hãy dám biết
DESCRIPTION
Hãy dám biếtTRANSCRIPT
Hãy Dám Biết! (Hay Tư Duy Nguyên Tắc) “Khẩu hiệu” của sự khai minh là gì? Immanuel Kant (1724 – 1804) hô
lên bằng… tiếng Latinh: “Sapere aude!”, “Hãy dám biết!” Phải có gan
như thế mới thoát ra được vòng tù hãm của đời thường. Phải “dám”
như thế mới thoát ra khỏi sự không trưởng thành vì lười và nhát. Lười vì
ngại nhức đầu và nhát vì e sợ quyền uy của người khác, của người đi
trước. Trẻ con đương nhiên là chưa trưởng thành, nhưng chính trẻ con
là kẻ… dám biết hơn ai hết!
Trẻ con không ngần ngại hỏi “là gì?” và “tại sao?” luôn miệng. Chúng muốn đi ra
đàng sau sự vật, muốn biết căn nguyên của mọi sự. Người lớn thường… nhát
hơn trẻ con, nhưng, tất nhiên, tinh vi hơn.
Khoa học đi tìm nguyên nhân và định luật. Nhà khoa học có lẽ chỉ nêu lại những
câu hỏi của trẻ con một cách chi tiết hơn, rắc rối hơn! Triệt để hơn nữa, triết học
đặt ra những câu hỏi cơ bản và đòi hỏi những câu trả lời cơ bản, nghĩa là, có tính
nguyên tắc. Theo nghĩa rộng, tư duy nguyên tắc là tư duy trừu tượng nói chung.
Còn theo nghĩa hẹp, nó là tư duy chuyên tra hỏi về… những nguyên tắc, gồm
bốn cấp độ: xác định khái niệm, tìm bản chất, tìm nguyên nhân, và sau cùng,
tìm nguyên tắc, kể cả nguyên tắc hay căn nguyên tối hậu.
Tư duy bề ngang và tư duy bề dọc
Muốn xác định khái niệm, cần tối thiểu một năng lực trừu tượng hoá nào đó để
từ những cái cá biệt rút ra cái chung, cái phổ biến. Cái phổ biến buộc lòng phải
gạt bỏ nhiều nét phong phú trong sự vật; nó luôn là sự giản lược, và đó là chỗ
yếu của nó. Khái niệm “chó” bao hàm mọi con chó, mọi loại chó, nhưng không
thể cho biết những đặc điểm riêng có của chú chó cưng của tôi. Nhưng, bù lại,
nó giúp người ta đi sâu hơn vào sự vật, vì sự vật có thể còn là cái gì nhiều hơn
vẻ bề ngoài, hay còn là cái gì khác hơn điều nó bộc lộ ra. Nếu không có sự hoài
nghi cơ bản ấy để phân biệt giữa hiện tượng và bản chất, giữa tồn tại và vẻ
ngoài v.v…, ắt sẽ không có triết học và cả khoa học nữa. Nhưng, có chỗ khác
nhau. Triết học phát triển một tư duy nguyên tắc không chỉ theo bề ngang, theo
đường thẳng tuyến tính để đi từ hiện tượng hay kinh nghiệm đến chỗ phân loại
và đề ra quy luật như trong các ngành khoa học, cũng không chỉ hướng đến một
tư duy trừu tượng và hình thức như trong toán học. Nó làm cách khác: trừu
tượng hoá theo bề dọc hay còn gọi là tư duy “siêu hình học”. Đó là một cách tiếp
cận khác với thực tại. Bạn chăm chú đếm tiền và đã học được vô số cách để
quản trị và làm sinh sôi đồng tiền. Triết gia không mấy quan tâm đến việc ấy mà
lại hỏi “cắc cớ”: Tiền là gì? Con số là gì? Ta say mê bao vẻ đẹp và tạo ra vô số
cái đẹp, triết gia đứng nhìn và hỏi: Đẹp là gì? Thế nào mới là đẹp đích thực? Tất
nhiên, triết gia không lẩm cẩm đến độ chặn một người đang vội vã trên đường
lại để thay vì hỏi: “Xin lỗi, mấy giờ rồi?” lại hỏi: “Thời gian là gì?!” Nhưng, như
bạn thấy đó, hai cách hỏi khác nhau hoàn toàn. Theo thuật ngữ triết học, câu hỏi
trước thuộc về phạm vi áp dụng của một khái niệm, gọi là ngoại diên
(extension), câu hỏi sau mới thuộc về nội dung thực chất của khái niệm, gọi là
nội hàm (intension). Hầu hết các “đối thoại” nổi tiếng của Platon đều vất vả ở
chỗ làm cho người đối thoại biết phân biệt hai điều ấy.
Giữ một khoảng cách với thực tại trực tiếp với chính mình, trước sau
vẫn là đòi hỏi tối thiểu trong tư duy triết học. Tuy nhiên, nếu không
quay lại với khởi điểm, nếu bỏ rơi kinh nghiệm thực tại, mải mê với
“nguyên tắc”, triết học chỉ còn là sự viễn mơ, mất hết sức sống.
Bề dọc cũng có hai chiều!
Bên cạnh việc xác định khái niệm và tìm bản chất, việc tra hỏi nguyên nhân
cũng là đặc trưng của tư duy trừu tượng. Nhưng, ở đây cũng có… bề ngang và
bề dọc. Nhà khoa học hỏi về cái có trước hay cái đầu tiên, cái khởi động một
chuỗi những yếu tố. Từ đó có sự phân biệt nguyên nhân và kết quả. Nhưng, tuy
nguyên nhân sinh ra kết quả (chúng có thể là trước sau hay đồng thời!) nhưng,
về thực chất và về “nguyên tắc”, cả hai đứng trên cùng một bình diện, đó là
bình diện hiện tượng của kinh nghiệm, tức, vẫn thuộc bề ngang, như con vi
trùng là nguyên nhân gây bệnh tuy khó tìm nhưng vẫn nằm ngay trong cơ thể
ta.
Triết học đẩy câu hỏi ấy đến chỗ triệt để, mở rộng chuỗi nhân quả đến tận cùng
để hỏi về nguyên nhân đầu tiên hay tối hậu, vượt ra khỏi kinh nghiệm và hiện
tượng. Nó có thể làm việc ấy bằng hai cách: đi tìm một nguyên nhân thuộc loại
hoàn toàn khác, tức nguyên nhân phi – thời gian, làm nền móng cho tất cả
những gì ở trong thời gian. Nó cũng có thể đi tìm cái không có nguyên nhân, cái
nằm bên ngoài luật nhân quả, thậm chí tra hỏi về bản thân nguyên tắc nhân
quả. Trong trường hợp đó, nó không còn là một nhận thức về nguyên tắc nữa,
nhưng, ý định đi tìm câu hỏi triệt để có tính nguyên tắc vẫn còn đó. Triết học có
thể để mở câu hỏi này, xem đó như là một thử nghiệm, một giả định của tư duy.
Triết học cũng có thể gác lại câu hỏi này, thậm chí gạt bỏ nó đi vì cho rằng
không thể giải đáp được. Nhưng, dù dưới hình thức nào, câu hỏi triệt để về “căn
nguyên tối hậu”, về cái “ontos on” (“thực tại đích thực”) theo cách nói của người
Hy Lạp cổ đại vẫn mãi mãi là một câu hỏi đeo đẳng, nhức nhối. Đó là chiều đi lên
của câu hỏi vượt khỏi kinh nghiệm, hiện tượng. Triết học gọi lối tư duy bề dọc
theo hướng đi lên này là tư duy siêu việt (transcendent).
Cũng vượt ra khỏi thế giới kinh nghiệm, hiện tượng, nhưng còn có chiều “đi
xuống” nữa, hay đúng hơn, đi lùi lại, giữ một khoảng cách. Tư duy nguyên tắc có
tính triệt để về mặt khách quan như trên đây cần đi liền với một tư duy cũng
triệt để về mặt chủ quan nữa. Đó là câu hỏi theo tinh thần khai minh
(“Protagoras và khai minh Hy Lạp, SGTT, 14.7.2010): yêu sách triệt để về mặt
khách quan như thế có cơ sở không? Đâu là những điều kiện chủ quan để những
nhận thức như thế có thể có được hoặc không thể có được? Đó là câu hỏi của sự
phê phán và tự – phê phán về năng lực nhận thức của con người. Không ngạc
nhiên khi Immanuel Kant, người đề ra khẩu hiệu “Hãy dám biết!” cũng chính là
người dám đặt ra câu hỏi “thụt lùi” ấy! Và ông đặt cho lối tư duy tự-phê phán ấy
một tên gọi, có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ triết học hiện đại: tư duy siêu
nghiệm (transcendental). “Siêu nghiệm” cũng là vượt ra khỏi kinh nghiệm,
nhưng không phải bay bổng theo chiều đi lên như “siêu việt”, mà là đi xuống, đi
lùi lại, tự vấn. Cả hai đều bắt nguồn cùng một từ căn Latinh: transcendere: vượt
ra khỏi.
Quả thật, ta không thể triệt để trong câu hỏi “khách quan” nếu không đồng thời
triệt để trong câu hỏi “chủ quan”. Giữ một khoảng cách với thực tại trực tiếp và
với chính mình, trước sau vẫn là đòi hỏi tối thiểu trong tư duy triết học. Tuy
nhiên, nếu không quay lại với khởi điểm, nếu bỏ rơi kinh nghiệm về thực tại, mải
mê với “nguyên tắc”, triết học sẽ chỉ còn là sự viễn mơ, mất hết sức sống như
chàng dũng sĩ Achilles bị tách khỏi lòng đất mẹ. “Giữ khoảng cách” không đồng
nghĩa với “sống trên trời”.
Bùi Văn Nam Sơn