc Pháp thì không như vậy: “Giá mà mọi người đều bình đẳng

Page 155: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

150

trước pháp luật, như người ta thường nói, thì tuổi thọ của ông Xarô, toàn quyền

Đông Dương, phải dài ghê lắm mới đủ để cho ông ngồi hết hạn tù” [92, tr.95]. Sau

cách mạng tư sản, GCTS Pháp nhiều lần thiết lập nhà nước quân chủ nghị viện

nhưng trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng nhân dân, chúng đã không thực

hiện được. Tuy nhà nước vẫn mang hình thức cộng hoà nghị viện nhưng nhà nước

tư sản Pháp ngày càng lao vào con đường độc tài, phản động. Nghiên cứu lịch sử

cách mạng Pháp, khi tư sản Pháp câu kết với tư sản Đức chống lại cách mạng,

Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: “Tư bản không có Tổ quốc” [92, tr.274]. Kết luận

này giúp Người nhận thức rõ hơn bản chất quốc tế của CNĐQ và nhà nước tư sản ở

các nước Âu Mỹ. Lịch sử cách mạng Pháp cũng cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc

những thông tin quý báu về một loại hình chính phủ của nhân dân, đó chính là công

xã Pari. Mô hình một chính phủ “Tự dân cử lên và dân có quyền thay đổi chính

phủ”, “dân có quyền tự do tổ chức, làm báo, khai hội, xuất dương...”, “bất kì đàn

ông, đàn bà, ai cũng được quyền chính trị, tuyển cử và ứng cử” [92, tr.273]. Nguyễn

Ái Quốc đã tiếp thu những giá trị chân chính, những yếu tố nhân văn, tiến bộ của

cách mạng dân chủ tư sản, của chính trị tư sản nhưng người cũng đã bước đầu nhận

ra những hạn chế của nó.

Đến Mỹ, Người nghiên cứu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ của cách mạng Mỹ

1776. Tuyên ngôn khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng họ

được Chúa ban phú cho những quyền nhất định không thể chối cãi được, rằng trong

số các quyền này có quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc” [61, tr.82]. Tuyên

ngôn cũng khẳng định cuộc đấu tranh vì nền độc lập của nước Mỹ đồng thời cũng là

cuộc đấu tranh vì một chính phủ dựa trên sự đồng thuận của nhân dân thay thế cho

một chính phủ được điều hành bởi một ông Vua. Chính phủ mới được thiết lập để

bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Các chính phủ được thiết lập trong cộng đồng con người. Các chính phủ ấy

tiếp nhận mọi sức sống từ sự chấp thuận của những người bị cai trị. Bất cứ

lúc nào mà lực lượng cai trị trở nên lực lượng phá hoại mọi kết quả đó thì

nhân dân có quyền thay đổi hay bãi bỏ chính phủ đó. Sau đó thành lập một

Page 156: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

151

chính phủ mới bằng cách đặt cơ sở của chính phủ ấy trên những nguyên tắc

như vậy. Và bằng cách tổ chức mọi lực lượng của chính phủ theo hình thức

mà theo họ sẽ là phù hợp nhất để thực thi được an ninh và hạnh phúc của họ

[61, tr.82].

Điều đó nghĩa là “hễ chính phủ nào có hại cho dân chúng thì dân chúng phải đập

đổ chính phủ đó đi và gây nên chính phủ khác” [92, tr.270]. Tuyên ngôn thì đẹp đẽ,

song những gì diễn ra trên hiện thực nước Mỹ thì trái lại. Tuyên ngôn khẳng định rõ

quyền đập đổ chính phủ nếu chính phủ ấy làm hại dân nhưng “bây giờ chính phủ Mỹ

lại không muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai động đến chính phủ. Mỹ tuy rằng cách

mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cực khổ, vẫn cứ lo tính

cách mệnh lần thứ hai [92, tr.270]. Người phát hiện ra rằng: tượng Thần Tự Do tay

nâng bó đuốc rực rỡ, đầu toả ánh hào quang biểu trưng cho khát vọng tự do toả ra

khắp thế giới nhưng chân đạp lên đầu những người da đen. Và câu hỏi lớn như một

sự trăn trở về thân phận con người rằng: ánh sáng tự do trên đầu tượng toả ra khắp

năm châu bốn bể, nhưng biết tới khi nào, ánh sáng ấy toả tới nơi gần nhất là chân bức

tượng để giải phóng cho những người nô lệ da đen? Người sớm nhìn thấy những sự

đối nghịch trong xã hội TBCN: Khi tượng Thần Tự Do, dù biểu tượng đẹp đẽ như

vậy, cũng chỉ là một bức tượng vô tri vô giác, còn nỗi thống khổ của những tù nhân

lúc nhúc như ròi bọ trên đảo ailit Ailan, cách tượng Thần Tự Do không xa kia là hoàn

toàn có thật. GCTS Mỹ ngày càng chà đạp trắng trợn các nguyên tắc cơ bản của

tuyên ngôn. Chúng đã thiết lập một chính quyền trung ương mạnh với quyền hạn tập

trung cho các cơ quan nhà nước liên bang nhằm tập trung lực lượng để có điều kiện

đàn áp có hiệu quả phong trào đấu tranh của GCCN và nhân dân lao động trong nước.

Hệ thống chính trị Mỹ với thủ đoạn cầm quyền thông qua hai đảng của GCTS nhằm

lừa bịp nhân dân lao động là hai đảng ấy đối lập nhau, đó là sự dân chủ trong nhà

nước Mỹ nhưng thực chất hai đảng đó chỉ là hai cánh tay của CNTB thay nhau nắm

giữ chính quyền nhà nước. Đúng như Ăng ghen viết: “Ở đây lại có bầy lũ lớn những

nhà chính trị đầu cơ thay nhau nắm giữ chính quyền nhà nước và lợi dụng chính

quyền đó với những phương pháp vô liêm sỉ và cả nước đều bất lực trước những tên

Page 157: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

152

lớn đó gồm những nhà chính trị vốn mạo xưng vì cả nước mà phục vụ nhưng thực ra

lại thống trị và cướp bóc nó”[86, tr.771, 772].

Cuối cùng, băn khoăn của Nguyễn Ái Quốc khi tận mắt chứng kiến những phụ

nữ Pháp nghèo khổ lao động cực nhọc dưới cảng Mácxây: “Tại sao người Pháp

không đi khai hoá cho chính họ trước khi khai hoá chúng ta?” đã có câu trả lời.

Theo Người, nguyên nhân của tất cả những nghịch lý trên tựu trung lại là vì:

Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách

mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước

lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi mà

nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới thoát khỏi

vòng áp bức [92, tr.247].

Từ nghiên cứu thực tiễn các nước TBCN và lý luận của các cuộc cách mạng tư

sản nổi tiếng thế giới, nhìn rõ những hạn chế của cách mạng tư sản và bản chất xã

hội tư bản đằng sau vẻ ngoài xa hoa, hào nhoáng, Người rút ra kết luận: Cách mạng

Việt Nam không thể đi theo con đường ấy - con đường cách mạng tư sản. Và kết

luận này một lần nữa khẳng định chính trị tư sản, kiểu nhà nước tư sản không

thể là chính trị tương lai của Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc cũng đã từng biết đến Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên

và mô hình nhà nước Trung Hoa dân quốc mà chủ nghĩa này hướng tới xây dựng.

Và dù nhận thấy chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là “chính sách của nó phù hợp

với nước ta”, song mô hình nhà nước theo kiểu Trung Hoa dân quốc - một kiểu nhà

nước dân chủ tư sản - cũng không phải sự lựa chọn của Người.

Cuối cùng là nhìn nhận, đánh giá của Nguyễn Ái Quốc về kiểu nhà nước

XHCN trong mô hình nhà nước Xô Viết ở Nga.

Vậy, không đi theo con đường cách mạng tư sản, mô hình nhà nước theo kiểu

nhà nước tư sản không phải sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Việt

Nam sẽ đi theo con đường nào gắn với một kiểu nhà nước như thế nào?

Với ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc

ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học

Page 158: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

153

hành” [94, tr161], Nguyễn Ái Quốc tâm niệm: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh

thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cho cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân

chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần,

thế dân chúng mới được hạnh phúc” [92, tr.270].

Người đã tìm thấy câu trả lời cho bài toán độc lập của Việt Nam khi biết tới

Lênin và cách mạng tháng Mười Nga. Sau nhiều trải nghiệm thực tế, Nguyễn Ái

Quốc thấm thía và cảm nhận sâu sắc hơn bản chất dối trá, giả nhân giả nghĩa của chế

độ dân chủ tư sản mà luận cương của Lênin đã chỉ ra. Cái mà GCTS cũng như chế độ

dân chủ tư sản gọi là “bình đẳng” thực chất chỉ là bình đẳng hình thức, bình đẳng cho

những kẻ hữu sản. Luận cương cũng chỉ rõ một thực tế là “tuyệt đại đa số nhân dân

trên trái đất bị một thiểu số những nước tư bản tiên tiến rất mực giàu có nô dịch… Sự

nô dịch này là đặc điểm của thời đại tư bản tài chính và CNĐQ” [80, tr.199].

Hướng tới một mô hình chính trị mới trước hết nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc

nên Nguyễn Ái Quốc dành nhiều sự quan tâm đến những luận điểm của Lênin về

cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Đặc biệt ở các dân tộc trong đó những quan

hệ có tính chất phong kiến hoặc gia trưởng nông dân đang chiếm ưu thế như Việt

Nam. Trong khi trên thế giới người ta bàn nhiều tới cách mạng vô sản ở chính quốc

mà lãng quên hoặc nhận thức chưa đúng đắn về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc

địa thì Người phát hiện ra chính Lênin là người đầu tiên đã nhấn mạnh và nhận thức

hết tầm quan trọng to lớn của việc giải quyết một cách đúng đắn vấn đề thuộc địa đối

với cách mạng thế giới. Trong tất cả các Đại hội của Quốc tế Cộng sản, của Quốc tế

Công đoàn và của Quốc tế Thanh niên Cộng sản, vấn đề thuộc địa luôn luôn được đặt

lên hàng đầu. Lênin chỉ rõ không chỉ chống bọn địa chủ và chế độ phong kiến mà còn

phải chống cả giai cấp tư sản đã bị đế quốc hóa và chế độ TBCN.

Từ những luận điểm đầy ý nghĩa về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa,

Luận cương còn chỉ ra mô hình nhà nước tương lai có khả năng tạo sức mạnh để

giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người là phải lập nên các

Xô Viết của những người lao động. Đó là mô hình mà “Chính phủ công nông binh

phát ruộng đất cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết

Page 159: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

154

cho tư bản và ĐQCN nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế

giới đại đồng” [92, tr.280]. Tiếng vang của Lênin và cách mạng tháng Mười đã đến

tận những vùng xa xăm của thế giới và Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ “người ưu tú

nhất của nước đó” cũng như “một dân tộc ở miền Bắc xa xôi” vì họ “đã đánh đuổi

được bọn áp bức và tự quản lý lấy mình” [92, tr.208]. Như vậy, khát vọng của

Nguyễn Ái Quốc về một trạng thái xã hội trong đó không còn áp bức dân tộc qua

trải nghiệm thực tiễn đã được bổ sung thêm bởi một tiêu chí quan trọng cho một mô

hình nhà nước sẽ được xác lập trong tương lai đó là: một mô hình trong đó người

dân tự quản lý lấy mình. Gặp được tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm

được sự đồng cảm lớn lao, tìm được người tri kỷ. Và lệ Bác Hồ đã rơi trên chữ

Lênin. Đặc biệt, khi nhận thấy sự khác biệt cơ bản giữa cuộc cách mạng tháng Mười

do Lênin lãnh đạo với các cuộc cách mạng tư sản trước đây, Người khẳng định:

Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành

công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng

thật, không phải thứ tự do, bình đẳng giả dối như ĐQCN Pháp khoe khoang

bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được Vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra

sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh

để đập đổ tất cả ĐQCN và tư bản trong thế giới [92, tr.280].

Khác với tất cả các cuộc cách mạng tư sản, cách mạng tháng Mười đã giải quyết

được mục tiêu kép: giành được độc lập cho dân tộc đồng thời đem tới ấm no, hạnh

phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nếu chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc như các

cuộc cách mạng tư sản mà công - nông vẫn cực khổ thì đó là cách mạng nửa vời,

không đến nơi, không triệt để. Từ sự thấu hiểu tư tưởng của Lênin và cách mạng

tháng Mười vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho cách mạng Việt Nam một con

đường: con đường dẫn tới “một tương lai mới, sáng lạn”, con đường gắn độc lập

của nước nhà với hạnh phúc của đông đảo những người lao động, một con đường

thực sự “có nghĩa lý”. Con đường đó là con đường đi theo cách mạng tháng Mười,

theo tư tưởng của Lênin và Đệ tam Quốc tế: “An Nam muốn cách mệnh thành công

thì tất phải nhờ Đệ tam Quốc tế” [92, tr.287]. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi,

Page 160: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

155

không thể đi theo con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Kết luận này

là sự gián tiếp phủ nhận kiểu nhà nước phong kiến cũng như kiểu nhà nước tư sản

và khẳng định kiểu nhà nước sẽ được lựa chọn cho cách mạng Việt Nam hướng tới

là kiểu nhà nước XHCN.

b. Các yếu tố đảm bảo tính khả thi của con đường giải phóng dân tộc gắn với

kiểu nhà nước mới ở Việt Nam

Một sự lựa chọn chỉ có thể được hiện thực hoá trong những điều kiện nhất định.

Điều kiện đó là một môi trường gồm các yếu tố mang tính tiền đề hoặc cơ sở đảm

bảo cho sự lựa chọn đó được thực hiện. Con đường giải phóng Nguyễn Ái Quốc tìm

thấy cho dân tộc sở dĩ có tính khả thi vì nó có đủ những yếu tố như vậy.

Trước hết, về khả năng thích ứng của CNCS ở Việt Nam - một nước châu Á,

phương Đông, Nguyễn Ái Quốc đã từng trăn trở: Một con đường cứu nước gắn với

một hệ tư tưởng nguồn gốc phương Tây liệu có thể thực hiện thành công ở Việt

Nam, một nước phương Đông?

Sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho Việt Nam, bản thân Nguyễn Ái Quốc

- Hồ Chí Minh cũng đã nhìn thấy khả năng thích ứng của CNCS ở châu Á, thậm

chí Người còn khẳng định CNCS thích ứng ở châu Á dễ hơn châu Âu. Trong khi,

theo cách nhìn của Lênin thì CNCS hiện thời chỉ có thể thắng lợi ở phương Tây

nhưng sau này với sự giúp đỡ của các nước, CNCS sẽ lan sang châu Á. Hồ Chí

Minh ngưỡng mộ Lênin, song Người luôn khẳng định một tư duy độc lập đầy tính

sáng tạo, không rập khuôn, máy móc. Sau này, khi nghiên cứu lịch sử, văn hoá Việt

Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện khi luận giải cho câu hỏi: Chủ nghĩa

Mác, lý luận về CNCS - một học thuyết phương Tây có khả năng vận dụng vào

phương Đông? Trước hết ông cho rằng: “Chủ nghĩa Mác đến Việt Nam không phải

là một học thuyết như các học thuyết khác, mà như một công cụ giải phóng… Nó kế

tục Nho giáo để đem lại cho đất nước một học thuyết chính trị và xã hội, giúp cho

nó giải quyết những vấn đề thực tiễn” [182, tr.42]. Ông cũng cho rằng một đất nước

Nho giáo như Việt Nam hấp thụ chủ nghĩa Mác dễ hơn một nước Hồi giáo hay

Thiên Chúa giáo. Vì Nho giáo và Chủ nghĩa Mác có những nét tương đồng, đều

Page 161: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

156

“hướng tư tưởng con người vào những việc của đời” [182, tr.43] chứ không hướng

người ta vào thế giới bên kia, đều “học tập, phục vụ xã hội chứ không phải làm

phép” [182, tr.43]. Vì vậy, “ở đây (ở Việt Nam), chủ nghĩa Mác không gặp khó

khăn như khi du nhập vào những xã hội Hồi giáo hay Thiên Chúa giáo” [182, tr.43].

Nền chính trị mới được xác lập ở Việt Nam thay thế chính trị thực dân - phong

kiến là kết quả tất yếu của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường

cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy cho dân tộc. Vậy, tính khả thi của

con đường giải phóng dân tộc gắn với nền chính trị mới được đặt trên những cơ sở,

tiền đề quốc tế, trong nước nào?

b1. Các yếu tố quốc tế

Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh gắn với một kiểu nhà nước mới ở Việt

Nam sở dĩ là một con đường có tính hiện thực trước hết vì nó phù hợp với những

điều kiện quốc tế lúc bấy giờ. Đầu tiên không thể không đề cập đến là sự thành

công của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ

Nga Hoàng, xoá bỏ ách áp bức bóc lột TBCN đã có ý nghĩa trọng đại với số phận

của hàng triệu, hàng triệu con người trên thế giới đang sống trong cảnh bị áp bức,

bóc lột. Cách mạng tháng Mười mở ra “thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai

cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời

mới, tới chỗ chiến thắng GCTS, tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản” [179,

tr.382]. Cách mạng tháng Mười thành công đã thiết lập một hình thức chính quyền

thể hiện bản chất là một chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tiếp theo là sự thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919. Ý nghĩa lịch sử vĩ đại của

Quốc tế III như Lênin khẳng định là đã thực hiện khẩu hiệu thành lập “chuyên chính vô

sản”, hướng tới một chế độ chính trị của dân, do dân và vì dân. Với sự xuất hiện của tổ

chức Quốc tế III và hoạt động tích cực của những người cộng sản Việt Nam trong đó

nổi bật là Nguyễn Ái Quốc, cách mạng Việt Nam được nhân lên sức mạnh từ sức mạnh

của phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận hữu

cơ của cách mạng thế giới, một cái cánh của cách mạng thế giới.

Một sự kiện có ý nghĩa lớn trong sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn

Page 162: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

157

Ái Quốc là sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản trên thế giới đặc biệt

đảng cộng sản Pháp và đảng cộng sản Trung Quốc.

Những năm đầu của thế kỷ XX, như là kết quả tất yếu của sự phát triển phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế, hàng loạt các đảng cộng sản trên thế giới đã ra

đời ở các nước tư bản phương Tây và các nước thuộc địa, phụ thuộc. Đặc biệt sự

xuất hiện của đảng cộng sản Pháp đã có ý nghĩa thiết thực với sự vận động của

phong trào cách mạng Việt Nam theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với quy luật phát

triển. “Đảng cộng sản Pháp, ngoài việc tổ chức xuất bản còn tìm cách đưa các tài

liệu Mác xít vào Việt Nam theo những chuyến tàu, trên đường hàng hải Pháp - Việt

Nam… Đảng cộng sản Pháp được uỷ nhiệm việc chỉ huy phong trào ở các thuộc địa

Pháp” [179, tr.393, 394]. Mặt khác, phong trào đấu tranh của GCCN và nhân dân

lao động Pháp dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Pháp chống lại chính phủ thực

dân Pháp tại chính quốc cũng tạo thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh của nhân dân

Đông Dương, nhân dân Việt Nam chống CNTD.

Sự xuất hiện của đảng cộng sản tại nước láng giềng phương Bắc năm 1921 cũng

là một mối đe doạ với CNTD Pháp ở Việt Nam và cộng hưởng sức mạnh cho cách

mạng Việt Nam.

Nhờ Đảng cộng sản Pháp và Đảng cộng sản Trung Quốc, những người cách

mạng Việt Nam đã tiếp thu ảnh hưởng đầy sức sống của cách mạng tháng

Mười và chủ nghĩa Mác- Lênin [98, tr.570]

Cuối cùng, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai với thắng lợi thuộc về phe đồng

minh, thất bại thuộc về phe phát xít đã tạo tình thế cách mạng trực tiếp cho một

cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi ở Việt Nam và thiết lập nên chế độ

dân chủ cộng hoà.

b2. Các yếu tố trong nước

Các yếu tố này có thể là các tiền đề có sẵn hoặc các cơ sở đang được tạo ra.

Các tiền đề chính là hệ quả tất yếu được tạo ra từ chính sách cai trị thuộc địa của

thực dân Pháp ở Việt Nam. Thực dân Pháp tạo ra các cơ sở cho sự tồn tại của nền

chính trị thực dân - phong kiến cũng chính là tạo ra những yếu tố mang tính tiền đề

Page 163: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

158

để tiêu diệt nền chính trị này. Các cơ sở được tạo ra từ hoạt động chính trị tích cực

của Nguyễn Ái Quốc cùng những đồng chí của Người nhằm hiện thực hoá con

đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản ở Việt Nam.

Một là tiền đề xã hội

Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi, không thể đi theo con đường nào khác

con đường cách mạng vô sản. Phát hiện đó của Nguyễn Ái Quốc đã hoàn toàn có cơ

sở xã hội để thực hiện tại nước ta.

Sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, đặc biệt hai cuộc khai thác thuộc địa

đã sản sinh ra một lực lượng xã hội chưa từng có trong xã hội Việt Nam là

GCCN. Trong khi các tầng lớp, giai cấp xã hội khác ở Việt Nam lúc bấy giờ đều

không đủ sức mạnh lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi thì

chính địa vị kinh tế, vị trí, vai trò và thái độ chính trị của GCCN Việt Nam đã chi

phối sự phát triển của cách mạng Việt Nam, quy định con đường phát triển của dân

tộc Việt Nam.

Với giai cấp nông dân, lực lượng chiếm đa số trong dân cư thì: “Trong tất cả

các thuộc địa Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi

dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần

nổi dậy nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay, nông dân vẫn còn

trong tình trạng tiêu cực thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người

lãnh đạo” [91, tr.289]. Dù chiếm tới 95% dân số “nhưng vì hoàn cảnh kinh tế lạc

hậu mà nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu” [97, tr.213]. Do đó, nông

dân Việt Nam không thể lãnh đạo được cách mạng đi đến thắng lợi.

“Phong kiến địa chủ và tư sản mại bản, thà chịu kinh tế nước nhà phụ thuộc

vào đế quốc chứ không muốn giải phóng nông dân, không muốn công nghệ nước ta

được phát triển”. Như vậy, lực lượng này không những không lãnh đạo được cách

mạng mà còn là đối tượng của cách mạng.

Tiểu tư sản, trí thức dù là những người “cũng bị đế quốc, phong kiến áp bức,

có học thức, dễ có cảm giác chính trị…dễ tiếp thu sự giáo dục cách mạng” nhưng có

nhược điểm “lý luận không đi đôi với thực hành, xem khinh lao động, tư tưởng mơ

Page 164: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

159

hồ, lập trường không vững, khi hành động thì hay lung lay” [97, tr.314]. Nhìn

chung, tiểu tư sản trí thức có nhược điểm là tự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên quyết nên

cũng không thể lãnh đạo được cách mạng.

Giai cấp công nhân Việt Nam xuất hiện gắn liền với các cuộc khai thác thuộc

địa của Pháp ở Đông Dương. “Sự phát triển của CNTB thực dân ở Đông Dương đã

tạo ra ở xứ đó hai giai cấp, giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp vô sản nông

nghiệp” [92, tr.357].

Sau chiến tranh thế giới 1914-1918, khi Pháp bước vào cuộc khai thác thuộc địa

lần hai (1918-1929), sự đầu tư tư bản vào nước ta tăng một cách ồ ạt với nhiều nhà

máy, xí nghiệp được xây dựng thì GCCN tăng nhanh chóng về số lượng và có sự

trưởng thành về lập trường giai cấp. Trong khi đó, những nhà tư sản đầu tiên của

Việt Nam phải tới chiến tranh thế giới 1914-1918 mới xuất hiện. Trong chiến tranh,

đường biển từ Pháp sang Đông Dương bị các tàu ngầm Đức phong toả nên tư sản

Pháp không thực hiện được vai trò của mình làm cầu nối giữa thị trường Pháp và thị

trường Đông Dương, lúc đó, tư sản Việt Nam xuất hiện, thế chân vào chỗ của tư sản

Pháp. Như vậy, có thể thấy, GCCN Việt Nam ra đời trước GCTS Việt Nam và rõ

ràng có ưu thế hơn hẳn GCTS Việt Nam về thời điểm ra đời. Khi GCTS Việt Nam

ra đời thì GCCN Việt Nam đã bước đầu khẳng định được vị thế, vai trò của mình.

Công nhân Việt Nam phần lớn làm việc trong các cơ sở kinh tế của người Âu

(so với số công nhân làm trong các cơ sở kinh tế của người Việt và người Hoa, tỷ lệ

này những năm 30 của thế kỷ XX là khoảng 22 vạn so với vài ba vạn) do đó quá

trình lao động của họ gắn liền với nền đại công nghiệp được du nhập từ Pháp sang

nước ta. Họ là “giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất” [97, tr.212], là giai cấp có

“đặc tính cách mạng” là: “kiên quyết, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật” [97, tr.212].

GCCN Việt Nam phân bố trên khắp cả nước nhưng tập trung nhiều ở các trung tâm

công nghiệp lớn. Có những khu mỏ có hàng vạn công nhân, có những đồn điền, nhà

máy có hàng ngàn công nhân. Năm 1929, ở Hà Nội tỷ lệ công nhân so với tổng số

dân của thành phố là 15%. Sự tập trung này tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân

khi họ tổ chức các cuộc đấu tranh và cho những người cộng sản khi truyền bá lý

Page 165: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

160

luận cách mạng vào phong trào công nhân.

Nội bộ GCCN tương đối thống nhất vì không có đội ngũ công nhân quý tộc và

những công đoàn vàng. Công nhân Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông thôn do đó

họ có mối liên lạc chặt chẽ với làng quê và những người nông dân. Mặt khác, nhiều

người còn hiện diện đồng thời với hai tư cách, lúc này là công nhân, lúc khác là

nông dân. Mối liên hệ này tạo thuận lợi lớn cho việc xây dựng liên minh công -

nông. Họ xuất thân từ những người nông dân bị phá sản và buộc phải bán sức lao

động của mình cho giới chủ. Để có đủ nhân công cho các cơ sở kinh tế của người

Pháp, chính quyền thuộc địa đã thực hiện mọi biện pháp để bần cùng hoá những

người lao động... và bằng chính sách cưỡng bức, đẩy họ vào làm việc tại các nhà

máy, hầm mỏ, đồn điền.

Trở thành công nhân là bước đường cùng của những người lao động Việt Nam

dưới chế độ thuộc địa. Họ buộc phải trở thành công nhân bằng chính sách bắt phu,

mộ phu một cách tàn nhẫn trong một “hệ thống buôn bán nô lệ da vàng” ở cái “chợ

buôn nô lệ”. Và những con người không có bất cứ một thứ vũ khí nào trong tay ấy-

những người buộc phải trở thành công nhân - đã “ký một hợp đồng nô lệ trong vòng

3 năm... bắt đầu một cuộc hành trình đến cõi âm trên trần thế, nạn nhân của một chế

độ bóc lột đặc biệt thực dân - phong kiến, dưới roi vọt của xu-ba-giăng, cai, ký, bị

hành hạ bởi đói khát, bệnh tật, bị vắt đến kiệt cùng sức lực, bị xúc phạm về nhân

cách và tình cảm dân tộc” [179, tr. 370, 371].

Công nhân Việt Nam không có thân phận con người, họ bị coi như một thứ

hàng hoá mà bọn cai thầu được nhận hoa hồng sau khi giao nộp cho chủ. “Các xí

nghiệp ngoại quốc lại thường không biết rõ số nhân công họ sử dụng, mà chỉ biết

những người cai thầu mộ thợ cho họ” [4, tr.232] thế nhưng những ông chủ tư bản

này lại có thể tự ấn định số giờ làm việc của công nhân trong các xí nghiệp của

chúng. Điều kiện làm việc và sinh hoạt của công nhân Việt Nam thật sự tồi tệ với

đủ thứ tệ nạn trên đời, mức sống của họ ngày càng giảm đi. Dường như, vốn đầu tư

của tư bản Pháp vào Việt Nam càng tăng lên thì số lượng công nhân càng tăng

nhanh chóng và công nhân bị bóc lột ngày càng tàn tệ hơn chứ không làm cho cuộc

Page 166: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

161

sống của họ khả dĩ hơn. Vì nguồn cung công nhân quá lớn dẫn tới lương công nhân

thấp nên giới chủ gần như không cần quan tâm tới tăng năng suất bằng các phương

tiện kỹ thuật mà tha hồ bóp nặn, bóc lột công nhân. “Vì áp bức mà sinh ra cách

mệnh, cho nên ai bị áp bức càng mạnh thì cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng

quyết” [92, tr.266]. Công nhân Việt Nam là lực lượng xã hội bị áp bức nặng nề do

đó có tinh thần cách mạng cao. Những sự chuyển biến về mặt kỹ thuật trong quá

trình khai thác thuộc địa đòi hỏi trình độ chuyên nghiệp của công nhân ngày càng

cao, do đó, số công nhân chuyên môn ngày càng gia tăng. Đặc biệt, số công nhân

được mộ sang Pháp trong chiến tranh, phần nhiều là những công nhân có trình độ

kỹ thuật. Và do được tiếp xúc với lối sống mới, chịu ảnh hưởng của những luồng tư

tưởng mới, những khát vọng về chính trị và xã hội, và khi trở về, trong chừng mực

nhất định, họ đã có đầu óc công nghiệp. Bộ phận này là một trong những hạt nhân

làm cho chất lượng GCCN ngày càng tăng lên.

Dù GCCN Việt Nam có số lượng ít và chất lượng không cao nhưng “Lãnh đạo

được hay không là do đặc tính cách mạng chứ không phải do số người nhiều hay

ít” [91, tr.212]. Mặt khác, số lượng và đội ngũ chính trị của GCCN Việt Nam hoàn

toàn có triển vọng phát triển vì Đảng của GCCN “đề ra chủ trương, đường lối, khẩu

hiệu cách mạng, lôi cuốn GCCN và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành

những phần tử tiên tiến, lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản

hoá thành thử đội ngũ chính trị của GCCN ngày càng phát triển. Mai sau công nghệ

của ta ngày càng phát triển thì số công nhân ngày càng tăng thêm” [91, tr.212]. Hơn

nữa, công nhân Việt Nam không tồn tại đơn độc mà tồn tại trong mối quan hệ và sự

hậu thuẫn với GCCN quốc tế: “Nước ta GCCN còn nhỏ, song ở thế giới thì GCCN

rất to lớn” [91, tr212].

Mặt khác, GCCN giai đoạn này phần lớn là những người lao động trẻ tuổi, họ

có sức mạnh của tuổi trẻ cùng với sức phản kháng không chỉ của người lao động bị

bóc lột cùng cực mà còn sức mạnh phản kháng của những người dân mất nước. Sức

mạnh của tuổi trẻ, của mối thù giai cấp và mối thù dân tộc hoà vào trong họ tạo nên

một sức mạnh vô địch khi họ được giác ngộ và tổ chức lại. “GCCN có thể thấm

Page 167: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

162

nhuần tư tưởng cách mạng nhất, tức chủ nghĩa Mác Lênin. Đồng thời tinh thần đấu

tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư

tưởng, tổ chức và hành động, GCCN đều giữ vai trò lãnh đạo” [97, tr.212]

Như vậy, có thể thấy, sự cai trị của Pháp đã tạo ra ở Việt Nam một GCCN hiện

đại với bản chất quốc tế và những đặc điểm mang tính chất đặc thù Việt Nam. Với

những đặc điểm nổi trội này cùng với ưu thế về sự ra đời trước so với GCTS Việt

Nam, GCCN Việt Nam giữ vị thế thượng phong trong vai trò người lãnh đạo cuộc

cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi.

Chỉ có GCCN là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương

đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh

nghiệm cách mạng của phong trào cộng sản quốc tế, GCCN tỏ ra là người

lãnh đạo xứng đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam [91, tr.15].

Hai là các tiền đề về tư tưởng, văn hoá

Những năm đầu thế kỷ XX, một hệ tư tưởng mới đã xâm nhập vào Việt Nam,

đó là hệ tư tưởng vô sản. Có nhiều phương thức để hệ tư tưởng vô sản thâm nhập

vào nước ta. Ở đây, như là hệ quả sự cai trị thuộc địa của thực dân Pháp, có thể

thấy, chính thông qua chủ nghĩa chống cộng của thực dân Pháp ở Việt Nam bằng

báo chí thực dân mà hệ tư tưởng này đã xâm nhập vào nước ta.

Mặc dù tờ báo bí mật đầu tiên có xu hướng cộng sản (báo Thanh niên) ra đời

năm 1925, nhưng trước đó báo chí ở Việt Nam đã kịp nói tới cách mạng Nga

và sự “đe doạ” của phong trào cộng sản... Ngay từ những năm 1919, 1920,

người ta đã đọc được nhiều bài viết công kích, bịa đặt, vu khống chính quyền

Xô Viết non trẻ và CNCS. Không chỉ báo chí Pháp mà cả báo chí tiếng Việt

cũng bị sử dụng vào công việc này [179, tr274].

Điển hình là tờ Diễn đàn Đông Dương ở miền Nam “đề cao chủ nghĩa Pháp

Việt đề huề, chửi mắng thậm tệ, nói xấu hết lời CNCS, cách mạng Nga và Lênin”

[179, tr.270].

Vào những năm 1920-1924, bọn quan lại thực dân Pháp luôn luôn tuyên

truyền chống lại CNCS. Giáo trình của giáo sư sử học đã cố tình miêu tả chế

Page 168: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

163

độ Xô Viết như là một tai vạ của lịch sử hiện đại… Những buổi diễn thuyết

nói xấu Liên Xô, bôi nhọ các nhà lãnh đạo cách mạng tháng Mười [179,

tr.403].

Thực dân Pháp đã phạm một sai lầm lớn: chúng triển khai chủ nghĩa chống

cộng ở Việt Nam khi ở nước ta chưa hề có tư tưởng về CNCS. Người Việt Nam,

nhất là tầng lớp trí thức cấp tiến lúc bấy giờ đã lờ mờ hiểu ra hình như nước Nga Xô

Viết, Lênin là bạn của ta? Họ đặt ra câu hỏi và suy luận:

Đối với ta, kẻ thù là ai? Tây lấy nước ta. Tây cướp thuộc địa ở khắp nơi…

Nếu như chúng nó ghét chế độ Xô Viết đến mức đó thì CNCS chỉ có thể là

người bạn tốt của những người dân thuộc địa chứ sao? [179, tr.403].

Một trong những hiệu ứng ngoài ý muốn của bọn thực dân trong việc tuyên

truyền chống cộng và “làm sạch” môi trường chính trị tại thuộc địa Việt Nam là đã

góp phần thúc đẩy phong trào tìm hiểu về CNCS phát triển ở nước ta.

Mặt khác, sau chiến tranh, nhiều thuỷ thủ, lính thợ Việt Nam bị thực dân bắt

lính sang chiến trường châu Âu hồi hương. Họ trở về mang theo các hiểu biết mới,

tư tưởng mới và cả kinh nghiệm đấu tranh của những anh em đồng chí ở châu Âu về

nước. Thực tế này làm cho đời sống tư tưởng và hoạt động chính trị ở Việt Nam

càng thêm đa dạng, phong phú.

Nếu như hai con đường trên là những con đường hết sức tự nhiên thì một con

đường hoàn toàn mang tính chủ động để hệ tư tưởng vô sản có thể thâm nhập vào

Việt Nam đó là thông qua sự truyền bá của Nguyễn Ái Quốc mà chúng ta sẽ nghiên

cứu trong phần cơ sở chính trị ở sau.

Bằng nhiều con đường chính thức và phi chính thức, chủ nghĩa Mác-Lênin, lý

luận cách mạng của GCCN đã thâm nhập vào phong trào cách mạng Việt Nam thức

tỉnh quần chúng cách mạng, trước hết là GCCN Việt Nam. Đây là một trong những

điều kiện quan trọng dẫn tới GCCN Việt Nam có thể tự tin bước lên vũ đài chính

trị, thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Và đây cũng chính là một tiền đề tư

tưởng không thể thiếu cho việc hiện thực hoá từng bước con đường giải phóng dân

tộc mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Page 169: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

164

Một nhân tố không thể không kể tới là sự tương đồng giữa những yếu tố của

tư tưởng, văn hoá Việt Nam với học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin tạo điều

kiện thuận lợi cho chủ nghĩa Mác Lênin thâm nhập vào nước ta. Ở các nước

phương Đông từ rất sớm đã hình thành những mầm mống tư tưởng có tính chất

XHCN như quan điểm dân là gốc, cộng đồng về tài sản, quan điểm về tình nhân ái

yêu thương con người, quan điểm về xã hội đại đồng lý tưởng của Khổng Tử, quan

điểm về lòng từ bi bác ái của Phật… Trong lịch sử châu Á, điều đặc biệt là chế độ

quân chủ đã tồn tại hàng nghìn năm song cách tư duy và ứng xử của người dân nơi

đây rất gần gũi với những giá trị “dân chủ”. Chẳng phải tinh thần “Dân vi bản, xã

tắc thứ chi, quân vi khinh” của Khổng Tử đã được nhiều nước châu Á coi là nguyên

tắc ứng xử trong mối quan hệ giữa người dân và chính quyền đó sao? Hay Phật giáo

- một tôn giáo của Phương Đông, các nước Phương Đông đã thấm nhuần Phật giáo

từ hơn hai nghìn năm - là một tôn giáo luôn đề cao sự bình đẳng giữa con người với

nhau. Phật đã từng nói: Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành. Là một

nước nằm ở một vị trí địa lý đặc biệt, từ lâu trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam

có cơ hội tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của các học thuyết chính trị - xã hội và tôn

giáo của các nước châu Á, phương Đông. Trong một môi trường với những giá trị

truyền thống như vậy, những tư tưởng XHCN rất gần gũi và quen thuộc với người

châu Á. Mặt khác, những giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam như truyền thống

đoàn kết, tinh thần cố kết cộng đồng, tương thân tương ái… rất gần gũi với bản chất

của CNXH. Sự tương đồng này khiến cho người Việt Nam khi tiếp nhận học thuyết

CNXH của Mác, dù có nguồn gốc phương Tây nhưng không thấy xa lạ, ngỡ ngàng.

Hơn nữa, chính sự thống trị tàn bạo của CNTD phương Tây ở châu Á đã tạo ra

những tiền đề cho sự lựa chọn con đường XHCN. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Lịch

sử các cuộc khai thác thuộc địa bao giờ cũng được viết bằng máu và nước mắt của

những người bản xứ. Sự cai trị tàn bạo đó đã dồn con người đến bước đường cùng

và thôi thúc khả năng tự giải phóng, hướng tới một xã hội đối lập với trạng

thái đang tồn tại: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang giấu

một cái gì đó đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời

Page 170: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

165

cơ đến” [91, tr.28]. Và trạng thái xã hội họ hướng tới là: “Một thế giới XHCN,

CNCS không có người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình

đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người” [99, tr.324]

Như vậy, sự cai trị tàn bạo của CNĐQ đã thôi thúc nhân dân Việt Nam phải đấu

tranh giải phóng, thoát khỏi trạng thái tủi nhục đó. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy cho

nhân dân Việt Nam một con đường. Để con đường đó được thực hiện, nhân dân

Việt Nam cần một chủ nghĩa - chủ nghĩa Mác lênin. Bản thân chủ nghĩa Mác Lênin

khi truyền bá vào một nước Nho giáo như Việt Nam đã có nhiều yếu tố thuận lợi.

Trên thực tế, bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau, lý luận “chắc chắn nhất,

chân chính nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất” này đã thâm nhập vào phong trào

công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam tạo “vũ khí tinh thần” để GCCN có

thể hoàn thành vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình trong cuộc cách mạng giải phóng

dân tộc và hướng tới xây dựng một xã hội mới gắn với một nền chính trị mới.

Ba là tiền đề về kinh tế

Những yếu tố của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường được tạo ra từ sự cai trị

của Pháp làm cho yêu cầu về dân chủ trở nên cần thiết sau khi giành độc lập để có

thể phát triển đất nước. Vì nhà nước cho sự phát triển không phải nhà nước nói

chung mà phải là một nhà nước pháp quyền, một nhà nước dân chủ.

Sự đầu tư tư bản của Pháp vào Việt Nam trong suốt thời gian cai trị gần trăm

năm ở nước ta, sự mở rộng đầu tư kinh tế và thiết bị kỹ thuật đã dẫn tới sự biến đổi

trong các ngành kinh tế truyền thống và sự xuất hiện của một khu vực hoàn toàn

mới, chưa từng có trong nền kinh tế Việt Nam - khu vực kinh tế hiện đại.

Sau chiến tranh 1914-1918, với sự đầu tư ồ ạt của thực dân Pháp vào thuộc địa

Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, các hoạt động tài chính diễn ra vô

cùng sôi nổi, cả về phía các công ty tài chính cũng như về phía chính quyền thuộc

địa. Các tổ hợp tài chính với sức mạnh khổng lồ mà đứng đầu là ngân hàng Đông

Dương và các công ty tài chính nổi tiếng đã bị ngân hàng Đông Dương thâu tóm đã

chi phối hầu hết mọi hoạt động kinh tế ở thuộc địa Việt Nam. Ngân hàng Đông

Dương đã được ví như “con bạch tuộc trung tâm tài chính ở Đông Dương... tâm và

Page 171: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

166

não của nền kinh tế Đông Dương... Trên thực tế, ngân hàng Đông Dương đã trở

thành một ngân hàng mang tính chất nhà nước nhưng không chịu sự kiểm soát của

nhà nước” [179, tr.204, 205]. Thực tế này là một minh chứng cho sự phát triển của

kinh tế TBCN ở Đông Dương thuộc địa trong đó có nước ta.

Trong khu vực kinh tế truyền thống mà điển hình là nông nghiệp, vốn đầu tư

tăng nhanh, nhiều công ty nông nghiệp được thành lập, hiện tượng tập trung sản

xuất trong nông nghiệp biểu hiện ngày càng rõ rệt, diện tích đất canh tác được mở

rộng, kinh tế đồn điền phát triển, tích tụ tập trung ruộng đất trong nông nghiệp ngày

càng lớn... Như vậy, nông nghiệp - một ngành kinh tế truyền thống đã phát triển

theo hướng TBCN, đúng như nhận định của đại hội nông nghiệp thuộc địa năm

1920:

Kể từ nay, chúng ta không thể bằng lòng với việc sử dụng những sản phẩm

tự nhiên của đất đai hay những thực phẩm do việc khai thác gần như mọi rợ

những đất đai mà người bản xứ cấy trồng. Thời kỳ này phải được kế tiếp

bằng một thời kỳ khác gọi là: Thời đại nông nghiệp, có nghĩa là khai thác đất

đai bằng người bản xứ dưới sự hướng dẫn của các điền chủ có nhiều vốn và

những hiểu biết mang tính chất thực tiễn [179, tr.126, 127].

Tính chất tự cấp, tự túc, khép kín, cô lập của các ngành kinh tế truyền thống

ở Việt Nam đã có sự biến chuyển lớn dưới thời Pháp thuộc. Các ngành này đã có sự

biến đổi theo hướng sản xuất hàng hoá, theo kinh tế thị trường TBCN.

Sự phát triển của kinh tế Việt Nam thời kỳ này (thời kỳ 1919-1945) có xu thế

gắn liền với thị trường nước ngoài, trước hết là thị trường lúa gạo và nguyên

liệu cao su... Sự gia tăng các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu trước hết là lúa

gạo và ngô một mặt góp phần đẩy mạnh sản xuất phát triển, mặt khác chứng

tỏ nền nông nghiệp Việt Nam đã dần dần thoát khỏi tính chất tự cung tự cấp,

để chuyển sang thời kỳ sản xuất có tính chất hàng hoá [63, tr.86,92].

Diện mạo của một khu vực kinh tế hiện đại mang tính chất TBCN xuất hiện

ngày càng rõ nét trong nền kinh tế Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp.

Trước hết là một nền công nghiệp thuộc địa với hai bộ phận chính là công nghiệp

Page 172: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

167

mỏ và công nghiệp chế biến. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự đầu tư

tư bản ngày càng lớn của tư bản Pháp, nền công nghiệp Đông Dương nói chung và

công nghiệp Việt Nam nói riêng phát triển rất nhanh chóng. Và kết quả là: “xứ

Đông Dương đã xa dần giai đoạn tiền tư bản để tiến sát gần với CNTB thật sự,

trong đó đã xuất hiện sự tách rời giữa lao động và tư bản” [63, tr.109]. Sự phát triển

mạnh mẽ của ngành giao thông vận tải để phục vụ cho các cuộc khai thác thuộc địa

của Pháp ở Việt Nam, đặc biệt sự ra đời của ngành hàng không - một ngành kinh tế

hiện đại và rất mới mẻ trên thế giới lúc bấy giờ (năm 1917, sở hàng không Đông

Dương được thành lập) là những tiền đề quan trọng để thống nhất thị trường trong

nước, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của

ngành ngoại thương với các luồng trao đổi ngày càng gia tăng làm cho kinh tế Việt

Nam ngày càng hoà nhập với thị trường thế giới. Khác với thời phong kiến bế quan

toả cảng, dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam có quan hệ buôn bán với nhiều nước ở

châu Á (Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Singapo, Nhật Bản...) và khu vực Âu,

Mỹ (ngoài Pháp là chủ yếu còn có các nước như Mỹ, Đức, Bỉ, Hà Lan, Anh...).

Dưới tác động của phương thức sản xuất TBCN do Pháp du nhập vào, nền

kinh tế Việt Nam dần dần chuyển biến từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc

hậu, tự cung tự cấp sang một nền kinh tế thuộc địa - TBCN... Nền kinh tế

hàng hoá đã bắt đầu hình thành và phát triển ở một số khu vực sản xuất...

Nhờ có các hoạt động kinh tế với nước ngoài mà lần đầu tiên nền kinh tế Việt

Nam đã vượt khỏi biên giới quốc gia để tiếp cận và từng bước hội nhập với

nền kinh tế thế giới [63, tr.63].

Có thể thấy kinh tế nào, chính trị ấy. Với nền kinh tế phong kiến tự cung tự cấp,

khép kín, chính trị tương ứng với nó là chế độ quân chủ chuyên chế. Với những yếu

tố của kinh tế thị trường, chính trị sẽ phải là chính trị khác. Diện mạo mới của nền

kinh tế Việt Nam tạo tiền đề, nhu cầu cho việc xác lập một thiết chế chính trị, một

chế độ chính trị phù hợp để có thể đưa đất nước phát triển sau ngày độc lập.

Bốn là cơ sở về chính trị

Ba yếu tố trên là những yếu tố mang tính tiền đề được tạo ra từ sự cai trị của

Page 173: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

168

thực dân Pháp ở nước ta. Yếu tố thứ tư này là yếu tố mang tính cơ sở được những

người Việt Nam điển hình là Nguyễn Ái Quốc tạo ra một cách chủ động. Cơ sở

được tạo ra này như là nhân tố hội tụ các tiền đề cho một bước ngoặt cách mạng

thay thế chính trị thực dân - phong kiến bằng chính trị dân chủ nhân dân.

Yếu tố có tính chất quyết định để hiện thực hoá con đường cứu nước gắn với

mô hình nhà nước kiểu mới ở nước ta là phải thành lập Đảng cộng sản. Nguyễn Ái

Quốc cùng những người đồng chí của Người đã có những hoạt động chính trị hết

sức tích cực, chủ động để tiến tới thành lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam. Sau

khi tìm ra con đường mới cứu nước, Người hoạt động tích cực trong Ban nghiên

cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa

nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào các nước thuộc địa. Đặc biệt, Người

truyền bá vào trong nước những tư tưởng mới về con đường cứu nước nhằm thức

tỉnh quần chúng nhân dân, giác ngộ họ về một lối thoát cho dân tộc trong cảnh bế

tắc, vô vọng, không đường ra, giác ngộ GCCN về vai trò, sứ mệnh lịch sử của họ.

Người đã thiết lập nhiều kênh khác nhau để thực hiện quá trình truyền bá này:

Thông qua đội ngũ Việt kiều, đặc biệt trí thức Việt kiều tại Pháp; thông qua hoạt

động của Đảng cộng sản Pháp mà Người là một trong những thành viên sáng lập;

thông qua hoạt động của Quốc tế Cộng sản ở phương Đông... Bằng nhiều công cụ

khác nhau như báo chí, xuất bản, Người đã truyền bá lý luận cách mạng về trong

nước. Sau này, Người thành lập tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên, đào tạo,

huấn luyện một cách bài bản cho những người yêu nước Việt Nam tư tưởng mới về

con đường cứu nước, tư tưởng về CNCS.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt

Nam khi được hấp thụ chủ nghĩa Mác Lênin đã làm xuất hiện nhu cầu có một tổ

chức chính trị đủ sức mạnh lãnh đạo phong trào tiến lên. Nhận thức được nhu cầu

đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta

lúc bấy giờ, thành lập đảng cộng sản Việt Nam. Đây là bộ tham mưu chiến đấu của

GCCN Việt Nam, giữ vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng. Sự ra

đời của một đảng chính trị được tổ chức theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin

Page 174: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

169

đã là một yếu tố không thể thiếu để thực hiện con đường giải phóng dân tộc mà

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy cho dân tộc Việt Nam.

Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh là một yếu

tố quan trọng đồng thời là nhân tố hội tụ các tiền đề cho một bước ngoặt cách

mạng thay thế chính trị thực dân - phong kiến bằng một nền chính trị mới.

Có thể khẳng định, nền chính trị thay thế chính trị thực dân - phong kiến ở

nước ta không phải một mô hình được định sẵn để hướng tới xây dựng mà là kết

quả của một con đường cứu nước giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô dịch đế

quốc, thực dân. Nền chính trị nào đáp ứng được mục tiêu độc lập dân tộc, nền chính

trị đó sẽ thắng thế. Nói cách khác, nền chính trị nào giải quyết được mâu thuẫn chủ

yếu giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc, thực dân xâm lược, nền chính trị

đó sẽ khẳng định được vị trí của mình trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, phải nhận

thấy rằng, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù

xâm lược như thực dân Pháp. Thách đố lịch sử đặt ra trước mắt dân tộc Việt Nam từ

nửa sau thế kỷ XIX là một thách đố lịch sử khác hẳn về bản chất. “Kẻ thù xâm lược

mới là đại diện của phương thức sản xuất cao hơn - phương thức sản xuất TBCN,

cho một nền văn minh xa lạ - văn minh phương Tây, và cho một thế lực quốc tế -

tức là CNTD phương Tây” [173, tr.334]. Do đó, để có thể lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ

đánh lớn, lấy yếu đánh mạnh, một nhu cầu bức thiết đặt ra là phải tối đa hoá sức

mạnh dân tộc, thay đổi thế và lực của dân tộc Việt Nam. Thay đổi tương quan so

sánh lực lượng bằng cách phát huy tối đa khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những nhu cầu để chiến thắng kẻ

thù xâm lược.

Sức mạnh đó trước hết là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân được quy tụ

thông qua sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Hồ Chí Minh thành lập đảng cộng sản Việt Nam trước hết để đáp ứng yêu cầu

bức thiết tối đa hoá sức mạnh dân tộc, thay đổi thế và lực của dân tộc Việt Nam vì

sự tồn vong của dân tộc này. Đảng ra đời để “trong thì vận động và tổ chức dân

chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [25,

Page 175: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

170

tr.24]. Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng của GCCN và nhân dân lao động là rất

to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có đảng lãnh đạo mới chắc chắn

thắng lợi” [99, tr.290]. Đảng cộng sản - một thực thể chính trị hoàn toàn mới, lần

đầu tiên xuất hiện trong lịch sử dân tộc Việt Nam vì sự sống còn của dân tộc. Khi

đặt câu hỏi, cách mạng trước hết phải có cái gì, câu trả lời mà Hồ Chí Minh đưa ra

là: Phải có đảng cách mệnh. Đảng cộng sản Việt Nam là một đảng được xây dựng

theo nguyên tắc đảng kiểu mới của GCCN. Đảng là bộ tham mưu chiến đấu của

GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là nơi hội tụ những gì tinh tuý nhất

của dân tộc. Đảng là đạo đức, là văn minh. Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm

của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu

nước Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Đảng ra đời, với đường lối chiến lược

và sách lược đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với nhu

cầu của xã hội Việt Nam là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cận, hiện đại

Việt Nam. Đảng ra đời là hạt nhân quy tụ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp

sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế tạo ra sức mạnh khổng lồ để giải phóng

dân tộc, giành độc lập.

Nhiều lãnh tụ yêu nước Việt Nam trước Nguyễn Ái Quốc cũng đã nhận thấy

chừng nào toàn dân tộc ta chưa thực sự đồng tâm, nhất trí, đồng sức, đồng lòng, tựu

trung dưới một ngọn cờ thì chúng ta chưa thể chiến thắng đế quốc, thực dân. Lời

kêu gọi “đồng tâm” dù tha thiết của Phan Bội Châu song thiếu cơ sở lý luận, thiếu

phương tiện và biện pháp cụ thể thì khối đại đoàn kết cũng không thể trở thành hiện

thực. Mặt khác, trong lịch sử hình thành phát triển dân tộc Việt Nam dù đoàn kết đã

trở thành truyền thống song không phải không có những yếu tố dị biệt, đa dạng

trong cộng đồng đó. Thêm vào đó là chính sách “chia để trị” thâm độc của đế quốc,

thực dân. Tất cả những thực tế đó khiến cho việc tập hợp toàn dân trong một khối

thống nhất để chiến thắng kẻ thù chung không phải là một điều dễ dàng.

Sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh với

một đường lối đại đoàn kết dân tộc được kết tinh từ truyền thống yêu nước, nhân ái,

tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam, từ quan điểm của chủ nghĩa Mác

Page 176: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

171

Lênin về tập hợp lực lượng cách mạng, từ đúc rút kinh nghiệm thành công, thất bại

của phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới đã đưa truyền thống yêu nước và

đoàn kết của dân tộc Việt Nam thăng hoa lên một đỉnh cao mới, khác biệt về chất so

với đại đoàn kết truyền thống. Đặc biệt, dưới ánh sáng của một lý luận cách mạng

“chắc chắn nhất, chân chính nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất” của thời đại là lý

luận của chủ nghĩa Mác Lênin, bằng phương pháp phân tích biện chứng dân tộc -

giai cấp, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đưa ra tư tưởng đại đoàn kết toàn dân

ở một tầng bậc mới cao hơn đại đoàn kết truyền thống ở cả bề rộng và chiều sâu.

Mẫu sỗ chung quy tụ mọi người vào một khối thống nhất, theo Hồ Chí Minh là

truyền thống yêu nước, thương nòi, đặc biệt mỗi khi tổ quốc lâm nguy. Đó còn là sự

gắn bó, keo sơn của anh em trong một nhà, từ một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ mà

sinh thành. Dù ở đâu, người Việt Nam đều cùng một mẹ, là con Lạc, cháu Hồng,

con Rồng, cháu Tiên. Đó là sự thống nhất thẳm sâu từ cội nguồn. Tuy nhiên, quá

trình bôn ba khắp năm châu bốn biển đã giúp Hồ Chí Minh có cái nhìn duy lý bên

cạnh cách nhìn duy tình, duy cảm của người phương Đông. Người không chỉ nhìn

thấy sức mạnh của các lớp người khác nhau trong xã hội ở tinh thần yêu nước, ở

tình cảm, ở tinh thần đồng lòng đánh Pháp như cụ Phan Bội Châu cũng đã thấy mà

Người còn nhìn thấy sức mạnh của họ ở vị trí kinh tế xã hội. Có thể thấy, Phan Bội

Châu rất lúng túng khi lựa chọn một tiêu chí để quy tụ mọi người vào một khối

thống nhất “Khi thì dựa vào nghề nghiệp, địa vị xã hội, khi lại dựa vào huyết thống,

tộc họ” [156] nên trong tư tưởng toàn dân đoàn kết của ông thiếu một sự nhất quán.

Phan Bội Châu lúc thì kêu gọi “mười hạng người đồng tâm” (gồm: phú hào, quan

tước thế gia, sĩ tịch, lính tập, giáo đồ, côn đồ, nghịch trở, nhi nữ anh si, bồi bếp

thông ký, cừu gia tử đệ, người đi du học), lúc khác lại kêu gọi sĩ, nông, công,

thương, sau này lại bổ sung thêm các dân tộc thiểu số… Với Nguyễn Ái Quốc - Hồ

Chí Minh, Người đã nhìn thấy rõ vị thế kinh tế, xã hội của từng giai cấp và đưa ra

tư tưởng đại đoàn kết toàn dân trên cách tiếp cận này.

Theo Người, phải thực hiện đoàn kết đại đa số nhân dân mà nền tảng là công

nhân, nông dân, lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Phải củng cố

Page 177: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

172

nền tảng này để có thể mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tới các tầng lớp nhân dân

lao động khác. Đặc biệt, trong một xã hội nông dân như Việt Nam với hơn 90% dân

số là nông dân, không thể có một khối đại đoàn kết rộng rãi, bền vững mà không có

nông dân. Tuy nhiên không chỉ là lời hiệu triệu suông mà phải gắn với những lợi ích

kinh tế. Khẩu hiệu ruộng đất cho dân cày mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng

đề ra vì vậy có ý nghĩa vô cùng thiết thực. Với Phan Bội Châu, cụ chỉ nhìn thấy

nông dân là một đối tượng cần cứu vớt mà chưa nhìn thấy nông dân là một lực

lượng tham gia cách mạng. Song, đến Hồ Chí Minh, với nhận thức “đem sức ta mà

giải phóng cho ta”, theo Người, nông dân vừa là đối tượng giải phóng, vừa là lực

lượng có khả năng giải phóng khi được sự lãnh đạo của đội tiên phong là đảng cộng

sản. Tuy nhiên, không chỉ có nông dân, mà còn nhiều lực lượng yêu nước khác nữa,

cho dù trong đó có cả lực lượng là kẻ thù của nông dân (như địa chủ, phong kiến)

cũng cần được quy tụ vào khối đại đoàn kết toàn dân. Lúc này, khẩu hiệu phải là

“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, bỏ qua mâu thuẫn nhỏ, hướng tới mục tiêu lớn.

Nông dân, địa chủ phong kiến thậm chí có thể cùng chung một chiến hào. Khi tình

hình quốc tế, trong nước có những biến động tạo cơ hội cho mục tiêu độc lập ngày

càng gần hơn, Hội nghị trung ương 8, tháng 5-1941 đã khẳng định: “trong lúc này,

quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia,

của dân tộc” [28, tr.113].

Việc giải quyết vô cùng tinh tế, hợp tình, hợp lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp

của đảng cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã là

một yếu tố quan trọng quy tụ tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong từng thời

kỳ lịch sử cụ thể.

Đại đoàn kết không chỉ là lời kêu gọi chung chung mà phải biến thành sức

mạnh vật chất, có tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất. “Hãy cho tôi một tổ chức,

tôi sẽ làm đảo lộn nước Nga”. Câu nói nổi tiếng của Lênin trong trường hợp cụ thể

của Việt Nam thật có ý nghĩa. Hội phản đế đồng minh Đông Dương thời kỳ đảng

mới ra đời, Mặt trận phản đế Đông Dương thời kỳ trước năm 1936 hay Mặt trận dân

chủ Đông Dương thời kỳ 1936-1939 do đảng tổ chức và lãnh đạo chưa thực sự phát

Page 178: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

173

huy sức mạnh. Song tới mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thực sự

là một bước ngoặt cho việc khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân:

“Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân

biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị,

đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” [81, tr.43]. Không chỉ

kêu gọi đoàn kết trong nước, Việt Minh còn chủ trương: “Sẵn sàng giơ tay đón tiếp

tất cả những cá nhân hay những đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay

quốc gia, thành thật muốn đánh đuổi Nhật - Pháp để dựng nên một nước Việt Nam

tự do và độc lập” [81, tr.43].

Nếu như, trong tư tưởng toàn dân đoàn kết, “cái nhìn của Phan Bội Châu là cái

nhìn của một nhà Nho, của kẻ sĩ đã tách khỏi vua chúa nhưng chưa hoà làm một với

dân” [156] thì đến Hồ Chí Minh, Người nhìn dân với tư cách không chỉ của một

người lãnh đạo mà còn như một người trong cuộc, hoà vào với nhân dân để thấu

hiểu họ, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù. Với một chủ trương

đại đoàn kết được đặt trên cơ sở của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và được tổ chức

một cách nhất quán, chặt chẽ trong các đoàn thể cứu quốc, Mặt trận Việt Minh dưới

sự lãnh đạo của một đảng Mác xít đã quy tụ được tối đa sức mạnh dân tộc và thời

đại để làm nên một cuộc cách mạng long trời, lở đất, thủ tiêu nhà nước của thực

dân, phong kiến, lập nên nhà nước dân chủ cộng hoà đầu tiên trong khu vực Đông

Nam Á và Châu Á. Một cuộc cách mạng mà theo Phạm Hồng Tung, là “cuộc hồi

sinh vĩ đại của một dân tộc đoàn kết” [173, tr.383].

Sự ra đời và những hoạt động chính trị tích cực của đảng cộng sản Việt Nam suốt

15 năm từ 1930-1945 qua ba cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945

và một thời kỳ thoái trào 1932-1935 đã đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm quý

báu về kết hợp mục tiêu chiến lược với nhiệm vụ trước mắt, về tập hợp lực lượng,

phương pháp hình thức đấu tranh phù hợp… cũng là yếu tố quan trọng cho kết thúc

thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vào mùa thu năm 1945.

Sau nữa, sức mạnh tạo ra bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang

một nền chính trị mới là sức mạnh của việc kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức

Page 179: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

174

mạnh thời đại. Đảng cộng sản Việt Nam cùng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những chủ

trương đúng đắn đã đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng

thế giới, liên kết nhân dân Việt Nam với nhân dân các dân tộc bị áp bức và giai cấp

vô sản ở mọi nơi. Tất cả, tạo thành sức mạnh khổng lồ cùng với sức mạnh trong

nước làm một cuộc cách mạng hồi sinh cả một dân tộc.

Với trí tuệ thiên tài của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đặc biệt trong việc

thành lập ra đảng cộng sản Việt Nam tháng 2-1930, các tiền đề đã được hội tụ làm

sống dậy những truyền thống dân tộc, biến chúng thành sức mạnh vô địch để làm

nên một cuộc cách mạng long trời lở đất đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á mà

sản phẩm của nó là sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

3.2. Quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản và sự chuẩn

bị các tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà nước mới ở Việt Nam

3.2.1. Quá trình nhận thức từ nhà nước công nông binh đến nhà nước dân chủ

nhân dân và hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản

Trong quá trình bôn ba, trải nghiệm khắp các châu lục trên thế giới, khảo sát các

kiểu nhà nước khác nhau, sau khi phủ nhận các kiểu nhà nước phong kiến và kiểu

nhà nước tư sản, đến cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định sự lựa chọn

nhà nước kiểu mới theo mô hình nhà nước Xô Viết. Đó chính là kiểu nhà nước

XHCN. Tuy nhiên, trong sự vận động của cách mạng Việt Nam, chịu sự chi phối

của những điều kiện lịch sử cụ thể quốc tế cũng như trong nước, tư duy của Nguyễn

Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng như nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về một

hình thức nhà nước cụ thể phù hợp với Việt Nam cũng luôn luôn có những biến

chuyển. Sự vận động về tư duy đó một mặt thể hiện một sự trăn trở suy ngẫm, kiếm

tìm của Hồ Chí Minh về một hình thức nhà nước phù hợp với Việt Nam, mặt khác

nó cũng thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh chính trị của anh hùng

giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh.

a. Nhận thức và hoạt động chính trị thực tiễn của Đảng hướng tới chính phủ

công nông binh

Chế độ dân chủ nhân dân mà hạt nhân là nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

Page 180: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

175

được thành lập sau cách mạng Tháng Tám-1945 là sản phẩm của cả một quá trình

nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ngay khi ra đời,

trong Chánh cương vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định đảng lãnh

đạo nhân dân làm cách mạng để: “đánh đổ ĐQCN Pháp và bọn phong kiến. Làm

cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh. Tổ

chức ra quân đội công nông” [93, tr.1]. Sau này, những tư tưởng này được khẳng

định lại trong Luận cương chính trị tháng 10- 1930: “… phải dựng lên chính quyền

Xô Viết công nông. Chỉ có chính quyền Xô Viết công nông mới là cái khí cụ rất

mạnh mà đánh đổ ĐQCN, phong kiến, địa chủ, làm cho dân có đất mà cày, làm cho

vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình”[26, tr.94]. Đây là mô hình một

chính quyền kiểu mới của nhân dân lao động phỏng theo mô hình chính quyền ở

nước Nga. Chính quyền này chủ yếu là của GCCN, nông dân và binh lính. Tư tưởng

này chịu sự chi phối của hoàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ khi tư tưởng tả khuynh,

nhấn mạnh đấu tranh giai cấp đang trở thành tư tưởng chi phối phong trào cộng sản

và công nhân quốc tế thời điểm đó.

Tư tưởng về chính quyền công nông binh được hiện diện trong mô hình chính

quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh. Chính quyền Xô Viết ở Nghệ Tĩnh là hình ảnh sơ khai

của một nhà nước kiểu mới lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam: “Cao trào cách mạng

1930-1931 đã đưa đến việc thành lập các Xô Viết tại địa bàn nông thôn hai tỉnh

Nghệ An và Hà Tĩnh. Đó là hình thức mới về chính quyền của người lao động lần

đầu tiên xuất hiện tại nước ta. Nó thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng

dân tộc dân chủ đang trong quá trình hình thành” [127, tr.297]. Những nhiệm vụ mà

chính quyền Xô Viết thực hiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là theo hướng

mà Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị của đảng đã chỉ ra. Mặc dù phải 15

năm sau, một chính quyền thực sự mới về chất so với chính quyền thuộc địa mới

được xác lập trên phạm vi toàn quốc song Xô Viết Nghệ Tĩnh đã đánh dấu “hồi

chuông khai tử cho toàn bộ chính quyền thuộc địa rung lên mạnh mẽ” [127, tr.297].

Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11-1939) của Đảng cộng sản Đông

Dương đã có điều chỉnh về hình thức nhà nước so với trước đó. Hội nghị: “chưa

Page 181: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

176

đưa khẩu hiệu lập chính phủ Xô Viết công nông binh là hình thức chính phủ riêng

của dân chúng lao động mà đưa khẩu hiệu “Chính phủ Liên bang cộng hoà dân chủ

Đông Dương” là hình thức chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong

xứ và trong phong trào giải phóng dân tộc” [27, tr.539]. Hội nghị Trung ương 7

tháng 11-1940 vẫn tiếp tục khẳng định tư tưởng về hình thức nhà nước này.

b. Nhận thức và hoạt động chính trị thực tiễn của Đảng hướng tới chính phủ

nhân dân

Mùa xuân 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt

Nam, Người đã chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ 8 họp vào tháng 5-1941. Hội

nghị này đã đánh dấu những nhận thức rất mới về hình thức nhà nước ở Việt Nam.

Đây chính là tư tưởng về một chính quyền rộng rãi của nhân dân chứ không chỉ của

công nhân, nông dân, binh lính như nhận thức trước đây. Tư tưởng về quyền dân tộc

tự quyết cũng được khẳng định rõ nét trong Hội nghị này khi Đảng chủ trương giải

quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước Đông Dương và ở Việt Nam sẽ thành

lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Trên thế giới lúc bấy giờ có ba mô hình nhà nước cơ bản đó là mô hình cộng

hoà đại nghị, cộng hoà Tổng thống là mô hình tổ chức dân chủ trong xã hội tư bản

và mô hình Cộng hoà Xô Viết là mô hình nhà nước nằm trong quỹ đạo của nhà

nước XHCN. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà không hoàn toàn giống bất cứ

một mô hình nào. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Dung khẳng định chính thể Việt

Nam dân chủ cộng hoà là: “Một chính thể cộng hoà đặc biệt, đặt nền móng cho sự

hình thành ra một loại hình của chính thể lưỡng tính cộng hoà hiện đại” [22, tr.152].

Ngay với mô hình có nhiều tương đồng nhất là mô hình cộng hoà Xô Viết (tương

đồng về bản chất khi cả hai mô hình đều khẳng định: Quyền lực nhà nước không thể

phân chia, và phải hoàn toàn thuộc về nhân dân) thì mô hình nhà nước ở Việt Nam

cũng có những khác biệt. Khái niệm nhân dân trong mô hình nhà nước ở Việt Nam

rộng hơn khái niệm nhân dân trong mô hình nhà nước Xô Viết. Nhân dân không chỉ

gồm những người vô sản là công nhân, nông dân binh sĩ mà còn có các giai cấp

khác như phong kiến, địa chủ yêu nước và tư sản dân tộc… Hiến pháp Liên Xô

Page 182: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

177

không thừa nhận chế độ tư hữu như là cơ sở kinh tế của nhà nước thì Hiến pháp

Việt Nam dân chủ cộng hoà lại thừa nhận chế độ tư hữu (trong điều 12 Hiến pháp

1946).

Có thể nói, Hồ Chủ tịch và các đồng chí của Người đã tìm ra một mô hình

đặc thù của nhà nước Việt Nam phù hợp với điều kiện của một dân tộc

phương Đông muốn thoát khỏi chế độ thực dân nửa phong kiến, muốn xây

dựng một cuộc sống đầy đủ, ấm no cho nhân dân, độc lập có chủ quyền cho

quốc gia mình, mà lại không phải phụ thuộc các nước mạnh khác [22,

tr.160].

Có thể thấy, việc chuyển biến từ tư tưởng về chính quyền công nông binh sang

chính quyền nhân dân rộng rãi và tư tưởng về một chính quyền nhân dân được thể

hiện trong các hình thức tiền chính quyền mà trước hết là Mặt trận Việt Minh là một

nét độc đáo, sáng tạo bất ngờ của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Đông Dương. Nó

phù hợp với nguyện vọng thiết tha của quần chúng nhân dân hướng tới mục tiêu độc

lập và những lợi ích thiết thực cho người lao động do đó có sức hiệu triệu và thu hút

lớn lao. Sự chuyển biến tư tưởng về hình thức nhà nước ở đây là bước chuyển mang

tính cách mạng thể hiện bản lĩnh chính trị và tư duy độc lập, sáng tạo của Hồ Chí

Minh và Đảng cộng sản Đông Dương. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tinh tế trong

việc xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp ở nước ta. Tư tưởng về một nhà nước dân

chủ nhân dân là sản phẩm sự kết hợp tổng hoà của các nhân tố quốc tế và trong

nước những năm 40 của thế kỷ XX dưới óc quan sát và trí tuệ thiên tài của đảng

cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Về quốc tế, nền chính trị dân chủ nhân dân được xây dựng lên trong những thời

kỳ sôi động nhất của thập niên 40 thế kỷ XX, trong những sự kiện chính trị lớn của

thế giới. Cuộc chiến đấu giữa hai thế lực dân chủ và phát xít làm cho nhu cầu về các

quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của con người càng trở nên cấp bách và mạnh mẽ.

Mặt khác, nền dân chủ ở Pháp cũng dần được khôi phục trên nhiều khía cạnh. Hơn

nữa sau gần một thế kỷ dưới ách chuyên chế của thực dân phản động, sự tác động

của các nhân tố quốc tế như trên càng làm cho luồng gió dân chủ bùng phát mạnh

Page 183: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

178

mẽ ở các nước thuộc địa như Việt Nam. Sự thắng thế của Việt Minh và các lực

lượng cách mạng tiến bộ khác dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và

lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với sự chuẩn bị có ý thức của họ cho những hình thức

nhà nước phôi thai, góp thêm một yếu tố tối quan trọng cho sự nảy sinh và xác lập

một chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta.

3.2.2. Chuẩn bị các hình thức tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà

nước mới ở Việt Nam

Nhà nước bao giờ cũng mang tính giai cấp. Nhà nước ở Việt Nam trong tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là một nhà nước

mang bản chất GCCN, song bản chất GCCN không làm nhoà đi tính nhân dân, tính

dân tộc của nhà nước. Đó là một nhà nước thể hiện tinh thần đại đoàn kết toàn dân

mà hình thức tiền nhà nước của nó được thể hiện một cách vô cùng độc đáo trong

hình thức Mặt trận Việt Minh. Tổ chức này vừa thực hiện chức năng của mặt trận

dân tộc thống nhất, vừa thực hiện chức năng của một chính quyền. Đó chính là hình

ảnh phôi thai của một nhà nước mới - nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau

này. Chương trình Việt Minh với những nhiệm vụ đối nội (về kinh tế, chính trị, văn

hoá giáo dục, xã hội), đối ngoại giống như chức năng đối nội, đối ngoại của một

chính quyền của nhân dân. Trong đó, lợi ích thiết thực của các giai cấp, tầng lớp xã

hội đều được quan tâm thoả đáng. Trước hết là lợi ích của nông dân, công nhân đến

thương nhân, viên chức, binh lính, thanh niên, đàn bà, người tàn tật, già cả, trẻ em

[93,tr.242]. Chương trình Việt Minh như một bản thiết kế cho một chế độ dân chủ

cộng hoà ở Việt Nam sau khi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi. Mặt trận

Việt Minh có hệ thống tổ chức chặt chẽ thống nhất, có cấu trúc như các cấp chính

quyền mà cao nhất là Tổng bộ Việt Minh trên khắp cả nước. Với cơ quan ngôn luận

là tờ Báo Độc lập, mặt trận Việt Minh đã tuyên truyền cho nhân dân những tư tưởng

về một chính quyền cách mạng mới sẽ được thiết lập sau ngày giành độc lập cũng

như những quyền lợi và nghĩa vụ thiết thực của người dân. Theo như Hồ Chí Minh

thì Báo độc lập làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết để đánh

Pháp, đánh Nhật giành độc lập, bình đẳng, tự do.

Page 184: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

179

Cùng với sự ra đời của Việt Minh, hình ảnh phôi thai của lực lượng vũ trang

cách mạng - công cụ bạo lực bảo vệ chính quyền, cũng được thiết lập và xây dựng.

Sự ra đời của Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, sau này

thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân là sự chuẩn bị có tính định hướng làm

tiền đề cho sự ra đời của một lực lượng quân sự bảo vệ chính quyền cách mạng.

Trong thời kỳ từ năm 1942 đến 1945, Việt Minh đã cho xuất bản tác phẩm “Chiến

thuật du kích” và “Phép dùng binh của ông Tôn Tử” nhằm tuyên truyền quân sự,

tăng cường và củng cố nhận thức của lực lượng quân đội cách mạng.

Sau này cùng với sự biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, việc ra

đời của các tổ chức như các Uỷ ban dân tộc giải phóng, các khu giải phóng với các

Uỷ ban nhân dân chính là sự chuẩn bị về mặt tổ chức cho một chính quyền mới sẽ

được thiết lập sau khi cách mạng thành công. Khu giải phóng Việt Bắc ra đời tháng

6-1945 chính là hình ảnh thu nhỏ của một nước Việt Nam mới. Đặc biệt Quốc dân

Đại hội Tân Trào được triệu tập sau Hội nghị toàn quốc của Đảng vào tháng Tám-

1945 thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa có thể coi như một hình thức tiền Quốc

hội trong một chính quyền nhân dân. Tất cả những hoạt động chính trị thực tiễn ấy

chuẩn bị mọi phương diện để khi giành được quyền lực nhà nước từ tay đế quốc,

phong kiến, chính quyền mới có thể bước ngay vào quá trình hoạt động mà không

mất quá nhiều thời gian cho việc xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức.

3.3. Quá trình xác lập chính trị dân chủ nhân dân thay thế chính trị thực dân -

phong kiến

3.3.1. Sự thay thế lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước từ thực dân phong kiến

sang nhân dân Việt Nam

a. Lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước từ tháng 9-1940 đến tháng Tám-

1945

Vấn đề lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn từ

khi thực dân Pháp xâm lược và thôn tính nước ta, đặc biệt từ hiệp ước Nhâm Tuất

1862 nhà Nguyễn cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp đến khi Nhật vào Đông Dương

tháng 9-1940 chúng ta đã khảo sát ở chương 3. Có thể thấy, trong giai đoạn này,

Page 185: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

180

quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã chuyển dần từ giai cấp địa chủ phong kiến Việt

Nam mà vua quan nhà Nguyễn là lực lượng đại diện sang tay GCTS Pháp mà thực

dân Pháp ở nước ta là lực lượng đại diện. Phần này tiếp tục khảo sát từ tháng 9-

1940 trở đi.

Sau khi Nhật vào Việt Nam tháng 9-1940 đến trước cách mạng Tháng Tám-

1945, quyền lực nhà nước ở Việt Nam nằm trong tay nhiều lực lượng khác nhau

song vẫn trong khuôn khổ chính trị thực dân - phong kiến. Ở Việt Nam trong suốt

thời gian đó vẫn tồn tại hai loại chính quyền: Chính quyền thực dân và chính quyền

bản xứ. Trong đó quyền lực nhà nước thực sự nằm trong tay chính quyền thực dân,

chính quyền bản xứ chỉ là tay sai hoặc bù nhìn cho chính quyền thực dân.

Trước hết là thời kỳ từ khi Nhật vào Việt Nam (9-1940) đến cuộc đảo chính

Nhật - Pháp (9-03-1945)

Sự thống trị chính trị của thực dân Pháp ở Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ

XIX cho đến tháng 9-1940 khi Nhật nhảy vào Đông Dương. Trong thế yếu, Pháp

phải chia sẻ quyền lợi ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung cho Nhật.

Quyền lực nhà nước của thực dân Pháp ở nước ta không còn lớn như trước nữa.

Việt Nam cùng lúc trở thành thuộc địa của hai tên đế quốc là Pháp và Nhật. “Chính

quyền thuộc địa (Pháp) được bổ sung thêm một yếu tố mới là phát xít Nhật, và

mang thêm một tính chất mới là tính chất phát xít” [127, tr.277]. Quyền lực nhà

nước ở Việt Nam lúc này nằm trong tay hai tên đế quốc Pháp và Nhật. Tuy nhiên,

không có thêm một chính quyền nào được thành lập ở nước ta. Nhật đã sử dụng

chính quyền thuộc địa của Pháp để thực hiện các lợi ích và các mục tiêu chính trị

của mình: “Pháp vẫn trực tiếp cai trị Đông Dương, nhưng đặt dưới sự kiểm soát

của phát xít Nhật… chúng (Nhật) chỉ tổ chức những bàn giấy trong các cơ quan

chính phủ Pháp để kiểm soát mà thôi” [127, tr.277, 278].

Đông Dương là thuộc địa duy nhất của một nước phương Tây mà chính quyền

không bị người Nhật thay thế. Bởi chính quyền Pháp tại Đông Dương đã tích cực

hợp tác với Nhật cả về phương diện kinh tế và quân sự. Nguyên nhân là do ở Pari,

Pháp đã đầu hàng Đức, chính phủ Pêtanh được dựng lên là chính phủ thân phát xít.

Page 186: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

181

Do vậy, bọn cầm quyền thực dân Pháp ở Đông Dương phải hợp tác với Nhật vì

cùng trong phe phát xít. Nhật được chính quyền Pháp ở Đông Dương cung cấp lúa

gạo và các nguyên liệu chiến lược đồng thời được sử dụng các căn cứ quân sự tại

Đông Dương để bành trướng thế lực ra khắp vùng Đông Nam Á. Thế nên trong suốt

thời gian ở Đông Dương từ tháng 9-1940, Nhật đã thấy không cần thiết phải lật đổ

chính quyền của Pháp tại Đông Dương và thay thế bằng một chính quyền do Nhật

trực tiếp nắm giữ. Mặt khác việc sử dụng chính quyền thuộc địa của Pháp để thực

hiện các mục tiêu của mình tại Đông Dương, Nhật có thể rêu rao với nhân dân

Đông Dương là sự có mặt của Nhật là để giúp họ giành độc lập, tự do. Đây là một

biện pháp mị dân của phát xít Nhật. Tuy nhiên, Nhật càng ngày càng lấn át Pháp

trong việc cai trị Đông Dương, tới năm 1943: “Các toà sở lớn của Pháp đã bị Nhật

trực tiếp giám thị. Toà đại sứ Nhật tổ chức như một chính phủ bảo hộ đặt trên bộ

máy cai trị của Pháp” [127, tr.278].

Lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam từ sau cuộc đảo chính

Nhật - Pháp ngày 09-3-1945 đến tháng Tám-1945

Trước khi xuất hiện chính phủ Trần Trọng Kim

Ngày 09-3-1945, đại sứ Nhật tại Đông Dương đến gặp toàn quyền Pháp tại Sài

Gòn và đưa ra một tối hậu thư đòi Pháp phải đặt tất cả lực lượng quân sự (hải, lục,

không quân và cảnh sát) dưới sự chỉ huy của quân đội Nhật. Tất cả hệ thống hành

chính và viên chức Pháp cũng phải đặt dưới sự chỉ huy của Nhật. Đồng thời với

hành động này, Nhật cho lực lượng quân sự chiếm đóng ngay những cơ sở quân sự

và hành chính trên toàn cõi Đông Dương. Đó thực chất là cuộc đảo chính Nhật -

Pháp. Pháp thất thế và mất địa vị pháp lý ở Đông Dương, Nhật thắng lợi. Chính

quyền từ tay Pháp chuyển sang tay Nhật, các cương vị cao cấp nhất của các cấp

chính quyền bị Nhật thay thế. Quyền lực nhà nước ở Việt Nam giờ đây thuộc về

phát xít Nhật. Việt Nam trở thành thuộc địa của riêng phát xít Nhật từ thời điểm

này. Lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước thay đổi nhưng bản chất của quyền

lực nhà nước về cơ bản không thay đổi vì bộ máy chính quyền vẫn là của một lực

lượng đế quốc nước ngoài nắm giữ để cai trị nhân dân Việt Nam: “Chính biến ngày

Page 187: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

182

9-3-1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyền Pháp, tước khí giới của

Pháp, chiếm hẳn lấy Đông Dương làm thuộc địa riêng của CNĐQ Nhật” [28,

tr.364]. Không muốn có những thay đổi quá lớn trong bộ máy hành chính có thể

làm trở ngại đến việc cai trị Việt Nam nên bộ máy hành chính thuộc địa của Pháp

được Nhật giữ lại hầu như nguyên vẹn, chúng thay người Nhật vào vị trí người

Pháp. Viên toàn quyền Đông Dương người Pháp Jean Decoux được thay bằng viên

toàn quyền người Nhật Yuichi Tsuchihashi từ 09-3-1945 đến 28-8-1945. Nhật còn

thực hiện những hành động mà giới chính trị học gọi là những “trò hề chính trị” để

mị dân nhằm che đậy bản chất thực dân đế quốc của mình. Cuộc đấu tranh quyền

lực giữa hai phe chính trị và quân sự tại nước Nhật đã dẫn tới kết quả là: Nhật chấp

nhận để Việt Nam tuyên bố độc lập nhưng quyền hành thực tế vẫn do Nhật nắm giữ.

Với cuộc đảo chính Nhật - Pháp đêm 09-3-1945, Nhật đã thâu tóm quyền lực

nhà nước ở Việt Nam từ tay Pháp. Và sau sự kiện này, Pháp đã hoàn toàn mất địa vị

pháp lý, mất vai trò chủ nhân của quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Cơ cấu quyền

lực của từng lực lượng tại nước ta có thể nhận thấy như sau:

Với Nhật, quyền lực nhà nước đã nằm trong tay họ: “Tất cả các công sở đều bị

Nhật chiếm. Các ngả đường lính Nhật canh gác nghiêm ngặt... Người Nhật chia

nhau đi gác, giữ trật tự, dầu cho những tiếng tung hô đả đảo thực dân, tiêu diệt

CNĐQ” [49, tr.6, 13] .

Với Pháp, quyền lực nhà nước mà chúng đã nắm giữ mấy chục năm ở Việt Nam

đã mất hoàn toàn về tay Nhật: “Cơ đồ Pháp xây dựng trên đất Việt Nam từ hơn 80

năm rồi, trong mấy giờ đồng hồ đã hoàn toàn sụp đổ” [49, tr.6,7]. Số phận của

những người Pháp ở Việt Nam lúc này thì vô cùng bi đát: “Những người Pháp bị

bắt, đều được Nhật giam chung từng khu một, hoặc mỗi tỉnh một khu, hoặc đôi ba

tỉnh một khu, tuỳ theo số Pháp đông ít và giao thông tiện lợi” [49, tr.8].

Còn chính quyền Bảo Đại sau cuộc đảo chính ngày 09-3-1945 trở thành tay sai của

Nhật. Chính quyền này ra một đạo dụ khẳng định: “huỷ bỏ tất cả những hiệp ước ký

kết giữa Pháp - Việt từ trước đến nay, vì lẽ người Pháp đã không đủ lực bảo trợ lãnh

thổ cho nước Việt Nam” [49, tr.7]. Nam Triều chịu sự điều khiển của “chủ nhân mới”

Page 188: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

183

của nước Việt Nam - phát xít Nhật - và hàng loạt “trò hề chính trị” đã diễn ra.

Trước hết Nhật tuyên bố trao trả độc lập, trao trả chính quyền cho người Việt

Nam. Các tờ bá cáo của Nhật dán la liệt trên các bức tường sau đảo chính khẳng

định: “Người Nhật đánh Pháp cốt lấy lại chính quyền giao giả cho người Việt Nam.

Nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập sẽ cùng Nhật thành lập khối Đại Đông Á”

[49, tr.7]. Tiền hô, hậu ủng. Cùng với các tờ bá cáo của Nhật, các thượng thư Nam

Triều tung ra tuyên ngôn: “nước Việt Nam đã bắt đầu độc lập” [49, tr.7].

Sau đó, dưới sự điều khiển của phát xít Nhật, bằng một cách thức nào đó, người

ta thấy chính quyền phong kiến cũ - tay sai của Pháp - dần tan rã: “những vị thượng

thư cũ đều xin từ chức” để có cớ hợp lý cho sự ra đời của một nội các mới được

Bảo Đại “chuẩn y” theo ý của Nhật. Đó chính là nội các Trần Trọng Kim.

Tuy nhiên, đất nước tồn tại trong một trạng thái gần như vô chính phủ vì “bộ

máy hành chính cũ đã tê liệt, bộ máy mới chưa lắp thành” [49, tr.10], tình thế vô

cùng lộn xộn. Trong khi ở miền Nam, người ta “lấy thóc đốt thay than” thì ở miền

Bắc “dân chúng chết đói nằm ngổn ngang hai bên lề đường”.

Thời kỳ tồn tại của chính phủ Trần Trọng Kim

Phe phát xít đứng trước nguy cơ thất bại trên chiến trường quốc tế, biết rằng sẽ

khó có thể giữ được thuộc địa Đông Dương nên phát xít Nhật dựng lên chính quyền

bù nhìn để mong duy trì lợi ích của mình ở xứ này. Nhật lợi dụng tinh thần chống

Pháp của một số người Việt Nam yêu nước nhưng cả tin về chính trị, hứa hẹn với

họ về một tương lai huy hoàng để dựng lên chính quyền bù nhìn thân Nhật. Nhật

tuyên bố “trao trả độc lập” cho Việt Nam bằng việc ngày 11-3-1945 Bảo Đại “tuyên

bố độc lập”. Cho đến ngày 15-4-1945 thành lập chính phủ thân Nhật- Chính phủ

Trần Trọng Kim.

Thành phần chính phủ này gồm phần lớn những nhà trí thức mà trước đó không

nằm trong các đảng phái cách mạng chống Pháp. Thủ tướng chính phủ là một học

giả khá tên tuổi ở Việt Nam lúc bấy giờ là ông Trần Trọng Kim. Đây là một nội các

về hình thức do người Việt Nam đứng đầu và có nhiều biểu hiện bề ngoài có vẻ tiến

bộ, xoá nhoà vết tích phong kiến như: Chức Thượng thư trong Triều đình phong

Page 189: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

184

kiến trước đây đổi thành Bộ trưởng; trong nội các xuất hiện những Bộ chưa hề có

trong Triều đình phong kiến thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến dân chúng như Bộ

Thanh niên, Cứu tế, Tiếp tế, Giao thông, Tài chính...; trang phục của các thành viên

nội các rất hiện đại: “Những đình thần không xúng xính trong áo mũ sặc sỡ, rườm

rà, mà nhanh nhẹn với những âu phục gọn gàng, nhã nhặn” [49, tr.18].

Song thực chất, đây vẫn là một nội các thân Nhật, một chính quyền bù nhìn của

phát xít Nhật. Một biểu hiện rõ nhất minh chứng cho điều này là trong thành phần

nội các của chính phủ Trần Trọng Kim không có Bộ Quốc phòng. Tất cả mọi quyền

chỉ huy các vấn đề an ninh, quốc phòng, kinh tế tài chính đều nằm trong tay Nhật.

Cùng với việc thành lập nội các Trần Trọng Kim là việc chọn Quốc ca và Quốc kỳ

mới (Quốc ca là bài Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước, quốc kỳ là cờ vàng

quẻ ly đỏ ở giữa). Nhật điều khiển cho chính phủ Nam Triều tuyên bố độc lập, dựng

lên chính phủ Trần Trọng Kim và tuyên bố trao trả độc lập cho chính phủ này

nhưng vẫn giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp mà các vị trí trong bộ máy đó đã

được thay thế bằng người Nhật. Hiện tượng chính phủ Trần Trọng Kim không

làm thay đổi bản chất quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn lịch sử

này. Quyền lực nhà nước thực sự vẫn nằm trong tay thế lực tư sản đế quốc.

Chính trị Việt Nam vẫn là chính trị thực dân - phong kiến.

Nội các Trần Trọng Kim và hệ thống chính quyền bản xứ vẫn là một bộ phận

trong kết cấu quyền lực thống trị ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám.

Toàn bộ kết cấu quyền lực đó là do người Nhật kiểm soát và điều hành, vì

vậy dân tộc Việt Nam muốn đi tới sự giải phóng thực sự và nền độc lập thực

sự thì buộc phải lật đổ và thủ tiêu kết cấu quyền lực đó, trong đó có chính

quyền bù nhìn Trần Trọng Kim [205].

Cùng quan điểm trên, nhà nghiên cứu Phạm Hồng Tung khẳng định:

Xét về bản chất, nội các Trần Trọng Kim không thể là cái gì khác hơn một

chính phủ bù nhìn do người Nhật dựng lên sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp

nhằm phục vụ chính sách chiếm đóng Việt Nam của người Nhật [174,

tr.243,244].

Page 190: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

185

b. Cách mạng Tháng Tám-1945 - nhân dân Việt Nam giành lại quyền làm

chủ đất nước, trở thành lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước

Với việc theo dõi và nắm bắt sát sao các diễn biến chính trị trên trường quốc tế,

ảnh hưởng của nó tới Việt Nam, bằng một tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh và

Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp được “thời cơ ngàn năm có một”

để phát động một cuộc tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Đó là khi “khoảng trống

quyền lực” xuất hiện, từ khi Nhật đầu hàng Liên Xô và đồng minh trên chiến trường

thế giới đến trước khi quân đồng minh có mặt ở nước ta để giải giáp quân Nhật. Khi

“khoảng trống quyền lực” xuất hiện, lúc đó phát xít Nhật - kẻ đang nắm chính

quyền ở Việt Nam và Đông Dương - hoang mang, chính phủ Trần Trọng Kim suy

yếu, Pháp có âm mưu trở lại Việt Nam song lúc này chưa có cơ hội để xuất hiện trở

lại sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp, trong khi lực lượng đồng minh vào giải giáp

quân Nhật chưa xuất hiện. Có thể thấy, đây là lúc mà chính quyền đương nhiệm yếu

nhất, trong khi lực lượng thay thế chưa xuất hiện, đó chính là “thời điểm vàng” cho

chúng ta đứng lên giành chính quyền thắng lợi với ít tổn hao nhất về mọi mặt. Nếu

chậm trễ, khi đồng minh xuất hiện mới phát động tổng khởi nghĩa, sẽ là quá muộn

để giành chính quyền. Vì đồng minh vào sẽ giải giáp vũ khí quân Nhật, đồng thời

giành luôn chính quyền từ tay Nhật, lúc đó mục tiêu chính quyền sẽ trở nên xa vời

với quần chúng. Nếu phát động tổng khởi nghĩa sớm hơn, khi chưa đủ mọi điều

kiện cần thiết, khởi nghĩa non chắc chắn sẽ thất bại.

Theo X. Tônnetxơn:

Tình trạng chân không quyền lực có thể được mô tả chính xác như là một sự

vắng mặt của các lực lượng Pháp và đồng minh, sự thiếu quyết tâm của

người Nhật trong việc nắm giữ quyền kiểm soát cho tới khi đồng minh tới và

sự bất lực đối với các quan lại và chính quyền của họ để có thể tự tồn tại

được [196, tr.412].

Trong cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam mùa thu năm 1945, dưới sự lãnh

đạo của Đảng cộng sản, nhân dân lao động Việt Nam đã giành được chính quyền về

tay mình từ tay đế quốc, phong kiến.

Page 191: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

186

Về phát xít Nhật: Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng đã tuyên bố đầu hàng Liên Xô,

đồng minh và thừa nhận là kẻ bại trận trong cuộc chiến tranh thế giới 1939-1945.

Song, quân Nhật ở Đông Dương vẫn thực hiện kiểm soát an ninh trật tự, quyền lực

nhà nước vẫn do chúng nắm giữ. Trong một bức thư gửi từ Đông Dương về Tôkyo

ngày 19-8-1945, Nhật đã tiết lộ rằng đã dàn xếp với chính quyền Trần Trọng Kim

về việc mặc cả với Việt Minh về phân chia quyền lực sau này. Song cuộc dàn xếp

không thành. Trong những ngày tổng khởi nghĩa diễn ra ở Hà Nội và nhiều địa

phương trên cả nước, quân Nhật đã tổ chức chống lại các lực lượng vũ trang của

Việt Minh và chống lại nhân dân Việt Nam đứng lên khởi nghĩa. Thậm chí, chúng

bố trí lực lượng xe tăng và sẵn sàng nổ súng đàn áp. Tuy nhiên, trước sức mạnh của

quần chúng, đến ngày 21-8-1945, tập đoàn quân 38 của Nhật, với hơn 1 vạn quân

đóng giữ quanh Hà Nội được lệnh ngừng bắn. Với làn sóng tổng khởi nghĩa lan

khắp toàn quốc, quân Nhật ở các địa phương đã lần lượt hạ vũ khí đầu hàng.

Về Chính phủ Trần Trọng Kim: Khi cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám bắt đầu

diễn ra, ngày 14-8-1945, Chính phủ này ra tuyên bố: “Nhất quyết không chịu lùi

một bước trước một khó khăn nào để làm tròn sứ mệnh... và vẫn hợp tác chặt chẽ

với các nhà đương cục Nhật” [46, tr.26, 27]. Cho đến ngày 17-8-1945, Chính phủ

này vẫn còn cử người đi mặc cả với Việt Minh về việc phân chia quyền lực. Để biểu

dương lực lượng, cũng trong ngày này, chính quyền Trần Trọng Kim tổ chức một

cuộc mít tinh lớn của Tổng hội Viên chức trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Tuy nhiên,

cuộc mít tinh đã bị Uỷ ban Khởi nghĩa chuyển một cách tài tình thành cuộc tuần

hành của quần chúng ủng hộ cách mạng. Khí thế cách mạng của quần chúng dâng

cao đã khiến chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim không dám chống cự và tuyên

bố đầu hàng.

Về thực dân Pháp: đã mất địa vị pháp lý ở Việt Nam từ sau cuộc đảo chính 09-

3-1945 nên trong cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam tháng Tám -1945,

thực dân Pháp không có vai trò đáng kể nào. Phải tới nửa tháng sau khi Tổng khởi

nghĩa tháng Tám thắng lợi, quân Pháp mới bám gót quân Anh vào Sài Gòn, mong

thiết lập lại địa vị chính trị ở nước ta.

Page 192: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

187

Về chính quyền Bảo Đại: Ngày 22-8-1945, Việt Minh gửi công điện yêu cầu

Bảo Đại thoái vị vì Việt Minh đã giành được chính quyền trong cả nước. Ngày 30-

8-1945, 5 vạn dân Huế tập trung trước cửa Ngọ Môn chứng kiến Bảo Đại tuyên bố

thoái vị, trao ấn, kiếm cho đại diện của chính phủ mới để làm dân một nước độc lập

thay vì làm vua một nước nô lệ. Lá cờ quẻ ly của chế độ phong kiến bị hạ xuống

thay vào đó là cờ đỏ sao vàng 5 cánh của chính quyền cách mạng.

Ngày 02-9-1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền tảng pháp lý

cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đồng thời cũng là cơ sở pháp

lý cho quá trình đấu tranh bảo vệ và giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc

trong những thời kỳ lịch sử tiếp theo.

Tuyên ngôn đã phản ánh chân lý lớn của thời đại và khát vọng của nhân loại

tiến bộ đó là chân lý và khát vọng về quyền độc lập của dân tộc, quyền tự do, bình

đẳng của con người. Tuyên ngôn cũng chỉ ra những tội ác tày trời của chế độ cai trị

của Pháp ở nước ta và vạch trần bản chất “khai hoá”, “bảo hộ” của thực dân Pháp

với Việt Nam, “trong 5 năm, chúng (thực dân Pháp) đã bán nước ta hai lần cho

Nhật” [94, tr.2]. Và cuối cùng là lời khẳng định sự ra đời của “nước Việt Nam mới,

đại biểu cho toàn dân Việt Nam”. Tuyên ngôn độc lập đánh dấu một bước ngoặt lớn

trong sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam hàng nghìn năm đồng thời cũng là

bước ngoặt đánh dấu sự biến đổi lớn của chính trị Việt Nam. Với cách mạng Tháng

Tám năm 1945, Tuyên ngôn khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực

dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ

chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà” [95, tr.3].

Như vậy, “dân ta” là lực lượng đứng lên thủ tiêu chế độ thực dân phong kiến, không

ai khác, họ sẽ chính là chủ thể quyền lực chính trị của một chế độ chính trị mới thay

thế chế độ thực dân phong kiến. Chế độ đó là chế độ Dân chủ Cộng hoà. Chế độ này

được mở ra sau khi các lực lượng chính trị ở Việt Nam trong trạng thái: “Pháp chạy,

Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” [94, tr.3]. Sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà thay thế nhà nước thực dân phong kiến là tất yếu vì nó không những

Page 193: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

188

phù hợp với chân lý thời đại đã được khẳng định trong những bản Tuyên ngôn nổi

tiếng thế giới (Tuyên ngôn Mỹ, Pháp) mà còn phù hợp với “những nguyên tắc dân

tộc bình đẳng” [94, tr.3] đã được thông qua tại Hội nghị của các nước Đồng Minh

và Hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc. Sự ra đời của nhà nước mới ở Việt Nam còn

là kết quả của cuộc đấu tranh không mệt mỏi của toàn dân ta, dân của một dân tộc

“đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,… đã gan góc đứng về phe

Đồng minh chống phát xít mấy năm nay” [94,tr.3]. Khẳng định sự ra đời của một

chế độ mới, Tuyên ngôn cũng tuyên bố “chặt đứt xiềng xích thực dân, thoát ly hẳn

với kẻ “khai hoá”, “bảo hộ” giả danh, không duy trì quan hệ thống trị hay bị trị”

[169, tr.131] bằng những lời mộc mạc, giản dị mà đanh thép: "…Lâm thời Chính

phủ của nước Việt Nam mới… tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp,

xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc

quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam" [94, tr.3]. Lời tuyên bố này là hoàn toàn

có cơ sở pháp lý vì “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của

Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa… Sự thật là dân ta đã lấy lại nước

Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”[94, tr3]

Với bản tuyên ngôn 02-9, Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thể quốc dân và

thế giới về quyền tự do, độc lập của nước Việt Nam. Chính phủ lâm thời của nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (mà bộ máy đã được chuẩn bị từ trước dưới hình thức

các tổ chức tiền nhà nước, tiền chính phủ), đại biểu cho toàn dân Việt Nam đã ra

mắt quốc dân. Thể chế chính trị dân chủ cộng hoà tiến bộ được xác lập thay thế

chính trị thực dân - phong kiến phản động, lỗi thời. Đây là “một cuộc thắng lợi xưa

nay chưa từng thấy trong lịch sử nước ta” [94,tr.19]

3.3.2. Xác lập các yếu tố của một nền chính trị mới

Tổng khởi nghĩa thành công, Uỷ ban dân tộc giải phóng do lãnh tụ Hồ Chí

Minh đứng đầu được Quốc dân Đại hội Tân Trào đề ra đã kịp thời chuyển sang thực

hiện chức năng của một Chính phủ lâm thời. Song Chính phủ đó chưa có địa vị

hợp pháp, chưa được quốc tế biết tới và công nhận. Việc Chính phủ lâm thời ra mắt

quốc dân trong lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 bước đầu tạo ra được địa vị

Page 194: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

189

hợp pháp của một Chính phủ do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên. Để có một

nhà nước hợp hiến, một cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu là một

trong những công việc cấp bách cần làm ngay của Chính phủ lâm thời. Tuy nhiên,

trước khi tổ chức được một cuộc Tổng tuyển cử như vậy, việc thiết lập bộ máy nhà

nước từ trung ương đến địa phương vẫn được tiến hành. Ngày 11-9-1945, trên báo

Cứu Quốc đã cho đăng sắc lệnh của Hồ Chí Minh về cách tổ chức các Uỷ ban nhân

dân - hình thức Chính phủ trong các địa phương.

Trung tâm của chế độ chính trị cộng hoà dân chủ ở nước ta là sự tổ chức, hoạt

động của bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự

lãnh đạo của đảng cộng sản.

Ngay sau khi bản Tuyên ngôn độc lập được công bố ngày 02-9-1945, nhà nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đưa ra sáu nhiệm vụ cấp bách để đưa đất nước

thoát khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Bản chất nhà nước của dân, do dân, vì

dân được thể hiện rõ nét trong các nhiệm vụ được đặt ra này. Nội dung của những

nhiệm vụ là minh chứng rõ nét cho sự khác biệt cơ bản về chất giữa chính trị dân

chủ cộng hoà vừa ra đời với nền chính trị thực dân - phong kiến đã tồn tại gần một

thế kỷ trên đất nước ta vừa bị thủ tiêu trong cách mạng Tháng Tám. Đó là các

nhiệm vụ chống đói, chống dốt, tổ chức tổng tuyển cử, giáo dục lại nhân dân, bỏ ba

thứ thuế, công bố tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết. Nếu như chính sách

của bọn thực dân là nguyên nhân gây ra nạn đói của đồng bào ta như chính sách:

“bắt đồng bào chúng ta giảm bớt diện tích cấy lúa để trồng thầu dầu, đay và những

thứ cây khác cần thiết cho cuộc chiến tranh của chúng” [94, tr.7] hay “kế hoạch của

bọn cầm quyền Pháp với mục đích gây nạn đói, để ngăn trở phong trào yêu nước và

bắt buộc đồng bào chúng ta phải làm việc như nô lệ””[94, tr.7] thì chính sách của

nhà nước mới là “phải làm thế nào để cho họ sống”. Nếu như chính sách ngu dân

“là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta”

[95, tr.8] thì chính sách của nhà nước mới là “mở một chiến dịch để chống mù chữ”

để phát triển đất nước vì “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [94, tr.8]. Nếu như

trong chế độ quân chủ chuyên chế rồi đến chế độ thực dân trước đây, “nước ta

Page 195: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

190

không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ” [94, tr.8]

thì nay nhà nước mới “phải có một hiến pháp dân chủ” do đó phải “tổ chức càng

sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thống đầu phiếu” [94, tr.8]. Nếu

như chế độ thực dân “hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian

giảo, tham ô và những thói xấu khác” [94, tr.8] thì chúng ta phải giáo dục lại nhân

dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, “làm cho dân tộc chúng ta trở thành

một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động” [94, tr.8]. Nếu như thực dân phong

kiến bóc lột nhân dân ta bằng thuế thân, thuế chợ, thuế đò – “một lối bóc lột vô

nhân đạo” thì nhà nước mới “bỏ ngay ba thứ thuế ấy” [94, tr.9]. Nếu như thực dân

phong kiến thực hiện chính sách chia rẽ đồng bào Lương, Giáo để dễ thống trị thì

nhà nước mới thực hiện chính sách “Lương Giáo đoàn kết [94, tr.9].

Các chính sách trên cho thấy sự khác biệt mang tính đối lập giữa chế độ cũ và

chế độ mới. Nó cũng thể hiện bản chất của dân, do dân, vì dân của chế độ mới, lo

cho dân từ những nhu cầu vật chất đến tinh thần. Dù chỉ là những nhiệm vụ cấp

bách cần thực hiện để giải quyết những vấn đề nóng bỏng cuộc sống đang đặt ra,

chưa phải là những nhiệm vụ mang tính lâu dài, chiến lược song những yếu tố mang

tính nền móng cho một chế độ mới cũng đã phôi thai hình thành từ những viên gạch

đầu tiên này.

Tính pháp quyền của việc tổ chức nhà nước được thể hiện trong bản Hiến pháp

do Quốc hội thông qua. Trong Hiến pháp đó, hình thức nhà nước phải được khẳng

định. Trong phiên họp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ngày 03-9-1945, Người

khẳng định: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế

độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân

dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp

dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với

chế độ phổ thông đầu phiếu” [94, tr.8]. Chính bản Tuyên ngôn 02-9 đã đặt cơ sở

pháp lý cho việc tổ chức một cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội và sự ra đời bản hiến

pháp đầu tiên của một nhà nước mới.

Một cuộc bầu cử Quốc hội theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu lần đầu tiên đã

Page 196: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

191

được diễn ra ở Việt Nam. Ngày 17-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ấn

định thể lệ Tổng tuyển cử. Đây là một cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông

đầu phiếu diễn ra chỉ hơn 3 tháng sau khi giành độc lập và thực sự là một cuộc Tổng

tuyển cử tự do, dân chủ: “Tất cả công dân gái trai mười tám tuổi đều có quyền ứng cử

và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống,v.v…” [94, tr.8]. Ngày

bầu cử thành lập Quốc hội của một nhà nước mới là một ngày đánh dấu một bước

ngoặt lớn “ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ… ngày đầu tiên trong lịch

sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình” [94,

tr145]. Thiết lập được một nhà nước hợp hiến, dựa vào hiệu lực của bộ máy nhà nước

là một công cụ hữu hiệu chống lại mọi hoạt động phá hoại của kẻ thù, bảo vệ thành

quả cách mạng. Lá phiếu lúc đó cũng là một vũ khí: “Về mặt quân sự, thì các chiến sĩ

dùng súng đạn mà chống quân thù. Về mặt chính trị, thì nhân dân dùng lá phiếu mà

chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn” [94, tr.145].

Máu của nhiều đồng bào, chiến sĩ ta đã đổ xuống để bảo vệ cho thắng lợi của Tổng

tuyển cử. Trong điều kiện một đất nước vừa giành được độc lập đang đứng trước bao

sóng to gió lớn thì việc tổ chức thành công một cuộc bầu cử Quốc hội như vậy là

thành công lớn của những người lãnh đạo đất nước mà đứng đầu là Đảng cộng sản

cùng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Thông qua hai kỳ họp Quốc hội trong

năm 1946, mô hình hoạt động của Quốc hội đầu tiên cũng được định hình trên những

nét cơ bản. “Quốc hội khoá I thật sự là một diễn đàn dân chủ, nơi diễn ra cuộc “đua

tiếng” giữa các lực lượng, các chính kiến”[145, tr.4].

Một nhà nước thực sự dân chủ là nhà nước đảm bảo thực hiện trên thực tế

quyền tự do, dân chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Muốn vậy,

nhà nước phải thể chế hoá quyền tự do dân chủ của nhân dân trong Hiến pháp, pháp

luật, có cơ chế đảm bảo thực hiện những quyền đó trên thực tế. Để xác định được

một hình thức nhà nước mà quan trọng nhất là hình thức chính thể phù hợp với Việt

Nam, ngày 20-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban

dự thảo hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm bảy thành viên do

Người làm trưởng ban. Hồ Chí Minh đã quy tụ được đội ngũ các trí thức Việt Nam

Page 197: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

192

được đào tạo ở Pháp và nhiều nước tiên tiến trong thành phần của Ủy ban dự thảo

Hiến pháp và Uỷ ban kiến thiết quốc gia.: “Có rất nhiều luật gia nổi tiếng như: Vũ

Đình Hoè, Vũ Trọng Khánh, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Văn

Chương, Phan Anh, Cù Huy Cận… Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến

Việt Nam, cùng một lúc có hai bản dự thảo Hiến pháp cùng được trình lên xem xét

và quyết định” [22, tr.156]. Cách tổ chức và phân công quyền lực nhà nước giữa các

cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Việt Nam cũng đã được quy định rõ trong

Hiến pháp 1946.

Diễn biến của tình hình chính trị những tháng đầu năm 1946 diễn ra rất khẩn

trương và phức tạp đòi hỏi phải có một Chính phủ chính thức. Mục tiêu của kỳ họp

đầu tiên của Quốc hội khoá I là phải thành lập được Chính phủ liên hiệp kháng

chiến gồm Chính phủ, Cố vấn đoàn, Kháng chiến uỷ viên. Một hình thức nhà nước

mà quyền lực thuộc về đông đảo nhân dân, một nhà nước đại đoàn kết toàn dân

được thể hiện đặc biệt sinh động trong thành phần của Chính phủ kháng chiến được

thành lập trước kì họp thứ nhất Quốc hội Khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Trong thành phần Chính phủ ấy có “các đại biểu các đảng phái và các anh em

không đảng phái, trước đây đã thương lượng và thoả thuận với nhau, vì vậy sự tổ

chức mới được nhanh chóng như thế” [94,tr.193]. Trong thành phần nội các Chính

phủ gồm mười Bộ ấy ta thấy các thành viên thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp, thành

phần xã hội rất khác nhau. Chủ tịch Chính phủ là Hồ Chí Minh trong khi Phó chủ

tịch chính phủ là Nguyễn Hải Thần, nguyên là thành viên của đảng Việt Cách, một

đảng thân Tưởng; cố vấn tối cao cho Chính phủ ấy nguyên là Hoàng đế của triều

Nguyễn trước đây nay là công dân Vĩnh Thuỵ. Trong thành phần Chính phủ ấy có

mặt những trí thức Nho học, những trí thức Tây học thuộc nhiều lĩnh vực nghề

nghiệp chuyên môn khác nhau, có những người xuất thân từ hoàng tộc cũ song cũng

có những nhân vật xuất thân từ tầng lớp những người lao động, có những người có

tuổi tác song cũng có những người là thanh niên, có những người thuộc các vùng

miền khác nhau của đất nước, đặc biệt “trong mười Bộ thì hai Bộ Chính phủ định

để dành cho đại biểu đồng bào Nam Bộ” [94,tr.194] vì đã ra đi nhưng chưa tới hoặc

Page 198: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

193

vì công việc tổ chức kháng chiến nên không ra họp được. Tất cả họ dù khác nhau

nhưng đều có chung một điểm là có thể “giúp ý kiến cho chính phủ hoặc có thể điều

khiển quốc dân” [94, tr.193] để hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc đem

lại độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho toàn dân Việt Nam. Thành phần Chính phủ

kháng chiến tỏ rõ tinh thần một nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi.

Chế độ dân chủ cộng hoà được xác lập ở nước ta sau cách mạng Tháng Tám-

1945 là chế độ dân chủ mới, tức dân chủ của số đông những người lao động,

chuyên chính với thiểu số những kẻ chống phá ngấm ngầm hoặc công khai chế độ

đó. Đó là chế độ dân chủ được xác lập ở nước ta sau thắng lợi của cuộc cách mạng

dân tộc dân chủ trong đó quyền lực được thừa nhận là thuộc về nhân dân, do Đảng

cộng sản - đảng của GCCN và nhân dân lao động lãnh đạo. Chế độ này phân biệt

trước hết với chế độ quân chủ đã tồn tại ở nước ta hàng nghìn năm. Mặt khác, chế

độ này cũng phân biệt với chế độ dân chủ tư sản đang tồn tại phổ biến trên thế giới

lúc bấy giờ.

Thể chế dân chủ cộng hoà đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị

và thực thi quyền lực chính trị. Nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất. Khẳng định bản

chất của chế độ chính trị dân chủ cộng hoà, ngay trong bản tuyên ngôn 02-9-1945,

Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới,

đại biểu cho toàn dân Việt Nam” [94, tr.3]. Nhà nước không còn là công cụ thống

trị, nô dịch nhân dân như trong xã hội phong kiến hay TBCN nữa. Hồ Chí Minh đã

khẳng định sự thay đổi lớn về bản chất của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam được

thành lập sau cách mạng Tháng Tám so với các nhà nước trước đây như sau: “Non

hai tháng trước đây, trước cuộc khởi nghĩa 19-8-1945, nói tới hai chữ Chính phủ,

người ta nghĩ ngay tới một bọn đảng cướp nguy hiểm. Trái lại, ai ai với Chính phủ

Nhân dân hiện nay cũng đều có một tình cảm thân mật xen lẫn với một tôn kính sâu

xa” [94, tr.22,23]. Sở dĩ như vậy vì Chính phủ đó là một bộ phận hữu cơ, không

tách rời của một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ

cộng hoà là công cụ chuyên chính của nhân dân trấn áp các lực lượng đối lập, khác

với các nhà nước trước đây: “Trước kia Việt Nam ta vẫn có nhà nước và chính phủ.

Page 199: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

194

Song đó là công cụ của đế quốc và phong kiến để áp bức nhân dân... Nhà nước cũ

nằm trong tay đế quốc và phong kiến. Tính chất của nó là đế quốc và phong kiến, là

phản động. Nhà nước ta ngày nay là nằm trong tay nhân dân chống đế quốc và

phong kiến. Tính chất của nó là nhân dân, dân chủ, chuyên chính” [97, tr.216, 217].

Việc lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ là bước khởi đầu. Cũng

giống như bất cứ một chế độ chính trị nào khác, chế độ dân chủ nhân dân để có

thể tồn tại cần có cơ sở về nhiều mặt từ kinh tế đến văn hoá, xã hội, tư tưởng…

Những có sở này không tự nhiên có được mà là sản phẩm của quá trình nhận thức

và hành động thực tiễn của lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước. Nó cũng không

thể ngày một ngày hai có ngay được mà là kết quả của cả một tiến trình lâu dài vừa

làm vừa hoàn thiện. Việc thiết lập các cơ sở về mọi mặt cho sự tồn tại của một nền

chính trị mới là công việc đầy khó khăn đòi hỏi nhiều trí tuệ và tâm huyết của toàn

thể nhân dân Việt Nam.

Cơ sở kinh tế thực sự của chế độ dân chủ mới phải là chế độ sở hữu toàn dân.

Mặc dù tại thời điểm sau cách mạng Tháng Tám -1945 chưa có chế độ sở hữu toàn

dân được xác lập như là chế độ sở hữu chủ yếu nhưng nó định hướng cho một quan

hệ sản xuất cần phải có trong tương lai. Cơ sở chính trị trực tiếp là nhà nước kiểu

mới, và đảng cộng sản cầm quyền. Cơ sở xã hội của chế độ dân chủ cộng hoà là

“đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo” [128,

tr.103].

Đặc biệt trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của cách mạng Việt Nam sau

tháng Tám năm 1945, cơ sở chính trị trực tiếp - đảng lãnh đạo chính quyền - là nhân

tố quan trọng giúp chính quyền có thể đứng vững và hoàn thành các nhiệm vụ của

mình trước lịch sử. Trong một tình thế đặc biệt, Hồ Chí Minh và các đồng chí của

Người đã phải giấu đi “tài sản” quý giá nhất bằng cách tuyên bố giải tán Đảng, thực

chất đưa đảng cộng sản đi vào hoạt động bí mật dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu

chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Trong điều kiện hoạt động bí mật, một mặt đảng

tránh được hòn tên mũi đạn của kẻ thù, mặt khác đảng đưa ra những đường lối đúng

đắn lãnh đạo chính quyền để đưa cách mạng tiến lên. Đảng lãnh đạo chính quyền

Page 200: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

195

bằng một phương thức đặc biệt chủ yếu là thông qua vai trò tiên phong của các đảng

viên trong bộ máy chính quyền đã phát huy được sức mạnh toàn dân tộc trong công

cuộc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng nền dân chủ cộng hoà vừa được xác lập sau cách

mạng Tháng Tám -1945. Một nhà nước kiểu mới dưới sự lãnh đạo của một đảng

kiểu mới thực sự cách mạng theo chủ nghĩa Mác Lênin là yếu tố quan trọng giúp

những người cách mạng có thể giữ vững thành quả cách mạng đã giành được trong

cách mạng Tháng Tám -1945 và thúc đẩy cách mạng Việt Nam tiến lên.

Việc xây dựng và hoàn thiện các cơ sở về mọi mặt cho chế độ dân chủ nhân dân

có thể tồn tại, phát triển và hoàn thành nhiệm vụ của nó trước lịch sử là nhiệm vụ

quan trọng đặt ra cho những người Việt Nam, đặc biệt những đảng viên cộng sản

sau cách mạng Tháng Tám -1945. Xác lập các cơ sở tồn tại của chế độ dân chủ nhân

dân đến lượt nó sẽ tạo ra những tiền đề để đưa đất nước tiến lên CNXH. Hoàn thiện

chế độ này chính là một điều kiện quan trọng để cách mạng Việt Nam có thể đi đến

đích trên con đường mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những người đồng chí của

Người đã chọn - con đường độc lập dân tộc tiến lên CNXH.

3.3.3. Ý nghĩa và hệ quả của sự biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong

kiến sang chính trị dân chủ cộng hoà

a. Ý nghĩa của sự biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong kiến sang

chính trị dân chủ nhân dân

Bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân

được thực hiện thông qua cuộc cách mạng Tháng Tám-1945 được Hồ Chí Minh coi

là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta. Đây là một bước ngoặt

cách mạng đưa Việt Nam lên một tầm cao mới, đặt nước ta trên một quỹ đạo phát

triển mới. Vấn đề là chúng ta có tận dụng được cơ hội này, điểm xuất phát này để

có một sự bứt phá trên con đường phát triển hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu

tố khác nhau. Bước chuyển này có những ý nghĩa nổi bật sau đây:

Thứ nhất, ý nghĩa độc lập, giá trị độc lập: Bước chuyển này đã đem lại nền độc

lập cho dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam - nền độc lập đã bị Pháp thủ tiêu

từ khi chúng xâm lược và thôn tính đất nước ta. Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã

Page 201: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

196

trở thành một xứ độc lập. Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập 02-9-1945

đã khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây

dựng nên nước Việt Nam độc lập” [94, tr.3]. Với ý nghĩa này, bước chuyển từ chính

trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân là kết quả của cuộc đấu

tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam khỏi ách nô lệ của lực lượng ngoại

bang. Bước chuyển này là sản phẩm của sự kết tinh truyền thống yêu nước, tinh

thần bất khuất, không cam chịu thân phận nô lệ và những truyền thống, tinh hoa của

người Việt Nam hàng nghìn năm.

Thứ hai, ý nghĩa dân chủ, giá trị dân chủ. Trong Tuyên ngôn đọc ngày 02-9-

1945, Hồ Chí minh đã khẳng định thành quả đặc biệt này: “Dân ta lại đánh đổ chế

độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà” [94, tr.3].

Một mặt, bước chuyển này gắn với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân

Việt Nam, dân tộc Việt Nam với kẻ thù nước ngoài xâm lược. Song, khác với các

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của người Việt Nam trong lịch sử cũng như các

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa khác ở Đông Nam Á,

bước chuyển này đã đưa quyền lực nhà nước từ tay một thiểu số bóc lột là đế quốc,

phong kiến sang tay nhân dân lao động.

Suy cho cùng, giải phóng dân tộc thì thời nào dân tộc ta cũng làm được. Còn lật

đổ chế độ quân chủ, giành chính quyền về tay nhân dân, dựng lên chế độ dân chủ

cộng hoà, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ

bản thân, với nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân,

nhà nước tiến bộ nhất ở Đông Nam Á, thì chỉ có thời đại Hồ Chí Minh, chỉ có cách

mạng Tháng Tám mới làm được. Sau khi Nhật rút khỏi Đông Nam Á, hầu như các

nước khu vực này được giải phóng, nhiều nước đã tuyên bố độc lập, nhưng xoá bỏ

nhà nước phong kiến và chế độ quân chủ chuyên chế lập nên nhà nước dân chủ

nhân dân, chế độ dân chủ cộng hoà thì chỉ có ở Việt Nam [199]

Với bước chuyển này, nhân dân Việt Nam đã thực hiện một cuộc cách mạng với

mục tiêu kép: giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Cuộc cách mạng này

đạt được sự tổng hoà của nhiều giá trị mà các cuộc cách mạng khác nhau trên thế

Page 202: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

197

giới đã giành được: “Noi gương cách mạng 1776 của Mỹ, cách mạng Tháng Tám

tranh tự chủ chống ngoại xâm. Cũng như cách mạng 1789 của Pháp, cách mạng

Tháng Tám thực hành lý tưởng: Bình đẳng, Tự do, Bác ái. Theo gót cách mạng

1911 của Tàu, cách mạng Tháng Tám thực hiện chủ nghĩa: dân tộc, dân quyền, dân

sinh” [95,tr.187]. Hai giá trị độc lập và tự do luôn song hành trong tiềm thức Hồ

Chí Minh, bởi cứu nước theo Người phải gắn với cứu dân; bởi nước được độc lập

mà nhân dân lao động không được hưởng hạnh phúc, tự do thì nền độc lập ấy cũng

không có nghĩa lý gì. Người tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới

thành quả vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được ngày 02-9-1945: “Nước Việt

Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc

lập” [94, tr.4]. Tự do, độc lập, đó là những giá trị thiêng liêng mà người Việt Nam

phải đổi bằng xương máu và những nỗ lực không mệt mỏi. Chính vì vậy: “Toàn thể

dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để

giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [94, tr.4]

Như vậy, bước biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong kiến phản động

sang chính trị dân chủ nhân dân tiến bộ đánh dấu sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Việt

Nam: từ một dân tộc nô lệ, Việt Nam thành một dân tộc độc lập. Với bước chuyển

này, lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm, quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã

thuộc về nhân dân lao động. Một dân tộc độc lập gắn với những cá nhân tự do sẽ là

nguồn nội lực lớn, tạo cơ hội để dân tộc chuyển mình và hồi sinh.

b. Hệ quả của sự biến đổi chính trị từ chính thực dân phong kiến sang chính

trị dân chủ nhân dân

Chính trị dân chủ cộng hoà là một hình thức chính trị quá độ để tiến tới chính

trị XHCN, một cách thực sự. Do đó, bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến

sang chính trị dân chủ nhân dân có thể coi như một bước ngoặt cách mạng mở ra

một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam bước vào quỹ đạo

tiến lên CNXH với một bộ máy chính quyền kiểu mới đã được xác lập.

Mục tiêu chiến lược của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách

thống trị của đế quốc, phong kiến dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam và

Page 203: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

198

lãnh tụ Hồ Chí Minh là tiến lên CNXH, CNCS. Tuy nhiên, với cuộc cách mạng

Tháng Tám năm 1945, chúng ta chưa thực hiện ngay được mục tiêu ấy. Chế độ dân

chủ nhân dân có thể coi là một hình thức chính trị quá độ để tiến tới chế độ XHCN,

CSCN. Điều này đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng như Đảng cộng sản Việt Nam

khẳng định nhiều lần, đặc biệt khi những thành quả của chế độ dân chủ nhân dân

(hay chế độ dân chủ mới) đã được hiện diện ngày càng rõ nét trong hiện thực. Năm

1949, Hồ Chí Minh khẳng định: “Xây dựng dân chủ mới để tiến tới CNXH” [95,

tr.551]. Hay khi nhấn mạnh biện pháp chủ yếu cần thực hiện để có thể tiến lên

CNXH, Người nói: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết

nhất để phát triển chế độ nhân dân tiến dần lên CNXH” [98, tr.349]. Mối quan hệ

giữa chế độ dân chủ nhân dân và chế độ XHCN được nhận thấy rõ hơn trong Chính

cương của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951 khi bàn tới ba giai đoạn của cách

mạng Việt Nam: “Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng

dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và

nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn

chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ

sở cho CNXH, tiến lên thực hiện CNXH”.

Có thể thấy, chế độ dân chủ nhân dân, nhà nước dân chủ nhân dân được thiết

lập sau thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945 chưa phải là một chế độ

XHCN và nhà nước XHCN nhưng nó là một chế độ, một nhà nước nằm trong quỹ

đạo hướng tới CNXH.

Sự khác biệt cơ bản giữa hai chế độ này đó chính là cơ sở kinh tế của nó. Nếu

như chế độ XHCN dựa trên cơ sở kinh tế là “không có chế độ tư hữu” [97,tr.210] thì

trong chế độ dân chủ nhân dân vẫn còn chế độ tư hữu song không phải là chế độ tư

hữu tư liệu sản xuất của thiểu số người để áp bức đa số như trong chế độ TBCN hoặc

phong kiến mà là “làm cho hàng chục triệu dân cày thành tư hữu” [97,tr.210] (tức tư

hữu tư liệu sản xuất của số đông trước khi nó “biến thành” chế độ công hữu tư liệu

sản xuất). Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, sự phát triển thấp kém về nhiều mặt

đặc biệt với một thực trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển về kinh tế, chúng ta

Page 204: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

199

chưa thể xây dựng ngay các yếu tố mang bản chất của CNXH mà phải đi dần từng

bước, qua nhiều khâu trung gian. Chính trị dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ nhân

dân chính là một bước, một khâu trung gian như thế để tiến tới chính trị XHCN.

Hiểu như vậy có thể thấy, nhiệm vụ của những thế hệ đi sau để tiếp nối con

đường của cha anh, tiến lên CNXH là sự nghiệp vô cùng khó khăn, nặng nề. Vì chế

độ dân chủ nhân dân chưa phải là chế độ XHCN. Vì vậy, trên cơ sở những thành

quả của chế độ dân chủ nhân dân cũng như những thành quả của các thời kỳ cách

mạng tiếp theo, nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là cần phải tiếp tục xây dựng, hoàn

thiện các yếu tố làm tiền đề cho sự ra đời của chế độ XHCN thực sự ở Việt Nam.

Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy sự vận động của chính trị ở Việt Nam từ

chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân là sự vận động tất

yếu hợp quy luật. Sự vận động này chịu sự tác động chi phối của những nhân tố

khách quan, chủ quan, quốc tế, trong nước, đặc biệt vai trò tối quan trọng của đảng

cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với sự biến đổi này, chúng ta đã bước

một bước dài, một bước chân khổng lồ trong hành trình nghìn năm của dân tộc.

Hàng nghìn năm trước khi cách mạng Tháng Tám nổ ra và thắng lợi, bước chân của

dân tộc Việt Nam vẫn trong khuôn khổ của một con đường đã được mở ra từ sau

khi Ngô Quyền giành độc lập trên dòng sông Bạch Đằng năm 938, con đường của

chế độ phong kiến. Với cách mạng Tháng Tám -1945, dân tộc Việt Nam bắt đầu

những bước đầu tiên trên một con đường hoàn toàn mới chưa từng được khai phá

trong lịch sử dân tộc: con đường tiến lên một xã hội XHCN. Con đường đi tới một

tương lai sáng lạn, ở nơi đó con người được sống như con người, nơi mà “sự tự do

của mỗi người là cơ sở cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Như vậy, bước

chuyển này đã hoạch định cho Việt Nam một con đường trên đó Việt Nam có thể

sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Nhưng chúng ta có đủ sức để

bước những bước vững chắc trên con đường dẫn tới một tương lai sáng lạn nhưng

cũng đầy khó khăn, thách thức tới đích đã chọn hay không, điều đó phụ thuộc rất

nhiều vào khả năng của chúng ta trong việc nhận thức, xây dựng và hoàn thiện các

tiền đề về mọi mặt đặc biệt là tiền đề kinh tế.

Page 205: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

200

Với Nhật Bản nửa sau thế kỷ XIX, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nhật,

việc xuất hiện một đấng minh quân - Minh Trị - cùng chính sách Duy Tân của ông

đã đưa nước Nhật từ một nước Phong kiến thành một nước Tư bản phát triển. Chính

trị tư sản đã thay thế chính trị phong kiến ở Nhật Bản. Bước phát triển đó đã giúp

nước Nhật đẩy lùi hoạ xâm lăng. Nước Nhật đường hoàng tiến bước trên con đường

TBCN. Việt Nam thì không như vậy. Chúng ta đã lỡ một nhịp phát triển. Nền chính

trị lạc hậu như là sản phẩm của một nền kinh tế yếu kém, lạc hậu đã làm cho Việt

Nam không thể bứt phá từ xã hội phong kiến lên xã hội TBCN trên con đường phát

triển. Và hậu quả là chúng ta đã bị xâm lược, thôn tính bởi đế quốc Pháp ở trình độ

phát triển cao hơn chúng ta cả một phương thức sản xuất. Tuy nhiên, chính sự cai trị

tàn bạo của thực dân Pháp, chính việc xây dựng các cơ sở về mọi mặt cho sự tồn tại

của nền chính trị thực dân - phong kiến đã tạo ra ngoài ý muốn của kẻ cai trị những

tiền đề cho sự ra đời của một nền chính trị mới thay thế chính trị thực dân - phong

kiến. Đó là chính trị dân chủ nhân dân. Tuy chính trị dân chủ nhân dân chưa phải là

chính trị XHCN nhưng đó là một hình thức chính trị quá độ để tiến lên CNXH.

Thiết lập chế độ dân chủ cộng hoà, một chế độ chính trị của nhân dân, do nhân dân

và vì nhân dân mới chỉ là bước khởi đầu để hướng tới một xã hội trong đó người

dân thực sự được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Nghiên cứu bước chuyển cách mạng này cho phép chúng ta khẳng định con

đường tiến lên CNXH ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam

ngày nay là một sự lựa chọn chuẩn xác có cơ sở khoa học. Đó là quá trình phát triển

kế thừa và tiếp nối mà bước ngoặt tháng Tám năm 1945 là bước khởi đầu quan

trọng đánh dấu chính quyền nhà nước đã về tay nhân dân.

Vấn đề đặt ra cho các tầng lớp nhân dân Việt Nam hiện nay, đặc biệt lực lượng

lãnh đạo đất nước là việc xây dựng, củng cố bộ máy chính quyền của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân và thiết lập các yếu tố như là tiền đề, cơ sở không thể thiếu để

tiến lên CNXH. Nội dung của những tiền đề cho một chế độ XHCN được thiết lập

trên hiện thực cần có những công trình nghiên cứu cụ thể. Chỉ ra một cách định tính

như vậy để chúng ta xác định cho mình một phương hướng, khẳng định một con

Page 206: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

201

đường dẫn tới một tương lai tươi sáng nhưng đầy khó khăn, thử thách và chông gai.

Như vậy, bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ

nhân dân đặt chúng ta trên một quỹ đạo mới chưa từng có trong lịch sử phát triển

của dân tộc. Đó là quỹ đạo tiến lên CNXH. Tuy nhiên, đó là con đường đầy khó

khăn thử thách và chông gai đòi hỏi chúng ta một tầm trí tuệ để xây dựng cho mình

những tiền đề cần thiết để vững bước trên lộ trình đó, một bản lĩnh chính trị để

không bỏ cuộc trước khi đến đích và một trái tim đủ nhạy cảm để có sự uyển

chuyển cần thiết, đúng lúc điều chỉnh tốc độ, bước đi trên hành trình hướng đích.

Bởi con đường thẳng không phải bao giờ cũng là con đường ngắn nhất. Đó là thách

thức lớn với cả dân tộc Việt Nam cũng như từng “con dân nước Việt”.

Tiểu kết chương 3

Bước biến đổi từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân

dân là kết quả trực tiếp của việc giải quyết mâu thuẫn dân tộc ở nước ta. Sự cai trị

tàn bạo của thực dân, phong kiến đã đẩy mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và giai

cấp tư sản Pháp lên đến đỉnh điểm. Nhu cầu, khát vọng cháy bỏng của toàn thể nhân

dân Việt Nam lúc bấy giờ là độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Việc tìm kiếm các con đường cứu nước khác nhau của những người Việt Nam yêu

nước trong bối cảnh lịch sử đó xét trên phương diện chính trị học chính là tìm một

kiểu nhà nước, một hình thức nhà nước phù hợp với Việt Nam. Các con đường cứu

nước gắn với việc tái lập kiểu nhà nước phong kiến hay xác lập kiểu nhà nước tư

sản đã bị lịch sử Việt Nam chối từ vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác

nhau. Và cuối cùng, sau quá trình trải nghiệm thực tiễn, nghiên cứu lý thuyết khắp

các châu lục khác nhau trên thế giới, sau khi khảo sát một hình thức đặc biệt của

kiểu nhà nước tư sản ở thuộc địa (nhà nước thực dân phong kiến), các hình thức

khác nhau của kiểu nhà nước tư sản ở các nước tư bản phát triển (mô hình quân chủ

lập hiến và dân chủ cộng hoà tư sản), mô hình nhà nước kiểu mới ở nước Nga Xô

Viết, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã khẳng định trong thời đại ngày nay con

Page 207: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

202

đường cứu nước giải phóng dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản. Mà

kết quả tất yếu của con đường này sẽ là một nhà nước thuộc kiểu nhà nước XHCN

được xác lập. Với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tiêu chí quan trọng nhất cho

việc phủ nhận kiểu nhà nước này và lựa chọn kiểu nhà nước kia chính là mục tiêu

kép: Độc lập dân tộc gắn với hạnh phúc của đông đảo nhân dân. Con đường cứu

nước giải phóng dân tộc gắn với mô hình nhà nước kiểu mới mà Hồ Chí Minh tìm

thấy cho Việt Nam có đầy đủ các tiền đề, cơ sở để có thể được hiện thực hoá ở nước

ta. Các tiền đề đó chính là sản phẩm trực tiếp của sự cai trị của thực dân, phong kiến

ở nước ta. Nói cách khác, thực dân Pháp trong khi thiết lập các cơ sở về mọi mặt

cho sự thống trị chính trị của chúng thì đồng thời kết quả là chúng cũng tạo ra

những yếu tố mầm mống cho sự phủ định chính nền chính trị mà chúng thiết lập ở

nước ta.

Sau khi khẳng định kiểu nhà nước mới là quá trình nhận thức các hình thức nhà

nước phù hợp với nước ta và sự chuẩn bị các yếu tố tiền nhà nước cho sự xác lập

một nhà nước mới thay thế nhà nước thực dân phong kiến. Từ mô hình nhà nước

công nông binh theo kiểu Xô Viết đến mô hình nhà nước dân chủ nhân dân là một

bước ngoặt có tính cách mạng thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh

chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Các yếu tố tiền

chính quyền mà tiêu biểu là mặt trận Việt Minh là một hình thức độc đáo của một

loại hình tổ chức vừa thực hiện chức năng của một mặt trận dân tộc thống nhất vừa

có tính cách của một chính quyền phôi thai.

Việc xác lập các yếu tố của một nền chính trị mới như quốc hội, hiến pháp,

chính phủ… là yếu tố không thể thiếu trong bước vận động từ chính trị thực dân -

phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân. Chính trị dân chủ nhân dân chưa phải

là chính trị XHCN mà chỉ là bước quá độ để tiến tới một nền chính trị XHCN. Do

đó, việc xây dựng, thiết lập các yếu tố cơ sở cho sự tồn tại và phát triển từ chính trị

dân chủ nhân dân đến chính trị XHCN chính là nhiệm vụ khó khăn, nặng nề song

cũng hết sức vẻ vang của các thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau.

Page 208: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

203

KẾT LUẬN

Nghiên cứu sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945, có thể rút ra

một số bài học có tính phương pháp luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với

việc nghiên cứu chính trị học cũng như hoạt động chính trị thực tiễn ở nước ta hiện

nay.

Trước hết, nghiên cứu tính quy luật trong sự vận động và phát triển của chính trị

Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại trong tương quan so sánh với sự vận động về chính

trị của các nước trong khu vực như Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan dưới giác độ của

khoa học chính trị, có thể một lần nữa khẳng định tính đúng đắn, cơ sở khoa học

của con đường phát triển ở Việt Nam hiện nay là con đường đi lên CNXH. Bởi

con đường mà nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam

đang thực hiện hôm nay thực chất là sự tiếp nối hợp quy luật của con đường giải

phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản mà tính cách mạng, khoa học của

nó đã được phân tích, luận giải trong luận án.

Sự vận động “lỡ nhịp” của Việt Nam (vận động bình thường là theo kiểu của

Nhật Bản: từ xã hội phong kiến lên xã hội TBCN) vô hình chung đã đặt Việt Nam

trên một quỹ đạo phát triển mới: quỹ đạo tiến lên CNXH. Thực tế này một mặt tạo

cơ hội cho Việt Nam được đặt ở điểm đầu của một con đường mà trên con đường

đó, chúng ta có thể đạt được những bước phát triển cao về nhiều mặt, tiến lên một

xã hội văn minh. Song, mặt khác thực tế này lại đặt nước ta trước quá nhiều thách

thức khi chúng ta còn ở trình độ phát triển khá thấp về nhiều mặt, đặc biệt về kinh

tế. Để có thể tự tin vững bước trên một con đường như vậy, đòi hỏi chúng ta phải có

những điều kiện nhất định trên nhiều phương diện. Những điều kiện này chưa có

sẵn trong hiện thực do đó chúng ta phải tốn không ít tâm sức và thời gian cho quá

trình thiết kế và xây dựng. Đây là khó khăn, thử thách to lớn đối với các thế hệ

người Việt Nam để có thể tiếp bước con đường các thế hệ cha anh đã lựa chọn bằng

máu xương, nước mắt và đã được thực tiễn lịch sử chứng minh tính đúng đắn của

nó.

Page 209: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

204

Thứ hai, những nghiên cứu trong luận án một lần nữa khẳng định vai trò của

lực lượng lãnh đạo chính trị với sự phát triển của đất nước là vô cùng to lớn.

Diện mạo của xã hội về mọi mặt là do bản thiết kế của lực lượng cầm quyền tạo ra.

Số phận của dân tộc gắn với số phận của hàng triệu triệu con người cũng phụ thuộc

vào lực lượng này với các quyết sách chính trị của họ. Do đó, trong mọi sai lầm đối

với sự phát triển của một quốc gia dân tộc thì sai lầm lớn nhất chính là sai lầm của

lực lượng cầm quyền trong hoạch định đường lối phát triển đất nước. Trong một xã

hội hiện đại, khi trình độ dân trí ngày càng tăng thì mỗi cá nhân không thể không

quan tâm đến chính trị, vì trong đó có vận mệnh của quốc gia dân tộc gắn với vận

mệnh của cá nhân. Và sự quan tâm đến chính trị của người dân có thể coi là một

trong những thước đo của xã hội văn minh. Sự quan tâm đến chính trị và tham gia

vào chính trị của số đông là một yếu tố quan trọng làm đối trọng với lực lượng cầm

quyền, khiến họ dù muốn hay không phải hài hoà ở mức độ nhất định giữa chức

năng xã hội và chức năng giai cấp trong quá trình lãnh đạo, quản lý xã hội.

Xuất phát từ vai trò quan trọng của lực lượng lãnh đạo, quản lý đất nước, hiện

nay ở nước ta, để có thể tiến tới mục tiêu XHCN, yếu tố hàng đầu là phải có một

chính quyền thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, củng cố

chính quyền, tăng cường hiệu lực, chức năng của chính quyền trong quản lý, điều

hành đất nước là nhiệm vụ tối quan trọng và cấp bách. Tăng cường vai trò lãnh đạo

của Đảng cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội mà trước hết và quan trọng nhất

là vai trò, hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước, làm cho Đảng

thực sự là lực lượng đại diện cho lương tâm, trí tuệ, đạo đức của cả dân tộc là yếu tố

then chốt hàng đầu. Phát huy dân chủ, tạo ra những cơ chế để người dân có thể tham

gia vào chính trị nhằm tăng hiệu quả của những quyết sách chính trị do lực lượng

cầm quyền đề ra hướng tới những mục tiêu đã định.

Thứ ba, qua nghiên cứu những ý tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX

trong tương quan so sánh với công cuộc Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản, có thể thấy

sự vận động, phát triển là cả một quá trình kế thừa và tiếp nối. Không có những

tiền đề về mọi mặt được tạo ra trước thời Minh Trị thì dù là một đấng minh quân

Page 210: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

205

như Nhật hoàng Minh Trị cũng khó lòng có một cuộc cải cách như Minh Trị Duy

Tân. Ở Việt Nam, chúng ta có thể trách vua Tự Đức và các vị vua kế nhiệm ông

không có một tầm nhìn chiến lược để canh tân đất nước. Song, vấn đề là: trong

khuôn khổ một nền chính trị phong kiến và cách thức cai trị kiểu phong kiến cũng

như tầm nhìn của các bậc tiền nhiệm Tự Đức, Việt Nam không có những tiền đề về

nhiều mặt cho một cuộc canh tân như Nhật Bản. Ở đây, tầm nhìn chiến lược của lực

lượng lãnh đạo, quản lý đất nước trong việc vạch ra một con đường, một hướng đi

đúng là rất quan trọng. Nhưng, không kém phần quan trọng là các thế hệ lãnh đạo

khi kế tiếp nhau cầm quyền phải luôn có sự kế thừa, tiếp nối để tiếp tục những công

việc dang dở của các thế hệ đi trước, hướng tới mục tiêu đã định. Điều này đòi hỏi

các nhà lãnh đạo, quản lý đất nước phải luôn đặt lợi ích chung, lợi ích dân tộc lên

hàng đầu. Nhận thức này có ý nghĩa to lớn đối với cách quản lý, điều hành đất

nước theo chế độ nhiệm kỳ hiện nay.

Thứ tư, bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

phát huy bài học lịch sử lấy dân làm gốc. Bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng vào

mùa thu năm 1945 được làm nên bởi sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở

một chất lượng mới dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cách mạng. Thắng lợi của

cách mạng Tháng Tám được Hồ Chí Minh khẳng định nguyên nhân quan trọng nhất

là do “lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết” [94, tr.19]. Toàn dân đoàn kết là “lực

lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó” [94, tr.20]. Sức

mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của một đảng kiểu mới đã

làm nên “một cuộc thắng lợi xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nước ta” [94,

tr.19]. Củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh

lịch sử mới là nhiệm vụ quan trọng đặt ra với toàn hệ thống chính trị cũng như toàn

dân để có thể thực hiện thành công những nhiệm vụ chính trị đặt ra. Tuy nhiên,

trong bối cảnh mới, đất nước đã hoà bình, độc lập, thống nhất, phát triển kinh tế thị

trường với cạnh tranh ngày càng gay gắt, quyết liệt,… thì việc tìm ra một phương

thức hiệu quả để khơi dậy và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân là

một việc không ít khó khăn, thách thức.

Page 211: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

206

Cuối cùng, bài học về xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để hoạch định đường lối

cho Việt Nam. Điều làm nên thành công của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt

Nam trong sự nghiệp cách mạng, đó là luôn biết dựa vào thực tiễn, dựa vào điều

kiện cụ thể của đất nước để hoạch định chủ trương, đường lối cho cách mạng Việt

Nam. Từ chính quyền công nông binh đến chính quyền nhân dân là một bước ngoặt

lớn trong nhận thức của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh chịu sự tác động và chi

phối trực tiếp của hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Thoát được sự ảnh hưởng, “áp đặt”

của quốc tế và nhiều sức ép chính trị, điều này đòi hỏi một tầm trí tuệ và một bản

lĩnh chính trị để có thể khẳng định và thực hiện một đường lối chính trị đúng đắn

mà mình đã lựa chọn.

Page 212: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

207

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thị Thu Hoài (2009), “Hồ Chí Minh và con đường cách mạng vô sản ở

Việt Nam”, Tạp chí Thông tin Chính trị học (3), tr. 18-23.

2. Trần Thị Thu Hoài (2009), “CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh-Một xã hội

cho con người, vì con người”, Tạp chí Cộng sản (803), tr. 45-49.

3. Trần Thị Thu Hoài (2009), “Nguyên nhân thực dân Pháp xâm lược Việt Nam

thế kỷ XIX”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển (10), tr. 138-141.

4. Trần Thị Thu Hoài (2010), “Cơ sở xã hội cho sự cai trị thuộc địa của thực

dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Lý luận

Chính trị và Truyền thông (7), tr. 8-12.

5. Trần Thị Thu Hoài (2011), “Cơ sở kinh tế cho sự cai trị chính trị của thực

dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Kinh tế và

Phát triển (3), tr. 71-76.

6. Trần Thị Thu Hoài (2011), “Nhìn lại chế độ thực dân qua tác phẩm “Bản án

chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc”, Thông tin Lý luận Chính trị

(34), tr. 13-17.

7. Trần Thị Thu Hoài (2011), Chuyên đề “Sự lựa chọn các khả năng

chính trị cho bài toán độc lập ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”,

Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước“Chủ thuyết phát triển của Việt Nam

trong thời đại Hồ Chí Minh và vận dụng chủ thuyết đó trong những thập kỷ

đầu thế kỷ XXI (Hướng tầm nhìn tới năm 2020 và 2045)” Mã số:

ĐTĐL.2008 G/09, Chủ nhiệm: PGS.TS Tô Huy Rứa.

Page 213: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

208

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. (1996), Almanach những nền văn minh thế giới, NXB Văn hoá Thông tin, Hà

Nội.

2. Lưu Văn An (2008), Thể chế chính trị Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám

dưới góc nhìn hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều

Nguyễn, NXB Văn học, Hà Nội.

4. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, NXB Văn học, Hà

Nội.

5. Phạm Ngọc Anh, Hoàng Trang (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân

tộc gắn liền với CNXH, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng

Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.

7. F.Ăngghen (1971), Chống Đuy ring, NXB Sự thật, Hà Nội.

8. F.Ăngghen (1995), “Bàn về quyền uy”, C. Mác và F. Ăng ghen Toàn tập, Tập

XVIII, tr. 418-422, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Huỳnh Công Bá (2006), Lịch sử Việt Nam, NXB Thuận Hoá, Huế.

10. Hoàng Chí Bảo (1993), CNXH hiện thực - khủng hoảng, đổi mới và xu hướng

phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của chủ

nghĩa Mác Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

12. Đỗ Thanh Bình (Chủ biên) (1999), Con đường cứu nước trong đấu tranh giải

phóng dân tộc ở một số nước châu Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

13. Claude Bourrin (2009), Đông Dương ngày ấy 1898-1908, NXB Lao động, Hà

Nội.

14. Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1993), Nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.

15. (1963), Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác bàn về khoa học lịch sử,

NXB Sự thật, Hà Nội.

Page 214: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

209

16. Trương Bá Cẩn (1991), Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), Tập 1, Trung tâm

Nghiên cứu Hán Nôm.

17. Phan Bội Châu (2000), Phan Bội Châu Toàn tập, Tập 2, NXB Thuận Hoá,

Huế.

18. Phan Bội Châu (2000), Phan Bội Châu Toàn tập, Tập 6, NXB Thuận Hoá,

Huế.

19. Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh (2007), Quá trình chuyển biến tư tưởng chính

trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải

pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Phillippe Devillers (2006), Người Pháp và An Nam bạn hay thù, NXB Tổng

hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

22. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước

pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

23. Nguyễn Văn Dương (1995), Tuyển tập Phan Châu Trinh, NXB Đà Nẵng.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần

thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 1, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 6, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giáo trình Chính trị học, NXB Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

30. (1974), Đại Nam thực lục chính biên, Tập XXX, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

Page 215: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

210

31. Trần Bá Đệ (2006), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, NXB Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

32. Hoàng Điệp (Biên soạn) (2007), Chủ tịch Hồ Chí Minh với nước Pháp, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Gilles De Gante (2007), “Những lúng túng của chính quyền thuộc địa”, Tạp

chí Tia sáng (15), tr. 34-36.

35. Trần Văn Giàu (1957), Giai cấp công nhân Việt Nam, sự hình thành và sự

phát triển của nó từ giai cấp “tự mình” đến giai cấp “cho mình”, NXB Sự

thật, Hà Nội.

36. Trần Văn Giàu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn

trước 1858, NXB Văn hoá, Hà Nội.

37. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX

đến cách mạng Tháng Tám, Tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

38. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX

đến cách mạng Tháng Tám, Tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

39. Hà Huy Giáp, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân (1988), Nguyễn An Ninh,

NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

40. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường

cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

41. D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

42. Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, sự hình

thành và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Daniel Hémery (2004), Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam, NXB

Phụ nữ, Hà Nội.

44. Nguyễn Quốc Hùng (2000), Quan hệ Quốc tế thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

45. Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy (1973), Lịch sử các học thuyết chính trị,

NXB Lửa thiêng.

Page 216: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

211

46. Trần Quang Huy (1995), 19-8, Cách mạng Tháng Tám là sáng tạo, Hội Khoa

học Lịch sử Việt Nam.

47. Đỗ Quang Hưng (1989), ““Chính sách phương Đông” của Quốc tế Cộng sản,

lý thuyết và thực tiễn”, Tạp chí Lịch sử Đảng (1), tr. 9-14.

48. John Lê Văn Hoá (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hoá dân tộc trong tư tưởng

cách mạng Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội.

49. Phan Xuân Hoà, Từ nội các Trần Trọng Kim đến chính phủ Bảo Đại, Quyển 1,

Nhà in Hà Nội.

50. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Tập bài giảng Chính trị

học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

51. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tập bài giảng

Chính trị học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp

luật, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

53. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình Chính trị học, NXB Khoa học và Kỹ

thuật, Hà Nội.

54. Nguyễn Văn Hồng, Bài nghiên cứu: “Đông Du Trung Quốc, Việt Nam”, Một

hiện tượng lịch sử khu vực thời cận đại, Tài liệu đánh máy do tác giả cung

cấp.

55. Nguyễn Văn Hồng, Bài nghiên cứu: Tôn Trung Sơn - Hồ Chí Minh mối đồng

cảm lịch sử và thời đại, Tài liệu đánh máy do tác giả cung cấp.

56. Nguyễn Văn Hồng (2001), Mấy vấn đề lịch sử Châu Á và lịch sử Việt Nam,

một cách nhìn, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

57. Nguyễn Văn Hồng (2010), Hồ Chí Minh nhà cách mạng dân tộc hiện thân văn

hoá châu Á và thời đại, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

58. Mary Somers Heid Hues (2007), Lịch sử phát triển Đông Nam Á, NXB Văn

hoá Thông tin, Hà Nội.

59. Nguyễn Văn Kiệm (2003), Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại

Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

Page 217: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

212

60. Lê Thị Kinh (Tức Phan Thị Minh) (2004), “Tìm hiểu thêm về quá trình từ

Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc (qua khai thác các tài liệu mới về

nhóm yêu nước người Việt tại Pháp đầu thế kỷ XX)”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế

Việt Nam học lần 2: Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập, truyền

thống và hiện đại, tr. 309-317, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Thế giới, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam đồng xuất bản.

61. (2000), Khái quát về lịch sử nước Mỹ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

62. Đặng Xuân Kháng (2008), “Vấn đề xây dựng bộ máy Nhà nước hiện đại ở

Nhật Bản dưới chính quyền Minh Trị”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử (9+10), tr.

80-86.

63. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa

(1858-1945), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

64. Nguyễn Văn Khánh (2004), “Hệ thống ngạch bậc công chức của chính quyền

thuộc địa ở Bắc và Trung Kỳ qua Nghị định năm 1936”, Tạp chí Nghiên cứu

Lịch sử (2), tr. 59-72.

65. Nguyễn Văn Khánh (2005), Việt Nam Quốc dân Đảng trong lịch sử cách

mạng Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

66. Lại Quốc Khánh (2009), Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa

xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

67. Nguyễn Hữu Khiển (2006), Phân tích triết học những vấn đề cơ bản về chính

trị và khoa học chính trị, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.

68. Nguyễn Văn Khoan (2010), “Thêm một tư liệu lịch sử về giành chính quyền

tháng 8 năm 1845 ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (11), tr. 68-70.

69. Lý nhân Phan Thứ Lang (2004), Giai thoại và sự thật về Bảo Đại vua cuối

cùng triều Nguyễn, NXB Đà Nẵng.

70. Lý nhân Phan Thứ Lang (2007), Những câu chuyện về cuộc đời Nam Phương

- Hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn, NXB Văn nghệ, Hà Nội

71. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Vương (1997), Phan Bội

Châu (1867-1940), Con người và sự nghiệp, Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn Hà Nội.

Page 218: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

213

72. Đinh Xuân Lâm (1998), Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, một số vấn đề

nghiên cứu, NXB Thế giới, Hà Nội.

73. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Hồng (1998), Xu hướng đổi mới trong lịch sử

Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

74. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2001), Về danh nhân văn hóa Hồ Chí

Minh, NXB Lao động, Hà Nội.

75. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (Chủ biên) (2006), Từ điển nhân vật lịch

sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

76. Phan Huy Lê (1993), “Thiết chế chính trị: di sản và kế thừa”, Tạp chí Khoa

học (2), tr. 23-28.

77. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 33, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

78. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, Tập 34, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

79. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 40, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

80. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, Tập 41, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

81. Trần Huy Liệu, Văn Tạo (Chủ biên) (1957), Tài liệu tham khảo lịch sử cách

mạng cận đại Việt Nam, Tập X, NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội.

82. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1999), Phương pháp luận sử học, NXB Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

83. Nguyễn Tiến Lực (2008), Những hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật Bản,

NXB Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

84. Charles B. Maybon (2006), Những người Châu Âu ở nước An Nam, NXB Thế

giới, Hà Nội.

85. P.H.P. Mason & J.G. Caiger (2008), Lịch sử Nhật Bản, NXB Lao động, Hà

Nội.

86. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1962), Tuyển tập, Tập I, NXB Sự thật, Hà Nội.

87. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập III, NXB Chính trị Quốc gia -

Sự thật, Hà Nội.

88. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập IV, NXB Chính trị Quốc gia -

Sự thật, Hà Nội.

Page 219: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

214

89. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1993), Toàn tập, Tập IX, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

90. Hồ Chí Minh (1990), Về Nhà nước và pháp luật, NXB Pháp lý.

91. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

92. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

94. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

95. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

96. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

97. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

98. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

99. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

100. Hồ Chí Minh (2005), CD-ROM Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

101. Nguyễn Văn Nam (2008), Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á, ASEAN

(Trước công nguyên đến thế kỷ XX), NXB Hà Nội.

102. Trần Viết Nghĩa (2008), “Hoạt động chấn hưng thực nghiệp của tư sản Việt

Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (7), tr. 23-33.

103. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2005), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

104. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

Page 220: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

215

105. Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam với Pháp, NXB Văn hoá

Thông tin, Hà Nội.

106. Lê Nguyễn (2005), Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, NXB Văn hoá Thông

tin, Hà Nội.

107. Vũ Dương Ninh (1989), “Suy nghĩ về giai cấp tư sản dân tộc, quá khứ và hiện

tại”, Tạp chí Lịch sử Đảng (1), tr. 35-39.

108. Vũ Dương Ninh (1990), “Thời cơ tháng Tám trên bình diện quốc tế 1945”,

Tạp chí Khoa học (6,7), tr. 15-21.

109. Vũ Dương Ninh (1995), “Cách mạng Tháng Tám, điểm khởi đầu của quá trình

hội nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học (2), tr. 7-10.

110. Vũ Dương Ninh (2006), “Chủ nghĩa thực dân - hồ sơ chưa khép lại”, Tạp chí

Xưa và Nay (259), tr. 4-6.

111. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2007), Phong trào cải cách ở một số nước Đông

Á giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

112. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2009), Lịch sử thế giới cận đại, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

113. Vũ Dương Ninh (2010), “Nhìn lại quan hệ Pháp - Việt Nam - Trung Quốc qua

các bản Hiệp ước cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (8), tr. 3-15,

82.

114. Lương Ninh (Chủ biên) (2008), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội.

115. Archimedes L.A.Patti (Lê Trọng Nghĩa dịch) (2008), Why Vietnam? (Tại sao

Việt Nam?) - Bản dạo đầu con chim hải âu của nước Mỹ, NXB Đà Nẵng.

116. Hàn Phi (Phan Ngọc dịch) (2005), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, Hà Nội.

117. Vũ Huy Phúc (Chủ biên) (2003), Lịch sử Việt Nam 1858 -1896, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

118. Vũ Thị Phụng (2007), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam,

NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

119. Nguyễn Phan Quang, Phan Văn Hoàng (1995), Luật sư Phan Văn Trường,

NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

Page 221: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

216

120. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2005), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc

đến năm 1884, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

121. Lê Minh Quân (2009), Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin

và Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

122. Bùi Thanh Quất (1996), “Suy nghĩ thêm về “Quyền lực chính trị” như một

phạm trù khoa học”, Tạp chí Triết học (5), tr. 49- 51, 60.

123. Bùi Thanh Quất (1998) “Mối quan hệ giữa quá trình chính trị với quá trình

dân tộc trong lịch sử Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần

thứ nhất, tr. 13-20, NXB Thế giới.

124. Bùi Thanh Quất (2004), Đề cương bài giảng Chính trị với quản lý xã hội,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

125. Bùi Thanh Quất (2006), “Biện chứng trong “Tuyên ngôn độc lập””, Tạp chí

Triết học (8), tr. 8-13.

126. Dương Kinh Quốc (1999), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), NXB

Giáo dục, Hà Nội.

127. Dương Kinh Quốc (2005), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách

mạng Tháng Tám 1945, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

128. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006), Văn kiện Quốc

hội Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

129. Phạm Quỳnh (2006), Thượng Chi văn tập, NXB Văn học, Hà Nội.

130. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-

1932, NXB Tri thức, Hà Nội .

131. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2003), Đại Cương Lịch

sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

132. Sophia Reign (1998), “Nam Kỳ từ đầu chế độ dân sự đến sự đổi dạng trong những

năm 1930”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất, tr. 371-385, NXB

Thế giới.

133. Bertrand Russel (1972), Quyền lực, NXB Hiện đại, Sài Gòn.

134. Alain Ruscio (2006), “Chủ nghĩa thực dân: một bộ luật phi lịch sử, những con

người vô trách nhiệm”, Tạp chí Xưa và Nay (255), tr. 30-34.

Page 222: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

217

135. Gerard Sassges (2006), “Sự thật về kế hoạch khai thác Đông Dương lần thứ

nhất của thực dân Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (11), tr. 35-47.

136. Eto Shinkichi (1998), “Nhật Bản và phong trào Đông Du - Tính hai mặt của

Nhật Bản thời Minh Trị”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất,

tr. 35-40, NXB Thế giới.

137. Tôn Trung Sơn (1995), Chủ nghĩa tam dân, Viện Thông tin Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

138. Văn Tạo (2004), “Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc

tế Việt Nam học lần 2: Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập, truyền

thống và hiện đại, tr. 287- 291, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Thế giới, Viện

Khoa học Xã hội Việt Nam đồng xuất bản.

139. Hà Văn Tấn (1990), Triết học lịch sử hiện đại, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

140. Đinh Ngọc Thạch (2008), “Đông Kinh Nghĩa Thục trong dòng chảy của tư

tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, Một trăm năm Đông Kinh

Nghĩa Thục, tr. 146-153, NXB Tri thức, Hà Nội.

141. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên) (1999), Lịch sử thế giới hiện đại từ 1917 đến

1945, Quyển A, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

142. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên)(1999), Lịch sử thế giới hiện đại từ 1917 đến

1945, Quyển B, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

143. Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái (dịch) (2001), Lịch sử các học thuyết

chính trị trên thế giới, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

144. Trần Thị Thanh Thanh (2004), “Về nền hành chính triều Nguyễn thời kỳ

1802-1883”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (2), tr. 17-25.

145. Song Thành (2001), “Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Tổng tuyển cử bầu Quốc

hội lập hiến đầu tiên của nước ta”, Tạp chí Lịch sử Đảng (1), tr. 38-42.

146. Văn Ngọc Thành, Trần Anh Đức (2009), “Những nghiên cứu ở Việt Nam về

sự biến đổi của kinh tế các nước Đông Nam Á thời thuộc địa”, Tạp chí Nghiên

cứu Đông Nam Á (5), tr. 40-45.

147. Lê Phương Thảo (2009), Nhà nước và cách mạng Việt Nam những năm 1945-

1946, những sáng tạo của Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 223: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

218

148. Trịnh Văn Thảo (2009), Nhà trường Pháp ở Đông Dương, NXB Thế giới.

149. Mạch Quang Thắng (2010), Hồ Chí Minh - Con người của sự sống, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

150. Lê Sĩ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, NXB Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

151. Nguyễn Quang Thắng (2006), Phan Châu Trinh - Cuộc đời và tác phẩm, NXB

Văn học, Hà Nội.

152. Chương Thâu (1997), Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá

đầu thế kỷ XX, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

153. Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh Xuân Lâm

(1999), Lịch sử Việt Nam 1897-1918, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

154. Chương Thâu - Tôn Long (2001), Lê Đại - Con người và thơ văn, NXB Văn

hoá Thông tin, Hà Nội.

155. Chương Thâu (2004), “Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào Nghĩa Thục ở Việt

Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 2: Việt Nam trên con đường

phát triển và hội nhập, truyền thống và hiện đại, tr. 265-276, Đại học Quốc gia

Hà Nội, NXB Thế giới, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đồng xuất bản.

156. Chương Thâu, “Về tư tưởng toàn dân đoàn kết trong cách mạng dân tộc dân

chủ ở Việt Nam từ Phan Bội Châu đến Hồ Chí Minh”, Tài liệu viết tay do tác

giả cung cấp.

157. Tạ Thị Thúy (2005), “Về vấn đề đầu tư của Pháp trong cuộc khai thác thuộc

địa lần thứ hai ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (7), tr. 15-23.

158. Tạ Thị Thúy (2007), “Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc

địa lần thứ hai của người Pháp (1919-1930)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (7),

tr. 38-43, 49.

159. Trần Thị Hồng Thúy (2000), Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam truyền thống, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

160. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (1999), Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam,

NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

Page 224: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

219

161. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây

dưới triều Nguyễn (1802-1858), NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

162. Nguyễn An Tịnh (Sưu tầm)(1996), Nguyễn An Ninh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

163. Trần Quốc Toản (1992), “Chính trị và khoa học”, Một số vấn đề về chính trị

và khoa học chính trị, tr. 7-17, Viện Mác Lênin, Viện CNXHKH, Hà Nội.

164. Nguyễn Khánh Toàn (Chủ biên) (2004), Lịch sử Việt Nam, Tập II, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

165. Ngô Đăng Tri (2008), “Lập nên chế độ dân chủ cộng hoà, thắng lợi lịch sử của

cuộc cách mạng Tháng Tám 1945”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (8), tr. 26-31.

166. Lê Duy Truy (2007), Chủ tịch Hồ Chí Minh với xây dựng nhà nước và công

tác cán bộ, NXB Tư pháp.

167. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2008), Giáo trình thể chế chính trị Việt

Nam, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

168. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp

luật Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.

169. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp

luật, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.

170. Trường Đại học Khoa học Huế (2010), Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ

Chí Minh - Giá trị Lý luận và ý nghĩa thời đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

171. Yoshiharu Tsuboi (1990), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa

1847-1885, Ban Khoa học Xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.

172. Bùi Quang Tung (1958) “Nước Việt Nam trên đường suy vong”, Nguyệt san

văn hoá Á Châu (3).

173. Phạm Hồng Tung (2007), “Đông Á trước những biến chuyển của thế giới và

nguy cơ xâm thực của Chủ nghĩa Tư bản phương Tây”, Phong trào cải cách ở

một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tr. 11-49, NXB Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

Page 225: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

220

174. Phạm Hồng Tung (2008), Văn hoá chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hoá

chính trị, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

175. Phạm Hồng Tung (2009), Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí

lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

176. Phạm Thị Tuyết (2010), “Tổ chức bộ máy chính quyền và chính sách quản lý

đô thị của Thực dân Pháp ở thành phố Hải Dương (giai đoạn 1923-1945)”,

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (12), tr. 47-57.

177. Nguyễn Văn Tường (1974, 1975), Định chế chánh trị và tổ chức công quyền

Việt Nam, Viện Sử học.

178. Trần Thị Thanh Vân (2010), Chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ từ thế kỷ

XVII đến giữa thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm

Hà Nội, Hà Nội.

179. Viện Sử học (2003), Lịch sử Việt Nam 1858-1896, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

180. Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, Tập VIII, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

181. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), Lịch sử Việt Nam 1919-1930, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

182. Nguyễn Khắc Viện (2007), Việt Nam một thiên lịch sử, NXB Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

183. Nguyễn Khắc Viện (2007), Đạo và đời, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

184. Trần Thị Vinh (2008), Lịch sử thế giới, Khoa Lịch sử Đại học Sư phạm Hà

Nội.

185. Phạm Xanh (1998), “Tinh thần dân tộc trong kinh doanh của các nhà doanh

nghiệp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc: trường hợp Bạch Thái Bưởi”, Kỷ yếu

Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất, tr. 341-346, NXB Thế giới.

186. Phạm Xanh (2001), “Tôn Dật Tiên với một số nhà yêu nước, cách mạng Việt

Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng (12), tr. 40-43.

187. Phạm Xanh (2001), Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin

vào Việt Nam (1921-1930), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 226: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

221

188. Phạm Xanh (2005), Nguyễn Trường Tộ và thời đại: Những nghịch lý trong

lịch sử Nhà Nguyễn - Một cách tiếp cận mới, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

189. Phạm Xanh (2010), “Dấu ấn văn hóa của người Pháp ở Hà Nội”, Tạp chí

Nghiên cứu Lịch sử (7), tr. 71-79.

190. Vũ Thị Kim Yến, Nguyễn Văn Dương (2009), Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn

độc lập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

Tài liệu tiếng nước ngoài

191. Lady Borton (2009), Hồ Chí Minh, story told on the Trail, Thế giới Publishers,

Hà nội, Việt Nam.

192. Lady Borton (2010), Hồ Chí Minh, a Journey, Thế giới Publishers, Hà Nội,

Việt Nam.

193. Janet Buttolph Johnson, Richard A. Joslyn (1987), Political Science Research

Methods, Prentice Hall of India private Limited, New Delhi.

194. Vatikiotis, Micheal R.J (1996), Political change in Southeast Asia: Trimming

the banyan tree, London: Routledge

195. Patricia Pelley (2002), Postcolonial Vietnam: New histories of the national

past, Duke University Press.

196. David Pickus (2010), “Karl Marx’s views of Asia from a Western

perspective”, The heritage of Marx’s ideology in current movement of the left,

USSH-RLS International Dialogue.

197. Sten Tonneson (1991), The Vietnamese Revolution of 1945- Roosevelt, Ho Chi

Minh and De Gaulle in World at War, Sage Publication London - New Deihi.

Tài liệu từ internet

197 http://www.gio-o.com

198 http://www.TuanVietNam.net

199 http://www.ussh.edu.vn

200 http://www.vi.wikipedia.org

201 http://www.Tuoitrevnnet.com

Page 227: GIA HÀ KHOA XÃ VÀ NHÂN · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược. 53 2.2. Ng uyên nhân biến đổi chính trị từ chính

222

202 http://www.Chungta.com

203 http://www.Vi.wikibooks.org

204 http://www.Khongtu.com

205 http://www.Khoavanhoc-ussh.edu.vn

206 http://www.vanhoahoc.edu.vn

207 http://www.us.vietnamnet.vn

208 http://www.lichsuvietnam.vn