hiện trạng, tồn tại và giẢi phápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/chuong 7.pdf · chính...

33
115 Chương 7: Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp Chương 7: QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHáp 7.1. THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH 7.1.1. Thể chế, chính sách đã đi vào cuộc sống Trong nhiều năm qua, công tác quản lý CTR đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thể hiện bằng các chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994, Luật BVMT 2005, trong Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 1 , và cụ thể là trong Chiến lược quản lý CTR tại các đô thị và KCN ở Việt Nam năm 1999, nay được thay thế bằng Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR tới năm 2025 và tầm nhìn tới năm 2050 2 . Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR tới năm 2025 và tầm nhìn tới năm 2050 và Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 Các chiến lược này đã đặt ra các mục tiêu cụ thể có ý nghĩa định hướng cho các công tác quản lý CTR hiện nay (Phụ lục 2). Tuy nhiên, kết quả đạt được trên thực tế vẫn còn hạn chế so với yêu cầu của Chiến lược đề ra, các mục tiêu quản lý CTR đặt ra còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện cũng như hoàn thành mục tiêu. Theo đánh giá của Báo cáo môi trường quốc gia hàng năm, hầu hết các ch tiêu bảo vệ môi trường về CTR đã được xác định trong Chiến lược và trong Nghị định số 59/2007/NĐ-CP 3 đều không đạt (Bảng 7.1). 1 Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 2 Quyết định số 2149/2009/QĐ-TTg ngày 17/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về Quản lý chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn tới năm 2050. 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý chất thải rắn

Upload: vonga

Post on 01-Feb-2018

217 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

115

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

Chương 7:

QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHáp

7.1. THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH

7.1.1. Thể chế, chính sách đã đi vào cuộc sống

Trong nhiều năm qua, công tác quản lý CTR đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thể hiện bằng các chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994, Luật BVMT 2005, trong Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 20201, và cụ thể là trong Chiến lược quản lý CTR tại các đô thị và KCN ở Việt Nam năm 1999, nay được thay thế bằng Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR tới năm 2025 và tầm nhìn tới năm 20502.

Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR tới năm 2025 và tầm nhìn tới năm 2050 và Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020

Các chiến lược này đã đặt ra các mục tiêu cụ thể có ý nghĩa định hướng cho các công tác quản lý CTR hiện nay (Phụ lục 2). Tuy nhiên, kết quả đạt được trên thực tế vẫn còn hạn chế so với yêu cầu của Chiến lược đề ra, các mục tiêu quản lý CTR đặt ra còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện cũng như hoàn thành mục tiêu. Theo đánh giá của Báo cáo môi trường quốc gia hàng năm, hầu hết các chi tiêu bảo vệ môi trường về CTR đã được xác định trong Chiến lược và trong Nghị định số 59/2007/NĐ-CP3 đều không đạt (Bảng 7.1).

1 Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

2 Quyết định số 2149/2009/QĐ-TTg ngày 17/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về Quản lý chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn tới năm 2050.

3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý chất thải rắn

Page 2: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

116

Bảng 7.1. So sánh mức độ thực hiện các chỉ tiêu về quản lý CTR đã đặt ra đến năm 2010 trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia

Nguồn: Báo cáo Đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020,

Viện Chiến lược và Chính sách TN&MT, 2011.

STT Mục tiêuMục tiêu

đặt ra đến 2010

Mức độ thực hiện đến năm 2009 (%)

Ghi chúTheo báo cáo Bộ ngành

Theo khảo sát ở một số địa

phương

1.Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt, CN và dịch vụ các khu đô thị, các KCN, KCX

90 80-82 73,81- Bộ Xây dựng

- Số địa phương báo cáo: 28

2.

Tỷ lệ phân loại rác tại nguồn:

- Hộ gia đình

- Doanh nghiệp

30

70

-

-

7,32

56,19

- Số địa phương báo cáo: 30

- Số địa phương báo cáo: 22

3. Tỷ lệ khu dân cư có thùng đựng rác tập trung 80 - 54,1 - Số địa phương báo

cáo: 28

4. Tỷ lệ khu vực công cộng có thùng gom rác thải 80 - 64,8 - Số địa phương báo

cáo: 33

5. CTR tại các khu đô thị, KCN, KCX được xử lý đúng kỹ thuật MT 60 - 33,17 - Số địa phương báo

cáo: 24

6. Tỷ lệ chất thải y tế ở các bệnh viện được xử lý đúng kỹ thuật MT 100 90,9 - - Bộ Y tế

7.

Tỷ lệ CSSX xây dựng mới có công nghệ sạch hoặc thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn MT

100 - 75,24 - Số địa phương báo cáo: 29

8.

Tỷ lệ các CSSXKD được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc Chứng chi ISO 14001

50 - 6,65 - Số địa phương báo cáo: 15

Page 3: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

117

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

Chính sách áp dụng cơ chế quản lý 3R (Giảm thiểu, Tái sử dụng, Tái chế)

Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, đã xác định rõ những mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp từ nay cho đến năm 2020 đồng thời nêu rõ trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương trong việc triển khai phân loại CTR tại nguồn, giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế CTR. Hoạt động tái chế phế liệu có ý nghĩa rất to lớn về kinh tế - xã hội và môi trường. Những hoạt động này không những đem lại hiệu quả kinh tế trong thị trường tái chế chất thải mà còn đem lại nhiều việc làm cho người lao động, tạo ra sản phẩm hữu ích phục vụ đời sống, hơn nữa còn giảm lượng CTR phải đưa đi chôn lấp, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là diện tích sử dụng đất để quy hoạch xây dựng bãi chôn lấp.

Chính sách về xã hội hóa quản lý chất thải rắn sinh hoạt

Căn cứ theo Nghị định số 59/2007/NĐ-CP và Nghị định số 69/2008/NĐ-CP4, chính sách về xã hội hóa công tác quản lý CTR sinh hoạt cũng đã được ưu tiên phát triển ở cả cấp trung ương và địa phương. Trong đó, Chính phủ khuyến khích khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ vào công tác thu gom, vận chuyển và xử lý CTR. Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã cho thấy đây là một trong những chính sách rất phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay.

Khung 7.1. Quy định liên quan tới xã hội hóa trong quản lý CTR

- Nhà nước khuyến khích xã hội hóa công tác thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý chất thải rắn.

- Nhà nước khuyến khích xã hội hóa hoạt động đầu tư cho công tác thu gom, vận chuyển, xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn.

- Tổ chức, cá nhân có thể đầu tư để thành lập hợp tác xã, hộ kinh doanh hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật để thực hiện việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn tại khu vực điểm dân cư nông thôn, làng nghề chưa có dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn.

- Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư, xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn, các công trình phụ trợ thông qua các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư...

- Xã hội hóa trong công tác quản lý CTR tại các tinh/thành phố đã bắt đầu được đưa vào trong các văn bản địa phương về công tác quản lý CTR.

Nguồn: Nghị định 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý chất thải rắn.

4 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Thủ tướng

Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các

hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể

thao và môi trường.

Page 4: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

118

Chính sách phát triển công nghiệp và công nghệ xử lý CTR

Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR xác định công nghệ xử lý CTR tại Việt Nam sẽ được phát triển theo hướng giảm thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng. Quan điểm đặt ra là sử dụng công nghệ xử lý chất thải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Trong đó, ưu tiên áp dụng công nghệ tái chế, tái sử dụng CTR, hạn chế chôn lấp nhằm xử lý triệt để ô nhiễm môi trường và tăng hiệu quả sử dụng đất. Đối với CTR sinh hoạt, tùy điều kiện cụ thể mà các địa phương có thể áp dụng các công nghệ như chôn lấp hợp vệ sinh, chế biến phân compost, tái chế hoặc đốt. Đối với CTR công nghiệp và y tế, cần tập trung kết hợp nhiều quy trình công nghệ khác nhau như các công nghệ phụ trợ xử lý CTR công nghiệp nguy hại (phân loại và xử lý cơ học, xử lý hóa - lý), công nghệ khử khuẩn xử lý CTR y tế bị nhiễm khuẩn,... Chính phủ cũng đã có chính sách miễn thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho các dự án đầu tư cơ sở xử lý CTR, miễn giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp theo quy định, đồng thời ưu tiên lựa chọn các công nghệ hoàn chinh trong nước có khả năng xử lý triệt để CTR và có hiệu quả cao về kinh tế, kỹ thuật. Đặc biệt, ưu tiên sử dụng các công nghệ xử lý CTR khó phân hủy.

Ngày 25/05/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 798/QĐ-TTg phê duyệt chương trình đầu tư xử lý CTR giai đoạn 2011 - 2020 dành cho các dự án đầu tư xây dựng khu liên hợp, cơ sở xử lý CTR tại các địa phương trên cả nước do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước thực hiện với các mục tiêu cụ thể đặt ra đối với công tác thu gom, xử lý, tái chế và tái sử dụng CTR sinh hoạt đô thị, nông thôn, CTR công nghiệp

Page 5: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

119

và y tế. Đây cũng là cơ sở để Việt Nam từng bước cải thiện năng lực thu gom và xử lý CTR ở các địa phương.

Chính sách về thuế và phí BVMT đối với CTR

Các chính sách về thuế và phí BVMT đối với CTR cũng đã được ban hành thông qua các văn bản như Nghị định số 67/2011/NĐ-CP5 và Nghị định số 174/2007/NĐ-CP6.

Theo Nghị định số 67/2011/NĐ-CP, túi nilon thuộc diện chịu thuế (túi nhựa) quy định tại Khoản 4 Điều 3 của Luật Thuế bảo vệ môi trường, trừ bao bì đóng gói sẵn hàng hóa và túi nilon đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường theo quy định của Bộ TN&MT. Để thay đổi hành vi của người sử dụng, góp phần nhanh chóng giảm ô nhiễm môi trường từ những hành vi xả thải túi nilon đã qua sử dụng, Bộ Tài chính đề nghị mức thu Thuế BVMT với mặt hàng túi nilon là 40.000 đồng/kg.

Việc quy định mức thuế cao nhằm làm tăng giá bán, hạn chế việc phát miễn phí túi nilon, từ đó giảm dần việc sử dụng, góp phần thay đổi hành vi, thói quen sử dụng túi nilon của người tiêu dùng, dần dần chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế mà không ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình.

Theo Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007, CTR thông thường và CTR nguy hại phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ... (trừ CTR sinh hoạt từ các hộ gia đình) sẽ phải chịu phí BVMT, phần lớn nguồn thu từ phí BVMT đối với CTR sẽ được chi cho các hoạt động quản lý CTR tại địa phương.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CTR và chất thải nguy hại

Trong thời gian qua, các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT nói chung và quản lý, xử lý CTR nói riêng đã được ban hành cả ở cấp Trung ương và địa phương. Các quy định được điều chinh đối với các vấn đề như quản lý CTR, chất thải nguy hại; quy định về tái chế; nhập khẩu phế liệu; cơ sở hạ tầng quản lý chất thải; quy hoạch quản lý CTR, quy hoạch các công trình xử lý CTR; phí và lệ phí quản lý CTR, chế tài xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật và các TCVN, QCVN về môi trường (Phụ lục 3).

5 Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường.

6 Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với CTR

Page 6: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

120

Ở cấp địa phương, đặc biệt là một số tinh thuộc vùng KTTĐ phía Nam (Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu), là những địa phương có lượng phát thải chất thải công nghiệp và nguy hại lớn nhất, cũng đã triển khai những quy định tạm thời của địa phương mình về quản lý CTNH. Hầu hết các tinh đều đã có Quy hoạch tổng thể xây dựng bãi chôn lấp cho các đô thị cấp tinh.

7.1.2. Thể chế, chính sách chưa hoàn thiện và chưa được thực thi triệt để

Thể chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý CTR ở nước ta dù đã có những bước tiến bộ đáng ghi nhận, nhưng còn chưa đầy đủ, đồng bộ hoặc còn chồng chéo; chưa có một quy định thống nhất, toàn diện cho công tác quy hoạch quản lý CTR quốc gia.

Một số chính sách đã được ban hành nhưng cơ chế triển khai, các văn bản hướng dẫn vẫn còn thiếu dẫn đến việc triển khai không hiệu quả hoặc không thể đi vào thực tế. Vấn đề triển khai thực hiện chưa thực sự phát huy hiệu quả, thể hiện ở việc chưa đạt các chi tiêu môi trường đã đặt ra. Hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật quy định về một số vấn đề có tính then chốt đối với công tác quản lý CTR (bao gồm các vấn đề như nhân lực, bộ máy tổ chức, trình độ, các hướng dẫn kỹ thuật...) vẫn còn thiếu, dẫn đến các hoạt động quản lý CTR khó triển khai trong thực tế, đặc biệt đối với công tác quản lý CTNH.

Do không có một tổ chức đầu mối chung về quản lý CTR nên các văn bản, quy chuẩn quy phạm, quy định về quản lý CTR do nhiều Bộ ban hành. Hàng loạt các vấn đề chưa có các văn bản quy định cụ thể như: chưa có các quy định về danh mục CTR thông thường; quy định về điều kiện năng lực cho phép các tổ chức, cá nhân thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng, xử lý, tiêu hủy CTR thông thường; quy định thẩm định công nghệ xử lý CTR sinh hoạt do nước ngoài đầu tư. Ngoài ra, hiện nay cũng chưa có cơ quan chịu trách nhiệm tập trung quản lý thông tin, dữ liệu về quản lý CTR ở cấp trung ương, cũng như ở cấp địa phương.

Thêm vào đó, công tác kiểm tra, thanh tra thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế, các chế tài quy định về xử phạt đối với các hành vi vi phạm về BVMT đối với CTR còn chưa đủ sức răn đe, mức thi hành cưỡng chế có hiệu lực chưa cao dẫn đến hiệu quả quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Page 7: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

7.2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM

7.2.1. Hệ thống tổ chức và phân công trách nhiệm đang được kiện toàn và sự phân công tương đối cụ thể từ cấp Trung ương đến cấp địa phương

Cấp Trung ương

Ở cấp Trung ương, đã có sự phân công chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm đối với các bộ, ngành có liên quan đến công tác quản lý CTR. Trong đó, có 5 Bộ có trách nhiệm trực tiếp tham gia công tác quản lý CTR bao gồm: Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Bộ Xây dựng có trách nhiệm quy hoạch quản lý CTR cấp vùng, liên tinh, liên đô thị, vùng kinh tế trọng điểm; chủ trì phối hợp với các bộ, ngành khác trong việc xử lý CTR tại đô thị, khu sản xuất dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề và khu dân cư nông thôn.

Bộ Công thương có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về BVMT và các quy định khác có liên quan đối với lĩnh vực công nghiệp (trong đó bao gồm cả vấn đề về CTR công nghiệp); thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, hoạt động khuyến công, khu - cụm - điểm công nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương.

Bộ Y tế có trách nhiệm chi đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý chất thải y tế. Trách nhiệm của Bộ về quản lý chất thải chủ yếu là đánh giá tác động chất thải rắn đối với sức khoẻ con người, thanh tra, giám sát hoạt động xử lý chất thải bệnh viện.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có trách nhiệm chi đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về BVMT và các quy định có liên quan tới chất thải nông nghiệp; xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTR cho các điểm dân cư nông thôn và làng nghề.

Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý và bảo vệ môi trường nói chung, chịu trách nhiệm chính quản lý CTNH và phối hợp với các Bộ khác ban hành hướng dẫn, quy định, quy chuẩn về quản lý chất thải, xây dựng kế hoạch quản lý chất thải hàng năm và dài hạn, xây dựng chính sách và chiến lược, kế hoạch và phân bổ ngân sách nghiên cứu và phát triển cho các dự án xử lý chất thải và phê duyệt báo cáo ĐTM.

Các Bộ, ngành khác có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ trong công tác đầu tư tài chính, xây dựng các cơ chế ưu đãi về kinh tế để thúc đẩy hoạt động quản

121

Page 8: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

122

lý chất thải (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính), hướng dẫn tuyên truyền phổ cập về quản lý chất thải (Bộ Thông tin và Truyền thông) hay phối hợp với Bộ Xây dựng tổ chức thẩm định công nghệ xử lý CTR mới được triển khai (Bộ Khoa học và Công nghệ).

Ngoài ra, các bộ quản lý chuyên ngành còn có trách nhiệm xây dựng định hướng xã hội hóa công tác quản lý CTR, hướng dẫn các tiêu chí về quy mô tổ chức, tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động của các cơ sở thực hiện xã hội hóa.

Cấp địa phương

Ở cấp địa phương, các đơn vị được giao chức năng nhiệm vụ về quản lý CTR bao gồm:

Sở Xây dựng: chịu trách nhiệm về quản lý CTR sinh hoạt và các bãi chôn lấp rác thải gồm: giám sát việc thực hiện quy hoạch đô thị của tinh hoặc thành phố đã được Thủ tướng phê duyệt, tổ chức thiết kế và xây dựng các dự án chôn lấp rác thải theo tiêu chuẩn môi trường và xây dựng, hỗ trợ ra quyết định về các dự án cơ sở xử lý chất thải, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo và đề xuất quy hoạch các bãi chôn lấp rác thải, các cơ sở, nhà máy chế biến xử lý CTR phù hợp cho Ủy ban nhân dân cấp tinh để phê duyệt.

Sở Tài nguyên và Môi trường: có vai trò quan trọng trong quản lý chất thải, về giám sát chất lượng môi trường, quản lý và thực hiện các chính sách và quy định về quản lý chất thải do Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân cấp tinh ban hành, phê duyệt báo cáo ĐTM cho các dự án xử lý chất

Ghi chú: (*) CTR sinh hoạt nông thôn chưa có sự phân định rõ ràng giữa Bộ Xây dựng và Bộ NN&PTNT

(**) CTR làng nghề chưa có sự phân định rõ ràng giữa Bộ Công thương, Bộ Xây dựng và Bộ NN&PTNT

Hình 7.1. Sơ đồ hệ thống tổ chức quản lý CTR cấp trung ương

Page 9: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

123

thải, phối hợp với Sở Xây dựng xem xét và lựa chọn các bãi chôn lấp rác thải, sau đó đề xuất với Ủy ban nhân dân tinh phê duyệt bãi chôn lấp phù hợp nhất. Tuy nhiên, vai trò của Sở Xây dựng và Sở Tài nguyên và Môi trường trong quản lý CTR phụ thuộc vào tính chất và tổ chức của từng tinh thành và giữa chúng có thể có khác biệt.

Công ty Môi trường đô thị (URE-NCO): Ngoài các đơn vị quản lý nhà nước mang tính hành chính nói trên, Công ty môi trường đô thị là đơn vị dịch vụ công của nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải ở tinh hoặc thành phố. Và cũng tùy thuộc theo từng địa phương, URENCO có thể trực thuộc Sở Xây dựng hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường. Điển hình như Hà Nội, Hải Phòng và Thừa Thiên - Huế, URENCO trực thuộc sự quản lý của Sở Xây dựng; tại Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, URENCO lại trực thuộc quyền quản lý của UBND thành phố, Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý theo ngành dọc về mặt chuyên môn.

7.2.2. Phân công, phân nhiệm còn phân tán, chồng chéo và nhiều lỗ hổng

Theo đúng chức năng, nhiệm vụ đã được phân công cho các Bộ ngành (đã nêu ở trên), có thể thấy rõ sự phân tán, chồng chéo trong quản lý CTR ở cấp trung ương và địa phương, cụ thể:

Khung 7.2. Hệ thống quản lý nhà nước về CTR đô thị tại Tp. Hồ Chí Minh

__________: quan hệ trực tiếp

---------------: quan hệ gián tiếp

Mô hình tổ chức quản lý CTR đô thị tại Tp. Hồ Chí Minh đã cho thấy những hiệu quả tốt. Công ty TNHH một thành viên Môi trường đô thị (gọi tắt là URENCO) trực thuộc UBND Thành phố. Hiện nay, UBND Thành phố thực hiện việc chi đạo trực tiếp và điều phối hoạt động cũng như sự phối hợp giữa URENCO, Sở TN&MT (Phòng Quản lý CTR) và các Công ty công ích. Như vậy, có thể thấy công tác vệ sinh môi trường đô thị nói chung và quản lý CTR đô thị nói riêng được đưa về tập trung vào một đầu mối. Vì vậy, công tác điều phối và quản lý CTR được thống nhất và hiệu quả. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ thu gom và xử lý CTR đô thị của Tp. Hồ Chí Minh trong những năm qua luôn đạt 95%. Đây là một trong số ít địa phương có tỷ lệ thu gom và xử lý CTR hợp vệ sinh cao nhất trong cả nước.

Nguồn: Sở TN&MT Tp. Hồ Chí Minh, 2011.

Page 10: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

124

Về nguyên tắc, Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện thống nhất về BVMT, trong đó có quản lý chất thải. Tuy nhiên, việc xử lý CTR sinh hoạt, chất thải làng nghề theo quy định của Luật BVMT và các văn bản có liên quan là trách nhiệm của Bộ Xây dựng. Vấn đề quản lý CTR công nghiệp cũng chưa rõ trách nhiệm cụ thể thuộc Bộ Xây dựng hay Bộ Công thương. Việc quản lý CTR làng nghề không rõ trách nhiệm của Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay Bộ Công thương. Hay vấn đề quản lý CTR khu dân cư nông thôn đều được giao cho cả hai Bộ Xây dựng và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Chính từ sự chồng chéo trong chức năng quản lý của các Bộ, ngành, dẫn đến những chồng chéo trong việc triển khai các chương trình quản lý CTR ở cấp quốc gia.

Việc tổ chức quản lý CTR không chi thiếu thống nhất ở cấp trung ương mà còn ở cấp địa phương. Theo Nghị định số 81/2007/NĐ-CP7 thì chức năng quản lý nhà nước về BVMT nói chung (bao gồm quản lý chất thải) ở cấp địa phương được giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, theo Nghị định số 13/2008/NĐ-CP8 thì chức năng quản lý nhà nước về CTR sinh hoạt đô thị lại chuyển sang Sở Xây dựng. Chính vì vậy, ở mỗi địa phương chức năng quản lý CTR được giao cho các đơn vị khác nhau. Điển hình như tại Hà Nội, Hải Phòng, Huế... công tác quản lý CTR được giao cho Sở Xây dựng. Nhưng tại Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, công tác này lại do UBND tinh, thành phố chịu trách nhiệm (trước đây giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường). Chính do sự không thống nhất đầu mối quản lý CTR tại nhiều địa phương đã khiến cho công tác quản lý CTR ở Trung ương cũng không thống nhất.

Khung 7.3. Chồng chéo trong hệ thống quản lý CTR dẫn đến chồng chéo khi triển

khai thực hiện các chương trình

Trong danh mục các chương trình thực hiện Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR, căn cứ theo chức năng nhiệm vụ được phân công về CTR, các bộ, ngành đều được giao chủ trì thực hiện các chương trình tương ứng, cụ thể:

- “Chương trình thúc đẩy phòng ngừa, giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng chất thải rắn” và “Thúc đẩy phân loại chất thải rắn tại nguồn” do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì;

- “Chương trình đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn cấp vùng” và “Xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị giai đoạn 2009 - 2020” do Bộ Xây dựng chủ trì;

- “Chương trình tăng cường quản lý chất thải rắn nông thôn, làng nghề” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì.

- “Chương trình xử lý chất thải rắn y tế trong giai đoạn 2009 - 2025” do Bộ Y tế chủ trì.

Nguồn: Tổng cục Môi trường tổng hợp, trích từ Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR đến năm 2025,

tầm nhìn đến 2050, 2011.

7 Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/5/2008 của Chính phủ quy định tổ chức, bộ phân chuyên môn về BVMT tại các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.

8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/2/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tinh, thành phố trực thuộc trung ương.

Page 11: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

125

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

Công tác quản lý CTR sinh hoạt tại các đô thị vẫn chủ yếu được thực hiện bởi các Công ty dịch vụ công hay dịch vụ công ích của Nhà nước. Hoạt động của các đơn vị này còn manh mún, khép kín trong địa giới hành chính, phân tán, không đủ năng lực (cả về nhân lực và phương tiện, thiết bị). Hơn nữa với mô hình quản lý hiện nay phổ biến mang tính riêng biệt từng đô thị, chưa có sự gắn kết hợp tác giải quyết các vấn đề mang tính liên vùng, liên tinh. Ở mỗi địa phương, URENCO lại trực thuộc các đơn vị quản lý khác nhau (Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Ủy ban nhân dân tinh, thành phố) dẫn tới không có đơn vị đầu mối thống nhất, công tác quản lý CTR khó tìm được tiếng nói chung.

7.3. QUY HOẠCH THEO VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG

7.3.1. Đã có các quy hoạch theo vùng

Đối với vấn đề lập quy hoạch công trình xử lý CTR, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1440/2008/QĐ-TTg9 và Quyết định số 1873/2010/QĐ-TTg10 quy hoạch 8 khu xử lý CTR liên vùng, liên tinh (Bảng 7.2) cho 4 vùng KTTĐ nhằm đảm bảo xử lý triệt để, tái chế, tái sử dụng chất thải, hạn chế chôn lấp, nâng cao hiệu quả công tác xử lý CTR.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xây dựng mô hình xử lý CTR liên vùng, liên tinh là không phù hợp đối với công tác quản lý CTR đô thị mà chi phù hợp với công tác quản lý CTNH. Hiện nay, công tác quản lý CTNH chưa mang tính vùng và cũng chưa có những giải pháp quản lý phù hợp. Chính vì vậy, cần xem xét, đánh giá, điều chinh các quy định đối với việc quy hoạch các khu xử lý CTR liên vùng, chi khoanh lại đối với loại hình CTNH.

9. Quyết định số 1440/2008/QĐ-TTg ngày 06/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch xây dựng khu xử lý CTR 3 vùng KTTĐ Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2020;

10. Quyết định số 1873/2010/QĐ-TTg ngày 11/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch xây dựng khu xử lý CTR vùng KTTĐ vùng ĐBSCL.

Page 12: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

126

TT Tên khu xử lý Địa điểm

Quy mô (ha)/Vốn đầu tư (tỷ đồng) theo quy

hoạch

Phạm vi phục vụ

I Vùng KTTĐ Bắc Bộ

1. Khu xử lý Nam Sơn Xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội

140 - 160 ha

2.592 tỷ đồng

- Liên tinh Thủ đô Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên đối với CTR công nghiệp;

- Vùng Tp. Hà Nội đối với CTR sinh hoạt.

2. Khu xử lý Sơn Dương

Xã Sơn Dương, huyện Hoành Bồ, Quảng Ninh

100 ha

1.102 tỷ đồng

- Liên tinh Quảng Ninh, Tp. Hải Phòng, Hải Dương với CTR công nghiệp;

- Vùng tinh Quảng Ninh với CTR sinh hoạtII Vùng KTTĐ miền Trung

3. Khu xử lý Hương Văn

Xã Hương Văn, huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế

40 ha

494 tỷ đồng

- Liên tinh Thừa Thiên Huế và Tp. Đà Nẵng đối với CTR công nghiệp;

- Vùng tinh Thừa Thiên Huế với CTR sinh hoạt

4. Khu xử lý Bình Nguyên

Xã Bình Nguyên, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi

70 ha

1.061 tỷ đồng

- Liên tinh Quảng Nam, Quảng Ngãi đối với CTR công nghiệp;

- Vùng tinh Quảng Ngãi đối với CTR sinh hoạt.

5. Khu xử lý Cát Nhơn Xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát, Bình Định

70 ha

891 tỷ đồng

- Liên tinh Bình Định và một số tinh phía Nam, phía Tây Bình Định đối với CTR công nghiệp;

- Vùng tinh Bình Định đối với CTR sinh hoạt.

III Vùng KTTĐ phía Nam

6. Khu liên hợp xử lý Tân Thành

Xã Tân Thành, huyện Thủ Thừa, Long An

1.760 ha

3.078 tỷ đồngLiên tinh Long An, Tp. Hồ Chí Minh đối với CTR sinh hoạt và công nghiệp

7.Khu xử lý CTR công nghiệp nguy hại Tây Bắc Củ Chi

Huyện Củ Chi, Hồ Chí Minh

100 ha

470 tỷ đồng

Liên tinh Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Tây Ninh đối với CTR công nghiệp nguy hại.

IV Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL

8.Khu xử lý CTR vùng liên tinh và 5 Khu xử lý CTR vùng tinh

Khu xử lý vùng liên tinh: Cà Mau;

Khu xử lý CTR vùng tinh: huyện Châu Thành, An Giang; huyện Hòn Đất, Kiên Giang; quận Ô Môn, huyện Thới Lai, Tp. Cần Thơ; phía Bắc Tp. Cà Mau

Khu xử lý CTR vùng liên tinh: 20 ha;

5 Khu xử lý CTR vùng tinh: 367 ha

- Liên tinh: Tp. Cần Thơ, tinh An Giang, tinh Kiên Giang và Cà Mau đối với chất thải nguy hại;

- Vùng tinh: Tp. Cần Thơ, tinh An Giang, tinh Kiên Giang và Cà Mau đối với CTR sinh hoạt, công nghiệp và y tế thông thường.

Bảng 7.2. Quy hoạch khu xử lý CTR cấp vùng cho các vùng KTTĐ

Nguồn: Theo Quyết định số 1440/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 1873/2010/QĐ-TTg

Page 13: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

127

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

7.3.2. Thiếu các quy hoạch của địa phương

Hầu hết các địa phương chưa xây dựng quy hoạch quản lý CTR. Hiện nay chi có một vài địa phương lập quy hoạch quản lý CTR như Tp. Hồ Chí Minh, Bình Định, Đắc Lắk, Quảng Ninh.

Một vài địa phương khác mới dừng ở mức Quy hoạch hệ thống thu gom, xử lý CTR như Thừa Thiên - Huế hoặc đề xuất các biện pháp quản lý môi trường cho tinh như Long An. Nội dung chủ yếu vẫn chi xoay quanh vấn đề lựa chọn vị trí bãi chôn lấp/khu xử lý, chưa xây dựng được một quy hoạch quản lý tổng thể CTR. Chính việc thiếu quy hoạch tổng thể quản lý CTR dẫn đến các địa phương thiếu căn cứ triển khai các dự án, chương trình cụ thể.

Nhằm cung cấp hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ các đô thị có thể dễ dàng triển khai công tác lập quy hoạch quản lý chất thải rắn cho địa phương, năm 2010, Bộ Xây dựng đã ban hành tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về quy hoạch quản lý CTR cho các đô thị Việt Nam11.

Bộ Xây dựng cũng đang triển khai xây dựng quy chuẩn quy hoạch quản lý CTR, quy chuẩn quy hoạch xây dựng cơ sở xử lý CTR; Bộ Y tế cũng đang trình Chính phủ ban hành Quy hoạch quản lý CTR y tế... nhằm tạo căn cứ cho việc lập và triển khai quy hoạch quản lý CTR và quy hoạch xây dựng công trình xử lý CTR tại các địa phương; tạo cơ sở cho việc triển khai tổ chức thực hiện quy hoạch.

11 Tài liệu được soạn thảo với sự hỗ trợ của Hợp phần “Phát triển bền vững môi trường trong các khu đô thị nghèo” (SDU)- một hợp phần của chương trình hợp tác phát triển Việt Nam - Đan Mạch về môi trường (2005-2010).

Page 14: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

128

Việc lựa chọn địa điểm công trình xử lý CTR cho các đô thị được thực hiện lồng ghép trong quy hoạch xây dựng đã có từ lâu. Tuy nhiên, việc lập luận chứng lựa chọn địa điểm các bãi chôn lấp tại các đô thị cũng hết sức đơn giản, thiếu căn cứ khoa học và chi là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên liên quan nên các địa phương gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn địa điểm bãi chôn lấp theo Thông tư 01/2001/TTLT-KHCNMT-BXD. Nguyên nhân là do các quy định hết sức nghiêm ngặt trong khi không đưa ra lộ trình thực hiện và phân loại theo cấp đô thị cũng như đặc điểm tự nhiên và kinh tế-xã hội từng vùng, miền. Chính vì vậy tại một số đô thị Việt Nam, vị trí các bãi chôn lấp được quy hoạch đặt ở vị trí không phù hợp như bãi rác Tràng Cát (Hải Phòng), bãi rác Tp. Vinh (Nghệ An)...

Trong những năm gần đây, thành công của một số nhà máy xử lý rác thải theo công nghệ trong nước với những ưu điểm như tiết kiệm diện tích đất, không cần diện tích dành cho bãi chôn lấp rác với quy mô lớn... đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn địa điểm và quy hoạch xây dựng khu xử lý do không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Tuy nhiên, việc triển khai nhân rộng còn gặp nhiều khó khăn do vốn đầu tư còn hạn chế, tính đồng bộ và mức độ hiện đại hóa chưa cao, các công nghệ xử lý CTR chưa được sản xuất ở quy mô công nghiệp. Vì vậy, vấn đề này cũng cần được ưu tiên xem xét trong các quy hoạch xây dựng các nhà máy xử lý rác tại các địa phương.

Một vấn đề cần quan tâm khác, đó là quy hoạch quản lý CTR chưa đề cập tới quy hoạch, quản lý các bãi chôn lấp CTR đã đóng cửa. Hiện nay, phần lớn các bãi rác đã đóng cửa vẫn đang tiếp tục gây ô nhiễm môi trường. Nguyên nhân là do trước đây, các bãi rác này đều là những bãi chôn lấp không hợp vệ sinh. sau khi đã đóng cửa các bãi chôn lấp quyền quản lý được giao cho cơ quan hành chính, không đủ chức năng giám sát, kiểm soát và xử lý ô nhiễm nên vẫn là những điểm nóng, gây ô nhiễm môi trường khu vực xung quanh.

7.4. SỰ THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

7.4.1. Sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước đã mang lại những đóng góp không nhỏ

Ở hầu hết các địa phương, Công ty môi trường đô thị (URENCO) là doanh nghiệp nhà nước, chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lý, thu gom và xử lý CTR đô thị của địa phương. Tùy thuộc theo quy định của từng địa phương, chức năng nhiệm vụ của URENCO có thể được quy định khác nhau. URENCO có thể chịu trách nhiệm thực hiện toàn bộ hoạt động quản lý CTR hoặc chi chuyên trách một số công đoạn như chuyên vận chuyển hoặc chuyên xử lý...

Ngoài URENCO, tham gia công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải ở các địa phương còn có các đơn vị khác dưới hình thức là các Công ty nhà

Page 15: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

129

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

nước (toàn phần hoặc một phần), Công ty cổ phần, hay các Hợp tác xã hoặc Xí nghiệp môi trường trực thuộc UBND các quận, huyện.

Chính sự tham gia tích cực của khối các đơn vị này đã giúp cho công tác quản lý CTR đô thị đạt được hiệu quả khá tốt trong những năm gần đây. Hai ví dụ điển hình được minh chứng tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh.

Đối với Tp. Hà Nội, công tác thu gom vận chuyển CTR do Công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường đô thị quản lý chung. Công ty chịu trách nhiệm thu gom phần lớn lượng CTR của thành phố, còn lại là các đơn vị môi trường đô thị của các quận, huyện và các hợp tác xã vận tải công nông thu gom. Tỷ lệ tham gia vào công tác thu gom vận chuyển chất thải sinh hoạt giữa các thành phần tư nhân và nhà nước ở Tp. Hà Nội đang dần được cải thiện theo hướng sẽ giảm sức ép đến URENCO và tăng hiệu quả quản lý CTR của tư nhân.

Đối với Tp. Hồ Chí Minh, vấn đề điều phối, quản lý trực tiếp hoạt động thu gom, vận chuyển, trung chuyển và xử lý CTR đô thị do Công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường đô thị chịu trách nhiệm. Đối với công tác thu gom bao gồm: Hệ thống chính qui gồm Công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường đô thị và 22 Công ty TNHH nhà nước một thành viên Dịch vụ Công ích quận - huyện thực hiện (riêng quận Tân Phú và Bình Tân là hai quận mới thành lập không có Công ty dịch vụ công ích); Hệ thống phi chính quy do lực lượng thu gom CTR dân lập thực hiện. Trong đó, 40% tỷ lệ thu gom do nhóm công ty dịch vụ công ích nhà nước, 60% còn lại do hệ thống thu gom CTR dân lập và Hợp tác xã thực hiện. Đối với hoạt động trung chuyển và vận chuyển do 3 đơn vị cùng thực hiện: Công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường

Page 16: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

130

đô thị (53%), công ty TNHH nhà nước một thành viên Dịch vụ Công ích một số quận huyện (30%), và HTX Công Nông (17%).

7.4.2. Các doanh nghiệp nhà nước chưa được đầu tư đầy đủ

Mặc dù, khối lượng doanh nghiệp nhà nước tham gia công tác quản lý hiện nay là tương đối lớn nhưng nguồn nhân lực tại các đơn vị này chủ yếu là công nhân thu gom và lái xe, chiếm trên 70% nguồn nhân lực của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, trình độ, năng lực của khối công nhân thu gom hiện tại mới chi đáp ứng được các công nghệ thu gom thủ công. Đội ngũ cán bộ quản lý tại các đơn vị chủ yếu là các cán bộ công tác lâu năm, có kinh nghiệm. Lực lượng cán bộ được đào tạo cơ bản về chuyên môn quản lý môi trường còn thiếu. Để từng bước hội nhập với phương pháp quản lý tổ chức và kỹ thuật môi trường hiệu quả, việc đào tạo nâng cao năng lực cho khối công nhân thu gom và các cán bộ đang thực hiện công tác quản lý tại các doanh nghiệp song song với việc tạo điều kiện hoặc tuyển mới các cán bộ được đào tạo cơ bản cho các vị trí quản lý của đơn vị là cần thiết.

7.5. SỰ THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ CỘNG ĐỒNG

7.5.1. Khối doanh nghiệp tư nhân đã có những bước tiến đáng kể

Chính sách xã hội hoá công tác quản lý CTR (bao gồm các hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý CTR) đã được thực hiện ở nhiều thành phố, nơi mà CTR đô thị là một trong những vấn đề ưu tiên của chính quyền địa phương. Cùng với chính sách này, số lượng các công ty cũng như lĩnh vực mà các công ty này tham gia vào trong quản lý CTR đang ngày càng được mở rộng. Bên cạnh công tác thu gom CTR, các công ty tư nhân cũng đã tham gia vào lĩnh vực vận chuyển và xử lý CTR. Ngoài ra, có thể kể đến một số doanh nghiệp tư nhân đã thực hiện thành công và đem lại nhiều hiệu quả và lợi ích cho cộng đồng trong vận chuyển và xử lý CTR sinh hoạt đô thị như: Công ty TNHH Huy Hoàng ở Tp. Lạng Sơn; Công ty TNHH Môi trường Đông Phương ở Tp. Buôn Ma Thuột; Công ty Cổ phần Công nghiệp Cẩm phả và Tổng công ty An Lạc Viên INDEVCO ở Quảng Ninh... Ở khu vực nông thôn, cũng đã hình thành các tổ đội, hợp tác xã thu gom, vận chuyển CTR sinh hoạt nông thôn.

Tp. Hồ Chí Minh được coi là một trong hai thành phố đi đầu trong cả nước về xã hội hóa công tác thu gom vận chuyển chất thải. Ngoài hệ thống chính quy (Công ty TNHH một thành viên Môi trường đô thị của thành phố, các công ty dịch vụ công ích) thực hiện công tác quản lý CTR đô thị, hệ thống phi chính quy do lực lượng thu gom CTR dân lập thực hiện, bao gồm các cá nhân thu gom rác, khoảng 30 nghiệp đoàn thu gom; 05 Hợp tác xã thu gom (quận 2, quận 4, quận 6, quận Gò Vấp, Thủ Đức). Hệ thống này đã thực hiện việc thu gom 60% tổng lượng CTR đô thị. Kết quả cho thấy, tuy tổng lượng phát sinh CTR của thành phố

Page 17: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

131

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

là rất lớn (5.128 tấn/ngày) nhưng Tp. Hồ Chí Minh vẫn đạt tỷ lệ thu gom rất cao (95%).

Mô hình nêu trên đã được Tp. Hồ Chí Minh triển khai từ năm 2003 dưới hình thức xã hội hóa hoàn toàn bằng vốn doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chính nhờ có sự tham gia của các nhóm đơn vị với sự quản lý và điều phối thống nhất từ cấp chính quyền đến cơ sở, nên công tác quản lý CTR đã đạt được những kết quả tốt, có thể là mô hình quản lý tham khảo cho các địa phương khác.

Ở Hà Nội, ngoài Công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường đô thị (UREN-CO Hà Nội) chịu trách nhiệm thu gom, vận chuyển chất thải sinh hoạt đô thị, còn có một số công ty tư nhân như: Công ty Cổ phần dịch vụ môi trường Thăng Long; Công ty cổ phần Tây Đô; Công ty cổ phần Xanh; Hợp tác xã Thành Công v.v...

Tại Huế và Đà Nẵng, khu vực tư nhân tham gia vào thu gom CTR chủ yếu tại vùng nông thôn. Họ thường tổ chức các đội nhỏ và liên lạc với UBND cấp xã hoặc cấp huyện.

7.5.2. Sự tham gia của cộng đồng đã có kết quả bước đầu

Trong những năm gần đây, phương thức quản lý môi trường dựa vào cộng đồng đã được nhiều dự án quan tâm và thực hiện, đặc biệt quản lý CTR với cách tiếp cận dựa vào cộng đồng. Khi người dân được tham gia trực tiếp vào các bước trong dự án, được chủ động đưa ra các đề xuất, được giám sát quá trình thực hiện và là những người trực tiếp hưởng lợi thành quả của dự án, họ sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động quản lý môi trường. Sự tham gia của cộng đồng làm tăng sự đồng thuận và niềm tin của nhân dân đối với các quyết định của chính quyền, tăng cường vai trò của cộng đồng địa phương và tăng cường

Khung 7.4. Xã hội hóa xử lý rác tại Tp. Hồ Chí Minh

Theo thống kê sơ bộ, trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh mỗi ngày có khoảng hơn 5.000 tấn rác thải. Để giảm bớt áp lực rác thải, từ năm 2003, Tp. Hồ Chí Minh bắt đầu thực hiện công tác xã hội hóa về thu gom, xử lý rác thải trên toàn thành phố. Hiện thành phố đang thu hút nhiều dự án lớn đầu tư vào lĩnh vực thu gom và xử lý rác thải. Trong đó, dự án tái chế rác thải của Công ty Vi-etstar đạt công suất 1.200 tấn/ngày; dự án của Công ty Tâm Sinh Nghĩa và Tasco đang trong quá trình hoàn thiện. Đặc biệt, Dự án Khu liên hợp CTR Đa Phước do Công ty TNHH Xử lý CTR Việt Nam (VWS) có công suất xử lý 3.000 tấn/ngày với những hạng mục tái chế thành phân compost hiện đại. Các nhà máy xử lý CTR này đều có công nghệ hiện đại, có khả năng tái chế, tái sinh năng lượng, thân thiện với môi trường... Theo dự báo của Sở Tài nguyên và Môi trường Tp. Hồ Chí Minh thì chi trong một thời gian ngắn, khi các nhà máy này đi vào hoạt động ổn định thì cơ bản lượng rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp trên địa bàn sẽ được xử lý triệt để.

Nguồn: Báo Nhân dân, 26/05/2011.

Page 18: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

132

tính dân chủ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến xả thải chất thải.

7.5.3. Xã hội hóa còn yếu

Tuy Đảng và Nhà nước từ lâu đã có chủ trương xã hội hóa công tác BVMT, trong đó có xã hội hóa công tác quản lý CTR, nhưng thực tế còn thiếu nhiều văn bản và cơ chế để cụ thể hóa chủ trương này, nhất là việc ban hành cơ chế, hướng dẫn ở cấp địa phương. Đặc biệt là chưa có chế tài phù hợp đối với công tác xã hội hóa, tư nhân hóa đối với hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý CTR. Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh nghiệp của các địa phương không muốn tư nhân hóa, mà chi muốn duy trì hình thức là công ty công ích của nhà nước và độc quyền quản lý CTR.

Vấn đề nảy sinh cả từ phía cộng đồng và chính quyền. Nhận thức và năng lực của cộng đồng chưa đảm bảo để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong công tác quản lý môi trường nói chung và quản lý CTR nói riêng, đặc biệt là ở các khu vực tập trung đông dân nghèo. Người dân vẫn còn tư tưởng “thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải là trách nhiệm của các nhà quản lý, cấp chính quyền”. Ý thức của người dân đối với công tác quản lý CTR, giữ gìn vệ sinh công cộng còn rất thấp. Người dân thường xả rác ra đường, cống rãnh, đặc biệt là hiện tượng đổ trộm CTR xây dựng ra bờ sông, các khu vực công cộng... dẫn đến tình trạng ngập úng khi có mưa to, và cũng gây ra những tác động tiêu cực đến vệ sinh môi trường và cảnh quan đô thị. Về phía các nhà quản lý, còn thiếu các văn bản quy định phù hợp nhằm thu hút sự tham gia của các đoàn thể, quần chúng và toàn xã hội, chưa triển khai nhiều các chương trình huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý CTR.

Khung 7.5. Thôn Tảo Phú (xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) xử lý rác thải

thành phân bón hữu cơ

Năm 2008, Vĩnh Phúc đã xây dựng thí điểm mô hình thu gom, xử lý rác thải chế biến phân bón hữu cơ với tổng diện tích 1.000 m2 đặt tại thôn Tảo Phú, xã Tam Hồng (xa khu dân cư). UBND tinh và xã đã hỗ trợ cho thôn 600 triệu xây dựng 3 bể chứa rác hữu cơ và các trang thiết bị thu gom, xử lý rác; mời chuyên gia về mở 3 lớp tập huấn cho bà con phân loại rác tại nguồn. Bình quân một tháng lượng rác thải ở thôn Tảo Phú có 15 tấn rác hữu cơ, 4 tấn rác vô cơ. Toàn bộ rác hữu cơ được dùng để chế biến phân bón hữu cơ, còn rác vô cơ đổ ra bãi rác rất ít.

Thôn Tảo Phú cũng đã thành lập tiểu ban thực hiện việc thu gom, xử lý rác, chế biến phân hữu cơ gồm 12 thành viên đại diện cho 500 hộ dân. Ban chi đạo xây dựng kế hoạch vệ sinh môi trường và thông qua các hội nghị Chi bộ Đảng, các ban ngành đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng. Các gia đình được tham gia bàn bạc dân chủ, công khai về hoạt động vệ sinh môi trường của thôn nên 100% các hộ đều tự nguyện tham gia phân loại rác tại nguồn. Ngoài tổ vệ sinh thu gom rác của thôn, các xóm đều tổ chức làm vệ sinh hàng tuần, thường xuyên khơi thông cống rãnh nên đường làng, ngõ xóm luôn sạch sẽ. Loại phân hữu cơ này đang được người dân nơi đây dùng bón cho các loại rau ngắn ngày, các loại hoa, cây cảnh.

Nguồn: Báo Lao động, 20/09/2009.

Page 19: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

133

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

Mặt khác, nguồn ngân sách của địa phương trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và BVMT ở cấp cơ sở còn ít. Để đảm bảo tính bền vững trong công tác BVMT với sự tham gia của cộng đồng đối với các công trình dịch vụ công, trong một số trường hợp cần có sự hợp tác của người dân (người thụ hưởng) trong việc chia sẻ đóng góp chi trả các dịch vụ môi trường. Tuy nhiên, tại các khu vực đông dân nghèo, việc thực hiện chi trả này còn rất thấp; không đủ khuyến khích và cải thiện thu nhập của những người tham gia công tác BVMT, ảnh hưởng tới khả năng duy trì dịch vụ.

Vấn đề vận động cộng đồng tham gia công tác BVMT cũng là một trở ngại không nhỏ, đặc biệt nếu trong điều kiện người lao động kiếm sống bằng các công việc nặng nhọc thì thời gian dành cho sự tham gia dự án là hết sức hạn chế. Giải pháp bù đắp thời gian làm việc của người dân bằng một khoản tài chính nhỏ (từ nhà tài trợ) nhằm kích thích sự tham gia của cộng đồng chi mang tính tạm thời, không bền vững.

7.6. THANH TRA, KIỂM TRA, XỬ LÝ VI PHẠM

7.6.1. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đã trở thành một công cụ hữu ích tuy nhiên nguồn lực còn hạn chế

Hàng năm, theo chức năng nhiệm vụ, từ cấp Trung ương đến địa phương, vẫn tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra tình hình tuân thủ quy định pháp luật BVMT nói chung và công tác quản lý CTR nói riêng. Tuy nhiên, do lực lượng cán bộ thanh tra, giám sát môi trường từ cấp Bộ đến các địa phương còn rất mỏng, không đủ người, không đủ thiết bị cần thiết nên công tác này đã gặp không ít các khó khăn khi giải quyết các vấn đề thực tế. Đây cũng là một thách thức đối với công tác quản lý CTR.

Khung 7.6. Tình hình triển khai xử lý triệt để các bãi rác và điểm chứa chất thải nguy

hại theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg tính đến giữa năm 2011

- 25/52 bãi rác không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chiếm 48,1%; 27 bãi rác còn lại đang triển khai xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm 51,9%.

- 12/15 kho thuốc bảo vệ thực vật cơ bản không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, chiếm 80%; 03 kho thuốc bảo vệ thực vật đang triển khai xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm 20%.

- Trong tổng số 04 điểm tồn lưu chất độc hoá học trong chiến tranh (01 kho bom, 01 điểm tồn lưu CS, 02 điểm tồn lưu đioxin), có 02 điểm (gồm 01 kho bom, 01 điểm tồn lưu CS) đã được cấp quyết định chứng nhận hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm 50%; 02 điểm tồn lưu chất độc hoá học (đioxin) đang triển khai xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm 50%.

Nguồn: Báo cáo, đánh giá tình hình thực hiện Quyết định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, Bộ TN&MT, 2011.

Page 20: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

134

Trong những năm qua, công tác thanh tra, giám sát tập trung vào các vấn đề môi trường bức xúc, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg, công tác BVMT của các doanh nghiệp trong các khu kinh tế, KCN và làng nghề, vấn đề nhập khẩu phế liệu trái với quy định theo Quyết định 03/2004/QĐ-BTNMT.

Ở cấp địa phương, công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm cũng được củng cố và tăng cường qua các năm. Việc xử lý những vi phạm hành chính đối với những vi phạm quy định trong quản lý CTR ở nhiều địa phương cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về công tác quản lý CTR ở nhiều cơ sở sản xuất, đặc biệt là đối với chất thải nguy hại.

7.6.2. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa ngăn chặn gia tăng nhập khẩu trái phép phế liệu

Để được phép nhập khẩu phế liệu, doanh nghiệp có cơ sở sản xuất trực tiếp sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế phải đáp ứng được quy định rất chặt chẽ: bảo đảm không để thất thoát phế liệu và không phát tán các tạp chất đi kèm ra môi trường xung quanh; phải có giải pháp, hệ thống xử lý hoặc phương án thuê đơn vị có đủ điều kiện kỹ thuật để xử lý; bảo đảm thiết bị, công nghệ tái chế, tái sử dụng phế liệu và hệ thống xử lý các chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh; Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ các quy định về BVMT đối với các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu và cấp xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu có giá trị trong 12 tháng; Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan Hải quan cho phép nhập khẩu. Tuy nhiên, bên cạnh những quy định chặt chẽ trong hoạt động nhập khẩu phế liệu nói trên, các doanh nghiệp thường không chấp hành nghiêm túc.

Khung 7.7. Xử lý vi phạm hành chính trong quản lý và xử lý CTNH tại tỉnh Thái Nguyên

Trong thời gian gần 2 năm (2009 - 2010), chi tính riêng việc xử lý vi phạm trong quản lý CTNH, Thái Nguyên đã tiến hành xử lý 18 đơn vị vi phạm với tổng số tiền là 231 triệu đồng. Các vi phạm chủ yếu là quản lý CTNH không đúng quy định về BVMT, không có sổ đăng ký chủ nguồn thải CTNH, quản lý CTR sinh hoạt không đúng quy định...

Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái, cảnh quan LVS Cầu - Tỉnh Thái Nguyên, Sở TN&MT Thái Nguyên, 2011.

Page 21: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

135

Theo thống kê của Cục Cảnh sát Môi trường từ năm 2007 đến hết năm 2010, các cơ quan chức năng đã điều tra, phát hiện 2.575 vụ vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường, trong đó có trên 200 vụ việc vi phạm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, chủ yếu nhập chất thải nguy hại, rác thải công nghiệp. Cơ quan chức năng đã phạt tiền, truy thu phí bảo vệ môi trường trên 142 ti đồng; buộc tái xuất và tiêu hủy 325 tấn rác thải, 3.150 tấn nhựa phế liệu, hơn 10.000 tấn thép phế liệu và gần 6.200 tấn ắc-quy chì phế thải.

Nhập khẩu phế liệu đang trở thành một vấn đề lớn. Khối lượng phế thải bị buộc tiêu hủy và số vụ vi phạm trong xuất nhập khẩu phế thải được phát hiện chi là một con số nhỏ so với thực tế. Điều này đã làm gia tăng gánh nặng cho xử lý và tiêu hủy CTR hiện nay. Chẳng hạn, nếu so sánh con số 6.200 tấn ắc-quy chì phế thải nhập khẩu bị buộc tiêu hủy với số liệu 40.000 tấn ắc-quy chì thải xử lý hàng năm của Việt Nam thì đây hoàn toàn là một con số không nhỏ. Vấn đề không còn đơn thuần là tác động xấu của rác thải phế liệu nhập khẩu đối với môi trường, mà đã trở nên nóng hơn khi tạo ra dư luận xấu đối với công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra CTR, thậm chí đã có những nhận định rằng “Việt Nam đang dần trở thành bãi thải phế liệu của nhiều nước”.

Trước thực trạng này, Sở Tài nguyên và Môi trường các địa phương và các cơ quan liên quan cần siết chặt quản lý các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu, không cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu về phế liệu khi các nhà máy luyện thép chưa đáp ứng được các quy định về xử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường, đồng thời phải tăng cường giám sát các hoạt động xử lý chất thải của các đơn vị này. Nếu phát hiện vi phạm phải kiên quyết thu hồi Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu, đồng thời thông báo cho Hải quan không cho phép nhập phế liệu cho đến khi khắc phục, xử lý chất thải đảm bảo đúng theo quy định.

7.7. ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH

7.7.1. Nguồn tài chính đầu tư đa dạng

Trong những năm qua, với mức độ khác nhau, các đô thị, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã có đầu tư cho công tác quản lý CTR. Một số đô thị đã có những dự án lớn sử dụng nguồn vốn ODA, nguồn vốn ngân sách để thực hiện các dự án phân loại rác từ nguồn, thu gom và xử lý CTR.

Nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTR và các công trình phụ trợ được hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, vốn tài trợ của nước ngoài, vốn vay dài hạn và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư, xây dựng cơ sở xử lý CTR, các công trình phụ trợ thông qua các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư như: miễn tiền sử dụng đất, hỗ trợ chi phí

Page 22: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

136

đền bù giải phóng mặt bằng; được hưởng chính sách miễn thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho các dự án đầu tư cơ sở xử lý CTR; hỗ trợ nghiên cứu và phát triển công nghệ tái chế, tái sử dụng và xử lý CTR trên cơ sở nguồn lực trong nước...`

Ngoài ra, nguồn huy động vốn từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam cũng được kể đến như một nguồn đầu tư quan trọng hỗ trợ cho các dự án về xử lý chất thải. Tính đến tháng 11/2011, Quỹ BVMT Việt Nam đã cho tổng số 136 dự án về môi trường vay vốn ưu đãi. Trong đó có 15 dự án liên quan đến lĩnh vực xử lý chất thải công nghiệp của KCN, các cơ sở sản xuất ngoài KCN, xử lý chất thải sinh hoạt và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường với tổng vốn cho vay lên tới gần 240 tỷ đồng. Ngoài ra, Quỹ còn tiến hành cho vay đối với 9 dự án về xã hội hóa thu gom rác thải với số vốn vay khoảng gần 21 tỷ đồng. Có thể thấy rằng, Quỹ BVMT Việt Nam đã hỗ trợ khá hiệu quả, góp phần tăng cường cho công tác quản lý CTR. Tuy nhiên, nguồn vốn từ Quỹ BVMT hiện nay còn gặp một số khó khăn trong việc huy động các nguồn vốn bổ sung hàng năm. Mặc dù, theo quy định về việc bổ sung vốn cho vay hàng năm từ các nguồn như: phí BVMT đối với nước thải, CTR, khai thác khoáng sản; các khoản bồi thường thiệt hại về môi trường, tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT... tuy nhiên, trong thực tế nhiều năm qua, hoàn toàn không có kinh phí bổ sung từ các nguồn trên. Một trong những khó khăn nữa đối với việc hỗ trợ các doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn vay từ Quỹ BVMT đó là điều kiện đảm bảo vốn vay. Nguyên nhân chính là do phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xử lý chất thải thường có mức lãi thấp, năng lực tài chính không cao hoặc là doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập nên thường khó đáp ứng được yêu cầu thiết yếu đặt ra ở trên.

7.7.2. Đầu tư tài chính còn thiếu và chưa cân đối

Mặc dù nguồn tài chính đầu tư cho quản lý CTR khá đa dạng, tuy nhiên vẫn còn thiếu hụt nghiêm trọng và chưa cân đối giữa các lĩnh vực. Cơ cấu phân bổ ngân sách đang dành hơn 90% cho hoạt động thu gom và vận chuyển chất thải. Do vậy, chi phí dành cho xử lý, tiêu huỷ chất thải hiện nay là rất thấp. Mặc dù được xem là một trong những biện pháp giảm thiểu chôn lấp CTR, nhưng hầu hết các nhà máy ủ rác (một loại hình hoạt động phổ biến ở Việt Nam) đang gặp khó khăn trong hoạt động. Theo báo cáo, trợ cấp từ chính quyền địa phương để vận hành các nhà máy ủ rác thấp hơn khoản trợ cấp dành cho chôn lấp. Nhằm đáp ứng yêu cầu của Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR, để giảm thiểu lượng chất thải chôn lấp, các biện pháp tài chính hỗ trợ việc vận hành nhà máy ủ rác là rất cần thiết.

Một trong những khó khăn mà các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động trong lĩnh vực quản lý CTR đang gặp phải là

Page 23: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

137

vấn đề tài chính đầu tư cho cơ sở hạ tầng xử lý CTR. Trong khi vốn đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị cũng như cơ sở hạ tầng đối với một cơ sở quản lý CTR là rất lớn nhưng thời gian thu hồi vốn lại dài, đặc biệt là vấn đề vay vốn đối với các doanh nghiệp này còn gặp nhiều khó khăn.

Nhìn chung, các mức phí cho dịch vụ quản lý CTR chiếm chưa đến 0,5% chi tiêu của các hộ gia đình, đây là mức chấp nhận được đối với nhiều nước đang phát triển. Tuy nhiên, tổng thu từ các loại phí dịch vụ quản lý CTR chi đáp ứng được không quá 60% tổng chi phí vận hành, duy tu và bảo dưỡng hệ thống quản lý. Tại nhiều đô thị, tổng thu từ các loại phí dịch vụ này thậm chí chi chiếm khoảng 20-30%. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với các đô thị của các nước trên thế giới. Thực tế hiện nay không có một đô thị nào của Việt Nam đảm bảo mức thu bù chi. Mặc dù được bao cấp rất lớn từ nguồn ngân sách trung ương và địa phương, nhưng vẫn chưa có đủ nguồn lực cần thiết, đặc biệt là cho các hoạt động tiêu hủy CTR, đã dẫn đến tình trạng là các khu xử lý hiện đang được vận hành và duy tu, bảo dưỡng không đúng kỹ thuật và không an toàn. Điều này cho thấy, mặc dù ngân sách cho quản lý chất thải vẫn tăng qua các năm nhưng đầu tư cho hoạt động vận hành còn thiếu là nguyên nhân đe dọa tính bền vững của các khoản đầu tư.

7.8. HỢP TÁC QUỐC TẾ

7.8.1. Hợp tác quốc tế đã đa dạng nguồn vốn đầu tư

ODA là một trong những nguồn vốn lớn đối với các dự án môi trường tại Việt Nam nói chung và các dự án quản lý chất thải rắn nói riêng. Nhật Bản là một trong số các nhà tài trợ chính nguồn vốn ODA trong lĩnh vực quản lý CTR tại Việt Nam thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA). Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) với tư cách là các nhà tài trợ cũng đóng vai trò quan trọng đối với các dự án quản lý CTR tại Việt Nam. Song song với đó, các dự án, chương trình về quản lý CTR của Việt Nam cũng tiếp nhận các nguồn tài trợ song phương từ các quốc gia khác như: Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Tây Ban Nha, Canada, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, v.v...

Các dự án liên quan đến quản lý CTR được tài trợ đã và đang thực hiện tại Việt Nam khá đa dạng, bao gồm các dự án quy hoạch và cải thiện môi trường đô thị; xây dựng các chiến lược, kế hoạch về CTR; kiểm soát ô nhiễm & quản lý CTR tại các đô thị; cung cấp thiết bị xử lý CTR... (Bảng 7.3).

7.8.2. Hợp tác quốc tế chưa phát huy được vai trò và hiệu quả

Mặc dù nguồn vốn từ các dự án, chương trình hợp tác quốc tế khá lớn và đa dạng, tuy nhiên không phải lúc nào cũng thực sự phát huy hiệu quả. Một số dự án đầu tư về thiết bị và công nghệ xử lý CTR chưa hiện đại hoặc chưa phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Page 24: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

138

Một vấn đề còn bỏ ngỏ hiện nay đó là các chương trình hợp tác quốc tế chưa quan tâm đầu tư đối với lĩnh vực quản lý và xử lý CTNH, mặc dù đây là hướng đầu tư công nghệ cao, cần có nguồn vốn quốc tế.

Tính bền vững và hiệu quả của các dự án, chương trình hợp tác quốc tế về môi trường nói chung và quản lý CTR nói riêng cũng là vấn đề cần quan tâm. Rất nhiều dự án, chương trình khi hết nguồn kinh phí tài trợ cũng đồng nghĩa với việc kết thúc các hoạt động duy trì kết quả. Phần lớn kết quả thu được từ các dự án, chương trình mới chi dừng lại ở mức độ thử nghiệm, phạm vi ứng dụng nhỏ, chưa trở thành động lực để có thể tiếp tục duy trì, phát triển và nhân rộng.

7.9. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

7.9.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách và tăng cường hiệu lực tổ chức giám sát và cưỡng chế

Rà soát đánh giá hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp luật trong công tác quản lý CTR, từ đó đề xuất bổ sung hoàn thiện, đảm bảo cho hệ thống này được hoàn chinh, thống nhất và đồng bộ.

Đánh giá tổng thể, rút kinh nghiệm thực hiện các chiến lược, quy hoạch về quản lý CTR trong giai đoạn vừa qua, từ đó xây dựng, điều chinh hệ thống chiến lược, chính sách làm cơ sở định hướng triển khai cho các cấp Trung ương và địa phương.

Bảng 7.3 . Các dự án ODA có liên quan đến lĩnh vực quản lý CTR đô thị của Việt Nam

Nhà tài trợ Dự án/chương trình Cơ quan thực hiện

Nhật Bản

Dự án nghiên cứu cải thiện môi trường tại Hà Nội UBND Hà Nội

Dự án cung cấp thiết bị quản lý chất thải tại Hà Nội UBND Hà Nội

Dự án hỗ trợ cho sáng kiến 3R tại Hà Nội UBND Hà Nội

Chương trình phát triển đô thị toàn diện tại Hà Nội (bao gồm quản lý chất thải rắn) UBND Hà Nội

Nghiên cứu về quy hoạch cải thiện vệ sinh của Tp. Hải Phòng UBND Hải phòng

Dự án cải thiện môi trường tại Tp. Hải Phòng (I)

UBND Hải phòng

Dự án cải thiện môi trường tại Tp. Hải Phòng (II) UBND Hải phòng

Chương trình cho nhân viên tập sự từ thành phố Shizuoka tại Tp. Huế UBND Tp. Huế

Nghiên cứu chiến lược phát triển tổng hợp cho Tp. Đà Nẵng và khu vực phụ cận UBND Tp. Đà Nẵng

Ngân hàng Thế giới

Chiến lược quản lý CTR và Kế hoạch hành động cho Hạ Long/Cẩm Phả và Hải Phòng

UBND Hải Phòng; Quảng Ninh

Xử lý nước thải và CTR tại miến Bắc -Nước thải và vệ sinh môi trường tại Tp. Đà Nẵng UBND Đà Nẵng

Nước thải và vệ sinh môi trường tại Tp. Hải Phòng UBND Hải Phòng

ADBCải thiện môi trường tại Tp. Hồ Chí Minh

UBND Tp. HCM

Thuỵ Điển/ SIDA

Tăng cường kiểm soát ô nhiễm và quản lý CTR tại khu đô thị và KCN N/A

Canada/ CIDA

Dự án môi trường Việt Nam - Canada (Giai đoạn 2) MONRE

Dự án kinh tế rác thải (WasteEcon) MOSTEThuỵ Sĩ/

SDCPhát triển đô thị tại Huế UBND Thừa Thiên

Huế

USA/USAID

Xã hội hoá công tác quản lý chất thải rắn tại Tp. Hồ Chí Minh US-AEP, iCMA, TAF

Tây Ban Nha Nhà máy chế biến rác Cầu Diễn URENCO Hà Nội

Hàn Quốc/ KOICA

Quản lý và xử lý chất thải rẵn tại Tp. Hải Phòng URENCO Hải Phòng

Page 25: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

139

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến CTR, sửa đổi các quy định về chức năng nhiệm vụ, phân công trách nhiệm của các cơ quan tham gia công tác quản lý CTR từ cấp Trung ương đến cấp địa phương; bổ sung các quy định về quản lý chất thải, phế liệu, sản phẩm thải bỏ; quy định, hướng dẫn về phân loại, thu gom, vận chuyển và xử lý CTR bằng các công nghệ xử lý phù hợp, có hiệu quả và hạn chế chôn lấp.

Xây dựng các quy định cụ thể nhằm khuyến khích áp dụng hệ thống quản lý môi trường (ISO 14000); kiểm toán môi trường đối với CTR; các quy định hướng dẫn sử dụng cô-ta phát thải và hình thành thị trường chuyển nhượng cô-ta phát thải.

Tiếp tục rà soát, xây dựng hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định đối với CTR và CTNH.

Ngoài ra, cần có các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật quy định đối với việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về CTR cấp quốc gia và địa phương, kịp thời cập nhật và tổng hợp các dữ liệu có liên quan, phục vụ tốt cho công tác đánh giá diễn biến, hiện trạng CTR và đề xuất các giải pháp quản lý phù hợp.

7.9.2. Tăng cường bộ máy quản lý, xóa bỏ chồng chéo trong phân công, phân nhiệm

Việc điều chinh nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong công tác quản lý CTR phải bảo đảm tính hợp lý, thống nhất đầu mối quản lý CTR cấp quốc gia và cấp địa phương, tránh phân tán, chồng chéo và bỏ sót.

Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 là một trong những cơ sở pháp lý cho

Loại hỗ trợ Giai đoạn Vốn (triệu USD)

DS 07/1998 -05/2000 Không có thông tin

GA 01/2002 - 08/2003 9.0(*)

TC 11/2006 -11/2009Không có thông tin

DS 12/2004 -05/2006Không có thông tin

DS 05/2000 - 06/2001 Không có thông tin

LA 04/2005 - 12/2011 15.2(*)

LA 03/2009 - 09/2013 213.1(*)

GTC 04/2006 - 03/2009 Không có thông tin

DS 06/2008 - 11/2009 Không có thông tin

- - 0.65

- - 8.69

LA 1999-2004 33.83

LA 1999-2005 41

LA &GA 2000-200664.75 (LA)

1.80 (GA)

GA 1996-1997 0.31

GA 2000-2005 11.5

GA 2000-2004 n/a

GA 1996 -1999 5.07

GA 2002-2003 0.14

LA 1998 - 2000 4.00

LA 2003 - 2009 19.61

Chú thích: DS - Nghiên cứu phát triển GA - Viện trợ không hoàn lại LA - Vốn vay ưu đãi GTC - Hợp tác kỹ thuật ở cấp cơ sở (*) 100 triệu VNĐ

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ TN&MT, 2010.

Page 26: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

140

việc xây dựng một hệ thống quản lý CTR thống nhất, hoàn chinh và phù hợp. Theo đó cần tổ chức hệ thống quản lý CTR và phân công trách nhiệm cụ thể đối với 2 nhóm đơn vị quản lý: nhóm đơn vị quản lý theo hướng chi đạo, định hướng công tác quản lý CTR và nhóm đơn vị triển khai thực hiện, thi hành nhiệm vụ quản lý CTR.

Ở cấp Trung ương, cần xác định một cơ quan đầu mối quản lý CTR nói chung. Các bộ, ngành khác chịu trách nhiệm quản lý CTR của ngành, có trách nhiệm phối hợp cùng với cơ quan quản lý chung trong công tác quản lý và xử lý chất thải. Ở cấp địa phương, tương tự, cần xác định một cơ quan chuyên môn tương ứng là cơ quan đầu mối giúp UBND tinh, thành phố trực thuộc quản lý CTR chung ở địa phương.

Ngoài ra, công tác quản lý CTR cần có sự tham gia của nhóm đối tượng phát thải, xả thải CTR và các đối tượng có thể tham gia, cung cấp các dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTR (các tổ chức, cộng đồng trong xã hội).

7.9.3. Tổng kết, đánh giá các dự án 3R: Giảm thiểu, Tái sử dụng, Tái chế

Tăng cường giảm thiểu CTR công nghiệp, sinh hoạt và thương mại, dịch vụ bằng các biện pháp như: khuyến khích tiêu dùng bền vững, thay đổi hành vi, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường; xây dựng và thực hiện chính sách mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất về thu hồi, xử lý sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc thải bỏ đối với một số loại sản phẩm đặc thù được quy định tại Điều 67 của Luật Bảo vệ môi trường; triển khai thực hiện có hiệu quả “Chương trình áp dụng công nghệ sạch và thân thiện với môi trường”; kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu gắn với BVMT.

Khung 7.8. Hiệu quả từ mô hình thu gom rác thải ở xã Triệu Thuận, (Triệu Phong,

Quảng Trị)

Được thành lập từ đầu năm 2010, đến nay mô hình thu gom rác thải của xã Triệu Thuận đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực. Với sự hỗ trợ và hướng dẫn của Phòng TN&MT huyện Triệu Phong, UBND xã Triệu Thuận đã giao cho HTX Triệu Thuận thành lập các tổ thu gom rác của xã. HTX Triệu Thuận phối hợp với Hội Phụ nữ xã đứng ra đảm trách quản lý và chi trả công cho các tổ thu gom rác thải tại 8 khu vực của xã. Cùng với việc ra đời của các tổ thu gom rác, bãi rác của xã cũng đã được xây dựng ở cách xa khu dân cư để làm nơi tập kết và xử lý rác.

Nhiệm vụ thu gom rác do chị em phụ nữ trong từng khu vực của xã luân phiên nhau phụ trách. Theo định kỳ, vào ngày 15 và 30 hàng tháng, mỗi tổ thu gom rác gồm 2 người sẽ dùng xe kéo được gắn thêm sàn đến tận từng đường làng, ngõ xóm trong xã để thu gom rác. Ngoài ra, các điểm tập trung rác thải, điểm kinh doanh của người dân cũng được thu gom đều đặn. Số rác thải này sẽ được đưa đến tập kết tại bãi rác do xã quy hoạch nằm ngoài cánh đồng để đốt và chôn lấp.

Trước khi đi vào hoạt động, HTX Triệu Thuận và các tổ thu gom rác đã tổ chức họp bàn để thống nhất với người dân về việc hỗ trợ kinh phí để các tổ thu gom rác hoạt động hiệu quả. Trong năm 2010, có 100% hộ dân đồng ý việc thu gom rác với mức đóng 3.000 đồng/hộ dân/tháng để làm kinh phí chi trả cho các tổ thu gom rác.

Nguồn: Báo Quảng Trị, 07/06/2011.

Page 27: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

141

Tăng cường tái sử dụng, tái chế CTR: tái sử dụng vật dụng sinh hoạt trong gia đình ở mức tối đa, đẩy mạnh việc tái sử dụng chất thải công nghiệp và thận trọng trong việc tái sử dụng CTR y tế;

Xây dựng và áp dụng các chính sách ưu đãi cho các hoạt động tái chế; Phát triển thị trường trao đổi chất thải; phát triển mạnh ngành công nghiệp tái chế; khuyến khích mua sắm các sản phẩm tái chế; thiết lập các Quỹ tái chế.

7.9.4. Đẩy mạnh xã hội hóa và huy động cộng đồng tham gia quản lý chất thải rắn

Trước hết cần tạo các cơ chế khuyến khích đối với hoạt động giảm thiểu và tái chế chất thải. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cho khu vực tư nhân trong các dịch vụ quản lý chất thải, bao gồm mở rộng các chương trình cho vay tín dụng nhỏ, phát triển thị trường cho các sản phẩm tái chế, phối hợp hoạt động giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước, hỗ trợ hợp tác trong quản lý chất thải và tư vấn các hoạt động quản lý chất thải hợp lý. Việc giảm thiểu các chi phí có thể thực hiện được thông qua tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động phân loại rác tại nguồn và các hoạt động tái chế.

Để thu hút các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh tham gia hoạt động trong lĩnh vực quản lý CTR và đẩy mạnh công tác xã hội hóa thu gom xử lý CTR trong thời gian tới, cần thực thi có hiệu quả một số chính sách ưu đãi đầu tư cho các dự án về môi trường, như bảo lãnh vay vốn tín dụng của các ngân hàng nước ngoài; ưu tiên khai thác các nguồn vốn ODA từ các chính phủ và các tổ chức quốc tế; vay vốn với lãi suất ưu đãi từ các quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước và từ các quỹ môi trường; miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư được nhập khẩu theo dự án quản lý CTR...

Bên cạnh đó cần xây dựng và thực hiện chương trình nội địa hóa, phát huy nguồn lực trong nước để sản xuất trang thiết bị thu gom, vận chuyển và xử lý rác; thực hiện nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “Người được hưởng lợi về môi trường phải trả tiền”, có nghĩa là mỗi người dân đều có nghĩa vụ tham gia đóng góp kinh phí để đảm bảo duy trì dịch vụ quản lý CTR. Đặc biệt, cần nâng cao nhận thức và giáo dục bảo vệ môi trường, tổ chức và tăng cường hiệu lực bộ máy thanh tra, kiểm tra, kết hợp các biện pháp chế tài, xử phạt vi phạm hành chính đối với quản lý CTR.

Page 28: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

142

7.9.5. Quy hoạch và lựa chọn các công nghệ xử lý chất thải rắn phù hợp

Cần lập và thực hiện quy hoạch quản lý CTR của tất cả các tinh, thành phố trong cả nước. Rà soát việc thực hiện nội dung quy hoạch xử lý CTR trong quy hoạch đô thị và các điểm dân cư nông thôn. Xây dựng và thực hiện quy hoạch xây dựng khu xử lý CTR tới tận các làng xã nông thôn và có biện pháp huy động vốn nhằm giải quyết vấn đề này.

Quy hoạch, phát triển cơ sở hạ tầng, áp dụng các công nghệ xử lý CTR tiên tiến, an toàn và phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Quy hoạch, xây dựng mới các cơ sở xử lý CTR hợp vệ sinh cấp tinh cho chất thải sinh hoạt, cấp vùng liên tinh cho chất thải nguy hại. Thực hiện Chương trình xử lý CTR giai đoạn 2009 - 2020, theo đó ưu tiên áp dụng các công nghệ tiên tiến, hạn chế chôn lấp.

Hiện nay có nhiều loại công nghệ khác nhau để xử lý CTR công nghiệp và CTNH. Mặc dù vậy, mỗi công nghệ chi có khả năng ứng dụng tốt trong một phạm vi nhất định. Ở nhiều nước tiên tiến, người ta thường xử lý tập trung 2 loại chất thải này bằng cách kết hợp nhiều quy trình công nghệ khác nhau. Theo Chiến lược quản lý chất thải quốc gia, CTR công nghiệp và CTNH đều phải được xử lý tập trung theo quy trình khép kín. Tuy nhiên, do điều kiện chưa cho phép nên hiện tại mỗi địa phương đều phải tự vận động theo cách riêng của mình, dẫn đến việc mất cân đối, gây ảnh hưởng tương hỗ xấu. Vì vậy, một số nhà khoa học đã có những hướng nghiên cứu khác nhằm tìm ra những mô hình quản lý phù hợp hơn, cụ thể là phân nhỏ hợp lý theo từng cụm một hoặc hai tinh để đáp ứng nhu cầu quản lý thực tế.

Page 29: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

143

7.9.6. Tăng cường và đa dạng hoá nguồn đầu tư tài chính

Đa dạng hóa nguồn tài chính cho quản lý CTR từ: ngân sách nhà nước; các dự án, chương trình tài trợ trong và ngoài nước; Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam; Quỹ Bảo vệ môi trường của địa phương; huy động vốn từ cộng đồng (doanh nghiệp tư nhân), v.v...

Ưu tiên đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế CTR phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, khí hậu và thực trạng CTR của Việt Nam.

Huy động các nguồn tài chính cho phục hồi, xử lý ô nhiễm môi trường từ các cơ sở xử lý CTR từ nguồn kinh phí bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân, từ ngân sách Nhà nước, các nguồn tài trợ, đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Hoạt động phục hồi môi trường các cơ sở xử lý CTR được xem xét vay vốn ưu đãi từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam theo các quy định hiện hành.

Xây dựng, ban hành và hướng dẫn các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tài chính cho các hoạt động phục hồi môi trường của các cơ sở xử lý, chôn lấp CTR.

7.9.7. Nâng cao nhận thức cộng đồng, khuyến khích hoạt động phân loại chất thải tại nguồn

Thu hút cộng đồng tham gia quản lý chất thải, tăng cường vai trò của cộng đồng trong quản lý chất thải là một việc làm cần thiết. Thách thức trước mắt là ban hành và thực hiện các cơ chế hỗ trợ để người dân có cơ hội tham gia mô hình quản lý chất thải dựa vào cộng đồng. Các nhóm cộng đồng địa phương có thể đảm nhận trách nhiệm thu gom chất thải, mua các trang thiết bị, thu phí và quản lý hệ thống thu gom, khuyến khích cộng đồng tham gia các chương trình phân loại chất thải tại nguồn để sản xuất phân compost.

Cải thiện phổ biến thông tin cho cộng đồng về quản lý CTR và các giải pháp xử lý, tiêu huỷ chất thải. Cần thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức cho cộng đồng về những tác hại gây ra do quản lý chất thải không đúng quy cách cũng như trách nhiệm của người dân phải chi trả cho các dịch vụ quản lý chất thải tốt hơn. Các chương trình giáo dục cộng đồng cần được thiết kế phù hợp cho mọi đối tượng trong cộng đồng, kể cả cho học sinh ở các trường phổ thông. Các chương trình này nên nhằm vào mục tiêu cung cấp những kiến thức cơ bản về vệ sinh, các ý tưởng sáng tạo và thực tiễn về các chương trình xã hội hoá để chuyển giao một phần trách nhiệm quản lý chất thải cho các nhóm cộng đồng.

Page 30: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Báo cáo môi trường quốc gia 2011:

Chất thải rắn

144

Cần nhấn mạnh rằng để thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý môi trường nói chung và quản lý CTR nói riêng, chính quyền địa phương (UBND xã, phường) cần đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động. Do vậy, cần đảm bảo chính quyền nhận thức được tầm quan trọng của sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý CTR và chính quyền có đủ năng lực trong việc điều phối các hoạt động, việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và huy động sự tham gia của các bên.

7.9.8. Các giải pháp quản lý cụ thể

Đối với nhóm CTR đô thị

Khuyến khích, thay đổi hành vi, xây dựng lối sống thân thiện đối với môi trường của người dân. Thực hiện các chương trình thúc đẩy người dân mua các loại sản phẩm có ít bao bì, tái sử dụng các túi đựng nhiều lần, sử dụng các loại bao bì dễ phân hủy trong tự nhiên, nói không với túi nilon khó phân hủy. Xây dựng tiêu chuẩn thời gian lưu hành của một số sản phẩm, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng sử dụng các đồ dùng, vật dụng một cách hiệu quả nhất.

Xây dựng chính sách yêu cầu, khuyến khích, ký kết các thỏa ước giữa cơ quan quản lý với các hiệp hội, các công ty sản xuất bao bì, túi đựng nhằm xây dựng và thực hiện lộ trình cắt giảm lượng sản phẩm được sản xuất và phân phối, đồng thời nghiên cứu chế tạo những sản phẩm thân thiện với môi trường.

Thiết kế, xây dựng các điểm thu gom CTR xây dựng và thúc đẩy tận dụng tái sử dụng loại chất thải này.

Đối với nhóm CTR công nghiệp

Tăng cường giảm thiểu CTR trong sản xuất, giảm thiểu tối đa nguyên liệu đầu

Khung 7.9. Bài học từ Dự án cải tạo cải thiện môi trường kênh Chín Tế (Bến Tre) thuộc Hợp phần “Kiểm soát ô nhiễm tại các khu vực đông dân nghèo (PCDA)”

Một trong những kết quả quan trọng đạt được của Dự án đó là khoảng 85-90 % chất thải được đánh giá là không còn thải xuống kênh. Đặc biệt, mùi hôi được giảm thiểu rỏ rệt...

Để đạt được các kết quả trên, Dự án đã huy động sự tham gia cộng đồng thông qua các bước:

- Tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho người dân sống hai bên bờ kênh và cộng đồng dân cư xung quanh;

- Lập tổ tự quản thu gom rác thải trên toàn tuyến kênh với kinh phí hoạt động từ nguồn thu của các hộ dân theo mức quy định của địa phương;

- Khuyến khích người dân trong khu vực tham gia phân loại rác tại nguồn và tổ chức thu gom rác thải rác hiệu quả;

- Vận động, hỗ trợ khuyến khích các hộ dân trong khu vực xây dựng nhà vệ sinh với bể tự hoại 3 ngăn theo tiêu chuẩn của ngành xây dựng;

- Xây dựng chương trình vớt rác, nạo vét định kỳ nhằm khai thông dòng chảy cho kênh Chín Tế;

- Từng bước xử lý triệt để các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trong lưu vực, kể cả di dời hoặc đóng cửa các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng;

- Ban hành các quy định nghiêm cấm người dân chiếm hành lang an toàn kênh;

- Triển khai thực hiện nghiêm các quy định xử phạt hành chính đối với cá nhân hoặc tập thể xả rác, nước thải ô nhiễm không qua xử lý xuống kênh.

Vai trò của phụ nữ trong việc tham gia, quản lý và quan trắc các hoạt động của dự án được đẩy mạnh. Dự án đã áp dụng linh hoạt phương án huy động tài chính từ sự đóng góp của người dân với mức độ phù hợp với khả năng tài chính của nhóm người có thu nhập thấp, có thể không phải bằng tiền mà thông qua sức lao động.

Nguồn: Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện dự án trình diễn, Hợp phần PCDA, 2010

Page 31: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,

Chương 7:

Quản lý chất thải rắn: Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

145

vào, khuyến khích sử dụng chất thải của ngành này làm nguyên liệu của ngành khác.

Tăng cường áp dụng sản xuất sạch hơn trong ngành CN, tăng cường quản lý nội vi, kiểm soát quá trình, cải tiến trang thiết bị để tránh thất thoát nguyên vật liệu, đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng nhiên liệu sạch hơn, hạn chế sử dụng các hóa chất độc hại trong từng giai đoạn sản xuất.

Kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu theo quy định của Luật BVMT, thực hiện nghiêm túc các cam kết của Công ước Basel về vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới. Hạn chế nhập khẩu các phương tiện giao thông, các loại máy móc, trang thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng có hiệu quả sử dụng thấp, vòng đời ngắn, gây ô nhiễm môi trường.

Tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý đạt tiêu chuẩn chất lượng ISO 14000 trong các cơ sở công nghiệp; Xây dựng các cơ sở công nghiệp, KCN sinh thái; Cấp nhãn sinh thái cho các sản phẩm đạt yêu cầu.

Đối với nhóm CTR nông thôn, nông nghiệp và làng nghề

Thực hiện giảm thiểu các loại chất thải phát sinh trong quá trình trồng trọt và thu hoạch, đẩy mạnh việc xây dựng các hệ thống hầm biogas trong chăn nuôi.

Kiểm soát chặt chẽ và có các biện pháp hướng dẫn xử lý bao bì các loại phân bón và thuốc bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp.

Xây dựng và thực hiện chương trình hành động sản xuất sạch hơn, thu gom, vận chuẩn và xử lý chất thải ở các làng nghề, đặc biệt là ở các làng nghề tái chế phế liệu.

Đối với nhóm CTR y tế

Đối với CTR y tế, cần phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu, bắt buộc thực hiện việc phân loại chất thải y tế tại nguồn theo quy định tại Quy chế quản lý chất thải y tế được banh hành theo Quyết định 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 và thu gom, xử lý đúng yêu cầu kỹ thuật BVMT 100% chất thải phát sinh ở các bệnh viện, các cơ sở y tế, chữa bệnh.

Xây dựng và ban hành cơ chế bảo đảm kinh phí cho chi phí vận hành thiết bị xử lý chất thải y tế (lò đốt CTR y tế).

Nghiên cứu áp dụng các phương pháp xử lý chất thải y tế không bằng phương pháp đốt, như là phương pháp sấy hấp nhiệt sát trùng.

Page 32: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,
Page 33: HIệN TRạNg, TồN TạI và gIẢI pHápmttd.tnus.edu.vn/_editor/assets/Chuong 7.pdf · chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được quy định trong Luật BVMT 1994,