gia hÀ khoa xà vÀ nhÂn · thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------- -------
TRẦN THỊ THU HOÀI
SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------- -------
TRẦN THỊ THU HOÀI
SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM TỪ 1858 ĐẾN 1945
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số : 62 31 20 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. Bùi Thanh Quất
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH
TRỊ, BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ ...................................................................... 8
1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu và tình hình nghiên cứu ......................... 8
1.1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu ...................................................................... 8
1.1.2. Tổng quan các vấn đề đã được nghiên cứu .......................................... 23
1.2. Một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị .................... 26
1.2.1. Quan niệm về chính trị, biến đổi chính trị ............................................ 26
1.2.2. Chính trị Việt Nam trong lịch sử, biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858
đến 1945 - Một số nhận thức chung .................................................... 39
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 47
Chương 2. SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ CHÍNH TRỊ
PHONG KIẾN SANG CHÍNH TRỊ THỰC DÂN - PHONG KIẾN ........ 49
2.1. Quá trình và nội dung biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến
sang chính trị thực dân - phong kiến ............................................... 49
2.1.1. Lực lượng nắm giữ, ảnh hưởng tới quyền lực nhà nước gắn với kiểu và
hình thức nhà nước ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược .... 49
2.1.2. Quá trình thay đổi lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt gắn với
thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược . 53
2.2. Nguyên nhân biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang chính
trị thực dân - phong kiến .................................................................. 69
2.2.1 Nguyên nhân trực tiếp .......................................................................... 69
2.2.2. Nguyên nhân sâu xa ............................................................................ 80
2.3. Việc xác lập các cơ sở cho sự tồn tại của chính trị thực dân - phong
kiến .................................................................................................... 90
2.3.1. Thiết lập các công cụ bảo vệ chính quyền ............................................ 90
2.3.2. Xác lập cơ sở kinh tế cho sự cai trị thuộc địa ....................................... 95
2.3.3. Xác lập cơ sở tư tưởng, văn hoá cho sự cai trị thuộc địa .................... 105
2.3.4. Xác lập cơ sở xã hội cho sự cai trị thuộc địa ...................................... 113
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 127
Chương 3. SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ TỪ CHÍNH TRỊ THỰC DÂN
PHONG KIẾN SANG CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ NHÂN DÂN ............... 129
3.1. Quá trình lựa chọn kiểu nhà nước cho bài toán độc lập ở Việt Nam
từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX .................................... 129
3.1.1. Khuynh hướng tái lập kiểu nhà nước phong kiến cuối thế kỷ XIX ..... 129
3.1.2. Khuynh hướng xác lập kiểu nhà nước tư sản đầu thế kỷ XX .............. 131
3.1.3. Khuynh hướng lựa chọn kiểu nhà nước XHCN đầu thế kỷ XX .......... 143
3.2. Quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản và sự
chuẩn bị các tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà nước
mới ở Việt Nam ............................................................................... 174
3.2.1. Quá trình nhận thức từ nhà nước công nông binh đến nhà nước dân chủ
nhân dân và hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản ......................... 174
3.2.2. Chuẩn bị các hình thức tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà
nước mới ở Việt Nam ....................................................................... 178
3.3. Quá trình xác lập chính trị dân chủ nhân dân thay thế chính trị
thực dân - phong kiến ..................................................................... 179
3.3.1. Sự thay thế lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước từ thực dân phong
kiến sang nhân dân Việt Nam ........................................................... 179
3.3.2. Xác lập các yếu tố của một nền chính trị mới .................................... 188
3.3.3. Ý nghĩa và hệ quả của sự biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong
kiến sang chính trị dân chủ cộng hoà ................................................ 195
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 201
KẾT LUẬN ............................................................................................... 203
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................. 207
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 208
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ Viết tắt
Chủ nghĩa tư bản - CNTB
Tư bản chủ nghĩa - TBCN
Chủ nghĩa thực dân - CNTD
Chủ nghĩa đế quốc - CNĐQ
Chủ nghĩa xã hội - CNXH
Xã hội chủ nghĩa - XHCN
Chủ nghĩa cộng sản - CNCS
Cộng sản chủ nghĩa - CSCN
Giai cấp công nhân - GCCN
Giai cấp tư sản - GCTS
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Chọn vấn đề “ Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945” làm đề tài
nghiên cứu và viết công trình luận án tiến sĩ chính trị học, tác giả xuất phát từ
những căn cứ sau đây:
Trước hết, xuất phát từ nhu cầu phát triển của chính trị học ở Việt Nam.
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người. “Chính trị đụng
chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi
mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất
nghiêm túc, ... bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện
dân chủ” [24,tr.54]. Nói đến chính trị là nói đến “vận mệnh thực tế của hàng triệu
con người” [79,tr.150]. Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, ngày nay,
chính trị đang trở thành lĩnh vực hoạt động ngày càng có vai trò quan trọng trong
việc tác động trực tiếp đến sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Lịch sử Việt Nam
cũng như lịch sử thế giới đã cho thấy: “Ở mỗi bước ngoặt lịch sử của mỗi quốc gia
dân tộc, trước những cơ may và những thử thách của lịch sử, sự hưng thịnh và suy
vong của quốc gia dân tộc phụ thuộc vào các giải pháp chính trị, chiến lược phát
triển mà giai cấp lãnh đạo thông qua nhà nước hay chính phủ của nó lựa chọn”
[50,tr.103]. Đặc biệt ở nước ta, thực tiễn 25 năm đổi mới cho thấy nhu cầu nghiên
cứu chính trị với tính cách là một khoa học ngày càng trở nên cấp thiết.
Tuy nhiên, chính trị học là một ngành khoa học mới ở Việt Nam. Chính trị học,
với tính cách vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật, sự vắng mặt của chính trị
học với tư cách là một khoa học độc lập ở nước ta trong một thời gian dài khiến cho
cả mặt khoa học lẫn mặt nghệ thuật của chính trị chưa được nghiên cứu thấu đáo.
Trong sự mới mẻ của khoa học chính trị ở Việt Nam nói chung thì lịch sử chính trị
Việt Nam còn là một miền đất mới, chưa khai thác được là bao. Đây là lãnh địa
rộng lớn cho các nghiên cứu về lịch sử chính trị, đặc biệt lịch sử chính trị cận, hiện
đại Việt Nam.
2
Lựa chọn đề tài này cho luận án tiến sĩ chính trị học của mình, tác giả mong
muốn góp phần nhỏ bé vào việc lấp dần khoảng trống đó của chính trị học ở Việt
Nam, một ngành khoa học mới và có nhiều triển vọng phát triển trong tương lai.
Thứ hai, lựa chọn đề tài này, nghiên cứu lịch sử từ góc nhìn chính trị học, là
một cách làm phong phú con đường nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam. Lịch sử là
những gì đã qua. Song, chính những gì đã qua đó có ý nghĩa không thể phủ nhận
với những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong hiện tại và tương lai. Về vai trò của lịch sử,
có thể thấy lịch sử như một chiếc gương chiếu hậu mà nhìn vào đó chúng ta có thể
tự tin để tiến lên phía trước. Tuy nhiên, để có thể khai thác nhiều hơn từ những sự
kiện, những vấn đề lịch sử thì việc tiếp cận lịch sử từ nhiều góc nhìn khác nhau
đang là một vấn đề đặt ra với các nhà nghiên cứu. Có lẽ hiếm có một dân tộc nào
trên thế giới có lịch sử hào hùng và bi tráng như dân tộc Việt Nam. Việc làm cho
những trang sử bi hùng của dân tộc ngấm vào máu mỗi người Việt Nam, trở thành
sức mạnh trong suy nghĩ và hành động của các thế hệ người Việt Nam nhằm đưa
nước ta thành một nước giàu mạnh sánh vai các cường quốc năm châu là một nhiệm
vụ thiêng liêng đặt ra với các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt với tầng lớp trí thức.
Thêm một cách tiếp cận cho nghiên cứu các vấn đề lịch sử - tiếp cận chính trị học -
sẽ là hữu ích trong việc biến quá khứ, biến lịch sử thành sức mạnh cải biến hiện
thực và thực hiện các mục tiêu, khát vọng của mỗi người Việt Nam chúng ta cũng
như của cả dân tộc Việt Nam.
Có một ngôi chùa cổ ở Nhật Bản mà huyền thoại kể rằng, đứng ở bất cứ chỗ
nào trong chùa cũng không thể đếm hết số cột của nó. Hình tượng này ngụ ý rằng, ở
bất cứ góc nhìn nào, chúng ta cũng chỉ là người khiếm thị, cũng chỉ thấy được một
mặt nào đó của vấn đề mà thôi. Khát vọng của con người là có thể nhìn thấy được
nhiều mặt của vấn đề buộc người ta phải tìm kiếm cho mình những góc nhìn mới để
có cái nhìn toàn diện hơn về những vấn đề vốn quen thuộc. Lựa chọn đề tài này cho
luận án, tác giả mong góp một cách nhìn mới về những vấn đề quen thuộc. Đó là
cách nhìn chính trị học cho những vận động về chính trị ở Việt Nam giai đoạn
1858-1945. Đề tài sẽ góp phần luận giải sự phát triển có tính quy luật của chính trị ở
3
nước ta từ 1858 đến 1945 dưới giác độ của khoa học chính trị. Giai đoạn lịch sử
1858-1945 đã được nhiều nhà nghiên cứu lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu từ
nhiều cách tiếp cận khác nhau: sử học, văn học, xã hội học, kinh tế học, luật học,
tôn giáo học, hành chính học,... Tuy nhiên, tiếp cận dưới giác độ của khoa học chính
trị thì hầu như số lượng các công trình nghiên cứu còn rất khiêm tốn. Cùng một đối
tượng, tuy nhiên, những cách tiếp cận khác nhau sẽ cho phép có những kiến giải
khác nhau về đối tượng đó.
Việc nhìn nhận lại những vấn đề lịch sử và tiếp tục có những kiến giải thoả
đáng, khoa học về một thời kỳ đầy biến động trong lịch sử dân tộc, đặc biệt dưới
một góc nhìn mới - góc nhìn chính trị học, với những công cụ tư duy mới luôn luôn
là một điều có ý nghĩa. Dưới ánh sáng của lý luận chính trị học, chúng ta có một
công cụ tư duy mới là những khái niệm, phạm trù của khoa học chính trị để cùng
với những công cụ tư duy đã có, chúng ta có thể có những kết luận chuẩn xác hơn
về những vấn đề lịch sử thời kỳ cận, hiện đại. Từ đó có thể rút ra những bài học và
kinh nghiệm quý báu cho hiện tại và tương lai.
Thứ ba, xuất phát từ việc lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc của Đảng
cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và
việc thực hiện con đường đó hiện nay. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay có
nhiều biến động phức tạp, đặc biệt sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX cùng với sự điều chỉnh, thích nghi của các
nước TBCN để CNTB tiếp tục tồn tại và phát triển trong hình thái hiện đại của nó,
câu hỏi về tính đúng đắn, khoa học của con đường phát triển của Việt Nam ngày
càng được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Vì sao Việt Nam khẳng định đi lên
theo con đường này và vẫn kiên định sự lựa chọn con đường này trong sự biến động
phức tạp của tình hình khu vực và thế giới. Nhìn về cội nguồn là để hướng tới tương
lai. Tìm câu trả lời cho hiện tại từ lịch sử, từ quá khứ của dân tộc là một trong
những điều mà tác giả luận án đặt ra trong đề tài nghiên cứu của mình. Thông qua
nghiên cứu sự vận động có tính quy luật của chính trị Việt Nam thời kỳ cận, hiện
đại gắn với sự vận động chung của lịch sử dân tộc, tác giả mong muốn góp thêm
4
một tiếng nói cho sự luận giải để trả lời câu hỏi này, từ đó giúp chúng ta vững tin
bước đi lên trên con đường đã chọn.
Thứ tư, xuất phát từ nhu cầu của bản thân tác giả, là một người Việt Nam, là
một người nghiên cứu và giảng dạy khoa học xã hội ở Việt Nam, với khao khát
“tường gốc tích nước nhà Việt Nam” để không ngừng hoàn thiện kiến thức của
mình và truyền lửa đến các thế hệ người học thông qua các bài giảng khoa học, giàu
tính thuyết phục, tác giả chọn một vấn đề lịch sử từ cách tiếp cận chính trị học cho
công trình nghiên cứu của mình.
Từ những lý do cơ bản nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Sự biến đổi chính trị ở
Việt Nam từ 1858 đến 1945” cho luận án tiến sĩ chính trị học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích: Bằng lý luận chính trị học, luận án chỉ ra sự vận động có tính
quy luật của chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945. Đó là sự vận động từ chính trị
phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến và từ chính trị thực dân - phong
kiến sang chính trị dân chủ nhân dân. Trên cơ sở đó, hiểu rõ con đường phát triển từ
độc lập dân tộc đến CNXH của Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị ở Việt Nam.
+ Làm rõ sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ chính trị phong kiến sang chính trị
thực dân - phong kiến.
+ Làm rõ sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ chính trị thực dân - phong kiến
sang chính trị dân chủ nhân dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng: Luận án tập trung nghiên cứu sự biến đổi chính trị ở Việt Nam
trong giai đoạn từ 1858 đến 1945 tập trung chủ yếu ở sự thay đổi giai cấp cầm
quyền gắn với sự thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể
chế nhà nước qua hai bước biến đổi: biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang
chính trị thực dân - phong kiến và biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong
kiến sang chính trị dân chủ nhân dân.
5
3.2. Phạm vi
Thứ nhất, về cách tiếp cận, luận án nghiên cứu vấn đề từ giác độ của khoa học
chính trị chứ không phải từ cách tiếp cận sử học hay một chuyên ngành nào khác.
Thứ hai, về mặt thời gian, luận án giới hạn đối tượng nghiên cứu trong giai
đoạn từ 1858 đến 1945, từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đến khi cách
mạng Tháng Tám 1945 thành công lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tuy
nhiên, luận án không chỉ dừng lại ở sự kiện ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nhà nước mới mà còn nghiên cứu những tháng
ngày đầu tiên sau khi nhà nước mới ra đời và có những hoạt động nhất định thể hiện
bản chất của một nhà nước kiểu mới phân biệt với nhà nước kiểu cũ ở Việt Nam
trước thời điểm đó.
Thứ ba, về không gian, luận án không nghiên cứu sự biến đổi chính trị một cách
chung chung mà giới hạn phạm vi nghiên cứu ở Việt Nam gắn với những điều kiện
lịch sử, địa lý, văn hoá, truyền thống... mang đậm sắc thái Việt Nam.
Thứ tư, về nội hàm khái niệm “biến đổi chính trị”, đây là một khái niệm rộng,
tác giả luận án không có tham vọng đưa ra một lý luận chung về biến đổi chính trị
có thể áp dụng cho nhiều trường hợp khác nhau. Trong luận án này, biến đổi chính
trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 được tác giả giới hạn trong phạm vi sự thay đổi
giai cấp cầm quyền gắn với sự thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ
chính trị, thể chế nhà nước qua hai bước biến đổi: Thứ nhất, biến đổi chính trị từ
chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến. Thứ hai, biến đổi chính trị
từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận chính trị học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng các văn kiện liên quan của Đảng cộng sản Việt Nam.
Có nhiều cách tiếp cận chính trị học của các trường phái nghiên cứu khác nhau.
Tác giả luận án đứng trên cách tiếp cận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
Lênin làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu của mình. Các lý thuyết của các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác Lênin đặc biệt như: Lý luận Hình thái kinh tế xã hội, biện
6
chứng giữa cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, biện chứng giữa tồn tại xã hội - ý
thức xã hội là những lý thuyết có thể coi là xương sống mà tác giả dựa vào đó để
triển khai những ý tưởng nghiên cứu trong luận án. Mặt khác, tư tưởng Hồ Chí
Minh - chủ nghĩa Mác Lênin ở Việt Nam, những nội dung chủ yếu trong tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới… là những
cơ sở lý luận không thể thiếu cho tác giả trong khi thực hiện luận án của mình.
Các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt các văn kiện của Đảng thời
kỳ tiền khởi nghĩa thể hiện đỉnh cao trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh có
thể coi như cơ sở lý luận quan trọng dựa vào đó tác giả có thể hoàn thành công trình
nghiên cứu của mình.
Như vậy, lý luận chính trị học Mác xít chính là nền tảng lý luận chủ yếu tác giả
lựa chọn khi triển khai luận án về biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án dựa trên phương pháp luận Mác xít,
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể là phương pháp
hệ thống nhìn thế giới như một chỉnh thể mà Việt Nam là một bộ phận hữu cơ
không thể tách rời của chỉnh thể ấy. Nhìn toàn bộ xã hội như một hệ thống mà chính
trị chỉ là một yếu tố cấu thành hệ thống đó. Phương pháp lịch sử cụ thể xem xét
phân tích sự vận động của chính trị ở Việt Nam trong những điều kiện nhất định của
tình hình thế giới và trong nước, trong những tác động cụ thể của những nhân tố
khách quan và chủ quan. Phương pháp so sánh để nhìn thấy sự tương đồng, dị biệt
trong sự vận động của chính trị ở Việt Nam so với sự vận động chính trị ở các nước
trong khu vực và trên thế giới (So với Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ...). Phương pháp
logic để nhìn thấy bản chất của vận động chính trị được biểu hiện thông qua vô vàn
những hiện tượng chính trị cụ thể… Để triển khai vấn đề nghiên cứu, luận án sử
dụng các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu lịch sử chính trị, tác giả chú trọng kết hợp phương
7
pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử với phương pháp nghiên cứu của khoa học
chính trị cũng như phương pháp liên ngành chính trị - lịch sử.
5. Đóng góp mới của luận án về mặt khoa học
Nhìn nhận, phân tích lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1945 dưới góc độ của
khoa học chính trị để luận giải một số vấn đề như:
- Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX
- Cơ sở khoa học của con đường phát triển độc lập dân tộc đi lên CNXH ở nước
ta.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Về lý luận: là một công trình nghiên cứu về lịch sử chính trị, luận án góp
phần vào việc phát triển bộ môn “Lịch sử chính trị Việt Nam”, một bộ phận hữu cơ
của ngành khoa học chính trị ở nước ta.
6.2. Về thực tiễn: luận án làm sáng tỏ sự vận động có tính quy luật của chính trị
ở Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại dưới giác độ của khoa học chính trị mà con đường
chúng ta đang đi ngày hôm nay chỉ là sự tiếp nối và phát triển hợp quy luật con
đường ông cha đã lựa chọn trong quá khứ, kế thừa những thành quả mà ông cha đã
đạt được bằng biết bao máu và nước mắt. Từ đó, trân trọng những thành quả của
cha ông và vững tin vào con đường phát triển của Việt Nam hiện nay. Luận án cũng
cung cấp thêm một cách nhìn, một cách đánh giá đối với nhiều vấn đề lịch sử quen
thuộc với người Việt Nam.
Với hai ý nghĩa nổi bật nêu trên, luận án có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập khoa học chính trị ở Việt Nam, cho
những ai quan tâm đến con đường phát triển của dân tộc, từ đó củng cố niềm tin vào
con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tìm thấy cho dân tộc từ trái tim nồng nàn
yêu nước và trí tuệ thiên tài của Người.
7. Kết cấu luận án
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, mở đầu,
kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án, thư
mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH TRỊ,
BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ
1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu và tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tư liệu, tài liệu
Đây là một luận án lịch sử chính trị, do đó tư liệu, tài liệu phục vụ cho luận án
có thể khái quát thành hai nhóm chính: Nhóm tư liệu, tài liệu sử học và nhóm tư
liệu, tài liệu chính trị học liên quan trực tiếp, gián tiếp đến đề tài nghiên cứu.
a. Nhóm tư liệu, tài liệu sử học liên quan đến đề tài nghiên cứu
Tác giả ý thức rõ ràng rằng đây là một luận án thuộc chuyên ngành chính trị
học, tuy nhiên là lịch sử chính trị Việt Nam, do đó những tư liệu, tài liệu lịch sử
được sử dụng trong luận án là những chất liệu không thể thiếu để làm nổi rõ nội
dung chính trị học, chất chính trị học. Luận án bàn tới sự biến đổi chính trị ở Việt
Nam trong thời gian từ 1858 đến 1945. Sự biến đổi chính trị này không thể tách rời
bức tranh tổng thể của xã hội Việt Nam cũng như bức tranh chung của lịch sử các
nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Á, lịch sử thế giới cận, hiện đại với nhiều
thăng trầm, biến động. Mặt khác, sự biến đổi chính trị cũng không thể tách rời
những vận động về kinh tế, về văn hoá, xã hội, tư tưởng... trong lòng xã hội Việt
Nam thời kỳ cận, hiện đại. Những vận động về chính trị mà trung tâm là thay đổi
giai cấp cầm quyền gắn với thay đổi kiểu nhà nước và hình thức nhà nước sẽ dẫn tới
sự thay đổi của đời sống chính trị gắn với những con người chính trị (Thủ lĩnh chính
trị, quần chúng nhân dân), các phong trào chính trị, các hoạt động chính trị, các
quan hệ chính trị, đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền... Mặt khác, có thể
thấy, trong thời kỳ lịch sử này, chính trị Việt Nam đã vận động từ chính trị phong
kiến sang chính trị thực dân - phong kiến và cuối giai đoạn này chuyển sang chính
trị dân chủ nhân dân. Như vậy, nghiên cứu sự biến đổi chính trị trong thời cận, hiện
đại không thể không khai thác một lượng tư liệu khá lớn liên quan đến chế độ thuộc
địa của Pháp ở Việt Nam cùng với những tư liệu liên quan đến chế độ phong kiến
9
nhà Nguyễn và chế độ dân chủ nhân dân. Tuy nhiên những tài liệu lịch sử chính trị
chuyên sâu về những nội dung kể trên ở Việt Nam chưa nhiều, tác giả khai thác
thông qua những tài liệu lịch sử chung về từng giai đoạn lịch sử cụ thể trong đó chế
độ chính trị đó tồn tại. Do đó, để có được thông tin về những vấn đề trên phục vụ
cho luận án, những tư liệu, tài liệu sử học dùng trong luận án theo tiêu chí nội dung
có thể phân thành một số nhóm chính sau:
* Nhóm tư liệu, tài liệu về lịch sử cận, hiện đại của thế giới, của các nước trong
khu vực Đông Nam Á, châu Á; lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cũng như lịch sử Việt
Nam thời cận, hiện đại.
* Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn và xã hội
Việt Nam dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn đặc biệt ở thời Tự Đức.
* Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và
xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của Pháp.
* Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ dân chủ nhân dân.
Trước hết, không phải là một người nghiên cứu lịch sử mà là một người nghiên
cứu chính trị học tiếp cận và xử lý nguồn sử liệu khổng lồ với tác giả là một điều
không dễ dàng. Do đó, những tư liệu, tài liệu về phương pháp luận sử học đặc biệt
có ý nghĩa với tác giả. Mặc dù tác giả không phân những tư liệu, tài liệu này thành
một nhóm, song những tư liệu loại này cho phép tác giả có thể thâu tóm và làm chủ
ở mức độ nhất định nguồn sử liệu, trên cơ sở đó xử lý dưới giác độ của khoa học
chính trị. Những tác phẩm loại này có thể kể ra điển hình như: Triết học lịch sử hiện
đại của Hà Văn Tấn, Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin bàn về khoa
học lịch sử.
Với các nhóm tư liệu, tài liệu sử học nêu trên, tác giả luận án đã khai thác, sử
dụng theo hướng cụ thể như sau:
Để có những thông tin về bức tranh của thế giới trong gần một thế kỷ từ 1858
đến 1945 với những đường nét cơ bản nhất cho chúng ta thấy bối cảnh chung trong
đó những biến đổi chính trị diễn ra tại Việt Nam, luận án sử dụng khá nhiều các tác
phẩm đại cương sử, thông sử về lịch sử thế giới cận hiện đại như: Lịch sử thế giới
10
hiện đại từ 1917 đến 1945 (quyển A và B) do Nguyễn Anh Thái chủ biên, Lịch sử
thế giới của Trần Thị Vinh, Lịch sử thế giới cận đại của Vũ Dương Ninh, Nguyễn
Văn Hồng, Quan hệ quốc tế thế kỷ XX của Nguyễn Quốc Hùng,... Việt Nam định vị
ở đâu, chịu sự tác động và chi phối của những nhân tố quốc tế nào?... Những tác
phẩm về lịch sử thế giới cận, hiện đại sẽ cung cấp cho tác giả nguồn tư liệu hữu ích
để nhìn Việt Nam trong bức tranh chung, nhìn sự vận động của Việt Nam trong sự
vận động chung của các quốc gia trong khu vực và thế giới.
Những tác phẩm lịch sử liên quan đến các quốc gia trong khu vực thời kỳ
cận, hiện đại cung cấp nguồn tư liệu cho phép tác giả có thể so sánh vấn đề nghiên
cứu ở Việt Nam với các nước trong khu vực như Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ...
Trước hết là các tác phẩm lịch sử chung về khu vực cũng như lịch sử chung của các
quốc gia này, có thể kể ra như: Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E Hall, Lịch sử phát
triển Đông Nam Á của Mary Somers Heid Hues, Lịch sử Đông Nam Á do Lương
Ninh chủ biên, Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á ASEAN (Trước công nguyên
đến thế kỷ XX) của Nguyễn Văn Nam, Lịch sử Nhật Bản của P.H.P. Mason & J.G.
Caiger do Nguyễn Văn Sỹ biên dịch,...
Sau nữa là tư liệu liên quan đến các sự kiện lớn xảy ra ở các quốc gia trong khu
vực thời kỳ cận, hiện đại có mối quan hệ, ảnh hưởng nhất định tới đời sống chính trị
Việt Nam như Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX do Vũ Dương Ninh chủ biên, Mấy vấn đề lịch sử châu Á và lịch sử Việt Nam,
một cách nhìn của Nguyễn Văn Hồng, Con đường cứu nước trong đấu tranh giải
phóng dân tộc ở một số nước châu Á do Đỗ Thanh Bình chủ biên, “Đông Du Trung
Quốc - Việt Nam”- một hiện tượng lịch sử khu vực thời cận đại; Tôn Trung Sơn -
Hồ Chí Minh, mối đồng cảm lịch sử và thời đại của Nguyễn Văn Hồng, Tôn Trung
Sơn và các nhà cách mạng Việt Nam của Phạm Xanh, Vấn đề xây dựng bộ máy nhà
nước hiện đại ở Nhật Bản dưới chính quyền Minh Trị của Đặng Xuân Kháng, Nhật
Bản và phong trào Đông Du - Tính hai mặt của Nhật Bản thời Minh Trị của Eto
Shinkichi (trong kỷ yếu hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất). Trong tác
phẩm của Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh: Quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị
11
Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhiều nội dung cũng đề cập đến lịch sử so
sánh có thể sử dụng và khai thác cho luận án. Nhiều tác phẩm của Mác trong bộ
Mác - Ănghen toàn tập bàn về sự cai trị của thực dân Anh ở Ấn Độ hay tác phẩm
của Hồ Chí Minh so sánh sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam với sự cai trị của
thực dân Anh ở Ấn Độ, sự cai trị của các đế quốc khác ở Trung Quốc... đều được
tác giả tham khảo và sử dụng trong luận án ở mức độ khác nhau. Luận án tiến sĩ
Lịch sử của Nghiên cứu sinh Trần Thị Thanh Vân về Chính sách thực dân của Anh
ở Ấn Độ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX cũng là một nguồn tài liệu tham khảo có
ý nghĩa cho tác giả trong triển khai luận án của mình đặc biệt khi so sánh cách tổ
chức bộ máy chính quyền thực dân của Anh ở Ấn Độ và của thực dân Pháp ở Đông
Dương, Việt Nam.
Luận án tập trung nghiên cứu biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945.
Khoảng thời gian gần trăm năm này chỉ là một giai đoạn trong lịch sử nhiều nghìn
năm của dân tộc Việt Nam. Chúng ta không thể nghiên cứu về giai đoạn lịch sử này
mà không thấy Việt Nam 1858-1945 định vị trong nhiều nghìn năm lịch sử dân tộc
như thế nào, gắn kết với quá khứ dân tộc và kế thừa những di sản của ông cha để
xây dựng nên thời đại của mình ra sao?... Những tác phẩm về lịch sử Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt những cuốn thông sử về lịch sử Việt Nam cận,
hiện đại cung cấp cho tác giả một nguồn tư liệu hữu ích sử dụng trong luận án.
Nhóm thông tin này cho phép tác giả có cái nhìn tổng thể về Việt Nam 1858-1945
định vị trong lịch sử nhiều nghìn năm của dân tộc cũng như tình hình kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội,... Việt Nam ngót một thế kỷ đầy bi tráng (1858-1945) trong đó
diễn ra những biến đổi lớn về mọi mặt của đời sống xã hội mà biến đổi chính trị là
nội dung đang được tác giả quan tâm nghiên cứu. Những tác phẩm lịch sử chung
của Việt Nam có thể kể ra điển hình như: Tiến trình lịch sử Việt Nam do Nguyễn
Quang Ngọc chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam của Trương Hữu Quýnh, Đinh
Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, Việt Nam một thiên lịch sử của Nguyễn Khắc Viện, Lịch
sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884 của Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn,...
Cùng với những tư liệu, tài liệu lịch sử chung này là những tác phẩm lịch sử
12
Việt Nam liên quan trực tiếp đến giai đoạn 1858-1945. Đây là nguồn tư liệu, tài
liệu được khai thác, sử dụng nhiều trong luận án khi phân tích bối cảnh lịch sử xã
hội trong đó những biến đổi chính trị diễn ra. Sự vận động trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội dưới chính sách cai trị của các chính quyền trong thời kỳ
1858-1945 cũng được khai thác từ nguồn tư liệu, tài liệu này. Nguồn tư liệu, tài liệu
này còn cho chúng ta thấy những yếu tố mang tính nguồn gốc, nguyên nhân của
những biến đổi chính trị diễn ra ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ
XX. Những tác phẩm có thể kể ra như: Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay của Trần
Bá Đệ, Lịch sử Việt Nam, tập II, 1858-1945 do Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Lịch
sử Việt Nam 1858-1896 do Vũ Huy Phúc chủ biên, Lịch sử Việt Nam 1897-1918
của tập thể tác giả Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh
Xuân Lâm, Lịch sử Việt Nam, tập VIII, 1919-1930 của Viện Sử học, Việt Nam
những sự kiện lịch sử (1858-1918) của Dương Kinh Quốc, Lịch sử cận - hiện đại
Việt Nam, một số vấn đề nghiên cứu của Đinh Xuân Lâm...
Trong giai đoạn lịch sử gần trăm năm từ 1858 đến 1945, quyền lực nhà nước ở
Việt Nam đã chuyển từ tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam sang tay GCTS
Pháp rồi sang nhân dân Việt Nam. Ba kiểu nhà nước gắn với ba chế độ chính trị đã
nối tiếp nhau tồn tại ở nước ta là chế độ phong kiến nhà Nguyễn, chế độ thuộc địa
kiểu cũ của thực dân, đế quốc và chế độ dân chủ nhân dân. Nghiên cứu biến đổi
chính trị trong giai đoạn lịch sử này thực chất là nghiên cứu sự thay thế giai cấp
cầm quyền gắn với sự thay thế kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, nghiên cứu bước
chuyển từ chế độ chính trị này sang chế độ chính trị kia. Do đó, một trong những
nguồn tư liệu, tài liệu sử học đặc biệt quan trọng được khai thác và sử dụng trong
luận án là những nội dung liên quan đến ba chế độ chính trị đã tồn tại ở Việt Nam từ
1858 đến 1945 và xã hội Việt Nam dưới các chế độ chính trị đó.
Trước hết, liên quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn và xã hội Việt Nam
dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn đặc biệt thời Tự Đức, luận án sử dụng
những tư liệu, tài liệu gốc của triều đình nhà Nguyễn cùng các tài liệu viết về nhà
Nguyễn và xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn của các tác giả khác nhau. Tư liệu,
13
tài liệu thuộc nhóm này có thể kể ra như: Đại Nam thực lục chính biên của NXB
Khoa học Xã hội, Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc của Văn Tạo (Kỷ yếu Hội thảo
Quốc tế Việt Nam học lần 2), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua Triều
Nguyễn của Nguyễn Thế Anh, Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây
dưới triều Nguyễn (1802-1858) của Trần Nam Tiến, Nước Đại Nam đối diện với
Pháp và Trung Hoa của Yoshiharu Tsuboi, Nỗ lực ngoại giao cuối cùng của triều
Nguyễn vào mùa xuân 1878 của Lê Nguyễn, Nước Việt Nam trên đường suy vong
của Bùi Quang Tung; Nhìn lại quan hệ Pháp - Việt Nam - Trung Quốc qua các bản
hiệp ước cuối thế kỷ XIX của Vũ Dương Ninh; Các tác phẩm của Lý nhân Phan Thứ
Lang như Giai thoại và sự thật về Bảo Đại - Vua cuối cùng triều Nguyễn hay
Những câu chuyện về cuộc đời Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn...
sẽ cung cấp những tư liệu lịch sử bổ ích cho việc triển khai luận án.
Nhóm tư liệu, tài liệu liên quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn và Việt
Nam dưới chế độ phong kiến nhà Nguyễn sẽ giúp tác giả có cái nhìn khái quát cũng
như chi tiết về xã hội Việt Nam trước khi bị phương Tây xâm lược và thôn tính,
luận giải được phần nào những nguyên nhân của việc Việt Nam mất nước vào tay
Pháp và dẫn đến chính trị thực dân - phong kiến thay thế chính trị phong kiến ở
nước ta. Đặc biệt những tư liệu, tài liệu về thể chế, thiết chế chính trị nhà Nguyễn,
một kiểu nhà nước phong kiến ở phương Đông dưới hình thức chế độ phong kiến
chuyên chế tập quyền cùng được chiết xuất từ nhóm tài liệu này, tuy không nhiều.
Trong phần lớn phạm vi về khoảng thời gian được luận án nghiên cứu (1858-
1945), ở Việt Nam là sự tồn tại của chính trị thực dân - phong kiến. Chế độ này là
chế độ chính trị tiếp sau chế độ chính trị phong kiến nhà Nguyễn. Trong quá trình
vận động, trong khi tạo ra những cơ sở cho sự tồn tại của nó, chế độ chính trị thực
dân - phong kiến cũng đã tạo ra những tiền đề về nhiều mặt cho sự phủ nhận chính
nó và sẽ thay thế nó bởi chế độ dân chủ nhân dân. Bởi vậy, nhóm tài liệu liên quan
đến chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và Việt Nam dưới chế độ thuộc địa
của thực dân tư bản Pháp chiếm một dung lượng đáng kể trong nguồn tài liệu tham
khảo cho việc triển khai luận án. Trước hết là những tài liệu liên quan đến CNTD và
14
sự xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp như: Biện hộ cho sứ mệnh khai hoá
Đông Dương của Pierre Pasquier, Huyền thoại đồng hoá và lý thuyết về CNĐQ tại
Việt Nam trước năm 1914 của Clarke W.Garrett (từ trang web http://www.gio-
o.com); CNTD: một bộ luật phi lịch sử và những con người vô trách nhiệm của
Alanh Rút sô, CNTD, hồ sơ chưa khép lại của Vũ Dương Ninh,... Diện mạo chung
của Việt Nam và Đông Dương thời Pháp thuộc với những tác phẩm như: Đông
Dương ngày ấy của Claude Bourrin, Việt Nam thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế
Anh, Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc của Lê Nguyễn... Diện mạo về mọi mặt của
xã hội Việt Nam dưới tác động của chính sách thuộc địa của thực dân Pháp trước
hết là diện mạo của nền kinh tế là một nhóm tài liệu quan trọng với những tác
phẩm như: Sự thật về kế hoạch khai thác Đông Dương lần thứ nhất của thực dân
Pháp của Gerard Sassges, Những nghiên cứu ở Việt Nam về sự biến đổi kinh tế các
nước Đông Nam Á thời thuộc địa của Văn Ngọc Thành, Trần Anh Đức, Cơ cấu kinh
tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945) của Nguyễn Văn Khánh, những tác
phẩm của Tạ Thị Thúy như: Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc
địa lần thứ hai của người Pháp (1919-1930), Về vấn đề đầu tư của Pháp trong cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam.
Nhóm tư liệu, tài liệu cung cấp diện mạo về văn hoá, tư tưởng, con người
trong xã hội thuộc địa như: Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam với Pháp của Phan Ngọc,
Nhà trường Pháp ở Đông Dương của Trịnh Văn Thảo, Người Pháp và An Nam, bạn
hay thù của Phillippe Devillers, Phác thảo lịch sử nghiên cứu vấn đề con người và
văn hoá Việt Nam dưới thời Pháp thuộc của Phan Hữu Dật, Phản ứng của thực dân
đối với dân bản xứ của Virginia Thompson, Người Pháp tại Đông Dương, một vài
cảm nghĩ của các thanh tra thuộc địa của Reuben Garner (từ trang web
http://www.gio-o.com).
Nhóm tư liệu, tài liệu về kết cấu xã hội, giai cấp ở Việt Nam thời Pháp thuộc
như: GCCN Việt Nam, sự hình thành và sự phát triển của nó từ giai cấp “tự mình”
đến giai cấp “cho mình” của Trần Văn Giàu, Hoạt động chấn hưng thực nghiệp
của tư sản Việt Nam đầu thế kỷ XX của Trần Viết Nghĩa, Suy nghĩ về GCTS dân tộc,
15
quá khứ và hiện tại của Vũ Dương Ninh, Tinh thần dân tộc trong kinh doanh của
các nhà doanh nghiệp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, trường hợp Bạch Thái Bưởi
của Phạm Xanh,…
Tư liệu, tài liệu về các tổ chức chính trị và các phong trào chính trị ở Việt
Nam thời Pháp thuộc thể hiện trong nhóm tác phẩm như: Việt Nam Quốc dân đảng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam; 100 năm Đông Kinh nghĩa thục của nhiều tác
giả do NXB Tri thức ấn hành năm 2008, Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải
cách văn hoá đầu thế kỷ XX của Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa Thục trong dòng
chảy của tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 của Phạm Ngọc Thạch...
Lịch sử không phải là những gì chung chung, trừu tượng mà gắn với nó là
những con người cụ thể cùng sự nghiệp chính trị của họ trong bối cảnh lịch sử nhất
định. Do đó, nhóm tư liệu về những nhân vật lịch sử cụ thể trong giai đoạn lịch sử
1858-1945 sẽ giúp tác giả có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về một thời đầy biến
động trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt, nhóm tư liệu này sẽ giúp tác giả nhận rõ hơn
biểu hiện và những tác động của biến đổi chính trị in hằn lên cuộc sống của cá nhân
con người cũng như giai cấp, tầng lớp xã hội mà họ đại diện. Các tác phẩm thuộc
nhóm này có thể kể ra như: Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), tập 1, con người của
Trương Bá Cẩn, Nguyễn Trường Tộ và thời đại: Những nghịch lý trong lịch sử nhà
Nguyễn - một cách tiếp cận mới của Phạm Xanh; Nguyễn An Ninh của nhóm tác giả
Hà Huy Giáp, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân; Phan Châu Trinh, cuộc đời và tác
phẩm của Nguyễn Quang Thắng, Tuyển tập Phan Châu Trinh của Nguyễn Văn
Dương; Phan Bội Châu (1867-1940), con người và sự nghiệp của nhóm tác giả
Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Vương, Những hoạt động của
Phan Bội Châu ở Nhật Bản của Nguyễn Tiến Lực; Tiểu luận bằng tiếng Pháp trong
thời gian 1922-1932 của Phạm Quỳnh, Luật sư Phan Văn Trường của Nguyễn Phan
Quang, Phan Văn Hoàng, ...
Nhóm tư liệu, tài liệu về chế độ thuộc địa và liên quan đến chế độ thuộc địa kể
trên cung cấp dữ liệu chủ yếu cho phần triển khai nội dung luận án. Thông qua
nguồn tư liệu, tài liệu này, tác giả có thể khai thác để vạch ra những biểu hiện trên
16
nhiều mặt của chế độ thuộc địa, sự khác biệt so với chế độ phong kiến trước nó,
những yếu tố tiền đề, mầm mống cho sự vận động tiếp theo của xã hội Việt Nam
cũng sẽ được gợi mở và tìm thấy trong nguồn tư liệu này. Những hệ quả và tác động
trên từng mặt, từng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội cũng như những tác động
tổng hợp của sự biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân -
phong kiến cũng được khai thác từ đây.
Một trong những lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam thế kỷ XX - Người có vai
trò to lớn và ghi dấu ấn đậm nét trong bước chuyển từ chế độ thực dân - phong kiến
sang chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Cuộc
đời, sự nghiệp và những cống hiến vĩ đại của Người cho sự hồi sinh của dân tộc
Việt Nam trong thế kỷ XX là không thể phủ nhận. Do đó một nhóm tư liệu không
thể thiếu cho luận án chính là nhóm tư liệu về Hồ Chí Minh liên quan đến luận
án. Nhóm này có thể gồm những tác phẩm của Hồ Chí Minh hoặc tác phẩm của các
nhà nghiên cứu viết về Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài luận án nghiên cứu. Các
tác phẩm có thể kể ra ở đây gồm:
Thứ nhất, những tác phẩm của Hồ Chí Minh liên quan đến vấn đề nghiên cứu
được khai thác chủ yếu trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập. Trước hết là những tác
phẩm Người viết về CNTD Pháp ở Việt Nam, ở Đông Dương và CNTD nói chung
trên thế giới điển hình như: tác phẩm Tình hình Đông Dương (viết ngày 19-12-
1924), Vấn đề Đông Dương (1925), Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), CNĐQ
Pháp ở Viễn Đông - Varen và Đông Dương (1925), Những vấn đề châu Á (1925),
Nông dân Trung Quốc (1925), Lối cai trị của người Anh (1925), “Văn minh” Pháp
ở Đông Dương (1927), Những tội ác kinh khủng của CNĐQ Pháp ở Đông Dương
(1927), Sự thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương (1927)... Những tác phẩm
của Người về phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân ở các
thuộc địa khắp nơi trên thế giới từ châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh cũng là một
nguồn tư liệu hữu ích. Sau nữa là thư từ, giao dịch của Hồ Chí Minh với các tổ chức
quốc tế lớn như Quốc tế cộng sản, Quốc tế công nhân, Quốc tế nông dân, đảng cộng
sản Pháp và các đảng cộng sản trên thế giới... đặc biệt trong những năm 20 của thế
17
kỷ XX nhằm kết nối phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế
giới, biến cách mạng Việt Nam thành một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới.
Phân tích của Hồ Chí Minh năm 1927 về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới như:
Lịch sử cách mệnh Mỹ, Cách mệnh Pháp, Lịch sử cách mạng Nga. Phân tích của Hồ
Chí Minh về các giai cấp trong xã hội Việt Nam, đặc biệt khẳng định của Người về
vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam, vị trí, vai trò của từng lực lượng xã
hội với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Tác phẩm Tuyên ngôn độc
lập 2-9-1945 của Người khẳng định tầm vóc của một sự kiện chính trị lớn của Việt
Nam, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong sự tiến hoá của dân tộc Việt Nam.. là nguồn
tư liệu, tài liệu không thể thiếu cho việc triển khai luận án.
Thứ hai, những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh liên quan đến luận án của các
tác giả trong và ngoài nước. Đây là nguồn tư liệu hữu ích cho việc triển khai luận
án. Đặc biệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là tư
tưởng xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và là hướng đạo cho sự
phát triển của cách mạng Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại. Tư tưởng của Người về
xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là nguồn tài liệu gắn liền với nội dung
luận án.
Với nguồn tư liệu, tài liệu này, tác phẩm của các tác giả trong nước có thể kể ra
là: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chủ biên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH của Phạm Ngọc Anh, Hoàng Trang ... Các tác phẩm liên quan đến tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, có thể kể ra là: Tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, sự hình thành và phát triển của Hoàng Văn
Hảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Pháp quyền kiểu mới ở Việt
Nam của Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật của Bộ Tư pháp, Nhà nước và cách mạng Việt Nam những
năm 1945-1946, những sáng tạo của Hồ Chí Minh của Lê Phương Thảo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến đầu tiên ở nước ta của
Song Thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh với xây dựng nhà nước và công tác cán bộ của
18
Lê Duy Truy...
Các tác phẩm khác viết về Hồ Chí Minh liên quan đến luận án có thể kể ra như:
Tìm hiểu thêm quá trình từ Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc (qua khai thác
các tư liệu mới về nhóm yêu nước người Việt tại Pháp đầu thế kỷ XX) của Lê Thị
Kính, Hồ Chí Minh, nhà cách mạng dân tộc hiện thân của văn hóa châu Á và thời
đại của Nguyễn Văn Hồng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tuyên ngôn độc lập của chủ
tịch Hồ Chí Minh, giá trị lý luận và ý nghĩa thời đại của trường Đại học Khoa học
Huế,...
Tác phẩm của các tác giả nước ngoài về Hồ Chí Minh liên quan đến luận án có
thể kể ra là: Nền tảng văn hoá dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh của John Lê
Văn Hoá, Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam của Daniel Hémery, Hồ Chí
Minh, a Journey; Hồ Chí Minh, story on the trail của tác giả Lady Borton...
Nhóm tư liệu, tài liệu về Hồ Chí Minh cung cấp những thông tin cho thấy tác
động của nhân tố chủ quan ở đây là vai trò của lãnh tụ chính trị với sự vận động của
xã hội Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại. Quá trình tìm đường cứu nước của Người với
những bước chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, sự phủ nhận các con đường cứu
nước gắn với các kiểu nhà nước phong kiến, tư sản, khẳng định con đường cứu
nước gắn với nhà nước kiểu mới - nhà nước XHCN, những phân tích của Người về
xã hội Việt Nam, về tình hình quốc tế là những nguồn tư liệu có ý nghĩa trong việc
xem xét sự vận động về chính trị của Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại.
Nhóm tài liệu sử học liên quan đến cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam
mùa thu 1945 lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nguyên nhân, diễn
biến, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm... cung cấp các dữ liệu lịch sử luận
giải, minh hoạ cho bước chuyển thứ hai về chính trị trong giai đoạn lịch sử 1858-
1945. Đó là bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ
nhân dân. Nhóm này có thể kể ra trước hết là các nghị quyết, văn kiện của Đảng
cộng sản Đông Dương, tác phẩm của các đảng viên cộng sản ưu tú chỉ đạo cho sự
phát triển của cách mạng Việt Nam thời kỳ tiền khởi nghĩa như: Nghị Quyết trung
ương 8 tháng 5-1941, Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta...
19
Ngoài ra, các tư liệu về cuộc cách mạng Tháng Tám như: Cách mạng Tháng Tám
trong mắt sử gia nước ngoài của Hoàng Thư, Cách mạng Tháng Tám, khởi đầu của
quá trình hội nhập quốc tế; Thời cơ cách mạng Tháng Tám trên bình diện quốc tế
1945 của Vũ Dương Ninh, Cách mạng Tháng Tám là sáng tạo của Trần Quang
Huy, Thêm một tư liệu lịch sử về giành chính quyền tháng 8 năm 1845 ở Việt Nam
của Nguyễn Văn Khoan, Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn độc lập của Vũ Thị Kim
Yến. Đặc biệt tác phẩm Hiến pháp 1946 cung cấp cho tác giả luận án một cái nhìn
tổng quát cũng như bản chất của một chế độ chính trị mới chưa từng có trong lịch
sử Việt Nam nhiều nghìn năm. Đó là chế độ dân chủ nhân dân.
Việc phân nhóm tư liệu, tài liệu sử học thành các nhóm nhỏ như trên chỉ có ý
nghĩa tương đối phục vụ cho nghiên cứu. Vì thực ra tư liệu trong các nhóm nhiều
khi đan xen, bao trùm, chứa đựng lẫn nhau. Ví như trong nhóm tư liệu lịch sử chung
của Việt Nam từ 1858 đến 1945 đã chứa đựng những tư liệu về cả ba chế độ chính
trị phong kiến, thực dân - phong kiến, dân chủ nhân dân ở mức độ ít nhiều. Hay như
nhóm tư liệu liên quan đến Hồ Chí Minh dù do Người viết hay do các tác giả khác
viết về Người, chúng ta có thể thấy các thông tin về lịch sử thế giới, lịch sử các
nước trong khu vực châu Á, Đông Nam Á cũng như lịch sử chung của Việt Nam
cận, hiện đại, thông tin về các chế độ chính trị, các phong trào, hoạt động chính trị,
các nhân vật chính trị...
Việc phân loại trên đặc biệt có ý nghĩa với tác giả khi tập trung khai thác thông
tin sâu về một nhóm vấn đề lịch sử cụ thể phục vụ cho việc luận giải một nội dung
nhất định mà quá trình nghiên cứu đặt ra.
b. Nhóm tư liệu, tài liệu chính trị học liên quan đến đề tài nghiên cứu
Đây là một đề tài thuộc mã ngành khoa học chính trị. Thực chất là đề tài lịch sử
chính trị nên những tư liệu chính trị học là nguồn tư liệu tối quan trọng cho việc
triển khai luận án. Nhóm tư liệu này giúp tác giả xây dựng khung lý thuyết cho việc
triển khai những nội dung cụ thể của biến đổi chính trị ở Việt Nam trong giai đoạn
lịch sử 1858-1945.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng việc phân thành nhóm tư liệu sử học và nhóm
20
tư liệu chính trị học trong phần nghiên cứu tổng quan cũng chỉ mang tính tương đối.
Vì có những tư liệu là lịch sử chính trị có thể xếp vào nhóm tư liệu sử học hoặc tư
liệu chính trị học đều có thể được, ví như nhóm tư liệu về chính quyền thuộc địa đã
kể ra ở trên.
Trước hết phải kể đến là những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về chính trị và những tác phẩm bàn về chính trị Mác xít liên quan
đến luận án như: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen, Ngày
mười tám tháng sương mù của Bonapat; Bàn về quyền uy của Ph.Ăngghen, Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước của Ph.Ăngghen, Nhà nước
và cách mạng của V.I.Lênin, Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin
và Hồ Chí Minh của Lê Minh Quân,... Những tác phẩm loại này củng cố thêm nhận
thức của tác giả về khái niệm chính trị, sự vận động của chính trị... theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lênin, khu biệt nó với nhận thức về chính trị, sự vận động của
chính trị... của các trường phái nghiên cứu khác nhau.
Tài liệu liên quan đến triết học chính trị, đến phương pháp luận chính trị
học, lý luận chung về chính trị như: Phân tích triết học những vấn đề cơ bản về
chính trị và khoa học chính trị của Nguyễn Hữu Khiển, Biện chứng của tư tưởng
Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam của Lại Quốc Khánh, Suy nghĩ thêm về quyền
lực như một phạm trù khoa học của Bùi Thanh Quất, Mối quan hệ giữa quá trình
chính trị với quá trình dân tộc trong lịch sử Việt Nam của Bùi Thanh Quất, Thiết
chế chính trị, di sản và kế thừa của Phan Huy Lê, Định chế chánh trị và tổ chức
công quyền Việt Nam của Nguyễn Văn Tường, Quyền lực của Bertrand Russel, ...
Những tư liệu liên quan trực tiếp đến lý luận chung về nhà nước như vấn đề
kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể chế, thiết chế chính trị là
những tư liệu được khai thác nhiều cho luận án. Những tư liệu này chủ yếu là các
giáo trình Chính trị học, giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của các
trường Đại học, các Học viện ở Việt Nam đã nêu trong thư mục tài liệu tham khảo.
Những tư liệu này đặc biệt có ý nghĩa với tác giả trong việc đưa ra những khái niệm
cơ bản liên quan đến luận án như khái niệm chính trị, biến đổi chính trị,...
21
Nhóm tư liệu về lịch sử chính trị nói chung, lịch sử chính trị Việt Nam nói
riêng, đặc biệt lịch sử chính trị liên quan đến giai đoạn 1858-1945 cũng là một
nhóm tư liệu đặc biệt hữu ích và không thể thiếu. Đó là các tác phẩm về lịch sử các
học thuyết chính trị pháp lý, lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, lịch sử các các tổ
chức chính trị, các phong trào chính trị, đặc biệt sự vận động của phong trào giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản như các cuốn: Lịch sử các học
thuyết chính trị pháp lý của Đinh Văn Mậu, , Lịch sử các học thuyết chính trị trên
thế giới do Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái dịch, Lịch sử các học thuyết chính
trị của Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2 của Lê
Sĩ Thắng, Quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX của Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh; Sự phát triển của tư tưởng ở Việt
Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám (Tập 1,2) của Trần Văn Giàu; Việt
Nam Quốc dân Đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam của Nguyễn Văn Khánh...
Nghiên cứu biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 dù giới hạn nội hàm
khái niệm “biến đổi chính trị” trong phạm vi nào, theo nghĩa nào thì những tri thức
về lịch sử chính trị Việt Nam giai đoạn này cũng luôn luôn cần thiết và hữu ích.
Những tài liệu chuyên khảo liên quan đến những vấn đề chính trị Việt Nam
giai đoạn 1858 - 1945. Thực ra trong nhóm tư liệu, tài liệu sử học ở trên cũng đã
bao gồm những tư liệu, tài liệu này, vì trong lịch sử chung của Việt Nam cận, hiện
đại không thể không có lịch sử chính trị, song tác giả tập trung riêng thành một
nhóm vì nội dung “chính trị học” cũng như mối liên quan mật thiết của những tư
liệu, tài liệu này với đề tài nghiên cứu. Trong đó bao gồm các tư liệu, tài liệu chính
trị học liên quan đến chính quyền phong kiến như các tác phẩm của của Trần Văn
Giàu: Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1858, Sự phát triển
của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám, Tập 1: Hệ ý thức
phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử... Các tư liệu, tài liệu
chính trị học về chính trị thực dân - phong kiến, chính quyền thuộc địa như: Thể
chế chính trị Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám dưới góc nhìn hiện đại của
Lưu Văn An, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám 1945
22
của Dương Kinh Quốc, Hệ thống ngạch bậc công chức của chính quyền thuộc địa ở
Bắc và Trung Kỳ qua bản nghị định năm 1936 của Nguyễn Văn Khánh, Về mô hình
nhà nước trong các tổ chức chính trị trước năm 1930 của Nguyễn Văn Khánh, Nội
các Trần Trọng Kim, bản chất, vai trò và vị trí lịch sử của Phạm Hồng Tung, Nền
tảng nội các Trần Trọng Kim (4-1945) của Nguyễn Đình Lê, ...
Liên quan đến chính trị dân chủ nhân dân như các tác phẩm: Nhà nước và
cách mạng Việt Nam những năm 1945-1946, những sáng tạo của Hồ Chí Minh của
Lê Phương Thảo, Hiến pháp 1946; Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, sự
hình thành và phát triển của Hoàng Văn Hảo; Lập nên chế độ dân chủ cộng hòa,
thắng lợi lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 của Ngô Đăng Tri.
Trong“Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam” của Lại Quốc
Khánh có những nội dung bàn về chế độ dân chủ nhân dân rất hữu ích trong việc
nghiên cứu triển khai đề tài này. Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng tuy xếp vào
nhóm tư liệu chính trị học, nhưng nhiều tác phẩm vừa được kể ra ở trên là tác phẩm
sử học mang thông tin chính trị học.
Nội dung chủ yếu của đề tài bàn về biến đổi chính trị thời kỳ cận, hiện đại ở
nước ta. Đây là nội dung mới của chính trị học, đồng thời là lĩnh vực nhạy cảm, có
tác động sâu sắc và toàn diện đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong
một thời kỳ lịch sử gần trăm năm đã qua và còn lâu dài về sau. Do đó, ngoài các tài
liệu lịch sử và tài liệu chính trị học kể trên, để triển khai luận án, tác giả còn tham
khảo một lượng tài liệu nhất định liên quan đến vấn đề phương pháp luận, đến
tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, lịch sử, truyền thống... của đất
nước, con người Việt Nam, đến mối quan hệ giữa chính trị với các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, đến quy luật và xu hướng phát triển chung của
xã hội hiện đại... Các tài liệu thuộc loại này được dùng tham khảo cho luận án khá
đa dạng, phong phú được trình bày trong thư mục tài liệu tham khảo của luận án.
23
1.1.2. Tổng quan các vấn đề đã được nghiên cứu
Thông qua phần tổng quan tư liệu, tài liệu với những nhóm vấn đề đã được
khái quát ở trên, có thể thấy phần nào những nội dung đã được nghiên cứu liên
quan đến đề tài mà tác giả lựa chọn. Có thể tổng hợp lại như sau:
Thứ nhất, đã có những công trình nghiên cứu liên quan đến “biến đổi chính
trị” ở Việt Nam cũng như “biến đổi chính trị” trên thế giới trong lịch sử tồn tại và
phát triển của nhân loại, song chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp đến
vấn đề được nêu ra trong luận án (tức biến đổi chính trị từ 1858 đến 1945). Cho dù
nhiều nghiên cứu đề cập tới những vấn đề với những tên gọi khác nhau cũng có
những nội dung gần gũi với khái niệm “biến đổi chính trị” được nêu trong luận án.
Ví như C.Mác, Ph.Ăngghen bàn tới sự thay thế hình thái kinh tế xã hội này bởi một
hình thái kinh tế xã hội khác, trong sự vận động đó, các ông có bàn tới sự vận động
của kiến trúc thượng tầng trong đó có sự thay đổi thiết chế nhà nước, sự thay đổi từ
giai cấp cầm quyền này sang giai cấp cầm quyền khác. Thực chất trong đó có “điều
được gọi” là (theo luận án này) “biến đổi chính trị”. Sự vận động từ chế độ cộng sản
nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ, từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ
phong kiến, sang chế độ TBCN rồi tiến tới chế độ cộng sản văn minh mà nguyên
nhân sâu xa của nó chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đây thực
chất chính là sự “biến đổi chính trị” rất gần gũi với cách tiếp cận của luận án. Hay
trong lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1858, khi bàn tới sự xâm lược của phong
kiến phương Bắc với nước ta, dưới sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, một kiểu
nhà nước phong kiến đã xuất hiện ở nước ta thay cho trạng thái nhà nước Văn Lang
- Âu Lạc (một hình thức nhà nước sơ khai ở Việt Nam) thì đây cũng chính là “biến
đổi chính trị” theo cách nhìn của luận án này. Như vậy, có thể thấy, dù chưa có
công trình nào gọi những vận động về chính trị ấy theo cách gọi của tác giả luận án
là “biến đổi chính trị” nhưng thực chất đã có những công trình nghiên cứu về nội
dung này, song trực tiếp như đề tài mà tác giả lựa chọn thì chưa có công trình nào.
Thứ hai, khi nghiên cứu giai đoạn lịch sử từ 1858 đến 1945, đã có nhiều công
trình nghiên cứu sự vận động, biến đổi của các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
24
Sự biến đổi về kinh tế, sự biến đổi về văn hoá tư tưởng, sự biến đổi trong cấu trúc
xã hội,... Nghiên cứu về sự vận động trên lĩnh vực kinh tế có thể kể ra điển hình như
tác giả Nguyễn Văn Khánh, nghiên cứu vận động trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá
như Trần Văn Giàu, Phan Ngọc, nghiên cứu sự vận động trên lĩnh vực xã hội, kết
cấu giai cấp như Nguyễn Ái Quốc... Về lĩnh vực chính trị trong giai đoạn 1858-
1945 có thể thấy:
+ Đã có các nghiên cứu về từng chế độ chính trị tồn tại trong giai đoạn lịch sử
này. Nghiên cứu về chế độ phong kiến chuyên chế nhà Nguyễn, về chế độ thuộc
địa, về chế độ dân chủ nhân dân. Điển hình cho những nghiên cứu kiểu này như các
tác phẩm “Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám 1945”
của Dương Kinh Quốc, tác phẩm “Thể chế chính trị Việt Nam trước cách mạng
Tháng Tám dưới góc nhìn hiện đại” của Lưu Văn An hay giáo trình lịch sử nhà
nước pháp luật Việt Nam của các trường Đại học, các Học viện ở nước ta... Tuy
nhiên đây là những nghiên cứu “tĩnh”, chỉ ra nội dung cụ thể của từng chế độ chính
trị thay vì chỉ ra sự vận động từ chế độ chính trị này sang chế độ chính trị khác.
Luận án của tác giả tập trung nghiên cứu “sự biến đổi” tức một trạng thái “động”
thay vì trạng thái tĩnh mà các nghiên cứu vừa chỉ ra ở trên đã đề cập đến.
+ Trong giai đoạn 1858- 1945, đã có những công trình nghiên cứu mang tính
chính trị học về từng bước chuyển. Hoặc từ chế độ phong kiến độc lập sang chế độ
thuộc địa, hoặc từ chế độ thuộc địa sang chế độ dân chủ nhân dân gắn với hai mốc:
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Pháp và cuộc cách mạng Tháng Tám năm
1945. Gắn với mỗi bước chuyển này là nhiều biến cố lịch sử khác nhau, nhiều sự
kiện lịch sử đa dạng, phong phú. Sự chuyển biến về tư tưởng chính trị, sự chuyển
biến về tổ chức bộ máy chính quyền, sự xuất hiện của các lãnh tụ chính trị, sự vận
động của các phong trào chính trị... Tuy nhiên vì chỉ nghiên cứu riêng từng bước
chuyển do đó không cho phép chúng ta có thể nhìn thấy một sự vận động liên tục và
liền mạch của lịch sử chính trị Việt Nam cận, hiện đại như điều mà luận án mong
muốn hướng tới..
+ Cũng đã có những công trình đề cập tới cả hai bước chuyển này từ phong
25
kiến sang thực dân - phong kiến rồi sang dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu cả hai bước chuyển này thì các tác giả chủ yếu tiếp cận từ góc độ sử học thiên
về sự kiện, biến cố lịch sử theo hướng mô tả lịch sử, hoặc nếu tiếp cận từ giác độ
chính trị học thì tập trung vào một nội dung hẹp ví như nghiên cứu sự biến chuyển
tư tưởng chính trị hoặc sự vận động của các phong trào chính trị trong giai đoạn
1858-1945). Đây không phải là nội dung mà tác giả luận án muốn đề cập.
Khái quát lại, có thể thấy, liên quan đến đề tài luận án, có nhiều công trình
nghiên cứu đã đề cập tới ở khía cạnh này, khía cạnh kia. Đã có những công trình
nghiên cứu có nội dung rất gần với khái niệm “biến đổi chính trị” được sử dụng
trong luận án song không nghiên cứu vấn đề này trong giai đoạn từ 1858 đến 1945.
Mặt khác, cũng có những công trình nghiên cứu giai đoạn 1858-1945 về sự vận
động trên các mặt kinh tế, văn hoá, tư tưởng, xã hội. Về chính trị, giai đoạn này, các
nghiên cứu hoặc là nghiên cứu vấn đề ở trạng thái “tĩnh”, hoặc cũng có những
nghiên cứu ở trạng thái “động” song không hoàn toàn giống như cách tiếp cận của
luận án. Luận án tiếp cận từ góc nhìn chính trị học để vạch ra sự vận động có tính
quy luật của chính trị Việt Nam cận, hiện đại, tập trung vào sự thay đổi giai cấp
cầm quyền gắn với thay đổi kiểu nhà nước và hình thức nhà nước, chế độ chính trị,
thể chế nhà nước. Từ giác độ nghiên cứu của khoa học chính trị giúp người đọc có
thể hình dung một cách rõ nét, có căn cứ khoa học về con đường phát triển liền
mạch của Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại và tương lai trong tương quan so sánh
với con đường phát triển của các nước trong khu vực, từ đó vững tin trên con đường
mà chúng ta đã chọn thì cũng chưa có công trình khoa học nào đề cập một cách trực
tiếp như cách đặt vấn đề của luận án.
Như vậy, nghiên cứu về “Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945”
có thể và cần phải được đặt ra. Từ những lý do cơ bản trên, tác giả lựa chọn đề tài:
“Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945” cho luận án tiến sĩ chính trị
học của mình.
26
1.2. Một số vấn đề lý luận về chính trị, biến đổi chính trị
1.2.1. Quan niệm về chính trị, biến đổi chính trị
a. Quan niệm về chính trị và cách sử dụng một số thuật ngữ liên quan
Chúng ta đang sống trong một xã hội chính trị, tức là xã hội trong đó còn tồn tại
giai cấp, còn nhà nước. Chính trị là một vấn đề được đề cập hàng ngày trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Chính trị ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống chung
của cả cộng đồng cũng như số phận mỗi cá nhân. Cùng với sự phát triển về mọi mặt
của đời sống xã hội, sự quan tâm của con người đến chính trị ngày một gia tăng.
Tuy nhiên, không phải đến bây giờ con người mới quan tâm đến chính trị, mà chính
trị là một vấn đề được quan tâm từ rất sớm trong lịch sử phát triển nhân loại. Các
trường phái nghiên cứu khác nhau có nhiều quan niệm khác nhau về chính trị. Luận
án tiếp cận chính trị trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin.
Về sự ra đời của chính trị, có thể thấy, chính trị là một hiện tượng lịch sử, xuất
hiện trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người trên những tiền
đề về kinh tế, xã hội... xác định. Khi loài người vừa xuất hiện trên trái đất, chưa có
chính trị. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là xã hội tiền chính trị, con người sống với
nhau bình đẳng trong thị tộc, bộ lạc. Những thành viên của thị tộc, bộ lạc không
chịu sự ép buộc, áp đặt của người chỉ huy. Mọi người tham gia vào thị tộc, bộ lạc
một cách hoàn toàn tự nhiên, theo bản năng vì nếu tách khỏi cộng đồng đó, con
người khó lòng tồn tại. Họ chưa ý thức được lợi ích cũng như tính tất yếu của việc
tham gia. Thị tộc lập ra Hội đồng thị tộc để tổ chức và quản lý thị tộc. Hội đồng thị
tộc là cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc, quyết định của Hội đồng thể hiện ý
chí chung của tất cả các thành viên trong thị tộc đó. Hội đồng này bầu ra những
người đứng đầu để quản lý các công việc chung. Tuy nhiên, quyền lực của Hội
đồng và người đứng đầu hoàn toàn không dựa trên một bộ máy cưỡng chế đặc biệt
nào và người đứng đầu không có bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào. Sản xuất ngày
càng phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng cao (qua 3 lần phân công lao
động xã hội: sự tách biệt của ngành chăn nuôi khỏi trồng trọt, sự tách biệt của thủ
công nghiệp khỏi ngành nông nghiệp, sự ra đời của thương nghiệp), sự xuất hiện
27
của cải thừa và sự chiếm đoạt của thừa, vốn là của chung của cộng đồng, thành của
riêng của một nhóm người dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu. Giai cấp xuất hiện.
Tập đoàn người chiếm đoạt tư liệu sản xuất trở thành giai cấp thống trị, số đông còn
lại trong xã hội trở thành giai cấp bị thống trị. Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy
bạo lực và sử dụng nó như công cụ nhằm tổ chức xã hội theo một trật tự có lợi nhất
cho giai cấp mình. Nhà nước ra đời, chính trị xuất hiện. Như vậy, từ chế độ chiếm
hữu nô lệ, loài người bước vào trạng thái xã hội chính trị. Trạng thái này tiếp tục
kéo dài tới chế độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Xã hội chính trị phát triển ngày
càng phong phú với các biểu hiện đa dạng của nó. Xã hội chính trị là xã hội có giai
cấp, có nhà nước. Gắn với sự phát triển của xã hội loài người từ hình thái kinh tế xã
hội chiếm hữu nô lệ tới hình thái kinh tế xã hội phong kiến, TBCN rồi tới XHCN là
sự biến đổi từ chính trị chiếm hữu nô lệ sang chính trị phong kiến, tới chính trị tư
sản rồi sang chính trị quá độ lên CNXH. Đây là bước phát triển tất yếu tiến tới văn
minh trong sự phát triển của xã hội loài người do sự tiến hóa không ngừng của lực
lượng sản xuất.
Đến xã hội XHCN, dù không còn cơ sở kinh tế cho đối kháng giai cấp, nhưng
các giai cấp với các lợi ích khác biệt nhau vẫn tồn tại, Nhà nước vẫn còn, đó vẫn là
một xã hội chính trị. Chỉ tới xã hội cộng sản văn minh, khi lực lượng sản xuất phát
triển ở trình độ cao, chế độ tư hữu tư liệu sản xuất không còn nữa, giai cấp biến mất,
nhà nước tiêu vong, lúc đó sẽ không còn chính trị. Loài người sẽ sống trong trạng
thái xã hội phi chính trị. Thay cho xã hội cũ “với những giai cấp và đối kháng giai
cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người sẽ
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[88,tr.628]. Như vậy, chính
trị là một hiện tượng lịch sử xuất hiện trong quá trình tồn tại, phát triển của xã hội
loài người. Chính trị có quá trình ra đời trên những tiền đề nhất định về kinh tế, xã
hội. Nó tồn tại, phát triển và sẽ tiêu vong khi những tiền đề cho sự tồn tại của nó
không còn nữa.
Theo V.I. Lênin: “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước,
là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội
28
dung hoạt động của nhà nước” [77,tr.404].
Cùng với việc đưa ra quan niệm như trên về chính trị, V.I. Lênin cũng khẳng
định: “Vấn đề chính quyền là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Giai
cấp nào giữ chính quyền, điều đó quyết định tất cả” [78, tr.268]
Chính trị gắn liền với chính quyền. Giai cấp nào nắm chính quyền (hay giai cấp
cầm quyền), thì chính quyền đó sẽ chịu sự chi phối của hệ tư tưởng chính trị của
giai cấp đó với những con người chính trị cụ thể đại diện cho lợi ích của giai cấp
cầm quyền. Giai cấp cầm quyền sẽ tổ chức bộ máy nhà nước, tìm phương thức thực
thi quyền lực nhà nước một cách phù hợp nhất với những điều kiện khách quan, chủ
quan hiện có và theo hướng có lợi nhất cho lợi ích của giai cấp cầm quyền. Mọi
hoạt động chính trị, phong trào chính trị, quyết sách chính trị trong ngắn hạn cũng
như dài hạn do giai cấp cầm quyền khởi xướng suy cho cùng dù phải tính tới lợi ích
của các giai cấp khác thì cũng hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi ích cho giai cấp
cầm quyền.
Khái niệm chính trị có nội hàm rộng lớn. Bất kì hoạt động nào trong xã hội dù
là hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội... cũng có thể có tính chất chính trị nếu như
việc giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới lợi ích của giai cấp cầm
quyền, gắn với chính quyền nhà nước, gắn với lợi ích dân tộc.
Hồ Chí Minh, trong tác phẩm “Thường thức chính trị” [97, tr.201] đã đưa ra 49
nội dung nghiên cứu khác nhau về chính trị trong đó nội hàm của chính trị đã được
thể hiện khá cụ thể và sinh động. Xoay quanh 49 nội dung được phân tích luận giải
trong tác phẩm này, có thể thấy vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân, vấn đề
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như của các tổ chức chính trị, đặc
biệt là đảng chính trị để đem lại lợi ích cao nhất cho nhân dân Việt Nam là vấn đề
chính trị được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.
Có thể quan niệm một cách chung nhất, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin,
“chính trị là phạm vi hoạt động gắn với quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và
các nhóm lợi ích xã hội khác nhau, mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và
sử dụng quyền lực nhà nước” [51,tr.15]
29
Để hiểu rõ hơn về chính trị, chúng ta có thể nhận diện chính trị với mấy biểu
hiện chủ yếu. Các biểu hiện đó có thể coi là các yếu tố cấu thành chính trị:
- Con người chính trị gắn với lý luận chính trị, tư tưởng chính trị, hệ tư tưởng
chính trị, nghĩa vụ chính trị và lợi ích chính trị mà họ theo đuổi.
- Thể chế chính trị, hệ thống bộ máy quyền lực: Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội và quan hệ giữa chúng
- Các hoạt động chính trị, các phong trào chính trị.
- Các quyết sách chính trị như quan điểm, đường lối, chính sách chính trị.
- Lý luận quan hệ quốc tế như: hệ thống các quan hệ quốc tế, bản chất các cuộc
chiến tranh, các vấn đề dân tộc và chính trị thế giới, con đường củng cố hoà bình,
cùng tồn tại hoà bình của các quốc gia [51,tr.32]...
Dù tiếp cận chính trị từ biểu hiện nào của nó thì một nguyên tắc phương pháp
luận là các biểu hiện trên của chính trị không tồn tại biệt lập mà có quan hệ cấu trúc
với nhau. Do đó, dù nghiên cứu chính trị gắn với con người chính trị, lý luận chính
trị, hệ tư tưởng chính trị hay nghiên cứu chính trị dưới góc độ thể chế, bộ máy
quyền lực; hoạt động chính trị, phong trào chính trị, quyết sách chính trị ít nhiều
cũng liên quan đến các phương diện còn lại.
Có nhà nghiên cứu tiếp cận chính trị từ một cách khác, đó là từ “hai phương
diện chủ yếu” của chính trị:
Bất kỳ một nền chính trị nào cũng bao gồm hai phương diện chủ yếu:
phương diện bạo lực và phương diện xây dựng, tương quan giữa hai phương
diện đó thể hiện tính chất và trình độ dân chủ của một chế độ xã hội. Phương
diện bạo lực bao giờ cũng cần tới những khoa học giúp cho chính trị tăng
cường sức mạnh bạo lực, còn phương diện xây dựng lại cần tới những khoa
học mang tính nhân văn. Chính vì lẽ đó mà trong biết bao thế kỷ, các chế độ
chuyên chế xưa kia chỉ coi trọng những nhà chế tạo vũ khí [162, tr.9]
Nói đến chính trị, người ta thường đề cập tới khái niệm đời sống chính trị. Theo
tác giả, các yếu tố cấu thành chính trị trong mối quan hệ tổng hoà với nhau trong
một không gian, thời gian nhất định tạo thành đời sống chính trị của một quốc gia,
30
dân tộc trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Khi xem xét đời sống chính trị của một
quốc gia thì yếu tố trung tâm không thể bỏ qua là sự tồn tại và hoạt động của chính
quyền nhà nước và ảnh hưởng của nó đến các vấn đề chính trị khác.
Do đó, cũng có thể tiếp cận chính trị thông qua những nội dung chủ yếu của đời
sống chính trị (nội dung này có nhiều điểm trùng hợp với các yếu tố cấu thành
chính trị ở trên) gồm:
- Tư tưởng, hệ tư tưởng chính trị
- Hệ thống chính trị (đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, mối
quan hệ giữa chúng, các cơ chế, nguyên tắc vận hành hệ thống chính trị…)
- Các quá trình chính trị
- Con người chính trị và văn hóa chính trị….
Thật không đơn giản để đưa ra một câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi chính trị là gì.
Cần nhìn chính trị từ các góc nhìn khác nhau, trên những lát cắt khác nhau mới có
thể có một câu trả lời thoả đáng. Chẳng hạn như, nếu nhìn chính trị từ phương diện
con người thì cần nghiên cứu: ý thức chính trị, niềm tin chính trị, tư tưởng chính trị,
văn hoá chính trị, hành vi chính trị, con người chính trị. Nếu nhìn chính trị từ
phương diện kĩ thuật thì cần nghiên cứu: các mô hình thể chế, thiết chế chính trị, hệ
thống chính trị, các công nghệ chính trị, …Chúng ta cần căn cứ theo từng trường
hợp cụ thể để có những cách tiếp cận phù hợp.
Nói đến chính trị, không thể không bàn đến quyền lực chính trị. Đây là khái
niệm trung tâm của khoa học chính trị. C. Mác và Ph.ăng ghen trong “Tuyên ngôn
đảng cộng sản” khẳng định rằng: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là
bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [88, tr.628].
Tuy nhiên, trong khoa học chính trị còn có khái niệm quyền lực nhà nước. Vậy
mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước được thể hiện như
thế nào? Vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Mục tiêu
chính trị cao nhất của một giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp là giành được
quyền lực nhà nước, nghĩa là quyền được tổ chức xã hội như một chỉnh thể thành
nhà nước (nhà nước - xã hội), bằng bộ máy nhà nước (nhà nước - bộ máy) hay
31
chính là bộ máy chính quyền. Và, quyền lực nhà nước được hiểu là quyền lực chính
trị của giai cấp cầm quyền [124]. Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị nhưng
không phải mọi quyền lực chính trị đều là quyền lực nhà nước. Trong xã hội chính
trị, có quyền lực chính trị của giai cấp thống trị thì cũng có quyền lực chính trị của
giai cấp bị thống trị. Quyền lực chính trị của giai cấp bị thống trị không phải là
quyền lực nhà nước. Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay
đổi căn bản của quyền lực nhà nước bằng việc chuyển chính quyền nhà nước từ
tay giai cấp này sang tay giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn tới thay đổi căn bản tính
chất của chế độ chính trị.
Quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, nó sẽ được sử dụng trước hết
để phục vụ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực đó. Tuy nhiên khi phục vụ cho lợi ích
của giai cấp cầm quyền, nó không thể không phục vụ lợi ích của bộ phận còn lại
trong xã hội ở chừng mực nhất định. Đó là chức năng giai cấp và chức năng xã hội
của nhà nước. Mối quan hệ giữa hai chức năng này sẽ cho thấy phần nào bản chất
thực sự của một nền chính trị. Xu hướng vận động hợp quy luật của chính trị trong
lịch sử là chức năng giai cấp sẽ ngày càng giảm đi nhường chỗ cho chức năng xã
hội.
Quyền lực chỉ nảy sinh trong mối quan hệ, quyền lực chính trị cũng vậy. Trong
mối quan hệ quyền lực này, một bên sẽ là lực lượng nắm giữ quyền lực chính trị và
bên kia là đối tượng chịu sự chi phối của quyền lực chính trị. Khi quyền lực chính
trị đã chuyển thành quyền lực nhà nước, giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước (giai
cấp cầm quyền) thường là giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất của một phương
thức sản xuất thống trị trong xã hội. Giai cấp đó có thế lực về kinh tế và do đó nắm
quyền tổ chức xã hội như chỉnh thể thành nhà nước, trở thành giai cấp thống trị xã
hội. Đứng trong bộ máy quyền lực của giai cấp thống trị, tức là trong bộ máy nhà
nước thì không phải là toàn bộ giai cấp thống trị mà là đại diện của giai cấp ấy. Lực
lượng đại diện ấy với quyền lực nhà nước trong tay sẽ làm mọi việc để mưu cầu lợi
ích cho toàn bộ giai cấp thống trị trong đó có bản thân họ.
Trong thực tế, lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước không phải bao giờ cũng
32
là một giai cấp mà có thể là liên minh giai cấp, một lực lượng xã hội nào đó hoặc
liên minh các lực lượng xã hội đó. Trong luận án, tác giả dùng các thuật ngữ “lực
lượng nắm giữ quyền lực nhà nước”, “lực lượng cầm quyền”, “giai cấp nắm giữ
quyền lực nhà nước”, “giai cấp cầm quyền”, “giai cấp thống trị” để chỉ lực lượng
này. Trong luận án này, lực lượng này có thể là giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam, giai cấp tư sản Pháp hoặc GCCN, nhân dân Việt Nam.
Đại diện của giai cấp thống trị trong bộ máy nhà nước của giai cấp đó trong
luận án này được tác giả định danh bằng các thuật ngữ như: “lực lượng đại diện
trực tiếp của giai cấp cầm quyền”, “lực lượng trực tiếp nắm giữ quyền lực nhà
nước”, “lực lượng trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước”. Họ có thể là vua quan
nhà Nguyễn đại diện cho giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam. Họ cũng có thể là
thực dân Pháp ở Đông Dương, ở Việt Nam là một bộ phận của giai cấp tư sản Pháp.
Tuy nhiên, khi đặt giai cấp bị thống trị trong tương quan đối lập với giai cấp
thống trị, nhiều trường hợp tác giả sử dụng thuật ngữ “lực lượng nắm giữ quyền lực
nhà nước”, “lực lượng cầm quyền”, “giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước”, “giai
cấp cầm quyền”, “giai cấp thống trị” là để chỉ toàn bộ giai cấp thống trị hoặc đại
diện của giai cấp đó trong bộ máy nhà nước của họ. Chẳng hạn, khi tác giả dùng
thuật ngữ “lực lượng cầm quyền” thì có thể hiểu là bọn thực dân Pháp ở Đông
Dương, ở Việt Nam hoặc toàn bộ giai cấp tư sản Pháp.
Giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước có vai trò và khả năng to lớn trong việc
chi phối các quá trình, các diễn biến chính trị trong xã hội. Giai cấp thống trị sử
dụng bộ máy nhà nước để tổ chức xã hội theo hướng tối đa hoá lợi ích của họ đồng
thời trấn áp các giai cấp, lực lượng xã hội khác khi họ có biểu hiện chống lại sự áp
đặt của giai cấp thống trị. Với các giai cấp không thống trị xã hội, với tư cách là chủ
thể quyền lực chính trị của mình, họ sử dụng quyền lực ấy để đấu tranh với mục tiêu
trực tiếp là giành cho mình vị thế chính trị ngày càng cao trong xã hội, làm sao để
gây ảnh hưởng với nhà nước, làm cho tiếng nói của họ ngày càng có trọng lượng
đối với các quyết định chính trị của giai cấp cầm quyền. Tất cả sự tranh đấu đó
nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là giành về tay mình quyền tổ chức xã hội như
33
chỉnh thể thành nhà nước phù hợp với lợi ích căn bản của giai cấp mình.
Ngoài những thuật ngữ trên, trong luận án, tác giả nhiều lần sử dụng các thuật
ngữ sau:
Chính quyền thuộc địa là khái niệm chỉ bộ máy nhà nước mà giai cấp tư sản
Pháp thiết lập ở thuộc địa Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung sau khi
chúng thôn tính được vùng đất này. Chính quyền này gồm hai bộ phận đó là: chính
quyền thực dân và chính quyền phong kiến bản xứ. Chính quyền thực dân là chính
quyền mà thực dân Pháp ở Việt Nam (lực lượng đại diện cho giai cấp tư sản Pháp)
trực tiếp nắm giữ những vị trí chủ chốt trong bộ máy quyền lực. Chính quyền này
chính là nhà nước bảo hộ. Chính quyền phong kiến bản xứ là chính quyền phong
kiến cũ được thực dân Pháp giữ lại và cải biến theo chủ đích của mình để phục vụ
cho việc thực hiện mục tiêu chính trị của chúng. Trong luận án, khái niệm chính
quyền thuộc địa và khái niệm chính quyền thực dân - phong kiến hay nhà nước thực
dân - phong kiến có thể được dùng với ý nghĩa như nhau.
Nói đến chính trị không thể không bàn đến nhà nước. Vấn đề giành, giữ và thực
thi quyền lực nhà nước là một trong những nội dung chủ đạo khi bàn tới chính trị và
các vấn đề chính trị. Căn cứ vào lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác
- Lênin, người ta đưa ra khái niệm kiểu nhà nước và phân loại nhà nước theo các
kiểu này. “Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù
của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của
nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [168,tr.56].
Khi đề cập đến kiểu nhà nước, người ta hiểu đó là nhà nước của giai cấp nào,
tồn tại trên nền tảng kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.
Tương ứng với bốn hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử xã hội có giai cấp là
bốn kiểu nhà nước đó là: Kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu
nhà nước tư sản và kiểu nhà nước XHCN. Ba kiểu đầu là những kiểu nhà nước của
giai cấp bóc lột, được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư kiệu sản xuất, là công
cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự bóc lột của giai cấp thống
trị đối với đông đảo quần chúng lao động. Nhà nước XHCN là kiểu nhà nước mới,
34
dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, có bản chất khác với các kiểu nhà nước
của giai cấp bóc lột. Nhà nước XHCN thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội [168,tr.56,57]
Sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử là một tất yếu khách quan. Thông
thường, nó được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã hội như ở nước Pháp
năm 1789 hoặc bằng những cuộc cải cách có tính cách mạng như ở nước Nhật năm
1868 với phong trào Minh Trị Duy Tân. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra
tiến trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử
phát triển nhân loại. Từ hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thủy tiến lên hình
thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, tới phong kiến, TBCN rồi XHCN. Tương ứng
với sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử là sự thay đổi từ kiểu nhà
nước chiếm hữu nô lệ sang kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản rồi kiểu
nhà nước XHCN. Sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử cũng thể hiện sự tiến
triển của loài người về văn minh chính trị. Tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi
quốc gia dân tộc mà sự thay thế kiểu nhà nước ở các nước khác nhau diễn ra theo
những cách thức hết sức khác nhau.
Trong một kiểu nhà nước, giai cấp cầm quyền có nhiều cách tổ chức và thực thi
quyền lực nhà nước, hay nói cách khác, có nhiều hình thức nhà nước khác nhau.
Hình thức nhà nước chính là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương
pháp để thực thi quyền lực nhà nước. Mỗi kiểu nhà nước thường có những hình
thức nhà nước đặc trưng nhất định. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành các
hình thức nhà nước là: Cơ sở kinh tế của nhà nước; tương quan lực lượng giữa các
giai cấp, các tầng lớp trong xã hội; mức độ gay gắt của cuộc đấu tranh giành và giữ
chính quyền; đặc điểm lịch sử, truyền thống dân tộc; hoàn cảnh quốc tế và các điều
kiện khác có ảnh hưởng khi thành lập nhà nước; trình độ dân trí...
Hình thức nhà nước gồm hình thức chính thể và hình thức cấu trúc nhà nước.
Khi bàn tới hình thức chính thể, người ta đề cập tới cách thức, trình tự để lập ra
các cơ quan cao nhất của nhà nước và mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau.
Khi quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người
35
đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thế tập, ta có chính thể quân chủ. Còn khi
quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về một cơ quan được nhân dân hoặc tầng lớp
quý tộc bầu ra trong một thời gian nhất định, ta có chính thể cộng hoà. Ngoài hai
hình thức chính thể cơ bản như trên, còn có thể có những hình thức chính thể biến
dạng như chính thể quân chủ tuyệt đối (hay quân chủ chuyên chế), chính thể quân
chủ hạn chế, chính thể cộng hoà quý tộc và chính thể cộng hoà dân chủ. Khi người
đứng đầu nhà nước nắm giữ toàn bộ quyền lực tối cao của nhà nước, toàn quyền
quyết định các vấn đề đối nội, đối ngoại của nhà nước mà không có bất cứ sự chia
sẻ nào ta có chính thể quân chủ tuyệt đối. Việt Nam thời các vua Nhà Nguyễn trị vì
đến trước 1858 thuộc loại này. Khi quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan cao
nhất của nhà nước thuộc về đông đảo nhân dân (chứ không chỉ thuộc về tầng lớp
quý tộc) chúng ta có chính thể cộng hoà dân chủ. Việt Nam sau cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thuộc loại này.
Hình thức cấu trúc nhà nước là cách cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành
chính lãnh thổ và mối quan hệ giữa các đơn vị hành chính lãnh thổ với nhau cũng
như mối quan hệ giữa trung ương với địa phương [33,tr.56]. Cấu trúc nhà nước có
hai loại là nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang. Nhà nước Việt Nam thời nhà
Nguyễn đến khi bị thực dân Pháp xâm lược (1858) là một nhà nước đơn nhất trong
đó chủ quyền chung do triều đình phong kiến đứng đầu là các Vua nhà Nguyễn nắm
giữ, có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ Trung ương xuống địa
phương, có một hệ thống pháp luật thống nhất trong cả nước và chỉ tồn tại một loại
quy chế thần dân. Khi Pháp thôn tính nước ta, đặc biệt khi Liên bang Đông Dương
thuộc Pháp ra đời năm 1887, Việt Nam trở thành một yếu tố, một phần tử của Liên
bang này. Đến lượt nó, Liên bang Đông Dương lại chỉ là một phần tử của một hệ
thống lớn hơn đó là nhà nước tư sản Pháp với nhà nước ở chính quốc và nhà nước
thực dân ở các thuộc địa của Pháp. Thời Pháp thuộc, nước Việt Nam thống nhất
trước đây bị chia thành ba xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các quy chế cai trị
khác nhau cho mỗi kỳ.
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước.
36
Các phương pháp này rất đa dạng song được phân thành hai loại chính là các
phương pháp dân chủ và các phương pháp phản dân chủ. Trong thời kỳ thuộc Pháp
nửa sau thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX, dưới sự cai trị chuyên chế, phản động của
thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam không có chút quyền tự do dân chủ nào. Cho tới
khi chế độ dân chủ cộng hoà được thành lập sau cách mạng Tháng Tám năm 1945,
chế độ mới bằng phương pháp quản lý dân chủ đã đem lại những quyền lợi cơ bản,
thiết thực cho đông đảo nhân dân Việt Nam.
Trong luận án sử dụng khái niệm “chế độ thuộc địa” chỉ chế độ chính trị mà
thực dân Pháp thiết lập ở thuộc địa Việt Nam và Đông Dương sau khi chúng thôn
tính được vùng đất này. “Chế độ phong kiến” chỉ chế độ chính trị mà giai cấp địa
chủ phong kiến Việt Nam thiết lập ở nước ta trong lịch sử mà liên quan trực tiếp tới
nội dung luận án là chế độ phong kiến nhà Nguyễn. “Chế độ dân chủ cộng hòa” hay
“chế độ dân chủ nhân dân” là chế độ chính trị mà nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của đảng cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thiết lập sau thành
công của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thể chế chính trị: là một hệ thống bao gồm các quy định, luật lệ, giá trị, chuẩn
mực tạo nên nguyên tắc tổ chức và cách thức vận hành của chế độ chính trị, là hình
thức biểu hiện các thành tố của hệ thống chính trị đồng thời là cơ sở chính trị - xã
hội quy định tính chất, nội dung của chế độ chính trị nhằm đảm bảo duy trì, củng
cố, thực hiện quyền lực và lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Thể chế chính trị
gồm thể chế của đảng chính trị, thể chế nhà nước, thể chế của các tổ chức chính trị -
xã hội... trong đó thể chế nhà nước là cơ bản và quan trọng nhất. Thể chế nhà nước
là những quy định của pháp luật do nhà nước ban hành được đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước và có tính bắt buộc chung đối với toàn xã
hội.
Kiểu nhà nước, hình thức nhà nước và chế độ chính trị có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Trong một kiểu nhà nước nhất định thường có các hình thức nhà nước đặc
thù và gắn với một chế độ chính trị tương ứng. Tính chất, nội dung của chế độ
chính trị lại được quy định thông qua thể chế chính trị, đặc biệt là thể chế nhà
37
nước.
Để một sự cai trị chính trị được thực hiện, cần có cơ sở về mọi mặt từ chính
trị đến kinh tế, văn hoá, xã hội… và chính những cơ sở đó cũng cho thấy bản chất
của một nền chính trị: tiến bộ hay phản động, phục vụ đông đảo người lao động hay
áp bức người lao động để làm lợi cho một thiểu số người thuộc giai cấp cầm quyền.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, khi một chính quyền củng cố cơ sở về mọi mặt
cho sự cai trị chính trị của nó cũng chính là gieo những hạt mầm cho sự phủ nhận
và thủ tiêu chính bản thân nó. Do đó, cơ sở cho sự tồn tại và khẳng định một nền
chính trị này lại chính là tiền đề cho việc xuất hiện một nền chính trị mới thay thế
nó.
Như vậy, có thể thấy, chính trị là một khái niệm phức tạp. Luận án tiếp cận
chính trị trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin theo các yếu tố cấu thành của
chính trị, theo các nội dung hợp thành đời sống chính trị của một quốc gia, dân tộc.
Trong đó, nhà nước là vấn đề trung tâm của chính trị. Vấn đề giai cấp nào nắm giữ
quyền lực nhà nước, kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể chế
nhà nước là những vấn đề chính trị được tác giả luận án quan tâm khai thác trong
công trình này.
b. Quan niệm về biến đổi chính trị
Từ quan niệm về chính trị ở trên, tác giả đưa ra quan niệm về biến đổi chính trị
như khái niệm công cụ cho việc nghiên cứu biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858
đến 1945.
Các nghiên cứu chính trị học chính thống ở Việt Nam từ trước đến nay chưa có
một quan niệm cụ thể nào về “biến đổi chính trị”. Từ nội hàm rộng và tính phức tạp
của khái niệm chính trị, có thể thấy “biến đổi chính trị” cũng là một khái niệm phức
tạp, đa nghĩa.
Tiếp cận từ các yếu tố cấu thành chính trị, từ nội dung của đời sống chính trị có
thể hiểu theo nghĩa chung nhất, biến đổi chính trị là sự biến đổi trong các yếu tố
cấu thành chính trị, biến đổi nội dung của đời sống chính trị. Theo nghĩa này,
biến đổi chính trị gồm: biến đổi hệ tư tưởng chính trị, biến đổi thể chế, chế độ chính
38
trị, biến đổi của các quá trình chính trị, biến đổi văn hóa chính trị, con người chính
trị… Sự biến đổi của từng yếu tố cấu thành chính trị trên không tách rời nhau mà
quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau theo nghĩa sự thay đổi yếu tố này của
chính trị dẫn tới những thay đổi trong các yếu tố khác của chính trị. Và đến lượt nó,
sự thay đổi đó lại là nguyên nhân cho những thay đổi khác của chính trị.
Tiếp cận từ bản chất giai cấp của chính trị, có thể hiểu biến đổi chính trị là biến
đổi cơ cấu giai cấp và quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đối với việc
tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước. Hạt nhân của biến đổi chính trị hiểu theo
nghĩa này là sự thay đổi giai cấp cầm quyền. Và chính sự thay đổi giai cấp cầm
quyền sẽ dẫn tới thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể
chế nhà nước.
Sự thay đổi giai cấp cầm quyền gắn với sự thay đổi kiểu, hình thức nhà nước,
thể chế nhà nước và chế độ chính trị là vấn đề mà luận án muốn bàn tới.
Nếu khảo sát biến đổi chính trị theo nghĩa chung nhất, sẽ phải khảo sát sự biến
đổi trong toàn bộ các yếu tố cấu thành chính trị và mối quan hệ giữa chúng. Đây
không phải vấn đề tác giả muốn tập trung nghiên cứu. Trong luận án này, biến đổi
chính trị được triển khai theo hướng tập trung khảo sát sự biến đổi trong một yếu tố
cấu thành chính trị đó là bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu sự biến đổi trong
bộ máy nhà nước cũng nhiều vấn đề cần bàn (ví như con người trong bộ máy nhà
nước, quy trình đưa ra các quyết sách chính trị trong bộ máy nhà nước, tính chất kỹ
thuật trong tổ chức bộ máy nhà nước…). Trong luận án, tác giả không nghiên cứu
mọi nội dung biến đổi trong bộ máy nhà nước. Tất nhiên đó là về mặt phương pháp
luận. Trên thực tế, khi nghiên cứu biến đổi chính trị của quốc gia, dân tộc dù theo
nghĩa nào thì cũng không thể không đề cập tới những biến đổi nhất định trong đời
sống chính trị của quốc gia, dân tộc đó.
39
1.2.2. Chính trị Việt Nam trong lịch sử, biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến
1945 - Một số nhận thức chung
a. Chính trị Việt Nam trong lịch sử - Những nhân tố tác động và một số đặc
điểm chủ yếu
Trên cách tiếp cận chính trị của chủ nghĩa Mác Lênin, tiểu mục này đi sâu làm
rõ những đặc điểm của chính trị Việt Nam trong lịch sử làm tiền đề cho nghiên cứu
về biến đổi chính trị ở nước ta thời cận hiện đại.
Khi nghiên cứu đề tài về lịch sử chính trị của một nước phương Đông như Việt
Nam, cùng với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về chính trị,
không thể không tìm hiểu những đặc điểm mang tính đặc thù của chính trị Việt
Nam.
Chính trị Việt Nam trong lịch sử bị chi phối bởi những yếu tố chủ yếu sau:
Thứ nhất, chính trị Việt Nam trong lịch sử chịu sự chi phối của những điều
kiện lịch sử, xã hội Việt Nam.
Khái quát các nghiên cứu của các học giả nước ngoài về văn hoá chính trị Việt
Nam nói riêng và văn hoá chính trị Á Đông nói chung, nhà nghiên cứu Phạm Hồng
Tung đã khẳng định năm điểm xuất phát cũng có thể coi như năm yếu tố chi phối
chính trị Á Đông trong đó có chính trị Việt Nam. Năm yếu tố đó là [173, tr.130]:
Một là môi trường sinh thái mang “thuỷ tính” cao hay chính là nền sản xuất
nông nghiệp lúa nước của các nước Á Đông. Chính môi trường đậm chất thuỷ tính
này tạo cho chính trị Á Đông một sự linh hoạt, mềm dẻo và độ thích nghi cao.
Hai là phương thức sản xuất châu Á - một phương thức sản xuất đặc thù của
các nước phương Đông. Đây là một phương thức sản xuất mang đặc trưng tổng hợp
của cả phương thức sản xuất theo kiểu chiếm hữu nô lệ và phương thức sản xuất
phong kiến. Trong phương thức sản xuất này ruộng đất là của chung và có sự tồn tại
dai dẳng của chế độ công xã nông thôn với chế độ tự quản.
Ba là yếu tố xã hội, sự phân hoá, phân tầng xã hội không triệt để của xã hội Á
Đông làm cho chỉ số “di động xã hội” cao. Yếu tố này chính là hệ quả của yếu tố
hai ở trên. Trong xã hội Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, việc thay đổi
40
thân phận của con người từ giai tầng xã hội này sang giai tầng xã hội khác không
quá khó khăn như các xã hội trong đó có sự phân chia giai tầng, đẳng cấp gay gắt. Ở
Việt Nam “Con vua thì lại làm vua. Con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Nhưng “Khi nào
dân nổi can qua. Con vua thất thế lại ra quét chùa”.
Bốn là yếu tố tư tưởng: Châu Á là cái nôi của nhiều tôn giáo lớn và cũng là quê
hương của nhiều học thuyết chính trị nổi tiếng. Những tôn giáo và học thuyết ấy ảnh
hưởng mạnh mẽ tới văn hoá chính trị của các dân tộc trong khu vực này trong đó có
Việt Nam. Do chịu ảnh hưởng của Nho giáo, chính trị Việt Nam cũng như nhiều
nước trong khu vực có xu hướng hướng tới sự hài hoà, tôn trọng và khuất phục
quyền uy, tôn ti trật tự xã hội nhiều hơn là sự cạnh tranh. Vì vậy, chính trị Việt Nam
có xu hướng hướng tới vai trò chủ đạo của một chính đảng [173, tr.126].
Năm là giao lưu văn hoá với phương Tây và các khu vực khác của thế giới. Sự
giao lưu này có thể là do các nước châu Á chủ động hoặc là do sự cưỡng bức, áp đặt
từ một tác nhân bên ngoài. “Sự va chạm của các nền văn minh” tác động tới văn hoá
chính trị Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính “sự va chạm” này tạo ra
những nền chính trị ngoại nhập ở các nước châu Á. Và đến lượt nó, chính những
nền chính trị ngoại nhập này tác động đáng kể tới diện mạo của các nước châu Á
trên nhiều phương diện của đời sống xã hội.
Năm yếu tố chi phối chính trị Á Đông ở trên cũng là những yếu tố chi phối
chính trị Việt Nam ở những mức độ nhất định. Tuy nhiên, ở nước ta cần đặc biệt
nhấn mạnh đến lịch sử sản xuất nông nghiệp lúa nước và lịch sử chống ngoại xâm.
Đây là những yếu tố quan trọng góp phần tạo ra những đặc điểm riêng biệt của
chính trị Việt Nam trong lịch sử.
Thứ hai, chính trị Việt Nam trong lịch sử chịu sự chi phối bởi hoàn cảnh ra đời
của nhà nước đầu tiên ở Việt Nam. Sự ra đời của nhà nước đầu tiên này cũng chịu
tác động nhất định của các điều kiện lịch sử xã hội vừa phân tích ở trên. Hoàn cảnh
này tạo ra những đặc điểm riêng biệt của nhà nước ở Việt Nam và của chính trị Việt
Nam so với các quốc gia khác trên thế giới.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin thì chính trị là sản phẩm của
41
mối quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của nhân loại. Chính
trị gắn với nhà nước. Khi mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội phát triển đến
mức không thể điều hoà được, nó có nguy cơ phá tan trật tự xã hội hiện hành, lúc đó
nhà nước ra đời để đưa xã hội vào vòng ổn định, trật tự.
Tuy nhiên, với điều kiện lịch sử địa lý đặc thù của các nước châu Á, phương
Đông, trên nền tảng của một phương thức sản xuất châu Á, Ph.Ăngghen trong tác
phẩm “Chống Đuy ring” đã khẳng định: “Trên cơ sở phân hoá xã hội là tiền đề vật
chất không thể thiếu được, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu
tranh tự vệ làm cho nhà nước ban đầu vốn là “chức năng xã hội” tiêu biểu cho lợi
ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang địa vị độc lập với xã hội” và cuối cùng
“vươn lên thành thống trị đối với xã hội” [7, tr252]. Như vậy, nghiên cứu sự ra đời
của nhà nước ở châu Á, phương Đông, ngoài quy luật chung trong sự hình thành
nhà nước là gắn với sự xuất hiện giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp, cần đặc biệt
chú ý tới tính đặc thù trong sự ra đời của nó đó là: xuất phát từ nhu cầu thuỷ lợi và
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để sinh tồn.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt về địa lý, tự nhiên của Việt Nam, nhà
nước đầu tiên ở Việt Nam ra đời trên cơ sở một xã hội phân hoá chưa sâu sắc mà
xuất phát từ nhu cầu đoàn kết cộng đồng để đắp đê làm thuỷ lợi và chống ngoại xâm
nên trong nhà nước đó tính cộng đồng là đặc tính nổi trội, tính giai cấp khá mờ
nhạt. Quyền lực nhà nước ở Việt Nam không điển hình như ở Phương Tây. Các nhà
nước nối tiếp nhau tồn tại trong lịch sử Việt Nam không thể không chịu ảnh hưởng
một cách sâu sắc bởi đặc tính này. Trong lịch sử Việt Nam, người lãnh đạo đất
nước, ở đây là nhà vua cùng với dòng họ của ông ta “phải là người lãnh đạo được
nhân dân đánh bại xâm lăng và bảo vệ được đê điều. Do đó, mỗi lần có nguy cơ
ngoại xâm thì ở Việt Nam diễn ra một sự thay đổi triều đại nếu cần phải có người
xứng đáng” [104, tr.41]. Và như là kết quả tất yếu, lực lượng nào thành công trong
việc lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm, lực lượng đó sẽ được suy tôn.
Do đó, có thể thấy, một trong những đặc trưng nổi bật của chính trị Việt Nam, ý
thức chính trị của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trước hết là ý thức về cộng đồng,
42
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Điều này cũng dẫn tới một hệ quả là với
người Việt Nam, Tổ quốc cao hơn tất cả. Nhà nghiên cứu văn hoá Phan Ngọc đã
khái quát: “Người Việt Nam là con người Tổ quốc luận”. Văn hoá chính trị của
người Việt Nam mang tính “Tổ quốc luận” rất đậm nét. Mọi giá trị của người Việt
quy về giá trị thiêng liêng, cao quý nhất đều gắn với giá trị về Tổ Quốc, về độc lập
dân tộc và chủ quyền lãnh thổ nên dân tộc Việt Nam hàng nghìn năm không có kẻ
thù nào chinh phục và đánh bại được. Cũng chính vì vậy, lòng yêu nước, quyết tâm
chiến đấu vì từng tấc đất của Tổ quốc, ý thức về chủ quyền quốc gia của người Việt
Nam đã trở thành một nét độc đáo trong văn hoá chính trị Việt Nam. Để bảo vệ chủ
quyền quốc gia này, ở Việt Nam, “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, “khi nào Tây
nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Sau này, Hồ Chí Minh đã
khái quát thành chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Hướng tới
mục tiêu độc lập cho dân tộc trong nhiều trường hợp trở thành yếu tố trung tâm để
cố kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam - vốn không hoàn toàn thuần nhất - thành
một khối thống nhất để chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm.
Sau này, từ thực tế của lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, trên cơ sở
hiểu sâu sắc truyền thống dân tộc Việt, Hồ Chí Minh đã khẳng định: chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng ở nước ta. Chủ nghĩa dân
tộc ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước chân chính, là tinh thần đại đoàn kết trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Khai thác và phát huy được đặc trưng này của
chính trị Việt Nam là một trong những cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đây
cũng chính là một trong những nét đặc thù của chính trị Việt Nam. Thông thường,
nói đến chính trị, người ta nhấn mạnh tính giai cấp, tuy nhiên, với chính trị Việt
Nam thì không hẳn như vậy. Trong “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ”,
Hồ Chí Minh khẳng định, ở Việt Nam: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống như ở phương Tây” [100, tr.464]. Từ thực tiễn nước ta đầu thế kỷ XX, Hồ
Chí Minh nhận thấy, Việt Nam là một đất nước với một nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu, kém phát triển tất yếu phân hoá giai cấp sẽ mờ nhạt, các giai cấp vẫn có sự
43
tương đồng lớn: “Những kẻ mà ở đó (Việt Nam) được coi là đại địa chủ thì chỉ là
những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ.
Không có tỉ phú người An Nam” [100, tr.464]. Khoảng cách giữa các giai cấp và
lực lượng xã hội là không lớn, do đó, sự xung đột về quyền lợi giữa các lực lượng
xã hội khác nhau là rất nhỏ bé và hầu như không đáng kể:
Nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn;
nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng
chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ
lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng có công
đoàn, kẻ thì chẳng có tơ rớt; người thì nhẫn nhục chịu số phận của mình, kẻ thì vừa
phải trong sự tham lam của mình. [100, tr.464]
Và sản phẩm của tất cả thực tế đó là cuộc đấu tranh giai cấp sẽ kém gay gắt.
Không như ở phương Tây, các nước phương Tây là các nước có kinh tế phát triển
do đó sản phẩm là phân hoá giai cấp sẽ sâu sắc và đấu tranh giai cấp sẽ quyết liệt,
mạnh mẽ. Mặt khác, đầu thế kỷ XX, chúng ta đang bị người nước ngoài nô dịch.
Với một dân tộc không cam chịu thân phận nô lệ, không chịu khom lưng, quỳ gối
làm nô lệ cho ngoại bang, tất yếu người Việt Nam sẽ kết thành một khối vững chắc
để chiến đấu và chiến thắng, giữ cho tên gọi Việt Nam. Còn các nước phương Tây
là các nước giàu có, các nước phát triển, họ chủ yếu đi xâm lược chứ không bị xâm
lược. Và vì vậy, vấn đề dân tộc ở các nước này được đặt ra không giống ở nước ta.
Sản phẩm tất yếu là chính trị ở Việt Nam, tính dân tộc sẽ vượt trội hơn hẳn tính giai
cấp chứ không như ở phương Tây. Hồ Chí Minh khẳng định “Giờ đây, người ta sẽ
không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại
và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi...
nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế” [100, tr.467]. Với
nhận thức như vậy, Người kêu gọi “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
Quốc tế Cộng sản” [100, tr467]
Thứ ba, chính trị Việt Nam suốt chiều dài lịch sử phần lớn thời gian là sự tồn
tại của chế độ quân chủ chuyên chế. Sự tồn tại lâu dài của chế độ quân chủ chuyên
44
chế với quyền lực tối thượng nằm trong tay nhà Vua và một vương triều, nơi một
người ngồi trên muôn người, do đó ở nước ta, các lãnh tụ luôn giữ một vai trò đặc
biệt trong việc đoàn kết xã hội, định hướng sự phát triển của cả cộng đồng. Quyền
uy chính trị của họ có được là nhờ vị trí, uy tín cá nhân của họ trong cộng đồng.
Trải qua hàng nghìn năm quân chủ, qua những triều đại phong kiến hưng thịnh
với vua sáng, tôi hiền, lịch sử chính trị Việt Nam đã kết tụ và lắng đọng những tư
tưởng chính trị trở thành đặc trưng của chính trị Việt Nam. Đó là tư tưởng khoan
dân: khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, một thượng sách để giữ nước. Đó
là tư tưởng nhân nghĩa: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đó còn là tư tưởng thân
dân: được dân thì được nước mà mất dân thì mất nước...
Nếu như nói tới chính trị là nói tới sự phân chẻ xã hội thành hai nửa đối lập, kẻ
thống trị và người bị thống trị thì ở Việt Nam sự thống nhất của hai nửa đối lập đó
có thể coi là tính trội. Lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam đã chứng minh chân lý:
Vua tôi đồng lòng, anh em hoà mục, cả nước góp sức từ lâu đã kết dân tộc Việt
Nam vốn chưa giàu có về kinh tế trở thành một sức mạnh vô địch để chiến đấu và
chiến thắng ngoại xâm. Có thể thấy, đại đoàn kết dân tộc, chính trị thân dân là
một nội dung nổi bật trong tư tưởng chính trị Việt Nam.
Như vậy, có thể khái quát một số đặc điểm của chính trị Việt Nam trong lịch
sử là:
Trước hết, nền chính trị hướng tới độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, tôn
vinh lòng yêu nước
Thứ hai, nền chính trị hướng tới đại đoàn kết toàn dân, tính cộng đồng, tinh thần
dân tộc
Thứ ba, nền chính trị hướng tới sự hợp tác là chính thay vì mâu thuẫn giữa
người cai trị và người bị cai trị
Thứ tư, nền chính trị thân dân, khoan dân, nhân nghĩa, lấy dân là gốc
Thứ năm, nền chính trị trong đó các lãnh tụ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng
Những đặc điểm của chính trị Việt Nam trong lịch sử được khái quát ở trên là
những yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét sự vận động chính trị ở nước ta thời
45
cận, hiện đại.
b. Biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 – Một số nhận thức chung
b1. Hai bước biến đổi căn bản
Thống nhất với quan niệm về biến đổi chính trị đã chỉ ra ở trên, biến đổi chính
trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 được hiểu là hai bước biến đổi. Thứ nhất, biến đổi
từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến. Thứ hai, biến đổi từ
chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân. Hai bước biến đổi
chính trị căn bản này gắn với hai bước ngoặt quan trọng trong sự vận động của dân
tộc. Bước ngoặt thứ nhất, Việt Nam bị thực dân tư bản Pháp xâm lược và thôn tính.
Sự kiện này đã biến Việt Nam từ một dân tộc độc lập, có chủ quyền thành một dân
tộc thuộc địa, một dân tộc nô lệ, chịu sự đè nén của CNTB ngoại bang. Bước ngoặt
thứ hai là cuộc cách mạng giành độc lập của nhân dân Việt Nam tháng Tám năm
1945 thành công đã đưa Việt Nam từ dân tộc nô lệ, mất tên trên bản đồ chính trị thế
giới thành một dân tộc độc lập, khẳng định lại vị thế quốc tế của dân tộc. Như vậy,
sự vận động về chính trị của Việt Nam giai đoạn lịch sử này gắn liền với sự vận
động chung của toàn dân tộc trong tiến trình phát triển.
Trong bước biến đổi chính trị thứ nhất, giai cấp cầm quyền từ giai cấp địa chủ
phong kiến Việt Nam mà vua quan nhà Nguyễn là lực lượng đại diện đã chuyển
sang GCTS Pháp mà lực lượng thực dân Pháp ở Việt Nam là đại diện. Gắn với nó là
một kiểu nhà nước mới đặc thù ở Việt Nam do GCTS Pháp thiết lập ra. Kiểu nhà
nước mới ấy nằm trong phạm trù của kiểu nhà nước tư sản, trên nền tảng một
phương thức sản xuất TBCN đã phát triển cao ở Pháp mà Pháp từng bước du nhập
vào Việt Nam thay thế kiểu nhà nước phong kiến đã tồn tại lâu dài trên đất nước ta.
Hình thức nhà nước cũng thay đổi từ một nhà nước phong kiến quân chủ
chuyên chế sang nhà nước thực dân tư sản kết hợp phong kiến không kém phần
phản động, chuyên chế. Từ mô hình một nhà nước phong kiến Việt Nam đơn nhất,
sự thống trị của GCTS Pháp ở nước ta đã biến Việt Nam thành bộ phận của một nhà
nước liên bang thuộc một nhà nước lớn hơn đó là nhà nước tư sản Pháp. Cách thức
tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước cũng thay đổi từ chỗ thống nhất tập trung
46
trong cả nước từ trung ương đến địa phương, Việt Nam dường như trở thành ba
quốc gia với những quy chế cai trị riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc
Pháp.
Trong bước biến đổi chính trị thứ hai, giai cấp cầm quyền từ GCTS Pháp mà
lực lượng thực dân Pháp ở Việt Nam là đại diện chuyển sang quân phiệt Nhật (là bộ
phận của GCTS Nhật) rồi sang nhân dân lao động Việt Nam mà GCCN Việt Nam là
đại diện. Hình thức nhà nước từ một nhà nước thực dân phong kiến thuộc phạm trù
nhà nước tư sản chuyển sang một nhà nước dân chủ nhân dân nằm trong phạm trù
của một nhà nước XHCN. Từ một bộ phận trong Liên bang Đông Dương thuộc
Pháp, chúng ta đã thiết lập được một nhà nước riêng cho Việt Nam, trở thành một
nhà nước dân tộc độc lập có tên trên bản đồ chính trị thế giới. Từ một nhà nước
chuyên chế, phản động với những biện pháp cai trị phản dân chủ chúng ta đã thiết
lập một nhà nước dân chủ cho đông đảo nhân dân Việt Nam.
b2. Bản chất của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945
Bản chất của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 là việc giải quyết
mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp ở nước ta. Do mất nước về tay thực dân
Pháp đã dẫn tới chính trị thực dân - phong kiến thay thế chính trị phong kiến. Và
sau này, trong cách mạng Tháng Tám 1945, do thắng thực dân phát xít mà ta lấy lại
được đất nước, chính trị dân chủ nhân dân đã thay thế chính trị thực dân - phong
kiến. Như vậy, vấn đề lực lượng nào nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong
thời kỳ 1858-1945 liên quan chặt chẽ đến việc độc lập hay mất nước, chịu lệ thuộc,
làm nô lệ cho ngoại bang. Vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc quan hệ chặt chẽ với
nhau.
b3. Logic của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945
Ở bước biến đổi thứ nhất, chính trị mới thay thế chính trị phong kiến là chính trị
áp đặt từ bên ngoài vào. Đó là sản phẩm của một cuộc chiến tranh xâm lược bằng
bạo lực của một tên thực dân phương Tây đã ở trình độ TBCN phát triển với một
dân tộc phong kiến phương Đông. Là chính trị áp đặt nên logic vận động của chính
trị giai đoạn này là: Thực dân Pháp tiến hành cướp quyền cai trị và xác lập bộ máy
47
cai trị cùng các công cụ bạo lực, sau đó mới thiết lập các cơ sở về mọi mặt cho sự
tồn tại của nền chính trị đó từ cơ sở kinh tế đến văn hoá, xã hội, tư tưởng...
Ở bước biến đổi thứ hai, chính trị dân chủ nhân dân thay thế chính trị thực dân -
phong kiến là kết quả sự vận động nội tại trong lòng xã hội Việt Nam mà điểm nút
chính là cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chính cơ sở về mọi mặt cho sự tồn
tại và phát triển của chính trị thực dân - phong kiến mà thực dân Pháp thiết lập ở
nước ta trong quá trình vận động của nó lại tạo ra những tiền đề cho sự ra đời của
một nền chính trị mới phủ nhận chính nó. Nền chính trị nào phù hợp với những tiền
đề đó sẽ có nhiều cơ hội được khẳng định, bằng không, nó sẽ không có cơ sở để tồn
tại. Và khi nền chính trị mới - chính trị dân chủ nhân dân ra đời, về nguyên lý, nhân
dân lao động Việt Nam lại phải thiết lập những cơ sở cho sự tồn tại của nó.
Tiểu kết chương 1
Trong chương đầu tiên này, cơ sở về tư liệu, tài liệu cho triển khai những vấn đề
nghiên cứu đã được tác giả tập trung làm rõ. Với ý nghĩa là một luận án lịch sử
chính trị, hai nhóm tư liệu, tài liệu quan trọng được tác giả khai thác và sử dụng
trong luận án là nhóm tư liệu, tài liệu sử học và nhóm tư liệu, tài liệu chính trị học.
Hai nhóm tư liệu này đã được chia thành các nhóm nhỏ hơn và cách thức sử dụng
từng nhóm tư liệu, tài liệu trong luận án cũng được tác giả trình bày trong phần tổng
quan. Những vấn đề đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án được khái
quát, tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp đến vấn đề được
nêu trong luận án khiến cho vấn đề nghiên cứu “ sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ
1858 đến 1945” có thể và cần phải được đặt ra.
Trong nội dung “một số vấn đề lý luận về chính trị và biến đổi chính trị” cung
cấp những khái niệm công cụ cho việc triển khai vấn đề nghiên cứu ở hai chương
sau. Khái niệm chính trị được tiếp cận trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin
được phân tích theo các yếu tố cấu thành của chính trị, các biểu hiện để nhận diện
chính trị, các nội dung của đời sống chính trị. Vấn đề chính quyền nhà nước là vấn
48
đề cơ bản của chính trị với các nội dung như: Lực lượng cầm quyền, kiểu nhà nước,
hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể chế nhà nước là nội dung được tập trung
luận giải trong luận án. Tác giả cũng đưa ra những quan niệm về biến đổi chính trị
theo các cách tiếp cận khác nhau và khẳng định lại phạm vi nghiên cứu của luận án:
Trong luận án này, biến đổi chính trị được hiểu theo nghĩa sự thay đổi giai cấp cầm
quyền gắn với sự thay đổi kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, chế độ chính trị, thể
chế nhà nước.
Từ đặc điểm ra đời của nhà nước ở Việt Nam, tác giả rút ra những đặc điểm
chung của chính trị Việt Nam trong lịch sử. Những đặc điểm này ảnh hưởng không
nhỏ tới sự vận động của chính trị trong đó có biến đổi chính trị. Bản chất và logic
của hai bước biến đổi chính trị căn bản của chính trị Việt Nam từ 1858 đến 1945
cũng được phân tích trong chương này.
Gắn với các khái niệm công cụ trên là các thuật ngữ được sử dụng nhiều lần
trong luận án cũng được nêu trong chương.
Nội dung của chương 1 là bộ công cụ cần thiết để tác giả tiếp tục đi sâu khảo sát
những nội dung của biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945 được trình bày
ở chương 2 và chương 3.
49
Chương 2
SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ CHÍNH TRỊ
PHONG KIẾN SANG CHÍNH TRỊ THỰC DÂN - PHONG KIẾN
2.1. Quá trình và nội dung biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang
chính trị thực dân - phong kiến
Sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ chính trị phong kiến sang chính trị thực
dân - phong kiến gắn liền với quá trình giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam mà
vua quan nhà Nguyễn là lực lượng đại diện mất vị trí là giai cấp cầm quyền và trở
thành tay sai cho giai cấp cầm quyền mới là giai cấp tư sản Pháp mà thực dân Pháp
ở nước ta là lực lượng đại diện.
2.1.1. Lực lượng nắm giữ, ảnh hưởng tới quyền lực nhà nước gắn với kiểu và
hình thức nhà nước ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược
Trước 01-9-1858, quyền lực nhà nước ở Việt Nam nằm trong tay giai cấp địa
chủ phong kiến mà đại diện là vua quan nhà Nguyễn: “Vua là người đứng đầu tối
cao Nhà nước phong kiến, với đầy đủ mọi quyền hành đối nội và đối ngoại, lập
pháp và hành pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam” [127, tr273]. Mặt khác, quyền lực
này chịu sự ảnh hưởng nhất định của triều đình Bắc Kinh.
a. Quyền lực của Vương triều Nguyễn trong một nhà nước phong kiến quân
chủ chuyên chế tập quyền
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở
Phú Xuân, mở đầu cho sự tồn tại của Vương Triều Nguyễn ở Việt Nam. Đây là một
chế độ quân chủ phong kiến chuyên chế điển hình với quyền lực tập trung tuyệt đối
trong tay vua. Vua là con Trời, thay Trời để trị vì, chăn dắt muôn dân. Vua nhà
Nguyễn có quyền lực rất lớn. Và để hạn chế sự phân chia quyền lực, nhà Nguyễn
đặt ra luật “tứ bất”: không lập Tể tướng, không lập Hoàng hậu, không lập Thái tử,
không lập Trạng nguyên. Khi quyền lực nhà nước mất về tay thực dân Pháp, các
quy định này không được duy trì. Điển hình thời vua Bảo Đại (đời vua thứ 13 của
vương triều Nguyễn), Bảo Đại phong “Nam Phương hoàng hậu” cho vợ mình là
50
Nguyễn Hữu Thị Lan.
Trong chế độ này, trung quân ái quốc là tiêu chí đạo đức cao nhất của người
quân tử. So với nền quân chủ các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, mức độ
chuyên chế dưới triều Nguyễn được tăng cường. Từ năm 1831, Minh Mệnh, một
đấng minh quân đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính trên quy mô lớn nhằm
tổ chức thống nhất hệ thống chính quyền từ trung ương tới cơ sở, hoàn thiện cơ cấu
tổ chức bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, tăng cường hơn nữa sự tập trung
quyền lực nhà nước vào nhà vua [167,tr.276].
Dưới triều Nguyễn, cũng như nhiều triều đại phong kiến Việt Nam khác, việc
khẳng định chủ quyền quốc gia được hết sức coi trọng. Đó là một cách để khẳng
định quyền lực của Vương Triều. Trước hết, chủ quyền quốc gia được khẳng định
bằng cách đặt tên nước, định kinh đô, xưng danh hiệu. Triều Nguyễn định đô ở Phú
Xuân, vùng đất nằm giữa lãnh thổ Việt Nam, gánh hai đầu đất nước. Sau khi lên
ngôi vua, Gia Long phái sứ thần sang nhà Thanh xin phong Vương và đặt tên nước
là Nam Việt. Tuy nhiên, năm 1804, vua Thanh phái sứ thần sang phong Vương cho
Gia Long và đặt tên nước là Việt Nam. Cuối đời vua Minh Mạng (1820-1840), vào
năm 1838, tên nước được đổi thành Đại Nam. Chế độ cha truyền con nối được thực
hiện như một nguyên tắc nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của vương triều. Vua
Minh Mạng, với hi vọng nghiệp đế vương sẽ truyền lại cho 20 đời con cháu, đã làm
bài thơ “Đế hệ thi” thể hiện khát khao này. Những từ trong bài thơ là những từ đầu
tiên trong tên gọi của các thế hệ con cháu vua Nguyễn, sau từ này mới là tên của gia
đình đặt cho.
Miên, Hường, Ưng, Bửu, Vĩnh
Bảo, Quý, Định, Long, Trường
Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật
Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương [159,tr.194]
Tuy nhiên, thực tế mới chỉ truyền được đến từ thứ 5 - Vĩnh Thuỵ, tức Bảo Đại
thì Vương Triều này đã hoàn toàn biến mất.
Việc xác định chủ quyền quốc gia còn thể hiện bằng việc xác định vấn đề biên
51
giới. Triều Nguyễn đã cho xây dựng hàng chục đồn bảo ở vùng biên giới phía Bắc,
khẳng định chủ quyền biển đảo (Phú Quốc, Côn Đảo, Hoàng Sa, Trường Sa…), lập
thuỷ đội Hoàng Sa để quản lý và xây dựng quần đảo Hoàng Sa (tháng 8-1803), mở
rộng cương vực quốc gia về phía Tây và phía Nam bằng các hoạt động quân sự,
ngoại giao, khai khẩn đất hoang... Năm 1805, Gia Long cho triển khai vẽ bản đồ đất
nước. Dưới sự cai trị của các vua nhà Nguyễn, lãnh thổ quốc gia đã được mở mang
rất nhiều so với trước đây và về cơ bản giống với lãnh thổ Việt Nam ngày nay.
Quyền lực nhà nước của các vua Nguyễn còn được thể hiện khá rõ nét ở việc
xây dựng một nền hành chính thống nhất và chính sách ngoại giao mềm dẻo
nhưng cương quyết, đặt biệt với nước láng giềng phía Bắc là Trung Quốc. Gia Long
chính là người đặt nền móng cho quá trình xây dựng hệ thống chính quyền trong cả
nước với hình thức quân chủ chuyên chế.
Thời Nguyễn, tổ chức nhà nước từ Trung ương đến địa phương được thiết lập
khá thống nhất và chặt chẽ. Ở Trung ương, tổ chức nhà nước gồm lục bộ (bộ Lại,
Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) do Thượng thư đứng đầu mỗi bộ. Tổ chức về quân sự có
ngũ Phủ Đô đốc. Ngoài ra còn có các cơ quan cao cấp phụ trách các mảng chuyên
môn. Ở địa phương, ngoài các cơ quan cai quản chung, còn có các cơ quan phụ
trách từng phần việc có phân công, phân nhiệm rõ ràng. Điều đặc biệt đáng nói
trong tổ chức nhà nước phong kiến Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng
là tổ chức quản lý cấp làng xã. Mặc dù Vua trong xã hội phong kiến là người có
quyền lực tối thượng song trong cả một giai đoạn lịch sử dài, ở Việt Nam, “phép
Vua” vẫn thua “lệ làng”. Chính quyền tự trị của làng xã và một số tập quán chính trị
khác là những yếu tố hạn chế ở mức độ nhất định quyền lực của các vua nhà
Nguyễn. Với cách tổ chức quản lý cấp xã ở Việt Nam, làng xã Việt Nam tồn tại như
những ốc đảo bên cạnh chính quyền Trung ương. Đây là cái nôi lưu giữ những bản
sắc văn hoá Việt. Do đó, từ bao đời, ở Việt Nam, mất nước nhưng không mất làng,
chúng ta vẫn là chính chúng ta chứ không bị đồng hoá bởi đội quân xâm lược. Nhà
sử học Dương Kinh Quốc đã khái quát: “Chính quyền cấp trên mà trực tiếp là cấp
tỉnh, mới chỉ dừng lại ở cửa ngõ của xã, chứ chưa thâm nhập được vào trong nội bộ
52
hoạt động của xã” [127]. Sự tồn tại khá bền vững của tổ chức chính quyền cấp xã là
một biểu trưng quyền lực chính trị thực sự của người dân Việt.
Nhà Nguyễn đặt ra luật Gia Long (hay bộ Hoàng Việt luật lệ) để điều chỉnh các
quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ Gia Long đến Tự Đức, các vua
triều Nguyễn đều quan tâm đến xây dựng luật pháp và chú trọng đến việc áp dụng
pháp luật. Ngoài bộ luật trên thì các tập Hội điển (các văn bản pháp luật đã được
vua ban hành hoặc phê chuẩn để bổ sung cho luật) như Hội điển toát yếu, Khâm
định Đại Nam Hội điển sự lệ, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam Điển Lệ toát yếu…
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì đất
nước trong trật tự phong kiến.
Như vậy, có thể thấy, trước khi Pháp xâm lược nước ta, quyền lực nhà nước ở
Việt Nam tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến mà trực tiếp là trong tay
các ông Vua nhà Nguyễn. Để thực hiện việc cai trị, quyền lực này đã được thể hiện
tập trung trong Bộ máy Hành chính triều Nguyễn được tổ chức khá chặt chẽ và
thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trước khi Pháp xâm lược nước ta, chính
trị ở Việt Nam là chính trị phong kiến.
b. Sự ảnh hưởng của triều đình Bắc Kinh (nhà Thanh) với Vương triều
Nguyễn
Trước 1858, Việt Nam là một nước phong kiến độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế,
quyền lực của các vua quan nhà Nguyễn còn chịu sự ảnh hưởng nhất định bởi triều
đình Mãn Thanh (Trung Quốc). Là một nước nhỏ tồn tại bên cạnh một nước láng
giềng lớn mạnh (Trung Quốc), nhà Nguyễn cũng như nhiều triều đại phong kiến
Việt Nam trước đây đã thực hiện một chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt với
Trung Quốc, điển hình như: Chấp nhận việc tấn phong danh hiệu Quốc Vương của
Hoàng đế Trung Hoa, chấp nhận các nghi lễ cống, nạp thường niên đối với triều
đình Bắc Kinh và một số các yêu sách khác của triều đình Bắc Kinh trong chừng
mực không tổn hại tới chủ quyền quốc gia... Dù không chính thức, bất thành văn,
không trực tiếp và không bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, song quyền lực và
sự ảnh hưởng của phong kiến phương Bắc với các đời vua nhà Nguyễn cũng là một
53
yếu tố không thể bỏ qua khi xem xét sự thay đổi của giai cấp cầm quyền ở nước ta
nửa sau thế kỷ XIX (đặc biệt là sự tranh chấp Pháp - Trung về vấn đề Việt Nam).
2.1.2. Quá trình thay đổi lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt gắn với
thay đổi kiểu và hình thức nhà nước sau khi thực dân Pháp xâm lược
a. Thực dân Pháp thâu tóm dần quyền lực của Vương triều Nguyễn (tính đến
1884) và chấm dứt ảnh hưởng của triều đình Bắc Kinh
Năm 1834, Vua Minh Mạng chia nước ta thành 3 kỳ: Bắc Kỳ (chỉ phần đất từ
Ninh Bình trở ra), Trung Kỳ (phần đất từ Thanh Hoá đến Bình Thuận) và Nam Kỳ
(phần đất từ Biên Hoà trở vào). Nam Kỳ lại được chia thành 6 tỉnh do đó thường
được gọi là Nam Kỳ lục tỉnh hay lục tỉnh [200].
a1. Thực dân Pháp thâu tóm quyền lực của Vương triều ở Nam Kỳ và tổ
chức cai trị
Sau khi nổ súng vào Đà Nẵng ngày 01-9-1858, Pháp mở rộng cuộc chiến tranh
xâm lược vào phía Nam. Khi chiếm xong 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (nhà Nguyễn đã
thừa nhận bằng hiệp ước Nhâm Tuất ký với Pháp năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây
Nam Kỳ (năm 1867) (được nhà Nguyễn thừa nhận bằng hiệp ước Giáp Tuất 1874).
Với hiệp ước này, triều Nguyễn đã thừa nhận chủ quyền của Pháp trên toàn xứ Nam
Kỳ. Pháp xoá bỏ cách phân chia địa giới cũ của triều Nguyễn. Các quan triều Nguyễn
ở Nam Kỳ lục tỉnh sau khi Pháp chiếm hoặc bãi quan trở về làm thường dân, hoặc trở
thành các lãnh tụ chống Pháp quyết liệt, một phần nhỏ thân Pháp, làm tay sai cho
chúng. Bộ máy chính quyền địa phương của triều Nguyễn ở Nam Kỳ tan rã.
Thực dân Pháp thực hiện chế độ cai trị của chúng ở Nam Kỳ qua hai giai đoạn.
Giai đoạn đầu từ 1862 đến 1879 là giai đoạn cai trị của các thống đốc quân sự (các
thống soái). Thực dân Pháp thành lập soái phủ (hay suý phủ) Nam Kỳ (chính là trụ
sở của thống đốc Nam Kỳ đặt tại Sài Gòn) do các đô đốc hải quân Pháp đứng đầu
trông coi việc cai trị hành chính và quân sự. Nhiệm vụ chủ yếu của soái phủ Nam
Kỳ lúc này là ổn định tình hình và mở rộng việc chiếm đóng về quân sự. Giai đoạn
hai từ 1879, Pháp đặt chức Thống đốc Nam Kỳ (thống đốc dân sự) để cai trị xứ này.
Chức vụ này trực thuộc Bộ Thuộc địa và Hải quân Pháp.
54
Nam Kỳ được Pháp cai trị theo quy chế thuộc địa, không có quan hệ phụ thuộc
vào Nam Triều (có thể hiểu Nam Kỳ được cai trị như một địa phương của nước
Pháp). Với thể chế trực trị có tính chất thôn tính, đồng hoá, Nam Kỳ thuộc địa được
cai trị bằng một bộ máy quyền lực hoàn toàn do người Pháp nắm giữ, thực hiện các
mục tiêu chính trị của người Pháp. Từ sau hiệp ước Giáp Tuất (1874), quyền lực
nhà nước ở Nam Kỳ - một vùng đất thuộc lãnh thổ Việt Nam – nằm trong tay GCTS
Pháp chứ không thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam nữa. Từ năm 1888
(thời vua Đồng Khánh), Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cũng trở thành nhượng địa
của Pháp (tức cùng thể chế trực trị như Nam Kỳ tuy nằm trong lãnh thổ bảo hộ bản
xứ).
Vào năm 1883 với hiệp ước Hácmăng [199] địa giới Nam Kỳ thuộc Pháp thêm
tỉnh Bình Thuận (điều 2). Như vậy Nam Kỳ có địa giới từ phía bắc tỉnh Bình Thuận
trở vào. Với việc nhượng Bình Thuận cho Pháp, món nợ mà Việt Nam còn thiếu
của Pháp coi như đã được thanh toán xong (điều 26) (món nợ đây là khoản chiến
phí 280 vạn lạng bạc tương đương 4 triệu đô la Mỹ mà Pháp buộc Triều đình Huế
phải trả cho liên quân Pháp - Tây Ban Nha trong hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862).
Đưa tỉnh Bình Thuận vào địa giới Nam Kỳ và coi hành động này là “Nhượng Bình
Thuận cho Pháp”, lời khẳng định trong hiệp ước như một lời tuyên bố đất Nam Kỳ
thực sự là của nước Pháp chứ không còn là của nước Việt Nam nữa. Nam Kỳ thuộc
sự quản lý của Bộ Thuộc địa và Hải quân Pháp. Năm 1879, Bộ Thuộc địa tách khỏi
Bộ Hải quân, Nam Kỳ trực thuộc Bộ Thuộc địa Pháp.
Tuy không du nhập hoàn toàn vào thuộc địa những thể chế cơ bản của nền dân
chủ tư sản, song đặc biệt với Nam Kỳ, một xứ được cai trị theo quy chế thuộc địa,
hơi hướng của nền dân chủ tư sản phương Tây cũng được thể hiện phần nào.
Có thể thấy, từ một vùng đất thuộc quyền quản lý và cai trị của triều đình nhà
Nguyễn, sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của Pháp, với các hiệp ước ký giữa
triều Nguyễn và thực dân Pháp, quyền lực nhà nước ở Nam Kỳ giờ đây hoàn toàn
nằm trong tay GCTS Pháp mà thực dân Pháp ở Nam Kỳ là lực lượng đại diện trực
tiếp. Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam không còn chút quyền lực nhà nước nào
55
với vùng đất này. Nam Kỳ từ chỗ được cai trị bởi một nhà nước quân chủ phong
kiến chuyên chế tuyệt đối đã chuyển sang là đối tượng cai trị của một nhà nước
cộng hoà tư sản phương Tây mà trực tiếp là bộ máy cai trị của tư sản thực dân Pháp
ở Nam Kỳ đứng đầu là thống đốc người Pháp. Trên vùng đất này, cách tổ chức và
quản lý xã hội theo trật tự phong kiến đã bị thay thế bởi một cách tổ chức và quản lý
xã hội hoàn toàn mới mẻ theo kiểu dân chủ tư sản phương Tây. Đây là một sự biến
đổi lớn về chính trị trên xứ Nam Kỳ. Là đất thuộc địa, là dân thuộc địa, dù được cai
trị theo quy chế gần giống một địa phương của nước Pháp, Nam Kỳ cũng không thể
nào trở thành một “địa phương” bình đẳng với các địa phương khác của Pháp được.
a2. Thực dân Pháp thâu tóm quyền lực của vương triều ở Bắc Kỳ, Trung
Kỳ và tổ chức cai trị
Sau khi thôn tính Nam Kỳ, thực dân Pháp thâu tóm quyền lực của Vương
triều ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và tổ chức cai trị hai xứ này theo đường lối bảo hộ.
Sau khi thôn tính được Nam Kỳ, thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược
ra Bắc Kỳ và cả nước. Chúng đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (năm 1873), đánh Bắc Kỳ
lần thứ hai (năm 1882). Lợi dụng việc vua Tự Đức băng hà (7-1883), triều đình rối
loạn vì suy tôn vua mới, tháng Tám-1883, Pháp đã tấn công cửa biển Thuận An, cổ
họng của Kinh thành Huế. Thuận An thất thủ. Triều đình đã lùi từng bước trước đội
quân xâm lược và kết quả là liên tiếp trong 2 năm, triều đình đã ký với Pháp 2 hiệp
ước bán nước. Với hiệp ước Hác Măng ký năm 1883 (hiệp ước Quý Mùi) và hiệp
ước Patơnốt ký năm 1884 (hiệp ước Giáp Thân), thực dân Pháp đã hoàn tất việc
thôn tính Việt Nam từ Bắc chí Nam.
Về cơ bản, với hiệp ước Hác Măng [200] ký giữa Pháp với triều đình Huế,
Pháp đã thôn tính được toàn bộ đất nước ta. Hiệp ước Patơnốt sau này chỉ có vài
thay đổi nhỏ so với hiệp ước Hác Măng. Một bản hiệp ước 27 điểm (hiệp ước Hác
Măng) Pháp soạn thảo sẵn theo ý đồ chính trị của mình, ép Triều đình Huế ký trong
thế hoàn toàn bị động (thua về quân sự, triều chính đang hỗn loạn,...) đã quyết định
vận mệnh của toàn dân tộc Việt Nam.
Với hiệp ước Hác Măng, nước Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp
56
(điều1). Việt Nam bị chia thành ba xứ với ba chế độ chính trị khác nhau, như ba
nước riêng biệt. Địa giới các kỳ thời Minh Mạng đã bị Pháp thay đổi.
Về quy chế cai trị, xứ Trung Kỳ (An Nam) và xứ Bắc Kỳ là hai xứ bảo hộ. Ở
hai xứ này vẫn do Hoàng đế An Nam trị vì nhưng phải đặt dưới sự bảo hộ của Pháp.
Ở Bắc Kỳ là chế độ bảo hộ trực tiếp còn Trung Kỳ là chế độ bảo hộ gián tiếp. Ở
đây, hệ thống hành chính bản xứ được duy trì, người Pháp cai trị gián tiếp qua
ngạch quan lại Việt. Điều đó có nghĩa là ở hai xứ này có hai hệ thống chính quyền
cùng tồn tại, một hệ thống của thực dân Pháp và một hệ thống của người bản xứ tồn
tại trong quan hệ phụ thuộc với hệ thống của thực dân Pháp.
Trên danh nghĩa là hai xứ bảo hộ, truy nhiên trên thực tế, ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, chính sách của Pháp rất nhập nhèm và hoàn toàn không rõ ràng là bảo hộ hay
thuộc địa dù về mặt hình thức bộ máy Nam Triều vẫn được thừa nhận trên danh
nghĩa. Nói như Phạm Quỳnh: “Bắc Kỳ (cả Trung Kỳ cũng tương tự như vậy) là xứ
mà người ta đã gọi là “một xứ bảo hộ pha tạp” hay một “thuộc địa-bảo hộ”, nghĩa là
đó là một xứ bảo hộ ở đó được áp dụng các phương thức quản lý trực tiếp, hoặc là
một xứ bảo hộ đang trên đường trở thành một thuộc địa” [129, tr.351].
Về cơ cấu quyền lực nhà nước ở hai xứ này, Bắc Kỳ, từ Hà Tĩnh trở ra, có một
trú sứ (sau này gọi là thống sứ) ở Hà Nội, một trú sứ ở Hải Phòng. Mỗi tỉnh duyên
hải hay tỉnh lớn cũng có một trú sứ (sau này gọi là công sứ). Các trú sứ không tham
dự chi tiết vào công việc nội bộ của các tỉnh nhưng có quyền kiểm soát quan Việt
Nam các hạng và có thể thuyên chuyển những ai có thái độ hay hành động không
tốt với các quan chức Pháp (điều 12,14). Các trú sứ có quyền hành và nghĩa vụ rất
lớn: có quân lính để giữ gìn an ninh; có Bố chánh giúp việc để thông qua quy chế
thuế khoá, kiểm soát việc thu thuế và sử dụng số thuế thu được; kiểm soát việc tuần
phòng của quan Việt Nam; là cầu nối trong giao dịch công vụ giữa các quan lại,
viên chức Pháp với nhà cầm quyền Việt Nam; có quyền xử các vụ án dân sự,
thương mại, tiểu hình sự có yếu tố của người nước ngoài ở Việt Nam; có toàn quyền
sắp đặt và cai trị việc thương chính…
Với Trung Kỳ (An Nam), từ Đèo Ngang đến địa giới phía bắc tỉnh Bình Thuận,
57
sẽ “tự cai trị lấy như cũ”, không có sự kiểm soát của nước Pháp ngoại trừ việc công
chánh, thương chánh và những việc cần chủ trương hợp nhất hoặc tư vấn kỹ thuật của
người châu Âu (điều 6). Như vậy Nam Triều (Triều đình nhà Nguyễn) vẫn được duy
trì để “cai trị” An Nam (Trung Kỳ). Thực tế, “tháng 10-1897 Triều đình bù nhìn cũng
phải ra một điều ước cam kết nhượng cho thực dân Pháp quyền khai khẩn đất hoang.
Tiếp đó với Nghị định 01-5-1900 đã phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất trong luật
pháp phong kiến, quyền sở hữu tối cao về ruộng đất trước kia thuộc nhà Vua nay bị
bãi bỏ và chuyển sang cho “Nhà nước bảo hộ”” [72, tr.179]. Các quyền về quân sự,
đặc biệt về ngoại giao Pháp gần như thâu tóm toàn bộ. Nam Triều phải gọi hết quân
đội đã đem ra Bắc Kỳ về để thực hiện hoà bình (điều 4), Pháp được quyền đóng quân
ở những nơi Pháp muốn. Tổng uỷ viên Pháp chủ trương việc ngoại giao cho nước
Nam (điều 11). Tại Huế có một Khâm sứ là đại diện cho Chính phủ bảo hộ, trông
nom việc thi hành hiệp ước và giao dịch với Nam triều. Sau khi ép thành Thái ra đạo
dụ ngày 27-9-1897, toàn bộ quyền cai trị giao cho toà Khâm sứ.
Như vậy ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, trên danh nghĩa là hai chính quyền của người
bản xứ và của thực dân Pháp cùng tồn tại, cùng hoạt động và cai trị Việt Nam. Tuy
nhiên, với những quy định trong hiệp ước Hác Măng như trên thì quyền lực thực tế
nằm trong tay thực dân Pháp, quyền lực của Triều đình ở đây chỉ còn tồn tại trên
danh nghĩa mà thôi. Hệ thống quan lại người Pháp có quyền kiểm soát, chi phối hệ
thống quan lại người Việt. Thực chất, với những quy định của hiệp ước Hác Măng,
các quyền đối nội, đối ngoại cơ bản của Việt Nam đều do thực dân Pháp chi phối.
Từ lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, an ninh quốc phòng đến lĩnh vực
ngoại giao đều do Pháp quyết định. Các chính quyền tồn tại và hoạt động trên cơ sở
nguồn tài chính chủ yếu là thuế. Nhưng, quy chế thuế khoá, việc thu thuế và sử
dụng thuế ở Bắc Kỳ theo hiệp ước này hoàn toàn do Pháp quyết định. Số thuế thu
được sẽ được trích giao một phần cho chính phủ Việt Nam.
Hiệp ước Patơnôt [200](1884) ký giữa triều Nguyễn và thực dân Pháp cơ bản
giống với hiệp ước Hác Măng. Hiệp ước này hoàn thiện việc biến nước ta thành
thuộc địa của Pháp, xác định rõ vị thế của nhà Nguyễn bên cạnh chính quyền thực
58
dân Pháp.
Với hiệp ước Patơnôt, địa giới các kỳ được điều chỉnh lại: Bắc Kỳ, xứ bảo hộ,
chỉ còn lại từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình trở ra tới biên giới Việt - Trung (bị
thu hẹp lại); Trung Kỳ, xứ bảo hộ, từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình đến địa giới
phía nam tỉnh Bình Thuận (được mở rộng ở cả hai đầu Bắc, Nam); Với việc điều
chỉnh lại địa giới các kỳ như trên, địa phận các kỳ trở lại y nguyên như quy định của
vua Minh Mạng trước đây. Nếu như trong hiệp ước Hác măng ký năm 1883, nhập
tỉnh Bình Thuận vào Nam Kỳ thuộc Pháp, món nợ chiến phí của Việt Nam với Pháp
coi như được thanh toán xong thì ngay một năm sau đó, với hiệp ước Patơnốt, Bình
Thuận lại được “trả lại” cho Trung Kỳ của Nam Triều. Thực chất, dù có được gọi
tên là gì đi nữa: thuộc địa hay bảo hộ, thì quyền lực nhà nước trên toàn đất nước
Việt Nam giờ đây nằm trong tay thực dân Pháp. Sự điều chỉnh địa giới các kỳ lúc
này thực ra chỉ là một trò hề chính trị nhằm mị dân mà thôi.
Nam Kỳ, xứ thuộc địa, từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào (thu hẹp
lại). Nam Triều được quyền cai trị vương quốc An Nam chỉ trên danh nghĩa. Với
hiệp ước này Pháp đã thâu tóm quyền lực nhà nước về tay mình, cơ bản xoá bỏ
quyền lực của chế độ phong kiến Việt Nam. Các vua triều Nguyễn sau này tồn tại
như những con bài cho sự vận hành guồng máy cai trị của CNTD. Trong hiệp ước
này, Pháp đặt chức Tổng trú sứ thay cho chức trú sứ ở Huế trước kia. Tổng trú sứ
nắm toàn bộ quyền hành của viên trú sứ ở Huế trước đây và chỉ đạo mọi hoạt động
của các viên công sứ Pháp đứng đầu các tỉnh ở Bắc Kỳ nên Tổng trú sứ thường
được gọi là Toàn quyền lưỡng kỳ. “Vua Việt Nam” phụ thuộc một vị công chức cao
cấp của Bộ Thuộc địa Pháp - Viên Toàn quyền.
Như vậy, cùng với các sự kiện nổi bật về quân sự, các hiệp ước được ký kết
giữa thực dân Pháp và triều Nguyễn đã khẳng định sự thắng thế của thực dân Pháp
với Triều đình phong kiến Việt Nam. Tổ chức manh nha của chính quyền thuộc địa
dần được thiết lập, bắt đầu từ ba tỉnh miền Đông vào năm 1862, tiếp đến ba tỉnh
miền Tây vào năm 1874 và tới năm 1884 trên phạm vi cả nước.
59
a3. Thực dân Pháp chấm dứt ảnh hưởng của Triều đình Bắc Kinh với nhà
Nguyễn
Cùng với quá trình thâu tóm dần quyền lực nhà nước từ vua quan nhà Nguyễn
về tay mình là quá trình thực dân Pháp chấm dứt ảnh hưởng của triều đình Bắc
Kinh.
Trong nhiều thế kỷ tồn tại của chế độ phong kiến Việt Nam cho đến trước khi
thực dân Pháp xâm lược nước ta, quyền lực nhà nước ở Việt Nam chủ yếu nằm
trong tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam mà triều đình phong kiến là lực
lượng đại diện. Tuy nhiên, quyền lực này chịu sự ảnh hưởng ít nhiều của triều đình
Bắc Kinh, lúc đó là triều Mãn Thanh.
Sự xâm lược của Pháp tới Việt Nam đã “động chạm” tới cả hai hệ thống quyền
lực này. Với các bước tiến về quân sự của Pháp trên cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam của
Việt Nam mà kết quả là các hiệp ước giữa Việt Nam với Pháp (vào các năm 1862,
1874, 1883, 1884), về cơ bản Pháp đã thâu tóm được hệ thống quyền lực thứ nhất.
Mặt khác, sự xâm lược của Pháp với Việt Nam, đặc biệt hai lần đánh Bắc Kỳ,
Pháp đã đe doạ trực tiếp tới quyền tôn chủ của Trung Hoa đối với Việt Nam, thậm
chí vùng biên giới Trung Hoa giáp Việt Nam có thể bị Pháp đe doạ. Do đó, nhân
việc nhà Nguyễn sai sứ thần sang cầu viện nhà Thanh đánh Pháp, phong kiến Trung
Quốc không ngần ngại đưa quân sang Việt Nam nhằm các mục tiêu chính trị của
mình. Cuộc chiến Pháp - Thanh bùng nổ (1884-1885) đan xen với cuộc chiến Pháp -
Việt ngay sau hiệp ước Patơnôt. (ở đây Triều đình nhà Nguyễn đầu hàng nhưng
nhân dân Việt Nam vẫn ngoan cường chống trả quân xâm lược). Pháp đã chiến
thắng trong cuộc chiến Pháp - Thanh và làm chủ toàn bộ Bắc Kỳ. Để khẳng định
chính thức quyền lực của mình trên toàn cõi Việt Nam, Pháp đã ký với nhà Thanh
Hoà ước Thiên Tân 1885. Hiệp ước này đã loại bỏ nhà Thanh khỏi vấn đề Việt
Nam, buộc nhà Thanh phải thừa nhận quyền thống trị của Pháp ở Việt Nam. Sau khi
ký với nhà Nguyễn hiệp ước Patơnôt và trước khi kí với nhà Thanh hoà ước Thiên
Tân, Pháp cũng đã buộc nhà Nguyễn phải nấu chảy chiếc ấn bạc của phong kiến
phương Bắc cấp cho Gia Long trong lễ phong vương - một biểu tượng của sự lệ
60
thuộc của Nam Triều vào Triều đình Mãn Thanh - nhằm buộc nhà Nguyễn xoá bỏ
mọi quan hệ ràng buộc với Trung Quốc. Như vậy, quyền lực của Pháp ở Việt Nam
đã được khẳng định sau khi loại bỏ, phủ nhận cả hai hệ thống quyền lực trên. Tiếp
theo, với Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh 1895, Pháp đã
hoàn tất việc phân định biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc nhằm khẳng định
địa giới bảo hộ của mình.
Như vậy, sau một loạt hiệp ước được ký kết giữa thực dân Pháp với nhà
Nguyễn của Việt Nam và giữa thực dân Pháp với nhà Mãn Thanh của Trung Hoa,
thực dân Pháp đã thâu tóm được quyền lực nhà nước trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
b. Thực dân Pháp khẳng định vai trò là lực lượng nắm giữ quyền lực nhà
nước ở Việt Nam và tổ chức, hoàn thiện bộ máy cai trị
b1. Thực dân Pháp hoàn thiện bộ máy cai trị theo lãnh thổ (các Kỳ) sau
1884 và tổ chức bộ máy cai trị các cấp từ trung ương đến địa phương
Trong quá trình thâu tóm dần quyền lực nhà nước từ giai cấp địa chủ phong
kiến Việt Nam về tay mình trước 1884, giai cấp tư sản Pháp cũng đã từng bước tổ
chức cai trị ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Quá trình tổ chức cai trị theo lãnh thổ
ngày càng được thực dân Pháp củng cố và hoàn thiện sau năm 1884.
Sau 1884, Pôn Đume là người thiết kế thực sự cho chế độ thuộc địa Pháp ở
Đông Dương, người được đánh giá là đã“đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh
nghiệm chủ nghĩa hầu như “thủ công" sang giai đoạn tổ chức hệ thống. Chính ông
đã tạo dựng bộ máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong thực tế
sẽ được duy trì nguyên vẹn đến tận 1945” [208], đã “đánh đòn quyết định vào chủ
quyền thống nhất vốn có của Việt Nam”, tăng cường đáng kể quyền lực của GCTS
Pháp trong tương quan so sánh với quyền lực của giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam so với hiệp ước Patơnốt 1884.
Với Bắc Kỳ, viên Thống sứ - người đứng đầu hệ thống chính quyền thực dân
Pháp ở Bắc Kỳ- được Toàn quyền Đông Dương uỷ thác toàn bộ hoặc một phần
quyền lực của mình để chủ động trong việc cai trị Bắc Kỳ về mọi mặt. Triều đình
Huế chỉ còn chút quyền ban phẩm hàm cho quan chức địa phương nhưng cũng phải
61
qua Phủ thống sứ. “Đối với hệ thống quan lại người Việt ở Bắc Kỳ thuộc quyền
quản lý của Triều đình Huế thì thống sứ Bắc Kỳ cũng thông qua viên Kinh lược Bắc
Kỳ… để phát huy quyền lực thực dân của mình” [127, tr.139]. Sau này, khi bãi bỏ
chức Kinh lược thì thống sứ đã “thực sự khống chế toàn bộ giới quan lại người Việt
ở Bắc Kỳ”. Đó chính là hai bước của một thủ đoạn nham hiểm, mị dân: Đặt chức
Kinh lược Bắc kỳ và bãi bỏ chức này, chuyển toàn bộ chức năng của Kinh lược sứ
vào tay Thống sứ. Ngay cả những việc mà trước đó chỉ vua mới có quyền như xét
và ban cấp phẩm hàm thì sau này thống sứ Bắc Kỳ cũng thôn tính quyền đó về tay
mình. Thống sứ Bắc Kỳ có “quyền lập quy, quyền hành pháp, và quyền tư pháp ở
Bắc Kỳ” [127, tr.140]. Thực chất, với các bước đi rất bài bản như trên, quyền lực
của Nam Triều với Bắc Kỳ cũng đã bị thực dân Pháp loại bỏ dần dần.
Với Trung Kỳ, quyền lực của Triều đình chỉ còn lại trong phạm vi xứ Trung
Kỳ. Tuy nhiên, quyền lực này thực chất cũng chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Bằng các
thủ đoạn chính trị nham hiểm, thực dân Pháp dần thâu tóm quyền lực đối với xứ
Trung Kỳ vào tay viên Khâm sứ Pháp (gần giống thống sứ Bắc Kỳ). Khâm sứ
Trung Kỳ không chỉ chi phối Phủ Tôn nhân, Viện Đô sát mà còn nắm toàn bộ tài
chính, trả lương cho Nam triều, chi phối lục bộ [103, tr.226, 227]. Khâm sứ thậm
chí còn duyệt các đạo dụ vua ban trước khi nó được ban bố ra công chúng. Trên cơ
sở pháp lý là các hiệp ước đã ký giữa triều Nguyễn và thực dân Pháp, cùng với việc
củng cố bộ máy hành chính, Pháp tăng cường các lực lượng quân sự và nắm hết các
quyền chỉ huy quân đội cả Pháp và Việt.
Nam Kỳ trực trị gần như trở thành một nước khác tách khỏi Việt Nam, bộ máy
cai trị ở xứ này ngày càng được hoàn thiện theo mô hình của nền chính trị tư sản
phương Tây.
Tóm lại, trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp thực chất nằm trong tay thực dân Pháp, Triều đình phong kiến nhà Nguyễn chỉ
còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn chút quyền lực thực tế nào mà là tay sai của
thực dân để nô dịch, áp bức nhân dân ta.
Quá trình tổ chức cai trị từ trung ương đến địa phương được thực dân Pháp
62
tiến hành đồng thời với tổ chức cai trị theo lãnh thổ.
Tại Nam Kỳ, thực dân Pháp đã hành động giống như nhận định của Mác, Ăng
ghen: “Bất cứ ở chỗ nào mà GCTS chiếm được chính quyền thì nó đạp đổ những
quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên. Tất cả những mối liên hệ phức tạp và
muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến với “những bề trên tự nhiên”
của mình đều bị GCTS thẳng tay phá vỡ [88, tr.599,600]. Tại đây, bộ máy cai trị từ
trung ương đến địa phương được tổ chức như một tỉnh của nước Pháp. Bộ máy cai
trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ được tổ chức tới tất cả các cấp. Đứng đầu bộ máy
cai trị này là Thống đốc Nam Kỳ và một loạt cơ quan phụ tá. Về mặt hành chính,
Nam Kỳ được chia thành tỉnh, thành phố. Tỉnh ở Nam Kỳ không chia thành phủ -
huyện như trước đây mà lập một số trung tâm hành chính (một cấp đơn vị hành
chính chưa hoàn chỉnh) và chia thành các tổng. Tổng lại được chia thành xã. Các
nhân vật đứng đầu các cơ quan hành chính này được tuyển qua các cuộc thi công
chức, được xếp vào ngạch hành chính và ăn lương của nhà nước Pháp.
Tuy nhiên, tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, thực dân Pháp không xoá bỏ chính quyền
phong kiến cũ mà duy trì chính quyền này, ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, đồng thời
thiết lập thêm một hệ thống chính quyền do thực dân trực tiếp cai trị. Chúng tổ chức
bộ máy cai trị kiểu “tuy hai mà một” [127, tr.175]- hai hệ thống chính quyền cùng
thực hiện một mục tiêu chính trị. Thực dân Pháp đã thực thi “chính sách “Hợp tác”
nhằm lấn dần đất, chiếm dần quyền, biến vua quan Nam Triều thành công cụ thống
trị của chúng ở cấp chính quyền Trung ương” [127, tr.245].
Ở cấp phủ, huyện, đạo, châu (ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ) thì “trước năm 1919, tỉnh
được chia thành phủ, phủ chia thành huyện hay đạo hoặc châu (ở miền núi). Từ năm
1818, phủ, huyện, đạo, châu đều là cấp hành chính tương đương nhau” [2, tr.228].
Quản lý ở cấp này đều là chính quyền phong kiến. Tuy nhiên, bằng nhiều cách khác
nhau, giới cầm quyền thực dân Pháp cũng dần thâu tóm việc bổ dụng, thuyên
chuyển, thăng giáng đội ngũ quan lại ở cấp này mà trước đây vốn thuộc thẩm quyền
của Vua nhà Nguyễn.
Tuy nhiên, ở cấp làng xã (ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ), thực dân Pháp đã “duy trì một
63
cách trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ kỹ” của làng xã phục vụ cho sự
cai trị của chúng. Vì theo cách nhận định của các tên thực dân cáo già về tổ chức làng
xã của Việt Nam thì “mỗi làng xã sẽ là một nước cộng hoà nhỏ, độc lập trong giới
hạn những quyền lợi địa phương... được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỷ luật, rất có
trách nhiệm với chính quyền cấp trên” [127, tr.226, 227]. Với những đặc điểm như
vậy, duy trì tổ chức hành chính cấp xã sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự duy trì trật tự
và đảm bảo cho những hoạt động mang tính chất lợi ích xã hội, giảm bớt khó khăn và
giảm bớt tốn kém trong việc thu các loại thuế trực thu, tránh được một sự tiếp xúc
trực tiếp giữa chính quyền của người Pháp với dân chúng [127, tr.227].
Thực dân Pháp đã can thiệp vào tổ chức quản lý cấp xã ở Việt Nam, làm lung
lay rường cột của xã hội Việt Nam truyền thống một cách khá tinh vi. Bằng chính
sách “Cải lương hương chính” (hay chính là việc tổ chức lại bộ máy hành chính xã),
thực dân Pháp đã “nắm quyền giám sát và kiểm soát tối cao về nhân sự bộ phận
quyết nghị cấp xã”, “ giám sát và kiểm soát mọi hoạt động nội bộ của xã”, “quyết
định việc lựa chọn lý, xã trưởng”[127, tr.230, 234]- “chiếc ổ khoá” để thâm nhập
vào cơ chế quản lý và hoạt động của xã thôn Việt Nam. Điều đặc biệt tinh vi và
hiểm độc của thực dân Pháp là thông qua việc giám sát và kiểm soát mọi hoạt động
nội bộ của xã, chúng đã can thiệp vào cơ sở kinh tế của làng xã là khu vực “bản xã
công điền công thổ”- tức tài sản riêng của tập thể làng xã. Dưới sự cai trị của Pháp,
Hội đồng Kỳ mục của xã chỉ có quyền quản lý số tài sản này, còn chính quyền thực
dân Pháp có toàn quyền sử dụng (Cho thuê, cho lĩnh canh hoặc bán...). Như vậy, các
cơ quan quyết nghị, cơ quan chấp hành của làng xã cuối cùng đều nằm dưới sự chi
phối của thực dân Pháp. Sự tồn tại khá bền vững của tổ chức chính quyền cấp xã là
một biểu trưng quyền lực chính trị thực sự của người dân Việt cuối cùng đã bị thực
dân Pháp phá vỡ một cách tinh vi.
Như vậy, với Bắc Kỳ và Trung Kỳ, ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, có hai hệ
thống chính quyền tồn tại: Chính quyền phong kiến bản xứ và chính quyền thực
dân. Tuy nhiên, ở cấp làng xã, chỉ duy nhất có chính quyền phong kiến bản xứ hoạt
động dưới sự chi phối và can thiệp của thực dân. Một hệ thống chính quyền được
64
cấu thành từ hai bộ phận: Chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai cho chính
quyền thực dân là một cách rất hiệu quả để giai cấp tư sản Pháp tối đa hoá quyền
lực thực dân của chúng trên đất nước ta.
Có thể thấy, với sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của thực dân Pháp, quyền
lực nhà nước ở Việt Nam từ tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam đã dần
chuyển sang tay GCTS Pháp mà thực dân Pháp ở nước ta là kẻ đại diện trực tiếp.
Tuy nhiên, GCTS Pháp không du nhập hoàn toàn mô hình nhà nước Pháp ở chính
quốc vào thuộc địa Việt Nam. Trên cơ sở đặc điểm riêng của từng vùng, Thực dân
Pháp đã chia Việt Nam thành ba kỳ với ba quy chế pháp lý hay ba chế độ chính trị
khác nhau. Kiểu nhà nước phong kiến đã dần chuyển sang một kiểu nhà nước có
tính chất tư sản (đặc biệt ở Nam Kỳ) với những nét đặc thù trong điều kiện tồn tại ở
một nước thuộc địa. Nhà nước quân chủ phong kiến chuyên chế đã nhường chỗ cho
nhà nước thực dân phong kiến - một nhà nước “lưỡng thể về chính trị”, một nhà
nước có sự kết hợp và pha trộn của hai tính chất phong kiến và tư sản. Cách tổ chức
và thực thi quyền lực nhà nước có nhiều thay đổi so với thời kỳ phong kiến trước
đây. Nhà nước từ chỗ là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến để nô dịch và bóc
lột nhân dân (chủ yếu là nông dân) trở thành công cụ của thực dân, phong kiến nô
dịch, áp bức toàn thể nhân dân Việt Nam, làm giàu cho bọn thực dân xâm lược và
phong kiến bản xứ.
b2. Thành lập Liên bang Đông Dương và Bộ Thuộc địa
Việc thành lập Liên bang Đông Dương thuộc Pháp trong đó có ba kỳ của
Việt Nam đánh dấu cho việc chính thức xác lập bộ máy chính quyền thuộc địa trên
toàn đất nước Việt Nam. Đó là một cách mà giai cấp tư sản Pháp với lực lượng đại
diện là bọn thực dân Pháp ở Đông Dương khẳng định vai trò là lực lượng nắm giữ
quyền lực nhà nước ở Đông Dương và Việt Nam.
Sau khi thôn tính được toàn bộ Việt Nam bằng hiệp ước Patơnôt (1884), ba năm
sau, vào năm 1887, Pháp thành lập Liên bang Đông Dương (Indochine Francaise -
Liên bang xứ bảo hộ và thuộc địa) còn gọi là Đông Dương thuộc Pháp hoặc xứ
Đông Pháp. (Chú ý rằng về mặt địa lý, tên gọi Đông Dương - Indochine còn có thể
65
bao gồm cả Thái Lan, Miến Điện và Mã Lai. Liên bang Đông Dương ở đây không
hiểu theo nghĩa này). Liên Bang Đông Dương gồm các xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ, Ai Lao, Cao Miên và vùng nhượng địa Quảng Châu Loan.
Chính quyền Liên Bang được giai cấp tư sản Pháp tổ chức khá quy củ với
những quyền hạn như: Liên lạc với chính quốc, thay mặt các xứ trong ứng xử ngoại
giao, điều hành quân đội và các quyền về tài chính. Triều đình Huế lĩnh lương từ
Chính phủ Bảo hộ. Đặc biệt viên Toàn quyền Đông Dương - chức vụ đứng đầu
trong Liên Bang Đông Dương, là người đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Pháp,
hành xử như một nguyên thủ, là người có uy quyền cực lớn. Viên Toàn quyền là
người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Nam Kỳ.
Riêng với Bắc Kỳ và Trung Kỳ thì Hoàng đế nhà Nguyễn vẫn là người có quyền tối
thượng, tuy nhiên hoàn toàn trên danh nghĩa. Cả ba nhân vật đứng đầu ba kỳ gồm
Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ đều nằm dưới quyền
giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền. Khâm sứ Trung Kỳ có thể được
Tổng uỷ viên Pháp giao toàn bộ uy quyền hoặc một phần uy quyền về ngoại giao.
“Những người vì lý do khoa học hay lý do khác muốn du lịch trong nước Việt Nam
chỉ được phép do Khâm sứ Pháp ở Huế, Thống đốc Nam Kỳ hay Tổng uỷ viên của
chính phủ Pháp ở Bắc Kỳ làm môi giới xin cho mà thôi, khi họ được giấy phép thì
phải trình lên chính phủ Việt Nam kiểm nhận” (điều 21, hiệp ước Hác Măng).
Khi Liên bang Đông Dương ra đời năm 1887, “chính quyền thuộc địa được xác
định một cách thống nhất về mô hình, cơ cấu tổ chức, về chỉ đạo về phương thức
hoạt động” [127, tr.275]. Đó là “mốc chuyển hoá của chính quyền phong kiến vào
phạm trù chính quyền thuộc địa” [127, tr.275]. Có thể thấy, dù ba kỳ ở Việt Nam
được cai trị theo ba quy chế có tên gọi khác nhau: Nam Kỳ - Thuộc địa, Bắc Kỳ -
Bảo hộ trực tiếp, Trung Kỳ - Bảo hộ gián tiếp nhưng thực chất, chính quyền nhà
nước ở ba kỳ đều thuộc phạm trù chính quyền thuộc địa.
Như vậy, có thể thấy, nguyên tắc tập trung quyền lực trong tay Vua nhà Nguyễn
trước đây, sau khi Việt Nam bị Pháp thôn tính, đặc biệt sau khi Liên bang Đông
Dương ra đời, đã chuyển sang “nguyên tắc tập trung quyền lực trong tay người
66
Pháp” [167, tr.245]. “Nếu chính sách chia để trị là hình thức thì nguyên tắc tập
trung quyền lực là nội dung của phương thức cai trị… Sự kết hợp đó là sự kết hợp
giữa tính hình thức và tính thực chất của phương thức cai trị” [167, tr.426]
Việt Nam từ một quốc gia thống nhất với một bộ máy nhà nước duy nhất trong
cả nước dưới thời nhà Nguyễn độc lập giờ bị chia thành “ba quốc gia” tương ứng
với ba Kỳ với các quy chế cai trị khác nhau, với ba hệ thống chính quyền cho mỗi
Kỳ là bộ phận của chính quyền Liên bang Đông Dương. Và chính quyền Liên bang
Đông Dương cũng chỉ là yếu tố cấu thành của chính quyền của GCTS Pháp. Cơ cấu
tổ chức quyền lực ở Việt Nam lúc này nằm trong cơ cấu quyền lực của nhà nước
Pháp với nền cộng hoà thứ ba, bị chi phối bởi khung chế định của Hiến pháp nền
cộng hoà thứ ba (1875). Đã có một sự thay đổi lớn trong hình thức cấu trúc nhà
nước ở Việt Nam.
Việc thành lập Bộ Thuộc địa là một minh chứng rõ ràng hơn cho việc cả ba
Kỳ của Việt Nam dù quy chế cai trị khác nhau nhưng đều là thuộc địa của thực dân
Pháp. Trước đây, Nam Kỳ thuộc Bộ Thuộc địa và Hải quân, sau này bộ này tách ra
thành Bộ Thuộc địa và Bộ Hải quân thì Nam Kỳ thuộc Bộ Thuộc địa. Trước đây
Bắc Kỳ, Trung Kỳ thuộc Bộ Ngoại giao, khi Bộ Thuộc địa ra đời, Bắc Kỳ, Trung
Kỳ cũng chuyển sang trực thuộc Bộ Thuộc địa. Việc đưa Bắc Kỳ, Trung Kỳ cùng
với Nam Kỳ nằm dưới sự quản lý của Bộ Thuộc địa không chỉ tạo thuận lợi cho
Pháp trong quá trình cai trị Việt Nam mà đây còn là những bước đi hết sức bài bản,
có chủ đích của thực dân Pháp nhằm che đậy bản chất xâm lược núp dưới chiêu bài
“khai hoá văn minh” của chúng.
c. Vài nét so sánh chính trị thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương, Việt
Nam với chính trị thuộc địa của thực dân Anh ở Ấn Độ
Có thể thấy, sau khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thôn tính, Pháp đã
áp đặt một nền chính trị, một phương thức cai trị không giống như nền chính trị mà
thực dân Anh thiết lập ở Ấn Độ thời thuộc Anh.
Trước hết, thực dân Anh cai trị Ấn Độ theo kiểu trực tiếp trong khi Pháp thực
hiện chính sách chia để trị một cách triệt để, cai trị cả theo cách trực tiếp lẫn
67
gián tiếp. Lý giải điều này phải xuất phát từ hai yếu tố đó là đặc điểm của bản thân
kẻ thống trị và đặc điểm của dân tộc thuộc địa.
Chế độ thuộc địa với quy chế cai trị trực tiếp là một mô hình mà nhiều nước đế
quốc áp dụng cho các vùng lãnh địa dưới tầm kiểm soát của chúng. Sự rời rạc, lỏng
lẻo trong tổ chức xã hội của các vùng đất bị thôn tính là điều kiện thuận lợi để
CNTD có thể dễ dàng xoá đi cách tổ chức xã hội truyền thống và áp đặt một quy
chế cai trị theo kiểu trực tiếp ở đó.
Với trường hợp Ấn Độ, chính chế độ đẳng cấp nặng nề và sự phân tầng xã hội
sâu sắc cùng với “chủ nghĩa dân tộc” yếu là những yếu tố thuận lợi cho việc áp đặt
một chế độ cai trị hoàn toàn mới theo kiểu quy chế thuộc địa. Mặt khác, với kẻ xâm
lược là thực dân Anh, một tên thực dân thương mại và công nghiệp, lối kinh doanh
theo kiểu thương mại và công nghiệp đã tạo ra cách tư duy và ứng xử đặc thù của
Anh với các thuộc địa của của mình, đó là “độ thoáng” nhất định với thuộc địa.
Việc xoá bỏ ngay một cách khá triệt để những yếu tố bản địa và áp dụng những yếu
tố mới trong sự cai trị chính trị là một “cái gu” phổ biến của tên thực dân “phớt Ăng
Lê” này.
Trong khi đó, thực dân Pháp, một đế quốc cho vay nặng lãi có quan niệm tĩnh
hơn, muốn ổn định đến mức bảo thủ, muốn kìm giữ con nợ hoặc thuộc địa trong thế
phụ thuộc vĩnh viễn, một tên thực dân có khuynh hướng tìm cách quản lý hành
chính và thu thuế hơn là khuyến khích tự do kinh doanh [177, tr.191,192] thì việc
áp dụng một quy chế chính trị hoàn toàn mới cho vùng đất hải ngoại mà chúng
chinh phục được là điều không dễ được chúng lựa chọn. Cùng với đó, chính đặc
điểm Việt Nam là một đất nước trải dài với tính đa dạng và sự khác biệt khá rõ nét
giữa các vùng miền ở Việt Nam là một yếu tố quan trọng cho việc áp đặt quy chế
cai trị của Pháp trên đất nước ta. Thực dân Pháp - một tên thực dân cáo già - đã
nghiên cứu khá kỹ đất nước Việt Nam trước khi đặt các Kỳ của Việt Nam dưới các
quy chế cai trị khác nhau.
Chỉ với Nam Kỳ, vùng đất mới được khai phá và sát nhập vào Việt Nam sau
này, Pháp mới áp đặt quy chế thuộc địa, cai trị trực tiếp. Như thế thì có lợi hơn cho
68
việc phát huy quyền lực thực dân của Pháp, cho dù không hoàn toàn phù hợp với
tính cách bảo thủ của chúng. Từ thời các Chúa Nguyễn và sau này là Vương Triều
Nguyễn, việc mở mang bờ cõi, khai phá các vùng đất mới ở phương Nam luôn luôn
được coi trọng. Lãnh thổ quốc gia ngày càng được mở rộng. Nam Kỳ chính là một
bộ phận của vùng đất mới này. Do đó, tổ chức chính trị và hành chính tại đây chỉ
bắt đầu có từ thời nhà Nguyễn và vẫn trong tình trạng lỏng lẻo, chưa hoàn thiện,
tính ổn định của cộng đồng chưa cao. Chính vì vậy, khi thực dân Pháp tấn công
Nam Kỳ, bộ máy cai trị bản xứ nhanh chóng bị phá vỡ. Thực tế này tạo điều kiện
thuận lợi cho thực dân Pháp áp dụng và thực thi chế độ thuộc địa ở nơi đây nhằm
“chuyển biến họ dần dần theo hình ảnh của nước Pháp, bằng cách đưa vào tập tục
của họ các luật và hiến pháp của mẫu quốc” [129, tr355].
Vì sao thực dân Pháp không áp dụng với Bắc Kỳ và Trung Kỳ một quy chế cai
trị giống như Nam Kỳ? Một trong những lý do là vì Bắc Kỳ, Trung Kỳ là những
vùng đất có lịch sử lâu đời, là cái nôi của một dân tộc có bề dày truyền thống, “là
một dân tộc với ý nghĩa đầy đủ của từ này, một dân tộc đồng nhất hơn cả các dân
tộc đồng nhất, một dân tộc có tính cách, có truyền thống và thiên tài riêng, một dân
tộc từ ít nhất hai nghìn năm nay đã phát triển trong một môi trường đặc biệt, khiến
nó phân biệt rõ ràng với các dân tộc khác” [129, tr.355], một dân tộc “vẫn là chính
nó bất chấp mười thế kỷ chịu cảnh Bắc thuộc” [129, tr.355]. Một dân tộc như vậy
không dễ để thôn tính theo kiểu đồng hoá. Mặt khác, “người ta có thể bác bỏ Triều
đình và các quan lại hiện nay vào bất cứ lúc nào, nhưng sẽ rất khó để có cái thay thế
họ” [129, tr.356]. Từ thực tế lịch sử, văn hoá của Bắc Kỳ và Trung Kỳ, rõ ràng việc
giữ lại bộ máy Nam Triều cho sự cai trị của thực dân Pháp hoàn toàn rất có lợi so
với việc xoá bỏ nó đi. Do vậy, ở hai xứ này, không có gì tốt hơn là chế độ bảo hộ
tức bằng phương pháp “liên hiệp và hợp tác”. Việc áp đặt quy chế bảo hộ và nửa
bảo hộ cho các xứ này vì thế là sự lựa chọn của thực dân Pháp.
Thể chế chính trị cũng như chính sách cai trị của thực dân Anh được thiết lập
nhằm bóc lột thuộc địa bằng cách tăng cường đầu tư vào các thuộc địa, khuyến
khích tự do kinh doanh, xâm nhập về kinh tế trong khi thể chế chính trị và chính
69
sách cai trị của thực dân Pháp được xác lập chủ yếu bóc lột thuộc địa thông qua
khai thác các nguồn tài nguyên đến kiệt quệ. “Điều này cũng góp phần lý giải tại
sao những thuộc địa của Anh có quan hệ kinh tế thị trường và đầu tư phát triển hơn,
dễ dàng hội nhập vào hệ thống kinh tế- chính trị toàn cầu hơn các thuộc địa của
Pháp, Hà Lan…[177, tr.192]. Ngược lại, các thuộc địa của Pháp, sau ngày độc lập
hầu như bị kiệt quệ hoàn toàn.
Chính bởi thể chế chính trị với chính sách cai trị trực tiếp, mềm mỏng, nhân
nhượng, khôn khéo của người Anh khiến Ấn Độ và các thuộc địa khác của Anh
thường đấu tranh với mục tiêu tự trị, sau đó mới đến độc lập và các nước này đều
chấp nhận là thành viên trong khối Liên hiệp Anh sau ngày độc lập. Còn với thể chế
chính trị với chính sách cai trị khá cứng nhắc, cột chặt thuộc địa với chính quốc
của thực dân Pháp khiến các dân tộc Đông Dương không thể tin vào “nước mẹ
Pháp” và muốn giành độc lập hoàn toàn. Sau ngày giải phóng, các thuộc địa của
Pháp đều không muốn tham gia khối Liên hiệp Pháp, sau này là Cộng đồng Pháp
[177,tr.194].
Có thể thấy, sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của Pháp đã dẫn tới sự du nhập
ở mức độ nhất định thể chế chính trị của nước Pháp vào nước ta, làm biến đổi cơ
bản thể chế chính trị truyền thống Việt Nam. Dù sự du nhập với mục đích tối ưu lợi
ích thực dân song nó đã “tạo ra một quá trình tiếp thu chính thể dân chủ đại nghị từ
phương Tây, vốn là trung tâm của các cuộc cách mạng tư sản... Đây là yếu tố đảm
bảo cho các hoạt động dân chủ trong xã hội và so với chế độ phong kiến, nó tiến bộ
hơn rất nhiều” [114, tr.264,265].
2.2. Nguyên nhân biến đổi chính trị từ chính trị phong kiến sang chính trị thực
dân - phong kiến
2.2.1 Nguyên nhân trực tiếp
Ngày 01-9-1858 thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên lên bán đảo Sơn Trà (Đà
Nẵng) mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau gần 30 năm vũ trang xâm
lược, ngày 06-6-1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký với Pháp hiệp ước Patơnôt -
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. “Văn bản này cũng chính là khai tử cho
70
quyền đối ngoại, và là bản khai sinh cho quyền nội trị mang tính chất nô lệ của
chính quyền nhà Nguyễn đối với thực dân Pháp” [127, tr53]. Sau sự kiện này, thực
dân Pháp đã dần thiết lập một hệ thống chính quyền thuộc địa ở Việt Nam và Đông
Dương. Một nền chính trị thực dân - phong kiến chính thức được xác lập thay thế
cho nền chính trị phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta. Do đó,
xem xét nguyên nhân sự biến đổi chính trị này thực chất là luận giải các lý do dẫn
tới một cuộc chiến tranh xâm lược mà phần thắng thuộc về kẻ đi xâm lược - thực
dân Pháp. Các lý do này phải được xem xét từ cả 2 phía: kẻ đi xâm lược và người bị
xâm lược.
a. Sự cạnh tranh quyền lực quốc tế giữa Pháp với các nước tư bản Phương
Tây thúc đẩy Pháp xâm lược Việt Nam
Mặc dù Pháp không phải người phương Tây đầu tiên có mặt trên đất nước ta
nhưng âm mưu Pháp xâm lược Việt Nam lại xuất hiện từ rất sớm - từ những
năm đầu thế kỷ XVII. Sự cạnh tranh quyền lực quốc tế giữa các nước TBCN, đặc
biệt giữa Pháp với Anh đã dẫn đến việc đầu thế kỷ XIX, Hoàng đế nước Pháp đã
khẳng định rằng: “Sự thiết lập một căn cứ của Pháp tại vùng biển Trung Hoa về mặt
quân sự là một điều kiện rất có lợi trong trường hợp Pháp đánh nhau với nước Anh”
[72, tr28] .
Lên ngôi năm 1802, Gia Long trả ơn Giáo hội Pháp đã giúp ông ta đoạt ngôi
báu bằng cách sử dụng tới 40 người Pháp (vốn là các giáo sĩ) làm cố vấn. Những
người Pháp này tuy đã ở lại Việt Nam sinh sống và làm quan cho triều Nguyễn,
song vẫn không quên bổn phận của mình với Giáo hội và nước Pháp. Ở trong kinh
thành Huế, họ nắm hầu hết bí mật quốc gia và thực chất đã trở thành những mật
thám đắc lực của nước Pháp. Điều này tạo cơ hội vô cùng thuận lợi cho Pháp trong
việc nắm bắt những thông tin về nội tình Việt Nam cho một âm mưu xâm lược sau
này của chúng với nước ta.
Năm 1857, nước Anh đang dính líu đến cuộc nổi loạn ở Ấn Độ và do đó sẽ
không đủ sức mạnh để ngăn cản Pháp giành một bàn đạp tại Đông Nam Á. Đây là
một thời điểm đặc biệt thuận lợi. Và Pháp đã cho tàu chiến tới Đà Nẵng kiếm cớ
71
gây sự với Việt Nam. Khi được tin báo từ một giáo sĩ về tình hình Việt Nam năm
1857: “Những người Anh đang dòm ngó Đà Nẵng, họ sẽ đi trước chúng ta nếu họ
biết đề án đánh chiếm của chúng ta” [103, tr.208], Napôlêông III đã cho thành lập
Uỷ ban nghiên cứu vấn đề Nam Kỳ để “xét lại hiệp ước Vécxây” nhằm đẩy nhanh
tiến trình thực hiện mục tiêu xâm lược Việt Nam.
Khi CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN nửa sau thế kỷ XIX thì một trong
những đặc điểm quan trọng nhất của chính sách đối ngoại của các cường quốc lớn là
cuộc cạnh tranh xâm lược thuộc địa. Thực tế đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển
không ngừng trong lực lượng sản xuất (LLSX) xã hội. “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi
nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, GCTS xâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải
xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp
nơi” [88, tr.601].
Trong quá trình đó hầu hết các nước thuộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh
nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển đều trở thành món mồi béo bở của các nước đế
quốc phương Tây. Đó là thời kỳ, như Mác nói: “nông thôn phải phụ thuộc vào
thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn
minh, nó (GCTS) đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc
tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây…. GCTS lôi cuốn đến cả
những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh… nó tạo ra một thế giới theo hình
dạng của nó” [88, tr.602]. Những cuộc khủng hoảng trong lòng xã hội TBCN (điển
hình như nạn dịch thừa) được GCTS khắc phục bằng nhiều cách, trong đó có cách
bóc lột triệt để hơn nữa những thị trường cũ đồng thời chiếm những thị trường mới.
Ngay với Trung Quốc, một nước luôn tự coi mình là trung tâm của thế giới
giữa bốn bề là man di, mọi rợ, dị tộc cũng đã bị phương Tây xâu xé và đã phải
khuất phục phương Tây. Tư bản Pháp trong quá trình phát triển thành CNĐQ cho
vay nặng lãi, bị thúc ép bởi những nhu cầu của sự phát triển mới nên nhu cầu xâm
lược nước ngoài để tìm kiếm thị trường ngày càng trở nên cấp bách. Như vậy, xâm
lược thuộc địa có thể coi như là một đáp án cho bài toán được tạo ra bởi áp lực của
sự phát triển kinh tế chứ không phải nước Pháp đã vượt qua khoảng cách 15.000 km
72
để sang Đông Dương vì một điều nhân nghĩa.
Trên đà bành trướng sang phương Đông, đến giữa thế kỷ XIX, các nước đế
quốc phương Tây đã thâm nhập sâu vào các nước châu Á, đặc biệt các nước nghèo
nàn, lạc hậu, kém phát triển. Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam cũng đứng trước
nguy cơ bị xâm lược. Trong số các nước tư bản phương Tây đang nhòm ngó và lăm
le xâm lược nước ta lúc bấy giờ, Pháp là nước có nhiều “dây mơ rễ má” lâu đời với
nhà Nguyễn. Chúng có mưu đồ xâm lược nước ta từ lâu nên đã cất công tìm hiểu và
hiểu khá rõ nội tình đất nước ta. Sau khi nền Đế chế thứ hai - một hình thái chuyên
chế của GCTS Pháp - được xác lập (năm 1852) việc ráo riết đẩy mạnh xâm chiếm
thuộc địa ngày càng trở thành nội dung nổi bật trong chính sách ngoại giao của
nước Pháp. Chúng đã tiến hành chiến tranh xâm lược ở nhiều nơi trên thế giới: xâm
lược ở châu Phi (Tuynidi, Cônggô, Xênêgan, Ghinê, Tây Xuđan, Đahômây…),
cùng với các đế quốc khác xâu xé Trung Quốc. Thực chất, đó là cuộc chạy đua
giành giật thị trường giữa Pháp với các nước tư bản khác ở vùng Viễn Đông và ở
các khu vực nghèo nàn lạc hậu khác của thế giới.
Trước thái độ ngày càng nhượng bộ của triều Nguyễn, tiếp tục viện cớ phía Việt
Nam không thi hành nghiêm túc hiệp ước kí năm 1874 giữa triều Nguyễn và thực
dân Pháp, ở Pháp đã xuất hiện một trào lưu dư luận biện minh cho hành vi bành
trướng đế quốc của Pháp và thúc đẩy tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở
Đông Dương. Chủ nghĩa bành trướng này cho rằng:
Việc chinh phục thuộc địa là một vấn đề sinh tồn của nước Pháp, vì nước Pháp
chẳng là gì bên cạnh những quốc gia khổng lồ như Nga, Đức, Anh, Hoa Kỳ và
cả Trung Hoa nữa… Sự bành trướng hải ngoại như một phương tiện cho phép
nước Pháp chiếm lại địa vị của nó trên chính trường quốc tế… Chính sách
thực dân là con đẻ của chính sách kỹ nghệ, và phải làm xuất hiện nhiều lớp
người tiêu thụ mới, nếu không xã hội tân thời sẽ thất bại; chính sách thực dân
cũng cho phép nước Pháp tham dự vào việc phân chia thế giới và tạo cơ hội
truyền bá văn minh Pháp cho các dân tộc da vàng, da đen. [2, tr 85].
Tư tưởng này càng củng cố quyết tâm của thực dân Pháp vốn đang khao khát
73
thị trường là phải xâm lược bằng được thuộc địa và thúc đẩy cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam của chúng.
b. Các chính sách và ứng xử chính trị sai lầm của triều Nguyễn - cái cớ cho
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
Với âm mưu xâm lược Việt Nam được ấp ủ từ rất sớm, sau nhiều cố gắng, nỗ
lực bằng con đường hoà hảo, đàm phán ngoại giao để từng bước thâm nhập thị
trường Việt Nam không thành, thực dân Pháp quay sang sử dụng vũ lực. Và với
phương pháp mới này, vấn đề là phải tìm một lý do. Lý do đó được Pháp tìm ra
trong chính sách kinh tế và đối ngoại của Triều đình nhà Nguyễn (trực tiếp là thời
vua Tự Đức, làm vua từ 1848 đến 1883).
Một là chính sách với đạo Thiên Chúa (còn gọi là đạo Gia tô hoặc Công
giáo) của triều Nguyễn
* Trước năm 1858.
Trừ Gia Long - người trực tiếp chịu ơn các giáo sỹ phương Tây trong cuộc
cạnh tranh quyền lực và đoạt được ngôi báu - có thái độ khoan dung với đạo Thiên
Chúa trong thời gian trị vì, các đời vua tiếp sau Gia Long (Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức), trước 1858, đều có chủ trương cấm đạo Thiên Chúa cùng với chính sách
giảm thiểu đến mức tối đa các sự tiếp xúc giữa nước Việt Nam và Tây phương vì
những lý do chủ yếu sau:
Trước hết, vì không kiểm soát được tình hình trong nước cũng như hoạt động
của các cha cố trong bối cảnh đất nước loạn lạc triền miên và các cuộc nổi dậy diễn
ra khắp nơi, triều đình cho là các cha cố đã can thiệp vào chính trị. Thiên Chúa
giáo bị xem như là nguồn gốc phát sinh những sự hỗn loạn trong xã hội Việt Nam
đương thời, Thiên Chúa giáo mở đường cho đạo quân xâm lược, giáo hội tiếp tay
cho giặc, một số giáo dân không chỉ là tín đồ của đạo Thiên Chúa mà còn là kẻ phản
bội Tổ quốc.
Thứ hai, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của Thiên Chúa giáo trong một xã
hội cổ truyền phương Đông chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo như nước ta,
Triều Nguyễn cũng không phải không có lý khi lo sợ rằng Thiên Chúa giáo sẽ làm
74
lay chuyển căn bản rường cột của xã hội cổ truyền Việt Nam, đánh mất vai trò độc
tôn về tư tưởng tinh thần của học thuyết Nho giáo. Mặt khác, Thiên Chúa giáo đụng
chạm tới những vấn đề tín ngưỡng sâu xa của dân tộc Việt Nam đặc biệt tục thờ
cúng tổ tiên. Các vua nhà Nguyễn luôn coi Khổng giáo là chính đạo, coi người
phương Tây và tất cả văn hoá, văn minh của họ là man di. Thiên Chúa giáo bị nhìn
như tà đạo. Nhìn đạo Thiên Chúa qua lăng kính của Nho giáo, coi Nho giáo là
khuôn vàng thước ngọc, những gì trái với khuôn vàng thước ngọc ấy là sai, là bỏ đi,
Triều đình đã có cái nhìn khá tiêu cực về Thiên Chúa giáo. Thực tế, sự lo lắng này
cũng không phải không có lý khi phương cách truyền đạo của các giáo sĩ phương
Tây giai đoạn đầu ở nước ta cũng rất cực đoan. Trong điều kiện Việt Nam trước khi
đạo Thiên Chúa du nhập là một quốc gia đã có nền văn hoá định hình, thực tế này
làm mối lo ngại của nhà Nguyễn về sự đổ vỡ của một trật tự xã hội đã được thiết lập
từ lâu, sự biến mất của các yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc ngày càng tăng lên.
Sau nữa, các vua nhà Nguyễn (trừ Gia Long) do không có những hiểu biết nhất
định về đạo Thiên Chúa nên tin vào những thông tin hoang đường, xuyên tạc, sai
lệch, nhảm nhí, vô căn cứ về đạo này. Từ đó đưa ra chính sách cấm đạo.
Với những lý do trên, nhằm duy trì trật tự xã hội phong kiến cổ truyền và bảo
vệ hệ tư tưởng chính trị của xã hội phong kiến, chính sách với Thiên Chúa giáo
của Triều Nguyễn qua các đời vua đến trước năm 1858 là chính sách cấm đạo.
Bằng chứng là từ khi lên ngôi (1848) đến trước khi Pháp xâm lược nước ta (1858),
Tự Đức đã ban bố hàng loạt chỉ dụ cấm đạo. Tuy nhiên, Triều đình đã phạm phải
sai lầm là không phân biệt được thiểu số giáo dân lầm đường với đa số giáo dân yêu
nước, bất hợp tác với giặc. Đúng là các nhà truyền giáo phương Tây trên thực tế đã
phục vụ đắc lực cho CNTD, tuy nhiên, cái hỏng không phải ở bản thân giáo lý công
giáo mà là sự xuyên tạc và mưu đồ chính trị của các giáo sĩ thừa sai khi thực hiện
công cuộc truyền giáo. Dù rằng sau này, do tương quan so sánh lực lượng giữa ta và
Pháp quá chênh lệch, do nhu cầu cố kết cộng đồng tạo ra sức mạnh toàn dân, do sự
phát triển của nhận thức, Tự Đức và triều Nguyễn đã có cái nhìn khách quan hơn,
mềm dẻo hơn trong việc đưa ra chính sách với đạo Thiên Chúa và giáo dân. Tuy
75
nhiên, khi triều đình nhận thức được điều này thì đã là quá muộn vì thực dân Pháp
chỉ cần một cái cớ. Mà cái cớ đó chúng đã kiếm được trong chính sách với đạo
Thiên Chúa của triều Nguyễn trước thời điểm 1858.
Thực tế, chính sách cấm đạo của Triều Nguyễn không phải không có những hạt
nhân hợp lý, đúng đắn. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là thực dân Pháp đang cần tìm một
cái cớ cho hành động xâm lược. Và chính sách này, trong bối cảnh đó, trở thành
một cơ hội tốt để thực dân Pháp thực hiện mục tiêu xâm lược Việt Nam. Với lý do
bảo vệ các giáo sỹ, giáo dân, bảo vệ đạo Thiên Chúa, ngày 01-9-1858 thực dân
Pháp đã nổ súng xâm lược Việt Nam.
Tuy nhiên, bước ngoặt 1858 cũng chưa thể dẫn ngay tới biến đổi chính trị ở
Việt Nam. Diễn biến của chính sách với đạo Thiên Chúa của triều Nguyễn là một
trong những nguyên nhân luận giải cho việc Việt Nam mất nước về tay Pháp.
* Sau năm 1858.
Sau khi Pháp nổ sung xâm lược Việt Nam (1858), cho tới trước năm 1862, về
cơ bản, chính sách cấm đạo của triều Nguyễn vẫn tiếp tục được duy trì với mức
độ ngày càng gay gắt hơn. Tuy nhiên sau khi Pháp đã chiếm được ba tỉnh miền
đông Nam Kỳ, thì từ 1862, động thái của Tự Đức và triều đình với Thiên Chúa
giáo đã có những thay đổi căn bản. Ngay trong khoản 2 của hiệp ước Nhâm Tuất
kí ngày 05-6-1862 giữa Pháp với triều Nguyễn, Triều đình lần đầu tiên đã thừa nhận
quyền tự do truyền đạo và theo đạo Thiên Chúa ở Việt Nam. Lý do là nhà Nguyễn
lo sợ Pháp tiếp tục lấy cớ bảo vệ Thiên Chúa giáo để chiếm nốt ba tỉnh miền tây
Nam Kỳ. Tiếp ngay sau đó, nhân sinh nhật mình, ngày 13-7-1862, Tự Đức lại ra
tiếp một đạo dụ thể hiện thái độ ôn hoà với giáo dân và Thiên Chúa giáo. Từ chỗ
cấm đạo một cách gay gắt trước 1862, sau khi mất đất, triều đình tỏ ra ngày càng
yếu thế và nhượng bộ dần dần với thực dân Pháp nói chung và Thiên Chúa giáo nói
riêng. Thậm chí tháng 7 năm 1864, triều đình còn ra một chỉ dụ kêu gọi sự bình tĩnh
của văn thân, sĩ tử trước những chính sách ôn hoà, hợp tác của triều đình với Thiên
Chúa giáo, kêu gọi hoà hợp lương - giáo, trừng trị những hành động quá khích của
văn thân gây tổn hại cho Thiên Chúa giáo. Năm Tự Đức thứ 16 (1864), nhà Vua đã
76
ra dụ rằng “Dân theo đạo cũng là con đỏ của triều đình, nếu ghét bỏ quá lắm, giết
sạch hết cả, chỉ tổ gây hiềm khích, hại đến hoà khí, không phải là cách yên dân”
[23, tr.29]. Tuy nhiên, với dã tâm xâm lược nước ta, thực dân Pháp không thoả mãn
với việc chiếm ba tỉnh miền Đông và việc tự do truyền đạo như Triều đình đã thừa
nhận. Năm 1867, chúng đánh chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, biến Nam Kỳ
thành thuộc địa của chúng. Lo ngại Pháp sẽ Bắc tiến sau những hành động gây rối
do chúng chỉ đạo ở Hà Nội, triều đình lại tiếp tục có những sự nhân nhượng trong
chính sách với Thiên Chúa giáo. Điều khoản IX của hiệp ước 1874 đã hoàn toàn
thừa nhận việc truyền đạo và theo đạo Thiên Chúa ở Việt Nam thậm chí phủ
nhận chính những chỉ dụ cấm đạo của Triều đình trước đây: “Nhìn nhận đạo
Thiên Chúa dạy dân làm lành. Hoàng đế Việt Nam bãi bỏ những dụ cấm đạo trước
đây và ban phép cho tất cả dân chúng trong nước được phép tự do theo đạo và hành
đạo” [59, tr.246].
Có thể thấy, sự nhượng bộ của Tự Đức và triều Nguyễn về tôn giáo với thực
dân Pháp đã không đạt được mục tiêu giữ những vùng đất chưa bị mất và chuộc lại
được những vùng đất đã mất. Thực dân Pháp đã nắm được những điểm yếu của
triều đình nên triều đình càng nhân nhượng chúng càng lấn tới và cuối cùng đã xâm
lược toàn bộ nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của chúng.
Như vậy, logic chung là: Do triều Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa, Pháp lấy cớ
bảo vệ các nhà truyền giáo, bảo vệ giáo dân và đạo Thiên Chúa đã xâm lược nước ta
tháng 9-1858. Khi thấy không thể đương đầu với đạo quân xâm lược với vũ khí hiện
đại hơn ta rất nhiều, đặc biệt sau khi mất ba tỉnh miền đông Nam Kỳ, triều Nguyễn
đã nới dần việc cấm đạo mong giữ được những phần đất chưa mất và chuộc lại
những vùng đất đã mất. Tuy nhiên, với mục tiêu thôn tính nước ta, thực dân Pháp
không thoả mãn với những gì chúng đã đạt được và tiếp tục lấn tới dù chính sách
với đạo Thiên Chúa của triều Nguyễn ngày càng tỏ ra mềm dẻo, ôn hoà. Cứ như
vậy, nắm được điểm yếu của triều Nguyễn, bằng phương pháp lấn dần từng bước
theo kiểu “tằm ăn lá dâu”, Pháp đã thôn tính được toàn bộ Việt Nam vào năm 1884.
Hai là chính sách bế quan toả cảng của triều Nguyễn
77
Trong xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ của các quốc gia TBCN phương
Tây, hầu hết các vua Triều Nguyễn đều cố cưỡng lại ảnh hưởng của phương Tây
bằng chính sách bế quan toả cảng về thương mại khiến cho nền kinh tế Việt Nam
không có điều kiện giao lưu, mở rộng buôn bán với nước ngoài. Triều đình chỉ mở
nhỏ giọt một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui tới buôn bán. Nhà nước quy định
chỉ được nhập những hàng hoá phục vụ cho Triều đình và cấm tàu nước ngoài
không được mua tơ lụa, thóc gạo trong nhân dân. Tàu buôn nước ngoài tới buôn bán
ở nước ta không những bị khám xét rất kỹ mà còn có thể bị trưng dụng phục vụ cho
các công việc của Triều đình. Chính sách “bế quan toả cảng” có quan hệ chặt chẽ
với chính sách cấm đạo Thiên Chúa vì đằng sau các giáo sĩ là các thương gia. Sứ
mệnh kinh tế và sứ mệnh tôn giáo mà nước Pháp giao cho các thương gia và các
giáo sĩ luôn đi song hành với nhau. Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến
triều Nguyễn thi hành chính sách này là do tư duy ấu trĩ, lạc hậu, bảo thủ của những
người đứng đầu triều đình, luôn cho là mình hơn người, mình là bậc nhất thiên hạ
nên không cần phải mở cửa ra bên ngoài. Hơn nữa, do yếu kém trong quản lý nên
việc mở cửa đất nước, cho nước ngoài vào nước ta buôn bán thực tế đã xuất hiện
tình trạng các thương nhân nước ngoài lấn át thương nhân Việt Nam và Triều đình
không thể kiểm soát nổi tình hình. Tất cả các lý do trên là nguyên nhân cơ bản dẫn
tới chính sách ngoại thương ngày càng được thắt chặt của triều Nguyễn mà sản
phẩm cuối cùng của nó là chính sách bế quan toả cảng, đóng cửa đất nước.
Thực tế lịch sử chứng minh, vì triều Nguyễn đóng cửa đất nước, thực hiện bế
quan toả cảng nên Pháp đã lấy đó làm một trong những cái cớ để xâm lược Việt Nam.
Và sau khi bị xâm lược, dưới nhiều sức ép, triều Nguyễn không thể tiếp tục thực hiện
chính sách bế quan toả cảng được nữa. Sau khi kí với Pháp hiệp ước Giáp Tuất năm
1874, Việt Nam buộc phải mở 3 thương khẩu cho hoạt động mậu dịch quốc tế: “các
nhà buôn ngoại quốc được quyền thiết lập thương điếm, chính phủ Pháp sẽ đặt các vị
lãnh sự tại đây để giải quyết những sự tranh tụng liên hệ đến người Pháp và người
ngoại quốc. Sự thông thương trên sông Nhị, từ cửa biển đến Vân Nam trở nên tự do”
[4, tr.82]. Cảng Hà Nội và Hải Phòng được mở cửa cho việc ngoại thương từ tháng 9
78
năm 1875 và cảng Quy Nhơn từ tháng 11 năm 1876. Song:
Việc mở cửa khẩu đã có những hậu quả tại hại, đặc biệt ở Bắc Kỳ, và Triều
đình vì thiếu kinh nghiệm cùng chính sách kinh tế, thiếu nhân viên chuyên môn, nên
không có khả năng kiểm soát những cơ chế của thương nghiệp với nước ngoài.
Triều đình cũng không biết đến cả cái cơ chế định giá của thị trường tự do (vốn đã
quá quen thuộc với phương Tây nhưng lại vô cùng xa lạ với Việt Nam), Triều đình
không kiểm soát được hữu hiệu các đồn thương chính, việc mở cửa các bến cảng
càng tạo thêm thế thượng phong của người Hoa trong phạm vi thương nghiệp.
Ngoài ra, một số người Hoa còn đúc cả tiền đồng giả và đưa vào Bắc Kỳ một số
lượng rất lớn (mà Triều đình không thể kiểm soát nổi) [170, tr278-280].
Trong khi, “Tây phương muốn kiểm tra thị trường Viễn Đông, chính phủ Pháp
mong được triều đình Huế hiến cho đặc quyền buôn bán tại Việt Nam. Song triều
đình Huế đều bác bỏ các đề nghị thông thương của Pháp” [4, tr.14].
Ngày 23-01-1857, phái viên của Napôlêông III là Môngtinhi cập bến Đà Nẵng
yêu cầu được tự do truyền đạo và buôn bán… Vấp phải thái độ của triều đình Huế
cương quyết cự tuyệt không tiếp…Tư bản Pháp đã lấy cớ trả thù việc triều đình Huế
không tiếp nhận quốc thư của Pháp do tàu chiến Catina đem đến tháng 9 năm 1856,
cho là “làm nhục quốc kỳ” Pháp. [131, tr.484-486]
Như vậy, logic vấn đề cũng giống hệt như với chính sách cấm đạo, nhà Nguyễn
thi hành chính sách “bế quan toả cảng” về thương mại, Pháp lấy cớ đó để xâm lược
nước ta. Sau khi bị xâm lược, triều Nguyễn phải dần nới lỏng chính sách này, thậm
chí thủ tiêu luôn chính sách này. Song, đã là quá muộn. Những cái cớ cho một cuộc
viễn chinh xâm lược được Pháp đưa ra đã khởi đầu một giai đoạn bi tráng của lịch
sử Việt Nam thời cận đại.
Ba là ứng xử chính trị lún sâu vào hoà hoãn của triều Nguyễn khiến thực
dân Pháp không quá khó khăn trong việc mở rộng phạm vi cuộc chiến tranh
Sau sự kiện 01.9.1858, triều Nguyễn lại mắc hàng loạt sai lầm trong ứng xử
chính trị, đặc biệt trong quan hệ đối ngoại. Với cách ứng xử lún sâu vào giải pháp
hoà hoãn của triều đình nhà Nguyễn , thực dân Pháp đã không quá khó khăn trong
79
việc mở rộng phạm vi cuộc chiến tranh. Chúng dùng áp lực buộc triều Nguyễn ký
hiệp ước Nhâm Tuất (1862) cắt nhường 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ (Gia Định, Định
Tường, Biên Hoà) và đảo Côn Lôn cho Pháp. Quyết định hoà hoãn của triều
Nguyễn cho thấy họ hoàn toàn không đánh giá được tình hình và tương quan lực
lượng địch - ta lúc bấy giờ: “Sung sướng thay, khi chúng ta (Thực dân Pháp) chờ
đón cái tối thiểu thì người An Nam lại xin nghị hoà” [127, tr.61]. Tiếp đó, bắt mạch
thế yếu của triều Nguyễn, thực dân Pháp đã liên tục lấn tới. Phan Thanh Giản không
những chấp nhận nộp thành Vĩnh Long mà còn viết thư khuyên quan lại hai tỉnh An
Giang và Hà Tiên hạ khí giới. Kết quả là “chỉ trong vòng 5 ngày, thực dân Pháp đã
chiếm xong 3 tỉnh miền tây Nam Kỳ mà không mất một viên đạn” [9, tr.265]. Sau
khi lục tỉnh Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay Pháp, Tự Đức “đã gởi nhiều phái bộ đi
thương lượng tại Pháp và Sài Gòn nhằm lấy lại xứ Nam Kỳ (điển hình như cử Phan
Thanh Giản sang Pháp xin “chuộc đất”). Mặt khác, ông vẫn gửi sứ bộ đều đặn đi
Bắc Kinh để giữ hoà hiếu với Trung Hoa.
Tự Đức không hề có tính toán lợi dụng mâu thuẫn Pháp - Thanh về vấn đề Bắc
Kỳ, đặc biệt khi chiến tranh Pháp - Thanh đã diễn ra song song với cuộc chiến đấu
của nhân dân ta, khi Pháp đánh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, mà chỉ loay hoay xin sửa lại
hoà ước 1862, liên tiếp cử các phái đoàn ngoại giao qua Pháp xin thương lượng,
trong khi kẻ thù ráo riết chuẩn bị chiến tranh. [103, tr.216]
Vì thiếu phương tiện từ bên trong, nên hoạt động ngoại giao của ông sẽ tạo ra
sự tranh giành giữa hai cường quốc và kết thúc bằng một cuộc chiến mà
chiến trường lại ở ngay trên đất nước Việt Nam [170, tr310].
Hiệp ước đầu hàng đầu tiên của nhà Nguyễn ký kết với quân xâm lược (Hiệp
ước Nhâm Tuất 1862) đã chứa đựng những sai lầm tai hại. Hệ lụy của nó là hàng
loạt những ứng xử sai lầm tiếp theo của triều Nguyễn đã làm đất nước rơi sâu thêm
vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn tới một cuộc
khủng hoảng chính trị trong nội bộ Triều đình mà kết quả cuối cùng của nó là chúng
ta đã không đủ sức giữ được giang sơn, đất nước.
Thật vậy, ngay trong hiệp ước 1862, khi chiến tranh mới bắt đầu chưa bao lâu,
80
triều Nguyễn đã chấp nhận bồi thường chiến phí cho giặc, mỗi năm 280 vạn lạng
bạc và trả trong 10 năm. Để có được số tiền bồi thường chiến phí đó cộng với hàng
loạt chi phí khác, triều Nguyễn đã buộc phải thực hiện các biện pháp tình thế như:
Tăng thuế đặc biệt là thuế ruộng với nông dân và diêm dân (Năm 1873, thuế cho
ruộng tư nông nghiệp tăng gấp 3 lần năm 1869, gấp 2 lần năm 1871 [127, tr.64]);
cho bỏ tiền để mua phẩm hàm hoặc giảm tội; cho phép sử dụng thuốc phiện để có
thể tăng thêm ngân sách từ thuế đánh vào loại hàng hoá đặc biệt này; bán ruộng đất
công để có thêm tiền chi phí cho các nhu cầu của Triều đình... Tất cả những biện
pháp tình thế đầy mạo hiểm đó đã dẫn tới mâu thuẫn ngày càng tăng giữa Triều
đình với nhân dân, làm suy yếu sức mạnh dân tộc. Những biện pháp đó không
những không gỡ rối được tình hình mà lại làm phát sinh thêm những tiêu cực mới,
buộc Triều đình phải có những ứng xử “không thể chấp nhận được” vì đã ở trong
tình trạng bất lực. Trước nạn tiền giả tràn ngập thị trường, không thể quản lý nổi,
Triều đình đã cho phép tiền giả được tự do lưu hành, thậm chí còn quy định tỷ giá
giữa tiền giả và tiền thật “1 đồng tiền đồng loại giả ăn 2 đồng tiền kẽm, 1 đồng tiền
đồng loại thật ăn 6 hoặc 4 đồng tiền kẽm, tuỳ theo nó nặng 9 phân hay 7 phân trở
xuống” [127, tr.68]. Sự hợp pháp hoá tệ mua quan bán tước làm đồi bại và thoái hoá
bộ máy chính quyền vốn đã rệu rã, suy yếu. Nạn chiếm công vi tư, nạn hút thuốc
phiện... diễn ra tràn lan, phổ biến khắp nơi. Đất nước chìm sâu vào cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội đẩy những mâu thuẫn trong nội bộ vương Triều trở nên ngày
càng sâu sắc. Tất cả những thực tế đó đều đóng góp ít nhiều vào việc luận giải vì
sao chúng ta mất nước vào tay Pháp.
2.2.2. Nguyên nhân sâu xa
a. Nền chính trị lạc hậu, sản phẩm của trạng thái lạc hậu của nền kinh tế, là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến đất nước suy yếu về nhiều mặt do đó không đủ sức
kháng cự trước sự tấn công từ bên ngoài
Một nền chính trị lạc hậu, không phù hợp với xu thế phát triển chung và điều
kiện lịch sử cụ thể của đất nước là nguyên nhân quan trọng dẫn tới nội tình đất nước
suy yếu về nhiều mặt. Và chính sự chênh lệch về trình độ nhiều mặt của kẻ đi xâm
81
lược và đối tượng bị xâm lược, đặc biệt là sự suy yếu toàn diện của Việt Nam dưới
triều Tự Đức là nguyên nhân chính dẫn đến mất nước và biến đổi chính trị.
Không vượt được cái bóng của Bắc Kinh, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam
từ bao đời luôn lấy mô hình chính trị Trung Hoa làm mẫu mực cho sự phát triển của
dân tộc mình. Thời Nguyễn cũng vậy, mô hình chính trị Trung Hoa vẫn tiếp tục
được sử dụng ở nước ta. Đó là mô hình một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt
đối dựa trên học thuyết Nho giáo. Mô hình cai trị này trong bối cảnh quốc tế lúc bấy
giờ đã tỏ rõ tính bảo thủ, lạc hậu khi các nhà nước tư sản đã ngày càng phát triển và
thể hiện tính ưu việt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở các quốc gia
phương Tây. Ngay trong điều kiện cụ thể của đất nước thời nhà Nguyễn, mô hình
này cũng thể hiện sự bất cập trên nhiều phương diện. Trong bối cảnh lãnh thổ đất
nước thời Nguyễn đã thống nhất và được mở rộng nhiều so với trước kia, nhiều
cộng đồng cư dân mới trước đây không thuộc nước ta, nay trở thành bộ phận hữu cơ
của dân tộc, thì cách cai trị và lối khoa cử theo kiểu Trung Hoa càng tỏ ra không
phù hợp. Với tiếng Hán là văn tự chính thức được sử dụng trong bộ máy nhà nước
trong khi quần chúng nhân dân, đặc biệt là chủ cũ của các vùng đất phía Nam hoàn
toàn xa lạ với thứ văn tự này đã đào một hố sâu ngăn cách giữa chính quyền và
nhân dân: “Quan chức Việt Nam xem giống như người Trung Hoa và dân quê Việt
Nam là người Á Châu vùng Đông Nam” [171, tr.216]. “Chữ Trung Hoa có một âm
đọc An Nam, có một nghĩa bằng tiếng bình dân (Nôm) phát âm khác tiếng Hán,
thành ra khi người ta đọc, thí dụ, cho một can phạm dốt nghe câu phán quyết buộc
tội, anh ta không hiểu gì hết, và sau khi đọc xong, nhân sĩ phải tóm lược bằng tiếng
Nôm ý nghĩa của câu văn đã đọc” [171, tr.226]. Phương thức cầm quyền như vậy đã
khiến cho mối quan hệ giữa quan và dân ngày càng xa cách.
Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đó là những triết lý kinh điển của
Nho giáo và cũng là yếu tố làm nên thành công của nhiều triều đại phong kiến Việt
Nam trong lịch sử. Song các vua nhà Nguyễn đã không phát huy được kinh nghiệm
và bài học quý báu này. Trong khi đời sống của nhân dân, chủ yếu là nông dân ngày
càng khốn cực thì việc xây dựng lăng tẩm, thành quách nguy nga tráng lệ của vua
82
quan càng làm lòng dân oán thán:
“Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”.
Với các nhân sĩ - vốn là chỗ dựa tin cậy và quan trọng của triều đình phong kiến
- thái độ của triều đình với họ cũng không có gì là tốt đẹp. Đặc biệt, trong hoàn
cảnh khó khăn, khi ngoại bang nhòm ngó, Tự Đức vẫn giữ thái độ: “coi quần chúng
như gồm toàn “những kẻ khố rách” sẵn sàng đi theo phe địch, và ông không bao giờ
chịu lắng nghe những đòi hỏi của dân chúng. Đàng khác, Tự Đức đã coi giai cấp
văn thân như một nhóm bất mãn, sai lầm và không thấu hiểu ý tốt của nhà vua”
[170, tr.309]. Vậy Triều đình dựa vào đâu để cai trị đất nước và giữ vững nền độc
lập dân tộc? Với cách cai trị như trên, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã tự cô
lập mình, tự làm giảm sức đề kháng trước bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài.
Trong bối cảnh nền quân chủ chuyên chế đã không còn là một nền chính trị tiến
bộ và có khả năng thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong hoàn cảnh mới thì việc
củng cố chế độ chính trị đó, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước trung ương
tập quyền, tăng cường hơn nữa sự tập trung quyền lực nhà nước vào nhà vua của
các vua nhà Nguyễn càng thúc đẩy nền chính trị đó kết thúc sự tồn tại của nó một
cách nhanh hơn. Hệ thống quan liêu với nhiều tầng nấc và có nhiều đặc quyền đặc
lợi của chế độ phong kiến Việt Nam mà Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục duy trì đã trở
thành chướng ngại vật trong việc phát huy sức mạnh của toàn dân tộc vào xây dựng
và phát triển đất nước. Tư tưởng phép vua thua lệ làng đã trở nên ngày càng xa lạ
với văn minh chính trị của nhân loại khi mô hình nhà nước pháp quyền đã trở thành
một hiện thực có tính hấp dẫn trên thế giới lúc bấy giờ.
Tư duy nệ cổ, muốn tái tạo những định chế không còn thích hợp và liên hệ gì
với thực tế của đất nước là một trong những nguyên nhân khiến chính trị ở Việt
Nam không đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển đất nước và ngày càng lạc hậu
so với văn minh chính trị thế giới.
Trong khuôn khổ một nền quân chủ chuyên chế dựa trên nền tảng Nho giáo với
tầm nhìn của những người lãnh đạo đất nước không vượt qua được cái bóng của
83
Bắc Kinh như vậy, các quyết sách chính trị được đưa ra cũng không có khả năng
thúc đẩy sự phát triển của đất nước theo kịp sự phát triển của cộng đồng quốc tế.
Nền chính trị lạc hậu với các quyết sách chính trị không phù hợp đã dẫn đến sự
yếu kém của Việt Nam trên nhiều mặt:
Trước hết, về kinh tế, nhà Nguyễn đã không có được những chính sách kinh tế
phù hợp ở tầm vĩ mô để mở đường cho sản xuất phát triển. Trong nước thì trọng nông
ức thương, đối ngoại thì bế quan toả cảng. Trong khi tình hình chung của thế giới:
Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới… Thay cho tình trạng cô lập
trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển
những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc... Nó buộc
tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư bản, nếu không sẽ
bị tiêu diệt [88, tr.598, 601,602].
Thì ở Việt Nam, thời Nguyễn, nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu với dân số phần lớn là nông dân. Dù trọng nông ức thương
song chính sách khuyến nông cũng không được quan tâm thoả đáng dẫn đến kỹ
thuật sản xuất nông nghiệp lạc hậu, trình độ canh tác của nông dân rất thấp kém.
Đặc biệt thời Tự Đức là thời mà nền nông nghiệp Việt Nam lâm vào cuộc khủng
hoảng trầm trọng. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, phần lớn các vua
nhà Nguyễn vẫn có tư tưởng coi thương nghiệp là nghề mạt, coi lý thuyết sỹ nông
hoán vị như một chu kỳ vận hành khép kín nên xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX
hoàn toàn vẫn là một xã hội nông nghiệp lạc hậu. Nền kinh tế tài chính nước ta
trong nửa đầu thế kỷ XIX đã suy đốn trầm trọng về mọi mặt. Do chính sách của
triều Nguyễn, các yếu tố TBCN mới nảy sinh trong nền kinh tế, đang trên đà phát
triển tự nhiên và tiến bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội hồi đó, đều bị
bóp nghẹt. Trên cơ sở đó, nền tài chính quốc gia ngày một kiệt quệ. Đời sống nhân
dân ngày càng cực khổ.
Kinh tế khó khăn lại là nguyên nhân dẫn đến những rối loạn về xã hội. Mối
mâu thuẫn giữa lực lượng phong kiến thống trị với nhân dân chủ yếu là nông dân đã
trở nên vô cùng gay gắt và đã bộc lộ ra ngoài một cách sâu sắc với hàng loạt các
84
cuộc khởi nghĩa nông dân suốt cả mấy đời vua triều Nguyễn. Để ổn định tình hình
nhằm bảo vệ trật tự phong kiến theo hướng đảm bảo đặc quyền, đặc lợi cho vua
quan phong kiến, triều Nguyễn đã thi hành những chính sách đàn áp, khủng bố, dìm
các cuộc khởi nghĩa của nông dân trong bể máu.
Khi kinh tế khó khăn, đời sống của số đông nhân dân không được bảo đảm, ở
Việt Nam hải tặc và cướp nổi lên khắp nơi. Họ không phải những người xa lạ trong
xã hội Việt Nam.
Bọn hải tặc đa số nguyên là các người đánh cá và các tiểu thương sống trên
những thuyền nhỏ, nhưng đôi khi cũng là dân quê nữa. Còn bọn cướp, người
ta thấy trong số họ những dân quê, những thợ thủ công, những quân sĩ và rất
nhiều dân thất nghiệp. Mối liên lạc giữa những kẻ ngoài vòng pháp luật
người Việt Nam và người Trung Hoa là phức tạp. Dưới triều Tự Đức, con số
người sống ngoài vòng pháp luật ngày càng tăng khi người Pháp và Trung
Hoa xen vào việc trong nước [171, tr.253, 254].
Ngoài ra, hoạt động của cướp xuất thân từ các dân tộc thiểu số miền núi càng
làm cho tình hình rối loạn và Triều đình không thể kiểm soát nổi.
Về mặt khách quan, lịch sử Việt Nam là lịch sử khẳng định sự độc lập với nước
láng giềng phương Bắc - Trung Hoa. Nhưng do quá trình hình thành của Vương
triều Nguyễn (ở phía Nam), các vua triều Nguyễn không xuất hiện như những
“Nguyên thủ Quốc gia” (Vương) - điều mà các triều đại phong kiến Việt Nam trước
đây đều gắng sức khẳng định trước các triều đại phong kiến Trung Quốc - mà chỉ
như hậu duệ của quý tộc địa phương (Chúa). Thực tế đó khiến uy thế, quyền lực của
nhà Nguyễn trong dân bị hạn chế rất lớn.
Việt Nam bị Pháp xâm lược và thôn tính ở đời vua thứ tư nhà Nguyễn, đó là Tự
Đức. Dù không phải nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất nước và biến đổi chính trị,
nhưng có thể thấy rằng, Tự Đức bước lên sân khấu chính trị trong một hoàn cảnh
khó khăn của tình hình trong nước cộng với những bất lợi cá nhân làm cho sự
nghiệp đế vương của ông càng thêm trắc trở. Mặt khác, ông là người:
Thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya... thiếu tính
85
quyết đoán, thường dựa vào triều thần, bàn việc triều thần thì rất bảo thủ, do
đó khi trên thế giới, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, các
cường quốc đang cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thì vua tôi chỉ lo
việc nghiên bút, bàn đến Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa làm tấm
gương [159, tr.196, 197].
Hơn nữa:
Vua này (Tự Đức) bị nhốt lỏng trong cung, chỉ được tiếp xúc với hoàng thân
và vài quan đại thần; còn hễ đi ra được khỏi cung thì để đi săn bắn, đi tế thiên
địa hoặc đi thăm lăng tẩm của tổ tiên; Vua ấy có thể làm được gì để chống lại
chúng ta (thực dân Pháp) chăng? Hễ Vua đi tới đâu kẻ nhỏ đều trốn tránh,
còn các quan đều quỳ mọp, mắt không dám nhìn lên. Nhà Vua chỉ nghe, chỉ
thấy là ở nhờ Cơ Mật Viện. Tuy nhà Vua lo lắng việc quốc gia, nhưng thật ra
cách sống như thế này khiến nhà Vua không thể cai trị nước một cách thực tế
được [171, tr.19]
Có thể thấy, một nền chính trị lạc hậu với các quyết sách chính trị không phù
hợp của những người lãnh đạo đất nước với tầm nhìn hạn hẹp đã là nguyên nhân
quan trọng dẫn tới sự suy yếu của đất nước về nhiều mặt. Thực tế này dẫn tới sự suy
giảm sức đề kháng của dân tộc trước một kẻ thù mạnh hơn từ phương Tây tới. Và
đây là nguyên nhân sâu xa của việc Việt Nam bị Pháp thôn tính dẫn tới biến đổi
chính trị ở Việt Nam từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân – phong kiến.
b. Nền chính trị lạc hậu, tầm nhìn hạn hẹp của những người lãnh đạo đất
nước không tạo ra những tiền đề cho một phong trào cải cách, canh tân đất nước
hầu thoát khỏi nguy cơ bị thôn tính
Trong bối cảnh nửa sau thế kỷ XIX, hầu hết các nước châu Á đều bị phương
Tây nhòm ngó, song không phải tất cả các nước đó đều bị phương Tây thôn tính.
Theo giáo sư Vũ Dương Ninh: “Trong bối cảnh đó, các cuộc vận động cải cách
chính là một phương thức ứng phó với nguy cơ xâm lược của CNTD phương Tây”
[111, tr352]. Cũng giống như Việt Nam, trước sức ép của các nước phương Tây,
nước Nhật phong kiến khoảng giữa thế kỷ XIX, chính quyền Bakufu (1651-1841)
86
trong những năm cuối cầm quyền cũng buộc phải ký với các nước phương Tây các
hiệp ước bất bình đẳng. Điều đó đã khiến Nhật Bản tụt xuống hàng thấp kém. Tuy
nhiên, nước Nhật đã lùi một bước ngắn để tiến những bước khổng lồ. Cuộc Minh
Trị Duy Tân của Nhật đã biến Nhật từ một quốc gia phong kiến lạc hậu thành một
nước tư bản phát triển và thoát được cảnh mất nước. Nhìn lại lịch sử, có thể thấy,
Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX (năm 1863) đã xuất hiện những tư tưởng canh tân
nhưng trên thực tế ở Việt Nam không có một phong trào canh tân làm biến đổi đất
nước như Nhật Bản. Ngoài những lý do thuộc về bản thân những tư tưởng canh tân
ở nước ta như: các đề nghị canh tân là quá ít ỏi, tiếng nói của những người có tư
tưởng canh tân không thật sự có trọng lượng với chính quyền, bản thân các tư tưởng
canh tân chưa vượt ra khỏi hệ tư tưởng phong kiến, những người có tư tưởng canh
tân đều là những người chủ hoà trong khi những người chủ chiến lại không có tư
tưởng canh tân (trong điều kiện cụ thể ở nước ta bấy giờ thì canh tân là để giữ nước,
giữ nước là một mục tiêu cấp bách và đúng đắn. Nếu không giữ được nước thì tất cả
những chủ trương canh tân khác đều trở thành vô nghĩa và ảo tưởng), ngành in ấn
chưa phát triển nên những tư tưởng canh tân không được phổ biến rộng rãi… thì
không thể không đề cập đến một yếu tố vô cùng quan trọng để những tư tưởng canh
tân có thể trở thành phong trào cải cách đó là những tiền đề được tạo ra trước đó
cho canh tân thành công. Nếu như ở Nhật Bản chúng ta nhìn thấy một sự tiếp nối
giữa các chính quyền: “Suốt trong thời kỳ Tokugawa, một số điều kiện đi trước cho
hiện đại hoá đã được phát triển… Tuy nhiên, trong thời đại Minh Trị, chính quyền
và nhân dân Nhật Bản đã tự đặt cho mình nhiệm vụ đầy tham vọng là quyết tâm
đuổi kịp những quốc gia tiên tiến về mặt kỹ thuật ở phương Tây” [85, tr.294]. Cho
dù “những điều kiện đi trước” được tạo ra làm tiền đề cho công cuộc Duy Tân sau
này “chỉ là ngẫu nhiên” vì trước thời Minh Trị, “những khái niệm như hiện đại hoá
và tiến bộ chưa bao giờ được đặt ra một cách có ý thức làm mục tiêu của chính
quyền” [85, tr.294], nhưng những gì xảy ra ở nước Nhật trước Duy Tân cũng cho
thấy một cách rõ ràng sự mẫn cảm đặc biệt về chính trị của người lãnh đạo đất
nước về con đường phát triển của dân tộc. Trước 1868, như là kết quả đấu tranh
87
quyết liệt trong lĩnh vực chính trị, một “thể chế chính trị đề ra vì Duy Tân” đã được
xác lập. Ở Nhật Bản, thời kỳ Edo (1600-1868) đã diễn ra những biến đổi kinh tế, xã
hội, văn hoá và học thuật quan trọng tạo những tiền đề cho canh tân. “Chính nhờ có
những tiền đề đó mà cuộc cải cách Minh Trị đã có thể diễn ra mau chóng, mạnh mẽ
sớm đi đến thắng lợi và trở thành cuộc cải cách điển hình của châu Á’’ [111,
tr.355]. Canh tân, hiện đại nửa sau thế kỷ XIX trong cách hiểu của người Nhật có
nghĩa là: “Có một hệ thống kinh tế của tư bản công nghiệp và một chế độ chính trị
lập hiến tự do hoặc nửa tự do như ở Hoa Kỳ và một số nước châu Âu” [85, tr.294].
Nếu ở Nhật như vậy thì ở Việt Nam tầm nhìn của các nhà lãnh đạo đất nước
thời đó trong một nền chính trị lạc hậu đã không cho phép ra đời những yếu tố làm
tiền đề cho canh tân thành công. Ở Việt Nam, trước khi các tư tưởng canh tân được
đề xuất từ dưới lên, không có một sự đổi mới nào trong bộ máy chính quyền mà
ngược lại các vua nhà Nguyễn đều có ý thức củng cố chế độ quân chủ chuyên chế
tập trung cao độ. Như vậy, chúng ta không có tiền đề về chính trị cho canh tân. Hơn
nữa, chính sách trọng nông ức thương, bế quan toả cảng, kìm hãm sự phát triển của
các yếu tố kinh tế hàng hoá, kinh tế TBCN đang nảy sinh… lại không cho phép xuất
hiện các yếu tố làm tiền đề kinh tế - xã hội cho canh tân. Thiếu tiền đề về mọi mặt,
lại không được sự ủng hộ của chính quyền, ý tưởng của các nhà canh tân Việt Nam
chỉ tồn tại trên giấy hoặc được thực hiện một cách cầm chừng, nhỏ giọt, không đủ
sức thay đổi diện mạo kinh tế xã hội Việt Nam để đủ sức kháng cự trước sức mạnh
từ bên ngoài.
Như vậy là, giống như Việt Nam, trước sự tấn công từ bên ngoài, vì yếu hơn,
Nhật buộc phải ký những hiệp ước bất bình đẳng, nhưng rồi bằng canh tân (mà tiền
đề cho cuộc chuyển mình này đã được tạo ra bằng sự mẫn cảm chính trị đặc biệt của
giới cầm quyền trước thời Minh Trị, và sự nghiệp này đã được thực hiện với một
quyết tâm lớn của chính quyền Minh Trị vì danh dự của Nhật bản), Nhật đã “xét lại
các hiệp định” nhằm “chấm dứt được một hoàn cảnh không bình đẳng và bất công
đã kéo dài hơn bốn mươi năm” [85,tr.304]. Về thực chất, việc lấy lại quyền bình
đẳng với các nước phương Tây của Nhật thành công là do nước Nhật lúc bấy giờ đã
88
“ngang ngửa” trình độ về nhiều mặt với phương Tây. “Việc xét lại các hiệp định
không phải chỉ là các cuộc đàm phán ngoại giao kéo dài…việc xét lại các hiệp định
chỉ có thể thực hiện nếu các thể chế luật pháp và chính trị của Nhật Bản cũng giống
như những thể chế hiện hành ở phương Tây” [85,tr.304]. Trở thành nước TBCN để
chống lại sự tấn công của đế quốc tư sản là con đường đi của nước Nhật.
Còn với trường hợp Việt Nam, tuy có ý tưởng canh tân song không có một
phong trào cải cách vì nhiều lý do trong đó lý do quan trọng là sự lạc hậu của nền
chính trị, sự bảo thủ của giới cầm quyền, tầm nhìn hạn hẹp của họ đã không tạo ra
được những tiền đề cho một phong trào canh tân cũng như việc triển khai những tư
tưởng đó một cách có ý thức rộng rãi trong đời sống xã hội.
Rõ ràng chính quyền nước Nhật đã ý thức rất rõ, trong tư thế hoàn toàn chủ
động và chuẩn bị rất chu đáo cho một cuộc duy tân đất nước. Họ chủ động thành lập
một phái đoàn gồm 50 chuyên gia là đại thần, quan chức đủ các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội, ngoại giao... do đại thần Iwakura Tomoni dẫn
đầu đi công du 12 nước Âu Mỹ trong thời gian 1 năm 10 tháng để học tập những cái
hay của các nước trên thế giới. Còn ở ta, cũng rất gần thời điểm đó, Bùi Viện, một
nhà canh tân cùng vài chiến hữu, một cánh buồm, một con thuyền lênh đênh vượt
biển đi tìm một hướng đi cho dân tộc. Rõ ràng từ thực tế đó có thể dự cảm tương
lai, kết quả của Duy Tân Nhật Bản và canh tân Việt Nam.
Với trường hợp Thái Lan lại khác. Ở Thái Lan cũng diễn ra cải cách cùng thời
với Việt Nam nhưng chủ yếu do vị trí địa lý đặc biệt, nằm trong vùng tranh chấp
giữa các đế quốc cộng với chính sách ngoại giao mềm dẻo, khéo léo mà Thái Lan
may mắn giữ được độc lập, không bị phương Tây thôn tính. Tuy nhiên, “vì xu thế
chung của khu vực, các nước đế quốc vẫn dùng sức ép quân sự, kinh tế, chính trị để
đặt Thái Lan vào khu vực ảnh hưởng. Đến năm 1890, Anh đã giữ được vị trí chủ
chốt trong nền kinh tế Thái Lan mặc dù không đánh chiếm bằng vũ lực”
[101,tr.353]
Như vậy, trong quá trình CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN, sự cạnh tranh
quyền lực quốc tế giữa các nước đế quốc là không thể tránh khỏi và ngày càng trở
89
nên gay gắt. Trong bối cảnh đó, các nước nhược tiểu trở thành đối tượng bị xâm lược
của các nước đế quốc. Chính sách cấm đạo Thiên Chúa hay bế quan toả cảng của
triều Nguyễn chỉ là cái cớ cho hành vi xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. Những
ứng xử chính trị sai lầm của giới cầm quyền trong bối cảnh nước sôi lửa bỏng càng
thúc đẩy nhanh quá trình Pháp xâm lược và thôn tính Việt Nam. Chính nền chính trị
lạc hậu, tầm nhìn hạn hẹp của giới cầm quyền là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nội
tình đất nước suy yếu, đất nước rơi vào loạn lạc, khủng hoảng triền miên. Thực tế đó
làm suy yếu sức mạnh và mất sức đề kháng của dân tộc trước một kẻ thù mới lạ, lớn
mạnh hơn mình về nhiều mặt từ phương Tây tới. Nền chính trị đó cũng cản trở việc
tạo ra những yếu tố như là những tiền đề cho một phong trào canh tân - lối thoát hữu
hiệu khỏi sự nô dịch và thôn tính của tư bản phương Tây. Trong bối cảnh đó, ở nước
ta những tư tưởng canh tân được đưa ra một mặt là muộn trước đòi hỏi của thực tế đất
nước song quan trọng nó không thể trở thành một phong trào cải cách như ở Nhật
Bản vì thiếu những tiền đề cần thiết. Hơn nữa thái độ của Triều đình với vấn đề canh
tân đất nước là khá bị động. Và việc đất nước rơi vào tay kẻ xâm lược dẫn tới biến
đổi chính trị trong bối cảnh như vậy hoàn toàn có thể lý giải được.
Cuộc đối đầu Pháp - Việt phải chăng là cuộc đụng độ giữa các nền văn minh mà
thắng lợi thuộc về kẻ đi xâm lược có trình độ phát triển cao hơn hẳn đối tượng bị
xâm lược? Đó là sự chiến thắng của một nền văn minh công nghiệp với một nền văn
minh nông nghiệp, là chiến thắng của một nước tư bản phát triển với một nước
phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Là sự chiến thắng của hình thái kinh
tế xã hội TBCN với hình thái kinh tế xã hội phong kiến. Và lối thoát cho trạng thái
bị thôn tính và chịu lệ thuộc không phải là bạo lực mà là cải cách. Tuy nhiên, điều
này thì chính quyền nhà Nguyễn ở Việt Nam đã không làm được như chính quyền
Minh Trị ở Nhật Bản - trở thành chính quyền tư sản để chiến thắng một chính quyền
tư sản khác. Kết quả là nền chính trị phong kiến ở Việt Nam đã bị chính trị thực dân
- phong kiến thực chất là thuộc phạm trù chính trị tư sản thay thế, trong khi ở Nhật
Bản, chính trị phong kiến đã được thay thế bằng chính trị tư sản mà lực lượng nắm
giữ quyền lực nhà nước chính là giai cấp tư sản Nhật Bản.
90
2.3. Việc xác lập các cơ sở cho sự tồn tại của chính trị thực dân - phong kiến
2.3.1. Thiết lập các công cụ bảo vệ chính quyền
Để sự cai trị chính trị có thể được thực hiện, giai cấp tư sản Pháp mà thực dân
Pháp ở Đông Dương, Việt Nam là lực lượng đại diện đã xác lập trước hết các công
cụ bạo lực như: Quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù, pháp luật thực dân… nhằm
chống lại các cuộc nổi dậy và các sự phản kháng.
a. Thiết lập lực lượng quân đội, cảnh sát
Thực dân Pháp sau khi thôn tính được từng phần nước ta, chúng đã từng bước
thiết lập lực lượng quân đội và cảnh sát.
Trước hết, chúng khôi phục lại một bộ phận quân đội của triều đình phong kiến cũ.
Khi triều đình Huế mất chủ quyền, thì lực lượng lính cơ, lực lượng quân sự cấp tỉnh
của nhà nước phong kiến bị giải thể. Tuy nhiên đến tháng 9-1891, Toàn quyền Đông
Dương ra nghị định cho thiết lập lại và chính quy hoá lực lượng lính cơ ở Bắc Kỳ. Lực
lượng này do quan lại Việt Nam trực tiếp phụ trách nhưng đặt dưới sự giám sát và kiểm
soát của các công sứ chủ tỉnh [126, tr.211]. Lực lượng này khi mới được tổ chức lại chỉ
gồm người Việt, sau đó thực dân thiết lập thêm lực lượng lính cơ người dân tộc và lính
cơ người Trung Quốc ở nước ta nhằm thực hiện chính sách dùng người Việt đánh
người Việt, dùng người dân tộc để đánh người dân tộc, dùng người dân tộc này đánh
người dân tộc khác nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Sau đó, vào
năm 1894, chúng đã thiết lập lại lực lượng lính cơ ở Trung Kỳ.
Sau khi khôi phục lại một bộ phận quân đội triều đình, năm 1900, thực dân
Pháp ra luật tổ chức quân đội thuộc địa [126, tr.268] quy định chi tiết, cụ thể về các
bộ phận cấu thành quân đội thuộc địa, nhiệm vụ của từng lực lượng, cơ quan chủ
quản, ngân sách cho từng bộ phận của lực lượng quân đội thuộc địa. Với luật này,
chế độ thuộc địa mà thực dân Pháp thiết lập ở nước ta đã thực sự có một trụ cột
vững vàng về quân sự để bảo vệ cho sự tồn tại của nó.
Chưa thực sự an tâm với tình hình an ninh ở Đông Dương, năm 1904, Tổng
thống Pháp ra sắc lệnh tổ chức lực lượng quân dự bị người bản xứ ở Đông Dương
[126, tr.291]. Lực lượng này mỗi năm phải tập trung để luyện tập tối đa 15 ngày và
91
có thể bị động viên bất cứ khi nào chính quyền cần đến. Sau này vào năm 1910, sắc
lệnh của Tổng thống Pháp quy định: Tất cả thanh niên Việt Nam sau khi mãn hạn đi
lính thường trực, phải chuyển sang lực lượng quân dự bị cho tới khi nào đủ 15 năm
- kể cả thời gian tại ngũ, mới được giải ngũ hoàn toàn. Quy định này đã tăng thêm
sức mạnh cho lực lượng quân dự bị cả về số lượng và tính chuyên nghiệp nhằm đảm
bảo tính chủ động cho chính quyền mỗi khi cần huy động sức mạnh của quân đội.
Nam Kỳ, một thuộc địa của Pháp, nơi mọi người dân ở đây đều mang quốc tịch
Pháp (song không phải tất cả mọi người đều có tư cách công dân Pháp) thì lực
lượng thanh niên đã bị bắt phải gia nhập lực lượng quân đội chính quy bằng hình
thức rút thăm để tăng thêm sức mạnh quân sự cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, với
Bắc Kỳ và Trung Kỳ là các xứ bảo hộ và nửa bảo hộ thì thành niên bị cưỡng bức đi
lính theo sự chỉ định của chính quyền cấp xã.
Như vậy, thông qua hàng loạt các nghị định khác nhau, thực dân Pháp đã thiết
lập ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng lực lượng quân đội bằng cách
khôi phục lại một bộ phận quân đội phong kiến cũ và thiết lập thêm những lực
lượng quân sự mới gồm quân thường trực, quân dự bị, lực lượng chính quy và nhiều
lực lượng không chính quy khác với thành phần đa dạng từ lính Pháp đến lính các
thuộc địa khác của Pháp, lính bản xứ người Việt gồm cả người Kinh và người các
dân tộc ít người khác.
Không chỉ quan tâm xây dựng lực lượng quân đội thuộc địa, năm 1915, sắc lệnh
Tổ chức và sử dụng lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông Dương [126, tr.357]-
còn gọi là địa phương quân - đã được Tổng thống Pháp ban bố. Sắc lệnh đã quy
định chi tiết các đối tượng trực thuộc lực lượng này, cơ quan chủ quản, cách thức
tuyển lựa, vị trí, vai trò, chức năng của lực lượng địa phương quân trong từng hoàn
cảnh cụ thể (trong thời bình, khi hữu sự và khi có chiến tranh xảy ra). Và khi chiến
tranh thế giới 1914-1918 sắp kết thúc, vào năm 1917, chúng đã thiết lập ở thuộc địa
Nam Kỳ một lực lượng cảnh sát người Việt (tức lực lượng dân vệ hoặc lính thủ bộ)
nhằm tăng cường an ninh cho thuộc địa.
Như vậy, với các chính sách về xây dựng quân đội và cảnh sát, với một lộ trình
92
có chủ đích rõ rệt, thực dân Pháp đã thiết lập ở nước ta một bộ máy an ninh khá quy
củ gồm quân đội và cảnh sát tạo cơ sở cho sự tồn tại và cai trị chính trị của chúng.
b. Thiết lập hệ thống pháp luật, toà án, nhà tù
* Pháp luật: Hệ thống pháp luật thời Pháp thuộc được thiết lập ở Việt Nam với
các mục đích chủ yếu sau:
- Duy trì chế độ thuộc địa ở Đông Dương, bảo vệ địa vị thống trị của người
Pháp ở Đông Dương và vị trí phụ thuộc của phong kiến bản xứ
- Khai thác triệt để và bóc lột sức người sức của ở thuộc địa.
- Bảo đảm sự độc quyền của tư bản Pháp, buộc nền kinh tế ở thuộc địa hoàn
toàn phụ thuộc vào chính quốc [167, tr.400]
Nhìn chung, trong giai đoạn đầu cai trị nước ta, thực dân Pháp vẫn sử dụng bộ
luật Gia Long của triều Nguyễn. Tuy nhiên, dần dần chúng đưa luật của chính quốc
vào thay thế dần luật pháp phong kiến Việt Nam. Mới đầu, chúng đưa một vài bộ
luật và một số điều khoản trong luật chính quốc áp dụng ở thuộc địa, sau mở rộng
dần ra về cả số bộ luật và số điều khoản được áp dụng. Bắt đầu áp dụng ở Nam Kỳ,
xứ thuộc địa, sau lan dần ra các xứ còn lại. Ví như năm 1877, chúng áp dụng bộ
hình luật của Pháp vào Nam Kỳ, đến 1883, chúng cho thi hành một số điều khoản
trong bộ dân luật Pháp cũng ở Nam Kỳ. Song phải tới 1890, chúng mới áp dụng các
bộ luật này vào Bắc Kỳ. Ở Nam Kỳ thuộc địa, tất cả mọi người đều mang quốc tịch
Pháp, song chúng phân ra thành “công dân Pháp” và “thần dân của nước Pháp”. Với
mỗi loại người này, chúng áp dụng một loại luật khác nhau, ứng xử theo quy chế
phân biệt đối xử. Ai là công dân Pháp thì xét xử theo pháp luật Pháp, ai không phải
là công dân Pháp thì xét xử theo pháp luật của Nam Triều kết hợp với những quy
định mới của thực dân Pháp đối với các xứ là thuộc địa.
Với quy chế thuộc địa, ở Nam Kỳ, dần dần hệ thống pháp luật của thực dân
Pháp được sử dụng như hệ thống pháp luật chính thức và duy nhất, pháp luật triều
Nguyễn đã không còn được áp dụng ở xứ này (nhất là sau khi bãi bỏ chế độ “tư
cách bản xứ” có nghĩa mọi người dân ở Nam Kỳ đều mang quốc tịch Pháp, đều là
“người Pháp”)
93
Với quy chế bảo hộ, ở Bắc Kỳ, dần dần thực dân Pháp đã sửa đổi một cách có
hệ thống các bộ luật cũ ở Bắc Kỳ và ban hành các bộ luật mới ở xứ này phù hợp với
mục tiêu và lợi ích của thực dân Pháp.
Với quy chế nửa bảo hộ, ở Trung Kỳ, trên danh nghĩa, hệ thống pháp luật cũ và
bộ luật Gia Long vẫn được áp dụng, nhưng thực dân Pháp đã tìm mọi cách can
thiệp, chi phối và đi tới chỗ vô hiệu hoá hệ thống pháp luật Nam Triều (ví như ép
triều đình thay đổi, sữa chữa các điều luật theo ý chúng.
Sự áp dụng luật pháp tư sản ở mức độ nhất định của thực dân Pháp ở nước ta dù
với mục đích chủ yếu là phục vụ cho lợi ích của CNTD và GCTS Pháp song đã tạo
ra “nền tảng mới của luật pháp các nước Đông Nam Á thuộc địa…Với hệ thống luật
pháp tư sản được đưa vào thuộc địa, nó đã góp phần phá vỡ những hủ tục truyền
thống phong kiến của xã hội cổ truyền, từng bước đưa các nước này vào thời đại
văn minh” [114, tr.265].
* Hệ thống toà án: Với việc đặt 3 kỳ 3 chế độ chính trị khác nhau, hệ thống toà
án ở 3 kỳ cũng có những điểm khác biệt nhất định.
Năm 1862, Pháp thôn tính được 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ thì hai năm sau đó,
vào năm 1864, thực dân Pháp ban hành sắc lệnh đầu tiên về tổ chức tư pháp ở Nam
Kỳ. Theo đó, ở Nam Kỳ có hai hệ thống toà án song song tồn tại: hệ thống toà Tây
án (tức toà án Pháp) chuyên xét xử người Pháp và hệ thống toà Nam án (còn gọi toà
án Nam) chuyên xét xử người Việt và người Châu Á cư trú tại Nam Kỳ. Dù tồn tại
cả toà án Pháp và toà án Nam song những sự vụ quan trọng, đặc biệt liên quan đến
quyền lợi của nước Pháp đều do các toà án Pháp xét xử. Thực tế, với nhiều quy định
cụ thể có thể thấy toà án Pháp có nhiều quyền lực hơn hẳn toà án Nam. Ngay trong
tổ chức hệ thống toà án Nam, chỉ có toà đệ nhất cấp là các vị trí chủ chốt do người
Việt nắm giữ, còn ở các cấp cao hơn, các quan chức cao cấp trong hệ thống toà án
này đều do người Pháp nắm giữ. Từ năm 1881, chính thức bãi bỏ các toà Nam án,
không phân biệt quốc tịch, tất cả đều do toà án Pháp xét xử. Tuy nhiên người Việt
và người châu Á sẽ xét xử theo thể chế riêng, người Pháp và người Âu sẽ xét xử
theo thể chế riêng. Sau này, từ năm 1903, tất cả người Việt Nam cư trú ở Nam Kỳ
94
đều do các toà Tây án xét xử theo luật pháp của nước Pháp. Những “cải cách tư
pháp” như vậy đã biến người dân Việt Nam hầu hết không biết tiếng Pháp, mỗi khi
có việc kiện tụng, đều phải nhờ đến thông ngôn, trở thành món mồi cho thực dân
xâu xé. Vấn đề tư pháp là một trong những mối quan tâm lớn của bọn thực dân, vì
vậy, chúng quy định viên chức hạng nhất mới được phụ trách tư pháp, đây là những
viên chức có thâm niên và nhiều kinh nghiệm. Tổ chức tư pháp ngày càng được
chính quy hoá và chuyên nghiệp hoá. Thời kỳ cai trị đầu tiên, chức năng tư pháp và
hành chính còn nằm trong tay một viên quan cai trị thì sau này Pháp đã tách bạch
hai chức năng đó ra. Các thành phố nhượng địa như Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng
cũng có tổ chức toà án giống như ở thuộc địa Nam Kỳ.
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ vì là xứ bảo hộ và nửa bảo hộ nên bên cạnh hệ thống
toà án Pháp, hệ thống toà án Nam vẫn được duy trì.
Có thể thấy, hệ thống tổ chức toà án ở Việt Nam thời Pháp thuộc dù bên cạnh
toà án Pháp vẫn còn tồn tại các toà án Nam, đặc biệt ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nhưng
trên thực tế, quyền tư pháp chủ yếu nằm trong tay thực dân, chịu sự chi phối của
thực dân. Toà án Nam có phạm vi xét xử và thẩm quyền hết sức hạn hẹp, chỉ được
xét xử người Việt, với những tội danh không đe doạ đến sự tồn vong của chính
quyền. Như vậy, một “thiết chế pháp lý lưỡng hành” [178,tr.284] đã được Pháp thiết
lập và duy trì ở nước ta nhằm tăng cường sức mạnh cho bộ máy thống trị và áp chế
của nhà cầm quyền Pháp.
Trên một cách khái quát khác có thể thấy, ở Việt Nam thời Pháp thuộc có hai
loại nguồn luật được sử dụng đó là nguồn luật của Pháp và nguồn luật của phong
kiến bản xứ. Vì có ba quy chế chính trị cho ba kỳ nên tương ứng cũng có ba quy chế
pháp lý. Với Nam Kỳ và các thành phố nhượng địa khi xét xử toà án Pháp sẽ áp
dụng luật pháp của Pháp. Với Trung Kỳ, khi xét xử toà án Nam Triều sẽ áp dụng
luật pháp Nam Triều được ban bố thi hành ở Trung Kỳ. Với Bắc Kỳ, khi xét xử các
toà án Nam Triều ở đây cũng áp dụng luật pháp Nam triều đã được ban bố thi hành
ở Bắc Kỳ. Với đối tượng áp dụng pháp luật thì có hai quy chế pháp lý ứng dụng cho
hai loại người. Với người Pháp và những ngoại kiều được biệt đãi như người Pháp,
95
người Việt Nam sinh ra ở vùng đất thuộc địa, dù đang sống ở đâu trên đất Việt Nam
đều do toà án Pháp xét xử bằng pháp luật của Pháp. Với người Việt Nam là thần
dân của Hoàng đế nhà Nguyễn, những ngoại kiều không được hưởng biệt đãi như
người Pháp đều do toà án Nam Triều xét xử theo luật pháp phong kiến
[167,tr.393,398].
* Hệ thống nhà tù: Bên cạnh hệ thống toà án là hệ thống nhà tù dày đặc từ
huyện, tỉnh đến toàn Đông Dương. Các nhà tù lớn ở Việt Nam thời thuộc địa luôn
chật kín tù nhân, phần lớn là các tù chính trị. “Về chi phí, riêng ở Bắc Kỳ, năm
1909, tiền chi tiêu để giữ gìn trật tự” (hành chính, cảnh sát, sen đầm, khố xanh) gấp
bốn lần khoản tiền chi cho giáo dục, y tế, nông nghiệp, công chính” [163, tr110].
2.3.2. Xác lập cơ sở kinh tế cho sự cai trị thuộc địa
Một sự thống trị chính trị bao giờ cũng phải tồn tại trên một cơ sở kinh tế nhất
định. Sau khi có quyền lực nhà nước, thực dân Pháp đã thiết lập cơ sở kinh tế cho
sự thống trị chính trị của chúng ở Việt Nam chủ yếu thông qua chính sách thuế;
chính sách cướp đoạt ruộng đất và bóc lột địa tô; chính sách đầu tư tư bản để khai
thác tài nguyên và bóc lột nhân công.
a. Chính sách thuế
Đây là chính sách kinh tế trực tiếp tạo ra nguồn thu cho ngân sách chính quyền
thuộc địa, đảm bảo tài chính cho chính quyền này tồn tại và hoạt động. Trước hết,
về vị trí vai trò của thuế trong nền kinh tế thuộc địa, chính sách tài chính và thuế
được coi như xương sống trong các chính sách kinh tế của Pháp. Chính sách ấy đảm
bảo cho toàn bộ công cuộc khai thác Đông Dương của Pháp một nguồn tài chính tại
chỗ. Trong thời Pháp thuộc, Pháp sử dụng thuế chủ yếu để tăng ngân sách, bần
cùng hoá người Việt Nam tạo khoảng cách ngày càng xa giữa kẻ cai trị và người bị
cai trị để duy trì nền cai trị ấy. Mặt khác, thuế được sử dụng như công cụ đắc lực để
Pháp thực hiện chính sách độc quyền thương mại, biến Việt Nam thành thị trường
riêng của Pháp. Ở đây, thuế mang tính chất cống nạp nhiều hơn là một công cụ điều
tiết kinh tế. Pháp đã tạo ra một nền kinh tế mà trong đó người dân phải đóng thuế
một cách tuỳ tiện, bất cứ cái gì, bất cứ hoạt động gì cũng có thể bị đánh thuế. Các
96
sắc thuế và cách thu thuế đều do Chính phủ Bảo hộ quyết định. Chính sách thuế
khoá đã đem lại cho ngân sách Đông Dương những nguồn thu lớn. Mục tiêu của
chính sách thuế cho thấy Việt Nam là một thuộc địa khai thác của Pháp. Trong thời
Pháp thuộc, thuế không chỉ đơn thuần là một chính sách kinh tế mà còn mang tính
chất của một chính sách văn hoá - xã hội, dùng để bần cùng hoá, kìm kẹp người
Việt Nam trong vòng nô lệ, dưới sự “bảo hộ của nước mẹ Pháp”.
Về nội dung của chính sách thuế: Sau khi Pháp hoàn thành cuộc bình định trên
đất nước ta và bước vào thời kỳ khai thác thuộc địa, gánh nặng thuế má đối với
người dân Việt Nam nói chung và người nông dân nói riêng đã tăng lên đột ngột. Ở
đây chúng ta quan tâm nhiều hơn tới các sắc thuế mà đối tượng của nó là bộ phận
dân cư chiếm tỉ trọng cao nhất trong xã hội (đó chính là nông dân). Ngoài loại thuế
cũ là thuế trực thu được sửa đổi và tăng cường cả về quy mô và mức độ, người
Việt Nam phải chịu loại thuế mới (thời phong kiến không hề có) là thuế gián thu.
Thuế gián thu là một loại thuế của xã hội hiện đại tuy nhiên được Pháp khai thác, sử
dụng với một cách thức lạc hậu để tối đa hoá lợi ích thực dân.
Chưa khi nào người dân Việt Nam lại phải đóng thuế nhiều như vậy. Thuế trực
thu gồm nhiều loại (thuế ruộng, thuế thân, thuế nhân lực hay thuế lao dịch, thuế
chợ, thuế đò, thuế thuyền bè, thuế kiểm lâm, thuế cầm đồ…) trong đó quan trọng
nhất là thuế ruộng, thuế thân, thuế nhân lực.
Dưới thời Pháp, thuế ruộng đất về thể thức được duy trì như dưới thời nhà
Nguyễn, nhưng Pháp đã điều chỉnh bằng nhiều cách nhằm thu được lượng thuế lớn
nhất có thể. Các chính sách miễn, giảm thuế dưới thời phong kiến bị bãi bỏ. Pháp
còn “đẻ ra” nhiều loại thuế mới cho nông dân như thuế bách phân phụ thu (thường
bằng 15% thuế chính ngạch). Thuế mất đi chức năng là công cụ điều tiết kinh tế mà
trở thành công cụ bóc bột của bọn thực dân, phong kiến với đông đảo nhân dân. Với
chính sách thuế như trên, người dân, trước hết là nông dân Việt Nam bị bần cùng
hoá và lâm vào cảnh khốn cùng.
Thuế thân: Chưa lúc nào trong lịch sử Việt Nam, thẻ tuỳ thân lại quan trọng
như vậy với sự tồn tại của mỗi người nông dân (đó là thẻ chứng nhận người đó đã
97
đóng thuế thân, hoặc được miễn, giảm thuế, là vật chứng minh sự tồn tại hợp pháp
của mỗi người nông dân). Dù chỉ là chiếc thẻ nộp thuế nhưng dường như nó lại có
khả năng chứng minh nhân cách của con người!? “Mỗi người An Nam lúc nào cũng
phải mang theo mình thẻ thuế thân, khi hỏi phải xuất trình; ai quên hoặc đánh mất
sẽ bị bỏ tù” [92, tr.75]. Dưới thời Pháp thuộc, đối tượng đóng thuế thân được mở
rộng tối đa, tất cả nông dân, người khá giả cũng như người bần hàn đều phải đóng
thuế thân. Nhiều đối tượng thời phong kiến được miễn thuế thân thì nay đều phải
nộp thuế thân với suất thuế tăng vọt.
Ở Nam Kỳ, số người phải đóng thuế thân tăng gấp 3 lần trước đó, mức thuế
thân tăng gấp 7 lần so với trước đó… Với cách đóng thuế này của thực dân
Pháp, nông dân ở Bắc Kỳ, loại tráng hạng phải nộp thuế thân tăng gấp 20 lần,
còn lão hạng và dân đinh hạng nộp thuế tăng gấp 40 lần [59, tr.310,311].
Từ khi thực dân Pháp sang Việt Nam, thuế lao dịch được ấn định cho nội đinh,
quy định giá trị bằng tiền tệ từng ngày lao dịch, và bắt người dân phải chuyển sang
tiền chuộc để đưa vào ngân sách. Tuy vậy, khi cần huy động nhân công, chính phủ
bảo hộ vẫn huy động dù đã đóng tiền chuộc rồi. Thuế lao dịch được quy định cụ thể
với mỗi người dân cho ngân sách từng cấp từ xã đến tỉnh. “Nhà nước không nuôi ăn
trong thời gian lao động như trước và trước đây mỗi năm chỉ phải đi một lần, nay
thì đi vô tội vạ… Phải chăng đó là những ân huệ mà người An Nam chưa nhận ra
được” [59, tr.313,314]. Khi cần huy động nhân lực làm những con đường chiến
lược, chính phủ thuộc địa không nề hà bắt tất cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con
đều phải đi lao dịch. Dưới thời phong kiến những mệnh lệnh nghiêm ngặt nhất cũng
chỉ quy định những đàn ông khoẻ mạnh mới phải đi lao dịch. Do không có tiền nộp
thuế, dân nhiều khi phải bỏ làng đi lang thang, phiêu bạt. Dưới thời Pháp thuộc,
thuế trực thu không còn giữ được tính tương đối cố định mà trở thành một thứ thuế
có thể co giãn trên “chiếc lưng cao su” của những người dân Việt Nam.
Chính sách thuế thời thuộc Pháp hầu hết do chính quyền thuộc địa đặt ra, chính
quyền cấp xã do người bản xứ đứng đầu thường được giao nhiệm vụ đi thu thuế.
Gánh nặng của vô vàn các loại thuế đè lên đầu người dân khiến họ khó lòng kham
98
nổi. Do đó, các đội thu thuế còn có binh lính đi kèm để cưỡng bức nộp thuế. Do
thuế má nặng nề như vậy, quá khả năng chịu đựng của người dân nên phát sinh
nhiều tệ nạn, tiêu cực. Bọn quan lại địa phương tha hồ có dịp nhũng nhiễu dân lành.
Những sắc thuế trực thu đánh trực tiếp vào từng người dân trở thành món mồi béo
bở làm giàu cho bọn thực dân và phong kiến.
Tàn bạo nhất là thuế gián thu, nguồn thu quan trọng nhất cho ngân sách thuộc
địa, đặc biệt là thuế muối, rượu, thuốc phiện. Thực dân Pháp thu các loại thuế này
qua hình thức độc quyền, đem lại nguồn thu lớn. Thuế muối, từ một loại thuế trực
thu trong thời phong kiến, Pháp chuyển thành thuế gián thu đánh vào người tiêu
dùng. Mà muối là một mặt hàng thiết yếu, không ai không phải tiêu dùng đến nó.
Pháp bắt những diêm dân sau khi sản xuất xong phải bán ngay và bán hết muối cho
chính quyền thuộc địa với giá bèo bọt. Sau đó, chính họ lại phải đi mua lại muối của
chính quyền cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân của mình với một mức giá cao gấp
nhiều lần. Dẫn tới nghịch lý là dân của một nước nhiệt đới có đường bờ biển dài
hàng ngàn kilômét như Việt Nam nhiều gia đình phải nhịn ăn muối vì không có tiền
mua muối.
Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, rượu từ một nghề phụ cho kinh tế nông nghiệp
được nâng lên thành một ngành công nghiệp nhẹ tương đối lớn. Chúng đã thành lập
những công ty lớn sản xuất rượu với số lượng không hạn chế, bằng mọi nguyên liệu
có thể sản xuất được và cấm ngặt sản xuất rượu trong dân. Để đạt được mức lãi
khổng lồ như mong muốn, chính sách tiêu thụ rượu của Pháp đã biến rượu thành sản
phẩm bắt buộc phải tiêu dùng với mỗi người dân Việt Nam. Rượu được định mức sử
dụng trên mỗi đầu người dân Việt. “Và thuế rượu được quan niệm là một loại thuế
gián thu, đã trở thành thuế trực thu, gần gũi với thuế thân” [59, tr.320].
Thuốc phiện, một mặt hàng bị cấm ngặt dưới thời Nguyễn thì sang thời Pháp
được khuyến khích tiêu dùng. Thuốc phiện là mặt hàng độc quyền của thực dân
Pháp ở Đông Dương. Thuế từ mặt hàng độc hại này đã đem lại món tiền lớn cho
ngân sách chính quyền thuộc địa. Và lẽ dĩ nhiên, bọn phong kiến bán nước, ăn theo
chính quyền này cũng được hưởng lợi.
99
Dưới thời thuộc Pháp, mọi thứ đều có thể bị đánh thuế. Với thuế đò, nhiều
người dân đã không dám qua sông. Với một địa hình như nước ta, sông suối nhiều
vô kể, thì đây cũng là một nguồn thu đáng kể. Qua ghi chép của một giám mục công
giáo người Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ, nhiều người Việt Nam cưỡi trâu bơi qua
sông để cày ruộng của mình ở bờ bên kia cũng bị bắt ép phải trả thuế đò. Nhiều
người nghèo khổ chỉ đem đi chợ bán dăm xu trầu không hay mía cũng phải trả tiền
đò cho những chủ thầu đò cả đi lẫn về. Thật khó mà tưởng tượng nổi! Người An
Nam “thà vứt của đi còn hơn là phải đóng thuế hết khoản này đến khoản khác mãi
mãi không thôi. Ở một số vùng, nhân dân buộc lòng phải nhổ thuốc, chặt cau để
tránh những phiền nhiễu vì thuế mới” [92, tr.76].
Thuế còn được dùng làm công cụ để duy trì vị trí độc quyền thương mại ở Đông
Dương cho thực dân Pháp. Hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam bị đánh với mức
thuế cao hơn nhiều lần so với hàng hoá Pháp dẫn tới không nước nào có thể cạnh
tranh được với Pháp trên thị trường Việt Nam. Hàng hoá Việt Nam sản xuất ra Pháp
bắt phải bán cho chúng với mức giá bèo bọt trong khi người Việt Nam phải mua
hàng hoá Pháp với giá cao. Với các sắc thuế đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu,
Việt Nam trở thành thị trường riêng của tư bản Pháp.
Như vậy, chính sách thuế mà thực dân Pháp sử dụng ở nước ta đã tạo ra một
“chính quyền ăn bám” trên mồ hôi, nước mắt và máu của những người dân thuộc
địa. Chính sách đó đã đẩy người dân Việt Nam, phần lớn là nông dân vào bước
đường cùng, thôi thúc ý thức tự giải phóng trong họ, tạo tiền đề cho sự ra đời của
một nền chính trị mới, tiến bộ thay thế nền chính trị phản động mà thực dân Pháp
thiết lập ở nước ta.
b. Chính sách ruộng đất và địa tô
Đây là các chính sách kinh tế tạo tiềm lực tài chính, đảm bảo sức mạnh kinh tế
cho giai cấp cầm quyền và lực lượng tay sai của chúng cũng như các lực lượng trực
tiếp nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Thực dân Pháp đã thực thi chính sách
cướp đoạt ruộng đất và bóc lột địa tô tạo điều kiện cho việc thiết lập, củng cố liên
minh đế quốc - phong kiến và làm đầy hầu bao tầng lớp thống trị.
100
Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp - một bộ phận của GCTS Pháp - là lực
lượng trực tiếp nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam. “Điều kiện căn bản của sự
tồn tại và của sự thống trị của GCTS là sự tích luỹ của cải vào tay những tư nhân, là
sự hình thành và tăng thêm tư bản” [88, tr.612]. Ở một nước nông nghiệp như Việt
Nam thì sự tích tụ đó thể hiện trước hết và tập trung ở ruộng đất.
Trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam là kinh tế nông nghiệp
với hai ngành chính là nông nghiệp và thủ công nghiệp. Người lao động trong nền
kinh tế đó chủ yếu là nông dân và thợ thủ công mà phần nhiều nông dân đồng thời
cũng là thợ thủ công trong lúc nông nhàn. Trong một nền kinh tế như vậy, tư liệu sản
xuất chủ yếu là ruộng đất phần lớn nằm trong tay địa chủ phong kiến và một phần
nhỏ thuộc sở hữu cá thể của nông dân. Trong phương thức sản xuất phong kiến, bóc
lột địa tô là hình thức bóc lột chủ yếu của địa chủ phong kiến với nông dân.
Sau khi Pháp thôn tính Việt Nam, khảo sát sự thay đổi về sở hữu ruộng đất giúp
chúng ta thấy được sự thay đổi cơ bản trong lĩnh vực sản xuất của xã hội, từ đó
thấy được sự thay đổi trong trong lĩnh vực chính trị. Bởi nguyên tắc chung lực
lượng nào nắm quyền lực kinh tế người đó sẽ nắm quyền lực chính trị mà đỉnh cao
là quyền lực nhà nước và chi phối quyền lực ấy.
Trong suốt thời kỳ thuộc Pháp, đã có một sự thay đổi lớn trong vấn đề sở hữu
ruộng đất ở Việt Nam thông qua chính sách cướp đoạt ruộng đất của nông dân.
Nhưng điều không thay đổi là nông dân vẫn là người có ít ruộng đất nhất, thậm chí
không còn chút ruộng đất nào trong tay. Và thực sự, họ không còn là nông dân
nguyên nghĩa nữa. Ruộng công, ruộng của nông dân mắc nợ không trả được thì bị
bọn địa chủ và chức dịch xã chiếm đoạt, biến thành ruộng tư. Một phần ruộng khá
lớn khác thì lọt vào tay bọn điền chủ Pháp. Sự tích tụ và tập trung tư bản xảy ra cả ở
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Với đủ mọi mánh khoé tàn ác, chúng (thực dân Pháp) đã cướp đoạt tới
470.000 ha năm 1913 so với 10.000 ha năm 1890, dữ dội nhất là ở Nam Kỳ.
Đã xuất hiện những tên điền chủ lớn, có trong tay từ 2.000 đến 20.000 mẫu
tây… Vì thế, vào năm 1914, Nam Kỳ đã có thể xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo,
101
đem lại cho tư bản Pháp mối lợi khổng lồ [103, tr.228].
Từ 1897 khi cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp được triển khai thì
tốc độ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân đã được Pháp đẩy mạnh trong cả nước.
Đặc biệt, Nghị định ngày 01-5-1900 với nội dung là phủ nhận quyền sở hữu ruộng
đất trong pháp luật phong kiến, xoá bỏ quyền sở hữu ruộng đất tối cao của nhà vua
chuyển sang cho nhà nước bảo hộ, quy định các quan Pháp đứng đầu các xứ có
quyền cấp đất cho mỗi người mỗi lần từ 300 ha trở lên thì việc thực dân Pháp chiếm
đoạt ruộng đất của nông dân Việt Nam ngày càng trở nên phổ biến. Sau khi vùng
đất đỏ Tây Nguyên được phát hiện thì mỗi tấc đất nơi đây đều đứng trước nguy cơ
rơi vào tay đế quốc, phong kiến. Thực dân Pháp đã biến diện tích đất đai khổng lồ
mà chúng chiếm được thành đồn điền trồng lúa, trồng cây công nghiệp và thu
những nguồn lợi lớn, tạo ra nguồn tài chính quan trọng đảm bảo cho một sự thống
trị chính trị của chúng trên đất nước ta. Đây là một hình thức bóc lột theo kiểu
TBCN trong lĩnh vực nông nghiệp đã xuất hiện ở nước ta.
Để củng cố lực lượng địa chủ phong kiến làm tay sai đắc lực cho thực dân xâm
lược, Pháp đã tạo điều kiện cho bọn địa chủ phong kiến tự do cướp đoạt ruộng đất
của nông dân Việt Nam, khuyến khích chúng đẩy mạnh các thủ đoạn bóc lột nông
dân. Kết quả là giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam ngày càng được tăng cường
về cả số lượng và quy mô ruộng đất chiếm hữu, thủ đoạn bóc lột nông dân. Với các
biện pháp trên, quyền lợi của địa chủ phong kiến Việt Nam ngày càng gắn chặt với
quyền lợi của đế quốc thực dân.
Sở hữu phần lớn ruộng đất ở Việt Nam, hai lực lượng địa chủ phong kiến Việt
Nam và tư sản Pháp đã bóc lột nông dân Việt Nam ngày càng tàn bạo hơn bằng địa
tô. Đây là một hình thức bóc lột điển hình trong phương thức sản xuất phong kiến
với các hình thức như lĩnh canh thu tô, cho mướn ruộng, mướn ruộng có tạm ứng
vốn của chủ đất, mướn ruộng trả địa tô bằng sức lao động. Một phần ruộng đất nhỏ
hơn được chúng dùng để kinh doanh theo lối TBCN. Hình thức bóc lột địa tô cùng
quy mô ruộng đất được tích tụ, tập trung ngày càng lớn trong tay địa chủ phong
kiến Việt Nam và tư sản Pháp làm nông dân bị bần cùng hoá ngày càng nhiều và
102
buộc phải đi vay nợ lãi của địa chủ phong kiến Việt Nam hoặc tư sản Pháp. Như
vậy, địa chủ phong kiến, thực dân ngày càng giàu lên trên sự bần cùng của người
dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân. Sức mạnh kinh tế của chúng ngày càng
được tăng cường.
c. Chính sách đầu tư tư bản để khai thác tài nguyên, bóc lột nhân công
Hai cuộc khai thác thuộc địa của tư sản Pháp ở Việt Nam đã thiết lập nên nền
kinh tế thuộc địa. Đó là một nền kinh tế tồn tại trên cơ sở phức hợp của hai phương
thức sản xuất phong kiến và TBCN. Chính quyền thuộc địa đã duy trì phương thức
sản xuất phong kiến nhưng không lặp lại trọn vẹn và phát triển chế độ phong kiến.
Mặt khác, chúng cho thiết lập phương thức sản xuất TBCN nhưng lại kìm hãm sự
phát triển của CNTB ở nước ta. Tình trạng này đã làm cho người Việt Nam “đã khổ
vì sự phát triển của sản xuất TBCN, lại còn khổ vì sự phát triển ấy chưa được đầy
đủ” [127, tr.294]. Mục tiêu của các cuộc khai thác thuộc địa nhằm: cướp bóc vơ
vét, khai thác của cải ở thuộc địa đưa về chính quốc; biến Đông Dương thành thị
trường cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, lao động rẻ mạt cho chính quốc và thành thị
trường tiêu thụ cho công nghiệp và thương mại Pháp. Nếu có phát triển công nghiệp
thì nền công nghiệp đó không được làm hại công nghiệp chính quốc mà phải bổ
sung cho công nghiệp chính quốc - một nền công nghiệp mà “không dùng những
nguyên liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa xôi nhất trên
trái đất và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được
tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa” [88, tr.601]. Tư bản được đầu tư vào đây
không phải để kỹ nghệ hoá Việt Nam mà là để khai thác, sản xuất những sản phẩm
có thể xuất cảng ngay không cần chế biến. Bằng nhiều chính sách kinh tế khác
nhau, Pháp đã “tạo ra được một sự bổ trợ mang tính chất bất bình đẳng và đơn
phương của thuộc địa nông nghiệp Việt Nam đối với chính quốc công nghiệp Pháp”
[127, tr.295]. Mục tiêu của các cuộc khai thác thuộc địa chi phối mọi hoạt động
kinh tế của Pháp ở Việt Nam và được thể hiện rõ trong cơ cấu vốn đầu tư đặc biệt
trong cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế thuộc địa. Thực dân giảm chi phí tăng lợi
nhuận không bằng cách đầu tư kĩ thuật mà bằng cách bóc lột nhân công rẻ mạt,
103
dùng bạo lực và các công cụ bóc lột phi kinh tế khác để bần cùng hoá những người
lao động.
Trong công nghiệp thì ngành thu hút sự quan tâm lớn của các nhà tư bản là
ngành khai thác mỏ. Với một nguồn tài nguyên mỏ dồi dào về cả chủng loại và trữ
lượng như Việt Nam, lại phần lớn là mỏ lộ thiên, ngành khai thác mỏ rõ ràng đem
lại cho thực dân Pháp nguồn lợi nhuận khổng lồ. Phần lớn các xí nghiệp công
nghiệp nằm trong tay các tập đoàn tư bản lớn. Tiếp theo là công nghiệp chế biến để
phục vụ nhu cầu tại chỗ và sơ chế các nguyên liệu cho xuất khẩu. Ngành vận tải với
việc xây dựng các tuyến đường thuỷ, bộ, sắt, hàng không và phát triển các phương
tiện vận tải nhằm tạo tiện lợi cho giao thông. Có như vậy, việc khai thác thuộc địa,
buôn bán mới dễ dàng và khi có sự vụ gì thì phái quân đội đi đánh dẹp cũng thuận
lợi. Phát triển ngành vận tải ở Việt Nam là công cụ để thực dân có thể phát triển các
ngành kinh tế khác. Trong nông nghiệp, lối kinh doanh theo kiểu kinh tế đồn điền
ra đời và hoạt động khá hiệu quả, đem lại cho các chủ đồn điền những nguồn lợi
lớn. Ngành thương mại rất phát triển trong thời Pháp thuộc với sự ra đời của một
hệ thống chợ - là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh buôn bán sôi động. Hoạt
động ngoại thương được bảo vệ bằng hàng rào quan thuế thực sự đã biến Việt Nam
thành thị trường riêng của thực dân Pháp. Cán cân xuất nhập khẩu thời Pháp thuộc
thường thặng dư nhưng đó không phải là thành quả của một cơ cấu thuận lợi mà là
một triệu chứng chậm tiến của nền kinh tế khi các nguồn lợi nhuận phần lớn đều
được các chủ tư bản chuyển về chính quốc. “Ngoại thương càng phát triển và thặng
dư trong cán cân thương mại càng lớn, nền kinh tế thuộc địa càng rơi vào tình trạng
phát triển một cách bất hợp lý, thuộc địa càng bị bóc lột nhiều hơn, càng nghèo hơn
và càng chậm tiến hơn” [179, tr.170]. Các hoạt động tài chính chịu sự điều khiển
bởi hai đại ngân hàng: Ngân hàng Pháp - Hoa và ngân hàng Đông Dương. Các
nhóm tài chính khai thác kinh tế Việt Nam đại diện cho quyền lợi của giới kỹ nghệ
Pháp, chủ yếu nhằm mục đích sao cho tư bản đầu tư vào Việt Nam sinh lợi nhiều và
mau chóng. Sự đầu tư tư bản vào Việt Nam của các nhóm tài chính không phù hợp
với các nhu cầu kinh tế thực thụ của Việt Nam.
104
Nhìn chung, chính sách cai trị về kinh tế của thực dân Pháp làm cho nền kinh tế
của Việt Nam mang một diện mạo mới, đa dạng hơn trong cơ cấu ngành nghề, các
lĩnh vực hoạt động, hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế ấy
đã làm phá sản nền kinh tế Việt Nam truyền thống, bần cùng hoá người lao động và
đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các chủ tư bản. Lực lượng này chính là chủ
thể mới của quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Cơ cấu kinh tế đó cho thấy rõ Việt
Nam là một thuộc địa khai thác của Pháp chứ không phải một thuộc địa di dân.
Khai thác tài nguyên thiên nhiên, sức lao động rẻ mạt, thị trường rộng lớn của Việt
Nam một cách hiệu quả nhất, làm giàu cho tư bản chính quốc, làm bần cùng hoá
người lao động Việt Nam, làm đất nước Việt Nam tiêu điều, xơ xác là những hệ quả
tất yếu mà nền kinh tế đó tạo ra.
Có thể thấy, thực dân Pháp đã tạo cơ sở kinh tế cho sự thống trị chính trị của
chúng ở Việt Nam bằng những chính sách nổi bật như: Chính sách thuế, chính sách
cướp đoạt ruộng đất và bóc lột địa tô, chính sách đầu tư tư bản để khai thác tài
nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt. Các chính sách kinh tế của Pháp đã tạo ra những
nguồn thu lớn cho ngân sách thuộc địa, đảm bảo nguồn tài chính cho việc duy trì và
hoạt động của bộ máy quyền lực của Pháp ở nước ta. Chính sách này cũng tạo ra lợi
nhuận khổng lồ cho tư bản Pháp - chủ thể đích thực của quyền lực nhà nước ở Việt
Nam và lực lượng tay sai của chúng là một bộ phận địa chủ phong kiến Việt Nam
bán nước. Chính sách này còn củng cố liên minh đế quốc - phong kiến, yếu tố
không thể thiếu tạo nên chính quyền thuộc địa.
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, một phương thức sản xuất có
tính chất TBCN đã dần du nhập vào Việt Nam. Kết quả là “các quan hệ tư bản hoà
trộn đan xen và trùm lên các quan hệ phong kiến, thống trị và chi phối các quan hệ
phong kiến, trở thành nhân tố quyết định xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam.
Đây chính là hình thái kinh tế xã hội đặc thù của các nước thuộc địa TBCN” [63,
tr.156]. Như vậy, trong nền kinh tế này có sự tồn tại song hành của hai phương thức
sản xuất: phương thức sản xuất TBCN và phương thức sản xuất phong kiến.
Như vậy, cùng với việc thâu tóm dần quyền lực nhà nước từ tay giai cấp địa chủ
105
phong kiến Việt Nam về tay mình, GCTS Pháp đã thiết lập cơ sở kinh tế cho sự
thống trị chính trị của chúng ở nước ta. Và trên nền tảng một “hình thái kinh tế xã
hội đặc thù của các nước thuộc địa TBCN” trong đó các quan hệ tư bản trở thành
nhân tố quyết định xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam, thực chất một kiểu nhà
nước mới mang tính chất của kiểu nhà nước tư sản đã manh nha ra đời và dần dần
thay thế kiểu nhà nước phong kiến đã tồn tại lâu dài ở nước ta.
2.3.3. Xác lập cơ sở tư tưởng, văn hoá cho sự cai trị thuộc địa
“Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng
của giai cấp thống trị” [88, tr.625]
“Phàm một dân tộc đi chinh phục một dân tộc khác, đương nhiên không để cho
dân tộc đó có tư tưởng độc lập” [137, tr.96]
Một sự cai trị chính trị không chỉ cần cơ sở kinh tế mà còn cần một nền tảng tư
tưởng tinh thần cho sự tồn tại và hoạt động của nó. Sau khi thôn tính hoàn toàn
nước ta với hiệp ước Patơnôt năm 1884, cùng với việc thiết lập cơ sở kinh tế cho sự
cai trị thuộc địa, thực dân Pháp tiến hành đẩy mạnh việc du nhập hệ tư tưởng - văn
hoá tư sản phương Tây vào nước ta phù hợp với lợi ích thực dân TBCN. Giai đoạn
nửa sau thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX ở nước ta là giai đoạn diễn ra một cách
mạnh mẽ sự giao thoa cũ mới, đan xen giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại trên
tất cả mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có tư tưởng- văn hoá. Trong nội dung
này, tác giả không xem xét toàn bộ những yếu tố về văn hoá tư tưởng trong cả một
giai đoạn lịch sử mà chỉ xét những yếu tố văn hoá, tư tưởng được thiết lập theo
chủ đích của lực lượng cầm quyền nhằm duy trì tốt nhất sự thống trị chính trị và
tối đa hoá lợi ích của chúng.
a. Quy định về việc sử dụng ngôn ngữ
Trước hết, thực dân Pháp thực hiện các biện pháp nhằm loại trừ dần chữ Hán
ra khỏi đời sống xã hội. Sau khi thôn tính được Nam Kỳ, từ năm 1878 chính quyền
thuộc địa ở Nam Kỳ quy định chữ Hán trong giấy tờ công văn của các cơ quan
hành chính được thay bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Quy định này nhằm cắt đứt
mối quan hệ lâu đời về văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các kỳ thi theo lối
106
cũ bằng chữ Hán cũng dần bị xoá bỏ. Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở ba
tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Dưới áp lực của chính quyền thuộc địa, năm 1915 vua Duy
Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương, Hội, Đình) ở Bắc Kỳ; năm 1918, vua
Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi ở Trung Kỳ; năm 1919, bãi bỏ hoàn toàn
các trường dạy chữ Nho thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt dạy bằng chữ
Pháp và chữ Quốc ngữ. Trước đó, trong Bộ Học chính Tổng quy năm 1917, việc
dạy chữ Nho đã bị Thực dân Pháp quy định và kiểm soát hết sức chặt chẽ, gắt gao
để tránh việc các thầy đồ tuyên truyền tư tưởng yêu nước, chống Pháp. Nhà nước
bảo hộ chỉ mở các trường dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Các trường dạy chữ Nho
đều được xếp vào hạng trường tư. Điều này cho thấy sự “quan tâm” đặc biệt của
thực dân Pháp với một ngôn ngữ vốn đã được sử dụng quen thuộc trong xã hội Việt
Nam hàng nghìn năm.
Ở bậc tiểu học toàn phần, chỉ khi nào phụ huynh học sinh và chính quyền địa
phương đề nghị thì người đứng đầu cấp xứ, sau khi tham khảo ý kiến hội
đồng hàng tỉnh mới được ra quyết định đưa môn chữ Nho vào dạy, nhưng
cũng chỉ ở hai lớp cuối. Người đứng đầu xứ phải có trách nhiệm báo cáo
riêng việc dạy chữ Nho với Toàn quyền [179, tr.215].
Năm 1932, bộ máy quan lại trong Triều đình phong kiến cũng bị thực dân Pháp
bắt buộc phải bỏ dùng chữ Hán, thay bằng chữ Pháp hay chữ Quốc ngữ. Ngôn ngữ
không chỉ là công cụ, phương tiện để truyền tải thông tin mà còn là một yếu tố của
văn hoá. Việc thực dân Pháp loại trừ từng bước ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa
ra khỏi đời sống xã hội Việt Nam nhằm thay đổi tư duy người Việt, hướng tinh thần
người Việt tới một hệ thống giá trị mới có lợi cho sự cai trị thực dân.
Cùng với việc loại bỏ dần chữ Hán trong đời sống xã hội, thực dân Pháp tiến
hành phổ biến chữ Quốc ngữ ở một mức nhất định phù hợp với lợi ích của
chúng. Với sự tương đồng về mẫu tự La tinh giữa chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, thực
dân Pháp cho phổ biến chữ Quốc ngữ để tạo thuận lợi cho việc truyền bá chữ Pháp.
Vì khi người Việt quen với mẫu tự La tinh trong chữ Quốc ngữ sẽ dễ dàng học tiếng
Pháp hơn. Mặt khác, thực dân Pháp lợi dụng chữ Quốc ngữ để truyền bá văn hoá
107
Pháp. Những tay bồi bút thực dân sau khi thấm nhuần những tư tưởng thực dân sẽ
chuyển tải những tư tưởng đó đến đông đảo quần chúng Việt Nam bằng chữ Quốc
ngữ. Vì dù sao người Việt học chữ Quốc ngữ cũng dễ dàng hơn học chữ Pháp.
Trong chương trình giáo dục thời Toàn quyền Merlin, ba lớp đầu bậc tiểu học, học
sinh học bằng chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, sau này khi phong trào truyền bá Quốc
ngữ của những người Việt Nam yêu nước phát triển rầm rộ và ngày một lan rộng thì
Pháp lại lo sợ và cấm đoán. Thực tế này cho thấy, thực dân Pháp phổ biến chữ Quốc
ngữ ở Việt Nam hoàn toàn không vì lợi ích của người Việt Nam mà chủ yếu vì lợi
ích của bọn thực dân.
Ưu tiên cho việc truyền bá tiếng Pháp trong xã hội Việt Nam đặc biệt trong hệ
thống giáo dục. Đây là thứ tiếng chiếm ưu thế trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt
mà thực dân Pháp thiết lập tại Việt Nam và là ngôn ngữ chính ở bậc đại học. Thậm
chí trong hệ thống giáo dục này, môn lịch sử Việt Nam, học sinh người Việt cũng
phải học bằng tiếng Pháp. Trường trung học Pháp -Việt hệ bốn năm, mỗi tuần có
27,5 giờ lên lớp thì 12 giờ dành cho học tiếng Pháp, 8 giờ học toán, lý, hoá…cũng
bằng tiếng Pháp. Chương trình học được “Pháp hoá” tới mức có những lúc, 14/16
môn bậc tiểu học được dạy bằng tiếng Pháp. Suốt những thập niên đầu từ khi thôn
tính được nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, nền giáo dục mang tính chất Pháp mà
thực dân thiết lập ở nước ta chủ yếu là các trường thông ngôn nhằm truyền bá tiếng
Pháp ở xứ thuộc địa. Sau này thời Toàn quyền Varenne, còn có nghị định mở thêm
lớp dự bị chỉ để dạy tiếng Pháp cho học sinh, nâng số năm học ở bậc tiểu học từ 5
năm lên 6 năm. Trong xã hội, những người thường xuyên dùng tiếng Pháp như
ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu thường được trọng dụng và dễ được tiếp nhận vào “làng
Pháp”. Một trong những quy định bắt buộc để người bản xứ có thể nhập quốc tịch
Pháp là “biết tiếng Pháp đến một trình độ khá” [92, tr.86].
Như vậy, với chủ trương loại bỏ dần chữ Hán, phát triển chữ Quốc ngữ ở mức
nhất định phù hợp với lợi ích thực dân, ưu tiên cho việc truyền bá tiếng Pháp trong
đời sống xã hội, thực dân Pháp muốn loại trừ dần ảnh hưởng của văn hoá Trung
Hoa với Việt Nam, làm lu mờ dẫn tới phủ nhận dần văn hoá bản địa truyền thống
108
Việt Nam, truyền bá ngày càng rộng rãi văn hoá và văn minh Pháp vào nước ta,
hướng người Việt Nam tới văn hoá, văn minh và lối tư duy theo kiểu Pháp.
b. Chính sách giáo dục
Giáo dục là một phương thức quan trọng để Pháp thiết lập cơ sở về văn hoá tư
tưởng cho sự cai trị chính trị của chúng. Thông qua giáo dục chúng truyền bá, áp đặt
văn hoá, tư tưởng thực dân tư sản. Sự áp đặt này được thể hiện qua nhiều nội dung
của chính sách giáo dục như: mục tiêu giáo dục, cấu trúc hệ thống giáo dục, nội
dung chương trình giáo dục, phương thức giáo dục…Ở đây không tập trung phân
tích toàn bộ chính sách giáo dục hay nền giáo dục thực dân mà chỉ quan tâm đến
một khía cạnh nhỏ đó là những nội dung của chính sách giáo dục thực dân mà thông
qua đó, chúng áp đặt văn hoá, tư tưởng cho người Việt Nam.
Sau khi thôn tính nước ta, nền giáo dục Nho học bị loại bỏ dần dần thay thế
bằng nền giáo dục Pháp - Việt. Việc bỏ dần các kỳ thi chữ Hán ở từng kỳ và trên
phạm vi toàn quốc đánh dấu nền giáo dục cửa Khổng sân Trình dần khép lại
nhường chỗ cho một nền giáo dục thực dân. Mục tiêu của nền giáo dục này trước
hết là để đào tạo những người bản xứ ở vị trí những người thừa hành, phục vụ
chính sách cai trị của Pháp ở nước ta chứ không phải tạo ra những người Việt Nam
ở vị trí những chủ nhân của đất nước. Chính vì vậy, trong hệ thống giáo dục, Pháp
chỉ dạy một số môn cần thiết đối với những người ở vị trí thừa hành, tay sai chứ
không dạy những môn để làm Người, làm chủ đất nước.
Một trong những mục tiêu chủ yếu của hệ thống giáo dục này là truyền bá văn
hoá và văn minh Pháp (chỉ những nội dung có lợi cho sự cai trị của Pháp ở nước ta)
và tư tưởng “khai hoá văn minh” để người Việt Nam phải biết ơn công khai hoá đó,
tôn thờ, ngưỡng mộ, sùng bái, trung thành với nước Pháp. Có một lớp người thừa
hành ở các vị trí khác nhau trong hệ thống chính quyền được đào tạo theo chủ đích
của thực dân Pháp, mang trong mình tư tưởng thực dân và lòng trung thành với
nước Pháp là một trong những điều kiện tối quan trọng để bộ máy chính quyền thực
dân có thể được duy trì và thực hiện sự cai trị chính trị. Tuy nhiên, cuối cùng, mục
đích của giáo dục thực dân cũng hướng tới mục tiêu kinh tế.
109
Trước tiên, giáo dục có kết quả tăng cường dồi dào giá trị sản xuất của thuộc
địa. Ngoài ra, nó phải chọn lọc và đào tạo những tay hợp tác, những công
chức bản xứ, lương trả ít tốn hơn cho ngân sách thuộc địa. Phải huấn luyện
quen việc các “nhà cầm quyền bản xứ” mà các hiệp ước bảo hộ và sự sáng
suốt của một chính sách chính trị sơ đẳng bắt chúng có bổn phận duy trì làm
trung gian giữa chúng ta và dân tộc bản xứ [152, tr.18]
Về mặt cấu trúc, hệ thống giáo dục Pháp - Việt được thực dân Pháp phát triển
theo cấu trúc hình Kim Tự Tháp. Nền giáo dục này gồm hai phần là giáo dục phổ
thông gồm bậc tiểu học, bậc cao đẳng tiểu học, bậc trung học và giáo dục cao đẳng
chuyên nghiệp, đại học. Tuy nhiên, với chủ trương phát triển theo chiều ngang, nền
giáo dục này chủ yếu phát triển bậc tiểu học, chủ yếu dạy cho học sinh biết đọc, biết
viết mà thôi. Kìm hãm giáo dục để thực hiện chính sách ngu dân, giữ khoảng cách
an toàn giữa kẻ cai trị (thực dân Pháp) và người bị cai trị (người dân Việt Nam) là
chủ đích của thực dân Pháp nhằm duy trì sự thống trị chính trị lâu dài trên đất nước
này.
Nội dung chương trình giáo dục tập trung nhiều đến “ơn khai hoá của mẫu
quốc”. Từ đó muốn gây dựng ở người học lòng trung thành với nước Pháp và chế
độ cai trị thuộc địa (đặc biệt qua những môn học như môn “Luân lý” và “Công dân
giáo dục”). Bài diễn thuyết của toàn quyền Varenne ngày 21-12-1925 tại Hội đồng
Chính phủ khẳng định:
… Điều quan trọng là phải dạy trẻ con thế nào cũng phải nói đến nước Pháp,
phải dạy cho nó biết đối với các cường quốc thì địa vị của một nước đã nhận
cái chức trách khai hoá cho dân bản xứ này bước lên con đường văn minh
Tây Âu như thế nào? [179, tr.224]
Nội dung chương trình giáo dục Pháp - Việt mô phỏng chương trình giáo dục
của Pháp nhưng nặng hơn. Phương thức giảng dạy mang tính chất nhồi sọ, nô dịch,
ngu dân, thi cử khó khăn, nhiều điều kiện, thủ tục làm cho người học, đặc biệt
người học ở nông thôn rất khó có thể học lên cao được. Trẻ con vỡ lòng chưa thạo
tiếng mẹ đẻ đã phải học tiếng Pháp (sau này sửa lại ba lớp đầu bậc tiểu học học chữ
110
Quốc ngữ, hai lớp cuối bậc này học tiếng Pháp), vì thế số người bỏ học nhiều và
tình trạng mù chữ vẫn phổ biến trong dân chúng. Mặt khác sự không tương đương
về bằng cấp (quy định bằng Pháp cao hơn bằng Việt) cũng gây ra nhiều khó khăn
cho những người muốn học cao lên. Đây cũng là chủ đích của thực dân nhằm kìm
kẹp người Việt Nam trong vòng ngu dốt, lạc hậu để dễ bề cai trị. Bằng chính sách
giáo dục “thực dân Pháp giành quyền “đào tạo văn hoá” và sau đó là nghề nghiệp
cho người dân thuộc địa ngay từ thủa ấu thơ” [127, tr.264]
Lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết:
Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và viên chức nhỏ
đủ số cần thiết phục vụ bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục
đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục
như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một
lòng trung thực giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn
mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình
và đang áp bức mình [127, tr.265].
Như vậy, thông qua chính sách giáo dục, Pháp đã cố gắng truyền bá những tư
tưởng thực dân phản động ở nước ta làm cơ sở cho sự cai trị chính trị của chúng.
Chúng tạo ra một lớp người thừa hành bản xứ trung thành với thực dân, đế quốc, có
tâm lý tự ti, vong bản của kẻ bị nô dịch. Chúng cũng cố gắng tạo ra một đám đông
quần chúng dốt nát, tăm tối.
c. Đầu tư vào lĩnh vực văn hoá và quy định về báo chí, xuất bản
Trước hết, có thể thấy, dưới thời thuộc Pháp, sự đầu tư vào lĩnh vực văn hoá
ngày càng tăng. Không chỉ vốn của tư bản tư nhân mà còn cả vốn của tư bản nhà
nước đầu tư vào kinh doanh trong lĩnh vực này. Một số tờ báo, được coi là công cụ
tuyên truyền chủ yếu cho sự cai trị thực dân còn do chính quyền bảo trợ. Số công ty
kinh doanh trên lĩnh vực văn hoá cũng như số vốn đầu tư vào lĩnh vực này ngày
càng tăng. Các lĩnh vực được đầu tư ngày càng rộng mở: xuất bản, in ấn, báo chí,
phim ảnh, sân khấu (tuồng chèo, cải lương, xiếc, ca hát, kịch nói,...). Ngay trong
lĩnh vực xuất bản, số ấn phẩm cũng được gia tăng đáng kể về số lượng và chủng
111
loại. Ngoài báo chí xuất bản định kì là các loại ấn phẩm khác.
Trong 5 năm 1919-1925 có 26 tờ báo và tạp chí mới ra đời, nhiều hơn tổng
số báo và tạp chí xuất bản trong 54 năm trước (1865-1919)... Mỗi năm có
hàng trăm, thậm chí hàng ngàn loại ấn phẩm ra đời. Các ấn phẩm đó tập
trung nhiều hơn ở Nam Kỳ, nơi việc ấn hành được tự do hơn, rồi Bắc Kỳ, sau
cùng là Trung Kỳ [179, tr.260,261].
Mục đích lớn nhất của chính quyền thực dân khi tạo điều kiện cho các hoạt
động đầu tư này là nhằm tạo ra những công cụ tuyên truyền cho CNTD ăn sâu, bám
rễ vào thuộc địa bên cạnh mục tiêu thứ yếu là thu lợi nhuận từ việc đầu tư, kinh
doanh trong lĩnh vực này.
Cùng với các chính sách trên là chính sách với các ấn phẩm, báo chí mà nổi
bật là chính sách kiểm duyệt gắt gao với các loại ấn phẩm, báo chí xuất bản ở Việt
Nam. Sự phát triển rầm rộ của các hoạt động báo chí, xuất bản ở khắp ba kỳ đã làm
cho thực dân lo ngại. Chúng liên tục ra các sắc lệnh nhằm kiểm soát hoạt động của
lĩnh vực nhạy cảm này như: sắc lệnh 25-5-1881, sắc lệnh 30-12-1898, nghị định 30-
6-1899, sắc lệnh 05-8-1914, sắc lệnh 12-10-1919, nghị định 31-01-1922, sắc lệnh
04-10-1927, nghị định 10-11-1927, nghị định 20-12-1927... Phạm vi kiểm duyệt
cũng ngày càng mở rộng. Nam Kỳ thuộc địa và các nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng,
Đà Nẵng đúng ra phải được hưởng quy chế tự do báo chí của chính quốc như sắc
lệnh năm 1881 nhưng lo sợ sự phát triển của báo chí sẽ là công cụ để dân chúng
thuộc địa chống lại chế độ thực dân nên năm 1899, Pháp đặt cả ba kỳ Việt Nam
trong cùng một chế độ về báo chí. Các cơ quan quản lý báo chí cũng ngày càng
được tăng cường. Mới đầu công việc này chỉ thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng thuộc
địa sau này mở rộng ra cả Cục những vấn đề chính trị bên chính quốc. Nội dung
kiểm duyệt cũng ngày càng chặt chẽ hơn đặc biệt với báo chí đối lập (với CNTD) và
báo xuất bản bằng tiếng Pháp. Các báo muốn tồn tại hoặc phải ca ngợi CNTD, công
ơn khai hoá của nước mẹ đại Pháp, chấp nhận chính sách thuộc địa và chế độ cai trị
của người Pháp, ủng hộ chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề, bôi nhọ CNCS, cách mạng
tháng Mười, chống phá phong trào đấu tranh của nhân dân ta... hoặc bàn đến những
112
vấn đề ngoài chính trị. Các báo xuất hiện ngoài mong muốn của chính quyền có thể
bị đình bản bất cứ lúc nào và các chủ bút bị thực dân Pháp trừng phạt rất nặng nề
(hoặc phạt tiền hoặc ngồi tù).
Thực dân Pháp còn thiết lập cơ sở tư tưởng, văn hoá cho sự cai trị chính trị bằng
các công cụ phi văn hoá như sử dụng chính sách thuế, áp đặt định mức sử dụng
rượu và thuốc phiện trên đầu người dân nhằm đầu độc nhân dân, làm cho ngu dân
để dễ bề cai trị...
“Bên cạnh không khí tự do đối với các hoạt động văn hoá thân thực dân là một
không khí mất tự do đối với trào lưu văn hoá yêu nước, cách mạng” [179, tr.269].
Chính sách văn hoá của thực dân Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói
riêng có tính chất hai mặt. Một mặt, nó tạo ra các hoạt động văn hoá thực dân đáp
ứng được ở mức độ nhất định mục tiêu tuyên truyền chủ nghĩa, tư tưởng thực dân ở
nước ta. Mặt khác nó tạo ra những hiệu ứng nằm ngoài mong muốn của kẻ đã tạo ra
nó - đó là một trào lưu văn hoá yêu nước, cách mạng, góp phần truyền bá những tư
tưởng tích cực, tiến bộ trong nhân dân, tạo tiền đề cho những bước tiến mới của
phong trào dân tộc ở nước ta.
Nội dung hệ tư tưởng, văn hoá thực dân Pháp cố công thiết lập ở nước ta như
bệ đỡ tinh thần cho sự cai trị chính trị của chúng tập trung cho việc ca ngợi nước
Pháp, công ơn khai hoá của nước mẹ Pháp, sự biết ơn của người Việt với công ơn
khai hoá này, làm cho người Việt hướng tới và ngưỡng mộ văn hoá Pháp và văn
minh phương Tây (ở đây là một thứ văn hoá phản động chứ không phải tư tưởng
dân chủ tư sản tiến bộ của Pháp) hay ít nhất chấp nhận “sự đô hộ của Pháp là một
thực tế mà chúng ta không thể làm gì chống lại nó và chúng ta phải coi nó là một
yếu tố. Hãy chấp nhận nó với tất cả các hậu quả của nó, và hãy tìm cách rút ra từ đó
cái khả năng có lợi nhất” [130, tr.329]... từ đó có tâm lý vong bản, tự ti, coi thường
văn hoá truyền thống của dân tộc, phủ nhận văn hoá, lịch sử dân tộc, tự coi mình
thấp kém. Mặt khác cùng với việc truyền bá tư tưởng thực dân là truyền bá tư tưởng
chống cộng, chống tất cả những gì là văn minh, tiến bộ có nguy cơ tràn đến đất
nước này và đe doạ tới an ninh của chế độ thực dân.
113
Như vậy, bằng những quy định trong việc sử dụng ngôn ngữ, bằng chính sách
giáo dục, chính sách đầu tư vào lĩnh vực văn hoá và những quy định về báo chí,
xuất bản, thực dân Pháp đã ra sức truyền bá tư tưởng, văn hoá thực dân, phủ nhận
văn hoá, truyền thống bản địa của Việt Nam. Chúng cố gắng tạo ra những con
người (cả người Việt và người Pháp) có “tâm hồn thực dân” làm cơ sở về tư tưởng,
văn hoá cho sự cai trị chính trị của chúng.
2.3.4. Xác lập cơ sở xã hội cho sự cai trị thuộc địa
Thực dân Pháp cai trị thuộc địa Việt Nam thông qua bộ máy chính quyền thuộc
địa. Bộ máy đó gồm hai hệ thống chính quyền đó là: hệ thống chính quyền của
người Pháp ở Việt Nam (hay chính quyền thực dân) và hệ thống chính quyền của
người bản xứ (hay chính quyền phong kiến bản xứ). Để tiến hành việc cai trị, thực
dân Pháp đã tiến hành thiết lập cơ sở xã hội cho cả hai hệ thống chính quyền này.
a. Cơ sở xã hội cho hệ thống chính quyền thực dân
Cơ sở xã hội cho hệ thống chính quyền thực trước hết phải kể đến là một bộ
phận của GCTS Pháp ở Việt Nam. Đây là cơ sở xã hội đặc biệt quan trọng cho sự
cai trị thuộc địa. Đó là lực lượng “có ưu thế tuyệt đối trong xã hội Việt Nam” thời
Pháp thuộc. “Những nhà tư sản đó dày dạn kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, lại
được hỗ trợ bởi một nền tài chính hùng mạnh và được sự ưu tiên, ưu đãi của chính
quyền thực dân nên luôn đứng ở vị trí then chốt trong nền kinh tế” [63, tr.68]. Họ có
vị trí “yết hầu” trong nền kinh tế Đông Dương và chi phối nhiều hoạt động khác
trên đất nước ta. Địa vị kinh tế và chính trị của họ ở Đông Dương nói chung và Việt
Nam nói riêng ngày càng được củng cố do được chính quyền ưu tiên đặc biệt, nhất
là trên lĩnh vực kinh tế. Họ có “quyền được vay vốn ngân hàng, quyền được thầu
các công trình lớn, quyền được miễn giảm thuế” [63, tr.64].
Chính sách nhượng đất, lập đồn điền của thực dân Pháp còn sản sinh ra một lực
lượng địa chủ người nước ngoài ở Việt Nam mà chủ yếu là địa chủ Pháp. Họ là
những người Pháp ở thuộc địa Việt Nam, có trong tay một lượng ruộng đất nhất
định (ít hơn so với tư sản Pháp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp) và sử dụng
nó như công cụ để bóc lột nông dân Việt Nam. Ranh giới giữa địa chủ Pháp và tư
114
sản Pháp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đôi khi khá mong manh. Lực
lượng địa chủ Pháp cũng là một cơ sở xã hội cho chính quyền của thực dân Pháp ở
nước ta.
Sau nữa, phải kể đến là những người Pháp khác (không kể GCTS Pháp và địa
chủ Pháp đã trình bày ở trên) theo bước chân của kẻ xâm lược sang Đông Dương và
Việt Nam. Họ hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng ở thời kỳ đầu thì
đông nhất là cảnh sát và binh lính, lực lượng đại diện cho đội quân viễn chinh xâm
lược và là công cụ của chính quyền thực dân. Sau khi bình định được đất nước ta
(sau 1874 ở Nam Kỳ và sau 1884 ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ) thì không thể không kể
đến đội ngũ quan lại và công chức người Pháp trong chính quyền thuộc địa ở Việt
Nam. Đây chính là lực lượng đại diện trực tiếp cho giai cấp cầm quyền trong bộ
máy nhà nước của họ. Lực lượng này được đào tạo trong các trường như: Trường
Tập sự sau đổi thành Trường Thông ngôn (thành lập tại Sài Gòn, 1873) và sau nữa
là Trường Thuộc địa (thành lập ở Pari, 1889). Với cách tuyển chọn bài bản và quy
củ, đội ngũ này sau khi tốt nghiệp được trang bị “những kiến thức thực dân” như:
kiến thức về lập pháp ở chính quốc và thuộc địa, kiến thức về tổ chức cai trị ở Đông
Dương (lịch sử xâm chiếm Đông Dương, việc thiết lập Liên bang Đông Dương,
những nguyên lý chung của công cuộc thực dân của nước Pháp...) bên cạnh những
kiến thức chuyên ngành (đã có trước khi được xét dự thi vào các trường đào tạo
này). Và với bước đường “quan lộ” được quy định khá chặt chẽ từ quan cai trị tập
sự lên quan cai trị hạng 5 rồi hạng 4, hạng 3, hạng 2, hạng nhất, lên lãnh đạo cấp xứ
rồi lãnh đạo cấp toàn Liên bang, thực dân Pháp đã tạo ra một đội ngũ quan lại và
công chức cai trị “giàu kinh nghiệm thực dân”. Đây là một cơ sở xã hội vững chắc
cho sự cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Hàng nghìn người Âu này đã được hưởng những sự ưu đãi đặc biệt (về mọi
mặt so với người bản xứ) để trở thành một cơ sở xã hội không thể thiếu của chính
quyền thực dân. Tất cả các công dân Pháp đều được khuyến khích khi có ý định
sang Đông Dương định cư. “Đa số cư dân Pháp tại Đông Dương là các công chức -
có nghĩa là các khách trọ tạm thời tại các thuộc địa, là những kẻ, với chức vụ bảo
115
đảm, tự nhiên phải ngả về một chính sách thống trị” [197]. Bên cạnh sự hấp dẫn về
chức quyền, họ còn bị thu hút sang Đông Dương bởi số lương bổng lớn hơn nhiều
so với ở chính quốc. Trong bộ máy chính quyền thuộc địa quan chức từ cấp tỉnh trở
lên phần lớn đều do người Pháp nắm giữ. Họ có vị thế, vai trò và tiếng nói đặc biệt
trong chính quyền này. Một số cơ quan chủ chốt của chính quyền thì 100% là người
Pháp. Sử dụng họ như công cụ đắc lực, không thể thiếu của chính quyền nên chính
quyền đã dành cho họ những quy chế ưu tiên, ưu đãi rất lớn. Năm 1913, có khoảng
23.700 người Pháp trên toàn Đông Dương (phần lớn họ sống ở Việt Nam) so với
dân số Việt Nam lúc đó là 14.165.000 người [63, tr.66]. Năm 1937, số người Pháp ở
Việt Nam là 30.000 người trong đó một nửa là những quân nhân… vai trò quan
trọng ở trong tay các công chức người Pháp và các tư nhân hoạt động trong những
lĩnh vực kỹ nghệ, thương mãi và ngân hàng [4, tr.240,241]. Người Pháp ở Việt Nam
phần lớn sinh sống tại các đô thị lớn - nơi có điều kiện tốt về nhiều mặt so với nông
thôn. Họ sống trong những khu riêng - khu người Pháp - phân biệt với những khu
bản xứ: “Pháp kiều sống trong những khu riêng biệt ở các đô thị lập nên một xã hội
đóng chặt, có những thành kiến và những quy định riêng của nó. Họ rất ít tiếp xúc
với dân Việt ngoài những sự tiếp xúc kinh tế hay hành chánh cần thiết”[4, tr.241].
Con cái họ phần lớn theo học những trường dành riêng cho người Pháp, chứ rất ít
học trong những trường Pháp - Việt có cả học sinh người bản xứ. Họ nhìn người
Việt Nam một cách méo mó qua lăng kính những người Việt Nam phục vụ cho họ
(người bồi, người bếp…). Chính vì vậy, những người Pháp này thường coi thường,
khinh bỉ người bản xứ. Nhìn chung, bộ phận Pháp kiều ở Việt Nam dù là nhà tư sản
hay binh lính, cảnh sát, công chức thuộc địa… họ đều được xử sự theo nguyên tắc
phân biệt đối xử so với người bản xứ để thực sự trở thành một cơ sở xã hội cho sự
thống trị chính trị.
Người Pháp, từ viên Tây Đoan cho đến Toàn quyền Đông Dương đều được
ưu đãi và kính trọng đối xử. Tất cả các nhà kinh doanh Pháp đều được quyền
ưu tiên về mọi mặt. Chính quyền thuộc địa luôn khích lệ, tạo điều kiện cho
họ[63, tr.72].
116
Một bộ phận khác trong hệ thống chính quyền thực dân là cơ sở xã hội không
kém phần quan trọng cho sự cai trị thuộc địa của thực dân Pháp là đội ngũ công
chức, viên chức, binh lính người Việt hưởng lương trong bộ máy hành chính của
Pháp. Lực lượng này năm 1904 ở Bắc Kỳ được thực dân Pháp quy định “nằm trong
diện hàng năm xét tăng phẩm hàm… Từ hàm nhất phẩm đến hàm tam phẩm do
Toàn quyền Đông Dương ban cấp. Từ hàm tứ phẩm trở xuống đến cửu phẩm do
Thống sứ Bắc Kỳ ban cấp” [127, tr.266]. Ở Trung Kỳ muộn hơn, vào năm 1912,
Pháp quy định “việc ban cấp phẩm hàm cho các công chức và binh lính người Việt
làm tại các công sở của Pháp”[127, tr.266] để họ có thể trở thành cơ sở xã hội cho
sự cai trị chính trị của chúng. Lực lượng này chiếm số lượng rất ít ỏi như phòng
thương mại Hà Nội có 10 người thì chỉ có 2 người Việt, 8 người Pháp; sở canh nông
Bắc Kỳ chỉ có 1/5 số người là người Việt… và có vị trí vai trò rất hạn chế trong hệ
thống chính quyền thực dân. Họ có vị trí “đa số là tư vấn, không có quyền quyết
nghị, trong một số cơ quan còn cấm không được đề cập đến các vấn đề chính trị”
[63, tr.63]. Lực lượng này là chiếc cầu nối giữa chính quyền thực dân và người bản
xứ, phần lớn họ là trí thức Tây học thân Pháp, được Pháp tạo ra bằng con đường
giáo dục và cho hưởng những quyền lợi nhất định để phục vụ cho chúng. “Nền giáo
dục mới (nền giáo dục Pháp - Việt) hướng tới một sự đồng hoá tách rời khỏi hoàn
cảnh truyền thống, và chỉ giới hạn cho một thiểu số mà nó muốn làm trở thành
những nhân viên thừa hành” [4, tr.219]. Ngay trong chính sách giáo dục đã hàm ý
rất rõ mục tiêu lựa chọn những công chức tương lai cho nền chính trị thuộc địa: “chỉ
những phần tử thông minh nhất (trong dân bản xứ) mới lên học những lớp cao đẳng
tiểu học trong các trường “franco-annamites”để sau này có thể theo học những
trường trung học mà chương trình giảng huấn hoàn toàn là chương trình Pháp” [4,
tr.216]. Tuy nhiên, họ luôn chịu một chính sách phân biệt đối xử công khai của
chính quyền thuộc địa. Nếu như trong công sở có hai người, một Pháp và một Việt
có bằng cấp tương đương, người Pháp được xếp ở ngạch cao hơn, lương bổng cũng
cao hơn hẳn.
Như vậy, lực lượng tư sản Pháp ở Việt Nam, cảnh sát, binh lính, công chức
117
người Pháp, đội ngũ công chức, viên chức người Việt hưởng lương trong bộ máy
hành chính của Pháp đều là cơ sở xã hội quan trọng cho chính quyền thực dân. Với
mỗi đối tượng này, thực dân tư sản Pháp đều có chính sách về kinh tế, chính trị phù
hợp để đảm bảo lợi ích nhất định của họ nhằm hướng họ phục vụ một cách tốt nhất
cho sự nghiệp của nước Pháp tại Việt Nam.
b. Cơ sở xã hội cho hệ thống chính quyền phong kiến bản xứ
Trước khi tạo ra những lực lượng xã hội làm cơ sở cho hệ thống chính quyền
phong kiến bản xứ, thực dân Pháp đã thẳng tay loại trừ những lực lượng xã hội mà
theo chúng là rất nguy hiểm cho sự cai trị thuộc địa. Trước hết là với giới sĩ phu
đặc biệt là số quan lại có thái độ chống Pháp. Theo nhận thức của chúng: “Rõ ràng
là vì bọn sĩ phu có quyền hành to lớn... nên chúng ta cần phải loại trừ bọn đó đi.
Chừng nào bọn sĩ phu còn tồn tại, chừng đó chúng ta còn lo” [127, tr.255]. Và âm
mưu đó của Pháp đã được cụ thể hoá trong nhiều văn kiện điển hình như trong điều
14, hiệp ước Hácmăng và điều 7 hiệp ước Patơnốt. Tuy nhiên, thực tiễn đã dạy
chúng rằng: “Kẻ nào nắm được những phần tử có học, sẽ nắm được vương quốc,
bởi vậy phải sử dụng họ chứ không phải là chống lại họ” [127, tr.257, 258]. Với sự
thay đổi trong nhận thức như vậy, thực dân Pháp đã chuyển từ đường lối tiêu diệt
tầng lớp sĩ phu sang đường lối thi hành những chính sách, thủ đoạn nhằm nắm và
sử dụng những người có học phục vụ cho sự cai trị chính trị của chúng.
Trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, chính quyền phong kiến là lực lượng lãnh
đạo dân tộc. Sau khi thôn tính đất nước ta, Pháp duy trì một bộ phận của chính
quyền phong kiến và sử dụng chính quyền này làm công cụ cho sự cai trị thuộc địa.
Với chính quyền địa phương cấp xã, thực dân Pháp duy trì hình thức quản lý
cấp xã đã bị chế độ phong kiến bản địa làm biến chất làm công cụ thống trị chính trị
của chúng ở địa phương. Do đó chúng đặc biệt chú ý tới những con người hoạt động
trong các tổ chức hành chính cấp xã này. Trong bộ máy hành chính cấp xã, thực dân
Pháp đã nhận thức được khá rõ vai trò của lý trưởng hoặc xã trưởng. Nhân vật này
là chiếc cầu nối giữa xã và chính quyền cấp trên. Đó là “chiếc ổ khoá” cần nắm lấy
để có thể thâm nhập vào xã thôn Việt Nam. Do vậy, chính quyền thực dân đã quy
118
định việc chọn lý trưởng, xã trưởng phải do chúng quyết định. Xã chỉ có quyền lựa
chọn và giới thiệu. Với các nhân vật khác thuộc bộ máy hành chính làng xã, chúng
khống chế, ràng buộc bằng các hình thức khen thưởng và kỷ luật để thực hiện mục
tiêu của chúng. Mặt khác, chúng mở rộng quyền lực của lý trưởng, xã trưởng rất
nhiều so với trong chế độ phong kiến. Lý trưởng, xã trưởng không chỉ có nhiệm vụ
chấp hành những quyết định của Hội đồng Kỳ mục xã như dưới thời phong kiến mà
còn được bàn và quyết nghị việc làng - một điều mà dưới chính quyền phong kiến
không được phép. Với việc “nặn ra” các lý trưởng, xã trưởng theo mong muốn của
thực dân, “chính quyền thực dân không còn dừng lại ở cửa ngõ xã như chính quyền
phong kiến trước đây nữa, mà nó đã thâm nhập sâu vào những hoạt động nội bộ của
xã, thông qua việc nắm bộ phận quyết nghị xã” [127, tr.235]. Như vậy, ở cấp chính
quyền địa phương, lý trưởng, xã trưởng thực sự đã trở thành một cơ sở xã hội đắc
lực cho sự cai trị thực dân.
Thực dân Pháp đã có chính sách riêng với bộ phận quan lại phong kiến trong
chính quyền cấp Tỉnh và cấp Trung ương:
Hệ thống quan lại phong kiến được cải tạo dần dần bằng nhiều biện pháp cho
phù hợp với hoàn cảnh mới. Hệ thống này được thiết lập chủ yếu qua con
đường khoa cử nên để thực hiện mục đích trên, thực dân Pháp thay đổi một
số quy chế nhằm cải tạo dần tầng lớp trí thức cũ: năm 1898 thêm vào chương
trình thi Hương hai môn tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Năm 1897 mở Trường
Hậu bổ ở Hà Nội để đào tạo các trí thức có chút kiến thức Tây học ra làm
quan phục vụ chính quyền thuộc địa [63, tr.61].
Thái độ của thực dân với các quan chức bản xứ được chúng xác định như sau:
“Về phương diện xã hội thì ta tỏ cách tử tế với các quan chức bản xứ, những chức
dịch ta nên tỏ lòng trọng đãi cho xứng đáng” [179, tr.40]
Việc sử dụng đội ngũ quan chức bản xứ này được thực dân Pháp ý thức một
cách rõ ràng và chúng sử dụng lực lượng này một cách đầy mưu mô, xảo quyệt:
Biến đội ngũ các quan chức (quan chức bản xứ) thành một liên minh có ý
thức và có sức mạnh hơn là những tay sai không quyền lực, không sáng kiến,
119
không ý chí… tức là những người cộng tác thông minh, có ý thức và mạnh,
có giá trị, có quyền lực thực sự, đóng đủ ba vai trò là những người chỉ điểm,
những người cộng tác và người có trách nhiệm [179, tr.44]
Để tạo ra những kẻ cai trị bản xứ, thực dân Pháp dần thiết lập chương trình giáo
dục Pháp - Việt thay thế chương trình giáo dục thời phong kiến. Sau này, vào năm
1917, Trường Hậu bổ được thay bằng Trường Pháp chính đào tạo lớp học sinh tân
học ra làm quan theo ngạch Tây. Đây là một lộ trình đã được tính toán rất chi tiết và
bài bản nhằm mục tiêu giảm dần quyền lực của các thế lực phong kiến cũ và tăng
dần quyền lực của thực dân Pháp và lực lượng “phong kiến mới” ở Việt Nam. Tuy
nhiên, một điều đáng lưu tâm ở đây là không phải toàn bộ lớp học sinh tân học do
Pháp đào tạo đều đi theo Pháp và tạo thành cơ sở xã hội cho sự cai trị của chúng ở
nước ta. Một số đã đi theo cách mạng và chống Pháp quyết liệt bằng chính những
kiến thức đã học được từ trường Pháp.
Bằng chính sách “Cải lương hương chính” chúng đã từng bước “đưa giai cấp
địa chủ mới, sản phẩm của chế độ giáo dục thực dân lên thay thế lớp địa chủ cũ chịu
ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo” [62, tr.65]. Biện pháp này cũng làm cho mối
quan hệ giữa thực dân Pháp và đội ngũ quan lại bản xứ (tay sai của Pháp) ngày càng
gắn bó chặt chẽ.
Như vậy là tập đoàn thống trị thực dân Pháp đã chuẩn bị khá tinh vi và khá
chu đáo để đưa toàn bộ lớp tri thức tân học... mà kiến thức do thực dân Pháp
nhồi nhét, phẩm hàm do thực dân Pháp ban cấp, chức vụ do thực dân Pháp
bổ nhiệm về chế ngự nông thôn là cấp chính quyền thấp nhất trong hệ thống
chính quyền thuộc địa của chúng [127, tr.267]
Một bộ phận tối quan trọng khác tạo cơ sở xã hội vững chắc cho sự cai trị thực
dân là lực lượng địa chủ phong kiến. Trong chế độ thuộc địa, giai cấp địa chủ gia tăng
về số lượng so với thời phong kiến. Dưới sự dung dưỡng của thực dân Pháp, thế lực
kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp địa chủ phong kiến không những không bị suy
giảm mà còn được củng cố và phát triển. “Bên cạnh các địa chủ “nhà quê” là các địa
chủ người nước ngoài và các địa chủ người Việt khác, được sinh ra trong cơ chế
120
“nhượng đất, lập đồn điền”” [179, tr.587]. Thông qua nhiều chính sách của thực dân
Pháp, điển hình là chính sách điền địa, sự tích tụ và tập trung ruộng đất vào tay lực
lượng này ngày càng cao. “Sự tập trung đất đai trong tay một số điền chủ là một sự
kiện ngày một phát triển dưới thời Pháp thuộc… Chính sách điền thổ của chính
quyền thuộc địa đã tạo thuận lợi cho sự thành lập các đại địa sản” [4, tr.225,226]. Đó
là chính sách bán những lô đất rộng mới được khai khẩn với giá rẻ làm cho những
tiểu nông không có tư bản không thể trở thành chủ sở hữu của những lô đất này. Việc
mua bán mà một bên là chính quyền cũng loại bỏ những người không am hiểu thủ tục
hành chính có thể sở hữu được những lô đất đó thay vào là những người Việt làm
trong bộ máy chính quyền thực dân Pháp vì thông thạo thủ tục và đầy đủ thông tin đã
mua được với giá hời. Chính sách của thực dân Pháp dẫn tới sự bần cùng hoá nông
dân, làm cho nông dân lâm vào cảnh nợ nần mà kết quả là: “Tình trạng mắc nợ của
nông dân đưa đến sự cầm cố hay bán đợ đất đai, khiến đất cày ngày một tập trung
trong tay các phú nông và các chủ đất cũ” [4, tr225].
Sự phân hoá trong giai cấp địa chủ phong kiến thành địa chủ nhỏ, địa chủ vừa
và địa chủ lớn ngày càng rõ rệt. Đã xuất hiện những đại địa chủ, nhất là ở Nam Kỳ.
Họ lập nên một tầng lớp thượng lưu. Thế lực kinh tế của giai cấp này được đo bằng
số ruộng đất tập trung trong tay họ. Việc sở hữu diện tích canh tác lớn là công cụ để
giai cấp địa chủ, phong kiến duy trì sự bóc lột đối với nông dân, đảm bảo sự tồn tại
của một trật tự xã hội phù hợp với lợi ích của bọn thực dân, phong kiến. Mặt khác,
bộ phận này thông qua các chính sách của chính quyền thực dân, thường được đưa
vào bộ máy chính quyền cơ sở (hai trong một, vừa là địa chủ, vừa là quan cai trị)
nên cùng với quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị của địa chủ, phong kiến Việt
Nam ngày càng được củng cố. Giai cấp địa chủ chiếm đa số trong cơ cấu chính
quyền các hương thôn như trong Hội đồng Kỳ mục, Hội đồng Tộc biểu,… Thực dân
Pháp còn tạo điều kiện cho lực lượng này tham gia vào các tổ chức chính quyền
bên trên như các Hội đồng Dân biểu, Hội đồng Quản hạt… Một bộ phận trong lực
lượng xã hội này sống tại các đô thị lớn theo nếp sống mới của Phương Tây, con cái
họ đa phần được gửi đi du học tại châu Âu làm cho mối quan hệ và sự phụ thuộc
121
của họ với thực dân ngày càng lớn. Được thực dân đảm bảo cả về quyền lực kinh tế
và quyền lực chính trị, sự trung thành và mối quan hệ gắn bó giữa địa chủ phong
kiến Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng bền chặt.
Một bộ phận người Việt khác mà Pháp cũng rất chú ý trong chính sách với họ là
tư sản mại bản. Họ là những người đứng ra bao thầu các bộ phận kinh doanh của
Pháp như thầu làm cầu đường, đồn bốt… hay làm đại lý phân phối hàng hoá của
chúng trong nhân dân. Khi hàng hoá Pháp nhập vào Việt Nam tăng mạnh sau chiến
tranh thế giới 1914-1918 thì số người làm đại lý phân phối hàng hoá Pháp cũng tăng
lên nhanh chóng. Có người còn góp cổ phần với Pháp. Bộ phận tư sản mại bản ngày
càng đông đảo lên với sự đầu tư của tư bản Pháp. Một số đã có trong tay những sản
nghiệp lớn. Quyền lợi của lực lượng này gắn chặt với thực dân. Lực lượng này
thường chấp nhận các tập tục và lối sống Tây phương và thường gửi con em đi du
học ở Pháp. Mặc dù, GCTS Việt Nam, gồm tư sản mại bản và tư sản dân tộc, bị
thực dân Pháp chèn ép và cản trở từ nhiều phía, hạn chế sự phát triển và thường ở
một trạng thái thấp kém về chính trị. Họ không đủ sức mạnh kinh tế để thể hiện các
tham vọng chính trị của họ. Tuy nhiên, lực lượng tư sản mại bản này vì có quyền lợi
gắn bó với thực dân Pháp, sự tồn tại của họ có lợi cho sự cai trị thuộc địa nên lực
lượng này nhìn chung được thực dân khá ưu ái về mặt kinh tế so với tư sản dân tộc.
Một bộ phận địa chủ phong kiến (đặc biệt đại địa chủ) cùng với một số lực
lượng xã hội khác thuộc tầng lớp tư sản mại bản (như các thương gia và các doanh
gia), những viên chức người Việt trong bộ máy hành chính của Pháp … mà lợi ích
của họ gắn chặt với CNTD tập hợp thành tầng lớp thượng lưu bản xứ. Lực lượng
này là bộ phận xã hội không thể thiếu cho sự cai trị thuộc địa và là đối tượng chính
trong chính sách “Bản xứ” của thực dân Pháp ở Việt Nam. “Cái cốt lõi của chính
sách này là tạo ra và dựa vào một tầng lớp “thượng lưu”, “ưu tú” để lôi kéo các tầng
lớp xã hội khác trong công cuộc khai thác về kinh tế và “chinh phục trái tim, khối
óc” dân thuộc địa” [179, tr.35]. Nếu chính sách này được thực hiện thành công,
người bản xứ (mà chủ yếu là tầng lớp thượng lưu bản xứ) sẽ trở thành công cụ đắc
lực để Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, từ đó giải toả những khó khăn trong
122
nước Pháp và giúp Pháp bành trướng thế lực ra bên ngoài, khẳng định vị thế của
mình trên trường quốc tế. Như vậy, chính sách này không chỉ giúp Pháp thực hiện
thành công sự cai trị chính trị tại thuộc địa Việt Nam mà sâu xa hơn còn giúp Pháp
khẳng định vị thế quốc tế của mình. Đầu tư cho tầng lớp này thực dân Pháp có mục
đích là để tạo ra “những cộng tác viên trung thực và trung thành” cho chế độ thuộc
địa, để họ “duy trì cái trật tự”, kỷ cương trong nước (vì muốn khai thác thuộc địa
phải có một sự yên ổn về chính trị). Và, “những người tài giỏi có thể cùng chúng tôi
(thực dân Pháp) ra cáng đáng cái trách nhiệm nặng nề trong việc cai trị xứ này”
[179, tr.36]. Họ chính là cơ sở xã hội tối quan trọng của chế độ thuộc địa của Pháp
tại Việt Nam. Biện pháp để tạo ra lực lượng thượng lưu bản xứ như mong muốn của
nhà cầm quyền Pháp rất đa dạng. Có thể thông qua giáo dục “phải dạy cho bọn
thượng lưu ngày càng có học…biết cái danh nghĩa làm dân, vừa có quyền lợi, vừa
có nghĩa vụ”, có thể bằng biện pháp kinh tế “ban cho (bọn thượng lưu bản xứ)
những quyền lợi tương đương cho xứng đáng”, bằng thái độ ứng xử “tỏ ra tử tế”,
“tỏ lòng trọng đãi” và bằng tổng hợp nhiều phương pháp: “phải để cho bọn thượng
lưu trí thức được có địa vị cao trọng và xứng đáng, giống như người Hà Lan đã làm
được ở Ja va” [179, tr.43]. Nhà cầm quyền phải có biện pháp làm cho bọn thượng
lưu bản xứ ngày càng đông thêm lên, “phải tìm đường mở rộng lần lần cái bọn
thượng lưu ấy ra”. “Chính sách bản xứ” được thực dân nhìn nhận là “cái gốc của sự
yên ổn”. Chính sách này có quá nhiều “ưu việt”. Thứ nhất, về mặt chính trị, nó mị
dân, tạo ra “cảm giác giả tạo về sự độc lập, tự chủ” khi người bản xứ điều hành
người bản xứ, tránh cho thực dân phải xuất đầu lộ diện trực tiếp, đảm bảo “uy tín
của chế độ cai trị” và làm cho người bản xứ không bị mặc cảm vì bị áp bức bởi
người ngoại quốc. Thứ hai, về kinh tế, nó tiết kiệm cho ngân quỹ rất nhiều vì lương
của một viên chức bản xứ thấp hơn nhiều so với lương của một viên chức người Âu
(thấp hơn khoảng 10 lần).
Như vậy, bằng các chính sách khác nhau, thực dân Pháp đã cố gắng loại trừ,
tiêu diệt những lực lượng xã hội mà sự tồn tại của họ đe doạ tới sự sống còn của
chính quyền thuộc địa mà trước hết và quan trọng nhất là tầng lớp sĩ phu. Tiếp đó,
123
bằng nhiều cách khác nhau, chúng tạo ra và củng cố địa vị cho những lực lượng xã
hội cả người Pháp cũng như người Việt, có lợi ích gắn bó chặt chẽ với thực dân. Họ
là: tư sản Pháp, cảnh sát, binh lính, công chức người Pháp, công chức người Việt
trong bộ máy hành chính của Pháp, quan chức và công chức trong chính quyền
phong kiến cũ, địa chủ Việt Nam bán nước (phần lớn là đại địa chủ), tư sản mại
bản. Trong đó bộ phận người Việt có lợi ích gắn chặt với lợi ích thực dân, phụ
thuộc hữu cơ vào lợi ích thực dân được gọi là tầng lớp thượng lưu bản xứ, được
Pháp đối xử bằng “chính sách bản xứ”. Tất cả những lực lượng kể trên đều được
thực dân ưu ái ở các mức độ khác nhau tuỳ theo lợi ích mà họ có thể đem lại cho
bọn thực dân và cho chế độ cai trị của chúng.
Kẻ cai trị tất yếu phải có người bị cai trị. Và những người bị cai trị cũng là một
cơ sở xã hội quan trọng của sự cai trị thuộc địa. Họ là khối quần chúng đông đảo
(phần lớn là nông dân, công nhân) bị bần cùng hoá đến độ dường như tê liệt khả
năng chống đỡ và tồn tại không như những con người nữa: “bị bịt mồm và bị giam
hãm, bị làm cái đồ để tế ông thần tư bản, người ta tin rằng bầy người đó không sống
nữa, không biết suy nghĩ nữa và hoàn toàn vô dụng trong việc cải tạo xã hội”
(Nguyễn Ái Quốc). Trong quá trình cai trị Việt Nam gần trăm năm, thực dân Pháp
gần như không đoái hoài gì đến nhu cầu, lợi ích và khát vọng của lực lượng xã hội
này. Tất cả những gì chúng làm chỉ càng làm cho mâu thuẫn giữa những người bị
cai trị với kẻ thống trị ngày càng sâu sắc và chúng đã phải trả giá đắt cho điều đó.
Từ các cơ sở của chính trị thực dân - phong kiến mà Pháp thiết lập ở nước
ta, có thể có một vài nhận xét như sau:
Những cơ sở về mọi mặt cho sự cai trị thuộc địa mà thực dân Pháp thiết lập ở
nước ta nhằm tối đa hoá lợi ích thực dân đã tạo ra một diện mạo mới của dân tộc
Việt Nam trên nhiều phương diện. Nằm ngoài chủ đích thực dân, những tiền đề cho
sự ra đời một xã hội mới tiến bộ hơn đã manh nha hình thành từ chính những cơ
sở do chúng thiết lập. Và bên cạnh những tác động tiêu cực, những cơ sở được tạo
ra đó cũng chứa đựng ít nhiều những nhân tố tích cực với sự phát triển của xã hội
đúng như Mác đã chỉ ra tính hai mặt của CNTD: Mặt phá hoại và mặt xây dựng.
124
Một mặt, nó tiêu diệt xã hội cũ của châu Á, mặt khác, nó xây dựng những cơ sở vật
chất của xã hội phương Tây ở châu Á [89,tr.285]. Hay nói như David Pickus, đó là
một “sự tàn phá mang tính sáng tạo”. Ông khẳng định: “sự đứt gãy của hệ thống xã
hội phương Đông bởi bàn tay của tư bản châu Âu là một điều gì đó khiến cho lịch
sử tiến về phía trước và dịch chuyển đi lên” [195].
Trên nền tảng một phương thức sản xuất có tính chất TBCN cao hơn hẳn
phương thức sản xuất phong kiến đang tồn tại ở Việt Nam trước khi nước ta bị xâm
lược dần được định hình, thực dân Pháp đã dần thiết lập một quan hệ sản xuất mới
và tương ứng với nó là các nhân tố mới trong kiến trúc thượng tầng và đời sống xã
hội. Về mặt kỹ thuật, có thể khẳng định, những yếu tố nhất định của văn minh
phương Tây đã hiện diện ở nước ta dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Giáo sư Trần
Văn Giàu cho rằng: “Pháp đã lần lần tạo ra được một số cơ sở vật chất, cơ sở kĩ
thuật (bến tàu, cầu đường, dây thép, nhà máy, xưởng sửa chữa…) cho một cuộc đầu
tư quy mô lớn. Hệ thống đường bộ, đường sắt xuyên Đông Dương, kênh đào được
hoạch định, khởi công và hoàn thành từng bộ phận trong thời gian lịch sử từ cuối
thế kỉ XIX đến trước Chiến tranh thế giới. Phần nhiều các xí nghiệp, nhà máy, công
ty thương mại, ngân hàng quan trọng nhất Đông Dương cũng đều được dựng lên
trong thời gian này... Điều mới mẻ là sự xuất hiện các thành thị…” [38,
tr.15,18].Trong cuốn “Lịch sử Đông Nam Á”, các tác giả cũng khẳng định: “Về
khía cạnh kinh tế, CNTD có đầu tư và khai thác. Sự đầu tư đó (cả về cơ sở vật chất
như cơ sở hạ tầng, hay đặt nền móng cho các quốc gia này bước vào xã hội công
nghiệp, hoà nhập với thị trường thế giới; hoặc trong lĩnh vực nghiên cứu khu vực
nhiệt đới như nghiên cứu nông nghiệp nhiệt đới…) tạo cơ sở để sau này Đông Nam
Á có bước đệm phát triển” [114, tr.248]. Các thế lực đế quốc đã cung cấp cho các
nước Đông Nam Á một khối lượng vốn và kĩ năng công nghệ, đặc biệt những yếu tố
kinh tế TBCN xuất hiện. Đây là điều kiện tốt cho nền kinh tế Đông Nam Á tiếp tục
phát triển trong các giai đoạn độc lập sau đó. PGS Nguyễn Văn Hồng đánh giá về
chế độ thực dân một cách khái quát trên cả hai mặt như sau: “Hàng trăm năm dưới
ách thống trị thực dân, dù bị phá hủy, cả cái có giá và cả trở lực “sức ì của truyền
125
thống” (retarding forces) ngay cả nếp sống dù thói quen, tập quán nhưng phản khoa
học của các dân tộc lạc hậu, thì bản thân sự “phá hoại xã hội châu Á” cũng không
phải hoàn toàn là không có mặt tích cực, tạo mặt bằng cho công cuộc xây dựng xã
hội mới. CNTB thực dân tuy có mặt kìm hãm, phá hủy song ta phải thấy mặt nó đã
kích thích, vun trồng một xã hội mới, nhập kỹ thuật sản xuất kinh doanh, đầu tư
nâng cao sản xuất xã hội và cả tư tưởng tự do dân chủ được truyền bá”[56, tr.88,89].
Hay như nhà nghiên cứu Lê Doãn Tá nhận định: “CNTB đế quốc ... phá vỡ hàng
rào ngăn cách giữa các dân tộc. Sự quốc tế hoá đời sống kinh tế chung gắn với sự
xuất khẩu tư bản, khai thác các thuộc địa. Tất nhiên gắn với nó đã từng là sự nô
dịch, bạo lực, bóc lột nhân lực, vật lực, tài lực các thuộc địa mà các dân tộc phải
đứng lên chống lại CNĐQ thực dân. Song về mặt khách quan mà nói, dù chỉ giới
hạn trong sự quốc tế hoá đời sống kinh tế theo chiều dọc của hệ thống thuộc địa của
một nước đế quốc nhất định, sự quốc tế hoá đời sống kinh tế ấy cũng đã tạo ra tiền
đề kinh tế cho sự phát triển, kể cả tạo ra giai cấp vô sản bản xứ ở các thuộc địa,
tạo tiền đề vật chất, tiền đề kinh tế cho sự thống nhất và hoà nhập quốc tế về sau
này” [207]
Những cơ sở về nhiều mặt cho sự cai trị thuộc địa mà Pháp tạo ra ở nước ta
nhằm mục tiêu nô dịch người dân thuộc địa, phục vụ cho CNTD. Nhưng nếu như
chúng ta giành được độc lập, thoát khỏi sự nô dịch của CNTD, chúng ta sẽ có cơ
hội được sử dụng các “thành quả” này cho sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập
quốc tế.
Triết lý phát triển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn khẳng định rằng: trên nền tảng
sự phát triển của phương thức sản xuất, kiến trúc thượng tầng của một xã hội, vấn
đề là con người với tư cách con người cá nhân cũng như con người cộng đồng phải
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, được tạo điều kiện để có thể phát
triển mọi năng lực trong tự do và sáng tạo. CNTD, chính trị thực dân - phong kiến
đã tạo nên những sự thay đổi đáng kể trong lực lượng sản xuất ở các thuộc địa theo
hướng phát triển đồng thời với những giá trị nhất định trong các mặt, các yếu tố của
đời sống xã hội nhưng trên cơ sở nô dịch con người (nhân dân thuộc địa), biến con
126
người thành súc vật, thành “bầy người”. Xét ở yếu tố phát triển con người thì chính
trị thực dân - phong kiến là một nền chính trị cực kỳ phản động và phi nhân tính. Và
sự biến đổi từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến là một bước
lùi về mặt phẩm giá con người.
Tuy nhiên, cũng phải thấy mặt thứ hai của sự tàn bạo, phi nhân tính này. Chính
sự cai trị phản động, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân trong một đất nước với nền văn
hoá, truyền thống lâu đời như Việt Nam lại tạo thành sức mạnh khổng lồ của sự
phản kháng và thủ tiêu chính chế độ thực dân này hướng tới một chế độ đối lập
với chế độ thuộc địa. Như vậy, sự cai trị này gián tiếp lại trở thành động lực cho sự
phát triển dân tộc: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một
cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”
[91, tr.28]. Đây chính là một yếu tố quan trọng được tạo ra từ sự cai trị thực dân đặt
tiền đề cho sự phủ nhận chính chế độ chính trị đó.
Bước chuyển từ chính trị phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến ở
nước ta là một thực tế lịch sử. Bước chuyển đó đã tác động tới sự vận động của dân
tộc Việt Nam ở nhiều chiều cạnh. Những yếu tố nó tạo ra như là tiền đề cho một sự
vận động tiếp theo của xã hội Việt Nam khẳng định một chân lý: mọi sự phát triển
của phương Đông do phương Tây đem lại đều được đổi bằng máu, bùn và sự tủi
nhục. Đó là cái giá phải trả cho một sự phát triển không xuất phát từ cái đầu của
chính bản thân mình khi mình đã bị tước mất quyền lực. Đúng là, nếu chúng ta
không định được tương lai của bản thân, chúng ta có nguy cơ trở thành một bộ phận
trong tương lai của kẻ khác. Điều đó hiện diện thật rõ nét trong lịch sử Việt Nam
thời cận, hiện đại.
127
Tiểu kết chương 2
Sự xâm lược và thôn tính Việt Nam của thực dân Pháp nửa sau thế kỷ XIX do
nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó không thể không đề cập đến là sự yếu kém
của nền chính trị phong kiến nhà Nguyễn như là sản phẩm phản ánh trạng thái lạc
hậu, yếu kém của nền chính trị phong kiến nhà Nguyễn, cùng tầm nhìn hạn hẹp của
những người lãnh đạo đất nước, đặc biệt dưới thời Tự Đức. Chính sự yếu kém của
nền chính trị phong kiến đã làm cho đất nước suy yếu về nhiều mặt do đó không đủ
sức kháng cự trước sự tấn công từ bên ngoài. Mặt khác, sự yếu kém về chính trị
cũng cản trở việc tạo ra những tiền đề cho một phong trào canh tân đất nước - lối
thoát hữu hiệu khỏi sự thôn tính của phương Tây. Việc Pháp xâm lược Việt Nam là
dấu mốc quan trọng đánh dấu sự biến đổi chính trị trên đất nước ta từ chính trị
phong kiến sang chính trị thực dân - phong kiến thuộc phạm trù chính trị tư sản.
Quyền lực nhà nước từ tay giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam mà vua quan
nhà Nguyễn là lực lượng đại diện đã dần chuyển sang tay GCTS Pháp mà thực dân
Pháp ở nước ta là lực lượng đại diện. Đặc biệt khi Liên bang Đông Dương được
thành lập trong đó có ba kỳ của Việt Nam, cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước ở
Việt Nam lúc này nằm trong cơ cấu quyền lực của nhà nước Pháp với nền Cộng hoà
thứ ba, bị chi phối bởi khung chế định của Hiến pháp nền Cộng hoà thứ ba (1875).
Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, khi hình thái kinh tế - xã hội có tính chất
TBCN được thiết lập ở nước ta thì có thể khẳng định, về cơ bản kiểu nhà nước ở
Việt Nam đã thay đổi từ kiểu nhà nước phong kiến sang kiểu nhà nước có tính chất
tư sản. Một nhà nước quân chủ chuyên chế phong kiến tập quyền đã chuyển dần
sang nhà nước “lưỡng thể về chính trị” trong đó nhà nước thực dân tư sản có quyền
hành thực sự, còn nhà nước phong kiến bản xứ ở vị trí tay sai, bù nhìn. Dù tổ chức
cai trị trên các vùng lãnh thổ khác nhau của Việt Nam tuân theo những quy chế
chính trị và quy chế pháp lý khác nhau song về bản chất, cả ba kỳ ở Việt Nam đều
là thuộc địa của Pháp, nằm trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa. Tuy không du
nhập hoàn toàn vào thuộc địa Nam Kỳ những thể chế cơ bản của nền dân chủ tư
128
sản, song trên vùng đất này, cách tổ chức và quản lý xã hội theo trật tự phong
kiến đã bị thay thế bởi một cách tổ chức và quản lý xã hội hoàn toàn mới mẻ theo
phương thức của nền dân chủ tư sản phương Tây. Còn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ
thay vì một chính quyền phong kiến duy nhất như trước đây, có hai hệ thống
chính quyền cùng tồn tại, đó là chính quyền thực dân tư sản và chính quyền
phong kiến bản xứ tồn tại trong quan hệ phụ thuộc vào chính quyền thực dân tư
sản.
Một nước Việt Nam thống nhất từ Bắc chí Nam giờ bị chia thành ba xứ như ba
quốc gia nằm trong “Liên bang Đông Dương” thuộc Pháp. Sự thiết lập và vận hành
của một nền chính trị ở Việt Nam mà lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước là
GCTS Pháp, hướng tới phục vụ quyền lợi của GCTS Pháp đã làm thay đổi về mọi
mặt diện mạo xã hội Việt Nam. Với công cụ chủ yếu là bộ máy chính quyền, thực
dân Pháp đã thiết lập các cơ sở về mọi mặt từ các công cụ bạo lực, đến các cơ sở
kinh tế, văn hoá, tư tưởng, xã hội… cho sự tồn tại của nền chính trị ấy. Và đến lượt
nó, chính những cơ sở được Pháp tạo ra nhằm củng cố cho sự tồn tại của một chế độ
chính trị do chúng nắm giữ quyền lực lại trở thành những yếu tố mang tính tiền đề
cho sự ra đời của một nền chính trị mới tiến bộ hơn thay thế nó. Đó chính là biện
chứng của sự vận động, phát triển nói chung trong đó có sự vận động về chính trị
mà biến đổi chính trị là một hình thức vận động cụ thể.
129
Chương 3
SỰ BIẾN ĐỔI CHÍNH TRỊ TỪ CHÍNH TRỊ THỰC DÂN PHONG
KIẾN SANG CHÍNH TRỊ DÂN CHỦ NHÂN DÂN
3.1. Quá trình lựa chọn kiểu nhà nước cho bài toán độc lập ở Việt Nam từ nửa
sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
3.1.1. Khuynh hướng tái lập kiểu nhà nước phong kiến cuối thế kỷ XIX
Một kiểu nhà nước bao giờ cũng được biểu hiện cụ thể trong một hình thức nhà
nước nhất định. Khuynh hướng chính trị này tái lập kiểu nhà nước phong kiến dưới
hình thức nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Tiêu biểu cho
khuynh hướng chính trị này không thể không kể đến vua Hàm Nghi và tướng Tôn
Thất Thuyết. Là những người đứng đầu phe chủ chiến trong triều đình, trong dụ
Cần Vương Hàm Nghi ngày 06-6-1888 viết: “Trẫm vâng noi đại thống, nối tiếp cơ
đồ lớn lao, nhưng vận nước gian truân, bọn giặc thôn tính, thế thậm lan dần, không
thể tạm yên. Vì thế đã mật triệu các bề tôi vào viện Cơ Mật uống máu ăn thề, hẹn
trước hết đánh phá tại kinh thành, sau đó đuổi dài vào Gia Định” [201]. “Noi đại
thống, nối tiếp cơ đồ lớn lao” ở đây chính là tiếp tục chế độ quân chủ cha truyền con
nối hàng nghìn năm ở Việt Nam. Kêu gọi nhân dân phò vua cứu nước, sau khi giành
độc lập lại tiếp tục xây dựng chế độ phong kiến ở nước ta chính là con đường của
các lãnh tụ Cần Vương. Với tôn chỉ này, “ái quốc” đã có thể gắn với “trung quân”.
Tư tưởng chính trị đã trở thành nền tảng cho chế độ phong kiến Việt Nam suốt
chiều dài lịch sử được khơi dậy trong bối cảnh đất nước nguy nan đã trở thành động
lực thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp phát triển.
Là một người đứng đầu triều đình phong kiến nhà Nguyễn, trong một nền quân
chủ đã có bề dày hàng nghìn năm ở nước ta, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho
giáo, việc hướng đất nước theo mô hình phong kiến sau ngày độc lập của những
lãnh tụ Cần Vương là điều dễ hiểu. Những lãnh tụ yêu nước này chưa vượt ra khỏi
nguồn gốc xuất thân của mình để hướng tới một chân trời mới, mở ra một hướng đi
mới cho dân tộc. Nền quân chủ đã toả sáng trong nhiều triều đại phong kiến Việt
130
Nam, làm rạng danh cho dân tộc trong các triều đại phong kiến lớn như Lý, Trần,
Lê… đã không còn đủ sức cứu dân tộc Việt Nam trong bối cảnh lịch sử này. Khi mà
nhiều người đứng đầu triều đình đã phản bội lại lợi ích dân tộc, xã hội phong kiến
không còn là một xu thế phát triển hợp quy luật, ở Việt Nam nó đã đến độ suy tàn,
cuộc sống của nhân dân đói khổ, các cuộc đấu tranh của nông dân chống triều đình
đã diễn ra ở khắp đất nước trong nhiều năm thì ngọn cờ quân chủ dù có làm dấy lên
những cuộc khởi nghĩa chống Pháp oanh liệt nhưng cũng không đủ sức làm thay đổi
thân phận nô lệ của dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Điều mà các lãnh tụ
Cần Vương đầy nhiệt huyết còn thiếu là tầm nhìn thời đại để nhìn thấy xu thế phát
triển tất yếu của xã hội. Và số phận bi thương của họ là kết cục tất yếu của những
con đường như vậy. Một Hàm Nghi bị tù đày, sống lưu vong nơi đất khách quê
người: “Những người giúp việc bị chặt đầu và nhà vua bị đưa đi đày ở đảo
Rêuyniông ở Châu Phi” [93, tr.33]. Một Đả Thạch Ông - Tôn Thất Thuyết thác nơi
xứ người.
Mặt khác, có thể thấy một trong những nguyên nhân thất bại của Cần Vương -
phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến điển hình ở Việt Nam
- là do vấn đề lực lượng. Phong trào Cần Vương dù cũng đã dấy lên nhiều cuộc khởi
nghĩa chống Pháp oanh liệt khắp ba miền song không thực sự thu hút được đông
đảo lực lượng nhân dân hưởng ứng và đi theo, đặc biệt các nhà Nho, lực lượng tinh
hoa trí tuệ trong xã hội phong kiến. Trước thực tế một số ông vua triều Nguyễn cam
tâm bán nước, phản bội lại lợi ích dân tộc, một câu hỏi lẩn quất trong đầu họ: Khi
vua không trung với nước nữa thì bề tôi có nhất thiết phải trung với vua nữa hay
không. Và trong khi nhiều nhà Nho vẫn giữ tư tưởng trung quân song “có một số
người thấy được rằng: có một cái phân biệt với vua, cao hơn vua, ấy là đất nước;
khi có mâu thuẫn giữa trung vua với yêu nước thì người dân phải đặt nước lên trên
vua” [37, tr234]. Với nhận thức này “ái quốc” đã có sự độc lập nhất định với
“trung quân” chứ không gắn hữu cơ với “trung quân” như trước nữa. Cũng chính vì
vậy, ngọn cờ “ái quốc - trung quân” không thực sự có sức hấp dẫn và lôi cuốn đông
đảo nhân dân hưởng ứng. Thực tế này dẫn tới sự hạn chế về lực lượng trong con
131
đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến.
Có thể thấy, trên nền một phương thức sản xuất TBCN phát triển cao hơn hẳn
phương thức sản xuất phong kiến, các nhà nước tư sản đã xuất hiện ở phương Tây
và ngày càng tỏ rõ ưu thế của mình với sự phát triển kinh tế xã hội thì việc tái lập
một mô hình nhà nước nằm trong kiểu nhà nước phong kiến ở Việt Nam lúc đó
hoàn toàn không phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Và sự thất bại
của một con đường cứu nước gắn với kiểu nhà nước phong kiến là hoàn toàn có thể
lý giải được.
Dù thất bại, song khuynh hướng tái lập kiểu nhà nước phong kiến vẫn âm ỉ
cháy. Đó vẫn là khao khát và mục đích hướng tới của nhiều người thuộc dòng dõi
hoàng tộc đặc biệt là các vị vua nhà Nguyễn. Khuynh hướng này kéo dài đến tận
mùa thu năm 1945 khi vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, nộp ấn kiếm cho đại diện nhà
nước Việt Nam mới. Đó là lời tuyên bố chính thức chấm dứt sự tồn tại trên thực tế
của chế độ phong kiến ở Việt Nam. Tuy nhiên, không phải vậy mà tư tưởng quân
chủ của những người bảo hoàng đã hết. Nó còn tồn tại dai dẳng mãi tới sau này.
3.1.2. Khuynh hướng xác lập kiểu nhà nước tư sản đầu thế kỷ XX
a. Dưới hình thức quân chủ lập hiến
Tiêu biểu cho khuynh hướng chính trị này là sự nghiệp chính trị của lãnh tụ
Phan Bội Châu. Ông xuất thân từ một nhà Nho yêu nước. Trong giai đoạn đầu của
sự nghiệp chính trị của mình, khi xông pha tìm con đường cứu dân, cứu nước Phan
Bội Châu cũng thể hiện rõ khuynh hướng quân chủ trong tư tưởng và nhận thức của
mình. Ngưỡng mộ mô hình chính trị của Nhật Bản, ông hướng tới một chế độ quân
chủ lập hiến theo kiểu Nhật chứ không phải quân chủ chuyên chế như mô hình đã
tồn tại bấy lâu trong lịch sử dân tộc.
“Kìa xem Nhật Bản người ta
Vua dân như thể một nhà kính yêu
Chữ bình đẳng đặt đầu chính phủ ” [154, tr.192]
Phan Bội Châu miêu tả nước Việt Nam dưới chế độ chuyên chế phong kiến thật
thiểu não, ảm đạm, thiếu sức sống: “nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ, uể oải
132
một thân bệnh, tôn quân quyền, ức dân quyền, trọng hư văn, khinh võ sĩ… Than ôi,
nguy ngập lắm thay” [17, tr.434, 435].
Ông lên tiếng phê phán nền quân chủ chuyên chế:
Về chính giáo thì chứa chất hủ lậu, mọi việc đều mô phỏng Minh Thanh, văn
nhân thì khư khư giữ theo sách cũ, tự khoe đắc chí; võ sĩ thì cốt ở cờ trống
mỹ quan, côn quyền coi như trò chơi, tự cho là không ai hơn được. Đáng bỉ
hơn hết là ức chế dân quyền, coi thường dư luận, phàm bàn việc quốc gia đại
kế, nhân dân chỉ được ở ngoài hỏi rồi than thở mà thôi [17, tr.34]
Trong tác phẩm nổi tiếng “Hải ngoại huyết thư”, ông chỉ ra nguyên nhân mất
nước là do sự quan liêu của chính thể quân chủ, vua quan không biết gì tới đời sống
của nhân dân, nhân dân thờ ở với việc nước, coi đó không phải là việc của mình:
“Một là vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai” [154, tr.242]
Ông coi vua như dân tặc - tức kẻ thù của nhân dân, ông coi chuyên chính của
lực lượng cầm quyền như nọc độc, ông thấy sự bất công của một chế độ trong đó
một người ngồi trên ngàn vạn người dân, sống trên mồ hôi nước mắt của ngàn vạn
người này. Mặc dù vậy, trong tư tưởng của Phan Bội Châu vẫn còn một sự vấn
vương, lưu luyến rõ nét với nền quân chủ đã tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta. Ông
chỉ chủ trương khiển trách, trừng phạt những vua tệ, quan hư chứ không chủ trương
lật đổ ngai vàng, biểu tượng quyền lực của xã hội phong kiến. Phê phán quân chủ
song không thể rời bỏ nó, ông đã giải quyết mâu thuẫn này bằng một mô hình chính
thể theo kiểu quân chủ lập hiến của Nhật Bản. Trong mô hình này vừa có vua làm
biểu tượng quyền lực quốc gia, mặt khác, vai trò của dân cũng được coi trọng ở
mức độ nhất định và vì vậy, quyền lực của vua không còn là tối thượng nữa.
Như vậy, “Phan Bội Châu trong thời kỳ đầu của sự nghiệp chưa thể chấm dứt
ngay những ràng buộc với tư tưởng trung quân, đặt tư tưởng dân chủ, cách tân của
mình trên giá đỡ của ý thức hệ Nho giáo… Ông thành lập một tổ chức cách mạng
133
lấy tên là Duy Tân Hội, nhưng lại suy tôn Kỳ ngoại hầu Cường Để làm Hội chủ,
theo quan niệm suy tôn minh chủ, với mục đích khôi phục nước Việt Nam, lập ra
một chính phủ độc lập” [140, tr.148, 149].
Phong trào Đông Du với những cuộc đi ra nước ngoài của tầng lớp trí thức sang
Nhật Bản cũng không đạt được mục tiêu cuối cùng, Nhật đã trục xuất sinh viên An
Nam ra khỏi nước Nhật. Và kết quả đau buồn của phong trào là: “Tất cả những
người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm đều bị đưa đi đày. Tất cả các trường tư thục
đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nước ngoài đều bị cấm. Tất cả những người
lãnh đạo hoặc bị coi là người lãnh đạo - khoảng 200 - đều bị chặt đầu” [93, tr.32].
Tuy nhiên, phải thấy rằng, Phan Bội Châu chủ trương quân chủ như một “thủ
đoạn để giành độc lập”, để tập hợp lực lượng chống Pháp. Theo nhận thức của ông vì
nhiều người chống Pháp trung thành với tư tưởng quân chủ nên muốn thống nhất họ
trong một khối thì phải chủ trương quân chủ. Những người yêu nước này khá xa lạ
với tư tưởng cộng hoà, nên nếu chủ trương cộng hoà họ sẽ bỡ ngỡ, lo âu và khó thống
nhất được họ. “Quân chủ lập hiến hay cộng hoà dân chủ đều là thủ đoạn. Thủ đoạn
giành độc lập. Cái nào thích hợp thì dùng, cốt yếu là đánh đuổi Pháp, khôi phục chủ
quyền, còn với phương pháp nào, thủ đoạn nào thì tuỳ lúc thích nghi” [38, tr.118].
Mặc dù sau này, khi ông đã nhận thấy cái hay của dân chủ so với quân chủ,
trong điều kiện cụ thể của Việt Nam khi dân trí còn thấp, trình độ còn kém người
châu Âu, ông vẫn chủ trương quân chủ.. Ông khẳng định với Phan Chu Trinh,
mươi, mười lăm năm nữa, ở Việt Nam đưa ra học thuyết dân chủ thì ông sẽ là người
tán thành đầu tiên. Rõ ràng rằng, Phan Bội Châu trong tiến trình nhận thức của
mình, ông không chỉ đi từ tư tưởng quân chủ đến tư tưởng dân chủ mà ông còn nhận
thấy trình độ dân trí là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng một nền
dân chủ. Dân chủ nghĩa là dân là chủ, dân làm chủ. Mà muốn là chủ, muốn làm chủ
phải có ý thức làm chủ, năng lực làm chủ. Do vậy, dân chủ gắn liền với dân trí. Dù
chưa nêu được hết các điều kiện cơ bản cho việc thực thi một nền dân chủ trong
tương lai (dân sinh, dân trí, dân quyền), song rõ ràng, nhận thức của Phan Bội Châu
trong thời kỳ đầu hoạt động cách mạng có thể coi như bước nhận thức quá độ cho
134
sự phát triển tư tưởng chính trị Việt Nam từ quân chủ đến dân chủ.
Có thể thấy, trong giai đoạn đầu của sự nghiệp chính trị của mình, Phan Bội
Châu hướng tới mô hình quân chủ lập hiến. Sau này dưới những tác động của điều
kiện trong nước và quốc tế, tư tưởng của ông có nhiều biến chuyển theo hướng ngày
càng tiến bộ. Sai lầm của ông chính là tư tưởng chủng tộc. Ông thấy “đồng châu,
đồng chủng, đồng văn” mà chưa thấy bản chất của tư bản, đế quốc nên đưa mâu
thuẫn chủng tộc thành vấn đề lý giải sự xâm lược của tư bản phương Tây. Rõ ràng
tư tưởng cầu ngoại viện đặt trong bối cảnh đầu thế kỷ XX ở Việt Nam đã không còn
phù hợp, cơ hội đã trôi qua. Nước Nhật giờ đây đã không còn là một nước nhược
tiểu như trước cuộc Duy Tân mà đã trở thành đế quốc. Nó nhìn thế giới bằng con
mắt của một đế quốc. Dựa vào một đế quốc để đánh một đế quốc khác. Con đường
này đúng là “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Như vậy, trong giai đoạn đầu sự nghiệp chính trị của mình, Phan Bội Châu đã
khởi xướng và dẫn dắt một phong trào giải phóng dân tộc theo mô hình quân chủ
lập hiến kiểu tư sản như Nhật Bản. Tuy nhiên vì những lý do khách quan và chủ
quan khác nhau, con đường này đã không thể thực hiện thành công ở nước ta.
b. Dưới hình thức dân chủ cộng hoà tư sản
Sự thất bại của phong trào Cần Vương của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và thất
bại của Duy Tân Hội của Phan Bội Châu có thể coi như dấu chấm hết cho một
khuynh hướng cứu nước hướng tới một mô hình xã hội đã trở nên quá lạc hậu so
với xu hướng phát triển chung của nhân loại hoặc không phù hợp với hoàn cảnh
nước ta. Tác động của những sự kiện chính trị lớn trên thế giới vào nước ta cũng
như sự vận động nội tại của phong trào cách mạng Việt Nam đã làm xuất hiện một
khuynh hướng cứu nước mới - khuynh hướng dân chủ tư sản, hướng tới một nền
dân chủ cộng hoà tư sản sau ngày độc lập. Khuynh hướng chính trị này ảnh hưởng
khá mạnh mẽ tới đời sống nhiều mặt của xã hội Việt Nam trong khoảng 30 năm đầu
thế kỷ XX.
Về sự thâm nhập của tư tưởng dân chủ tư sản vào Việt Nam, có thể khẳng định
sự xuất hiện của thực dân Pháp ở nước ta - một kẻ thù hoàn toàn mới từ phương
135
Tây, quê hương của những tư tưởng dân chủ tư sản nổi tiếng thế giới - là một trong
những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy cho việc thâm nhập và hấp thu những tư
tưởng dân chủ tư sản vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Song song với quá
trình quảng bá của chính kẻ xâm lược cho tất cả những gì là “tinh hoa”, là “đẹp đẽ”
của văn minh phương Tây, ở người bị xâm lược cũng xuất hiện một nhu cầu tìm
hiểu nền văn minh của kẻ thù. Từ đó hiểu bản chất kẻ đang nô dịch mình để có một
phương cách phù hợp chống lại chúng. Tư tưởng dân chủ tư sản thâm nhập vào
nước ta chủ yếu qua ba con đường: Từ Trung Quốc, Nhật Bản và từ Pháp.
Cuối thế kỷ XIX, ở Trung Quốc diễn ra phong trào Dương Vụ dưới thời vua
Quang Tự. Quang Tự triệu tập hai thầy trò Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu làm
cách mạng để canh tân đất nước. Tuy nhiên, phong trào này đã thất bại. Hai thầy trò
phải chạy sang Nhật lánh nạn. Tại đây, họ xuất bản báo chí truyền bá cho tư tưởng
dân chủ tư sản. Tờ báo Thanh Nghị của họ chuyên đăng bài về tư tưởng dân chủ tư
sản đã được truyền về Trung Quốc sau đó vào Việt Nam. Những tư tưởng đó làm
bật dậy hướng đổi mới cho những người Việt Nam yêu nước. Mặt khác, năm 1911,
cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc bùng nổ đã đánh vào triều đại phong kiến
cuối cùng của Trung Quốc, mở ra một thời đại mới ở đất nước này. Tư tưởng Chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn với hệ giá trị phát triển: dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc đã ảnh hưởng tới nhiều người Việt Nam yêu nước,
làm trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản có điều kiện bùng phát ngày càng mạnh mẽ ở
nước ta.
Con đường thứ hai là con đường từ đất nước mặt trời mọc. Năm 1905, chiến
tranh Nga- Nhật kết thúc với thắng lợi thuộc về nước Nhật. Lịch sử Á Đông chưa có
một trận thắng nào vẻ vang như vậy, nó đã được ghi nhận như một bước ngoặt lớn
của các dân tộc châu Á thời hiện đại. Chiến thắng này đã thức tỉnh các dân tộc châu
Á vì lần đầu tiên người da vàng đã chiến thắng người da trắng, người châu Á đã
chiến thắng người châu Âu. Các nước châu Á có cảm tình ngay với Nhật và hướng
theo con đường của Nhật vì Nhật đã rửa nhục cho giống da vàng và da đen. Nếu
như trước đó, các dân tộc này trông cậy nhiều vào sự giúp đỡ của Trung Hoa thì nay
136
họ hướng sang nước Nhật. Các sĩ phu Việt Nam truyền tay nhau những cuốn sách
về Nhật Bản và công cuộc Minh Trị Duy Tân như: Nhật Bản quốc chí, Nhật Bản
duy tân khảng khái sử, Nhật Bản tam thập niên duy tân sử... và viết nhiều bài ca
ngợi công cuộc duy tân này.
Tư tưởng dân chủ tư sản từ Phương Tây với tư tưởng của các nhà khai sáng nổi
tiếng như: Môngtetxkiơ, Rutxô, Vônte... cũng theo chân các thầy giáo Pháp vào Việt
Nam. Dù chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân ở nước ta, song thực dân
Pháp vẫn buộc phải phát triển giáo dục ở mức độ nhất định để đào tạo những công
chức thuộc địa. Mặt khác, không phải mọi người Pháp đều là thực dân và không phải
mọi mong muốn của bọn thực dân đều được thực hiện đúng như chúng kỳ vọng, nên
thông qua các thầy giáo Pháp tiến bộ, lần đầu tiên, các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác
ái và nhiều tư tưởng dân chủ khác đã được người Việt Nam biết tới. Đây là hệ tư
tưởng mới với người Việt Nam. Nó đánh thức những khát vọng tiềm ẩn chưa được
gọi tên trong nhiều người dân Việt. Nhận thức về dân chủ làm xuất hiện những nhu
cầu dân chủ. Khát vọng tự do, bình đẳng, bác ái, hướng tới một xã hội dân chủ dần
xuất hiện theo sự thâm nhập của tư tưởng dân chủ tư sản vào nước ta. Nó đặt tiền đề
tư tưởng cho việc khởi xướng xây dựng một nền chính trị dân chủ thay thế nền chính
trị chuyên chế đang tồn tại. Nó mở đường cho một trào lưu cách mạng hoàn toàn mới
ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX - trào lưu dân chủ tư sản.
Sau thất bại của phong trào Đông Du, Phan Bội Châu từ bỏ lập trường quân
chủ lập hiến, thành lập Việt Nam Quang Phục hội (1912), hướng đến mục tiêu xây
dựng nước cộng hoà dân chủ tại Việt Nam sau khi đánh đuổi thực dân Pháp. Tuyên
ngôn của Việt Nam Quang Phục hội khẳng định:
“Muốn cho ích nước lợi nhà
Ắt là dân chủ cộng hoà mới xong” [38, tr.119]
Theo ông thì chính thể dân chủ cộng hoà là một chính thể rất tốt đẹp trong đó
quyền bính của nước ta là của chung toàn dân do nhân dân quyết định. Quang Phục
quân trong khi vừa đánh đuổi giặc Pháp, đồng thời cũng vừa xây dựng một nước
cộng hoà dân chủ.
137
Ông cũng đã hình dung ra mô hình tổ chức của chính thể gồm ba viện: thượng
nghị viện, trung nghị viện, hạ nghị viện, một thể chế trong đó người dân có quyền
quyết định những công việc chung. Về cơ bản tư tưởng của ông giai đoạn Quang
Phục hội dù đã vượt khỏi mô hình quân chủ lập hiến nhưng cũng vẫn chỉ dừng lại ở
chính thể đại nghị tư sản. Hướng theo tư tưởng này, song bản thân Phan Bội Châu
cũng chưa thật sự nhận thức được bản chất của nền dân chủ tư sản phương Tây nên
không thể tránh khỏi những yếu tố ảo tưởng trong hành động của Việt Nam Quang
phục hội do ông là thủ lĩnh.
Sau khi Quang Phục hội thất bại, mặc dù ông đã bước đầu tiếp cận chủ nghĩa
Mác nhưng ông cũng không tiến xa hơn trong nhận thức và hành động vì nhiều lý
do khách quan và chủ quan khác nhau. Phần vì bị thực dân Pháp giam lỏng ở Huế
suốt những năm tháng cuối đời. Từ 1926 trở đi, Phan Bội Châu bị cách ly với thực
tế đấu tranh của dân tộc. Phần do hạn chế trong nhận thức và tiếp cận thông tin,
chính ông cũng tự thừa nhận vì không biết các ngôn ngữ thông dụng của thế giới
ông như người mù trong thế giới này .
Có thể thấy sự chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu phản ánh quá trình
chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX tạo
ra phong trào chống Pháp từ khuynh hướng quân chủ sang khuynh hướng dân chủ
tư sản cho một Việt Nam độc lập. “Phan Bội Châu đã làm được bước chuyển hết
sức căn bản từ tư tưởng quân chủ sang dân chủ dẫn dắt cho dân tộc đi đến tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin” [19, tr183].
Cũng với khuynh hướng dân chủ tư sản, một nhà yêu nước tiêu biểu không thể
không kể tới là Phan Chu Trinh. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng, cha
làm quan giữ chức Quản cơ sơn phòng trong triều, sau này thân phụ ông tham gia
tích cực phong trào Cần Vương chống Pháp. Bản thân ông cũng đỗ phó bảng và làm
quan cho nhà Nguyễn. Song, do có cơ hội tiếp cận với những tư tưởng mới và giao
thiệp với những người yêu nước có tư tưởng canh tân nên Phan Chu Trinh đã có
nhiều nhận thức mới, tiến bộ so với phần lớn người Việt nam đương thời. Ông bôn
ba nhiều nước trên thế giới, đặc biệt có một thời gian khá dài sống tại Pháp, một
138
trong những cái nôi của tư tưởng dân chủ, đã giúp ông có cái nhìn tiến bộ so với tư
tưởng truyền thống ở Việt Nam đương thời. Từ thực tiễn xã hội Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX, trước sự bất lực của triều đình phong kiến, ông nhận thấy làm
quan cũng chỉ “vinh thân phì gia” chứ không giúp gì nhiều cho dân tộc. Do đó, ông
đã từ quan để mưu làm việc lớn. Phan Chu Trinh phê phán triều đình, phê phán chế
độ phong kiến chuyên chế, ví quan quân triều đình phong kiến như các quân cờ trên
bàn cờ tướng: “Một ông tướng lác đứng trong cung. Sĩ tượng khoanh tay chẳng vẫy
vùng” [23, tr.71]. Ông đau đớn trước cảnh đồng bào bị đoạ đày: “Hồn Tổ quốc nặng
trĩu trên vai, xót vì quốc dân đồng bào đương rên xiết bởi cường quyền áp chế” [23,
tr695]. Trong chế độ quân chủ, dân trí không thể mở mang được và cũng chính vì
sự hạn hẹp trong nhận thức của người dân mà chế độ quân chủ có đất để dung
dưỡng: “Một nước bao nhiêu triệu dân mà chỉ giao phó quyền chính cho một ông
vua thì chẳng là ngu xuẩn lắm ư?” [23, tr.785]. Chế độ quân chủ đã đặt vua với dân
ở vị trí hoàn toàn đối lập, người dân không được tôn trọng: “Vua tôn như thánh, như
thần. Phận tôi rơm rác, thân dân trâu bò” [23, tr.290]. Trên lập trường dân chủ, ông
phê phán vua Khải Định bằng tác phẩm “Thư thất điều”, luận tội vua và phán xét
vua đáng bị chém đầu. Đây là một ý tưởng quá mới mẻ trong một xã hội chuyên chế
phong kiến với tư tưởng trung quân được đặt lên hàng đầu hàng nghìn năm như
Việt Nam.
Từ chỗ phê phán chế độ phong kiến, ông so sánh chủ nghĩa quân trị (quân chủ)
và chủ nghĩa dân trị (dân chủ) ông khẳng định: “Ta thấy chủ nghĩa dân trị hay hơn
cái chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo cái ý riêng của một người hay một nước
thì cái nước đó không khác nào là một đàn dê, được no ấm vui vẻ hay phải đói rét
khổ sở chỉ tuỳ theo lòng một người chăm. Còn theo cái chủ nghĩa dân trị thì tự quốc
dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung cả nước, lòng quốc
dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người tài giỏi làm cho hay lắm,
không đến nỗi phải cúi đầu khốn nạn làm tôi mọi một nhà, một họ nào cả” [38
tr.460]. Kế thừa những tư tưởng canh tân nửa sau thế kỷ XIX ở Việt Nam, tiếp thu
tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, Phan Chu Trinh nhận thấy: “Chủ nghĩa dân
139
chủ chính là một vị thuốc rất thần hiệu để chữa bệnh chuyên chế của nước ta vậy”
[23, tr.784]. Ông tôn những nội dung của dân chủ là thánh thần và khẳng định đây
là một trào lưu rộng khắp thế giới: “Công quyền là thánh, tự do là thần. Khắp thế
giới tôn dân tự chủ” [23, tr.309]. Ông hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc nhưng
theo ông muốn độc lập trước hết phải đánh đổ quân chủ, xây dựng chế độ dân chủ.
Tư tưởng dân chủ của Phan Chu Trinh hướng vào việc khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh, làm cho nước nhà cường thịnh, khôi phục, chấn hưng đất nước. Theo
ông, có làm như vậy mới lấy lại được độc lập cho đất nước. Hướng tới độc lập dân
tộc song ông không có chủ trương đánh Pháp, thậm chí còn phê phán gay gắt những
người có tư tưởng này. Theo ông, cần ỷ Pháp cầu tiến bộ. Ông mong muốn dựa vào
lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Pháp để tiến hành cải cách. Ông đã thiết lập
mối quan hệ với nhiều người Pháp tiến bộ để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
Rõ ràng, ông đã có một sự nhầm lẫn khi xác định đâu là kẻ thù chính. Mặt khác,
tính ảo tưởng, mơ hồ về chính trị cũng được thể hiện trong tư tưởng chính trị của
ông. Làm sao một nước đế quốc có thể cho một thuộc địa của nó có tự do, dân chủ?
Con đường của ông hướng đất nước tới một chế độ dân chủ kiểu Pháp - một chế độ
dân chủ tư sản, dân chủ cho số ít những kẻ có tiền, có lẽ ông cũng chưa nhận thức
rõ điều này. Vì khi đặt ra chủ trương khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, rõ
ràng ông đã rất quan tâm đến vai trò của đông đảo nhân dân. Chủ trương đánh vào
sự hủ lậu, thối nát của xã hội phong kiến rồi xây dựng một chính thể cộng hoà dân
chủ theo kiểu tư sản ở nước ta của Phan Chu Trinh, theo nhà nghiên cứu Trần Văn
Giàu là “đặt cày trước trâu”. Làm như vậy chỉ để triển lãm trâu và cày chứ không
cày được thước đất nào. Còn người cùng thời với ông là Phan Bội Châu thì đặt câu
hỏi: Dân không còn nữa thì chủ với ai? Theo Phan Bội Châu, giành độc lập dân tộc
phải là vấn đề cốt yếu trước khi thực hiện mục tiêu dân chủ.
Sau này trong nghị quyết Hội nghị trung ương 8 của Đảng cộng sản Đông
Dương tháng 5-1941, Hồ Chí Minh đã khẳng định mối quan hệ dân tộc- giai cấp:
Quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
140
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc
gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được [28, tr.113].
Theo khuynh hướng chính trị này, còn phải kể tới Việt Nam Quốc dân đảng,
một tổ chức chính trị được thành lập theo mô hình Trung Quốc Quốc dân đảng của
Tôn Trung Sơn. Điều lệ của tổ chức này cũng khẳng định: “Xây dựng nền cộng hoà
dân chủ trực tiếp” [38, tr.580], lấy ba nguyên tắc “tự do, bình đẳng, bác ái” của cách
mạng tư sản Pháp làm khẩu hiệu cho mình. Tuy mục tiêu hướng về chính thể dân
quốc theo mô hình Trung Hoa dân quốc của Tôn Trung Sơn song Việt Nam Quốc
dân đảng lúng túng trong việc xác định một chủ nghĩa, khẳng định lập trường chính
trị của mình, Việt Nam Quốc dân đảng lúc thì khẳng định lý tưởng của cách mạng
Pháp, lúc lại “bưng” toàn bộ chủ nghĩa Tam Dân vào đảng. Hồ Chí Minh sau này đã
đặt câu hỏi về Việt Nam Quốc dân đảng:
Muốn một nước cộng hoà nhưng là thứ cộng hoà nào? Sẽ cai trị quốc gia như
thế nào? Với phương pháp gì người ta sẽ xây dựng lại kinh tế quốc gia? Làm
thế nào để nâng cao mức sống của những tầng lớp lao động, thợ thuyền,
nông dân và trí thức? Về những điều này, Việt Nam Quốc dân đảng chưa có
chương trình rõ rệt (Theo Trần Dân Tiên (1975), Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ Tịch, NXB Văn học, Hà Nội, tr.73)
Thực tế, Việt Nam Quốc dân đảng đã đứng trên lập trường của GCTS để giải
quyết vấn đề dân tộc, nước cộng hoà trong mong muốn của Việt Nam Quốc dân
đảng chính là cộng hoà tư sản. Theo tác giả Nguyễn Văn Khánh trong công trình
chuyên khảo về Việt Nam Quốc dân đảng đã khẳng định: “mục đích cuối cùng của
Việt Nam Quốc dân đảng là dùng bạo lực đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp
để giành độc lập, thành lập chính phủ cộng hoà, thực hiện quyền tự do dân chủ và
mở đường cho CNTB phát triển ở Việt Nam” [65,tr.81]. Tuy nhiên do không có chủ
nghĩa xác định, không quan tâm đến lý luận, tư tưởng, không chú ý đến tuyên
truyền, huấn luyện, cách làm thì khá phiêu lưu, mạo hiểm, chưa nhìn thấy vai trò to
lớn của nhân dân… nên phong trào hoạt động chính trị của Việt Nam Quốc dân
141
đảng theo khuynh hướng tư sản cũng đã thất bại.
Lịch sử đã chứng minh, khuynh hướng chính trị chống thực dân Pháp cứu nước
theo tư tưởng dân chủ tư sản không có tiền đề về nhiều mặt để có thể giành thắng
lợi ở nước ta. Muốn thực hiện con đường cách mạng tư sản và xây dựng xã hội
TBCN thì tất yếu phải có cơ sở xã hội là một GCTS đủ sức mạnh về nhiều mặt. Ở
nước ta đầu thế kỷ XX, theo nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu “tư tưởng tư sản
không có GCTS” [38, tr.121] nên tư tưởng này không có chân đế, không có bệ đỡ
xã hội để thâm nhập vào cuộc sống và chuyển thành một chế độ xã hội mang tính
hiện thực. Một thực tế là ở nước ta, lực lượng tiếp nhận và hoạt động chính trị theo
tư tưởng tư sản phương Tây thời kỳ đầu là những nhà Nho cấp tiến, thời kỳ sau là
những trí thức Tây học chứ không phải những người đại diện cho GCTS dân tộc
nên khuynh hướng chính trị này tuy hướng tới chống thực dân giành độc lập dân tộc
nhưng cũng không thể thắng lợi.
GCTS Việt Nam xuất hiện như là hệ quả của chính sách cai trị về kinh tế của
thực dân Pháp. GCTS Việt Nam gồm hai bộ phận là tư sản mại bản và tư sản dân
tộc thì: “Tư sản mại bản, thà chịu kinh tế nước nhà phụ thuộc vào đế quốc chứ
không muốn giải phóng nông dân, không muốn công nghệ nước ta được phát triển”
[95, tr.208]. Như vậy, lực lượng tư sản mại bản không những không lãnh đạo được
cách mạng mà còn là đối tượng của cách mạng. Còn tư sản dân tộc dù có tinh thần
chống đế quốc vì bị đế quốc ngăn trở nhưng họ là bộ phận của giai cấp bóc lột nên
họ cũng sợ giai cấp bị bóc lột nổi lên đấu tranh. Về mặt kinh tế, tư sản dân tộc lại có
dính líu ít nhiều với địa chủ phong kiến nên bộ phận này vừa muốn cách mạng, vừa
muốn thoả hiệp.
Tư sản Việt Nam phần lớn là tư sản thương nghiệp chứ không phải tư sản công
nghiệp, không có thế lực kinh tế, phụ thuộc vào tư bản nước ngoài. Sinh ra ở một
nước thuộc địa “không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp”
[100, tr.64] GCTS Việt Nam nhỏ yếu về kinh tế, bạc nhược về chính trị, thoả hiệp
với đế quốc để mưu sự sống còn nên đã không đủ sức làm trụ cột cho một chế độ
TBCN ở Việt Nam sau ngày độc lập. Mặt khác, tư sản Việt Nam lại ra đời muộn so
142
với GCCN. Khi tư sản Việt Nam ra đời thì công nhân Việt Nam đã từng bước
khẳng định được ưu thế về chính trị và tinh thần của mình trong vai trò một lực
lượng lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Ngày mai bắt đầu từ hôm nay. Và theo logic đó, hôm nay có khởi nguồn từ hôm
qua. Xem xét trường hợp Việt Nam và Ấn Độ, có thể nhận thấy sự khác biệt rõ nét.
Sự cai trị của thực dân Anh với thuộc địa Ấn Độ khác với sự cai trị của Pháp với
thuộc địa Việt Nam. Điều này đã tạo ra những cơ sở xã hội hết sức khác nhau cho
con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và sự phát triển của Ấn Độ, Việt Nam sau
ngày độc lập. Nếu như thực dân Anh cai trị Ấn Độ theo lối đầu tư tư bản để phát
triển một cách chủ định phương thức sản xuất TBCN ở nước này, thì “Nước mẹ
Pháp” lại không muốn “đứa con yêu” Việt Nam phát triển theo con đường tiến bộ.
Chúng muốn kìm kẹp Việt Nam trong phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu để
dễ bề cai trị, hạn chế sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN ở Việt Nam. Cách
cai trị thuộc địa của Anh cho phép ra đời ở Ấn Độ một GCTS bản xứ đủ sức mạnh
kinh tế, uy thế chính trị để dẫn dắt Ấn Độ sau ngày độc lập đi lên theo con đường
TBCN. Còn với cách cai trị của Pháp cản trở sự ra đời của một GCTS bản xứ đủ
sức mạnh về mọi mặt để dẫn dắt dân tộc phát triển theo con đường TBCN.
Dù không thành công trên hiện thực song trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt
Nam đầu thế kỷ XX, phong trào chính trị theo khuynh hướng tư tưởng dân chủ tư
sản vẫn là một phong trào có nhiều yếu tố tiến bộ. Nó mở ra một cách nhìn, một
hướng tư duy cho những người yêu nước Việt Nam để từ đó có thể hướng tới những
chân trời mới tươi sáng hơn.
Như vậy, có thể thấy, việc tìm tòi, hướng dẫn và tổ chức hoạt động của các trào
lưu chính trị khác nhau nhằm đích chung là giải bài toán độc lập của Việt Nam cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra rất sôi động. Quân chủ hay dân chủ, quân chủ
chuyên chế hay quân chủ lập hiến, dân chủ kiểu Nhật hay kiểu Pháp… Tựu trung có
thể thấy các con đường này xoay quanh việc tìm kiếm một kiểu nhà nước gắn với
một hình thức nhà nước phù hợp với Việt Nam. “Sự tìm tòi thể nghiệm có thể đạt
đến thành công, có thể thất bại, song lại tạo tiền đề cho sự hình thành cái mới, cái
143
phù hợp hơn với tiến trình vận động của lịch sử” [140, tr.152]. Con đường cách
mạng vô sản của Hồ Chí Minh gắn với kiểu nhà nước XHCN mà lịch sử Việt Nam
đã tiếp nhận và từng bước hiện thực hoá ở nước ta là một sự tiếp nối hợp quy luật
sau hàng loạt những phương sách, con đường cứu nước khác nhau thất bại. Đúng
như lời nhận xét của tiến sĩ Unselt Jorgen: “Nếu không có những kinh nghiệm của
Phan Bội Châu thì cũng không thể có sự thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó
là một sự kế thừa biện chứng” [154, tr.275]
Chính những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, bằng những gợi mở sâu
sắc trong tư tưởng yêu nước gắn với các phong trào chính trị có thiên hướng dân
chủ, đã báo trước bước ngoặt cách mạng của tư tưởng Việt Nam gắn với phong trào
chính trị theo khuynh hướng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc là thủ lĩnh.
3.1.3. Khuynh hướng lựa chọn kiểu nhà nước XHCN đầu thế kỷ XX
Dưới góc nhìn chính trị học, có thể thấy: Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước
thực chất Người nghiên cứu các kiểu nhà nước trên thế giới, các hình thức nhà
nước trên thế giới và tìm một kiểu nhà nước, một hình thức nhà nước phù hợp
nhất với Việt Nam.
a. Quá trình Nguyễn Ái Quốc tìm một con đường giải phóng dân tộc gắn với
tìm kiếm kiểu nhà nước cho Việt Nam
Trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, Người đã quan tâm
nghiên cứu nhiều kiểu nhà nước đang tồn tại trên thế giới đó là kiểu nhà nước tư sản
ở thuộc địa, kiểu nhà nước tư sản ở chính quốc và kiểu nhà nước mới đó là kiểu nhà
nước XHCN ở nước Nga, Xô Viết.
Trước hết là nhìn nhận, đánh giá của Nguyễn Ái Quốc về một hình thức đặc
biệt của kiểu nhà nước của giai cấp tư sản tồn tại ở thuộc địa Việt Nam dưới hình
thức chế độ thực dân phong kiến.
Các khuynh hướng cứu nước gắn với việc tìm kiếm các mô hình nhà nước khác
nhau của những người Việt Nam yêu nước đã tỏ rõ lập trường chung của các tầng
lớp nhân dân Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam với chế độ thực dân phong kiến
mà thực dân Pháp thiết lập ở nước ta. Đó là một thái độ căm phẫn, lên án và mong
144
muốn thay thế chế độ chính trị này bằng một chế độ chính trị tốt đẹp hơn. Thái độ
của Nguyễn Ái Quốc với chế độ chính trị này góp thêm một tiếng nói cho việc lên
án và thủ tiêu chế độ chính trị tàn bạo này. Và Nguyễn Ái Quốc có thể coi là người
Việt Nam đầu tiên đã có “công trình” nghiên cứu để vạch tội và tuyên án CNTD
một cách mạnh mẽ, kiên quyết, đầy sức thuyết phục đến như vậy. Người viết “Bản
án chế độ thực dân Pháp” như lời tuyên chiến với CNTD. Và không chỉ tuyên án,
Nguyễn Ái Quốc còn là người bằng những hoạt động chính trị không mệt mỏi của
mình đã thực hiện bản án đó đến cùng.
Xem xét, đánh giá một chế độ chính trị có nhiều cách. Xem xét kẻ cai trị cùng bộ
máy chính quyền của chúng, người bị cai trị và sự phát triển chung của xã hội dưới sự
cai trị chính trị đó là một trong những cách để đánh giá một chế độ chính trị.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sinh ra khi bước chân của quân xâm lược đã
giày xéo lên đất nước ta gần 1/3 thế kỷ. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bản
thân Người cảm nhận sâu sắc sự tàn bạo phi nhân tính của CNTD trên quê hương
Việt Nam đầy đau khổ của Người cũng như tất cả các thuộc địa khác trên thế giới.
Về diện mạo của xã hội thuộc địa và thân phận những người dân thuộc địa dưới
chế độ chính trị thực dân, Nguyễn Ái Quốc đã khái quát năm 1919: “Từ khi bị Pháp
chiếm, đất nước chúng tôi hầu như luôn luôn sống lay lắt ngày này qua ngày khác,
không hề biết chính quyền muốn dẫn mình đi đến đâu” [91, tr.6]. Và nửa thế kỷ sau
khi đặt ách thống trị trên đất nước ta: “Thật đáng buồn thay khi thấy rằng sau 50
năm thống trị mà những người đại diện cho nước Cộng hoà Pháp ở Đông Dương
vẫn cứ ngoan cố kìm chân người bản xứ trong vòng nô lệ, không cho họ hưởng một
chút quyền tự do nào cũng như các quyền khác theo luật pháp” [91, tr.12]. Một tình
trạng vô vọng, bế tắc bao trùm tất cả dưới sự cai trị của CNTD.
Trong chế độ này, người Việt Nam không còn tồn tại như những con người:
“CNTB Pháp đã vào Đông Dương từ hơn nửa thế kỷ nay, vì lợi ích của nó, nó đã
dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó, chúng tôi không những bị áp
bức, bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm…
người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng nghìn người khác
145
để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ” [91, tr.22,23]. “Tính mạng của
một con người An Nam bị rẻ rúng không đáng giá một trinh”. Người An Nam bị coi
là “hạng người thấp kém”, là “nô lệ”, là “những súc vật phải điều khiển bằng roi
vọt”, là “lũ ròi bọ” mà chỉ có “ba-toong, súng ngắn, súng dài” mới “xứng đáng” với
họ. Họ bị bọn thực dân “róc thịt” mãi. Họ “phải è ra mà chịu công ơn bảo hộ của
nước Pháp. Riêng người nông dân An Nam lại càng phải è ra mà chịu sự bảo hộ ấy
một cách nhục nhã hơn” [92, tr.82]. “Annamít và Angiêriêng đâu phải là người! Đó
là bọn “nhà quê” bẩn thỉu, bầy “bicốt” (con dê con) bẩn thỉu. Cần quái gì phải có
công lý đối với những giống ấy” [92, tr.90]. Luôn luôn có sẵn “một kho đầy ắp
những hình phạt” [92, tr.90] để giáng vào đầu những con người khốn khổ ấy.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Chưa có bao giờ, ở một nước nào mà người ta
lại vi phạm mọi quyền làm người một cách dã man, độc ác và trắng trợn đến thế”
[92, tr.112]. Và “để dạy cho mọi người sống cho ra sống, người ta bắt đầu bằng việc
giết họ đi đã” [92, tr.33]. Mỗi thuộc địa, CNTD sử dụng những biện pháp tàn bạo
khác nhau để cai trị, nhưng các thuộc địa đều giống nhau ở một điểm “Giữa An
Nam với Công Gô, Máctiních hay Tân Đào, không hoàn toàn giống nhau chút nào,
trừ sự cùng khổ” [91, tr.63].
Thực tế đó tại các thuộc địa, ngay cả người Pháp ở chính quốc cũng không thể
phủ nhận. Sau lời phát biểu tại Đại hội Toàn quốc lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp của
Nguyễn Ái Quốc, chủ tịch phiên họp Êminguđơ phải thừa nhận: “Qua những loạt
vỗ tay tán thành đại biểu Đông Dương, có thể thấy rằng toàn thể Đảng xã hội đều
đứng về phía đồng chí để phản đối những tội ác của GCTS” [91, tr.24].
Những con người trong bộ máy chính quyền thực dân-“tinh hoa của các cặn
bã” lượm lặt từ các nước châu Âu.
Con người trong bộ máy chính quyền thực dân là sự dung nạp của tất cả những
cặn bã từ chính quốc thải ra, từ viên chức bình thường cho đến nhân vật chóp bu là
viên Toàn quyền.
Về các quan cai trị thì: “Sang Bắc Kỳ, các ông Toàn quyền chỉ nhằm một mục
đích là: tìm chỗ bổ dụng bạn bè, con cháu thân thuộc và bọn vận động bầu cử của
146
những bậc thế quyền có thể làm chỗ dựa cho mình” [92, tr.55]; “Các viên Toàn
quyền lớn, Toàn quyền bé được nước mẹ ký thác vận mệnh xứ Đông Dương, nói
chung đều là bọn ngu xuẩn, bọn đểu cáng” [92, tr.84]. Tất cả sự xa hoa, tráng lệ,
thừa mứa trong cuộc sống của các quan cai trị thuộc địa đều dựa trên ngân sách
được bòn rút từ những người bản xứ nghèo khổ, bị bần cùng hoá đến cùng cực.
“Quan Toàn quyền chưa vừa ý với những lâu đài tráng lệ mà ngài ở tại Sài Gòn và
Hà Nội, còn phải cần thêm cho ngài một biệt thự ở bãi biển nữa. Ngân sách Đông
Dương lại phải “è lưng ra gánh”... Tiền nhà cửa, bàn ghế, điện nước của các vị đó
đều do công quỹ đài thọ cả. Ngoài ra, những người đánh xe, lái xe, giữ ngựa, làm
vườn, tóm lại, tất cả những kẻ hầu người hạ của họ cũng đều do nhà nước trả tiền
công” [92, tr.71, 72].
Còn các ngài viên chức trong bộ máy chính quyền thuộc địa thì là “những tên
ngu xuẩn tò mò ưa xoi mói” [92, tr.86]. Dù trước khi sang Đông Dương họ xuất
thân từ đâu (một anh hàng cháo, một anh giám thị trong các nhà trường) thì khi sang
Đông Dương, họ đều trở thành các “ông vua con”, sống một cuộc sống đế vương
trên máu và nước mắt của người dân thuộc địa. Những viên chức trong bộ máy này
là những viên chức “ăn hại ngân sách mà thường chẳng được tích sự gì cả”. Họ là
“những nhân tố ăn bám... đè nặng lên lưng nhân dân lao động”[92, tr.54]. Họ được
“giao phó những quyền hạn rộng rãi và ghê gớm” trong khi “không đủ những tư
cách cần thiết” [92, tr.71] tương xứng. Họ “rất hiền từ đối với bọn côn đồ... nhưng
đối với dân hiền lành thì lại là chuyện khác” [92, tr.61]. Một chính quyền được tạo
nên từ những con người mà “so với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp
đường còn là những người lương thiện” [92, tr.69]. Ngay cả một tên lính thực dân
cũng phải thốt ra trong cuốn nhật ký đi đường của mình rằng: “Quả thật, chúng tôi
đã có tâm hồn thực dân” và tự thừa nhận: “chúng ta còn độc ác, còn dã man hơn cả
bọn kẻ cướp nhà nghề”[92, tr.63] khi tận mắt chứng kiến tất cả những tội ác man rợ,
khủng khiếp mà chính bọn chúng đã gây ra với đồng loại (những người bản xứ). Và
một nhà văn chính quốc khi sang thăm Đông Dương đã viết: “Hình như họ (các
quan bảo hộ người Pháp) chỉ làm những điều khiến cho sự có mặt của chúng ta trở
147
thành một điều xấu xa bỉ ổi không ai chịu được” [92, tr.62].
Có thể thấy: Thuộc địa là một “thiên đường ở trần gian” cho các quan cai trị,
nơi mà “cái gì người ta (người châu Âu ở Đông Dương) cũng được phép và có thể
làm được” [92, tr.33]. Nơi đây “tất cả những ai có tí chút quyền hành trong tay cũng
đều sử dụng và lạm dụng quyền hành để thả cửa làm bậy vì họ biết chắc rằng sẽ
không bị tội vạ gì hết” [92, tr.57]. Nơi đây, không có luật lệ và công lý mà chỉ có
một thứ luật rừng được các “nhà khai hoá” sử dụng một cách phổ biến và thường
xuyên. “Chẳng có luật lệ nào khác ngoài sự tuỳ tiện của bọn nhà đoan” [93, tr.75].
Và “khi người ta đã là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man
mà vẫn cứ là người văn minh nhất” [92, tr.56].
Tóm lại có thể tìm thấy trong chính quyền thuộc địa “tinh hoa của các cặn bã”
lượm lặt ở tất cả các nước châu Âu. Với một bộ máy được tạo nên từ những hạng
người có tố chất xấu xa như vậy thì để bộ máy đó có thể tồn tại và hoạt động,
nguyên tắc hoạt động của luật pháp và bộ máy chính quyền thuộc địa luôn là: “bằng
bất cứ giá nào nhất thiết phải giữ uy tín cho kẻ đi chinh phục” và “bảo vệ uy tín của
chủng tộc thượng đẳng”.
Bộ máy chính quyền thực dân - Một bộ máy cồng kềnh, quan liêu, tham nhũng.
Đó là một bộ máy ăn bám khổng lồ. Hãy làm một phép so sánh giản đơn: “Ở
thuộc địa Anh, cứ 66.150 người dân thì có một viên chức người Âu, còn ở thuộc địa
Pháp thì cứ 3.490 người dân đã có một viên chức người Âu” [92, tr.55]. Trong bộ
máy đó tồn tại nhan nhản những “viên chức giữ những chức vụ vô dụng” và thậm
chí còn “dốt đặc” nhưng vẫn được nhận những “đồng lương rất hậu”. Đây còn điển
hình là một bộ máy quan liêu. Các viên thanh tra thuộc địa, hàng năm ngốn của
ngân khố một số tiền khổng lồ cho công việc thanh tra “thế nhưng các ngài thanh tra
thì không bao giờ rời khỏi Pari và đối với các thuộc địa thì các ngài cũng không
hiểu biết gì hơn là hiểu biết ông Trăng già” [92, tr.69]. Đó còn là một bộ máy vô
trách nhiệm và vô cảm khi sử dụng những đồng tiền ngân sách một cách phung phí,
tuỳ tiện và bừa bãi: “Hết hành vi điên rồ này đến hành vi điên rồ khác đã phung phí
đồng tiền mà người dân An Nam khốn khổ đã phải đổ mồ hôi nước mắt mới kiếm
148
được” [92, tr.68]. Một bộ máy hoạt động một cách tuỳ tiện, không tuân theo một
nguyên tắc nào: “Khi cần tiền, nhà nước bảo hộ Pháp chỉ có việc thay đổi hạng
ruộng. Chỉ một nét bút thần kì là họ biến một đám ruộng xấu thành ruộng tốt” [92,
tr.83]. Bộ máy nhà nước thực dân tồn tại và hoạt động không phải để thực hiện
những việc công ích mà chỉ để thực hiện sự cai trị chính trị nhằm vơ vét đầy túi
tham cho những kẻ cai trị. Đúng là một bộ máy “cướp giật được hợp pháp hoá”:
Một số phiên họp của Hội đồng Quản hạt chỉ là để bàn việc cướp giật công quỹ
một cách có phương pháp... Kho bạc có vơi đi chút ít thì đã có những quý quan làm
cho nó đầy lại một cách nhanh chóng. Với quyền hành sẵn có, họ sức cho dân bản xứ
biết nhà nước cần một khoản tiền bao nhiêu đó, rồi họ phân bổ cho các làng phải đóng
góp. Và các làng lo vội vàng tuân lệnh để khỏi bị trừng phạt ngay lập tức [92, tr.70].
Bọn thực dân với quyền lực trong tay ngày càng phè phỡn trên máu và nước
mắt của những người bản xứ: “Tất cả bọn chúng chỉ có mỗi cái tài là phung phí
công quỹ, còn người An Nam khốn khổ thì cứ nai lưng đóng góp, đóng góp mãi”
[92, tr.71]. Tệ tham nhũng đã bòn rút gần như sạch trơn ngân sách chính quyền:
“Trong số 12 triệu đồng của ngân sách Nam Kỳ, thì 10 triệu đồng đã tìm cách chui
sâu vào túi các ngài viên chức rồi” [92, tr.99]
Và hành động của bộ máy chính quyền ấy cũng thật quái đản. Ví như, để giải
quyết nạn đói, chính phủ bắt giam một số đông người đói. Và để cho bọn người đói
đừng coi nhà tù là nơi cứu tế, người ta không cho họ ăn gì hết cho đến chết!
Chế độ thuộc địa, chính quyền thuộc địa đã thực thi một chính sách ngu dân
triệt để hòng “làm cho dân ngu để dễ trị”. Nơi đây “ngay cả cái quyền sơ đẳng là
viết thư cho nhau, họ (người bản xứ) cũng không được hưởng. Sự vi phạm tự do cá
nhân ấy lại ghi thêm một thành tích cho cái chế độ lạm quyền, cái chế độ mật thám
bỉ ổi đương hoành hành ở các thuộc địa” [92, tr.100].
Từ việc tố cáo tội ác kinh tởm của CNTD khắp nơi trên thế giới, Nguyễn Ái
Quốc kết luận rằng: “Thế giới sẽ chỉ có nền hoà bình cuối cùng khi tất cả các dân
tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật CNĐQ ở khắp mọi nơi
mà họ gặp nó”[91, tr.11]. Kết luận này chính là sự phủ nhận của Nguyễn Ái Quốc
149
với chính trị thực dân - phong kiến - một hình thức đặc biệt của nhà nước của
giai cấp tư sản đã bị thực dân hóa ở các thuộc địa của CNTB.
Trong nhận thức của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chính trị thực dân -
phong kiến sẽ phải được xoá bỏ ở Việt Nam và phải được thay thế bằng một chế độ
chính trị phù hợp với sự phát triển tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, thay thế chính trị
thực dân - phong kiến bằng nền chính trị nào thì lúc đó bản thân Người chưa tìm ra
câu trả lời.
Tiếp theo là nhìn nhận, đánh giá của Nguyễn Ái Quốc về kiểu nhà nước tư sản
tồn tại ở các nước tư bản phát triển dưới hình thức chế độ dân chủ tư sản ở Mỹ,
Pháp.
Bản chất của một chế độ chính trị thể hiện rõ nhất ở chỗ nó đại diện cho lợi ích
của ai, phục vụ cho ai. Trong quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm cho
dân tộc một con đường sống, nghiên cứu xã hội tư bản và các cuộc cách mạng nổi
tiếng thế giới như cách mạng Anh, Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh nhận thấy nhiều điều
nghịch lý.
Sự tương phản giữa những khẩu hiệu mỹ miều trên lá cờ của cách mạng tư sản
Pháp mà Nguyễn Ái Quốc được nghe thấy từ khi học trường Quốc học Huế với sự
dã man, tàn bạo của thực dân Pháp trên quê hương đau khổ của Người đã thôi thúc
Người đến nước Pháp để khám phá những gì thực sự ẩn giấu đằng sau cái gọi là “tự
do - bình đẳng - bác ái”. Đến Pháp, Người có dịp nghiên cứu bản “Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền” của cách mạng Pháp 1789. Trong thời kỳ mà nền chuyên
chế phong kiến đang thống trị thế giới, mọi quyền con người bị tước đoạt, bản tuyên
ngôn là một văn kiện chính trị, pháp lý tiến bộ khi nó khẳng định quyền tự do, bình
đẳng, quyền chống áp bức của con người. Nhà nước đảm bảo quyền tự do có nghĩa
là mọi người có thể làm tất cả những gì không gây hại cho người khác và không bị
pháp luật nghiêm cấm. Quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân. Luật
pháp phải biểu hiện ý chí của tất cả các thành viên trong xã hội...
Tuy tuyên ngôn Pháp khẳng định quyền bình đẳng của con người nhưng tại
Đông Dương thuộc Pháp thì không như vậy: “Giá mà mọi người đều bình đẳng
150
trước pháp luật, như người ta thường nói, thì tuổi thọ của ông Xarô, toàn quyền
Đông Dương, phải dài ghê lắm mới đủ để cho ông ngồi hết hạn tù” [92, tr.95]. Sau
cách mạng tư sản, GCTS Pháp nhiều lần thiết lập nhà nước quân chủ nghị viện
nhưng trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng nhân dân, chúng đã không thực
hiện được. Tuy nhà nước vẫn mang hình thức cộng hoà nghị viện nhưng nhà nước
tư sản Pháp ngày càng lao vào con đường độc tài, phản động. Nghiên cứu lịch sử
cách mạng Pháp, khi tư sản Pháp câu kết với tư sản Đức chống lại cách mạng,
Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: “Tư bản không có Tổ quốc” [92, tr.274]. Kết luận
này giúp Người nhận thức rõ hơn bản chất quốc tế của CNĐQ và nhà nước tư sản ở
các nước Âu Mỹ. Lịch sử cách mạng Pháp cũng cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc
những thông tin quý báu về một loại hình chính phủ của nhân dân, đó chính là công
xã Pari. Mô hình một chính phủ “Tự dân cử lên và dân có quyền thay đổi chính
phủ”, “dân có quyền tự do tổ chức, làm báo, khai hội, xuất dương...”, “bất kì đàn
ông, đàn bà, ai cũng được quyền chính trị, tuyển cử và ứng cử” [92, tr.273]. Nguyễn
Ái Quốc đã tiếp thu những giá trị chân chính, những yếu tố nhân văn, tiến bộ của
cách mạng dân chủ tư sản, của chính trị tư sản nhưng người cũng đã bước đầu nhận
ra những hạn chế của nó.
Đến Mỹ, Người nghiên cứu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ của cách mạng Mỹ
1776. Tuyên ngôn khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng họ
được Chúa ban phú cho những quyền nhất định không thể chối cãi được, rằng trong
số các quyền này có quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc” [61, tr.82]. Tuyên
ngôn cũng khẳng định cuộc đấu tranh vì nền độc lập của nước Mỹ đồng thời cũng là
cuộc đấu tranh vì một chính phủ dựa trên sự đồng thuận của nhân dân thay thế cho
một chính phủ được điều hành bởi một ông Vua. Chính phủ mới được thiết lập để
bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Các chính phủ được thiết lập trong cộng đồng con người. Các chính phủ ấy
tiếp nhận mọi sức sống từ sự chấp thuận của những người bị cai trị. Bất cứ
lúc nào mà lực lượng cai trị trở nên lực lượng phá hoại mọi kết quả đó thì
nhân dân có quyền thay đổi hay bãi bỏ chính phủ đó. Sau đó thành lập một
151
chính phủ mới bằng cách đặt cơ sở của chính phủ ấy trên những nguyên tắc
như vậy. Và bằng cách tổ chức mọi lực lượng của chính phủ theo hình thức
mà theo họ sẽ là phù hợp nhất để thực thi được an ninh và hạnh phúc của họ
[61, tr.82].
Điều đó nghĩa là “hễ chính phủ nào có hại cho dân chúng thì dân chúng phải đập
đổ chính phủ đó đi và gây nên chính phủ khác” [92, tr.270]. Tuyên ngôn thì đẹp đẽ,
song những gì diễn ra trên hiện thực nước Mỹ thì trái lại. Tuyên ngôn khẳng định rõ
quyền đập đổ chính phủ nếu chính phủ ấy làm hại dân nhưng “bây giờ chính phủ Mỹ
lại không muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai động đến chính phủ. Mỹ tuy rằng cách
mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cực khổ, vẫn cứ lo tính
cách mệnh lần thứ hai [92, tr.270]. Người phát hiện ra rằng: tượng Thần Tự Do tay
nâng bó đuốc rực rỡ, đầu toả ánh hào quang biểu trưng cho khát vọng tự do toả ra
khắp thế giới nhưng chân đạp lên đầu những người da đen. Và câu hỏi lớn như một
sự trăn trở về thân phận con người rằng: ánh sáng tự do trên đầu tượng toả ra khắp
năm châu bốn bể, nhưng biết tới khi nào, ánh sáng ấy toả tới nơi gần nhất là chân bức
tượng để giải phóng cho những người nô lệ da đen? Người sớm nhìn thấy những sự
đối nghịch trong xã hội TBCN: Khi tượng Thần Tự Do, dù biểu tượng đẹp đẽ như
vậy, cũng chỉ là một bức tượng vô tri vô giác, còn nỗi thống khổ của những tù nhân
lúc nhúc như ròi bọ trên đảo ailit Ailan, cách tượng Thần Tự Do không xa kia là hoàn
toàn có thật. GCTS Mỹ ngày càng chà đạp trắng trợn các nguyên tắc cơ bản của
tuyên ngôn. Chúng đã thiết lập một chính quyền trung ương mạnh với quyền hạn tập
trung cho các cơ quan nhà nước liên bang nhằm tập trung lực lượng để có điều kiện
đàn áp có hiệu quả phong trào đấu tranh của GCCN và nhân dân lao động trong nước.
Hệ thống chính trị Mỹ với thủ đoạn cầm quyền thông qua hai đảng của GCTS nhằm
lừa bịp nhân dân lao động là hai đảng ấy đối lập nhau, đó là sự dân chủ trong nhà
nước Mỹ nhưng thực chất hai đảng đó chỉ là hai cánh tay của CNTB thay nhau nắm
giữ chính quyền nhà nước. Đúng như Ăng ghen viết: “Ở đây lại có bầy lũ lớn những
nhà chính trị đầu cơ thay nhau nắm giữ chính quyền nhà nước và lợi dụng chính
quyền đó với những phương pháp vô liêm sỉ và cả nước đều bất lực trước những tên
152
lớn đó gồm những nhà chính trị vốn mạo xưng vì cả nước mà phục vụ nhưng thực ra
lại thống trị và cướp bóc nó”[86, tr.771, 772].
Cuối cùng, băn khoăn của Nguyễn Ái Quốc khi tận mắt chứng kiến những phụ
nữ Pháp nghèo khổ lao động cực nhọc dưới cảng Mácxây: “Tại sao người Pháp
không đi khai hoá cho chính họ trước khi khai hoá chúng ta?” đã có câu trả lời.
Theo Người, nguyên nhân của tất cả những nghịch lý trên tựu trung lại là vì:
Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước
lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi mà
nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới thoát khỏi
vòng áp bức [92, tr.247].
Từ nghiên cứu thực tiễn các nước TBCN và lý luận của các cuộc cách mạng tư
sản nổi tiếng thế giới, nhìn rõ những hạn chế của cách mạng tư sản và bản chất xã
hội tư bản đằng sau vẻ ngoài xa hoa, hào nhoáng, Người rút ra kết luận: Cách mạng
Việt Nam không thể đi theo con đường ấy - con đường cách mạng tư sản. Và kết
luận này một lần nữa khẳng định chính trị tư sản, kiểu nhà nước tư sản không
thể là chính trị tương lai của Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc cũng đã từng biết đến Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên
và mô hình nhà nước Trung Hoa dân quốc mà chủ nghĩa này hướng tới xây dựng.
Và dù nhận thấy chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là “chính sách của nó phù hợp
với nước ta”, song mô hình nhà nước theo kiểu Trung Hoa dân quốc - một kiểu nhà
nước dân chủ tư sản - cũng không phải sự lựa chọn của Người.
Cuối cùng là nhìn nhận, đánh giá của Nguyễn Ái Quốc về kiểu nhà nước
XHCN trong mô hình nhà nước Xô Viết ở Nga.
Vậy, không đi theo con đường cách mạng tư sản, mô hình nhà nước theo kiểu
nhà nước tư sản không phải sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Việt
Nam sẽ đi theo con đường nào gắn với một kiểu nhà nước như thế nào?
Với ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân tộc
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
153
hành” [94, tr161], Nguyễn Ái Quốc tâm niệm: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh
thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cho cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần,
thế dân chúng mới được hạnh phúc” [92, tr.270].
Người đã tìm thấy câu trả lời cho bài toán độc lập của Việt Nam khi biết tới
Lênin và cách mạng tháng Mười Nga. Sau nhiều trải nghiệm thực tế, Nguyễn Ái
Quốc thấm thía và cảm nhận sâu sắc hơn bản chất dối trá, giả nhân giả nghĩa của chế
độ dân chủ tư sản mà luận cương của Lênin đã chỉ ra. Cái mà GCTS cũng như chế độ
dân chủ tư sản gọi là “bình đẳng” thực chất chỉ là bình đẳng hình thức, bình đẳng cho
những kẻ hữu sản. Luận cương cũng chỉ rõ một thực tế là “tuyệt đại đa số nhân dân
trên trái đất bị một thiểu số những nước tư bản tiên tiến rất mực giàu có nô dịch… Sự
nô dịch này là đặc điểm của thời đại tư bản tài chính và CNĐQ” [80, tr.199].
Hướng tới một mô hình chính trị mới trước hết nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc
nên Nguyễn Ái Quốc dành nhiều sự quan tâm đến những luận điểm của Lênin về
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Đặc biệt ở các dân tộc trong đó những quan
hệ có tính chất phong kiến hoặc gia trưởng nông dân đang chiếm ưu thế như Việt
Nam. Trong khi trên thế giới người ta bàn nhiều tới cách mạng vô sản ở chính quốc
mà lãng quên hoặc nhận thức chưa đúng đắn về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa thì Người phát hiện ra chính Lênin là người đầu tiên đã nhấn mạnh và nhận thức
hết tầm quan trọng to lớn của việc giải quyết một cách đúng đắn vấn đề thuộc địa đối
với cách mạng thế giới. Trong tất cả các Đại hội của Quốc tế Cộng sản, của Quốc tế
Công đoàn và của Quốc tế Thanh niên Cộng sản, vấn đề thuộc địa luôn luôn được đặt
lên hàng đầu. Lênin chỉ rõ không chỉ chống bọn địa chủ và chế độ phong kiến mà còn
phải chống cả giai cấp tư sản đã bị đế quốc hóa và chế độ TBCN.
Từ những luận điểm đầy ý nghĩa về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa,
Luận cương còn chỉ ra mô hình nhà nước tương lai có khả năng tạo sức mạnh để
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người là phải lập nên các
Xô Viết của những người lao động. Đó là mô hình mà “Chính phủ công nông binh
phát ruộng đất cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết
154
cho tư bản và ĐQCN nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế
giới đại đồng” [92, tr.280]. Tiếng vang của Lênin và cách mạng tháng Mười đã đến
tận những vùng xa xăm của thế giới và Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ “người ưu tú
nhất của nước đó” cũng như “một dân tộc ở miền Bắc xa xôi” vì họ “đã đánh đuổi
được bọn áp bức và tự quản lý lấy mình” [92, tr.208]. Như vậy, khát vọng của
Nguyễn Ái Quốc về một trạng thái xã hội trong đó không còn áp bức dân tộc qua
trải nghiệm thực tiễn đã được bổ sung thêm bởi một tiêu chí quan trọng cho một mô
hình nhà nước sẽ được xác lập trong tương lai đó là: một mô hình trong đó người
dân tự quản lý lấy mình. Gặp được tư tưởng của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm
được sự đồng cảm lớn lao, tìm được người tri kỷ. Và lệ Bác Hồ đã rơi trên chữ
Lênin. Đặc biệt, khi nhận thấy sự khác biệt cơ bản giữa cuộc cách mạng tháng Mười
do Lênin lãnh đạo với các cuộc cách mạng tư sản trước đây, Người khẳng định:
Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành
công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng
thật, không phải thứ tự do, bình đẳng giả dối như ĐQCN Pháp khoe khoang
bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được Vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra
sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh
để đập đổ tất cả ĐQCN và tư bản trong thế giới [92, tr.280].
Khác với tất cả các cuộc cách mạng tư sản, cách mạng tháng Mười đã giải quyết
được mục tiêu kép: giành được độc lập cho dân tộc đồng thời đem tới ấm no, hạnh
phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nếu chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc như các
cuộc cách mạng tư sản mà công - nông vẫn cực khổ thì đó là cách mạng nửa vời,
không đến nơi, không triệt để. Từ sự thấu hiểu tư tưởng của Lênin và cách mạng
tháng Mười vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho cách mạng Việt Nam một con
đường: con đường dẫn tới “một tương lai mới, sáng lạn”, con đường gắn độc lập
của nước nhà với hạnh phúc của đông đảo những người lao động, một con đường
thực sự “có nghĩa lý”. Con đường đó là con đường đi theo cách mạng tháng Mười,
theo tư tưởng của Lênin và Đệ tam Quốc tế: “An Nam muốn cách mệnh thành công
thì tất phải nhờ Đệ tam Quốc tế” [92, tr.287]. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi,
155
không thể đi theo con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Kết luận này
là sự gián tiếp phủ nhận kiểu nhà nước phong kiến cũng như kiểu nhà nước tư sản
và khẳng định kiểu nhà nước sẽ được lựa chọn cho cách mạng Việt Nam hướng tới
là kiểu nhà nước XHCN.
b. Các yếu tố đảm bảo tính khả thi của con đường giải phóng dân tộc gắn với
kiểu nhà nước mới ở Việt Nam
Một sự lựa chọn chỉ có thể được hiện thực hoá trong những điều kiện nhất định.
Điều kiện đó là một môi trường gồm các yếu tố mang tính tiền đề hoặc cơ sở đảm
bảo cho sự lựa chọn đó được thực hiện. Con đường giải phóng Nguyễn Ái Quốc tìm
thấy cho dân tộc sở dĩ có tính khả thi vì nó có đủ những yếu tố như vậy.
Trước hết, về khả năng thích ứng của CNCS ở Việt Nam - một nước châu Á,
phương Đông, Nguyễn Ái Quốc đã từng trăn trở: Một con đường cứu nước gắn với
một hệ tư tưởng nguồn gốc phương Tây liệu có thể thực hiện thành công ở Việt
Nam, một nước phương Đông?
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho Việt Nam, bản thân Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh cũng đã nhìn thấy khả năng thích ứng của CNCS ở châu Á, thậm
chí Người còn khẳng định CNCS thích ứng ở châu Á dễ hơn châu Âu. Trong khi,
theo cách nhìn của Lênin thì CNCS hiện thời chỉ có thể thắng lợi ở phương Tây
nhưng sau này với sự giúp đỡ của các nước, CNCS sẽ lan sang châu Á. Hồ Chí
Minh ngưỡng mộ Lênin, song Người luôn khẳng định một tư duy độc lập đầy tính
sáng tạo, không rập khuôn, máy móc. Sau này, khi nghiên cứu lịch sử, văn hoá Việt
Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện khi luận giải cho câu hỏi: Chủ nghĩa
Mác, lý luận về CNCS - một học thuyết phương Tây có khả năng vận dụng vào
phương Đông? Trước hết ông cho rằng: “Chủ nghĩa Mác đến Việt Nam không phải
là một học thuyết như các học thuyết khác, mà như một công cụ giải phóng… Nó kế
tục Nho giáo để đem lại cho đất nước một học thuyết chính trị và xã hội, giúp cho
nó giải quyết những vấn đề thực tiễn” [182, tr.42]. Ông cũng cho rằng một đất nước
Nho giáo như Việt Nam hấp thụ chủ nghĩa Mác dễ hơn một nước Hồi giáo hay
Thiên Chúa giáo. Vì Nho giáo và Chủ nghĩa Mác có những nét tương đồng, đều
156
“hướng tư tưởng con người vào những việc của đời” [182, tr.43] chứ không hướng
người ta vào thế giới bên kia, đều “học tập, phục vụ xã hội chứ không phải làm
phép” [182, tr.43]. Vì vậy, “ở đây (ở Việt Nam), chủ nghĩa Mác không gặp khó
khăn như khi du nhập vào những xã hội Hồi giáo hay Thiên Chúa giáo” [182, tr.43].
Nền chính trị mới được xác lập ở Việt Nam thay thế chính trị thực dân - phong
kiến là kết quả tất yếu của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy cho dân tộc. Vậy, tính khả thi của
con đường giải phóng dân tộc gắn với nền chính trị mới được đặt trên những cơ sở,
tiền đề quốc tế, trong nước nào?
b1. Các yếu tố quốc tế
Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh gắn với một kiểu nhà nước mới ở Việt
Nam sở dĩ là một con đường có tính hiện thực trước hết vì nó phù hợp với những
điều kiện quốc tế lúc bấy giờ. Đầu tiên không thể không đề cập đến là sự thành
công của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ
Nga Hoàng, xoá bỏ ách áp bức bóc lột TBCN đã có ý nghĩa trọng đại với số phận
của hàng triệu, hàng triệu con người trên thế giới đang sống trong cảnh bị áp bức,
bóc lột. Cách mạng tháng Mười mở ra “thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai
cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời
mới, tới chỗ chiến thắng GCTS, tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản” [179,
tr.382]. Cách mạng tháng Mười thành công đã thiết lập một hình thức chính quyền
thể hiện bản chất là một chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tiếp theo là sự thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919. Ý nghĩa lịch sử vĩ đại của
Quốc tế III như Lênin khẳng định là đã thực hiện khẩu hiệu thành lập “chuyên chính vô
sản”, hướng tới một chế độ chính trị của dân, do dân và vì dân. Với sự xuất hiện của tổ
chức Quốc tế III và hoạt động tích cực của những người cộng sản Việt Nam trong đó
nổi bật là Nguyễn Ái Quốc, cách mạng Việt Nam được nhân lên sức mạnh từ sức mạnh
của phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận hữu
cơ của cách mạng thế giới, một cái cánh của cách mạng thế giới.
Một sự kiện có ý nghĩa lớn trong sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn
157
Ái Quốc là sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản trên thế giới đặc biệt
đảng cộng sản Pháp và đảng cộng sản Trung Quốc.
Những năm đầu của thế kỷ XX, như là kết quả tất yếu của sự phát triển phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, hàng loạt các đảng cộng sản trên thế giới đã ra
đời ở các nước tư bản phương Tây và các nước thuộc địa, phụ thuộc. Đặc biệt sự
xuất hiện của đảng cộng sản Pháp đã có ý nghĩa thiết thực với sự vận động của
phong trào cách mạng Việt Nam theo xu hướng tiến bộ, phù hợp với quy luật phát
triển. “Đảng cộng sản Pháp, ngoài việc tổ chức xuất bản còn tìm cách đưa các tài
liệu Mác xít vào Việt Nam theo những chuyến tàu, trên đường hàng hải Pháp - Việt
Nam… Đảng cộng sản Pháp được uỷ nhiệm việc chỉ huy phong trào ở các thuộc địa
Pháp” [179, tr.393, 394]. Mặt khác, phong trào đấu tranh của GCCN và nhân dân
lao động Pháp dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Pháp chống lại chính phủ thực
dân Pháp tại chính quốc cũng tạo thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh của nhân dân
Đông Dương, nhân dân Việt Nam chống CNTD.
Sự xuất hiện của đảng cộng sản tại nước láng giềng phương Bắc năm 1921 cũng
là một mối đe doạ với CNTD Pháp ở Việt Nam và cộng hưởng sức mạnh cho cách
mạng Việt Nam.
Nhờ Đảng cộng sản Pháp và Đảng cộng sản Trung Quốc, những người cách
mạng Việt Nam đã tiếp thu ảnh hưởng đầy sức sống của cách mạng tháng
Mười và chủ nghĩa Mác- Lênin [98, tr.570]
Cuối cùng, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai với thắng lợi thuộc về phe đồng
minh, thất bại thuộc về phe phát xít đã tạo tình thế cách mạng trực tiếp cho một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi ở Việt Nam và thiết lập nên chế độ
dân chủ cộng hoà.
b2. Các yếu tố trong nước
Các yếu tố này có thể là các tiền đề có sẵn hoặc các cơ sở đang được tạo ra.
Các tiền đề chính là hệ quả tất yếu được tạo ra từ chính sách cai trị thuộc địa của
thực dân Pháp ở Việt Nam. Thực dân Pháp tạo ra các cơ sở cho sự tồn tại của nền
chính trị thực dân - phong kiến cũng chính là tạo ra những yếu tố mang tính tiền đề
158
để tiêu diệt nền chính trị này. Các cơ sở được tạo ra từ hoạt động chính trị tích cực
của Nguyễn Ái Quốc cùng những đồng chí của Người nhằm hiện thực hoá con
đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản ở Việt Nam.
Một là tiền đề xã hội
Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi, không thể đi theo con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản. Phát hiện đó của Nguyễn Ái Quốc đã hoàn toàn có cơ
sở xã hội để thực hiện tại nước ta.
Sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, đặc biệt hai cuộc khai thác thuộc địa
đã sản sinh ra một lực lượng xã hội chưa từng có trong xã hội Việt Nam là
GCCN. Trong khi các tầng lớp, giai cấp xã hội khác ở Việt Nam lúc bấy giờ đều
không đủ sức mạnh lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi thì
chính địa vị kinh tế, vị trí, vai trò và thái độ chính trị của GCCN Việt Nam đã chi
phối sự phát triển của cách mạng Việt Nam, quy định con đường phát triển của dân
tộc Việt Nam.
Với giai cấp nông dân, lực lượng chiếm đa số trong dân cư thì: “Trong tất cả
các thuộc địa Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi
dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần
nổi dậy nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay, nông dân vẫn còn
trong tình trạng tiêu cực thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người
lãnh đạo” [91, tr.289]. Dù chiếm tới 95% dân số “nhưng vì hoàn cảnh kinh tế lạc
hậu mà nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu” [97, tr.213]. Do đó, nông
dân Việt Nam không thể lãnh đạo được cách mạng đi đến thắng lợi.
“Phong kiến địa chủ và tư sản mại bản, thà chịu kinh tế nước nhà phụ thuộc
vào đế quốc chứ không muốn giải phóng nông dân, không muốn công nghệ nước ta
được phát triển”. Như vậy, lực lượng này không những không lãnh đạo được cách
mạng mà còn là đối tượng của cách mạng.
Tiểu tư sản, trí thức dù là những người “cũng bị đế quốc, phong kiến áp bức,
có học thức, dễ có cảm giác chính trị…dễ tiếp thu sự giáo dục cách mạng” nhưng có
nhược điểm “lý luận không đi đôi với thực hành, xem khinh lao động, tư tưởng mơ
159
hồ, lập trường không vững, khi hành động thì hay lung lay” [97, tr.314]. Nhìn
chung, tiểu tư sản trí thức có nhược điểm là tự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên quyết nên
cũng không thể lãnh đạo được cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam xuất hiện gắn liền với các cuộc khai thác thuộc
địa của Pháp ở Đông Dương. “Sự phát triển của CNTB thực dân ở Đông Dương đã
tạo ra ở xứ đó hai giai cấp, giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp vô sản nông
nghiệp” [92, tr.357].
Sau chiến tranh thế giới 1914-1918, khi Pháp bước vào cuộc khai thác thuộc địa
lần hai (1918-1929), sự đầu tư tư bản vào nước ta tăng một cách ồ ạt với nhiều nhà
máy, xí nghiệp được xây dựng thì GCCN tăng nhanh chóng về số lượng và có sự
trưởng thành về lập trường giai cấp. Trong khi đó, những nhà tư sản đầu tiên của
Việt Nam phải tới chiến tranh thế giới 1914-1918 mới xuất hiện. Trong chiến tranh,
đường biển từ Pháp sang Đông Dương bị các tàu ngầm Đức phong toả nên tư sản
Pháp không thực hiện được vai trò của mình làm cầu nối giữa thị trường Pháp và thị
trường Đông Dương, lúc đó, tư sản Việt Nam xuất hiện, thế chân vào chỗ của tư sản
Pháp. Như vậy, có thể thấy, GCCN Việt Nam ra đời trước GCTS Việt Nam và rõ
ràng có ưu thế hơn hẳn GCTS Việt Nam về thời điểm ra đời. Khi GCTS Việt Nam
ra đời thì GCCN Việt Nam đã bước đầu khẳng định được vị thế, vai trò của mình.
Công nhân Việt Nam phần lớn làm việc trong các cơ sở kinh tế của người Âu
(so với số công nhân làm trong các cơ sở kinh tế của người Việt và người Hoa, tỷ lệ
này những năm 30 của thế kỷ XX là khoảng 22 vạn so với vài ba vạn) do đó quá
trình lao động của họ gắn liền với nền đại công nghiệp được du nhập từ Pháp sang
nước ta. Họ là “giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất” [97, tr.212], là giai cấp có
“đặc tính cách mạng” là: “kiên quyết, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật” [97, tr.212].
GCCN Việt Nam phân bố trên khắp cả nước nhưng tập trung nhiều ở các trung tâm
công nghiệp lớn. Có những khu mỏ có hàng vạn công nhân, có những đồn điền, nhà
máy có hàng ngàn công nhân. Năm 1929, ở Hà Nội tỷ lệ công nhân so với tổng số
dân của thành phố là 15%. Sự tập trung này tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân
khi họ tổ chức các cuộc đấu tranh và cho những người cộng sản khi truyền bá lý
160
luận cách mạng vào phong trào công nhân.
Nội bộ GCCN tương đối thống nhất vì không có đội ngũ công nhân quý tộc và
những công đoàn vàng. Công nhân Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông thôn do đó
họ có mối liên lạc chặt chẽ với làng quê và những người nông dân. Mặt khác, nhiều
người còn hiện diện đồng thời với hai tư cách, lúc này là công nhân, lúc khác là
nông dân. Mối liên hệ này tạo thuận lợi lớn cho việc xây dựng liên minh công -
nông. Họ xuất thân từ những người nông dân bị phá sản và buộc phải bán sức lao
động của mình cho giới chủ. Để có đủ nhân công cho các cơ sở kinh tế của người
Pháp, chính quyền thuộc địa đã thực hiện mọi biện pháp để bần cùng hoá những
người lao động... và bằng chính sách cưỡng bức, đẩy họ vào làm việc tại các nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền.
Trở thành công nhân là bước đường cùng của những người lao động Việt Nam
dưới chế độ thuộc địa. Họ buộc phải trở thành công nhân bằng chính sách bắt phu,
mộ phu một cách tàn nhẫn trong một “hệ thống buôn bán nô lệ da vàng” ở cái “chợ
buôn nô lệ”. Và những con người không có bất cứ một thứ vũ khí nào trong tay ấy-
những người buộc phải trở thành công nhân - đã “ký một hợp đồng nô lệ trong vòng
3 năm... bắt đầu một cuộc hành trình đến cõi âm trên trần thế, nạn nhân của một chế
độ bóc lột đặc biệt thực dân - phong kiến, dưới roi vọt của xu-ba-giăng, cai, ký, bị
hành hạ bởi đói khát, bệnh tật, bị vắt đến kiệt cùng sức lực, bị xúc phạm về nhân
cách và tình cảm dân tộc” [179, tr. 370, 371].
Công nhân Việt Nam không có thân phận con người, họ bị coi như một thứ
hàng hoá mà bọn cai thầu được nhận hoa hồng sau khi giao nộp cho chủ. “Các xí
nghiệp ngoại quốc lại thường không biết rõ số nhân công họ sử dụng, mà chỉ biết
những người cai thầu mộ thợ cho họ” [4, tr.232] thế nhưng những ông chủ tư bản
này lại có thể tự ấn định số giờ làm việc của công nhân trong các xí nghiệp của
chúng. Điều kiện làm việc và sinh hoạt của công nhân Việt Nam thật sự tồi tệ với
đủ thứ tệ nạn trên đời, mức sống của họ ngày càng giảm đi. Dường như, vốn đầu tư
của tư bản Pháp vào Việt Nam càng tăng lên thì số lượng công nhân càng tăng
nhanh chóng và công nhân bị bóc lột ngày càng tàn tệ hơn chứ không làm cho cuộc
161
sống của họ khả dĩ hơn. Vì nguồn cung công nhân quá lớn dẫn tới lương công nhân
thấp nên giới chủ gần như không cần quan tâm tới tăng năng suất bằng các phương
tiện kỹ thuật mà tha hồ bóp nặn, bóc lột công nhân. “Vì áp bức mà sinh ra cách
mệnh, cho nên ai bị áp bức càng mạnh thì cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết” [92, tr.266]. Công nhân Việt Nam là lực lượng xã hội bị áp bức nặng nề do
đó có tinh thần cách mạng cao. Những sự chuyển biến về mặt kỹ thuật trong quá
trình khai thác thuộc địa đòi hỏi trình độ chuyên nghiệp của công nhân ngày càng
cao, do đó, số công nhân chuyên môn ngày càng gia tăng. Đặc biệt, số công nhân
được mộ sang Pháp trong chiến tranh, phần nhiều là những công nhân có trình độ
kỹ thuật. Và do được tiếp xúc với lối sống mới, chịu ảnh hưởng của những luồng tư
tưởng mới, những khát vọng về chính trị và xã hội, và khi trở về, trong chừng mực
nhất định, họ đã có đầu óc công nghiệp. Bộ phận này là một trong những hạt nhân
làm cho chất lượng GCCN ngày càng tăng lên.
Dù GCCN Việt Nam có số lượng ít và chất lượng không cao nhưng “Lãnh đạo
được hay không là do đặc tính cách mạng chứ không phải do số người nhiều hay
ít” [91, tr.212]. Mặt khác, số lượng và đội ngũ chính trị của GCCN Việt Nam hoàn
toàn có triển vọng phát triển vì Đảng của GCCN “đề ra chủ trương, đường lối, khẩu
hiệu cách mạng, lôi cuốn GCCN và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành
những phần tử tiên tiến, lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản
hoá thành thử đội ngũ chính trị của GCCN ngày càng phát triển. Mai sau công nghệ
của ta ngày càng phát triển thì số công nhân ngày càng tăng thêm” [91, tr.212]. Hơn
nữa, công nhân Việt Nam không tồn tại đơn độc mà tồn tại trong mối quan hệ và sự
hậu thuẫn với GCCN quốc tế: “Nước ta GCCN còn nhỏ, song ở thế giới thì GCCN
rất to lớn” [91, tr212].
Mặt khác, GCCN giai đoạn này phần lớn là những người lao động trẻ tuổi, họ
có sức mạnh của tuổi trẻ cùng với sức phản kháng không chỉ của người lao động bị
bóc lột cùng cực mà còn sức mạnh phản kháng của những người dân mất nước. Sức
mạnh của tuổi trẻ, của mối thù giai cấp và mối thù dân tộc hoà vào trong họ tạo nên
một sức mạnh vô địch khi họ được giác ngộ và tổ chức lại. “GCCN có thể thấm
162
nhuần tư tưởng cách mạng nhất, tức chủ nghĩa Mác Lênin. Đồng thời tinh thần đấu
tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư
tưởng, tổ chức và hành động, GCCN đều giữ vai trò lãnh đạo” [97, tr.212]
Như vậy, có thể thấy, sự cai trị của Pháp đã tạo ra ở Việt Nam một GCCN hiện
đại với bản chất quốc tế và những đặc điểm mang tính chất đặc thù Việt Nam. Với
những đặc điểm nổi trội này cùng với ưu thế về sự ra đời trước so với GCTS Việt
Nam, GCCN Việt Nam giữ vị thế thượng phong trong vai trò người lãnh đạo cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi.
Chỉ có GCCN là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương
đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh
nghiệm cách mạng của phong trào cộng sản quốc tế, GCCN tỏ ra là người
lãnh đạo xứng đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam [91, tr.15].
Hai là các tiền đề về tư tưởng, văn hoá
Những năm đầu thế kỷ XX, một hệ tư tưởng mới đã xâm nhập vào Việt Nam,
đó là hệ tư tưởng vô sản. Có nhiều phương thức để hệ tư tưởng vô sản thâm nhập
vào nước ta. Ở đây, như là hệ quả sự cai trị thuộc địa của thực dân Pháp, có thể
thấy, chính thông qua chủ nghĩa chống cộng của thực dân Pháp ở Việt Nam bằng
báo chí thực dân mà hệ tư tưởng này đã xâm nhập vào nước ta.
Mặc dù tờ báo bí mật đầu tiên có xu hướng cộng sản (báo Thanh niên) ra đời
năm 1925, nhưng trước đó báo chí ở Việt Nam đã kịp nói tới cách mạng Nga
và sự “đe doạ” của phong trào cộng sản... Ngay từ những năm 1919, 1920,
người ta đã đọc được nhiều bài viết công kích, bịa đặt, vu khống chính quyền
Xô Viết non trẻ và CNCS. Không chỉ báo chí Pháp mà cả báo chí tiếng Việt
cũng bị sử dụng vào công việc này [179, tr274].
Điển hình là tờ Diễn đàn Đông Dương ở miền Nam “đề cao chủ nghĩa Pháp
Việt đề huề, chửi mắng thậm tệ, nói xấu hết lời CNCS, cách mạng Nga và Lênin”
[179, tr.270].
Vào những năm 1920-1924, bọn quan lại thực dân Pháp luôn luôn tuyên
truyền chống lại CNCS. Giáo trình của giáo sư sử học đã cố tình miêu tả chế
163
độ Xô Viết như là một tai vạ của lịch sử hiện đại… Những buổi diễn thuyết
nói xấu Liên Xô, bôi nhọ các nhà lãnh đạo cách mạng tháng Mười [179,
tr.403].
Thực dân Pháp đã phạm một sai lầm lớn: chúng triển khai chủ nghĩa chống
cộng ở Việt Nam khi ở nước ta chưa hề có tư tưởng về CNCS. Người Việt Nam,
nhất là tầng lớp trí thức cấp tiến lúc bấy giờ đã lờ mờ hiểu ra hình như nước Nga Xô
Viết, Lênin là bạn của ta? Họ đặt ra câu hỏi và suy luận:
Đối với ta, kẻ thù là ai? Tây lấy nước ta. Tây cướp thuộc địa ở khắp nơi…
Nếu như chúng nó ghét chế độ Xô Viết đến mức đó thì CNCS chỉ có thể là
người bạn tốt của những người dân thuộc địa chứ sao? [179, tr.403].
Một trong những hiệu ứng ngoài ý muốn của bọn thực dân trong việc tuyên
truyền chống cộng và “làm sạch” môi trường chính trị tại thuộc địa Việt Nam là đã
góp phần thúc đẩy phong trào tìm hiểu về CNCS phát triển ở nước ta.
Mặt khác, sau chiến tranh, nhiều thuỷ thủ, lính thợ Việt Nam bị thực dân bắt
lính sang chiến trường châu Âu hồi hương. Họ trở về mang theo các hiểu biết mới,
tư tưởng mới và cả kinh nghiệm đấu tranh của những anh em đồng chí ở châu Âu về
nước. Thực tế này làm cho đời sống tư tưởng và hoạt động chính trị ở Việt Nam
càng thêm đa dạng, phong phú.
Nếu như hai con đường trên là những con đường hết sức tự nhiên thì một con
đường hoàn toàn mang tính chủ động để hệ tư tưởng vô sản có thể thâm nhập vào
Việt Nam đó là thông qua sự truyền bá của Nguyễn Ái Quốc mà chúng ta sẽ nghiên
cứu trong phần cơ sở chính trị ở sau.
Bằng nhiều con đường chính thức và phi chính thức, chủ nghĩa Mác-Lênin, lý
luận cách mạng của GCCN đã thâm nhập vào phong trào cách mạng Việt Nam thức
tỉnh quần chúng cách mạng, trước hết là GCCN Việt Nam. Đây là một trong những
điều kiện quan trọng dẫn tới GCCN Việt Nam có thể tự tin bước lên vũ đài chính
trị, thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Và đây cũng chính là một tiền đề tư
tưởng không thể thiếu cho việc hiện thực hoá từng bước con đường giải phóng dân
tộc mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
164
Một nhân tố không thể không kể tới là sự tương đồng giữa những yếu tố của
tư tưởng, văn hoá Việt Nam với học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin tạo điều
kiện thuận lợi cho chủ nghĩa Mác Lênin thâm nhập vào nước ta. Ở các nước
phương Đông từ rất sớm đã hình thành những mầm mống tư tưởng có tính chất
XHCN như quan điểm dân là gốc, cộng đồng về tài sản, quan điểm về tình nhân ái
yêu thương con người, quan điểm về xã hội đại đồng lý tưởng của Khổng Tử, quan
điểm về lòng từ bi bác ái của Phật… Trong lịch sử châu Á, điều đặc biệt là chế độ
quân chủ đã tồn tại hàng nghìn năm song cách tư duy và ứng xử của người dân nơi
đây rất gần gũi với những giá trị “dân chủ”. Chẳng phải tinh thần “Dân vi bản, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh” của Khổng Tử đã được nhiều nước châu Á coi là nguyên
tắc ứng xử trong mối quan hệ giữa người dân và chính quyền đó sao? Hay Phật giáo
- một tôn giáo của Phương Đông, các nước Phương Đông đã thấm nhuần Phật giáo
từ hơn hai nghìn năm - là một tôn giáo luôn đề cao sự bình đẳng giữa con người với
nhau. Phật đã từng nói: Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành. Là một
nước nằm ở một vị trí địa lý đặc biệt, từ lâu trong suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam
có cơ hội tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của các học thuyết chính trị - xã hội và tôn
giáo của các nước châu Á, phương Đông. Trong một môi trường với những giá trị
truyền thống như vậy, những tư tưởng XHCN rất gần gũi và quen thuộc với người
châu Á. Mặt khác, những giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam như truyền thống
đoàn kết, tinh thần cố kết cộng đồng, tương thân tương ái… rất gần gũi với bản chất
của CNXH. Sự tương đồng này khiến cho người Việt Nam khi tiếp nhận học thuyết
CNXH của Mác, dù có nguồn gốc phương Tây nhưng không thấy xa lạ, ngỡ ngàng.
Hơn nữa, chính sự thống trị tàn bạo của CNTD phương Tây ở châu Á đã tạo ra
những tiền đề cho sự lựa chọn con đường XHCN. Hồ Chí Minh đã khẳng định: Lịch
sử các cuộc khai thác thuộc địa bao giờ cũng được viết bằng máu và nước mắt của
những người bản xứ. Sự cai trị tàn bạo đó đã dồn con người đến bước đường cùng
và thôi thúc khả năng tự giải phóng, hướng tới một xã hội đối lập với trạng
thái đang tồn tại: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang giấu
một cái gì đó đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời
165
cơ đến” [91, tr.28]. Và trạng thái xã hội họ hướng tới là: “Một thế giới XHCN,
CNCS không có người bóc lột người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình
đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người” [99, tr.324]
Như vậy, sự cai trị tàn bạo của CNĐQ đã thôi thúc nhân dân Việt Nam phải đấu
tranh giải phóng, thoát khỏi trạng thái tủi nhục đó. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy cho
nhân dân Việt Nam một con đường. Để con đường đó được thực hiện, nhân dân
Việt Nam cần một chủ nghĩa - chủ nghĩa Mác lênin. Bản thân chủ nghĩa Mác Lênin
khi truyền bá vào một nước Nho giáo như Việt Nam đã có nhiều yếu tố thuận lợi.
Trên thực tế, bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau, lý luận “chắc chắn nhất,
chân chính nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất” này đã thâm nhập vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam tạo “vũ khí tinh thần” để GCCN có
thể hoàn thành vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình trong cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc và hướng tới xây dựng một xã hội mới gắn với một nền chính trị mới.
Ba là tiền đề về kinh tế
Những yếu tố của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường được tạo ra từ sự cai trị
của Pháp làm cho yêu cầu về dân chủ trở nên cần thiết sau khi giành độc lập để có
thể phát triển đất nước. Vì nhà nước cho sự phát triển không phải nhà nước nói
chung mà phải là một nhà nước pháp quyền, một nhà nước dân chủ.
Sự đầu tư tư bản của Pháp vào Việt Nam trong suốt thời gian cai trị gần trăm
năm ở nước ta, sự mở rộng đầu tư kinh tế và thiết bị kỹ thuật đã dẫn tới sự biến đổi
trong các ngành kinh tế truyền thống và sự xuất hiện của một khu vực hoàn toàn
mới, chưa từng có trong nền kinh tế Việt Nam - khu vực kinh tế hiện đại.
Sau chiến tranh 1914-1918, với sự đầu tư ồ ạt của thực dân Pháp vào thuộc địa
Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, các hoạt động tài chính diễn ra vô
cùng sôi nổi, cả về phía các công ty tài chính cũng như về phía chính quyền thuộc
địa. Các tổ hợp tài chính với sức mạnh khổng lồ mà đứng đầu là ngân hàng Đông
Dương và các công ty tài chính nổi tiếng đã bị ngân hàng Đông Dương thâu tóm đã
chi phối hầu hết mọi hoạt động kinh tế ở thuộc địa Việt Nam. Ngân hàng Đông
Dương đã được ví như “con bạch tuộc trung tâm tài chính ở Đông Dương... tâm và
166
não của nền kinh tế Đông Dương... Trên thực tế, ngân hàng Đông Dương đã trở
thành một ngân hàng mang tính chất nhà nước nhưng không chịu sự kiểm soát của
nhà nước” [179, tr.204, 205]. Thực tế này là một minh chứng cho sự phát triển của
kinh tế TBCN ở Đông Dương thuộc địa trong đó có nước ta.
Trong khu vực kinh tế truyền thống mà điển hình là nông nghiệp, vốn đầu tư
tăng nhanh, nhiều công ty nông nghiệp được thành lập, hiện tượng tập trung sản
xuất trong nông nghiệp biểu hiện ngày càng rõ rệt, diện tích đất canh tác được mở
rộng, kinh tế đồn điền phát triển, tích tụ tập trung ruộng đất trong nông nghiệp ngày
càng lớn... Như vậy, nông nghiệp - một ngành kinh tế truyền thống đã phát triển
theo hướng TBCN, đúng như nhận định của đại hội nông nghiệp thuộc địa năm
1920:
Kể từ nay, chúng ta không thể bằng lòng với việc sử dụng những sản phẩm
tự nhiên của đất đai hay những thực phẩm do việc khai thác gần như mọi rợ
những đất đai mà người bản xứ cấy trồng. Thời kỳ này phải được kế tiếp
bằng một thời kỳ khác gọi là: Thời đại nông nghiệp, có nghĩa là khai thác đất
đai bằng người bản xứ dưới sự hướng dẫn của các điền chủ có nhiều vốn và
những hiểu biết mang tính chất thực tiễn [179, tr.126, 127].
Tính chất tự cấp, tự túc, khép kín, cô lập của các ngành kinh tế truyền thống
ở Việt Nam đã có sự biến chuyển lớn dưới thời Pháp thuộc. Các ngành này đã có sự
biến đổi theo hướng sản xuất hàng hoá, theo kinh tế thị trường TBCN.
Sự phát triển của kinh tế Việt Nam thời kỳ này (thời kỳ 1919-1945) có xu thế
gắn liền với thị trường nước ngoài, trước hết là thị trường lúa gạo và nguyên
liệu cao su... Sự gia tăng các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu trước hết là lúa
gạo và ngô một mặt góp phần đẩy mạnh sản xuất phát triển, mặt khác chứng
tỏ nền nông nghiệp Việt Nam đã dần dần thoát khỏi tính chất tự cung tự cấp,
để chuyển sang thời kỳ sản xuất có tính chất hàng hoá [63, tr.86,92].
Diện mạo của một khu vực kinh tế hiện đại mang tính chất TBCN xuất hiện
ngày càng rõ nét trong nền kinh tế Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp.
Trước hết là một nền công nghiệp thuộc địa với hai bộ phận chính là công nghiệp
167
mỏ và công nghiệp chế biến. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự đầu tư
tư bản ngày càng lớn của tư bản Pháp, nền công nghiệp Đông Dương nói chung và
công nghiệp Việt Nam nói riêng phát triển rất nhanh chóng. Và kết quả là: “xứ
Đông Dương đã xa dần giai đoạn tiền tư bản để tiến sát gần với CNTB thật sự,
trong đó đã xuất hiện sự tách rời giữa lao động và tư bản” [63, tr.109]. Sự phát triển
mạnh mẽ của ngành giao thông vận tải để phục vụ cho các cuộc khai thác thuộc địa
của Pháp ở Việt Nam, đặc biệt sự ra đời của ngành hàng không - một ngành kinh tế
hiện đại và rất mới mẻ trên thế giới lúc bấy giờ (năm 1917, sở hàng không Đông
Dương được thành lập) là những tiền đề quan trọng để thống nhất thị trường trong
nước, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của
ngành ngoại thương với các luồng trao đổi ngày càng gia tăng làm cho kinh tế Việt
Nam ngày càng hoà nhập với thị trường thế giới. Khác với thời phong kiến bế quan
toả cảng, dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam có quan hệ buôn bán với nhiều nước ở
châu Á (Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Singapo, Nhật Bản...) và khu vực Âu,
Mỹ (ngoài Pháp là chủ yếu còn có các nước như Mỹ, Đức, Bỉ, Hà Lan, Anh...).
Dưới tác động của phương thức sản xuất TBCN do Pháp du nhập vào, nền
kinh tế Việt Nam dần dần chuyển biến từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, tự cung tự cấp sang một nền kinh tế thuộc địa - TBCN... Nền kinh tế
hàng hoá đã bắt đầu hình thành và phát triển ở một số khu vực sản xuất...
Nhờ có các hoạt động kinh tế với nước ngoài mà lần đầu tiên nền kinh tế Việt
Nam đã vượt khỏi biên giới quốc gia để tiếp cận và từng bước hội nhập với
nền kinh tế thế giới [63, tr.63].
Có thể thấy kinh tế nào, chính trị ấy. Với nền kinh tế phong kiến tự cung tự cấp,
khép kín, chính trị tương ứng với nó là chế độ quân chủ chuyên chế. Với những yếu
tố của kinh tế thị trường, chính trị sẽ phải là chính trị khác. Diện mạo mới của nền
kinh tế Việt Nam tạo tiền đề, nhu cầu cho việc xác lập một thiết chế chính trị, một
chế độ chính trị phù hợp để có thể đưa đất nước phát triển sau ngày độc lập.
Bốn là cơ sở về chính trị
Ba yếu tố trên là những yếu tố mang tính tiền đề được tạo ra từ sự cai trị của
168
thực dân Pháp ở nước ta. Yếu tố thứ tư này là yếu tố mang tính cơ sở được những
người Việt Nam điển hình là Nguyễn Ái Quốc tạo ra một cách chủ động. Cơ sở
được tạo ra này như là nhân tố hội tụ các tiền đề cho một bước ngoặt cách mạng
thay thế chính trị thực dân - phong kiến bằng chính trị dân chủ nhân dân.
Yếu tố có tính chất quyết định để hiện thực hoá con đường cứu nước gắn với
mô hình nhà nước kiểu mới ở nước ta là phải thành lập Đảng cộng sản. Nguyễn Ái
Quốc cùng những người đồng chí của Người đã có những hoạt động chính trị hết
sức tích cực, chủ động để tiến tới thành lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam. Sau
khi tìm ra con đường mới cứu nước, Người hoạt động tích cực trong Ban nghiên
cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa
nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào các nước thuộc địa. Đặc biệt, Người
truyền bá vào trong nước những tư tưởng mới về con đường cứu nước nhằm thức
tỉnh quần chúng nhân dân, giác ngộ họ về một lối thoát cho dân tộc trong cảnh bế
tắc, vô vọng, không đường ra, giác ngộ GCCN về vai trò, sứ mệnh lịch sử của họ.
Người đã thiết lập nhiều kênh khác nhau để thực hiện quá trình truyền bá này:
Thông qua đội ngũ Việt kiều, đặc biệt trí thức Việt kiều tại Pháp; thông qua hoạt
động của Đảng cộng sản Pháp mà Người là một trong những thành viên sáng lập;
thông qua hoạt động của Quốc tế Cộng sản ở phương Đông... Bằng nhiều công cụ
khác nhau như báo chí, xuất bản, Người đã truyền bá lý luận cách mạng về trong
nước. Sau này, Người thành lập tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên, đào tạo,
huấn luyện một cách bài bản cho những người yêu nước Việt Nam tư tưởng mới về
con đường cứu nước, tư tưởng về CNCS.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam khi được hấp thụ chủ nghĩa Mác Lênin đã làm xuất hiện nhu cầu có một tổ
chức chính trị đủ sức mạnh lãnh đạo phong trào tiến lên. Nhận thức được nhu cầu
đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta
lúc bấy giờ, thành lập đảng cộng sản Việt Nam. Đây là bộ tham mưu chiến đấu của
GCCN Việt Nam, giữ vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng. Sự ra
đời của một đảng chính trị được tổ chức theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin
169
đã là một yếu tố không thể thiếu để thực hiện con đường giải phóng dân tộc mà
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy cho dân tộc Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh là một yếu
tố quan trọng đồng thời là nhân tố hội tụ các tiền đề cho một bước ngoặt cách
mạng thay thế chính trị thực dân - phong kiến bằng một nền chính trị mới.
Có thể khẳng định, nền chính trị thay thế chính trị thực dân - phong kiến ở
nước ta không phải một mô hình được định sẵn để hướng tới xây dựng mà là kết
quả của một con đường cứu nước giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô dịch đế
quốc, thực dân. Nền chính trị nào đáp ứng được mục tiêu độc lập dân tộc, nền chính
trị đó sẽ thắng thế. Nói cách khác, nền chính trị nào giải quyết được mâu thuẫn chủ
yếu giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc, thực dân xâm lược, nền chính trị
đó sẽ khẳng định được vị trí của mình trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, phải nhận
thấy rằng, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù
xâm lược như thực dân Pháp. Thách đố lịch sử đặt ra trước mắt dân tộc Việt Nam từ
nửa sau thế kỷ XIX là một thách đố lịch sử khác hẳn về bản chất. “Kẻ thù xâm lược
mới là đại diện của phương thức sản xuất cao hơn - phương thức sản xuất TBCN,
cho một nền văn minh xa lạ - văn minh phương Tây, và cho một thế lực quốc tế -
tức là CNTD phương Tây” [173, tr.334]. Do đó, để có thể lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ
đánh lớn, lấy yếu đánh mạnh, một nhu cầu bức thiết đặt ra là phải tối đa hoá sức
mạnh dân tộc, thay đổi thế và lực của dân tộc Việt Nam. Thay đổi tương quan so
sánh lực lượng bằng cách phát huy tối đa khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những nhu cầu để chiến thắng kẻ
thù xâm lược.
Sức mạnh đó trước hết là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân được quy tụ
thông qua sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Hồ Chí Minh thành lập đảng cộng sản Việt Nam trước hết để đáp ứng yêu cầu
bức thiết tối đa hoá sức mạnh dân tộc, thay đổi thế và lực của dân tộc Việt Nam vì
sự tồn vong của dân tộc này. Đảng ra đời để “trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [25,
170
tr.24]. Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng của GCCN và nhân dân lao động là rất
to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có đảng lãnh đạo mới chắc chắn
thắng lợi” [99, tr.290]. Đảng cộng sản - một thực thể chính trị hoàn toàn mới, lần
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử dân tộc Việt Nam vì sự sống còn của dân tộc. Khi
đặt câu hỏi, cách mạng trước hết phải có cái gì, câu trả lời mà Hồ Chí Minh đưa ra
là: Phải có đảng cách mệnh. Đảng cộng sản Việt Nam là một đảng được xây dựng
theo nguyên tắc đảng kiểu mới của GCCN. Đảng là bộ tham mưu chiến đấu của
GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là nơi hội tụ những gì tinh tuý nhất
của dân tộc. Đảng là đạo đức, là văn minh. Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Đảng ra đời, với đường lối chiến lược
và sách lược đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với nhu
cầu của xã hội Việt Nam là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cận, hiện đại
Việt Nam. Đảng ra đời là hạt nhân quy tụ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế tạo ra sức mạnh khổng lồ để giải phóng
dân tộc, giành độc lập.
Nhiều lãnh tụ yêu nước Việt Nam trước Nguyễn Ái Quốc cũng đã nhận thấy
chừng nào toàn dân tộc ta chưa thực sự đồng tâm, nhất trí, đồng sức, đồng lòng, tựu
trung dưới một ngọn cờ thì chúng ta chưa thể chiến thắng đế quốc, thực dân. Lời
kêu gọi “đồng tâm” dù tha thiết của Phan Bội Châu song thiếu cơ sở lý luận, thiếu
phương tiện và biện pháp cụ thể thì khối đại đoàn kết cũng không thể trở thành hiện
thực. Mặt khác, trong lịch sử hình thành phát triển dân tộc Việt Nam dù đoàn kết đã
trở thành truyền thống song không phải không có những yếu tố dị biệt, đa dạng
trong cộng đồng đó. Thêm vào đó là chính sách “chia để trị” thâm độc của đế quốc,
thực dân. Tất cả những thực tế đó khiến cho việc tập hợp toàn dân trong một khối
thống nhất để chiến thắng kẻ thù chung không phải là một điều dễ dàng.
Sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh với
một đường lối đại đoàn kết dân tộc được kết tinh từ truyền thống yêu nước, nhân ái,
tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam, từ quan điểm của chủ nghĩa Mác
171
Lênin về tập hợp lực lượng cách mạng, từ đúc rút kinh nghiệm thành công, thất bại
của phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới đã đưa truyền thống yêu nước và
đoàn kết của dân tộc Việt Nam thăng hoa lên một đỉnh cao mới, khác biệt về chất so
với đại đoàn kết truyền thống. Đặc biệt, dưới ánh sáng của một lý luận cách mạng
“chắc chắn nhất, chân chính nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất” của thời đại là lý
luận của chủ nghĩa Mác Lênin, bằng phương pháp phân tích biện chứng dân tộc -
giai cấp, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đưa ra tư tưởng đại đoàn kết toàn dân
ở một tầng bậc mới cao hơn đại đoàn kết truyền thống ở cả bề rộng và chiều sâu.
Mẫu sỗ chung quy tụ mọi người vào một khối thống nhất, theo Hồ Chí Minh là
truyền thống yêu nước, thương nòi, đặc biệt mỗi khi tổ quốc lâm nguy. Đó còn là sự
gắn bó, keo sơn của anh em trong một nhà, từ một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ mà
sinh thành. Dù ở đâu, người Việt Nam đều cùng một mẹ, là con Lạc, cháu Hồng,
con Rồng, cháu Tiên. Đó là sự thống nhất thẳm sâu từ cội nguồn. Tuy nhiên, quá
trình bôn ba khắp năm châu bốn biển đã giúp Hồ Chí Minh có cái nhìn duy lý bên
cạnh cách nhìn duy tình, duy cảm của người phương Đông. Người không chỉ nhìn
thấy sức mạnh của các lớp người khác nhau trong xã hội ở tinh thần yêu nước, ở
tình cảm, ở tinh thần đồng lòng đánh Pháp như cụ Phan Bội Châu cũng đã thấy mà
Người còn nhìn thấy sức mạnh của họ ở vị trí kinh tế xã hội. Có thể thấy, Phan Bội
Châu rất lúng túng khi lựa chọn một tiêu chí để quy tụ mọi người vào một khối
thống nhất “Khi thì dựa vào nghề nghiệp, địa vị xã hội, khi lại dựa vào huyết thống,
tộc họ” [156] nên trong tư tưởng toàn dân đoàn kết của ông thiếu một sự nhất quán.
Phan Bội Châu lúc thì kêu gọi “mười hạng người đồng tâm” (gồm: phú hào, quan
tước thế gia, sĩ tịch, lính tập, giáo đồ, côn đồ, nghịch trở, nhi nữ anh si, bồi bếp
thông ký, cừu gia tử đệ, người đi du học), lúc khác lại kêu gọi sĩ, nông, công,
thương, sau này lại bổ sung thêm các dân tộc thiểu số… Với Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh, Người đã nhìn thấy rõ vị thế kinh tế, xã hội của từng giai cấp và đưa ra
tư tưởng đại đoàn kết toàn dân trên cách tiếp cận này.
Theo Người, phải thực hiện đoàn kết đại đa số nhân dân mà nền tảng là công
nhân, nông dân, lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Phải củng cố
172
nền tảng này để có thể mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tới các tầng lớp nhân dân
lao động khác. Đặc biệt, trong một xã hội nông dân như Việt Nam với hơn 90% dân
số là nông dân, không thể có một khối đại đoàn kết rộng rãi, bền vững mà không có
nông dân. Tuy nhiên không chỉ là lời hiệu triệu suông mà phải gắn với những lợi ích
kinh tế. Khẩu hiệu ruộng đất cho dân cày mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng
đề ra vì vậy có ý nghĩa vô cùng thiết thực. Với Phan Bội Châu, cụ chỉ nhìn thấy
nông dân là một đối tượng cần cứu vớt mà chưa nhìn thấy nông dân là một lực
lượng tham gia cách mạng. Song, đến Hồ Chí Minh, với nhận thức “đem sức ta mà
giải phóng cho ta”, theo Người, nông dân vừa là đối tượng giải phóng, vừa là lực
lượng có khả năng giải phóng khi được sự lãnh đạo của đội tiên phong là đảng cộng
sản. Tuy nhiên, không chỉ có nông dân, mà còn nhiều lực lượng yêu nước khác nữa,
cho dù trong đó có cả lực lượng là kẻ thù của nông dân (như địa chủ, phong kiến)
cũng cần được quy tụ vào khối đại đoàn kết toàn dân. Lúc này, khẩu hiệu phải là
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, bỏ qua mâu thuẫn nhỏ, hướng tới mục tiêu lớn.
Nông dân, địa chủ phong kiến thậm chí có thể cùng chung một chiến hào. Khi tình
hình quốc tế, trong nước có những biến động tạo cơ hội cho mục tiêu độc lập ngày
càng gần hơn, Hội nghị trung ương 8, tháng 5-1941 đã khẳng định: “trong lúc này,
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia,
của dân tộc” [28, tr.113].
Việc giải quyết vô cùng tinh tế, hợp tình, hợp lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp
của đảng cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã là
một yếu tố quan trọng quy tụ tối đa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong từng thời
kỳ lịch sử cụ thể.
Đại đoàn kết không chỉ là lời kêu gọi chung chung mà phải biến thành sức
mạnh vật chất, có tổ chức là mặt trận dân tộc thống nhất. “Hãy cho tôi một tổ chức,
tôi sẽ làm đảo lộn nước Nga”. Câu nói nổi tiếng của Lênin trong trường hợp cụ thể
của Việt Nam thật có ý nghĩa. Hội phản đế đồng minh Đông Dương thời kỳ đảng
mới ra đời, Mặt trận phản đế Đông Dương thời kỳ trước năm 1936 hay Mặt trận dân
chủ Đông Dương thời kỳ 1936-1939 do đảng tổ chức và lãnh đạo chưa thực sự phát
173
huy sức mạnh. Song tới mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thực sự
là một bước ngoặt cho việc khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân:
“Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân
biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị,
đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” [81, tr.43]. Không chỉ
kêu gọi đoàn kết trong nước, Việt Minh còn chủ trương: “Sẵn sàng giơ tay đón tiếp
tất cả những cá nhân hay những đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay
quốc gia, thành thật muốn đánh đuổi Nhật - Pháp để dựng nên một nước Việt Nam
tự do và độc lập” [81, tr.43].
Nếu như, trong tư tưởng toàn dân đoàn kết, “cái nhìn của Phan Bội Châu là cái
nhìn của một nhà Nho, của kẻ sĩ đã tách khỏi vua chúa nhưng chưa hoà làm một với
dân” [156] thì đến Hồ Chí Minh, Người nhìn dân với tư cách không chỉ của một
người lãnh đạo mà còn như một người trong cuộc, hoà vào với nhân dân để thấu
hiểu họ, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù. Với một chủ trương
đại đoàn kết được đặt trên cơ sở của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và được tổ chức
một cách nhất quán, chặt chẽ trong các đoàn thể cứu quốc, Mặt trận Việt Minh dưới
sự lãnh đạo của một đảng Mác xít đã quy tụ được tối đa sức mạnh dân tộc và thời
đại để làm nên một cuộc cách mạng long trời, lở đất, thủ tiêu nhà nước của thực
dân, phong kiến, lập nên nhà nước dân chủ cộng hoà đầu tiên trong khu vực Đông
Nam Á và Châu Á. Một cuộc cách mạng mà theo Phạm Hồng Tung, là “cuộc hồi
sinh vĩ đại của một dân tộc đoàn kết” [173, tr.383].
Sự ra đời và những hoạt động chính trị tích cực của đảng cộng sản Việt Nam suốt
15 năm từ 1930-1945 qua ba cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945
và một thời kỳ thoái trào 1932-1935 đã đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu về kết hợp mục tiêu chiến lược với nhiệm vụ trước mắt, về tập hợp lực lượng,
phương pháp hình thức đấu tranh phù hợp… cũng là yếu tố quan trọng cho kết thúc
thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vào mùa thu năm 1945.
Sau nữa, sức mạnh tạo ra bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang
một nền chính trị mới là sức mạnh của việc kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức
174
mạnh thời đại. Đảng cộng sản Việt Nam cùng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những chủ
trương đúng đắn đã đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng
thế giới, liên kết nhân dân Việt Nam với nhân dân các dân tộc bị áp bức và giai cấp
vô sản ở mọi nơi. Tất cả, tạo thành sức mạnh khổng lồ cùng với sức mạnh trong
nước làm một cuộc cách mạng hồi sinh cả một dân tộc.
Với trí tuệ thiên tài của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đặc biệt trong việc
thành lập ra đảng cộng sản Việt Nam tháng 2-1930, các tiền đề đã được hội tụ làm
sống dậy những truyền thống dân tộc, biến chúng thành sức mạnh vô địch để làm
nên một cuộc cách mạng long trời lở đất đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á mà
sản phẩm của nó là sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
3.2. Quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản và sự chuẩn
bị các tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà nước mới ở Việt Nam
3.2.1. Quá trình nhận thức từ nhà nước công nông binh đến nhà nước dân chủ
nhân dân và hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản
Trong quá trình bôn ba, trải nghiệm khắp các châu lục trên thế giới, khảo sát các
kiểu nhà nước khác nhau, sau khi phủ nhận các kiểu nhà nước phong kiến và kiểu
nhà nước tư sản, đến cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định sự lựa chọn
nhà nước kiểu mới theo mô hình nhà nước Xô Viết. Đó chính là kiểu nhà nước
XHCN. Tuy nhiên, trong sự vận động của cách mạng Việt Nam, chịu sự chi phối
của những điều kiện lịch sử cụ thể quốc tế cũng như trong nước, tư duy của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng như nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về một
hình thức nhà nước cụ thể phù hợp với Việt Nam cũng luôn luôn có những biến
chuyển. Sự vận động về tư duy đó một mặt thể hiện một sự trăn trở suy ngẫm, kiếm
tìm của Hồ Chí Minh về một hình thức nhà nước phù hợp với Việt Nam, mặt khác
nó cũng thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh chính trị của anh hùng
giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh.
a. Nhận thức và hoạt động chính trị thực tiễn của Đảng hướng tới chính phủ
công nông binh
Chế độ dân chủ nhân dân mà hạt nhân là nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
175
được thành lập sau cách mạng Tháng Tám-1945 là sản phẩm của cả một quá trình
nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ngay khi ra đời,
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định đảng lãnh
đạo nhân dân làm cách mạng để: “đánh đổ ĐQCN Pháp và bọn phong kiến. Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh. Tổ
chức ra quân đội công nông” [93, tr.1]. Sau này, những tư tưởng này được khẳng
định lại trong Luận cương chính trị tháng 10- 1930: “… phải dựng lên chính quyền
Xô Viết công nông. Chỉ có chính quyền Xô Viết công nông mới là cái khí cụ rất
mạnh mà đánh đổ ĐQCN, phong kiến, địa chủ, làm cho dân có đất mà cày, làm cho
vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình”[26, tr.94]. Đây là mô hình một
chính quyền kiểu mới của nhân dân lao động phỏng theo mô hình chính quyền ở
nước Nga. Chính quyền này chủ yếu là của GCCN, nông dân và binh lính. Tư tưởng
này chịu sự chi phối của hoàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ khi tư tưởng tả khuynh,
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp đang trở thành tư tưởng chi phối phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế thời điểm đó.
Tư tưởng về chính quyền công nông binh được hiện diện trong mô hình chính
quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh. Chính quyền Xô Viết ở Nghệ Tĩnh là hình ảnh sơ khai
của một nhà nước kiểu mới lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam: “Cao trào cách mạng
1930-1931 đã đưa đến việc thành lập các Xô Viết tại địa bàn nông thôn hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh. Đó là hình thức mới về chính quyền của người lao động lần
đầu tiên xuất hiện tại nước ta. Nó thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng
dân tộc dân chủ đang trong quá trình hình thành” [127, tr.297]. Những nhiệm vụ mà
chính quyền Xô Viết thực hiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là theo hướng
mà Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị của đảng đã chỉ ra. Mặc dù phải 15
năm sau, một chính quyền thực sự mới về chất so với chính quyền thuộc địa mới
được xác lập trên phạm vi toàn quốc song Xô Viết Nghệ Tĩnh đã đánh dấu “hồi
chuông khai tử cho toàn bộ chính quyền thuộc địa rung lên mạnh mẽ” [127, tr.297].
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11-1939) của Đảng cộng sản Đông
Dương đã có điều chỉnh về hình thức nhà nước so với trước đó. Hội nghị: “chưa
176
đưa khẩu hiệu lập chính phủ Xô Viết công nông binh là hình thức chính phủ riêng
của dân chúng lao động mà đưa khẩu hiệu “Chính phủ Liên bang cộng hoà dân chủ
Đông Dương” là hình thức chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong
xứ và trong phong trào giải phóng dân tộc” [27, tr.539]. Hội nghị Trung ương 7
tháng 11-1940 vẫn tiếp tục khẳng định tư tưởng về hình thức nhà nước này.
b. Nhận thức và hoạt động chính trị thực tiễn của Đảng hướng tới chính phủ
nhân dân
Mùa xuân 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt
Nam, Người đã chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ 8 họp vào tháng 5-1941. Hội
nghị này đã đánh dấu những nhận thức rất mới về hình thức nhà nước ở Việt Nam.
Đây chính là tư tưởng về một chính quyền rộng rãi của nhân dân chứ không chỉ của
công nhân, nông dân, binh lính như nhận thức trước đây. Tư tưởng về quyền dân tộc
tự quyết cũng được khẳng định rõ nét trong Hội nghị này khi Đảng chủ trương giải
quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước Đông Dương và ở Việt Nam sẽ thành
lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Trên thế giới lúc bấy giờ có ba mô hình nhà nước cơ bản đó là mô hình cộng
hoà đại nghị, cộng hoà Tổng thống là mô hình tổ chức dân chủ trong xã hội tư bản
và mô hình Cộng hoà Xô Viết là mô hình nhà nước nằm trong quỹ đạo của nhà
nước XHCN. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà không hoàn toàn giống bất cứ
một mô hình nào. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Dung khẳng định chính thể Việt
Nam dân chủ cộng hoà là: “Một chính thể cộng hoà đặc biệt, đặt nền móng cho sự
hình thành ra một loại hình của chính thể lưỡng tính cộng hoà hiện đại” [22, tr.152].
Ngay với mô hình có nhiều tương đồng nhất là mô hình cộng hoà Xô Viết (tương
đồng về bản chất khi cả hai mô hình đều khẳng định: Quyền lực nhà nước không thể
phân chia, và phải hoàn toàn thuộc về nhân dân) thì mô hình nhà nước ở Việt Nam
cũng có những khác biệt. Khái niệm nhân dân trong mô hình nhà nước ở Việt Nam
rộng hơn khái niệm nhân dân trong mô hình nhà nước Xô Viết. Nhân dân không chỉ
gồm những người vô sản là công nhân, nông dân binh sĩ mà còn có các giai cấp
khác như phong kiến, địa chủ yêu nước và tư sản dân tộc… Hiến pháp Liên Xô
177
không thừa nhận chế độ tư hữu như là cơ sở kinh tế của nhà nước thì Hiến pháp
Việt Nam dân chủ cộng hoà lại thừa nhận chế độ tư hữu (trong điều 12 Hiến pháp
1946).
Có thể nói, Hồ Chủ tịch và các đồng chí của Người đã tìm ra một mô hình
đặc thù của nhà nước Việt Nam phù hợp với điều kiện của một dân tộc
phương Đông muốn thoát khỏi chế độ thực dân nửa phong kiến, muốn xây
dựng một cuộc sống đầy đủ, ấm no cho nhân dân, độc lập có chủ quyền cho
quốc gia mình, mà lại không phải phụ thuộc các nước mạnh khác [22,
tr.160].
Có thể thấy, việc chuyển biến từ tư tưởng về chính quyền công nông binh sang
chính quyền nhân dân rộng rãi và tư tưởng về một chính quyền nhân dân được thể
hiện trong các hình thức tiền chính quyền mà trước hết là Mặt trận Việt Minh là một
nét độc đáo, sáng tạo bất ngờ của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Đông Dương. Nó
phù hợp với nguyện vọng thiết tha của quần chúng nhân dân hướng tới mục tiêu độc
lập và những lợi ích thiết thực cho người lao động do đó có sức hiệu triệu và thu hút
lớn lao. Sự chuyển biến tư tưởng về hình thức nhà nước ở đây là bước chuyển mang
tính cách mạng thể hiện bản lĩnh chính trị và tư duy độc lập, sáng tạo của Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Đông Dương. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tinh tế trong
việc xử lý mối quan hệ dân tộc - giai cấp ở nước ta. Tư tưởng về một nhà nước dân
chủ nhân dân là sản phẩm sự kết hợp tổng hoà của các nhân tố quốc tế và trong
nước những năm 40 của thế kỷ XX dưới óc quan sát và trí tuệ thiên tài của đảng
cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Về quốc tế, nền chính trị dân chủ nhân dân được xây dựng lên trong những thời
kỳ sôi động nhất của thập niên 40 thế kỷ XX, trong những sự kiện chính trị lớn của
thế giới. Cuộc chiến đấu giữa hai thế lực dân chủ và phát xít làm cho nhu cầu về các
quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của con người càng trở nên cấp bách và mạnh mẽ.
Mặt khác, nền dân chủ ở Pháp cũng dần được khôi phục trên nhiều khía cạnh. Hơn
nữa sau gần một thế kỷ dưới ách chuyên chế của thực dân phản động, sự tác động
của các nhân tố quốc tế như trên càng làm cho luồng gió dân chủ bùng phát mạnh
178
mẽ ở các nước thuộc địa như Việt Nam. Sự thắng thế của Việt Minh và các lực
lượng cách mạng tiến bộ khác dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và
lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với sự chuẩn bị có ý thức của họ cho những hình thức
nhà nước phôi thai, góp thêm một yếu tố tối quan trọng cho sự nảy sinh và xác lập
một chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta.
3.2.2. Chuẩn bị các hình thức tổ chức tiền nhà nước cho sự ra đời của một nhà
nước mới ở Việt Nam
Nhà nước bao giờ cũng mang tính giai cấp. Nhà nước ở Việt Nam trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là một nhà nước
mang bản chất GCCN, song bản chất GCCN không làm nhoà đi tính nhân dân, tính
dân tộc của nhà nước. Đó là một nhà nước thể hiện tinh thần đại đoàn kết toàn dân
mà hình thức tiền nhà nước của nó được thể hiện một cách vô cùng độc đáo trong
hình thức Mặt trận Việt Minh. Tổ chức này vừa thực hiện chức năng của mặt trận
dân tộc thống nhất, vừa thực hiện chức năng của một chính quyền. Đó chính là hình
ảnh phôi thai của một nhà nước mới - nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau
này. Chương trình Việt Minh với những nhiệm vụ đối nội (về kinh tế, chính trị, văn
hoá giáo dục, xã hội), đối ngoại giống như chức năng đối nội, đối ngoại của một
chính quyền của nhân dân. Trong đó, lợi ích thiết thực của các giai cấp, tầng lớp xã
hội đều được quan tâm thoả đáng. Trước hết là lợi ích của nông dân, công nhân đến
thương nhân, viên chức, binh lính, thanh niên, đàn bà, người tàn tật, già cả, trẻ em
[93,tr.242]. Chương trình Việt Minh như một bản thiết kế cho một chế độ dân chủ
cộng hoà ở Việt Nam sau khi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi. Mặt trận
Việt Minh có hệ thống tổ chức chặt chẽ thống nhất, có cấu trúc như các cấp chính
quyền mà cao nhất là Tổng bộ Việt Minh trên khắp cả nước. Với cơ quan ngôn luận
là tờ Báo Độc lập, mặt trận Việt Minh đã tuyên truyền cho nhân dân những tư tưởng
về một chính quyền cách mạng mới sẽ được thiết lập sau ngày giành độc lập cũng
như những quyền lợi và nghĩa vụ thiết thực của người dân. Theo như Hồ Chí Minh
thì Báo độc lập làm cho dân ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết để đánh
Pháp, đánh Nhật giành độc lập, bình đẳng, tự do.
179
Cùng với sự ra đời của Việt Minh, hình ảnh phôi thai của lực lượng vũ trang
cách mạng - công cụ bạo lực bảo vệ chính quyền, cũng được thiết lập và xây dựng.
Sự ra đời của Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, sau này
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân là sự chuẩn bị có tính định hướng làm
tiền đề cho sự ra đời của một lực lượng quân sự bảo vệ chính quyền cách mạng.
Trong thời kỳ từ năm 1942 đến 1945, Việt Minh đã cho xuất bản tác phẩm “Chiến
thuật du kích” và “Phép dùng binh của ông Tôn Tử” nhằm tuyên truyền quân sự,
tăng cường và củng cố nhận thức của lực lượng quân đội cách mạng.
Sau này cùng với sự biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, việc ra
đời của các tổ chức như các Uỷ ban dân tộc giải phóng, các khu giải phóng với các
Uỷ ban nhân dân chính là sự chuẩn bị về mặt tổ chức cho một chính quyền mới sẽ
được thiết lập sau khi cách mạng thành công. Khu giải phóng Việt Bắc ra đời tháng
6-1945 chính là hình ảnh thu nhỏ của một nước Việt Nam mới. Đặc biệt Quốc dân
Đại hội Tân Trào được triệu tập sau Hội nghị toàn quốc của Đảng vào tháng Tám-
1945 thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa có thể coi như một hình thức tiền Quốc
hội trong một chính quyền nhân dân. Tất cả những hoạt động chính trị thực tiễn ấy
chuẩn bị mọi phương diện để khi giành được quyền lực nhà nước từ tay đế quốc,
phong kiến, chính quyền mới có thể bước ngay vào quá trình hoạt động mà không
mất quá nhiều thời gian cho việc xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức.
3.3. Quá trình xác lập chính trị dân chủ nhân dân thay thế chính trị thực dân -
phong kiến
3.3.1. Sự thay thế lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước từ thực dân phong kiến
sang nhân dân Việt Nam
a. Lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước từ tháng 9-1940 đến tháng Tám-
1945
Vấn đề lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn từ
khi thực dân Pháp xâm lược và thôn tính nước ta, đặc biệt từ hiệp ước Nhâm Tuất
1862 nhà Nguyễn cắt ba tỉnh miền Đông cho Pháp đến khi Nhật vào Đông Dương
tháng 9-1940 chúng ta đã khảo sát ở chương 3. Có thể thấy, trong giai đoạn này,
180
quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã chuyển dần từ giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam mà vua quan nhà Nguyễn là lực lượng đại diện sang tay GCTS Pháp mà thực
dân Pháp ở nước ta là lực lượng đại diện. Phần này tiếp tục khảo sát từ tháng 9-
1940 trở đi.
Sau khi Nhật vào Việt Nam tháng 9-1940 đến trước cách mạng Tháng Tám-
1945, quyền lực nhà nước ở Việt Nam nằm trong tay nhiều lực lượng khác nhau
song vẫn trong khuôn khổ chính trị thực dân - phong kiến. Ở Việt Nam trong suốt
thời gian đó vẫn tồn tại hai loại chính quyền: Chính quyền thực dân và chính quyền
bản xứ. Trong đó quyền lực nhà nước thực sự nằm trong tay chính quyền thực dân,
chính quyền bản xứ chỉ là tay sai hoặc bù nhìn cho chính quyền thực dân.
Trước hết là thời kỳ từ khi Nhật vào Việt Nam (9-1940) đến cuộc đảo chính
Nhật - Pháp (9-03-1945)
Sự thống trị chính trị của thực dân Pháp ở Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ
XIX cho đến tháng 9-1940 khi Nhật nhảy vào Đông Dương. Trong thế yếu, Pháp
phải chia sẻ quyền lợi ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung cho Nhật.
Quyền lực nhà nước của thực dân Pháp ở nước ta không còn lớn như trước nữa.
Việt Nam cùng lúc trở thành thuộc địa của hai tên đế quốc là Pháp và Nhật. “Chính
quyền thuộc địa (Pháp) được bổ sung thêm một yếu tố mới là phát xít Nhật, và
mang thêm một tính chất mới là tính chất phát xít” [127, tr.277]. Quyền lực nhà
nước ở Việt Nam lúc này nằm trong tay hai tên đế quốc Pháp và Nhật. Tuy nhiên,
không có thêm một chính quyền nào được thành lập ở nước ta. Nhật đã sử dụng
chính quyền thuộc địa của Pháp để thực hiện các lợi ích và các mục tiêu chính trị
của mình: “Pháp vẫn trực tiếp cai trị Đông Dương, nhưng đặt dưới sự kiểm soát
của phát xít Nhật… chúng (Nhật) chỉ tổ chức những bàn giấy trong các cơ quan
chính phủ Pháp để kiểm soát mà thôi” [127, tr.277, 278].
Đông Dương là thuộc địa duy nhất của một nước phương Tây mà chính quyền
không bị người Nhật thay thế. Bởi chính quyền Pháp tại Đông Dương đã tích cực
hợp tác với Nhật cả về phương diện kinh tế và quân sự. Nguyên nhân là do ở Pari,
Pháp đã đầu hàng Đức, chính phủ Pêtanh được dựng lên là chính phủ thân phát xít.
181
Do vậy, bọn cầm quyền thực dân Pháp ở Đông Dương phải hợp tác với Nhật vì
cùng trong phe phát xít. Nhật được chính quyền Pháp ở Đông Dương cung cấp lúa
gạo và các nguyên liệu chiến lược đồng thời được sử dụng các căn cứ quân sự tại
Đông Dương để bành trướng thế lực ra khắp vùng Đông Nam Á. Thế nên trong suốt
thời gian ở Đông Dương từ tháng 9-1940, Nhật đã thấy không cần thiết phải lật đổ
chính quyền của Pháp tại Đông Dương và thay thế bằng một chính quyền do Nhật
trực tiếp nắm giữ. Mặt khác việc sử dụng chính quyền thuộc địa của Pháp để thực
hiện các mục tiêu của mình tại Đông Dương, Nhật có thể rêu rao với nhân dân
Đông Dương là sự có mặt của Nhật là để giúp họ giành độc lập, tự do. Đây là một
biện pháp mị dân của phát xít Nhật. Tuy nhiên, Nhật càng ngày càng lấn át Pháp
trong việc cai trị Đông Dương, tới năm 1943: “Các toà sở lớn của Pháp đã bị Nhật
trực tiếp giám thị. Toà đại sứ Nhật tổ chức như một chính phủ bảo hộ đặt trên bộ
máy cai trị của Pháp” [127, tr.278].
Lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước ở Việt Nam từ sau cuộc đảo chính
Nhật - Pháp ngày 09-3-1945 đến tháng Tám-1945
Trước khi xuất hiện chính phủ Trần Trọng Kim
Ngày 09-3-1945, đại sứ Nhật tại Đông Dương đến gặp toàn quyền Pháp tại Sài
Gòn và đưa ra một tối hậu thư đòi Pháp phải đặt tất cả lực lượng quân sự (hải, lục,
không quân và cảnh sát) dưới sự chỉ huy của quân đội Nhật. Tất cả hệ thống hành
chính và viên chức Pháp cũng phải đặt dưới sự chỉ huy của Nhật. Đồng thời với
hành động này, Nhật cho lực lượng quân sự chiếm đóng ngay những cơ sở quân sự
và hành chính trên toàn cõi Đông Dương. Đó thực chất là cuộc đảo chính Nhật -
Pháp. Pháp thất thế và mất địa vị pháp lý ở Đông Dương, Nhật thắng lợi. Chính
quyền từ tay Pháp chuyển sang tay Nhật, các cương vị cao cấp nhất của các cấp
chính quyền bị Nhật thay thế. Quyền lực nhà nước ở Việt Nam giờ đây thuộc về
phát xít Nhật. Việt Nam trở thành thuộc địa của riêng phát xít Nhật từ thời điểm
này. Lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước thay đổi nhưng bản chất của quyền
lực nhà nước về cơ bản không thay đổi vì bộ máy chính quyền vẫn là của một lực
lượng đế quốc nước ngoài nắm giữ để cai trị nhân dân Việt Nam: “Chính biến ngày
182
9-3-1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyền Pháp, tước khí giới của
Pháp, chiếm hẳn lấy Đông Dương làm thuộc địa riêng của CNĐQ Nhật” [28,
tr.364]. Không muốn có những thay đổi quá lớn trong bộ máy hành chính có thể
làm trở ngại đến việc cai trị Việt Nam nên bộ máy hành chính thuộc địa của Pháp
được Nhật giữ lại hầu như nguyên vẹn, chúng thay người Nhật vào vị trí người
Pháp. Viên toàn quyền Đông Dương người Pháp Jean Decoux được thay bằng viên
toàn quyền người Nhật Yuichi Tsuchihashi từ 09-3-1945 đến 28-8-1945. Nhật còn
thực hiện những hành động mà giới chính trị học gọi là những “trò hề chính trị” để
mị dân nhằm che đậy bản chất thực dân đế quốc của mình. Cuộc đấu tranh quyền
lực giữa hai phe chính trị và quân sự tại nước Nhật đã dẫn tới kết quả là: Nhật chấp
nhận để Việt Nam tuyên bố độc lập nhưng quyền hành thực tế vẫn do Nhật nắm giữ.
Với cuộc đảo chính Nhật - Pháp đêm 09-3-1945, Nhật đã thâu tóm quyền lực
nhà nước ở Việt Nam từ tay Pháp. Và sau sự kiện này, Pháp đã hoàn toàn mất địa vị
pháp lý, mất vai trò chủ nhân của quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Cơ cấu quyền
lực của từng lực lượng tại nước ta có thể nhận thấy như sau:
Với Nhật, quyền lực nhà nước đã nằm trong tay họ: “Tất cả các công sở đều bị
Nhật chiếm. Các ngả đường lính Nhật canh gác nghiêm ngặt... Người Nhật chia
nhau đi gác, giữ trật tự, dầu cho những tiếng tung hô đả đảo thực dân, tiêu diệt
CNĐQ” [49, tr.6, 13] .
Với Pháp, quyền lực nhà nước mà chúng đã nắm giữ mấy chục năm ở Việt Nam
đã mất hoàn toàn về tay Nhật: “Cơ đồ Pháp xây dựng trên đất Việt Nam từ hơn 80
năm rồi, trong mấy giờ đồng hồ đã hoàn toàn sụp đổ” [49, tr.6,7]. Số phận của
những người Pháp ở Việt Nam lúc này thì vô cùng bi đát: “Những người Pháp bị
bắt, đều được Nhật giam chung từng khu một, hoặc mỗi tỉnh một khu, hoặc đôi ba
tỉnh một khu, tuỳ theo số Pháp đông ít và giao thông tiện lợi” [49, tr.8].
Còn chính quyền Bảo Đại sau cuộc đảo chính ngày 09-3-1945 trở thành tay sai của
Nhật. Chính quyền này ra một đạo dụ khẳng định: “huỷ bỏ tất cả những hiệp ước ký
kết giữa Pháp - Việt từ trước đến nay, vì lẽ người Pháp đã không đủ lực bảo trợ lãnh
thổ cho nước Việt Nam” [49, tr.7]. Nam Triều chịu sự điều khiển của “chủ nhân mới”
183
của nước Việt Nam - phát xít Nhật - và hàng loạt “trò hề chính trị” đã diễn ra.
Trước hết Nhật tuyên bố trao trả độc lập, trao trả chính quyền cho người Việt
Nam. Các tờ bá cáo của Nhật dán la liệt trên các bức tường sau đảo chính khẳng
định: “Người Nhật đánh Pháp cốt lấy lại chính quyền giao giả cho người Việt Nam.
Nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập sẽ cùng Nhật thành lập khối Đại Đông Á”
[49, tr.7]. Tiền hô, hậu ủng. Cùng với các tờ bá cáo của Nhật, các thượng thư Nam
Triều tung ra tuyên ngôn: “nước Việt Nam đã bắt đầu độc lập” [49, tr.7].
Sau đó, dưới sự điều khiển của phát xít Nhật, bằng một cách thức nào đó, người
ta thấy chính quyền phong kiến cũ - tay sai của Pháp - dần tan rã: “những vị thượng
thư cũ đều xin từ chức” để có cớ hợp lý cho sự ra đời của một nội các mới được
Bảo Đại “chuẩn y” theo ý của Nhật. Đó chính là nội các Trần Trọng Kim.
Tuy nhiên, đất nước tồn tại trong một trạng thái gần như vô chính phủ vì “bộ
máy hành chính cũ đã tê liệt, bộ máy mới chưa lắp thành” [49, tr.10], tình thế vô
cùng lộn xộn. Trong khi ở miền Nam, người ta “lấy thóc đốt thay than” thì ở miền
Bắc “dân chúng chết đói nằm ngổn ngang hai bên lề đường”.
Thời kỳ tồn tại của chính phủ Trần Trọng Kim
Phe phát xít đứng trước nguy cơ thất bại trên chiến trường quốc tế, biết rằng sẽ
khó có thể giữ được thuộc địa Đông Dương nên phát xít Nhật dựng lên chính quyền
bù nhìn để mong duy trì lợi ích của mình ở xứ này. Nhật lợi dụng tinh thần chống
Pháp của một số người Việt Nam yêu nước nhưng cả tin về chính trị, hứa hẹn với
họ về một tương lai huy hoàng để dựng lên chính quyền bù nhìn thân Nhật. Nhật
tuyên bố “trao trả độc lập” cho Việt Nam bằng việc ngày 11-3-1945 Bảo Đại “tuyên
bố độc lập”. Cho đến ngày 15-4-1945 thành lập chính phủ thân Nhật- Chính phủ
Trần Trọng Kim.
Thành phần chính phủ này gồm phần lớn những nhà trí thức mà trước đó không
nằm trong các đảng phái cách mạng chống Pháp. Thủ tướng chính phủ là một học
giả khá tên tuổi ở Việt Nam lúc bấy giờ là ông Trần Trọng Kim. Đây là một nội các
về hình thức do người Việt Nam đứng đầu và có nhiều biểu hiện bề ngoài có vẻ tiến
bộ, xoá nhoà vết tích phong kiến như: Chức Thượng thư trong Triều đình phong
184
kiến trước đây đổi thành Bộ trưởng; trong nội các xuất hiện những Bộ chưa hề có
trong Triều đình phong kiến thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến dân chúng như Bộ
Thanh niên, Cứu tế, Tiếp tế, Giao thông, Tài chính...; trang phục của các thành viên
nội các rất hiện đại: “Những đình thần không xúng xính trong áo mũ sặc sỡ, rườm
rà, mà nhanh nhẹn với những âu phục gọn gàng, nhã nhặn” [49, tr.18].
Song thực chất, đây vẫn là một nội các thân Nhật, một chính quyền bù nhìn của
phát xít Nhật. Một biểu hiện rõ nhất minh chứng cho điều này là trong thành phần
nội các của chính phủ Trần Trọng Kim không có Bộ Quốc phòng. Tất cả mọi quyền
chỉ huy các vấn đề an ninh, quốc phòng, kinh tế tài chính đều nằm trong tay Nhật.
Cùng với việc thành lập nội các Trần Trọng Kim là việc chọn Quốc ca và Quốc kỳ
mới (Quốc ca là bài Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước, quốc kỳ là cờ vàng
quẻ ly đỏ ở giữa). Nhật điều khiển cho chính phủ Nam Triều tuyên bố độc lập, dựng
lên chính phủ Trần Trọng Kim và tuyên bố trao trả độc lập cho chính phủ này
nhưng vẫn giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp mà các vị trí trong bộ máy đó đã
được thay thế bằng người Nhật. Hiện tượng chính phủ Trần Trọng Kim không
làm thay đổi bản chất quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn lịch sử
này. Quyền lực nhà nước thực sự vẫn nằm trong tay thế lực tư sản đế quốc.
Chính trị Việt Nam vẫn là chính trị thực dân - phong kiến.
Nội các Trần Trọng Kim và hệ thống chính quyền bản xứ vẫn là một bộ phận
trong kết cấu quyền lực thống trị ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám.
Toàn bộ kết cấu quyền lực đó là do người Nhật kiểm soát và điều hành, vì
vậy dân tộc Việt Nam muốn đi tới sự giải phóng thực sự và nền độc lập thực
sự thì buộc phải lật đổ và thủ tiêu kết cấu quyền lực đó, trong đó có chính
quyền bù nhìn Trần Trọng Kim [205].
Cùng quan điểm trên, nhà nghiên cứu Phạm Hồng Tung khẳng định:
Xét về bản chất, nội các Trần Trọng Kim không thể là cái gì khác hơn một
chính phủ bù nhìn do người Nhật dựng lên sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp
nhằm phục vụ chính sách chiếm đóng Việt Nam của người Nhật [174,
tr.243,244].
185
b. Cách mạng Tháng Tám-1945 - nhân dân Việt Nam giành lại quyền làm
chủ đất nước, trở thành lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước
Với việc theo dõi và nắm bắt sát sao các diễn biến chính trị trên trường quốc tế,
ảnh hưởng của nó tới Việt Nam, bằng một tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp được “thời cơ ngàn năm có một”
để phát động một cuộc tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Đó là khi “khoảng trống
quyền lực” xuất hiện, từ khi Nhật đầu hàng Liên Xô và đồng minh trên chiến trường
thế giới đến trước khi quân đồng minh có mặt ở nước ta để giải giáp quân Nhật. Khi
“khoảng trống quyền lực” xuất hiện, lúc đó phát xít Nhật - kẻ đang nắm chính
quyền ở Việt Nam và Đông Dương - hoang mang, chính phủ Trần Trọng Kim suy
yếu, Pháp có âm mưu trở lại Việt Nam song lúc này chưa có cơ hội để xuất hiện trở
lại sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp, trong khi lực lượng đồng minh vào giải giáp
quân Nhật chưa xuất hiện. Có thể thấy, đây là lúc mà chính quyền đương nhiệm yếu
nhất, trong khi lực lượng thay thế chưa xuất hiện, đó chính là “thời điểm vàng” cho
chúng ta đứng lên giành chính quyền thắng lợi với ít tổn hao nhất về mọi mặt. Nếu
chậm trễ, khi đồng minh xuất hiện mới phát động tổng khởi nghĩa, sẽ là quá muộn
để giành chính quyền. Vì đồng minh vào sẽ giải giáp vũ khí quân Nhật, đồng thời
giành luôn chính quyền từ tay Nhật, lúc đó mục tiêu chính quyền sẽ trở nên xa vời
với quần chúng. Nếu phát động tổng khởi nghĩa sớm hơn, khi chưa đủ mọi điều
kiện cần thiết, khởi nghĩa non chắc chắn sẽ thất bại.
Theo X. Tônnetxơn:
Tình trạng chân không quyền lực có thể được mô tả chính xác như là một sự
vắng mặt của các lực lượng Pháp và đồng minh, sự thiếu quyết tâm của
người Nhật trong việc nắm giữ quyền kiểm soát cho tới khi đồng minh tới và
sự bất lực đối với các quan lại và chính quyền của họ để có thể tự tồn tại
được [196, tr.412].
Trong cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam mùa thu năm 1945, dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản, nhân dân lao động Việt Nam đã giành được chính quyền về
tay mình từ tay đế quốc, phong kiến.
186
Về phát xít Nhật: Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng đã tuyên bố đầu hàng Liên Xô,
đồng minh và thừa nhận là kẻ bại trận trong cuộc chiến tranh thế giới 1939-1945.
Song, quân Nhật ở Đông Dương vẫn thực hiện kiểm soát an ninh trật tự, quyền lực
nhà nước vẫn do chúng nắm giữ. Trong một bức thư gửi từ Đông Dương về Tôkyo
ngày 19-8-1945, Nhật đã tiết lộ rằng đã dàn xếp với chính quyền Trần Trọng Kim
về việc mặc cả với Việt Minh về phân chia quyền lực sau này. Song cuộc dàn xếp
không thành. Trong những ngày tổng khởi nghĩa diễn ra ở Hà Nội và nhiều địa
phương trên cả nước, quân Nhật đã tổ chức chống lại các lực lượng vũ trang của
Việt Minh và chống lại nhân dân Việt Nam đứng lên khởi nghĩa. Thậm chí, chúng
bố trí lực lượng xe tăng và sẵn sàng nổ súng đàn áp. Tuy nhiên, trước sức mạnh của
quần chúng, đến ngày 21-8-1945, tập đoàn quân 38 của Nhật, với hơn 1 vạn quân
đóng giữ quanh Hà Nội được lệnh ngừng bắn. Với làn sóng tổng khởi nghĩa lan
khắp toàn quốc, quân Nhật ở các địa phương đã lần lượt hạ vũ khí đầu hàng.
Về Chính phủ Trần Trọng Kim: Khi cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám bắt đầu
diễn ra, ngày 14-8-1945, Chính phủ này ra tuyên bố: “Nhất quyết không chịu lùi
một bước trước một khó khăn nào để làm tròn sứ mệnh... và vẫn hợp tác chặt chẽ
với các nhà đương cục Nhật” [46, tr.26, 27]. Cho đến ngày 17-8-1945, Chính phủ
này vẫn còn cử người đi mặc cả với Việt Minh về việc phân chia quyền lực. Để biểu
dương lực lượng, cũng trong ngày này, chính quyền Trần Trọng Kim tổ chức một
cuộc mít tinh lớn của Tổng hội Viên chức trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Tuy nhiên,
cuộc mít tinh đã bị Uỷ ban Khởi nghĩa chuyển một cách tài tình thành cuộc tuần
hành của quần chúng ủng hộ cách mạng. Khí thế cách mạng của quần chúng dâng
cao đã khiến chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim không dám chống cự và tuyên
bố đầu hàng.
Về thực dân Pháp: đã mất địa vị pháp lý ở Việt Nam từ sau cuộc đảo chính 09-
3-1945 nên trong cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam tháng Tám -1945,
thực dân Pháp không có vai trò đáng kể nào. Phải tới nửa tháng sau khi Tổng khởi
nghĩa tháng Tám thắng lợi, quân Pháp mới bám gót quân Anh vào Sài Gòn, mong
thiết lập lại địa vị chính trị ở nước ta.
187
Về chính quyền Bảo Đại: Ngày 22-8-1945, Việt Minh gửi công điện yêu cầu
Bảo Đại thoái vị vì Việt Minh đã giành được chính quyền trong cả nước. Ngày 30-
8-1945, 5 vạn dân Huế tập trung trước cửa Ngọ Môn chứng kiến Bảo Đại tuyên bố
thoái vị, trao ấn, kiếm cho đại diện của chính phủ mới để làm dân một nước độc lập
thay vì làm vua một nước nô lệ. Lá cờ quẻ ly của chế độ phong kiến bị hạ xuống
thay vào đó là cờ đỏ sao vàng 5 cánh của chính quyền cách mạng.
Ngày 02-9-1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền tảng pháp lý
cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đồng thời cũng là cơ sở pháp
lý cho quá trình đấu tranh bảo vệ và giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc
trong những thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Tuyên ngôn đã phản ánh chân lý lớn của thời đại và khát vọng của nhân loại
tiến bộ đó là chân lý và khát vọng về quyền độc lập của dân tộc, quyền tự do, bình
đẳng của con người. Tuyên ngôn cũng chỉ ra những tội ác tày trời của chế độ cai trị
của Pháp ở nước ta và vạch trần bản chất “khai hoá”, “bảo hộ” của thực dân Pháp
với Việt Nam, “trong 5 năm, chúng (thực dân Pháp) đã bán nước ta hai lần cho
Nhật” [94, tr.2]. Và cuối cùng là lời khẳng định sự ra đời của “nước Việt Nam mới,
đại biểu cho toàn dân Việt Nam”. Tuyên ngôn độc lập đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam hàng nghìn năm đồng thời cũng là
bước ngoặt đánh dấu sự biến đổi lớn của chính trị Việt Nam. Với cách mạng Tháng
Tám năm 1945, Tuyên ngôn khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực
dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ
chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà” [95, tr.3].
Như vậy, “dân ta” là lực lượng đứng lên thủ tiêu chế độ thực dân phong kiến, không
ai khác, họ sẽ chính là chủ thể quyền lực chính trị của một chế độ chính trị mới thay
thế chế độ thực dân phong kiến. Chế độ đó là chế độ Dân chủ Cộng hoà. Chế độ này
được mở ra sau khi các lực lượng chính trị ở Việt Nam trong trạng thái: “Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” [94, tr.3]. Sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà thay thế nhà nước thực dân phong kiến là tất yếu vì nó không những
188
phù hợp với chân lý thời đại đã được khẳng định trong những bản Tuyên ngôn nổi
tiếng thế giới (Tuyên ngôn Mỹ, Pháp) mà còn phù hợp với “những nguyên tắc dân
tộc bình đẳng” [94, tr.3] đã được thông qua tại Hội nghị của các nước Đồng Minh
và Hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc. Sự ra đời của nhà nước mới ở Việt Nam còn
là kết quả của cuộc đấu tranh không mệt mỏi của toàn dân ta, dân của một dân tộc
“đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,… đã gan góc đứng về phe
Đồng minh chống phát xít mấy năm nay” [94,tr.3]. Khẳng định sự ra đời của một
chế độ mới, Tuyên ngôn cũng tuyên bố “chặt đứt xiềng xích thực dân, thoát ly hẳn
với kẻ “khai hoá”, “bảo hộ” giả danh, không duy trì quan hệ thống trị hay bị trị”
[169, tr.131] bằng những lời mộc mạc, giản dị mà đanh thép: "…Lâm thời Chính
phủ của nước Việt Nam mới… tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp,
xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam" [94, tr.3]. Lời tuyên bố này là hoàn toàn
có cơ sở pháp lý vì “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của
Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa… Sự thật là dân ta đã lấy lại nước
Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”[94, tr3]
Với bản tuyên ngôn 02-9, Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thể quốc dân và
thế giới về quyền tự do, độc lập của nước Việt Nam. Chính phủ lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (mà bộ máy đã được chuẩn bị từ trước dưới hình thức
các tổ chức tiền nhà nước, tiền chính phủ), đại biểu cho toàn dân Việt Nam đã ra
mắt quốc dân. Thể chế chính trị dân chủ cộng hoà tiến bộ được xác lập thay thế
chính trị thực dân - phong kiến phản động, lỗi thời. Đây là “một cuộc thắng lợi xưa
nay chưa từng thấy trong lịch sử nước ta” [94,tr.19]
3.3.2. Xác lập các yếu tố của một nền chính trị mới
Tổng khởi nghĩa thành công, Uỷ ban dân tộc giải phóng do lãnh tụ Hồ Chí
Minh đứng đầu được Quốc dân Đại hội Tân Trào đề ra đã kịp thời chuyển sang thực
hiện chức năng của một Chính phủ lâm thời. Song Chính phủ đó chưa có địa vị
hợp pháp, chưa được quốc tế biết tới và công nhận. Việc Chính phủ lâm thời ra mắt
quốc dân trong lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 bước đầu tạo ra được địa vị
189
hợp pháp của một Chính phủ do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên. Để có một
nhà nước hợp hiến, một cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu là một
trong những công việc cấp bách cần làm ngay của Chính phủ lâm thời. Tuy nhiên,
trước khi tổ chức được một cuộc Tổng tuyển cử như vậy, việc thiết lập bộ máy nhà
nước từ trung ương đến địa phương vẫn được tiến hành. Ngày 11-9-1945, trên báo
Cứu Quốc đã cho đăng sắc lệnh của Hồ Chí Minh về cách tổ chức các Uỷ ban nhân
dân - hình thức Chính phủ trong các địa phương.
Trung tâm của chế độ chính trị cộng hoà dân chủ ở nước ta là sự tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản.
Ngay sau khi bản Tuyên ngôn độc lập được công bố ngày 02-9-1945, nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đưa ra sáu nhiệm vụ cấp bách để đưa đất nước
thoát khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Bản chất nhà nước của dân, do dân, vì
dân được thể hiện rõ nét trong các nhiệm vụ được đặt ra này. Nội dung của những
nhiệm vụ là minh chứng rõ nét cho sự khác biệt cơ bản về chất giữa chính trị dân
chủ cộng hoà vừa ra đời với nền chính trị thực dân - phong kiến đã tồn tại gần một
thế kỷ trên đất nước ta vừa bị thủ tiêu trong cách mạng Tháng Tám. Đó là các
nhiệm vụ chống đói, chống dốt, tổ chức tổng tuyển cử, giáo dục lại nhân dân, bỏ ba
thứ thuế, công bố tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết. Nếu như chính sách
của bọn thực dân là nguyên nhân gây ra nạn đói của đồng bào ta như chính sách:
“bắt đồng bào chúng ta giảm bớt diện tích cấy lúa để trồng thầu dầu, đay và những
thứ cây khác cần thiết cho cuộc chiến tranh của chúng” [94, tr.7] hay “kế hoạch của
bọn cầm quyền Pháp với mục đích gây nạn đói, để ngăn trở phong trào yêu nước và
bắt buộc đồng bào chúng ta phải làm việc như nô lệ””[94, tr.7] thì chính sách của
nhà nước mới là “phải làm thế nào để cho họ sống”. Nếu như chính sách ngu dân
“là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta”
[95, tr.8] thì chính sách của nhà nước mới là “mở một chiến dịch để chống mù chữ”
để phát triển đất nước vì “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [94, tr.8]. Nếu như
trong chế độ quân chủ chuyên chế rồi đến chế độ thực dân trước đây, “nước ta
190
không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ” [94, tr.8]
thì nay nhà nước mới “phải có một hiến pháp dân chủ” do đó phải “tổ chức càng
sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thống đầu phiếu” [94, tr.8]. Nếu
như chế độ thực dân “hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian
giảo, tham ô và những thói xấu khác” [94, tr.8] thì chúng ta phải giáo dục lại nhân
dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, “làm cho dân tộc chúng ta trở thành
một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động” [94, tr.8]. Nếu như thực dân phong
kiến bóc lột nhân dân ta bằng thuế thân, thuế chợ, thuế đò – “một lối bóc lột vô
nhân đạo” thì nhà nước mới “bỏ ngay ba thứ thuế ấy” [94, tr.9]. Nếu như thực dân
phong kiến thực hiện chính sách chia rẽ đồng bào Lương, Giáo để dễ thống trị thì
nhà nước mới thực hiện chính sách “Lương Giáo đoàn kết [94, tr.9].
Các chính sách trên cho thấy sự khác biệt mang tính đối lập giữa chế độ cũ và
chế độ mới. Nó cũng thể hiện bản chất của dân, do dân, vì dân của chế độ mới, lo
cho dân từ những nhu cầu vật chất đến tinh thần. Dù chỉ là những nhiệm vụ cấp
bách cần thực hiện để giải quyết những vấn đề nóng bỏng cuộc sống đang đặt ra,
chưa phải là những nhiệm vụ mang tính lâu dài, chiến lược song những yếu tố mang
tính nền móng cho một chế độ mới cũng đã phôi thai hình thành từ những viên gạch
đầu tiên này.
Tính pháp quyền của việc tổ chức nhà nước được thể hiện trong bản Hiến pháp
do Quốc hội thông qua. Trong Hiến pháp đó, hình thức nhà nước phải được khẳng
định. Trong phiên họp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ngày 03-9-1945, Người
khẳng định: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế
độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp
dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu” [94, tr.8]. Chính bản Tuyên ngôn 02-9 đã đặt cơ sở
pháp lý cho việc tổ chức một cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội và sự ra đời bản hiến
pháp đầu tiên của một nhà nước mới.
Một cuộc bầu cử Quốc hội theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu lần đầu tiên đã
191
được diễn ra ở Việt Nam. Ngày 17-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ấn
định thể lệ Tổng tuyển cử. Đây là một cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông
đầu phiếu diễn ra chỉ hơn 3 tháng sau khi giành độc lập và thực sự là một cuộc Tổng
tuyển cử tự do, dân chủ: “Tất cả công dân gái trai mười tám tuổi đều có quyền ứng cử
và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống,v.v…” [94, tr.8]. Ngày
bầu cử thành lập Quốc hội của một nhà nước mới là một ngày đánh dấu một bước
ngoặt lớn “ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ… ngày đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình” [94,
tr145]. Thiết lập được một nhà nước hợp hiến, dựa vào hiệu lực của bộ máy nhà nước
là một công cụ hữu hiệu chống lại mọi hoạt động phá hoại của kẻ thù, bảo vệ thành
quả cách mạng. Lá phiếu lúc đó cũng là một vũ khí: “Về mặt quân sự, thì các chiến sĩ
dùng súng đạn mà chống quân thù. Về mặt chính trị, thì nhân dân dùng lá phiếu mà
chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn” [94, tr.145].
Máu của nhiều đồng bào, chiến sĩ ta đã đổ xuống để bảo vệ cho thắng lợi của Tổng
tuyển cử. Trong điều kiện một đất nước vừa giành được độc lập đang đứng trước bao
sóng to gió lớn thì việc tổ chức thành công một cuộc bầu cử Quốc hội như vậy là
thành công lớn của những người lãnh đạo đất nước mà đứng đầu là Đảng cộng sản
cùng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Thông qua hai kỳ họp Quốc hội trong
năm 1946, mô hình hoạt động của Quốc hội đầu tiên cũng được định hình trên những
nét cơ bản. “Quốc hội khoá I thật sự là một diễn đàn dân chủ, nơi diễn ra cuộc “đua
tiếng” giữa các lực lượng, các chính kiến”[145, tr.4].
Một nhà nước thực sự dân chủ là nhà nước đảm bảo thực hiện trên thực tế
quyền tự do, dân chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Muốn vậy,
nhà nước phải thể chế hoá quyền tự do dân chủ của nhân dân trong Hiến pháp, pháp
luật, có cơ chế đảm bảo thực hiện những quyền đó trên thực tế. Để xác định được
một hình thức nhà nước mà quan trọng nhất là hình thức chính thể phù hợp với Việt
Nam, ngày 20-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban
dự thảo hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm bảy thành viên do
Người làm trưởng ban. Hồ Chí Minh đã quy tụ được đội ngũ các trí thức Việt Nam
192
được đào tạo ở Pháp và nhiều nước tiên tiến trong thành phần của Ủy ban dự thảo
Hiến pháp và Uỷ ban kiến thiết quốc gia.: “Có rất nhiều luật gia nổi tiếng như: Vũ
Đình Hoè, Vũ Trọng Khánh, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Văn
Chương, Phan Anh, Cù Huy Cận… Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
Việt Nam, cùng một lúc có hai bản dự thảo Hiến pháp cùng được trình lên xem xét
và quyết định” [22, tr.156]. Cách tổ chức và phân công quyền lực nhà nước giữa các
cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Việt Nam cũng đã được quy định rõ trong
Hiến pháp 1946.
Diễn biến của tình hình chính trị những tháng đầu năm 1946 diễn ra rất khẩn
trương và phức tạp đòi hỏi phải có một Chính phủ chính thức. Mục tiêu của kỳ họp
đầu tiên của Quốc hội khoá I là phải thành lập được Chính phủ liên hiệp kháng
chiến gồm Chính phủ, Cố vấn đoàn, Kháng chiến uỷ viên. Một hình thức nhà nước
mà quyền lực thuộc về đông đảo nhân dân, một nhà nước đại đoàn kết toàn dân
được thể hiện đặc biệt sinh động trong thành phần của Chính phủ kháng chiến được
thành lập trước kì họp thứ nhất Quốc hội Khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trong thành phần Chính phủ ấy có “các đại biểu các đảng phái và các anh em
không đảng phái, trước đây đã thương lượng và thoả thuận với nhau, vì vậy sự tổ
chức mới được nhanh chóng như thế” [94,tr.193]. Trong thành phần nội các Chính
phủ gồm mười Bộ ấy ta thấy các thành viên thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp, thành
phần xã hội rất khác nhau. Chủ tịch Chính phủ là Hồ Chí Minh trong khi Phó chủ
tịch chính phủ là Nguyễn Hải Thần, nguyên là thành viên của đảng Việt Cách, một
đảng thân Tưởng; cố vấn tối cao cho Chính phủ ấy nguyên là Hoàng đế của triều
Nguyễn trước đây nay là công dân Vĩnh Thuỵ. Trong thành phần Chính phủ ấy có
mặt những trí thức Nho học, những trí thức Tây học thuộc nhiều lĩnh vực nghề
nghiệp chuyên môn khác nhau, có những người xuất thân từ hoàng tộc cũ song cũng
có những nhân vật xuất thân từ tầng lớp những người lao động, có những người có
tuổi tác song cũng có những người là thanh niên, có những người thuộc các vùng
miền khác nhau của đất nước, đặc biệt “trong mười Bộ thì hai Bộ Chính phủ định
để dành cho đại biểu đồng bào Nam Bộ” [94,tr.194] vì đã ra đi nhưng chưa tới hoặc
193
vì công việc tổ chức kháng chiến nên không ra họp được. Tất cả họ dù khác nhau
nhưng đều có chung một điểm là có thể “giúp ý kiến cho chính phủ hoặc có thể điều
khiển quốc dân” [94, tr.193] để hoàn thành nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc đem
lại độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho toàn dân Việt Nam. Thành phần Chính phủ
kháng chiến tỏ rõ tinh thần một nhà nước của khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi.
Chế độ dân chủ cộng hoà được xác lập ở nước ta sau cách mạng Tháng Tám-
1945 là chế độ dân chủ mới, tức dân chủ của số đông những người lao động,
chuyên chính với thiểu số những kẻ chống phá ngấm ngầm hoặc công khai chế độ
đó. Đó là chế độ dân chủ được xác lập ở nước ta sau thắng lợi của cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ trong đó quyền lực được thừa nhận là thuộc về nhân dân, do Đảng
cộng sản - đảng của GCCN và nhân dân lao động lãnh đạo. Chế độ này phân biệt
trước hết với chế độ quân chủ đã tồn tại ở nước ta hàng nghìn năm. Mặt khác, chế
độ này cũng phân biệt với chế độ dân chủ tư sản đang tồn tại phổ biến trên thế giới
lúc bấy giờ.
Thể chế dân chủ cộng hoà đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị
và thực thi quyền lực chính trị. Nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất. Khẳng định bản
chất của chế độ chính trị dân chủ cộng hoà, ngay trong bản tuyên ngôn 02-9-1945,
Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới,
đại biểu cho toàn dân Việt Nam” [94, tr.3]. Nhà nước không còn là công cụ thống
trị, nô dịch nhân dân như trong xã hội phong kiến hay TBCN nữa. Hồ Chí Minh đã
khẳng định sự thay đổi lớn về bản chất của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam được
thành lập sau cách mạng Tháng Tám so với các nhà nước trước đây như sau: “Non
hai tháng trước đây, trước cuộc khởi nghĩa 19-8-1945, nói tới hai chữ Chính phủ,
người ta nghĩ ngay tới một bọn đảng cướp nguy hiểm. Trái lại, ai ai với Chính phủ
Nhân dân hiện nay cũng đều có một tình cảm thân mật xen lẫn với một tôn kính sâu
xa” [94, tr.22,23]. Sở dĩ như vậy vì Chính phủ đó là một bộ phận hữu cơ, không
tách rời của một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà là công cụ chuyên chính của nhân dân trấn áp các lực lượng đối lập, khác
với các nhà nước trước đây: “Trước kia Việt Nam ta vẫn có nhà nước và chính phủ.
194
Song đó là công cụ của đế quốc và phong kiến để áp bức nhân dân... Nhà nước cũ
nằm trong tay đế quốc và phong kiến. Tính chất của nó là đế quốc và phong kiến, là
phản động. Nhà nước ta ngày nay là nằm trong tay nhân dân chống đế quốc và
phong kiến. Tính chất của nó là nhân dân, dân chủ, chuyên chính” [97, tr.216, 217].
Việc lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ là bước khởi đầu. Cũng
giống như bất cứ một chế độ chính trị nào khác, chế độ dân chủ nhân dân để có
thể tồn tại cần có cơ sở về nhiều mặt từ kinh tế đến văn hoá, xã hội, tư tưởng…
Những có sở này không tự nhiên có được mà là sản phẩm của quá trình nhận thức
và hành động thực tiễn của lực lượng nắm giữ quyền lực nhà nước. Nó cũng không
thể ngày một ngày hai có ngay được mà là kết quả của cả một tiến trình lâu dài vừa
làm vừa hoàn thiện. Việc thiết lập các cơ sở về mọi mặt cho sự tồn tại của một nền
chính trị mới là công việc đầy khó khăn đòi hỏi nhiều trí tuệ và tâm huyết của toàn
thể nhân dân Việt Nam.
Cơ sở kinh tế thực sự của chế độ dân chủ mới phải là chế độ sở hữu toàn dân.
Mặc dù tại thời điểm sau cách mạng Tháng Tám -1945 chưa có chế độ sở hữu toàn
dân được xác lập như là chế độ sở hữu chủ yếu nhưng nó định hướng cho một quan
hệ sản xuất cần phải có trong tương lai. Cơ sở chính trị trực tiếp là nhà nước kiểu
mới, và đảng cộng sản cầm quyền. Cơ sở xã hội của chế độ dân chủ cộng hoà là
“đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo” [128,
tr.103].
Đặc biệt trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của cách mạng Việt Nam sau
tháng Tám năm 1945, cơ sở chính trị trực tiếp - đảng lãnh đạo chính quyền - là nhân
tố quan trọng giúp chính quyền có thể đứng vững và hoàn thành các nhiệm vụ của
mình trước lịch sử. Trong một tình thế đặc biệt, Hồ Chí Minh và các đồng chí của
Người đã phải giấu đi “tài sản” quý giá nhất bằng cách tuyên bố giải tán Đảng, thực
chất đưa đảng cộng sản đi vào hoạt động bí mật dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu
chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Trong điều kiện hoạt động bí mật, một mặt đảng
tránh được hòn tên mũi đạn của kẻ thù, mặt khác đảng đưa ra những đường lối đúng
đắn lãnh đạo chính quyền để đưa cách mạng tiến lên. Đảng lãnh đạo chính quyền
195
bằng một phương thức đặc biệt chủ yếu là thông qua vai trò tiên phong của các đảng
viên trong bộ máy chính quyền đã phát huy được sức mạnh toàn dân tộc trong công
cuộc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng nền dân chủ cộng hoà vừa được xác lập sau cách
mạng Tháng Tám -1945. Một nhà nước kiểu mới dưới sự lãnh đạo của một đảng
kiểu mới thực sự cách mạng theo chủ nghĩa Mác Lênin là yếu tố quan trọng giúp
những người cách mạng có thể giữ vững thành quả cách mạng đã giành được trong
cách mạng Tháng Tám -1945 và thúc đẩy cách mạng Việt Nam tiến lên.
Việc xây dựng và hoàn thiện các cơ sở về mọi mặt cho chế độ dân chủ nhân dân
có thể tồn tại, phát triển và hoàn thành nhiệm vụ của nó trước lịch sử là nhiệm vụ
quan trọng đặt ra cho những người Việt Nam, đặc biệt những đảng viên cộng sản
sau cách mạng Tháng Tám -1945. Xác lập các cơ sở tồn tại của chế độ dân chủ nhân
dân đến lượt nó sẽ tạo ra những tiền đề để đưa đất nước tiến lên CNXH. Hoàn thiện
chế độ này chính là một điều kiện quan trọng để cách mạng Việt Nam có thể đi đến
đích trên con đường mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những người đồng chí của
Người đã chọn - con đường độc lập dân tộc tiến lên CNXH.
3.3.3. Ý nghĩa và hệ quả của sự biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong
kiến sang chính trị dân chủ cộng hoà
a. Ý nghĩa của sự biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong kiến sang
chính trị dân chủ nhân dân
Bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân
được thực hiện thông qua cuộc cách mạng Tháng Tám-1945 được Hồ Chí Minh coi
là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta. Đây là một bước ngoặt
cách mạng đưa Việt Nam lên một tầm cao mới, đặt nước ta trên một quỹ đạo phát
triển mới. Vấn đề là chúng ta có tận dụng được cơ hội này, điểm xuất phát này để
có một sự bứt phá trên con đường phát triển hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau. Bước chuyển này có những ý nghĩa nổi bật sau đây:
Thứ nhất, ý nghĩa độc lập, giá trị độc lập: Bước chuyển này đã đem lại nền độc
lập cho dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam - nền độc lập đã bị Pháp thủ tiêu
từ khi chúng xâm lược và thôn tính đất nước ta. Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã
196
trở thành một xứ độc lập. Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập 02-9-1945
đã khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây
dựng nên nước Việt Nam độc lập” [94, tr.3]. Với ý nghĩa này, bước chuyển từ chính
trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân là kết quả của cuộc đấu
tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam khỏi ách nô lệ của lực lượng ngoại
bang. Bước chuyển này là sản phẩm của sự kết tinh truyền thống yêu nước, tinh
thần bất khuất, không cam chịu thân phận nô lệ và những truyền thống, tinh hoa của
người Việt Nam hàng nghìn năm.
Thứ hai, ý nghĩa dân chủ, giá trị dân chủ. Trong Tuyên ngôn đọc ngày 02-9-
1945, Hồ Chí minh đã khẳng định thành quả đặc biệt này: “Dân ta lại đánh đổ chế
độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà” [94, tr.3].
Một mặt, bước chuyển này gắn với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân
Việt Nam, dân tộc Việt Nam với kẻ thù nước ngoài xâm lược. Song, khác với các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của người Việt Nam trong lịch sử cũng như các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa khác ở Đông Nam Á,
bước chuyển này đã đưa quyền lực nhà nước từ tay một thiểu số bóc lột là đế quốc,
phong kiến sang tay nhân dân lao động.
Suy cho cùng, giải phóng dân tộc thì thời nào dân tộc ta cũng làm được. Còn lật
đổ chế độ quân chủ, giành chính quyền về tay nhân dân, dựng lên chế độ dân chủ
cộng hoà, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ
bản thân, với nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân,
nhà nước tiến bộ nhất ở Đông Nam Á, thì chỉ có thời đại Hồ Chí Minh, chỉ có cách
mạng Tháng Tám mới làm được. Sau khi Nhật rút khỏi Đông Nam Á, hầu như các
nước khu vực này được giải phóng, nhiều nước đã tuyên bố độc lập, nhưng xoá bỏ
nhà nước phong kiến và chế độ quân chủ chuyên chế lập nên nhà nước dân chủ
nhân dân, chế độ dân chủ cộng hoà thì chỉ có ở Việt Nam [199]
Với bước chuyển này, nhân dân Việt Nam đã thực hiện một cuộc cách mạng với
mục tiêu kép: giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Cuộc cách mạng này
đạt được sự tổng hoà của nhiều giá trị mà các cuộc cách mạng khác nhau trên thế
197
giới đã giành được: “Noi gương cách mạng 1776 của Mỹ, cách mạng Tháng Tám
tranh tự chủ chống ngoại xâm. Cũng như cách mạng 1789 của Pháp, cách mạng
Tháng Tám thực hành lý tưởng: Bình đẳng, Tự do, Bác ái. Theo gót cách mạng
1911 của Tàu, cách mạng Tháng Tám thực hiện chủ nghĩa: dân tộc, dân quyền, dân
sinh” [95,tr.187]. Hai giá trị độc lập và tự do luôn song hành trong tiềm thức Hồ
Chí Minh, bởi cứu nước theo Người phải gắn với cứu dân; bởi nước được độc lập
mà nhân dân lao động không được hưởng hạnh phúc, tự do thì nền độc lập ấy cũng
không có nghĩa lý gì. Người tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới
thành quả vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được ngày 02-9-1945: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc
lập” [94, tr.4]. Tự do, độc lập, đó là những giá trị thiêng liêng mà người Việt Nam
phải đổi bằng xương máu và những nỗ lực không mệt mỏi. Chính vì vậy: “Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [94, tr.4]
Như vậy, bước biến đổi chính trị từ chính trị thực dân - phong kiến phản động
sang chính trị dân chủ nhân dân tiến bộ đánh dấu sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Việt
Nam: từ một dân tộc nô lệ, Việt Nam thành một dân tộc độc lập. Với bước chuyển
này, lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm, quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã
thuộc về nhân dân lao động. Một dân tộc độc lập gắn với những cá nhân tự do sẽ là
nguồn nội lực lớn, tạo cơ hội để dân tộc chuyển mình và hồi sinh.
b. Hệ quả của sự biến đổi chính trị từ chính thực dân phong kiến sang chính
trị dân chủ nhân dân
Chính trị dân chủ cộng hoà là một hình thức chính trị quá độ để tiến tới chính
trị XHCN, một cách thực sự. Do đó, bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến
sang chính trị dân chủ nhân dân có thể coi như một bước ngoặt cách mạng mở ra
một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam bước vào quỹ đạo
tiến lên CNXH với một bộ máy chính quyền kiểu mới đã được xác lập.
Mục tiêu chiến lược của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc, phong kiến dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam và
198
lãnh tụ Hồ Chí Minh là tiến lên CNXH, CNCS. Tuy nhiên, với cuộc cách mạng
Tháng Tám năm 1945, chúng ta chưa thực hiện ngay được mục tiêu ấy. Chế độ dân
chủ nhân dân có thể coi là một hình thức chính trị quá độ để tiến tới chế độ XHCN,
CSCN. Điều này đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng như Đảng cộng sản Việt Nam
khẳng định nhiều lần, đặc biệt khi những thành quả của chế độ dân chủ nhân dân
(hay chế độ dân chủ mới) đã được hiện diện ngày càng rõ nét trong hiện thực. Năm
1949, Hồ Chí Minh khẳng định: “Xây dựng dân chủ mới để tiến tới CNXH” [95,
tr.551]. Hay khi nhấn mạnh biện pháp chủ yếu cần thực hiện để có thể tiến lên
CNXH, Người nói: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là hai việc cần thiết
nhất để phát triển chế độ nhân dân tiến dần lên CNXH” [98, tr.349]. Mối quan hệ
giữa chế độ dân chủ nhân dân và chế độ XHCN được nhận thấy rõ hơn trong Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951 khi bàn tới ba giai đoạn của cách
mạng Việt Nam: “Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng
dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ
sở cho CNXH, tiến lên thực hiện CNXH”.
Có thể thấy, chế độ dân chủ nhân dân, nhà nước dân chủ nhân dân được thiết
lập sau thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945 chưa phải là một chế độ
XHCN và nhà nước XHCN nhưng nó là một chế độ, một nhà nước nằm trong quỹ
đạo hướng tới CNXH.
Sự khác biệt cơ bản giữa hai chế độ này đó chính là cơ sở kinh tế của nó. Nếu
như chế độ XHCN dựa trên cơ sở kinh tế là “không có chế độ tư hữu” [97,tr.210] thì
trong chế độ dân chủ nhân dân vẫn còn chế độ tư hữu song không phải là chế độ tư
hữu tư liệu sản xuất của thiểu số người để áp bức đa số như trong chế độ TBCN hoặc
phong kiến mà là “làm cho hàng chục triệu dân cày thành tư hữu” [97,tr.210] (tức tư
hữu tư liệu sản xuất của số đông trước khi nó “biến thành” chế độ công hữu tư liệu
sản xuất). Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, sự phát triển thấp kém về nhiều mặt
đặc biệt với một thực trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển về kinh tế, chúng ta
199
chưa thể xây dựng ngay các yếu tố mang bản chất của CNXH mà phải đi dần từng
bước, qua nhiều khâu trung gian. Chính trị dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ nhân
dân chính là một bước, một khâu trung gian như thế để tiến tới chính trị XHCN.
Hiểu như vậy có thể thấy, nhiệm vụ của những thế hệ đi sau để tiếp nối con
đường của cha anh, tiến lên CNXH là sự nghiệp vô cùng khó khăn, nặng nề. Vì chế
độ dân chủ nhân dân chưa phải là chế độ XHCN. Vì vậy, trên cơ sở những thành
quả của chế độ dân chủ nhân dân cũng như những thành quả của các thời kỳ cách
mạng tiếp theo, nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là cần phải tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện các yếu tố làm tiền đề cho sự ra đời của chế độ XHCN thực sự ở Việt Nam.
Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy sự vận động của chính trị ở Việt Nam từ
chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân là sự vận động tất
yếu hợp quy luật. Sự vận động này chịu sự tác động chi phối của những nhân tố
khách quan, chủ quan, quốc tế, trong nước, đặc biệt vai trò tối quan trọng của đảng
cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với sự biến đổi này, chúng ta đã bước
một bước dài, một bước chân khổng lồ trong hành trình nghìn năm của dân tộc.
Hàng nghìn năm trước khi cách mạng Tháng Tám nổ ra và thắng lợi, bước chân của
dân tộc Việt Nam vẫn trong khuôn khổ của một con đường đã được mở ra từ sau
khi Ngô Quyền giành độc lập trên dòng sông Bạch Đằng năm 938, con đường của
chế độ phong kiến. Với cách mạng Tháng Tám -1945, dân tộc Việt Nam bắt đầu
những bước đầu tiên trên một con đường hoàn toàn mới chưa từng được khai phá
trong lịch sử dân tộc: con đường tiến lên một xã hội XHCN. Con đường đi tới một
tương lai sáng lạn, ở nơi đó con người được sống như con người, nơi mà “sự tự do
của mỗi người là cơ sở cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Như vậy, bước
chuyển này đã hoạch định cho Việt Nam một con đường trên đó Việt Nam có thể
sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Nhưng chúng ta có đủ sức để
bước những bước vững chắc trên con đường dẫn tới một tương lai sáng lạn nhưng
cũng đầy khó khăn, thách thức tới đích đã chọn hay không, điều đó phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng của chúng ta trong việc nhận thức, xây dựng và hoàn thiện các
tiền đề về mọi mặt đặc biệt là tiền đề kinh tế.
200
Với Nhật Bản nửa sau thế kỷ XIX, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nhật,
việc xuất hiện một đấng minh quân - Minh Trị - cùng chính sách Duy Tân của ông
đã đưa nước Nhật từ một nước Phong kiến thành một nước Tư bản phát triển. Chính
trị tư sản đã thay thế chính trị phong kiến ở Nhật Bản. Bước phát triển đó đã giúp
nước Nhật đẩy lùi hoạ xâm lăng. Nước Nhật đường hoàng tiến bước trên con đường
TBCN. Việt Nam thì không như vậy. Chúng ta đã lỡ một nhịp phát triển. Nền chính
trị lạc hậu như là sản phẩm của một nền kinh tế yếu kém, lạc hậu đã làm cho Việt
Nam không thể bứt phá từ xã hội phong kiến lên xã hội TBCN trên con đường phát
triển. Và hậu quả là chúng ta đã bị xâm lược, thôn tính bởi đế quốc Pháp ở trình độ
phát triển cao hơn chúng ta cả một phương thức sản xuất. Tuy nhiên, chính sự cai trị
tàn bạo của thực dân Pháp, chính việc xây dựng các cơ sở về mọi mặt cho sự tồn tại
của nền chính trị thực dân - phong kiến đã tạo ra ngoài ý muốn của kẻ cai trị những
tiền đề cho sự ra đời của một nền chính trị mới thay thế chính trị thực dân - phong
kiến. Đó là chính trị dân chủ nhân dân. Tuy chính trị dân chủ nhân dân chưa phải là
chính trị XHCN nhưng đó là một hình thức chính trị quá độ để tiến lên CNXH.
Thiết lập chế độ dân chủ cộng hoà, một chế độ chính trị của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân mới chỉ là bước khởi đầu để hướng tới một xã hội trong đó người
dân thực sự được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Nghiên cứu bước chuyển cách mạng này cho phép chúng ta khẳng định con
đường tiến lên CNXH ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
ngày nay là một sự lựa chọn chuẩn xác có cơ sở khoa học. Đó là quá trình phát triển
kế thừa và tiếp nối mà bước ngoặt tháng Tám năm 1945 là bước khởi đầu quan
trọng đánh dấu chính quyền nhà nước đã về tay nhân dân.
Vấn đề đặt ra cho các tầng lớp nhân dân Việt Nam hiện nay, đặc biệt lực lượng
lãnh đạo đất nước là việc xây dựng, củng cố bộ máy chính quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và thiết lập các yếu tố như là tiền đề, cơ sở không thể thiếu để
tiến lên CNXH. Nội dung của những tiền đề cho một chế độ XHCN được thiết lập
trên hiện thực cần có những công trình nghiên cứu cụ thể. Chỉ ra một cách định tính
như vậy để chúng ta xác định cho mình một phương hướng, khẳng định một con
201
đường dẫn tới một tương lai tươi sáng nhưng đầy khó khăn, thử thách và chông gai.
Như vậy, bước chuyển từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ
nhân dân đặt chúng ta trên một quỹ đạo mới chưa từng có trong lịch sử phát triển
của dân tộc. Đó là quỹ đạo tiến lên CNXH. Tuy nhiên, đó là con đường đầy khó
khăn thử thách và chông gai đòi hỏi chúng ta một tầm trí tuệ để xây dựng cho mình
những tiền đề cần thiết để vững bước trên lộ trình đó, một bản lĩnh chính trị để
không bỏ cuộc trước khi đến đích và một trái tim đủ nhạy cảm để có sự uyển
chuyển cần thiết, đúng lúc điều chỉnh tốc độ, bước đi trên hành trình hướng đích.
Bởi con đường thẳng không phải bao giờ cũng là con đường ngắn nhất. Đó là thách
thức lớn với cả dân tộc Việt Nam cũng như từng “con dân nước Việt”.
Tiểu kết chương 3
Bước biến đổi từ chính trị thực dân - phong kiến sang chính trị dân chủ nhân
dân là kết quả trực tiếp của việc giải quyết mâu thuẫn dân tộc ở nước ta. Sự cai trị
tàn bạo của thực dân, phong kiến đã đẩy mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và giai
cấp tư sản Pháp lên đến đỉnh điểm. Nhu cầu, khát vọng cháy bỏng của toàn thể nhân
dân Việt Nam lúc bấy giờ là độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Việc tìm kiếm các con đường cứu nước khác nhau của những người Việt Nam yêu
nước trong bối cảnh lịch sử đó xét trên phương diện chính trị học chính là tìm một
kiểu nhà nước, một hình thức nhà nước phù hợp với Việt Nam. Các con đường cứu
nước gắn với việc tái lập kiểu nhà nước phong kiến hay xác lập kiểu nhà nước tư
sản đã bị lịch sử Việt Nam chối từ vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác
nhau. Và cuối cùng, sau quá trình trải nghiệm thực tiễn, nghiên cứu lý thuyết khắp
các châu lục khác nhau trên thế giới, sau khi khảo sát một hình thức đặc biệt của
kiểu nhà nước tư sản ở thuộc địa (nhà nước thực dân phong kiến), các hình thức
khác nhau của kiểu nhà nước tư sản ở các nước tư bản phát triển (mô hình quân chủ
lập hiến và dân chủ cộng hoà tư sản), mô hình nhà nước kiểu mới ở nước Nga Xô
Viết, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã khẳng định trong thời đại ngày nay con
202
đường cứu nước giải phóng dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản. Mà
kết quả tất yếu của con đường này sẽ là một nhà nước thuộc kiểu nhà nước XHCN
được xác lập. Với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tiêu chí quan trọng nhất cho
việc phủ nhận kiểu nhà nước này và lựa chọn kiểu nhà nước kia chính là mục tiêu
kép: Độc lập dân tộc gắn với hạnh phúc của đông đảo nhân dân. Con đường cứu
nước giải phóng dân tộc gắn với mô hình nhà nước kiểu mới mà Hồ Chí Minh tìm
thấy cho Việt Nam có đầy đủ các tiền đề, cơ sở để có thể được hiện thực hoá ở nước
ta. Các tiền đề đó chính là sản phẩm trực tiếp của sự cai trị của thực dân, phong kiến
ở nước ta. Nói cách khác, thực dân Pháp trong khi thiết lập các cơ sở về mọi mặt
cho sự thống trị chính trị của chúng thì đồng thời kết quả là chúng cũng tạo ra
những yếu tố mầm mống cho sự phủ định chính nền chính trị mà chúng thiết lập ở
nước ta.
Sau khi khẳng định kiểu nhà nước mới là quá trình nhận thức các hình thức nhà
nước phù hợp với nước ta và sự chuẩn bị các yếu tố tiền nhà nước cho sự xác lập
một nhà nước mới thay thế nhà nước thực dân phong kiến. Từ mô hình nhà nước
công nông binh theo kiểu Xô Viết đến mô hình nhà nước dân chủ nhân dân là một
bước ngoặt có tính cách mạng thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh
chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Các yếu tố tiền
chính quyền mà tiêu biểu là mặt trận Việt Minh là một hình thức độc đáo của một
loại hình tổ chức vừa thực hiện chức năng của một mặt trận dân tộc thống nhất vừa
có tính cách của một chính quyền phôi thai.
Việc xác lập các yếu tố của một nền chính trị mới như quốc hội, hiến pháp,
chính phủ… là yếu tố không thể thiếu trong bước vận động từ chính trị thực dân -
phong kiến sang chính trị dân chủ nhân dân. Chính trị dân chủ nhân dân chưa phải
là chính trị XHCN mà chỉ là bước quá độ để tiến tới một nền chính trị XHCN. Do
đó, việc xây dựng, thiết lập các yếu tố cơ sở cho sự tồn tại và phát triển từ chính trị
dân chủ nhân dân đến chính trị XHCN chính là nhiệm vụ khó khăn, nặng nề song
cũng hết sức vẻ vang của các thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau.
203
KẾT LUẬN
Nghiên cứu sự biến đổi chính trị ở Việt Nam từ 1858 đến 1945, có thể rút ra
một số bài học có tính phương pháp luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với
việc nghiên cứu chính trị học cũng như hoạt động chính trị thực tiễn ở nước ta hiện
nay.
Trước hết, nghiên cứu tính quy luật trong sự vận động và phát triển của chính trị
Việt Nam thời kỳ cận, hiện đại trong tương quan so sánh với sự vận động về chính
trị của các nước trong khu vực như Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan dưới giác độ của
khoa học chính trị, có thể một lần nữa khẳng định tính đúng đắn, cơ sở khoa học
của con đường phát triển ở Việt Nam hiện nay là con đường đi lên CNXH. Bởi
con đường mà nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
đang thực hiện hôm nay thực chất là sự tiếp nối hợp quy luật của con đường giải
phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản mà tính cách mạng, khoa học của
nó đã được phân tích, luận giải trong luận án.
Sự vận động “lỡ nhịp” của Việt Nam (vận động bình thường là theo kiểu của
Nhật Bản: từ xã hội phong kiến lên xã hội TBCN) vô hình chung đã đặt Việt Nam
trên một quỹ đạo phát triển mới: quỹ đạo tiến lên CNXH. Thực tế này một mặt tạo
cơ hội cho Việt Nam được đặt ở điểm đầu của một con đường mà trên con đường
đó, chúng ta có thể đạt được những bước phát triển cao về nhiều mặt, tiến lên một
xã hội văn minh. Song, mặt khác thực tế này lại đặt nước ta trước quá nhiều thách
thức khi chúng ta còn ở trình độ phát triển khá thấp về nhiều mặt, đặc biệt về kinh
tế. Để có thể tự tin vững bước trên một con đường như vậy, đòi hỏi chúng ta phải có
những điều kiện nhất định trên nhiều phương diện. Những điều kiện này chưa có
sẵn trong hiện thực do đó chúng ta phải tốn không ít tâm sức và thời gian cho quá
trình thiết kế và xây dựng. Đây là khó khăn, thử thách to lớn đối với các thế hệ
người Việt Nam để có thể tiếp bước con đường các thế hệ cha anh đã lựa chọn bằng
máu xương, nước mắt và đã được thực tiễn lịch sử chứng minh tính đúng đắn của
nó.
204
Thứ hai, những nghiên cứu trong luận án một lần nữa khẳng định vai trò của
lực lượng lãnh đạo chính trị với sự phát triển của đất nước là vô cùng to lớn.
Diện mạo của xã hội về mọi mặt là do bản thiết kế của lực lượng cầm quyền tạo ra.
Số phận của dân tộc gắn với số phận của hàng triệu triệu con người cũng phụ thuộc
vào lực lượng này với các quyết sách chính trị của họ. Do đó, trong mọi sai lầm đối
với sự phát triển của một quốc gia dân tộc thì sai lầm lớn nhất chính là sai lầm của
lực lượng cầm quyền trong hoạch định đường lối phát triển đất nước. Trong một xã
hội hiện đại, khi trình độ dân trí ngày càng tăng thì mỗi cá nhân không thể không
quan tâm đến chính trị, vì trong đó có vận mệnh của quốc gia dân tộc gắn với vận
mệnh của cá nhân. Và sự quan tâm đến chính trị của người dân có thể coi là một
trong những thước đo của xã hội văn minh. Sự quan tâm đến chính trị và tham gia
vào chính trị của số đông là một yếu tố quan trọng làm đối trọng với lực lượng cầm
quyền, khiến họ dù muốn hay không phải hài hoà ở mức độ nhất định giữa chức
năng xã hội và chức năng giai cấp trong quá trình lãnh đạo, quản lý xã hội.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của lực lượng lãnh đạo, quản lý đất nước, hiện
nay ở nước ta, để có thể tiến tới mục tiêu XHCN, yếu tố hàng đầu là phải có một
chính quyền thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, củng cố
chính quyền, tăng cường hiệu lực, chức năng của chính quyền trong quản lý, điều
hành đất nước là nhiệm vụ tối quan trọng và cấp bách. Tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội mà trước hết và quan trọng nhất
là vai trò, hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước, làm cho Đảng
thực sự là lực lượng đại diện cho lương tâm, trí tuệ, đạo đức của cả dân tộc là yếu tố
then chốt hàng đầu. Phát huy dân chủ, tạo ra những cơ chế để người dân có thể tham
gia vào chính trị nhằm tăng hiệu quả của những quyết sách chính trị do lực lượng
cầm quyền đề ra hướng tới những mục tiêu đã định.
Thứ ba, qua nghiên cứu những ý tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX
trong tương quan so sánh với công cuộc Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản, có thể thấy
sự vận động, phát triển là cả một quá trình kế thừa và tiếp nối. Không có những
tiền đề về mọi mặt được tạo ra trước thời Minh Trị thì dù là một đấng minh quân
205
như Nhật hoàng Minh Trị cũng khó lòng có một cuộc cải cách như Minh Trị Duy
Tân. Ở Việt Nam, chúng ta có thể trách vua Tự Đức và các vị vua kế nhiệm ông
không có một tầm nhìn chiến lược để canh tân đất nước. Song, vấn đề là: trong
khuôn khổ một nền chính trị phong kiến và cách thức cai trị kiểu phong kiến cũng
như tầm nhìn của các bậc tiền nhiệm Tự Đức, Việt Nam không có những tiền đề về
nhiều mặt cho một cuộc canh tân như Nhật Bản. Ở đây, tầm nhìn chiến lược của lực
lượng lãnh đạo, quản lý đất nước trong việc vạch ra một con đường, một hướng đi
đúng là rất quan trọng. Nhưng, không kém phần quan trọng là các thế hệ lãnh đạo
khi kế tiếp nhau cầm quyền phải luôn có sự kế thừa, tiếp nối để tiếp tục những công
việc dang dở của các thế hệ đi trước, hướng tới mục tiêu đã định. Điều này đòi hỏi
các nhà lãnh đạo, quản lý đất nước phải luôn đặt lợi ích chung, lợi ích dân tộc lên
hàng đầu. Nhận thức này có ý nghĩa to lớn đối với cách quản lý, điều hành đất
nước theo chế độ nhiệm kỳ hiện nay.
Thứ tư, bài học về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy bài học lịch sử lấy dân làm gốc. Bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng vào
mùa thu năm 1945 được làm nên bởi sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở
một chất lượng mới dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cách mạng. Thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám được Hồ Chí Minh khẳng định nguyên nhân quan trọng nhất
là do “lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết” [94, tr.19]. Toàn dân đoàn kết là “lực
lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó” [94, tr.20]. Sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của một đảng kiểu mới đã
làm nên “một cuộc thắng lợi xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nước ta” [94,
tr.19]. Củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh
lịch sử mới là nhiệm vụ quan trọng đặt ra với toàn hệ thống chính trị cũng như toàn
dân để có thể thực hiện thành công những nhiệm vụ chính trị đặt ra. Tuy nhiên,
trong bối cảnh mới, đất nước đã hoà bình, độc lập, thống nhất, phát triển kinh tế thị
trường với cạnh tranh ngày càng gay gắt, quyết liệt,… thì việc tìm ra một phương
thức hiệu quả để khơi dậy và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân là
một việc không ít khó khăn, thách thức.
206
Cuối cùng, bài học về xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để hoạch định đường lối
cho Việt Nam. Điều làm nên thành công của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt
Nam trong sự nghiệp cách mạng, đó là luôn biết dựa vào thực tiễn, dựa vào điều
kiện cụ thể của đất nước để hoạch định chủ trương, đường lối cho cách mạng Việt
Nam. Từ chính quyền công nông binh đến chính quyền nhân dân là một bước ngoặt
lớn trong nhận thức của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh chịu sự tác động và chi
phối trực tiếp của hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Thoát được sự ảnh hưởng, “áp đặt”
của quốc tế và nhiều sức ép chính trị, điều này đòi hỏi một tầm trí tuệ và một bản
lĩnh chính trị để có thể khẳng định và thực hiện một đường lối chính trị đúng đắn
mà mình đã lựa chọn.
207
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Thị Thu Hoài (2009), “Hồ Chí Minh và con đường cách mạng vô sản ở
Việt Nam”, Tạp chí Thông tin Chính trị học (3), tr. 18-23.
2. Trần Thị Thu Hoài (2009), “CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh-Một xã hội
cho con người, vì con người”, Tạp chí Cộng sản (803), tr. 45-49.
3. Trần Thị Thu Hoài (2009), “Nguyên nhân thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
thế kỷ XIX”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển (10), tr. 138-141.
4. Trần Thị Thu Hoài (2010), “Cơ sở xã hội cho sự cai trị thuộc địa của thực
dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Lý luận
Chính trị và Truyền thông (7), tr. 8-12.
5. Trần Thị Thu Hoài (2011), “Cơ sở kinh tế cho sự cai trị chính trị của thực
dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển (3), tr. 71-76.
6. Trần Thị Thu Hoài (2011), “Nhìn lại chế độ thực dân qua tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc”, Thông tin Lý luận Chính trị
(34), tr. 13-17.
7. Trần Thị Thu Hoài (2011), Chuyên đề “Sự lựa chọn các khả năng
chính trị cho bài toán độc lập ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”,
Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước“Chủ thuyết phát triển của Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh và vận dụng chủ thuyết đó trong những thập kỷ
đầu thế kỷ XXI (Hướng tầm nhìn tới năm 2020 và 2045)” Mã số:
ĐTĐL.2008 G/09, Chủ nhiệm: PGS.TS Tô Huy Rứa.
208
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. (1996), Almanach những nền văn minh thế giới, NXB Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
2. Lưu Văn An (2008), Thể chế chính trị Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám
dưới góc nhìn hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, NXB Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, NXB Văn học, Hà
Nội.
5. Phạm Ngọc Anh, Hoàng Trang (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
7. F.Ăngghen (1971), Chống Đuy ring, NXB Sự thật, Hà Nội.
8. F.Ăngghen (1995), “Bàn về quyền uy”, C. Mác và F. Ăng ghen Toàn tập, Tập
XVIII, tr. 418-422, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Huỳnh Công Bá (2006), Lịch sử Việt Nam, NXB Thuận Hoá, Huế.
10. Hoàng Chí Bảo (1993), CNXH hiện thực - khủng hoảng, đổi mới và xu hướng
phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Đỗ Thanh Bình (Chủ biên) (1999), Con đường cứu nước trong đấu tranh giải
phóng dân tộc ở một số nước châu Á, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
13. Claude Bourrin (2009), Đông Dương ngày ấy 1898-1908, NXB Lao động, Hà
Nội.
14. Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1993), Nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
15. (1963), Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác bàn về khoa học lịch sử,
NXB Sự thật, Hà Nội.
209
16. Trương Bá Cẩn (1991), Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), Tập 1, Trung tâm
Nghiên cứu Hán Nôm.
17. Phan Bội Châu (2000), Phan Bội Châu Toàn tập, Tập 2, NXB Thuận Hoá,
Huế.
18. Phan Bội Châu (2000), Phan Bội Châu Toàn tập, Tập 6, NXB Thuận Hoá,
Huế.
19. Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh (2007), Quá trình chuyển biến tư tưởng chính
trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở, đặc điểm, xu hướng và giải
pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Phillippe Devillers (2006), Người Pháp và An Nam bạn hay thù, NXB Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
22. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Dương (1995), Tuyển tập Phan Châu Trinh, NXB Đà Nẵng.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần
thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 1, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 6, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Giáo trình Chính trị học, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
30. (1974), Đại Nam thực lục chính biên, Tập XXX, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
210
31. Trần Bá Đệ (2006), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
32. Hoàng Điệp (Biên soạn) (2007), Chủ tịch Hồ Chí Minh với nước Pháp, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Gilles De Gante (2007), “Những lúng túng của chính quyền thuộc địa”, Tạp
chí Tia sáng (15), tr. 34-36.
35. Trần Văn Giàu (1957), Giai cấp công nhân Việt Nam, sự hình thành và sự
phát triển của nó từ giai cấp “tự mình” đến giai cấp “cho mình”, NXB Sự
thật, Hà Nội.
36. Trần Văn Giàu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn
trước 1858, NXB Văn hoá, Hà Nội.
37. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến cách mạng Tháng Tám, Tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
38. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến cách mạng Tháng Tám, Tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
39. Hà Huy Giáp, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trân (1988), Nguyễn An Ninh,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
42. Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, sự hình
thành và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43. Daniel Hémery (2004), Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam, NXB
Phụ nữ, Hà Nội.
44. Nguyễn Quốc Hùng (2000), Quan hệ Quốc tế thế kỷ XX, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
45. Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy (1973), Lịch sử các học thuyết chính trị,
NXB Lửa thiêng.
211
46. Trần Quang Huy (1995), 19-8, Cách mạng Tháng Tám là sáng tạo, Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam.
47. Đỗ Quang Hưng (1989), ““Chính sách phương Đông” của Quốc tế Cộng sản,
lý thuyết và thực tiễn”, Tạp chí Lịch sử Đảng (1), tr. 9-14.
48. John Lê Văn Hoá (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hoá dân tộc trong tư tưởng
cách mạng Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội.
49. Phan Xuân Hoà, Từ nội các Trần Trọng Kim đến chính phủ Bảo Đại, Quyển 1,
Nhà in Hà Nội.
50. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Tập bài giảng Chính trị
học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tập bài giảng
Chính trị học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
53. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình Chính trị học, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
54. Nguyễn Văn Hồng, Bài nghiên cứu: “Đông Du Trung Quốc, Việt Nam”, Một
hiện tượng lịch sử khu vực thời cận đại, Tài liệu đánh máy do tác giả cung
cấp.
55. Nguyễn Văn Hồng, Bài nghiên cứu: Tôn Trung Sơn - Hồ Chí Minh mối đồng
cảm lịch sử và thời đại, Tài liệu đánh máy do tác giả cung cấp.
56. Nguyễn Văn Hồng (2001), Mấy vấn đề lịch sử Châu Á và lịch sử Việt Nam,
một cách nhìn, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
57. Nguyễn Văn Hồng (2010), Hồ Chí Minh nhà cách mạng dân tộc hiện thân văn
hoá châu Á và thời đại, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
58. Mary Somers Heid Hues (2007), Lịch sử phát triển Đông Nam Á, NXB Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
59. Nguyễn Văn Kiệm (2003), Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại
Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
212
60. Lê Thị Kinh (Tức Phan Thị Minh) (2004), “Tìm hiểu thêm về quá trình từ
Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc (qua khai thác các tài liệu mới về
nhóm yêu nước người Việt tại Pháp đầu thế kỷ XX)”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế
Việt Nam học lần 2: Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập, truyền
thống và hiện đại, tr. 309-317, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Thế giới, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam đồng xuất bản.
61. (2000), Khái quát về lịch sử nước Mỹ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Đặng Xuân Kháng (2008), “Vấn đề xây dựng bộ máy Nhà nước hiện đại ở
Nhật Bản dưới chính quyền Minh Trị”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử (9+10), tr.
80-86.
63. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858-1945), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
64. Nguyễn Văn Khánh (2004), “Hệ thống ngạch bậc công chức của chính quyền
thuộc địa ở Bắc và Trung Kỳ qua Nghị định năm 1936”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử (2), tr. 59-72.
65. Nguyễn Văn Khánh (2005), Việt Nam Quốc dân Đảng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
66. Lại Quốc Khánh (2009), Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Nguyễn Hữu Khiển (2006), Phân tích triết học những vấn đề cơ bản về chính
trị và khoa học chính trị, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Khoan (2010), “Thêm một tư liệu lịch sử về giành chính quyền
tháng 8 năm 1845 ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (11), tr. 68-70.
69. Lý nhân Phan Thứ Lang (2004), Giai thoại và sự thật về Bảo Đại vua cuối
cùng triều Nguyễn, NXB Đà Nẵng.
70. Lý nhân Phan Thứ Lang (2007), Những câu chuyện về cuộc đời Nam Phương
- Hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn, NXB Văn nghệ, Hà Nội
71. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Trần Ngọc Vương (1997), Phan Bội
Châu (1867-1940), Con người và sự nghiệp, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Hà Nội.
213
72. Đinh Xuân Lâm (1998), Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam, một số vấn đề
nghiên cứu, NXB Thế giới, Hà Nội.
73. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Hồng (1998), Xu hướng đổi mới trong lịch sử
Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
74. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2001), Về danh nhân văn hóa Hồ Chí
Minh, NXB Lao động, Hà Nội.
75. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (Chủ biên) (2006), Từ điển nhân vật lịch
sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
76. Phan Huy Lê (1993), “Thiết chế chính trị: di sản và kế thừa”, Tạp chí Khoa
học (2), tr. 23-28.
77. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 33, NXB Tiến bộ, Matxcơva.
78. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, Tập 34, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
79. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 40, NXB Tiến bộ, Matxcơva.
80. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, Tập 41, NXB Tiến bộ, Matxcơva.
81. Trần Huy Liệu, Văn Tạo (Chủ biên) (1957), Tài liệu tham khảo lịch sử cách
mạng cận đại Việt Nam, Tập X, NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội.
82. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1999), Phương pháp luận sử học, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
83. Nguyễn Tiến Lực (2008), Những hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật Bản,
NXB Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
84. Charles B. Maybon (2006), Những người Châu Âu ở nước An Nam, NXB Thế
giới, Hà Nội.
85. P.H.P. Mason & J.G. Caiger (2008), Lịch sử Nhật Bản, NXB Lao động, Hà
Nội.
86. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1962), Tuyển tập, Tập I, NXB Sự thật, Hà Nội.
87. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập III, NXB Chính trị Quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
88. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập IV, NXB Chính trị Quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
214
89. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1993), Toàn tập, Tập IX, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (1990), Về Nhà nước và pháp luật, NXB Pháp lý.
91. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 6, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 9, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh (2005), CD-ROM Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
101. Nguyễn Văn Nam (2008), Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á, ASEAN
(Trước công nguyên đến thế kỷ XX), NXB Hà Nội.
102. Trần Viết Nghĩa (2008), “Hoạt động chấn hưng thực nghiệp của tư sản Việt
Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (7), tr. 23-33.
103. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2005), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
104. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
215
105. Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam với Pháp, NXB Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
106. Lê Nguyễn (2005), Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, NXB Văn hoá Thông
tin, Hà Nội.
107. Vũ Dương Ninh (1989), “Suy nghĩ về giai cấp tư sản dân tộc, quá khứ và hiện
tại”, Tạp chí Lịch sử Đảng (1), tr. 35-39.
108. Vũ Dương Ninh (1990), “Thời cơ tháng Tám trên bình diện quốc tế 1945”,
Tạp chí Khoa học (6,7), tr. 15-21.
109. Vũ Dương Ninh (1995), “Cách mạng Tháng Tám, điểm khởi đầu của quá trình
hội nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học (2), tr. 7-10.
110. Vũ Dương Ninh (2006), “Chủ nghĩa thực dân - hồ sơ chưa khép lại”, Tạp chí
Xưa và Nay (259), tr. 4-6.
111. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2007), Phong trào cải cách ở một số nước Đông
Á giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
112. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2009), Lịch sử thế giới cận đại, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
113. Vũ Dương Ninh (2010), “Nhìn lại quan hệ Pháp - Việt Nam - Trung Quốc qua
các bản Hiệp ước cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (8), tr. 3-15,
82.
114. Lương Ninh (Chủ biên) (2008), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội.
115. Archimedes L.A.Patti (Lê Trọng Nghĩa dịch) (2008), Why Vietnam? (Tại sao
Việt Nam?) - Bản dạo đầu con chim hải âu của nước Mỹ, NXB Đà Nẵng.
116. Hàn Phi (Phan Ngọc dịch) (2005), Hàn Phi Tử, NXB Văn học, Hà Nội.
117. Vũ Huy Phúc (Chủ biên) (2003), Lịch sử Việt Nam 1858 -1896, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
118. Vũ Thị Phụng (2007), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam,
NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
119. Nguyễn Phan Quang, Phan Văn Hoàng (1995), Luật sư Phan Văn Trường,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
216
120. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2005), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc
đến năm 1884, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
121. Lê Minh Quân (2009), Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin
và Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
122. Bùi Thanh Quất (1996), “Suy nghĩ thêm về “Quyền lực chính trị” như một
phạm trù khoa học”, Tạp chí Triết học (5), tr. 49- 51, 60.
123. Bùi Thanh Quất (1998) “Mối quan hệ giữa quá trình chính trị với quá trình
dân tộc trong lịch sử Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần
thứ nhất, tr. 13-20, NXB Thế giới.
124. Bùi Thanh Quất (2004), Đề cương bài giảng Chính trị với quản lý xã hội,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
125. Bùi Thanh Quất (2006), “Biện chứng trong “Tuyên ngôn độc lập””, Tạp chí
Triết học (8), tr. 8-13.
126. Dương Kinh Quốc (1999), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
127. Dương Kinh Quốc (2005), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách
mạng Tháng Tám 1945, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
128. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2006), Văn kiện Quốc
hội Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
129. Phạm Quỳnh (2006), Thượng Chi văn tập, NXB Văn học, Hà Nội.
130. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-
1932, NXB Tri thức, Hà Nội .
131. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2003), Đại Cương Lịch
sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
132. Sophia Reign (1998), “Nam Kỳ từ đầu chế độ dân sự đến sự đổi dạng trong những
năm 1930”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất, tr. 371-385, NXB
Thế giới.
133. Bertrand Russel (1972), Quyền lực, NXB Hiện đại, Sài Gòn.
134. Alain Ruscio (2006), “Chủ nghĩa thực dân: một bộ luật phi lịch sử, những con
người vô trách nhiệm”, Tạp chí Xưa và Nay (255), tr. 30-34.
217
135. Gerard Sassges (2006), “Sự thật về kế hoạch khai thác Đông Dương lần thứ
nhất của thực dân Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (11), tr. 35-47.
136. Eto Shinkichi (1998), “Nhật Bản và phong trào Đông Du - Tính hai mặt của
Nhật Bản thời Minh Trị”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất,
tr. 35-40, NXB Thế giới.
137. Tôn Trung Sơn (1995), Chủ nghĩa tam dân, Viện Thông tin Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
138. Văn Tạo (2004), “Nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc
tế Việt Nam học lần 2: Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập, truyền
thống và hiện đại, tr. 287- 291, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Thế giới, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam đồng xuất bản.
139. Hà Văn Tấn (1990), Triết học lịch sử hiện đại, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
140. Đinh Ngọc Thạch (2008), “Đông Kinh Nghĩa Thục trong dòng chảy của tư
tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, Một trăm năm Đông Kinh
Nghĩa Thục, tr. 146-153, NXB Tri thức, Hà Nội.
141. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên) (1999), Lịch sử thế giới hiện đại từ 1917 đến
1945, Quyển A, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
142. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên)(1999), Lịch sử thế giới hiện đại từ 1917 đến
1945, Quyển B, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
143. Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái (dịch) (2001), Lịch sử các học thuyết
chính trị trên thế giới, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
144. Trần Thị Thanh Thanh (2004), “Về nền hành chính triều Nguyễn thời kỳ
1802-1883”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (2), tr. 17-25.
145. Song Thành (2001), “Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Tổng tuyển cử bầu Quốc
hội lập hiến đầu tiên của nước ta”, Tạp chí Lịch sử Đảng (1), tr. 38-42.
146. Văn Ngọc Thành, Trần Anh Đức (2009), “Những nghiên cứu ở Việt Nam về
sự biến đổi của kinh tế các nước Đông Nam Á thời thuộc địa”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á (5), tr. 40-45.
147. Lê Phương Thảo (2009), Nhà nước và cách mạng Việt Nam những năm 1945-
1946, những sáng tạo của Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
218
148. Trịnh Văn Thảo (2009), Nhà trường Pháp ở Đông Dương, NXB Thế giới.
149. Mạch Quang Thắng (2010), Hồ Chí Minh - Con người của sự sống, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
150. Lê Sĩ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
151. Nguyễn Quang Thắng (2006), Phan Châu Trinh - Cuộc đời và tác phẩm, NXB
Văn học, Hà Nội.
152. Chương Thâu (1997), Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hoá
đầu thế kỷ XX, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
153. Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh Xuân Lâm
(1999), Lịch sử Việt Nam 1897-1918, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
154. Chương Thâu - Tôn Long (2001), Lê Đại - Con người và thơ văn, NXB Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
155. Chương Thâu (2004), “Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào Nghĩa Thục ở Việt
Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 2: Việt Nam trên con đường
phát triển và hội nhập, truyền thống và hiện đại, tr. 265-276, Đại học Quốc gia
Hà Nội, NXB Thế giới, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đồng xuất bản.
156. Chương Thâu, “Về tư tưởng toàn dân đoàn kết trong cách mạng dân tộc dân
chủ ở Việt Nam từ Phan Bội Châu đến Hồ Chí Minh”, Tài liệu viết tay do tác
giả cung cấp.
157. Tạ Thị Thúy (2005), “Về vấn đề đầu tư của Pháp trong cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ hai ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (7), tr. 15-23.
158. Tạ Thị Thúy (2007), “Công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn khai thác thuộc
địa lần thứ hai của người Pháp (1919-1930)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (7),
tr. 38-43, 49.
159. Trần Thị Hồng Thúy (2000), Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam truyền thống, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
160. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (1999), Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam,
NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
219
161. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây
dưới triều Nguyễn (1802-1858), NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
162. Nguyễn An Tịnh (Sưu tầm)(1996), Nguyễn An Ninh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
163. Trần Quốc Toản (1992), “Chính trị và khoa học”, Một số vấn đề về chính trị
và khoa học chính trị, tr. 7-17, Viện Mác Lênin, Viện CNXHKH, Hà Nội.
164. Nguyễn Khánh Toàn (Chủ biên) (2004), Lịch sử Việt Nam, Tập II, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
165. Ngô Đăng Tri (2008), “Lập nên chế độ dân chủ cộng hoà, thắng lợi lịch sử của
cuộc cách mạng Tháng Tám 1945”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (8), tr. 26-31.
166. Lê Duy Truy (2007), Chủ tịch Hồ Chí Minh với xây dựng nhà nước và công
tác cán bộ, NXB Tư pháp.
167. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2008), Giáo trình thể chế chính trị Việt
Nam, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
168. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
169. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp
luật, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
170. Trường Đại học Khoa học Huế (2010), Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ
Chí Minh - Giá trị Lý luận và ý nghĩa thời đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
171. Yoshiharu Tsuboi (1990), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa
1847-1885, Ban Khoa học Xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
172. Bùi Quang Tung (1958) “Nước Việt Nam trên đường suy vong”, Nguyệt san
văn hoá Á Châu (3).
173. Phạm Hồng Tung (2007), “Đông Á trước những biến chuyển của thế giới và
nguy cơ xâm thực của Chủ nghĩa Tư bản phương Tây”, Phong trào cải cách ở
một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tr. 11-49, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
220
174. Phạm Hồng Tung (2008), Văn hoá chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hoá
chính trị, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
175. Phạm Hồng Tung (2009), Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí
lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
176. Phạm Thị Tuyết (2010), “Tổ chức bộ máy chính quyền và chính sách quản lý
đô thị của Thực dân Pháp ở thành phố Hải Dương (giai đoạn 1923-1945)”,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (12), tr. 47-57.
177. Nguyễn Văn Tường (1974, 1975), Định chế chánh trị và tổ chức công quyền
Việt Nam, Viện Sử học.
178. Trần Thị Thanh Vân (2010), Chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ từ thế kỷ
XVII đến giữa thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, Hà Nội.
179. Viện Sử học (2003), Lịch sử Việt Nam 1858-1896, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
180. Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, Tập VIII, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
181. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), Lịch sử Việt Nam 1919-1930, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
182. Nguyễn Khắc Viện (2007), Việt Nam một thiên lịch sử, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
183. Nguyễn Khắc Viện (2007), Đạo và đời, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
184. Trần Thị Vinh (2008), Lịch sử thế giới, Khoa Lịch sử Đại học Sư phạm Hà
Nội.
185. Phạm Xanh (1998), “Tinh thần dân tộc trong kinh doanh của các nhà doanh
nghiệp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc: trường hợp Bạch Thái Bưởi”, Kỷ yếu
Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất, tr. 341-346, NXB Thế giới.
186. Phạm Xanh (2001), “Tôn Dật Tiên với một số nhà yêu nước, cách mạng Việt
Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng (12), tr. 40-43.
187. Phạm Xanh (2001), Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin
vào Việt Nam (1921-1930), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
221
188. Phạm Xanh (2005), Nguyễn Trường Tộ và thời đại: Những nghịch lý trong
lịch sử Nhà Nguyễn - Một cách tiếp cận mới, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
189. Phạm Xanh (2010), “Dấu ấn văn hóa của người Pháp ở Hà Nội”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử (7), tr. 71-79.
190. Vũ Thị Kim Yến, Nguyễn Văn Dương (2009), Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn
độc lập, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
Tài liệu tiếng nước ngoài
191. Lady Borton (2009), Hồ Chí Minh, story told on the Trail, Thế giới Publishers,
Hà nội, Việt Nam.
192. Lady Borton (2010), Hồ Chí Minh, a Journey, Thế giới Publishers, Hà Nội,
Việt Nam.
193. Janet Buttolph Johnson, Richard A. Joslyn (1987), Political Science Research
Methods, Prentice Hall of India private Limited, New Delhi.
194. Vatikiotis, Micheal R.J (1996), Political change in Southeast Asia: Trimming
the banyan tree, London: Routledge
195. Patricia Pelley (2002), Postcolonial Vietnam: New histories of the national
past, Duke University Press.
196. David Pickus (2010), “Karl Marx’s views of Asia from a Western
perspective”, The heritage of Marx’s ideology in current movement of the left,
USSH-RLS International Dialogue.
197. Sten Tonneson (1991), The Vietnamese Revolution of 1945- Roosevelt, Ho Chi
Minh and De Gaulle in World at War, Sage Publication London - New Deihi.
Tài liệu từ internet
197 http://www.gio-o.com
198 http://www.TuanVietNam.net
199 http://www.ussh.edu.vn
200 http://www.vi.wikipedia.org
201 http://www.Tuoitrevnnet.com
222
202 http://www.Chungta.com
203 http://www.Vi.wikibooks.org
204 http://www.Khongtu.com
205 http://www.Khoavanhoc-ussh.edu.vn
206 http://www.vanhoahoc.edu.vn
207 http://www.us.vietnamnet.vn
208 http://www.lichsuvietnam.vn