hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới...

172
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH TRN THHUYN TƯ TƯỞNG HCHÍ MINH VBÌNH ĐẲNG NAM NVÀ VN DNG VÀO THC HIỆN BÌNH ĐẲNG GII VIT NAM HIN NAY LUN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NI 2017

Upload: others

Post on 08-Sep-2019

5 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HUYỀN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ

VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI – 2017

Page 2: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HUYỀN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ

VÀ VẬN DỤNG VÀO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS, TS NGUYỄN THỊ KIM DUNG

2. PGS, TS VŨ VĂN THUẤN

HÀ NỘI - 2017

Page 3: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

ỜI C M ĐO N

ủ C

Tác giả

Trần Thị Huyền

Page 4: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6

1.2. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và

những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu

22

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ 25

2.1. Một số khái niệm liên quan 25

2.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ 33

Chương 3 : THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM

HIỆN N Y THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

72

3.1. Thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam

nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay

72

3.2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam

hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

102

Chương 4:

QU N ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ

CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ VÀO THỰC HIỆN

BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT N M ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

110

4.1. Những nhân tố mới tác động đến việc thực hiện bình đẳng giới

ở Việt Nam theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

110

4.2. Quan điểm vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam

nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu

phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc

114

4.3. Giải pháp vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam

nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nƣớc

120

KẾT LUẬN 145

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ IÊN QU N ĐẾN ĐỀ TÀI

148

TÀI LIỆU THAM KHẢO 149

PHỤ LỤC

Page 5: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp 78

Bảng 3.2: Tỷ lệ lao động theo giới 81

Bảng 3.3: Đại biểu Quốc hội theo giới 91

Bảng 3.4: Tỷ lệ đại biểu tham gia Ban Chấp hành Trung ƣơng theo giới 92

Bảng 3.5: Đại biểu Ủy viên Ban Chấp hành Đảng theo giới 93

Page 6: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bình đẳng nam nữ - bình đẳng giới là vấn đề luôn đƣợc sự quan tâm của

toàn nhân loại, là một mục tiêu quan trọng trong các văn kiện quốc tế về quyền con

ngƣời, đặc biệt là Công ƣớc Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối

xử với phụ nữ (CEDAW). Do đó, bình đẳng nam nữ trở thành một trong những tiêu

chí đánh giá trình độ văn minh, tiến bộ của một quốc gia. Đó là lý tƣởng mà nhân

loại hƣớng tới, là cam kết chính trị của nhiều quốc gia và là một trong tám mục tiêu

thiên niên kỷ (MDG), đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc đề ra vào đầu thế kỷ XXI.

Ở Việt Nam, sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ đã

đƣợc Đảng và Nhà nƣớc mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay

ngày đầu cách mạng.

Sinh thời, Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập

tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Trong sự nghiệp vì con ngƣời, giải

phóng con ngƣời của Hồ Chí Minh có một nội dung hết sức quan trọng là thực

hiện bình đẳng nam nữ. Cùng với việc xác định đƣờng lối, mục tiêu, nhiệm vụ…

cho cách mạng Việt Nam, ngay trong C ơ ắ ắ , Hồ Chí Minh đã đặt

ra vấn đề nam nữ bình quyền. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,

đồng thời với sự nghiệp giải phóng dân tộc, Ngƣời đã trực tiếp chỉ đạo, tổ chức

thực hiện nhiệm vụ giải phóng phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trên

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dƣới sự lãnh đạo của ngƣời, cùng với kỷ

nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân, phụ nữ Việt Nam cũng bƣớc vào

thời kỳ mới, trở thành chủ nhân của đất nƣớc, đƣợc pháp luật công nhận và bảo

vệ quyền bình đẳng trên mọi lĩnh vực, đƣợc tạo điều kiện phát triển và tiến bộ về

mọi mặt, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nƣớc.

Quán triệt sâu sắc những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ, Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều văn kiện, nghị quyết, chính

sách, pháp luật, nghị định để khẳng định và bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ.

Page 7: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

2

Việt Nam đã tham gia ký kết và tổ chức triển khai thực hiện các Công ƣớc quốc

tế về quyền con ngƣời, đặc biệt là Công ƣớc CEDAW, Tuyên bố thiên niên kỷ,

các chiến lƣợc, kế hoạch hành động của Liên hợp quốc và ASEAN về bình

đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Vì vậy, bình đẳng giới ở Việt

Nam đã đạt đƣợc những thành tựu đáng ghi nhận. Theo đánh giá của Liên hợp

quốc, Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, là

một trong những nƣớc có thành tựu về bình đẳng giới cao. Tuy vậy, trên thực tế

phụ nữ Việt Nam vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới, việc thực hiện

bình đẳng nam nữ vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện tƣợng phụ nữ bị đối xử bất bình

đẳng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn đang diễn ra ở

những mức độ, biểu hiện khác nhau tại nhiều vùng miền, nhiều ngành, nhiều cấp,

đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Những hạn chế này

do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chƣa thực sự quán triệt và thực

hiện đúng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ.

Trong bối cảnh và tình hình mới, thế giới đã có nhiều bƣớc phát triển vƣợt

bậc, nhƣng vấn đề bình đẳng giới ở nhiều quốc gia, kể cả các nƣớc phát triển vẫn

chƣa đƣợc giải quyết triệt để. Vai trò, vị thế của phụ nữ và nam giới trong xã hội,

trong gia đình ở mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử còn nhiều khác biệt. Nữ

giới vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới. Do đó, bình đẳng giới vẫn là

yêu cầu bức thiết giúp đảm bảo sự phát triển công bằng, hiệu quả và bền vững của

một xã hội.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển, xu thế chung của thế giới, cũng nhƣ của

đất nƣớc, việc nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ một

cách thấu đáo, nhận thức rõ những giá trị bền vững và vận dụng đúng đắn vào

sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nƣớc hiện nay là việc làm cần

thiết. Do đó, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề: “ ởng H Chí Minh về

bình ẳng nam nữ và v n dụng vào th c hi n bình ẳng giới ở Vi t Nam hi n

nay” làm luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

Page 8: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ, trên cơ sở đó vận dụng vào thực tiễn Việt Nam hiện nay nhằm nâng

cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới đáp ứng yêu cầu phát triển đất nƣớc.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ các khái niệm liên quan;

- Hệ thống hóa và phân tích làm rõ những quan điểm cơ bản tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ;

- Phân tích thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam

nữ ở Việt Nam hiện nay;

- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bình

đẳng giới ở Việt Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu phát

triển đất nƣớc.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ;

- Thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào

thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Trong phạm vi luận án, tác giả tập trung nghiên cứu nội

dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trên lĩnh vực pháp lý và trong

đời sống xã hội và sự vận dụng tƣ tƣởng đó trong thực hiện bình đẳng giới ở

Việt Nam hiện nay.

- Về không gian: Thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay là một

phạm vi rất rộng, trong khuôn khổ luận án và điều kiện nghiên cứu, tác giả tập

trung đánh giá việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào

thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà

Page 9: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

4

nƣớc, các bộ ngành, các báo cáo của nhiều tổ chức trong nƣớc và quốc tế về tình

hình thực hiện bình đẳng giới trên bình diện cả nƣớc.

- Về thời gian: Luận án tập trung khảo sát thực trạng bình đẳng giới ở Việt

Nam bắt đầu từ khi có Luật Bình đẳng giới năm 2006 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng lối của Đảng và chính sách, pháp luật

của Nhà nƣớc về bình đẳng giới; các công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời, về

quyền bình đẳng nam nữ.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phƣơng pháp logic-lịch

sử, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp thống kê - so sánh, phƣơng

pháp tổng kết thực tiễn, phƣơng pháp văn bản học, phƣơng pháp chuyên gia, v.v.

để triển khai các nhiệm vụ luận án đặt ra.

5. Những đóng góp mới của luận án

- Thông qua việc hệ thống hóa, nghiên cứu, phân tích tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

về bình đẳng nam nữ, luận án góp phần làm rõ hơn những quan điểm cơ bản của Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ và giá trị bền vững của tƣ tƣởng đó.

- Đánh giá một cách cụ thể thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về

bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay trên lĩnh

vực pháp lý và trong đời sống xã hội.

- Phát hiện những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt

Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm phát huy tốt giá trị tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt

Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.

Page 10: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Góp phần khẳng định giá trị tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng

và Nhà nƣớc Việt Nam về bình đẳng giới.

- Luận án có thể làm tƣ liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập

những chuyên đề liên quan đến vấn đề phụ nữ, bình đẳng nam nữ, bình đẳng giới

... trong chuyên ngành Hồ Chí Minh học, khoa học chính trị và khoa học xã hội

nhân văn.

- Góp phần cung cấp những luận cứ, cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc

hoạch định chính sách về bình đẳng giới, thúc đẩy bình đẳng giới, bảo đảm

bình đẳng giới trong tổ chức, giám sát thực hiện bình đẳng giới.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, 9 tiết.

C ơ 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

C ơ 2: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ

C ơ 3: Thực trạng thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay theo

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

C ơ 4: Quan điểm và giải pháp vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về

bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nƣớc

Page 11: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1 Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh

về bình đẳng nam nữ

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít lãnh tụ của một quốc gia đƣợc đông

đảo học giả trong nƣớc và thế giới quan tâm nghiên cứu, không phải khi Ngƣời qua

đời mà ngay từ khi Ngƣời còn sống. Đặc biệt, sau Nghị quyết của tổ chức Văn hóa

Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) năm 1987, về việc khuyến cáo các quốc

gia thành viên tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh: A ù

p ộ ă ấ , ghi nhận và tôn vinh những cống hiến của Hồ

Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại, sự quan tâm nghiên cứu lại càng nhiều hơn.

Bình đẳng nam nữ là một nội dung nhằm hƣớng tới giải phóng triệt để phụ

nữ. Nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ dù đã đƣợc đề cập tới

từ khá sớm, tuy nhiên cho tới nay vẫn chƣa đƣợc tập trung khai thác nhiều và chƣa

có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, các công trình nghiên cứu mới đề cập

tới ở các góc độ khác nhau của bình đẳng nam nữ nhƣ nghiên cứu vai trò của phụ

nữ, nhiệm vụ, biện pháp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ.

Năm 1990, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh

(25-26/8/1989), Trung tâm Nghiên cứu khoa học về phụ nữ (Viện Khoa học xã

hội Việt Nam) và Bảo tàng Phụ nữ (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) đã tổ chức

Hội thảo khoa học kỷ niệm. 30 bài viết tham luận báo cáo tại Hội thảo đã đƣợc tập

hợp trong cuốn Bác H với s nghi p gi i phóng phụ nữ [156156]. Các bài viết đã

nêu lên những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề liên quan tới

phụ nữ, nhƣ vai trò của phụ nữ trong sự phát triển của xã hội và trong gia đình từ

đó đề ra yêu cầu giải phóng phụ nữ. Một số bài viết đề cập tới biện pháp giải

phóng phụ nữ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó cũng có một số bài đề cập

Page 12: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

7

tới quyền bình đẳng của phụ nữ. Tuy nhiên, mới chỉ đề cập tới quyền bình đẳng của

phụ nữ mà chƣa đi vào phân tích sâu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ.

Tác giả Lê Thi trong công trình Chủ t ch H C M ờ

phụ nữ Vi N ớ b ẳng, t do, phát triển [140] đã khẳng định vai trò

của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố

phát triển của cách mạng. Công trình cũng dành một phần lớn trang viết để phân

tích, luận giải, chứng minh tính đúng đắn quan điểm “đấu tranh cho quyền bình

đẳng, tự do, phát triển của phụ nữ là một mục tiêu của cách mạng Việt Nam”.

Những luận giải của tác giả góp phần khẳng định giá trị to lớn của tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh về giải phóng phụ nữ và bình đẳng nam nữ.

Cuốn Chủ t ch H Chí Minh - anh hùng gi i phóng dân tộc - N ă

lớ ” của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Uỷ ban quốc gia

UNESCO của Việt Nam. Cuốn sách tập hợp tham luận của các đại biểu quốc

tế trình bày trong Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch

Hồ Chí Minh (1890 - 1990) tổ chức năm 1990 tại Hà Nội, theo quyết định

của UNESCO, trong đó đã khẳng định: “Hồ Chí Minh là nhà tƣ tƣởng đầu

tiên trong lịch sử Việt Nam đặt vị thế, vai trò của phụ nữ ngang với nam giới

và là một trong những nhà tƣ tƣởng, lãnh tụ tiêu biểu của thế giới đề cao sự

nghiệp giải phóng phụ nữ” [155, tr.221].

Cuốn Vì quyền trẻ em và s b ẳng của phụ nữ của Viện Thông tin

khoa học và Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh phối hợp với Văn phòng hợp tác và phát triển (Đại sứ quán Thụy

Sĩ) [158], gồm 21 bài tham luận đƣợc chọn lọc, biên tập từ cuộc Hội thảo khoa

học cùng tên trong đó có một số bài viết đề cập tới tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về

bình đẳng nam nữ tuy nhiên số lƣợng trang viết còn rất hạn chế.

Đề tài khoa học ởng H Chí Minh về quyề ời và v n dụng nó

ở ớ ều ki n hi n nay do TS Phạm Ngọc Anh làm chủ nhiệm [3] đã

nghiên cứu một cách hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời, trong đó

Page 13: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

8

có quyền phụ nữ. Những nội dung cơ bản về quyền phụ nữ trong tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh đƣợc đề cập tới ở 3 nội dung. Một là, đấu tranh lên án vi phạm quyền phụ nữ

trong điều kiện xã hội thuộc địa nửa phong kiến; Hai là, quyền phụ nữ trong cách

mạng xã hội chủ nghĩa; Ba là, điều kiện để đảm bảo thực hiện quyền phụ nữ.

Cuốn Bác H với s ti n bộ của phụ nữ của các tác giả Nhƣ Quỳnh, Lê

Minh Cầm, Minh Hiền [127] tập hợp những câu chuyện về tình thƣơng yêu,

sự quan tâm của Bác đối với chị em phụ nữ và những kỉ niệm sâu đậm, những

tình cảm của phụ nữ dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thông qua đó, thể hiện

rõ sự quan tâm của Hồ Chí Minh đối với phụ nữ, hƣớng tới thực hiện bình

đẳng nam nữ.

Trong công trình “H Chí Minh với cuộ ấu tranh vì hòa bình và ti n bộ

của nhân loạ ” tác giả Lê Văn Tích cùng các cộng sự [151] đã nghiên cứu một số

vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan tới những cống hiến của Hồ Chí Minh đối

với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Trong nghiên cứu những

quan điểm tƣ tƣởng và những hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh để

xây dựng một nƣớc Việt Nam tiến bộ, góp phần tích cực cho tiến bộ của toàn nhân

loại, các tác giả đã dành một số trang viết phân tích Hồ Chí Minh - chiến sỹ đấu

tranh vì quyền bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ. Các tác giả khẳng định: “Thực chất

của quyền bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ là việc thừa nhận các quyền con ngƣời

của phụ nữ. Những điều kiện bảo đảm để họ hƣởng thụ các quyền đó trên mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội, đồng thời là các nghĩa vụ cơ bản để phụ nữ phấn đấu trở

thành ngƣời công dân tốt, ngƣời mẹ, ngƣời vợ đảm trong gia đình” [151, tr.264]. Tuy

nhiên số lƣợng trang sách đề cập tới vấn đề này còn khá sơ sài.

Trong công trình “H Chí Minh với cuộ ấu tranh về quyề b ẳng của

phụ nữ” [36] tác giả Nguyễn Thị Kim Dung đã tập trung phân tích một số quan

điểm của Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng và sự tiến bộ của phụ nữ; đào tạo bồi

dƣỡng cán bộ nữ, tăng cƣờng bình đẳng giới và nâng cao vị thế năng lực cho phụ

nữ hiện nay.

Page 14: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

9

Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia ởng H Chí Minh giá tr ă

và phát triển [49]. Các bài viết trong kỷ yếu đã tập trung vào làm sáng tỏ một cách

sâu sắc, toàn diện những giá trị nhân văn và phát triển trong tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh thể hiện ở việc xác định mục tiêu và con đƣờng cách mạng Việt Nam; về

động lực của cách mạng Việt Nam; về xây dựng và phát triển xã hội trên các lĩnh

vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, đối ngoại. Đặc biệt, một số bài viết đã đề cập

trực tiếp tới tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ, trong

đó tập trung phân tích các vấn đề: Một là, nguồn gốc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền

bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ; Hai là, nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải

phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền; Ba là, biện pháp để thực hiện giải

phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,

các bài viết mới chủ yếu đặt ra vấn đề mà chƣa có điều kiện đi sâu phân tích, làm rõ

những nội dung cơ bản trên.

Luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng của Đặng Thị Lƣơng H Chí Minh với s

nghi p gi i phóng phụ nữ trong cách mạng Vi t Nam [83] đã đi vào phân tích tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ Việt Nam và giá trị thực tiễn của tƣ

tƣởng đó trong cuộc sống.

Bên cạnh đó còn có các b , đăng trên các tạp chí, đặc

san tiêu biểu:

“Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ” của Đặng Thị Lƣơng

[84]. Bài viết đã khẳng định: “Tƣ tƣởng giải phóng phụ nữ của Hồ Chí Minh nằm

trong dòng chảy tƣ tƣởng giải phóng con ngƣời, giải phóng phụ nữ của nhân loại”

“Những quan điểm cơ bản về giải phóng phụ nữ trong Di chúc của Chủ

tịch Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Khánh Bật [13]. Bài viết đã phân tích

quan điểm cơ bản về giải phóng phụ nữ trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí

Minh và đi tới khẳng định: “Những lời tâm huyết cuối cùng đƣợc Hồ Chí Minh

viết trong Di chúc…đã thể hiện trọn vẹn, hoàn chỉnh quan điểm của Ngƣời về

giải phóng phụ nữ”

Page 15: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

10

“Một số luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ” của tác

giả Nguyễn Ngọc Hà [54]. Nội dung bài viết nhận định: 1, Nhiệm vụ giải phóng

phụ nữ thống nhất với sự nghiệp cách mạng với giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp, giải phóng con ngƣời; 2. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ có phạm vi rất

rộng lớn từ trong gia đình tới xã hội, cả về kinh tế và chính trị; 3. Giải phóng phụ

nữ là một cuộc cách mạng khá to và khó; 4. Để thực hiện thành công giải phóng

phụ nữ cần kết hợp đồng bộ các giải pháp, các yếu tố bên trong và bên ngoài.

Đề cập tới nội dung giải phóng phụ nữ còn nhiều bài viết đề cập tới với

mức độ nông sâu khác nhau nhƣ:

Trong bài viết “Hồ Chí Minh với cuộc đấu tranh về quyền trẻ em, bình

đẳng và sự tiến bộ phụ nữ”, của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hòa [59] đã phân tích

2 nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh với cuộc đấu tranh vì quyền trẻ

em và Hồ Chí Minh với cuộc đấu tranh và sự tiến bộ của phụ nữ. Trong đó, tác giả

dành sự nghiên cứu cho phần hai, tập trung phân tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với

cuộc đấu tranh giải phóng, bình đẳng và tiến bộ phụ nữ.

Bài viết “Hồ Chí Minh bàn về vị trí, vai trò của phụ nữ trong tiến trình lịch

sử dân tộc” [38] tác giả Vũ Thị Duyên đã nêu lên vai trò của phụ nữ trong tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh thể hiện trong từng giai đoạn của cách mạng: trong cách mạng giải

phóng dân tộc và kháng chiến; trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đƣa ra một số

biện pháp nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong công cuộc đổi mới.

Bài viết “Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ”, của tác giả Bùi Đình

Phong [115] nhận định “Dƣới ánh sáng cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ

nghĩa Mác - Lênin, cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở

nhận thức về sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới, những ngƣời phụ nữ bị hạ

nhục về tinh thần và thể xác, mà quan trọng hơn là “cải tạo thế giới”, tức là giải

phóng phụ nữ, bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ ngày

càng tiến bộ và phát triển”

Tác giả Bùi Thị Ngọc Lan trong bài viết “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vị trí,

vai trò của phụ nữ và nữ trí thức trong cách mạng Việt Nam” [79] đã phân tích nội

Page 16: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

11

dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vị thế, vai trò của phụ nữ và nữ trí thức trong cách

mạng Việt Nam, trong đó phân tích và khẳng định: Theo Hồ Chí Minh, vị thế của

phụ nữ do hoàn cảnh xã hội, điều kiện lịch sử cụ thể quy định

Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài

Cho đến nay đã có trên 350 tác phẩm và các công trình nghiên cứu, hàng trăm

bài tạp chí, hàng ngàn bài báo của các nhà nghiên cứu Lịch sử, Văn học, Triết học,

Tâm lý học, Văn hóa học, các nhà thơ, các phóng viên của các tờ báo lớn, đặc biệt là

nhiều chính khách, tƣớng lĩnh trên thế giới... viết về Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu Hồ Chí Minh dƣới góc độ nhà tƣ tƣởng, đặc biệt là tƣ tƣởng về

bình đẳng nam nữ, đã có một số bài viết, công trình đề cập đến, nhƣng chỉ là một

chƣơng hoặc một phần trong công trình, tác phẩm, mà dƣờng nhƣ không thấy có

công trình, tác phẩm nghiên cứu mang tính chuyên khảo.

Nhà sử học Mỹ J.Stenson, một trong những ngƣời đã dành nhiều thời gian

nhất trong đời nghiên cứu lịch sử của mình để tìm hiểu về Hồ Chí Minh. Bà đã bỏ

tiền cá nhân đi từ Mỹ sang Pháp và Liên Xô (cũ) để tìm hiểu về Hồ Chí Minh. Một

tƣ liệu lịch sử do bà J.Stenson cung cấp đƣợc nhắc lại, đáng để chúng ta suy ngẫm:

“Tôi là nhà sử học, tôi đã lật ra xem những trang ghi cảm tƣởng của mọi chính khách

đến tham quan, chiêm ngƣỡng tƣợng Thần Tự do và ca ngợi Thần Tự do… Mọi

chính khách sau khi đến tham quan tƣợng Thần Tự do đều ca ngợi ngôi sao tỏa sáng

trên vòng nguyệt quế là ánh sáng tự do… Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành đến xem

tƣợng Thần Tự do nhƣng nhìn xuống chân tƣợng và ghi: “ánh sáng trên đầu Thần

Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dƣới chân Thần Tự do thì ngƣời da đen đang bị

chà đạp. Bao giờ ngƣời da đen đƣợc bình đẳng với ngƣời da trắng? Bao giờ ngƣời

phụ nữ bình đẳng với ngƣời nam giới? Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống

chân tƣợng Thần Tự do và ghi lại ý kiến trên” [67]. Từ việc tìm hiểu và nhận định

đó, J.Stenson đã đi tới khẳng định: “Trong số những lãnh tụ là nam giới Tô-mát

Giéc-phéc-sơn, Ma-hat-ma Giăng-đi, C.Mác, V.I.Lênin, Mao Trạch Đông, Lu-thơ-

kinh và Nen-sơn Men-đê-la, chỉ có Hồ Chí Minh đã luôn luôn bộc trực về quyền

Page 17: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

12

bình đẳng của phụ nữ, về giáo dục, tự do ngôn luận độc lập về kinh tế và quyền của

phụ nữ đƣợc hƣởng các quyền lợi khác nhƣ của nam giới. Chỉ có Hồ Chí Minh là

thấy đƣợc rằng phụ nữ đã phải chịu những gánh nặng nhƣ nam giới và còn hơn thế

nữa [29, tr.221]. Nhận định đánh giá này góp phần quan trọng vào việc khẳng định

giá trị to lớn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, đây là tài liệu quý cho

tác giả trong quá trình hoàn thiện luận án.

Cuốn H Chí Minh tâm và tài của mộ ớc [153] của tác giả Đài

Trang, một tiến sĩ Việt Kiều định cƣ ở Canađa nhƣng rất nặng lòng với Việt Nam

và luôn hƣớng về Tổ quốc với sự khát khao tìm hiểu về cội nguồn. Là một giảng

viên ở Đại học Toronto, một nhà tƣ vấn của Liên hợp quốc trong một số dự án

phát triển ở Việt Nam, tác giả đã rất quan tâm nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

trong đó có tƣ tƣởng về bình đẳng nam nữ. Trên cơ sở nghiên cứu những bài

nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực trạng xã hội Việt Nam thời

điểm Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách mạng, tác giả đã dành một số

trang viết nêu và phân tích những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

về bình đẳng nam nữ trong đó giải thích nội hàm bình đẳng nam nữ: là phân

công hợp lý đến từng ngƣời, không nên đối xử nhƣ nhau, mà nên đối xử công

bằng [153, tr.153]; Là cách thức tiến hành bình đẳng nam nữ…

Tiếp tục mạch nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, trong

công trình H C M ă p ển, tác giả Đài Trang [154], đã dành một

mục trong chƣơng 5 của cuốn sách để viết về vấn đề bình đẳng nam nữ và khẳng

định: “Hồ Chí Minh là một trong số ít các nhà lãnh đạo ở Châu Á có đƣợc tƣ tƣởng

nhân văn lớn, một tƣ tƣởng trong đó phụ nữ đƣợc thực sự bình đẳng với nam giới

trong mọi phƣơng diện, thoát khỏi những áp bức, khổ đau hàng ngày trong xã hội để

mƣu cầu hạnh phúc” [154, tr.279]. Và đi tới kết luận “Lý ởng sâu xa H Chí Minh

rất cần thiết cho việc tìm ra giải pháp cho sự bình đẳng giới” [154, tr.285].

Một số tác giả khác nhƣ: Jean Sainteny với tác phẩm: "Face à Ho Chi Minh

(Đ i di n H Chí Minh)" [70]; Singô Sibata: "H Chí Minh - ởng", trong

Page 18: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

13

quyển “G ởng H Chí Minh trong thời ại ngày ” [130], X.

Aphônhin, E Côbêlép: "Đ ng chí H Chí Minh" [31], Furuta Matoo: "H Chí Minh

gi i phóng dân tộc và ổi mới" [109]... đi sâu nghiên cứu về cuộc đời hoạt động của

Hồ Chí Minh, trong đó có dành một phần đề cập đến tƣ tƣởng nhân văn Hồ Chí

Minh, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời nói chung trong đó bao hàm

quyền bình đẳng nam nữ.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về giới và bình đẳng giới

Giới và bình đẳng giới trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay là vấn

đề đƣợc nhiều nhà nghiên cứu cả trong nƣớc và ngoài nƣớc quan tâm thể hiện qua

các sách chuyên khảo, luận văn, luận án, bài viết tập trung khai thác từ các góc độ,

chuyên ngành khác nhau, hƣớng tới sự bình đẳng và tiến bộ của con ngƣời.

Cuốn Phụ nữ giới và phát triển của các tác giả Trần Thị Vân Anh và Lê

Ngọc Hùng [4] đã nêu lên một số luận cứ khoa học cho việc đổi mới chính sách xã

hội đối với phụ nữ và gia đình, đồng thời phác họa bức tranh đa dạng về vị trí, vai trò

của phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới. Đó là vị trí, vai trò của phụ nữ trong đổi mới

kinh tế - xã hội gắn với vấn đề việc làm, thu nhập, sức khỏe, học vấn chuyên môn;

phụ nữ quản lý kinh tế - xã hội; phụ nữ và gia đình; chính sách xã hội đối với phụ nữ

và ảnh hƣởng của chính sách xã hội đối với phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới.

Cuốn Quyề ộng nữ Vi t Nam trong thời kỳ ổi mới của Trung tâm

Nghiên cứu khoa học lao động nữ đã phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn và

nêu ra các quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền lao động nữ Việt Nam trong thời

kỳ đổi mới [157].

Công trình Những khái ni ơ b n về giới và vấ ề giới ở Vi t Nam, tác

giả Trần Thị Quế và các cộng sự đã đƣa ra các khái niệm cơ bản về giới và vấn đề

giới ở Việt Nam [123]. Đây là tài liệu tham khảo để tác giả luận án tham chiếu khi

đƣa ra khái niệm liên quan tới đề tài.

Công trình Phụ nữ b ẳng giớ ổi mới ở Vi t Nam [141]

của tác giả Lê Thi đã phân tích thực trạng đời sống lao động nữ trong giai

Page 19: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

14

đoạn đổi mới của đất nƣớc và những vấn đề cần quan tâm giải quyết nhƣ lao

động, việc làm và vấn đề bình đẳng giới; văn hóa, sức khỏe, gia đình và sự

bình đẳng về giới.

Công trình Nghiên c u phụ nữ, giớ [75] của tác giả Nguyễn

Linh Khiếu đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ cũng nhƣ quan hệ giới

trong gia đình thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, tiếp cận nguồn lực, giáo dục

và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, trong công trình tác giả nhấn mạnh hơn đối với

phụ nữ nông thôn miền núi, vị thế của họ trong gia đình cũng nhƣ những rào cản

văn hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ. Những kết luận mà tác giả khái

quát cũng chính là những vấn đề đặt ra cho những nhà khoa học cũng nhƣ những

nhà hoạch định chính sách đối với phụ nữ, giới và gia đình

Cuốn Nâng cao ă c phát triển bền vữ b ẳng giới và gi m

nghèo, Nguyễn Thị Hiên, Lê Ngọc Hùng [58] tìm hiểu khái niệm năng lực và

các vấn đề triết lý, chiến lƣợc nâng cao năng lực, nâng cao năng lực giới, năng

lực thể chế, năng lực dự án, năng lực đổi mới và phát triển tổ chức

Tác giả Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy ngu n l c trí th c nữ Vi t

Nam trong s nghi p công nghi p hóa, hi ại hóa [135] đã nêu bật tính đặc thù

nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức nữ Việt Nam, về chức năng của ngƣời phụ

nữ so với nam giới. Nội dung cuốn sách còn làm rõ những nhân tố tác động đến sự

phát triển của trí tuệ phụ nữ, vấn đề bình đẳng giới... đề xuất một số giải pháp

nhằm phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nƣớc.

Trong tập sách chuyên khảo: B ẳng giớ ộng và vi c làm với

ti n trình hội nh p ở Vi N : Cơ ội và thách th c [117], tác giả Nguyễn Nam

Phƣơng đã đề cập tới vấn đề bình đẳng giới trong lao động và việc làm, những cơ

hội và thách thức trong tiến trình hội nhập ở Việt Nam.

Cuốn B ẳng giới ở Vi t Nam của Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu

Minh [7], đã mô tả thực trạng bình đẳng giới, cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội

Page 20: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

15

của phụ nữ, nam giới và tƣơng quan giữa hai giới trong các lĩnh vực việc làm, thu

nhập, đào tạo, cơ hội nghỉ ngơi, giải trí…dựa trên kết quả của cuộc điều tra cơ bản

về bình đẳng giới trong hai năm 2005 - 2006.

Cuốn Một s thu t ngữ về giớ b ẳng giới, do Ban Luật pháp chính

sách Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Công ty Tƣ vấn đầu tƣ y tế

thực hiện [8] đã đƣa ra 42 thuật ngữ liên quan đến giới và bình đẳng giới làm công

cụ cho các nhà hoạch định chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, các nhà nghiên

cứu, các nhà hoạt động xã hội và cán bộ các chƣơng trình, dự án liên quan. Đây là

tài liệu tham khảo quý cho luận án.

Trong công trình Đ nh ki n và phân bi i xử theo giới: lý thuy t và th c tiễn

[45], Trần Thị Minh Đức đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến định kiến, phân biệt đối xử

với ngƣời phụ nữ. Theo tác giả, không phải chỉ đàn ông định kiến phân biệt đối xử với

giới nữ, mà ngay chính bản thân ngƣời phụ nữ, họ cũng định kiến về địa vị của mình

trong gia đình và ngoài xã hội, họ luôn coi mình không có giá trị bằng nam giới và mặc

định rằng những công việc nhƣ nội trợ, làm việc nhà… là của phụ nữ và hậu quả là

ngƣời phụ nữ phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi, không có cơ hội phát triển bản thân.

Công trình đã giúp tác giả luận án nhìn nhận rõ hơn về định kiến giới - một nguyên nhân

cản trở việc thực hiện bình đẳng giới hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.

Tác giả Nguyễn Đức Hạt trong công trình N ă ã ạo của

cán bộ nữ trong h th ng chính tr [57] đã trình bày những luận cứ khoa học, thực

tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ, tăng cƣờng sự

tham gia lãnh đạo, quản lý của họ trong bộ máy của Đảng, Nhà nƣớc và các tổ chức

đoàn thể ở Việt Nam trong tình hình mới. Đồng thời cũng đề cập tới các vấn đề phân

công lao động, dạy con và chăm sóc sức khỏe; hôn nhân, thái độ về tình dục và bạo

lực gia đình, đời sống tinh thần và khuôn mẫu giới.

Công trình Những vấ ề giới: từ l ch sử n hi ại, do các tác giả

Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch cùng các cộng sự thực hiện [77] đã phân tích

vấn đề giới trong các tác phẩm kinh điển mácxit, trong đƣờng lối của Đảng,

Page 21: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

16

chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam, trong truyền thông và Internet,

trong sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Công trình giúp tác giả nhận thấy sự

phát triển liền mạch tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ ở Việt Nam

trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

Cuốn ề “Vấ ề giớ b ẳng giới ở Vi t Nam và

một s ớc trên th giớ ” số 4(20)/2008 của Học viện Chính trị - Hành chính khu

vực I thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [47], gồm các

bài viết của nhiều tác giả tập trung vào các vấn đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn về

giới và bình đẳng giới; thực trạng vấn đề giới và bình đẳng giới ở Việt Nam và một

số nƣớc trên thế giới; định hƣớng và giải pháp của Đảng, Nhà nƣớc nhằm bảo đảm

vấn đề bình đẳng giới ở nƣớc ta. Trong phần định hƣớng và giải pháp, một số bài

viết đã đi vào phân tích quan điểm Hồ Chí Minh và giải pháp của Đảng, Nhà nƣớc

về thực hiện bình đẳng giới. Tuy nhiên sự phân tích còn khá sơ sài.

Cuốn Khoa học giới - những vấ ề lý lu n và th c tiễn của tác giả Trịnh

Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch và các cộng sự [159] đã cung cấp một bức tranh về lịch

sử phát triển của khoa học giới; đồng thời nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách

tiếp cận các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội; Vấn đề giới trong lĩnh vực

kinh tế - lao động; giới trong chiến lƣợc giảm nghèo; giới trong lĩnh vực lãnh đạo,

quản lý; giới trong hoạch định và thực thi chính sách; giới trong lĩnh vực văn hóa;

giới trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo; giới trong gia đình và chiến lƣợc dân số;

lồng ghép giới trong các chƣơng trình phát triển.

Cuốn Giới và l ng ghép giới với hoạ ộng của qu c hội của tác giả

Lƣơng Phan Cừ cùng các cộng sự [33] ngoài việc nêu lên những vấn đề chung

về giới và bình đẳng giới ở Việt Nam, đã nêu lên vai trò, trách nhiệm của các cơ

quan của quốc hội, đại biểu Quốc hội đối với việc bảo đảm thực hiện bình đẳng

giới, một số kỹ năng lồng ghép giới trong hoạt động của Quốc hội.

Tác giả Trần Thị Rồi trong công trình nghiên cứu Quyề b ẳng nam

nữ trong hoạ ộng lãn ạo qu ý N ớc ở Vi t Nam qua ti n trình phát

triển của l ch sử [129] đã nghiên cứu sự ra đời, tổ chức bộ máy và cơ cấu nhân

Page 22: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

17

sự lãnh đạo, quản lý nhà nƣớc Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Công trình bƣớc

đầu khái quát và rút ra một số nhận định về quyền bình đẳng nam nữ trong hoạt

động lãnh đạo, quản lý nhà nƣớc từ khi nhà nƣớc Văn Lang - Âu Lạc ra đời cho

đến thời kỳ đổi mới, trong đó có thời kỳ Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách

mạng, trên cơ sở đó đƣa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện quyền bình

đẳng nam nữ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý nhà nƣớc hiện nay.

Tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết với các công trình chuyên sâu về giới tiếp cận

từ văn hóa, nhƣ: Đặc thù giới ở Vi t Nam và b n sắ ă ; Những hủ tục bất

ò ời phụ nữ Vi t Nam [165] đã phân tích các tập tục lạc hậu liên

quan đến phụ nữ - những ngƣời vốn chịu nhiều bất công trong xã hội có nguồn

gốc từ thuyết tam tòng, đã ăn sâu, bén rễ trong đời sống xã hội.

Nghiên c u qu c gia về bạo l i với phụ nữ ở Vi t Nam [152]

do Tổng cục thống kê tiến hành với sự trợ giúp kỹ thuật của Tổ chức y tế thế giới

(WHO), Bộ Y tế nằm trong khuôn khổ Chƣơng trình phối hợp chung giữa Liên

hợp quốc và Chính phủ Việt Nam về bình đẳng giới cho thấy một thực trạng đa số

phụ nữ Việt Nam đều có nguy cơ tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài

thời điểm nào đó trong cuộc sống của họ. Tại một số vùng ở Việt Nam, 4/10 phụ nữ

cho biết gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Rõ ràng bạo lực gia đình đã

gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe, thể chất và tinh thần ngƣời

phụ nữ. Nghiên cứu này là hồi chuông cảnh báo và đặt ra yêu cầu về việc thực hiện

bình đẳng giới trong gia đình.

Công trình Công nghi p hóa, hi ại hóa, dân chủ hóa vớ b ẳng giới ở

Vi t Nam hi n nay của các tác giả Lê Quốc Lý, Nguyễn Thị Nga [85] đã nghiên cứu

chuyên sâu về lý luận và thực tiễn về bình đẳng giới; tác động của công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, dân chủ hóa đối với bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Cuốn Vai trò của cán bộ ã ạo, qu n lý cấp ơ ở trong vi c th c hi n

mụ b ẳng giới ở Vi t Nam của Phạm Minh Anh [1] đã nghiên cứu cơ

sở lý luận và thực tiễn về vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong

việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam. Thực trạng vai trò của cán

Page 23: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

18

bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở

Việt Nam. Những nhân tố ảnh hƣởng và giải pháp nâng cao vai trò thực hiện

mục tiêu bình đẳng giới của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở Việt Nam.

Đề tài khoa học cấp bộ Phụ nữ Vi N ã ạo, qu n lý công

hi n nay do TS Đặng Ánh Tuyết và các cộng sự thực hiện đã nghiên cứu, mô tả

và phân tích thực trạng phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công; chỉ ra

các nguyên nhân, yếu tố ảnh hƣởng đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý công của

phụ nữ, đồng thời đề ra giải pháp phát huy và tăng cƣờng sự tham gia của phụ

nữ Việt Nam trong lãnh đạo và quản lý công. [163].

Luận án tiến sĩ Triết học Th c hi b ẳng giớ ở nông

ng bằng sông H ng hi n nay của Chu Thị Thoa [144]. Luận án đề cập tới

thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng, làm

sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu bình đẳng giới

trong gia đình nông thôn hiện nay.

Luận án tiến sĩ Quản lý Giáo dục Phát triể ộ ũ ữ cán bộ qu n lý

ờ Đại học Y Vi N ể b ẳng giới của Lƣơng

Hoàng Nga [110]. Luận án phân tích cơ sở lý luận phát triển đội ngũ cán bộ quản

lý trƣờng đại học Việt Nam theo quan điểm bình đẳng giới. Trình bày thực trạng

và giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trƣờng Đại học Y Việt Nam

theo quan điểm bình đẳng giới.

Luận án tiến sĩ Luật học Th c hi n pháp lu t về b ẳng giới ở Vi t

Nam của Trần Thị Quốc Khánh [71]. Luận án nghiên cứu xây dựng những cơ sở

lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Phân tích đặc điểm của việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam và

các yếu tố ảnh hƣởng. Đƣa ra một số quan điểm và giải pháp thực hiện pháp luật

bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Đồng thời, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí, kỷ yếu Hội thảo khoa

học nhƣ:

“Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, xã hội” của Trần Thị

Quốc Khánh [70], “Vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam giai đoạn hiện nay” của

Page 24: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

19

Dƣơng Thị Minh [93]; “Việt Nam với vấn đề bình đẳng giới” của tác giả Trịnh

Thị Hồng [60]; “Bình đẳng giới ở Việt Nam qua các chỉ số trong báo cáo phát

triển con ngƣời” của Vũ Thị Thành [139], Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế,

lao động, xã hội” của Trần Thị Quốc Khánh [70]; “Bất bình đẳng giới trong thu

nhập và việc làm: Thực trạng và giải pháp” của Trần Đức Vui [172]; “Bình đẳng

giới trong lao động việc làm” của Hồ Thị Hồng Nhung [114], “Bình đẳng giới và

sự tiến bộ của phụ nữ qua các bản Hiến pháp Việt Nam” của Nguyễn Văn Huê

[64]; “Sự tham gia của phụ nữ vào hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay”, của

PGS.TS Nguyễn Thị Vân Hạnh [55]; “Quan tâm hơn nữa việc thực hiện bình đẳng

giới , tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia các hoạt động quản lý Nhà nƣớc, xã hội” của

Hà Thị Khiết [73]; “Cán bộ quản lý cấp cơ sở trong thực hiện mục tiêu bình đẳng

giới” của TS Phạm Minh Anh [2]; “Thực hiện bình đẳng giới trong hệ thống chính

trị” của Võ Thị Mai, “Bình đẳng giới trong giáo dục ở Việt Nam - thành tựu và

những bài học kinh nghiệm” của Đỗ Thị Bích Thoan; “Phụ nữ trong khoa học và

giáo dục ” của GS.TSKH Võ Hồng Anh, “Bình đẳng giới trong thực hiện chính sách

giáo dục - đào tạo” của Đinh Thị Minh Tuyết và “Vai trò của trí thức nữ trong sn

công nghiệp hóa đất nƣớc” của Nguyễn Thị Phƣơng Linh, “Thực trạng định kiến đối

với vai trò của nam giới và nữ giới trong gia đình” của Đỗ Hoàng in trong Thông tin

ề s 4 (20), 2008 [47] Quyền tự do, trách nhiệm ngƣời phụ nữ trong việc

sinh con và vấn đề bình đẳng giới trong gia đình của tác giả Lê Thi [143];

Ngoài các công trình nghiên cứu trong nƣớc, một số công trình nghiên cứu

quốc tế cũng có liên quan đến đề tài, tiêu biểu nhƣ:

Cuốn M ời khái ni m lớn của xã hội học của tác giả Jean Cazennenva [67]

đƣa ra những nội dung cơ bản của các khái niệm lớn trong xã hội học, trong đó đề

cập tới khái niệm giới, là nội dung tham khảo cho luận án khi đƣa ra các khái

niệm liên quan.

Trong công trình L ng ghép giớ ơ ng dạy của Jean

Munro [69], tác giả cũng đã phân tích, chỉ rõ khái niệm về giới và lồng ghép giới

vào chƣơng trình giảng dạy…, đây là khái niệm tham chiếu cho đề tài.

Page 25: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

20

Trong cuốn “CEDAW Indicators for Shouth Asia: An vitiative” (Các chỉ

tiêu CEDAW cho khu v c Nam Á: Một sáng ki n) của Trung tâm nghiên cứu phụ

nữ (CENWOR) Srilanka, đã đƣợc dịch sang tiếng Việt và xuất bản năm 2004, với

sự tài trợ của văn phòng UNIFEM khu vực Nam Á. Ấn phẩm đã giới thiệu các chỉ

tiêu giám sát thực hiện CEDAW trong đó có các chỉ tiêu về luật pháp, về quyền

giáo dục, quyền việc làm, quyền sức khỏe của phụ nữ nông thôn. Các chỉ tiêu này

có thể sử dụng đánh giá tình hình thực hiện CEDAW của Việt Nam.

Tác giả Rea Abada Chiongson trong công trình nghiên cứu “CEDAW và

pháp lu t: Nghiên c u rà soát vă b n lu t Vi N ơ ở giới và quyền qua

ă CEDAW” đƣợc dịch ra tiếng Việt và in thành sách ở Việt Nam năm

2009 [128] đã dựa trên cơ sở giới và quyền trong khuôn khổ của CEDAW, đánh

giá việc ghi nhận của hệ thống pháp luật Việt Nam, nêu lên những điểm tƣơng

thích, chƣa tƣơng thích và đƣa ra khuyến nghị cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện

pháp luật Việt Nam để bảo đảm với những nội dung điều chỉnh dựa trên các điều

khoản của CEDAW về xóa bỏ phân bi t i xử và b b ẳng giới (dựa

trên Điều 1-3); Các bi n pháp tạm thời và những bi p p ời mẹ (dựa

trên Điều 4); Buôn bán bóc lột mại dâm phụ nữ (dựa trên Điều 6); S tham gia

của phụ nữ ời s ng chính tr , xã hội (dựa trên Điều 7-8); Quyền có qu c t ch

(dựa trên Điều 9); Quyền giáo dục (dựa trên Điều 10); Quyền làm vi c (dựa trên

Điều 11); Quyề ă c khỏe (dựa trên Điều 12); Quyề ời

s ng kinh t , xã hội (dựa trên Điều 13); Quyền của phụ nữ nông thôn (dựa trên

Điều 14); Quyề b ẳ ớc pháp lu t (dựa trên Điều 15); Quyền về hôn

(dựa trên Điều 16).

Học giả Jean Munro trong Báo cáo S tham gia của phụ nữ trong vai trò

ã ạo và qu n lý ở Vi t Nam đã nhận diện các xu hƣớng tham gia của phụ nữ

trong các cơ quan chính phủ, mô tả tổng quan khung pháp lý liên quan đến vai trò

lãnh đạo của phụ nữ và phân tích những thách thức và rào cản đối với phụ nữ. Báo

cáo khẳng định, dù Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực phụ nữ tham

chính, nhƣng vẫn còn khoảng cách giữa mục tiêu và kỳ vọng đƣợc đề cập trong

Page 26: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

21

các văn bản của Đảng, Nhà nƣớc. Vì vậy, Báo cáo đã đƣa ra các khuyến nghị đối

với Chính phủ Việt Nam: C ơ : Xem xét xóa bỏ các

thực tiễn phân biệt đối xử, về tuổi nghỉ hƣu của phụ nữ, giới hạn, tuổi đối với phụ

nữ trong tuyển dụng, bổ nhiệm, và đề cử tham gia tập huấn, bồi dƣỡng. Áp dụng

chính sách tuyển dụng, tập huấn và bổ nhiệm cụ thể, nhằm bảo đảm 30% phụ nữ

đảm nhiệm vị trí phó vụ trƣởng và vụ trƣởng trong Chính phủ và trong Đảng.

1.1.3 Những công trình nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh

về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam

Đây là mảng đề tài nghiên cứu còn ít, các công trình chƣa thực sự đi sâu

nghiên cứu sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực

hiện bình đẳng giới ở nƣớc ta hiện nay mà chủ yếu có một mặt nào đó liên quan

tới sự vận dụng trong thực tiễn, đáng kể là:

Cuốn Chủ t ch H C M ờ p ụ nữ Vi N ới bình

ẳng, t do, phát triển của tác giả Lê Thi [140]. Cuốn sách gồm 3 chƣơng trong

đó khẳng định vai trò của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dân tộc là

nhân tố phát triển của cách mạng; Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh soi sáng bƣớc phát

triển mới của phụ nữ Việt Nam hiện nay.

Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học

ởng H Chí Minh về quyề b ẳng của phụ nữ với vi c th c hi n trong thời

kỳ ổi mới của Trƣơng Thị Phúc [116]. Nghiên cứu những quan điểm cơ bản của

Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ và vận dụng vào thực hiện bình

đẳng giới trong thời kỳ đổi mới, đƣa ra những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện

bình đẳng của phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nƣớc

Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học V n

dụ ởng H Chí Minh về gi i phóng phụ nữ vào vi c phòng, ch ng bạo l c

i với phụ nữ ở Vi t Nam hi n nay của Ninh Thị Hồng Hạnh [56]

nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và vận dụng vào việc

phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, đề ra một số

giải pháp cơ bản nhằm tăng cƣờng tính hiệu quả của hoạt động phòng, chống bạo

Page 27: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

22

lực gia đình đối với phụ nữ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, góp

phần xây dựng gia đình - xã hội ổn định, tiến bộ, hạnh phúc.

Bên cạnh đó, còn một số bài viết: “Tăng cƣờng bình đẳng giới và nâng cao

vị thế, năng lực cho phụ nữ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh” tác giả Nguyễn Thị Kim

Dung [35] đã khái quát tình hình thực hiện bình đẳng giới ở nƣớc ta những năm đổi

mới, đồng thời đặt ra cần tăng cƣờng bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho

phụ nữ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; “Phát huy tinh thần bình đẳng giới của Hồ Chí

Minh” cuả tác giả Kim Yến [173] đã phân tích tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng

phụ nữ và sự vận dụng của Đảng, Nhà nƣớc trong thực hiện bình đẳng giới.

1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU IÊN QU N ĐẾN ĐỀ

TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.2.1. Những thành tựu cơ bản của các công trình khoa học liên quan

đến đề tài mà luận án kế thừa

Dƣới góc độ các chuyên ngành, các công trình khoa học trên đã phân tích,

đề cập nhiều khía cạnh khác nhau liên quan trực tiếp tới nội dung đề tài mà luận

án nghiên cứu, nhƣ:

Th nhất, với những cách tiếp cận khác nhau (xã hội học, triết học, tâm lý

học…), các công trình nghiên cứu đã đƣa ra đƣợc những nội dung cốt yếu về khái

niệm giới, bình đẳng, bình đẳng nam nữ, bình đẳng giới.

Th hai, các công trình nghiên cứu đã bƣớc đầu làm rõ tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về vai trò của phụ nữ, về giải phóng phụ nữ, gắn giải phóng phụ nữ

với mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,

giải phóng con ngƣời

Th ba, các công trình nghiên cứu đã đƣa ra một số nét khái quát, cơ

bản nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ. Tuy nhiên, những

nội dung đƣợc đề cập chƣa đƣợc toàn diện, đầy đủ và mang tính hệ thống,

đây là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ

Th , các công trình đã phân tích ở những khía cạnh khác nhau vai trò

của giới và bình đẳng giới trong phát triển xã hội; đồng thời nêu ra đƣợc một số

nội dung bình đẳng giới trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhƣ về chính

trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, gia đình.

Page 28: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

23

Th ă , sự cần thiết phải vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam

nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Một số công trình đã đề cập

tới sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ

của Đảng vào thực hiện bình đẳng giới, đem lại những kết quả, nâng cao vị thế,

vai trò của ngƣời phụ nữ. Từ đó đi tới việc khẳng định phải tiếp tục vận dụng tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới trong thời

kỳ hội nhập và phát triển.

Th sáu, một số công trình nghiên cứu đi trƣớc đã đƣa ra các giải pháp

thúc đẩy bình đẳng giới, tuy nhiên giải pháp thực hiện bình đẳng giới theo tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh chƣa đƣợc sự quan tâm một cách đúng mức. Đây là vấn đề

mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.

Kết quả của các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một

cái nhìn đầy đủ, đa dạng về những vấn đề liên quan tới luận án. Đây là những tài

liệu quý cả về lý luận và thực tiễn, để luận án tham chiếu trong quá trình triển

khai mục tiêu và nhiệm vụ của mình.

1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

Qua các tài liệu tìm đƣợc chúng tôi thấy chƣa có công trình nào nghiên cứu

chuyên biệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, ý nghĩa thực tiễn đối với

sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay ớ ộ của chuyên ngành H Chí Minh

học. Tức là đề cập một cách có hệ thống đến nội dung và bi n pháp th c hi n bình

ẳng nam nữ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đây chính là ểm mới c về ớng ti p

c n, c về nội dung nghiên c u củ ề tài mà nghiên cứu sinh lựa chọn. Chính vì

vậy, những vấn đề chƣa đƣợc phân tích sâu sắc trong các công trình nêu trên sẽ đƣợc

tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án.

Một là, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu của các

công trình đi trƣớc, tác giả luận án sẽ nghiên c u một cách có h th ng, phân tích,

lu n gi i làm sáng tỏ ơ ểm của H Chí Minh về b ẳng nam nữ,

qua đó khẳng định giá trị bền vững, giá trị khoa học và thực tiễn của tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ

Hai là, luận án khảo sát thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu,

Page 29: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

24

hạn chế, nguyên nhân của thành tựu, hạn chế, từ đó phát hiện những vấn đề đặt ra

trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Ba là, trên cơ sở nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng

nam nữ, thực trạng vận dụng, những vấn đề đặt ra và yêu cầu của tình hình mới,

luận án đề xuất quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy thực hiện

có hiệu quả bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

Tiểu kết chương 1

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên lĩnh vực đấu tranh vì

quyền con ngƣời nói chung, quyền bình đẳng nam nữ nói riêng, Hồ Chí Minh đã

để lại nhiều bài học quý báu. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ

hƣớng tới giải phóng toàn diện và triệt để con ngƣời là một trong những nội

dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam

nữ trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế

hiện nay, tác giả lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu các

công trình khoa học của các nhà nghiên cứu, có thể khẳng định có khá nhiều công

trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới, nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải

phóng phụ nữ. Đã có một số công trình đặt vấn đề và đề cập ít nhiều về tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ cũng nhƣ sự vận dụng tƣ tƣởng đó trong thời kỳ

đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, có thể thấy chƣa có công trình nào nghiên cứu một

cách hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ và vận dụng vào thực

hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các công trình

nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã rất đƣợc quan tâm. Đây chính là cơ

sở để xác định nhiệm vụ nghiên cứu và là nguồn tƣ liệu quan trọng để nghiên cứu

sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển, phục vụ cho việc nghiên cứu, hoàn thành luận

án của mình.

Page 30: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

25

Chương 2

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ

2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN

2.1.1. Khái niệm Giới (Gender)

Lý thuyết về giới đƣợc đề cập từ sớm và xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ

XV, trong công trình nghiên cứu của một phụ nữ Pháp Christine de Pisan

(1364-1430). Lý thuyết này tiếp tục đƣợc nghiên cứu vào thế kỷ XVII -

XVIII bởi các nữ văn sỹ ngƣời Anh - Aphra Behr (1640-1689) và Mary

Astell (1666-1731), những lý lu n gia nữ quyề u tiên và phát triển cùng

với sự phát triển của phong trào đấu tranh vì quyền của phụ nữ. Tuy nhiên,

mãi tới năm 1972, thuật ngữ giới “Gender” mới đƣợc bắt đầu sử dụng [46].

Tại Hội nghị Bộ trƣởng phụ nữ khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng

(APEC), tháng 10- 1998, thuật ngữ “Giới” (Gender) đã đƣợc sử dụng trong các văn

kiện của Hội nghị. Bản Khuôn khổ hội nhập phụ nữ trong APEC lần đầu tiên xác

định khái niệm Giới với ý nghĩa là “ph n ánh những khác bi t trên bình di n xã hội

giữa phụ nữ và nam giới về ò ộ, hành vi và các giá tr ”.

Ở Việt Nam, quan niệm về giới trƣớc đây chƣa thực sự thống nhất, có

nhiều cách hiểu khác nhau về giới. Trong các chƣơng trình quốc gia “Giới là một

thuật ngữ nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và

nữ, bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích” [8].

Trong công trình N ă ã ạo của cán bộ nữ trong h

th ng chính tr , tác giả Nguyễn Đức Hạt cho rằng: “Giới ở đây có hàm ý nói đến

mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới ở hai phƣơng diện sinh học – xã hội và văn

hóa – xã hội” [57, tr. 40]

Các tác giả Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch trong công trình Khoa học

Giới – những vấ ề lý lu n và th c tiễn [159] và Lê Thị Quý trong Giáo trình xã

hội học giới [125] đã thống nhất cách hiểu về giới, chỉ ra nguồn gốc, đặc trƣng

của khái niệm Giới.

Page 31: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

26

“Giới (Gender) là một khái niệm khoa học ra đời từ môn Nhân loại học, chỉ s

khác bi t giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và

quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ” [159, tr.29]

Quan niệm về giới còn đƣợc tiếp cận thông qua mối quan hệ giữa Phụ nữ

trong phát triển (Women and development- WID) hoặc Giới và phát triển

(Gender in development- GAD). Theo quan niệm WID đòi hỏi phải thu hút sự

tham gia đầy đủ của phụ nữ vào quá trình phát triển với tƣ cách là ngƣời thụ

hƣởng và ngƣời thực hiện mục tiêu phát triển. Tuy nhiên, quan điểm WID quá

nhấn mạnh vào phụ nữ, vô hình chung đã làm tăng gánh nặng cho phụ nữ: họ

vừa phải tham gia lao động xã hội, vừa phải thực hiện các vai trò khác nhau

trong tái sản xuất xã hội. Quan điểm GAD thay vì chỉ tập trung vào phụ nữ, đã

quan tâm đến mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới, đối mặt với sự bất bình

đẳng về quyền lực và trong việc ra quyết định, tìm cách giải quyết các nguyên

nhân sâu xa của tình trạng bất bình đẳng giới, đáp ứng những trải nghiệm cuộc

sống khác nhau của nam giới và nữ giới thông qua việc xem xét và giải quyết

vấn đề giới với sự tham gia của cả nữ và nam trong tất cả các phƣơng diện của

sự phát triển nhằm bảo đảm mọi thành viên trong xã hội đƣợc thụ hƣởng thành

quả phát triển một cách bình đẳng.

Lu B ẳng giới của Việt Nam năm 2006 (Điều 5) định nghĩa “Giới chỉ

đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội” [120].

Từ các cách hiểu trên ta thấy, nếu giới tính (sex) là sự khác biệt về mặt sinh

học giữa nam và nữ, đƣợc xác định bởi gen, thì giới còn gọi là giới xã hội lại đƣợc

hình thành thông qua quá trình giáo dục. Trong khi các đặc điểm giới tính rất ít

thay đổi thì các đặc điểm về giới lại rất đa dạng tùy thuộc vào điều kiện địa lý, thể

chế xã hội, lịch sử…

Nói đến giới và mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội

giữa nam giới và nữ giới, liên quan đến hàng loạt vấn đề về thể chế và xã hội

chứ không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay nữ giới nào. Khi

Page 32: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

27

tìm hiểu bản chất con ngƣời C.Mác viết “trong tính hiện thực của nó bản chất

con ngƣời là tổng hòa những quan hệ xã hội” [86, tr.11]. Trong tổng hòa các mối

quan hệ mà C.Mác đã nêu ra, bao gồm nhiều quan hệ đan xen nhƣ quan hệ giai cấp,

dân tộc, chủng tộc, tôn giáo… và có quan hệ giữa nam và nữ (quan hệ giới). Bản

chất con ngƣời không cố định, bất biến mà vận động theo sự vận động, phát triển

của xã hội vì vậy, mối quan hệ giữa nam và nữ cũng không bất biến mà có thể bình

đẳng hay bất bình đẳng tùy thuộc vào bản chất của mỗi hình thái kinh tế xã hội, vào

đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của vùng miền…

Có thể hiểu Giới là khái ni m chỉ s khác bi t giữa nam và nữ về mặt xã

hội. S khác bi t này thể hi n qua các m i quan h ơ ề a v xã hội

giữa phụ nữ và nam giới trong b i c nh xã hội cụ thể.

Đặc điểm giới và các mối quan hệ giới là các khía cạnh quan trọng của một

nền văn hóa, bởi chúng quyết định lối sống trong gia đình, ngoài cộng đồng và nơi

làm việc. Các đặc điểm giới rất khác nhau giữa các cộng đồng và quốc gia trên thế

giới - những đặc điểm này thay đổi theo thời gian và tƣơng thích với sự thay đổi

của hoàn cảnh. Các mối quan hệ và vai trò giới thay đổi theo thời gian, chịu sự tác

động của nhiều nhân tố: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật v.v.. Trong

tiến trình đó, một số giá trị đƣợc tái khẳng định trong khi một số khác bị xem xét

lại nếu không còn phù hợp.

Nhƣ vậy, giữa nam và nữ có những đặc trƣng hết sức khác nhau cả về mặt tự

nhiên và xã hội. S khác bi t t nhiên giữa nam và nữ mang tính bẩm sinh, không thể

thay đổi đƣợc và cũng không cần thay đổi, đó là sự hài hòa mà tạo hóa đã ban cho

loài ngƣời để duy trì và phát triển giống nòi. Ngƣợc lại, s khác bi t xã hội giữa nam

và nữ do xã hội tạo ra, sự khác biệt đó đã đƣa tới sự bất bình đẳng giữa nam và nữ.

Xóa bỏ bất bình đẳng giới là cần thiết và nhằm thay đổi tƣơng quan địa vị xã hội giữa

nam và nữ chứ không phải là xóa bỏ sự khác biệt giữa họ về mặt tự nhiên.

2.1.2. Khái niệm bình đẳng (Equality)

Khái niệm bình đẳng có những quan niệm hết sức khác nhau. Tác giả

Nguyễn Khắc Viện trong Từ ển xã hội học nêu:

Page 33: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

28

“Bình đẳng” đƣợc hiểu trên hai bình diện có quan hệ mật thiết với

nhau: bình diện tự nhiên và bình diện xã hội. Trên bình diện tự nhiên,

bình đẳng không có nghĩa là mọi ngƣời đều có năng lực thể chất và

tinh thần hoàn toàn giống nhau, tuy nhiên, bình đẳng đƣợc coi là một

thuộc tính tự nhiên của con ngƣời vì đó là con ngƣời.v.v

Trên bình diện xã hội, khái niệm bình đẳng bao hàm nhiều lĩnh khác

nhau: Bình đẳng chính trị, bình đẳng kinh tế, bình đẳng chủng tộc và

dân tộc, bình đẳng giới tính v.v… [170, tr.21-23]

Tác giả Cung Văn Tiến trong Từ ển tri t học định nghĩa: “Bình đẳng là

khái niệm nói lên vị trí nhƣ nhau của con ngƣời trong xã hội nhƣng lại có nội

dung khác nhau trong những giai đoạn lịch sử khác nhau và ở những khoa học

khác nhau” [160, tr.87]

Theo Đại Từ ển Ti ng vi t do Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên nêu: “Bình đẳng

là sự ngang nhau về nghĩa vụ và quyền lợi: bình đẳng trƣớc pháp luật, bình đẳng

nam nữ” [173 ;tr.16]

Theo Từ ển Bách khoa Vi t Nam:

Bình đẳng là sự đƣợc đối xử với nhau về các mặt chính trị, kinh tế,

văn hóa… không phân biệt thành phần và địa vị xã hội, trong đó trƣớc

tiên và cơ bản nhất là bình đẳng trƣớc pháp luật. v.v.

Bình đẳng trƣớc pháp luật, nguyên tắc thể hiện sự bình đẳng về các

quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân trƣớc nhà nƣớc,

pháp luật và tòa án, là một trong những nguyên tắc cơ bản của nền dân

chủ. [60, tr.232]

Trong khoa học pháp lý, bình đẳng đƣợc quan niệm là một trạng thái pháp

lý đƣợc pháp luật xác lập, giữa các chủ thể có sự ngang bằng về quyền và nghĩa

vụ, trách nhiệm mà không phụ thuộc vào sự khác biệt của các chủ thể đó. Một

trong các quyền bình đẳng quan trọng nhất là bình đẳng nam nữ.

Từ các định nghĩa trên có thể hiểu: B ẳng là s ngang nhau về quyền

l ĩ ụ, trách nhi m của các chủ thể, không phân bi t s khác bi t nào (ví

dụ: giới tính, ngôn ngữ, dân tộ …)

Page 34: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

29

2.1.3. Khái niệm bình đẳng nam nữ

Bình đẳng nam nữ là khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau, chƣa thực

sự thống nhất.

Nhận định của tác giả Nguyễn Khắc Viện trong Từ ển Xã hội học cho rằng:

“Trong một thời gian khá dài, bình đẳng nam nữ đƣợc quan niệm

nhƣ thực hiện một sự ngang nhau của nam giới và nữ giới trong

mọi lĩnh vực hoạt động sống của xã hội, theo phƣơng châm phụ

nữ có thể và có quyền làm tất cả những gì nam giới có thể và có

quyền làm. Bất bình đẳng nam nữ về mặt xã hội đƣợc giải quyết

theo hƣớng đó rốt cuộc lại làm triệt tiêu những khác biệt tự nhiên

giữa hai giới tính. Gần đây đã xuất hiện những xu hƣớng mới về

bình đẳng nam nữ, theo đó việc khắc phục tình trạng bất bình

đẳng nam nữ không thể dẫn tới sự triệt tiêu những khác biệt tự

nhiên giữa hai giới, hơn nữa còn tôn trọng những sự khác biệt đó.

[170, tr.119]

Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong lịch sử lập pháp từ trƣớc đến nay, có ba

mô hình bình đẳng nam nữ, là: Mô hình bình đẳng hình thức, mô hình bình đẳng

bảo vệ và mô hình bình đẳng thực chất.[89, tr.36]

Mô hình bình đẳng hình thức coi nam và nữ nhƣ nhau, vì vậy đối xử với

họ nhƣ nhau, không để ý đến sự khác biệt về sinh học và sự khác biệt do xã hội

quy định. Mô hình này cho rằng phụ nữ có thể tiếp cận các cơ hội nhƣ cách của

nam giới. Cách tiếp cận này tạo gánh nặng cho phụ nữ, buộc họ phải thể hiện

mình theo cách của nam giới

Mô hình bình đẳng bảo vệ nhìn nhận sự khác biệt nhƣng xem xét các

điểm yếu của phụ nữ để đối xử khác biệt, chính vì thế đã vô hình chung làm cản

trở sự lựa chọn của phụ nữ do bị loại trừ trong một số cơ hội, phụ nữ bị mất hàng

loạt cơ hội khác. Mô hình này củng cố khuôn mẫu về phụ nữ và không dẫn đến

các biến đổi xã hội.

Page 35: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

30

Mô hình bình đẳng thực chất nhìn nhận sự khác biệt giữa nam và nữ về

sinh học và sự khác biệt xã hội do lịch sử để lại. Đồng thời chú ý đến bình đẳng

trong pháp luật và bình đẳng trong thực tế. Điều chỉnh các môi trƣờng có ảnh

hƣởng tiêu cực đối với phụ nữ. Nhƣ vậy, mô hình này chú ý quan tâm bình đẳng

về cơ hội, tiếp cận cơ hội, hƣởng thụ cơ hội.

Trong ba mô hình trên, nghiên cứu sinh thống nhất với mô hình thứ ba bởi

mô hình thứ nhất sớm muộn cũng dẫn đến bất bình đẳng trên thực tế vì đã bỏ qua

những nhu cầu chính đáng của phụ nữ đƣợc pháp luật bảo hộ khi họ thực hiện

thiên chức của nữ giới (mang thai, sinh con) hoặc khi họ bị định kiến giới tác động

dẫn tới khó thực hiện đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp đã đƣợc quy định (quyền đƣợc

cử đi đào tạo hoặc bổ nhiệm, đề bạt làm lãnh đạo, quản lý, quyền đƣợc hƣởng

thừa kế nhƣ nhau không phân biệt con trai hay con gái….). Mô hình thứ hai cũng

chƣa phù hợp với công ƣớc CEDAW mà Việt Nam đã cam kết là quốc gia thành

viên. Mô hình thứ ba, cùng với quy định chung về bình đẳng nam nữ cũng cần có

những quy định riêng cho phụ nữ, thậm chí cả những quy định tạm thời nhằm đạt

đƣợc bình đẳng về thực chất giữa nam và nữ, đây cũng chính là nội hàm quan

trọng của bình đẳng giới, là sự lựa chọn của CEDAW.

2.1.4. Khái niệm bình đẳng giới (Gender equality)

B ẳ ớ là thuật ngữ mới trong xã hội hiện đại, là khái niệm có sự

thống nhất khá cao về cách hiểu trong các nhà nghiên cứu và cả luật pháp.

B ẳ ớ theo quan niệm xã hội học là sự đối xử ngang quyền giữa

hai giới nam và nữ, cũng nhƣ giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội, có xét đến

đặc điểm riêng của nữ giới, đƣợc điều chỉnh bởi các chính sách đối với phụ nữ

một cách hợp lý. Hay nói cách khác, b ẳ ớ là sự thừa nhận, sự coi trọng

ngang nhau đối với các đặc điểm giới tính và sự thiết lập các cơ hội ngang nhau

đối với nữ và nam trong xã hội.

Luật Bình đẳng giới định nghĩa: B ẳng giới là vi c nam, nữ có v trí,

ò c tạ ều ki ơ ộ p ă c của mình cho

Page 36: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

31

s phát triển của cộ ng, củ ụ ở ề thành qu

của s phát triể [120].

Tác giả Nguyễn Đức Hạt trong N ă ã ạo của cán bộ nữ

trong h th ng chính tr , cho rằng: “Bình đẳng giới đƣợc hiểu là bằng nhau, ngang

nhau và nhƣ nhau trên các lĩnh vực cơ bản nhƣ: Quyền con ngƣời; Quyền công

dân; Tiêu chuẩn công chức; Cơ hội; Sân chơi bình đẳng giới giữa các đối tác (nam

và nữ)….” [57, tr.40]

Các tác giả Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch trong công trình Khoa học

Giới – những vấ ề lý lu n và th c tiễn cũng cho rằng:

“Bình đẳng giới là biểu đạt sự đối xử nhƣ nhau của xã hội đối với nam

và nữ; là trạng thái (hay tình hình) xã hội trong đó phụ nữ và nam giới

có vị trí nhƣ nhau, có cơ hội nhƣ nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng

của mình, sử dụng nó cho phát triển của xã hội và đƣợc hƣởng lợi từ

kết quả của sự phát triển đó” [159, tr.37]

Một số tác giả Lê Thị Quý, Phạm Minh Anh trong công trình Giáo trình xã

hội học giới [125]; Vai trò của cán bộ ã ạo, qu n lý cấp ơ ở trong vi c

th c hi n mụ b ẳng giới ở Vi t Nam [1]…thống nhất cách hiểu theo

Luật Bình đẳng giới

Từ sự khái quát trên, có thể hiểu: B ẳng giới là nam giới và nữ giớ ều

có v trí, vai trò ngang nhau trong xã hội. Nam giới và nữ giới ề ởng các

ều ki b ẳ ể p ủ các tiề ă ủa họ ơ ộ ể p

và thụ ởng l ừ ờng phát triển qu c gia, chính tr , kinh t ,

ă ã ội.

Tuy nhiên, cần lƣu ý, bình đẳng giới ý ĩ ơ n là sự

cân bằng về số lƣợng giữa phụ nữ và nam giới, hoặc trẻ em trai và trẻ em gái trong

mọi hoạt động của xã hội. Bình đẳng giới ở đây đƣợc hiểu là những ặ ểm

gi ng và khác nhau giữa phụ nữ và nam giớ ù c thừa nh n và coi trọng

. Phụ nữ và nam giới cùng có ơ ội ngang nhau để thực hiện các quyền

cũng nhƣ cơ hội đóng góp và thụ hƣởng vào quá trình phát triển đất nƣớc. Điều

Page 37: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

32

này không có nghĩa là phụ nữ và nam giới hoàn toàn nhƣ nhau hay giống hệt

nhau, song những điểm tƣơng đồng và khác biệt của họ đƣợc xã hội thừa nhận và

coi trọng ngang nhau.

Bình đẳng giới là một nội dung của bình đẳng xã hội, khi mà nữ giới và

nam giới có đƣợc vị trí xã hội nhƣ nhau, các khác biệt tự nhiên giữa họ đều đƣợc

tôn trọng. Sự phát triển toàn diện của mỗi ngƣời (nam cũng nhƣ nữ) đƣợc xem là

điều kiện phát triển, tiến bộ của xã hội.

Bình đẳng giới có nghĩa là mọi khác biệt về hành vi, suy nghĩ, tình cảm,

nhu cầu, lợi ích của nữ giới và nam giới đều phải đƣợc tính đến một cách ngang

nhau, đều phải đƣợc đánh giá và đối xử một cách ngang bằng.

Nhƣ vậy, bình đẳng giới không chỉ bao hàm vấn đề quyền bình đẳng nam

nữ nhƣ trƣớc đây - mang tính xác lập quyền cho phụ nữ đƣợc bình đẳng với nam

giới về nguyên tắc chung. Đồng thời, bình đẳng giới hiện nay còn đƣợc hiểu là

sự xác lập, thừa nhận vị trí, vai trò ngang nhau, đồng thời khi cần thiết, cần phải

quy định các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới nhằm đảm bảo bình đẳng giới

thực chất.

Đi cùng với khái niệm “b ẳng giới” là khái niệm “bấ b ẳng giới”.

Bất bình đẳng giới đƣợc coi là hệ quả của sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới,

nghĩa là nam giới hay nữ giới bị đối xử khác nhau, do các điều kiện giới dẫn đến

cơ hội phát huy các tiềm năng cũng nhƣ việc tiếp cận, hƣởng thụ các nguồn lực và

thành quả cũng có sự khác nhau.

Đấu tranh để tiến tới bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan

trọng của xã hội, đảm bảo sự tăng trƣởng bền vững của nền kinh tế quốc dân. Bởi

bình đẳng giới vừa là vấn đề cơ bản về quyền con ngƣời, vừa là yêu cầu về sự

phát triển công bằng, hiệu quả và bền vững. Việc tạo cơ hội phát triển nhƣ nhau

của cả nam giới và nữ giới chính là chìa khóa để tiến tới từng nấc thang của mục

tiêu bình đẳng giới trong gia đình cũng nhƣ ngoài xã hội.

Page 38: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

33

2.1.5. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ

Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, bình đẳng nam nữ là phụ nữ có vị

trí, vai trò ngang nam giới, do đó có quyền đóng góp và thụ hƣởng thành quả

xã hội ngang nam giới, đồng thời có thêm một số quyền ƣu đãi đặc biệt khi

gánh vác thêm nghĩa vụ xã hội (sinh con và nuôi dạy con cái). Hồ Chí Minh

đặc biệt phê phán quan điểm máy móc, giản đơn cho rằng bình đẳng nam nữ là

sự phân chia công việc ngang nhau, nhƣ “hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét

nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát” mà không chú ý tới đặc điểm giới

giữa nam và nữ, đặc điểm do tạo hóa quy định. Trong quan điểm bình đẳng

nam nữ của Hồ Chí Minh luôn hƣớng tới sự ƣu tiên đặc biệt đối với phụ nữ, do

bối cảnh xã hội lúc đó, phụ nữ là đối tƣợng chịu nhiều thiệt thòi nhất và hƣớng

tới giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ.

Từ những nội dung trên, có thể khái quát: ở H C M ề b

ẳ ữ ể ề ò ọ ủ p ụ ữ

ĩ ủ ờ ã ộ ; ề ộ ề b p p p

ă b ề ủ ờ p ụ ữ b ẳ ớ ớ

các ĩ ủ ờ ã ộ ở H C M ề b ẳ ữ

ể ắ ủ ĩ ă ạ ủ ĩ ớ

H C M

2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ

Trong các bài nói, bài viết của mình, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh

ít dùng thuật ngữ “bình đẳng nam nữ”, mà thƣờng dùng cụm từ “nam nữ bình

quyền”. Ngƣời có 02 bài viết trực tiếp về nam nữ bình quyền và thuật ngữ này

đƣợc nhắc 9 lần trong các thời gian khác nhau. Đồng thời, Ngƣời cũng 4 lần

dùng thuật ngữ nam nữ bình đẳng. Tuy nhiên, nội hàm và ý nghĩa của việc

đấu tranh cho nam nữ bình quyền của Hồ Chí Minh luôn hƣớng tới sự bình

đẳng nam nữ.

Page 39: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

34

2.2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của phụ nữ, về giải

phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ

2.2.1.1. Về vị trí, vai trò của phụ nữ trong đời sống xã hội và trong sự

nghiệp cách mạng

Sinh thời, Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò và khả

năng to lớn của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam cũng

nhƣ của thế giới. Trong tƣ duy Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần

chúng nhân dân, phụ nữ là lực lƣợng to lớn trong nhân dân, vì vậy, phụ nữ có vai

trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội và sự nghiệp cách mạng.

Trong phát triển xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định: "nói phụ nữ là nói phân

nửa xã hội", vì vậy, phụ nữ là lực lƣợng quan trọng trong quá trình phát triển xã

hội, phát triển lực lƣợng sản xuất trên tất cả các lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn

hóa… Bất cứ lĩnh vực nào cũng có bàn tay, khối óc của phụ nữ. Họ vừa đảm

đang, cần cù trong lao động, vừa anh hùng bất khuất trong đấu tranh, vừa nhân

nghĩa thủy chung trong quan hệ gia đình, xã hội, đó là những nét điển hình tốt

đẹp của phụ nữ Việt Nam từ ngàn xƣa đến nay. Những ƣu điểm đó đã tạo thành

một sức mạnh phi thƣờng, một truyền thống quý báu của phụ nữ. Chủ tịch Hồ

Chí Minh khi tổng kết lịch sử nƣớc ta đã nhận xét:

"Phụ nữ ta chẳng tầm thƣờng

Đánh Đông dẹp Bắc, làm gƣơng để đời" [96, tr.260].

Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền dựng nƣớc với giữ

nƣớc, chống xâm lƣợc, bảo vệ độc lập tự do là điều kiện tiên quyết để dân tộc tồn

tại và phát triển. Trong quá trình đó, có thể thấy rõ những ngƣời đầu tiên đứng lên

giành độc lập cho Tổ quốc là phụ nữ. Hồ Chí Minh khẳng định: “Từ đầu thế kỷ

thứ nhất, Hai Bà Trƣng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân” [108, tr.172]. Tục

ngữ có câu “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” là truyền thống đặc biệt của phụ nữ

Việt Nam từ thời đại Hùng Vƣơng dựng nƣớc đến thời đại Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, phụ nữ còn có đóng góp to lớn đảm bảo cho xã hội tồn tại và

phát triển. Phụ nữ với tƣ cách ngƣời vợ, ngƣời mẹ sinh con góp phần tái sản xuất

Page 40: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

35

xã hội; là ngƣời thầy đầu tiên của mỗi con ngƣời góp phần gìn giữ, trao truyền các

giá trị văn hóa của dân tộc từ đời này qua đời khác. Hồ Chí Minh đã nhận định:

“Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy

những thế hệ anh hùng của nƣớc ta” [108, tr.172].

Trong sự nghiệp cách mạng, trƣớc hết là lịch sử cách mạng thế giới, Hồ

Chí Minh nhận thấy: “Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có

đàn bà con gái tham gia…nên muốn thế giới cách mệnh thành công, thì phải vận

động đàn bà con gái công nông các nƣớc” [95, tr.313]. Điểm lại lịch sử các cuộc

cách mạng thế giới, nhƣ cách mạng Pháp, cách mạng Nga đều có sự đóng góp to

lớn của phụ nữ. Từ thực tế lịch sử đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “An Nam cách

mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công” [95, tr.315]. Việc xác định

đúng vị trí, vai trò của phụ nữ trong cách mạng có ý nghĩa to lớn, là nhân tố góp

phần đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.

Với nhãn quan tinh tế, Hồ Chí Minh đã đánh giá chính xác vai trò của phụ

nữ Việt Nam và khẳng định những đóng góp to lớn của họ trong cách mạng giải

phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ hoạt động bí mật, đấu tranh giành chính quyền, nhiều chị em đã

giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động rất dũng cảm. Các bà, các chị đã vƣợt

qua muôn ngàn nguy hiểm, gian khổ để bảo vệ cách mạng và cán bộ hoạt động

cách mạng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn biết ơn và biểu dƣơng những tấm

gƣơng điển hình, nhƣ chị Nông Thị Trƣng ở Cao Bằng đã từng nuôi giấu cán bộ

cách mạng; chị Mã Thị Phảy ở Lạng Sơn đã bất chấp nguy hiểm nhiều lần vƣợt

biên giới làm liên lạc cho cách mạng; chị Minh Khai, chị Võ Thị Sáu… đã cống

hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng

tháng Tám năm 1945 của lịch sử dân tộc có phần đóng góp to lớn của phụ nữ.

Trong hai cuộc kháng chiến trƣờng kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc

Mỹ, phụ nữ có mặt trên khắp các mặt trận ở tiền tuyến cũng nhƣ hậu phƣơng,

phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu. Trong phục vụ chiến đấu, có biết bao

phụ nữ đã bất chấp gian lao nguy hiểm để che giấu, canh gác, bảo vệ cán bộ cách

Page 41: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

36

mạng. Các chị, các mẹ đã đào hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ từ lúc tóc còn xanh,

đến khi đầu bạc, vẫn thủy chung, son sắc với cách mạng; nhiều chị làm giao liên,

liên lạc anh dũng, gan dạ luồn lách qua các đồn bốt, vƣợt qua mạng lƣới do thám,

mật vụ dày đặc của kẻ thù, chuyển thƣ từ, công văn một cách an toàn; nhiều chị

kiên trì, len lỏi trong thôn xóm để gây dựng cơ sở, gây dựng phong trào cách

mạng, vận động binh sĩ về với cách mạng; nhiều chị em khác thì xung phong đi

dân công, tải lƣơng thực đạn dƣợc, làm đƣờng…

Minh chứng cho công lao của các bà mẹ đã anh dũng che chở cho bộ đội,

khuyến khích chồng, con đi chiến đấu, chịu đựng những mất mát đau thƣơng, Hồ

Chí Minh nêu lên tấm gƣơng tiêu biểu của bà mẹ Suốt ở Quảng Bình đã xông pha

bom đạn, không sợ sóng to gió lớn, suốt ngày đêm chèo thuyền đƣa bộ đội và cán

bộ qua sông để chiến đấu. Bà mẹ Cán, ngƣời Thái ở Sơn La, bà mẹ Đích ở Thái

Bình đã động viên tất cả các con tham gia cách mạng, bản thân các mẹ cũng trực

tiếp tham gia Bạch đầu quân và giúp đỡ gia đình chiến sĩ [108, tr.172-173]

Thực tế cho thấy, những đóng góp của phụ nữ trong cách mạng giải phóng

dân tộc là vô cùng to lớn, Hồ Chí Minh nhận định: “Các bà mẹ chiến sĩ và các chị

em giúp thƣơng binh đã hòa lẫn lòng yêu nƣớc, yêu con, yêu chiến sĩ thành một

mối yêu thƣơng không bờ bến, mà giúp đỡ chiến sĩ và săn sóc thƣơng binh nhƣ

con em ruột thịt của mình” [100, tr.339]. Ngƣời đã nhiều lần gửi thƣ tỏ lòng biết

ơn đến các nữ anh hùng và ghi nhận công lao đóng góp của họ với tấm lòng thành

kính, trân trọng: "Tôi kính cẩn nghiêng mình trƣớc linh hồn các nữ liệt sĩ đã hy

sinh cho Tổ quốc,... Tôi kính chào các bà mẹ có con trong bộ đội, và các bà mẹ

cùng vợ con của các liệt sĩ mà trong cuộc kháng chiến to lớn của dân tộc ta đang

gánh một phần quan trọng" [101, tr.339]. Tất cả những đóng góp to lớn của phụ

nữ nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thì đồng bào ta nói chung, phụ nữ ta nói

riêng, "xứng đáng với tổ tiên ta ngày trƣớc" [101, tr.38].

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, ở miền Nam chị em phụ nữ đã trở

thành lực lƣợng đông đảo nhất, đấu tranh rất bền bỉ, kiên trì trên cả ba mặt trận:

chính trị, quân sự, binh vận. Những đội quân tóc dài đã gan góc xông pha, bất

Page 42: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

37

chấp súng đạn, đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ; biến những buổi “tố

cộng” của địch thành buổi tố cáo, vạch trần âm mƣu, tội ác của bọn tay sai. Với

lực lƣợng quần chúng tay không, dựa vào lòng yêu nƣớc và ý chí quyết thắng,

bằng những lời lẽ đanh thép với nhiều hình thức phong phú, phong trào đấu tranh

trực diện của phụ nữ trở thành vũ khí sắc bén, tấn công liên tục làm cho quân địch

hoảng sợ, chùn bƣớc.

Tự hào về những thành tích của chị em phụ nữ miền Nam, tại lễ kỷ niệm

lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tuyên

dƣơng: "Miền Nam anh hùng có đội quân đấu tranh chính trị gồm hàng vạn chiến

sĩ toàn là phụ nữ. Họ rất mƣu trí và dũng cảm làm cho địch phải khiếp sợ và gọi

họ là "đội quân tóc dài" [108, tr.173]. Những gƣơng điển hình phải kể đến là:

"Phó tƣ lệnh quân giải phóng là Cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nƣớc ta

có vị tƣớng quân gái nhƣ vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta"

[108, tr.173] các cô Út Tịch, Tạ Thị Kiều, Trần Thị Vân và nhiều ngƣời khác là

những tấm gƣơng để chị em noi theo. Họ chính là những ngƣời đã phát động và

dấy lên ở khắp nơi phong trào "tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt". Điều này đã

góp phần thúc giục nhân dân cả nƣớc nói chung, nhân dân miền Nam nói riêng

giết giặc lập công, đóng góp vào chiến thắng của cả dân tộc.

Không chỉ ở miền Nam mà cả ở miền Bắc, hàng triệu phụ nữ cũng hăng hái

tham gia đấu tranh chính trị, hỗ trợ cho đồng bào và chị em miền Nam ngăn chặn,

hạn chế những hành động tội ác của Mỹ - Diệm, gánh vác công việc gia đình để

chồng con đi chống Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhiều lần gửi thƣ khen ngợi,

tặng huy hiệu cho nữ xung kích, nữ dân quân ở các địa phƣơng miền Bắc đã chiến

đấu dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay địch, bắn cháy tàu chiến Mỹ, cùng các thành

tựu chiến đấu khác. Ngƣời nói: “Trong phong trào thanh niên xung phong chống Mỹ,

cứu nƣớc, nhiều cháu thanh niên gái đã nêu gƣơng dũng cảm trong sản xuất và chiến

đấu nhƣ thanh niên gái Vĩnh Linh vừa sản xuất giỏi, vừa chiến đấu giỏi, tổ cầu đƣờng

Trần Thị Lý ở Quảng Bình và tiểu đội 9, đại đội 814 đã bảo đảm tốt giao thông dƣới

Page 43: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

38

làn bom đạn, đội dân quân gái ở Nam Ngạn đã góp phần bắn đƣợc nhiều máy bay

giặc Mỹ v.v.. [108, tr.175].

Vai trò và đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến chống Mỹ vô cùng to lớn,

họ xứng đáng với danh hiệu: "Phụ nữ Việt Nam dũng cảm đảm đang chống Mỹ cứu

nƣớc" mà Hồ Chí Minh đã trao tặng, xứng đáng với niềm tin yêu mà Ngƣời đã dành

cho phụ nữ Việt Nam. Từ những tấm gƣơng của ngƣời phụ nữ, Hồ Chí Minh đi đến

kết luận: “Nhƣ thế là từ xƣa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ Việt

Nam ta thật là anh hùng” [108, tr.175].

Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phụ nữ đã tích cực đóng góp công

sức vào xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh khẳng

định: "Phụ nữ ta tham gia ngày càng đông và càng đắc lực trong các ngành

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội" [107, tr.310].

Trong lĩnh vực kinh tế, Hồ Chí Minh cho rằng phụ nữ đã trở thành lực

lƣợng cơ bản trong sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hầu hết phụ nữ nông

thôn đều tham gia hợp tác xã. Nhiều phụ nữ đã trở thành ngƣời đứng đầu các hợp

tác xã nông nghiệp. Trên các công trƣờng, trong các nhà máy, xí nghiệp, chị em

làm đƣợc tất cả các việc mà xã hội thƣờng cho là chỉ có nam giới mới làm đƣợc,

nhƣ điều khiển máy tiện, máy khoan, máy dệt tối tân, lái máy xúc, lái xe vận tải

[105, tr.510]. Hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ lãnh đạo, làm Giám đốc, Phó

giám đốc các xí nghiệp. Ở các thành thị, phụ nữ đã góp phần quan trọng trong

phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa "chị em buôn bán nhỏ đã tổ chức lại, đi vào

con đƣờng hợp tác và sửa đổi cách làm ăn buôn bán nhƣ thực thà, không lấy

lãi, khiêm tốn phục vụ khách hàng rất đáng khen. Chị em tƣ sản tự mình tiếp

thu và khuyên chồng tiếp thu cải tạo và đi vào con đƣờng công tƣ hợp doanh"

[105, tr.510]. Hồ Chí Minh kết luận: “s ộng của phụ nữ ở đây thật lạ

lùng… Họ thay thế công việc cho những trai tráng đi vào bộ đội, bất kỳ việc gì

nặng nhọc mấy, họ cũng làm đƣợc. Có thể nói rằng ở Đông Nam Á, phụ nữ Bắc

Việt Nam là ngƣời lao động cừ nhất” [107, tr.657].

Page 44: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

39

Trong hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, phụ nữ

đã có nhiều đóng góp rất lớn, chị em đã không ngừng học tập nâng cao trình độ hiểu

biết của mình, để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này đã

đƣợc Hồ Chí Minh ghi nhận từ các phong trào: Bình dân học vụ, bổ túc văn hóa.

Ngƣời nhận xét "Trong phong trào phát triển bình dân học vụ, phụ nữ chiếm một

phần lớn trong số ngƣời dạy cũng nhƣ trong số ngƣời học" [98, tr.340]. Chính từ

những cố gắng trong học tập nâng cao trình độ văn hóa đã giúp phụ nữ có khả năng

tham gia tổ chức quản lý xã hội, “hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ chuyên môn

các ngành và cán bộ lãnh đạo, làm Giám đốc và Phó giám đốc các xí nghiệp, chủ

nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, Chủ tịch Ủy ban hành chính, Bí thƣ chi bộ Đảng..."

[108, tr.173]; "Hiện nay phụ nữ đã có ngƣời gánh vác những trách nhiệm nặng nhƣ

làm thẩm phán, chánh án v.v.." [105, tr.639] góp phần giữ kỷ cƣơng xã hội. Không

chỉ có thế, chị em phụ nữ còn vận động nhau tham gia công tác xã hội nhƣ: xây dựng

nhà trẻ, mẫu giáo, xây dựng công viên, tham gia tết trồng cây...

Chứng kiến sự nỗ lực của phụ nữ cũng nhƣ những thành tựu mà chị em đạt

đƣợc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Dƣới chế

độ chủ nghĩa xã hội, ngƣời phụ nữ dũng cảm có thể hoàn thành nhiệm vụ của

ngƣời đàn ông dũng cảm có thể làm, dù nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài năng và

nghị lực.

Với tầm nhìn khoa học và cụ thể, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất chính

xác vị trí, vai trò và khả năng của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách

mạng. Ngƣời khẳng định: “không có phụ nữ, riêng nam giới không thể làm

nổi công cuộc cách mạng” [106, tr.74]. Và từ đó, Ngƣời đã rút ra kết luận:

"Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng nhƣ già, ra sức dệt thêu

mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" [100, tr.340]. Đây là một tổng kết mang tính lịch sử,

đồng thời mang tính dự báo chính xác của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng vị trí, vai trò của phụ

nữ trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc; trong cách mạng giải phóng

dân tộc và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đây cũng là cơ sở tạo

Page 45: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

40

tiền đề cho sự phát triển những quan điểm trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ ở những giai đoạn cách mạng tiếp theo.

2.2.1.2. Về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ

Trên cơ sở xác định rõ vị trí, vai trò của phụ nữ, Hồ Chí Minh cho rằng

phải giải phóng phụ nữ ra khỏi ách áp bức, bất công, nghèo đói và dốt nát. Ngƣời

tìm cách đánh thức những tiềm năng cách mạng to lớn còn ẩn dấu trong mỗi phụ

nữ, phát huy sức mạnh của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,

giải phóng xã hội, giải phóng ngƣời phụ nữ.

Theo quan điểm Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện

bình đẳng nam nữ gắn chặt với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai

cấp, giải phóng con ngƣời. Đó cũng là cơ sở để bảo vệ và phát triển quyền

bình đẳng nam nữ. Thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc dƣới sự lãnh đạo

của Đảng để thủ tiêu mọi sự thống trị, xóa bỏ mọi ách áp bức bóc lột của thực

dân, phong kiến giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và

quyền con ngƣời trong đó có quyền bình đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh khẳng

định: chúng ta làm cách mạng là để giành lấy tự do, độc lập, dân chủ, bình

đẳng, trai gái đều ngang quyền nhau.

Trong tƣ tƣởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh luôn có tƣ tƣởng giải

phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Giải phóng dân tộc là tiền đề để giải

phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ.

Trong điều kiện đất nƣớc mất độc lập, nhân dân bị nô lệ, lầm than, thì phụ

nữ là ngƣời bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất. Hồ Chí Minh chỉ rõ nguyên nhân sâu

xa gây nên nỗi đau khổ cùng cực của ngƣời phụ nữ chủ yếu là do ách áp bức giai

cấp, áp bức dân tộc. Một dân tộc đã bị xâm lăng, mất chủ quyền thì không thể có

quyền tự do cho mọi ngƣời và càng không thể có quyền bình đẳng nam nữ. Trong

tác phẩm B ộ P p Hồ Chí Minh đã tố cáo đanh thép “chế độ

thực dân là ăn cƣớp…là hiếp dâm và giết ngƣời” [95, tr.115]. Ngƣời đã dành trọn

một chƣơng (Chƣơng XI) để trình bày về thân phận đen tối và nỗi khổ nhục của

ngƣời phụ nữ bản xứ. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong nỗi khổ chung của ngƣời

Page 46: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

41

dân bị mất nƣớc, ờ p ụ ữ ò ở ạ ủ bạ

dân. Nó khiến chị em phải chịu bao nỗi ê chề, nhục nhã cả về thể xác lẫn tinh

thần. Những hình ảnh, những con số nhƣ biết nói trong tác phẩm B

ộ P p đã minh chứng rõ nỗi khổ nhục, đắng cay của ngƣời phụ nữ

[95, tr.109-110]. Đồng thời, ngƣời p ụ ữ ẻ ò ở ọ ể ủ

b ộ ộ ủ . Cùng với nam giới, phụ nữ phải

chịu nhiều thứ thuế vô lý do chế độ thực dân đặt ra. Họ bị bóc lột sức lao động đến

cùng cực. Hồ Chí Minh chỉ rõ “Thật là một sự nhục nhã cho thế kỷ XX phải thấy

những phụ nữ bƣớc run run, đầu đội thúng than nặng, mà vẫn phải bƣớc vì đói; và

những trẻ em từ 12 đến 13 tuổi bò trong những đƣờng hầm chật hẹp, vừa đi bằng

bốn chân, vừa dùng răng kéo một thúng đầy!” [95, tr.145]. Cùng với đó, ngƣời

phụ nữ còn b ã ạ bởi chính sách ngu dân, bởi

những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu mà thực dân Pháp luôn duy trì và phát

triển nhằm dễ bề cai trị. Đặc biệt trong vấn đề hôn nhân và gia đình, họ phải chịu

nỗi khổ đau, bất hạnh, bị ép duyên, chịu cảnh lẽ mọn, bị ngƣợc đãi, đánh đập. Có

thể nói, chủ nghĩa thực dân đã gây ra bao cảnh tang tóc đau thƣơng cho phụ nữ: bị

áp bức bóc lột, bị đói khát, bệnh tật, bị xúc phạm nhân phẩm, bị hãm hiếp, giết hại,

tù đày, bắt bớ, bị cƣớp mất quyền tự do dân chủ, quyền làm ngƣời. “Không một chỗ

nào ngƣời phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngƣợc. Ngoài phố, trong nhà,

giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của

bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga” [95, tr.114]. Hồ

Chí Minh kết luận: "N ữ ộ bộ ộ p

ớ ử"

Đề cập tới quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội thuộc địa, Hồ Chí

Minh đã nhận định: “Trong xã hội và gia đình, ngƣời phụ nữ bị hạ thấp tột bậc và

không đƣợc hƣởng chút quyền gì. Hỡi chị em! Vì sao chị em lại phải chịu sự áp

bức bất công này”[95, tr.512]. Vì thế, Hồ Chí Minh tìm cách đánh thức những

tiềm năng cách mạng to lớn còn ẩn dấu trong mỗi phụ nữ, phát huy sức mạnh của

Page 47: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

42

phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải

phóng ngƣời phụ nữ.

Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân

tộc Việt Nam, đồng thời cũng đem lại cơ sở chính trị xã hội vững chắc để đổi đời cho

phụ nữ. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về “nam nữ bình quyền” đã sớm đƣợc ghi nhận trong

Tuyên ngôn độc lập năm 1945, khai sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất

nƣớc đƣợc độc lập, vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ càng trở

nên quan trọng cuộc cách mạng mới, trong sự nghiệp mà Hồ Chí Minh gọi là “sửa

sang thế đạo kinh dinh nhân quyền”.

Giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ là một bộ phận của cuộc

cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, phụ nữ chiếm một nửa tổng số

nhân dân và là lực lƣợng to lớn đóng góp công sức cho sự thành công của cuộc

cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự

giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”[105, tr.705]. Thực hiện sự

nghiệp giải phóng phụ nữ trong cách mạng xã hội để xóa bỏ tƣ tƣởng “trọng nam

khinh nữ”, xóa bỏ bất bình đẳng nam nữ, tạo điều kiện để phụ nữ phát huy hết mọi

khả năng của mình đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc.

Theo Hồ Chí Minh, quyền bình đẳng nam nữ chỉ đƣợc thực hiện một cách

triệt để khi kết hợp với cuộc cách mạng trong lĩnh vực tƣ tƣởng và sự phát triển

của xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật.

Việc xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ theo Ngƣời phải đƣợc thực

hiện trên cả 3 lĩnh vực: trong hoạt động xã hội, trong hôn nhân và gia đình, trong

đời sống cá nhân, trí tuệ, tâm lý, tình cảm. Nhiều ngƣời lầm tƣởng đây là việc dễ,

song Hồ Chí Minh đã khẳng định, đây là “cuộc cách mạng to và khó”, đòi hỏi sự

quan tâm của mọi ngƣời. Cái gốc của vấn đề là phải phát triển kinh tế, chính trị,

văn hóa, pháp luật phải cách mạng từng ngƣời, từng gia đình đến toàn dân.

Có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà tƣ tƣởng

đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đặt vị thế, vai trò của phụ nữ ngang với nam giới

và Ngƣời cũng là một trong những lãnh tụ tiêu biểu của thế giới đề cao sự nghiệp

Page 48: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

43

giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ, đúng nhƣ đánh giá của sử gia

ngƣời Mỹ J.Stenson đã nhận định trong công trình nghiên cứu của mình, so với

các lãnh tụ nổi tiếng thế giới, chỉ có Hồ Chí Minh là đã luôn luôn nói về quyền

bình đẳng của phụ nữ, thấy đƣợc rằng phụ nữ đã phải chịu những gánh nặng nhƣ

nam giới và còn hơn thế nữa [29, tr.221].

Vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ trong tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Đây là quan điểm mang tính khoa học

và có tính thực tiễn cao. Ngƣời đánh giá “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu

không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài ngƣời. Nếu không

giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [105, tr.300]. Sự

nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ là một trong những mục

tiêu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa,

là cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội và gia đình. Đây là một trong những mục tiêu mà trong suốt cuộc

đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân thực hiện.

2.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung bình đẳng nam nữ

Bình đẳng nam nữ là một nội dung đƣợc thể hiện rất sớm trong tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ năm 1930,

trong C ơ ắn tắt, một văn kiện quan trọng của Hội nghị thành lập Đảng,

do Hồ Chí Minh soạn thảo, nội dung nam nữ bình quyền đã đƣợc đề cập tới.

Chánh cƣơng ghi rõ:

“Về phƣơng diện xã hội thì:

a) Dân chúng đƣợc tự do tổ chức.

b) Nam nữ bình quyền, v.v..”[96, tr.1]

Tiếp đó, nam nữ bình quyền cũng là một trong tám vấn đề quan trọng trong

nội dung về chính trị của C ơ trình Vi t Minh (tháng 5 – 1945), đƣợc Đảng

Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đề ra trƣớc Cách mạng Tháng Tám: “Về các

phƣơng diện kinh tế, chính trị, văn hoá, đàn bà đều đƣợc bình đẳng với đàn ông.”

[96, tr.631]

Page 49: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

44

Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa ra đời, theo Hồ Chí Minh, bình đẳng nam nữ phải đƣợc ghi nhận trên lĩnh vực

pháp lý và đƣợc thực thi trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị,

kinh tế, văn hóa – xã hội và gia đình. Đây là quan điểm nhất quán trong tƣ duy lý

luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh cho rằng phụ nữ phải đƣợc bình đẳng với nam giới trên mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cần phải hiểu sự bình đẳng nam nữ ở đây

là phụ nữ có mọi quyền nhƣ nam giới, đồng thời có một số quyền ƣu đãi đặc biệt

khi gánh vác thêm nghĩa vụ xã hội (sinh con và nuôi dạy con cái).

2.2.2.1. Bình đẳng nam nữ trên lĩnh vực pháp lý

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2-9-1945, Hồ Chí

Minh đã đọc ộc l p khai sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tuyên ngôn đã tuyên bố với thế giới nƣớc Việt Nam và mỗi ngƣời dân Việt Nam có

quyền hƣởng tự do độc lập và thật sự đã thành nƣớc tự do độc lập, thành những công

dân tự do. Tuyên ngôn cũng tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân, chế độ quân chủ

chuyên chế, tức thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng, trong đó có bất bình đẳng nam nữ.

Đất nƣớc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, giành đƣợc quyền độc lập, theo

Hồ Chí Minh trƣớc hết, cần khẳng định quyền công dân của mỗi cá nhân trong xã

hội. Vì vậy, với cƣơng vị là ngƣời đứng đầu đất nƣớc, ngay trong phiên họp đầu

tiên của Chính phủ (3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của

Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có Tổng tuyển cử và xây dựng

Hiến pháp dân chủ. Ngƣời nói:

“Trƣớc chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến

chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nƣớc ta không có

hiến pháp. Nhân dân ta không đƣợc hƣởng quyền tự do dân chủ.

Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ

chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ

thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mƣời tám tuổi đều có

Page 50: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

45

quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng

giống, v.v.. [97, tr.7].

Theo đó các sắc lệnh số 14/SL ngày 8-9-1945 quy định thời hạn tổng tuyển

cử và Sắc lệnh số 51/SL, ngày 17-10-1945 quy định Tổng tuyển cử bằng cách phổ

thông đầu phiếu đã ra đời…Các sắc lệnh này đã xây dựng quyền làm chủ của công

dân, trong đó thể hiện rất rõ quyền bình đẳng nam nữ. Điều 2, Sắc lệnh 14 và Sắc

lệnh 51 về tổng tuyển cử, "tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân

biệt nam nữ đều có quyền bầu cử và ứng cử...". Nguyên tắc tự do bầu cử trong cuộc

tổng tuyển cử đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “…, hễ là những ngƣời muốn

lo việc nƣớc thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử.

Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công

dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” [97, tr.153]. Nguyên tắc bầu cử này đã nâng

địa vị ngƣời phụ nữ Việt Nam lên ngang hàng với nam giới và sánh vai cùng phụ

nữ các nƣớc có nền pháp lý dân chủ, văn minh, tiến bộ đƣơng thời, tiêu biểu nhƣ

nƣớc Mỹ (giành độc lập năm 1776 với Tuyên ngôn Độc lập bất hủ nhƣng cho tới

tận ngày 26-8-1920, Quốc hội Mỹ mới thông qua Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp

lần 19 trao quyền bầu cử cho phụ nữ), nƣớc Pháp (với Tuyên ngôn nhân quyền và

dân quyền nổi tiếng năm 1791 mãi đến ngày 21-4-1944, Quốc hội Pháp mới chấp

nhận quyền bầu cử cho phụ nữ Pháp, phụ nữ Pháp đã đi bầu Hội đồng thành phố lần

đầu tiên vào ngày 20-4-1945)…

Cùng với việc chuẩn bị tích cực cho Tổng tuyển cử, ngày 20-9-1945, Chủ

tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34/SL lập ủy ban dự thảo Hi n pháp, do Ngƣời

trực tiếp làm trƣởng ban và chỉ đạo đƣa vấn đề bình đẳng nam nữ vào Hiến pháp,

đạo luật gốc của Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Dƣới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp đầu tiên của nƣớc

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời - Hiến pháp 1946, Điều 1, ghi “Nƣớc Việt

Nam là một nƣớc dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nƣớc là của toàn thể

nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn

Page 51: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

46

giáo”. Điều 6, Hiến pháp ghi rõ: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về

mọi phƣơng diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” [118, tr.9]. Để cụ thể hơn nữa về

quyền lợi, trong mục B, Điều 9 ghi "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi

phƣơng diện". Quy định này là mốc son chói lọi và đƣợc xem nhƣ tuyên ngôn

của nền dân chủ cộng hoà về giải phóng phụ nữ ở nƣớc ta. Bình đẳng với nam

giới về mọi phƣơng diện, Hiến pháp năm 1946 đã mở ra cho phụ nữ một thời

đại mới, thời đại mà phụ nữ đƣợc làm chủ cuộc sống của mình, đƣợc tham gia

các hoạt động xây dựng và kiến thiết đất nƣớc - những quyền và nghĩa vụ vẻ

vang mà ngƣời phụ nữ chƣa từng đƣợc thừa hƣởng trong các chế độ trƣớc đây.

Hiến pháp cũng cụ thể hóa quyền bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội thể hiện rõ trong nội dung các điều khoản.

Nội dung bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực chính trị đƣợc thể hiện kỹ hơn tại

Điều 18 của Hiến pháp: "Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân

biệt gái, trai đều có quyền bầu cử, trừ những ngƣời mất trí và những ngƣời mất công

quyền. Ngƣời ứng cử phải là ngƣời có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải

biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" [118, tr.10-11]. Để đảm bảo cho phụ nữ có đủ khả

năng tham gia các hoạt động xã hội, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, Hiến

pháp năm 1946 quy định phụ nữ có quyền học tập, việc học tập ở cấp sơ học là bắt

buộc và không phải trả học phí, ngƣời nghèo đi học đƣợc Chính phủ giúp đỡ.

Trong lĩnh vực kinh tế, nội dung bình đẳng nam nữ cũng đƣợc Điều 6, Hiến

pháp 1946 ghi rõ: “Tất cả mọi công dân đều ngang quyền về kinh tế” và Điều 12

khẳng định: “Quyền tƣ hữu tài sản đƣợc bảo đảm” [118, tr.9-10].

Ngày 9-11-1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I, đã thông qua toàn văn

bản Hiến pháp đầu tiên của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hiến pháp dân

tộc, dân chủ và công bằng của các giai cấp, mang đậm dấu ấn tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về quyền lực của nhân dân, về quyền bình đẳng nam nữ. Phát biểu tại phiên

bế mạc kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I, Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiến pháp đó

tuyên bố với thế giới nƣớc Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế

giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với

Page 52: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

47

thế giới: phụ nữ Việt Nam đã đƣợc đứng ngang hàng với đàn ông để đƣợc hƣởng

chung mọi quyền tự do của một công dân” [97, tr.491].

Xét trên phƣơng diện pháp luật quốc tế, thời điểm năm 1945, khi Hiến

pháp Việt Nam đã công nhận nam nữ có quyền bình đẳng thì vấn đề bình đẳng

nam nữ trong luật pháp quốc tế mới đƣợc đề cập đến một cách định hƣớng

trong lời nói đầu và Điều 1(3) của Hiến chƣơng Liên hợp quốc (1945) và đến

Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời đƣợc thông qua ngày 10-12-1948,

quyền bình đẳng nam nữ mới đƣợc đề cập đến một cách cụ thể hơn, nhƣng chủ

yếu vẫn ở dƣới dạng gián tiếp thông qua nguyên tắc bình đẳng trong việc

hƣởng thụ các quyền con ngƣời của tất cả mọi ngƣời. Gần 8 năm sau đó, các

quyền bình đẳng của phụ nữ trong việc tham gia quản lý nhà nƣớc và xã hội

mới chính thức đƣợc ghi nhận một cách đầy đủ, chi tiết trong Công ƣớc về các

quyền chính trị của phụ nữ năm 1952.

Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), đất nƣớc tạm thời bị chia cắt hai miền:

Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền

Nam, còn bị thực dân, phong kiến thống trị. Nhiệm vụ cơ bản đặt ra là phải xây

dựng, đƣa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở vững chắc cho việc

đấu tranh hoà bình thống nhất nƣớc nhà. Trƣớc yêu cầu mới, nhằm phát huy

hơn nữa vị trí, vai trò và sức mạnh của toàn dân nói chung, phụ nữ nói riêng

đối với sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn này, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sửa

đổi Hiến pháp năm 1946 cho phù hợp với trình độ mới.

Năm 1959 Hiến pháp sửa đổi đã ra đời tiếp tục kế thừa và ghi nhận

quyền bình đẳng nam nữ trên mọi phƣơng diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã

hội mà Hiến pháp năm 1946 đã xác lập. Thực tế cho thấy, sau 14 năm thực hiện

Hiến pháp 1946, phụ nữ đã thể hiện rõ vai trò của mình, tích cực tham gia lao

động sản xuất, đóng góp một phần công lao không nhỏ vào sự nghiệp cách

mạng của dân tộc. Tuy nhiên, trong cuộc sống gia đình, tƣ tƣởng “trọng nam,

khinh nữ” còn sót lại từ chế độ cũ vẫn chƣa đƣợc xoá bỏ hoàn toàn, làm ảnh

Page 53: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

48

hƣởng và hạn chế rất lớn đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của phụ nữ đối

với sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, bên cạnh những quy định kế thừa Hiến

pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 còn nhấn mạnh đến quyền bình đẳng của

phụ nữ trong gia đình thông qua việc quy định gia đình cũng là một trong

những mặt sinh hoạt nhƣ chính trị, văn hoá, xã hội, ngƣời phụ nữ phải đƣợc

hƣởng quyền bình đẳng và thông qua việc quy định trách nhiệm của nhà nƣớc

phải đảm bảo chế độ hôn nhân gia đình. Quy định về bình đẳng giới trong gia

đình vừa là điều kiện cần thiết để phụ nữ có thể bình đẳng với nam giới trên tất

cả các mặt của đời sống xã hội, vừa nhằm giải phóng triệt để phụ nữ khỏi

những tƣ tƣởng, quan điểm lạc hậu về giới ở ngay nơi mà những tƣ tƣởng, quan

điểm lạc hậu đó bám rễ sâu nhất và có điều kiện thuận lợi nhất để tồn tại.

Song song với việc ghi nhận quyền bình đẳng của phụ nữ trên các mặt

của đời sống xã hội, Hiến pháp năm 1959 đã quy định các điều kiện cần thiết

cho việc thực hiện quyền bình đẳng trên thực tế và nhấn mạnh đến quyền bình

đẳng về việc hƣởng các thành quả của sự phát triển, nhƣ: quy định quyền

hƣởng lƣơng ngang nhau giữa nam và nữ khi đi làm công việc nhƣ nhau, quy

định về việc công nhân, viên chức nữ đƣợc nghỉ trƣớc và sau khi đẻ mà vẫn

đƣợc hƣởng nguyên lƣơng, quy định về việc Nhà nƣớc có trách nhiệm bảo hộ

quyền lợi của ngƣời mẹ và trẻ em, trách nhiệm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà

giữ trẻ và vƣờn trẻ [118; tr 38-39]. Các quy định này cho thấy, sau nhiều năm,

đất nƣớc ta đã thu đƣợc nhiều thành quả, đời sống nhân dân từng bƣớc đƣợc cải

thiện hơn, phụ nữ ngày càng đƣợc Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân quan tâm, tạo

điều kiện, chăm lo hơn đến đời sống vật chất và tinh thần.

Nhằm bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ trong gia đình, Hồ Chí Minh còn

yêu cầu và trực tiếp tham gia dự thảo, ban hành L H trong

đó quy định rõ quyền bình đẳng nam nữ:

Điều 3 - Cấm tảo hôn, cƣỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách

của cải trong việc cƣới hỏi, đánh đập hoặc ngƣợc đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ.

Page 54: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

49

Điều 18 - Cha mẹ không đƣợc hành hạ con cái, không đƣợc đối xử tàn tệ

với con dâu.

Điều 12 - Trong gia đình vợ chồng bình đẳng về mọi mặt.

Điều 13 - Vợ chồng có nghĩa vụ thƣơng yêu, quý trọng nhau, giúp đỡ nhau

tiến bộ... xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc [106, tr.523].

Luật Hôn nhân và gia đình ra đời, theo Hồ Chí Minh đây là một cuộc cách

mạng thực sự, bởi luật này sẽ tham gia xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ

trong hôn nhân gia đình.

Quá trình xây dựng nhà nƣớc đồng thời cũng là quá trình hoàn thiện các

văn bản pháp luật nhƣ Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao động …

Tất cả các văn bản quan trọng này đƣợc Hồ Chí Minh rất quan tâm bởi nó là công

cụ quan trọng để quản lý, điều hành đất nƣớc, phát triển kinh tế, ổn định chính trị

xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống của nhân dân và trong đó

hƣớng tới mục tiêu cao cả giải phóng con ngƣời, trong đó có thực hiện quyền bình

đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh chỉ rõ Hiến pháp và pháp luật không chỉ là căn cứ

quan trọng để bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ mà đồng thời, còn là cơ sở để thi

hành kỷ luật một cách nghiêm minh những kẻ vi phạm quyền bình đẳng nam nữ.

Nhìn ra quốc tế, phải 7 năm sau khi Việt Nam có Hiến pháp sửa đổi 1959,

mở rộng hơn quyền bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì

năm 1966, quốc tế mới có Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị -

Công ƣớc quốc tế quan trọng về quyền con ngƣời, trong đó ghi nhận quyền

bình đẳng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế - xã hội,

văn hoá. Và 20 năm sau, năm l979, Công ƣớc về việc xoá bỏ tất cả các hình

thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công ƣớc CEDAW) ra đời, đóng một vai trò

vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo các quyền của phụ nữ, trong đó còn quy

định cụ thể trách nhiệm của các quốc gia trong việc tiến hành các biện pháp

nhằm đảm bảo cho phụ nữ đƣợc tham gia vào đời sống chính trị, xã hội của đất

nƣớc cũng nhƣ trong các quan hệ quốc tế một cách bình đẳng.

Page 55: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

50

Việc khẳng định quyền bình đẳng nam nữ đƣợc đƣa vào Hiến pháp, pháp luật

của Nhà nƣớc đã thể hiện rõ tính nhân văn sâu sắc, tầm nhìn vƣợt thời đại, tƣ duy

chính trị sắc sảo của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ngƣời đặc biệt quan tâm tới quyền con

ngƣời nói chung, quyền bình đẳng nam nữ nói riêng. Với những quy định về quyền

bình đẳng nam nữ đƣợc ghi trong Hiến pháp, pháp luật đã đánh dấu bƣớc ngoặt quan

trọng về địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt

Nam đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới

trên tất cả các lĩnh vực. Những quy định đó cũng cho thấy tính chất tiến bộ của pháp

luật Việt Nam so với luật pháp quốc tế thời điểm giữa thế kỷ XX, đặc biệt thể hiện

trong lĩnh vực bình đẳng nam nữ.

2.2.2.2 Bình đẳng nam nữ trong đời sống xã hội

Trong quan điểm Hồ Chí Minh, bình đẳng nam nữ không chỉ đƣợc bảo đảm

bằng pháp lý mà phải đƣợc hiện thực hóa trong đời sống xã hội.

B ẳng trong ĩ c chính tr . Theo Hồ Chí Minh bình đẳng nam nữ

trong lĩnh vực chính trị nghĩa là phụ nữ và nam giới có quyền tham gia các

hoạt động chính trị bầu cử, ứng cử, trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý một

cách bình đẳng nhƣ nhau; có quyền tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do cƣ trú

và bình đẳng trƣớc pháp luật…

Để khẳng định quyền công dân của mỗi cá nhân trong xã hội, trong một

nƣớc độc lập, khi đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề ra

nhiệm vụ Tổng tuyển cử. Các sắc lệnh về Tổng tuyển cử đã ra đời trong đó khẳng

định nguyên tắc tất cả mọi công dân Việt Nam trai cũng nhƣ gái không phân biệt

giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, đảng phái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và

ứng cử. Nguyên tắc bầu cử này có ý nghĩa và giá trị tiến bộ, nhân văn đặc biệt sâu

sắc, bởi nó ra đời trong điều kiện nƣớc ta vừa thoát khỏi ách thực dân và phải trải

qua hàng nghìn năm dƣới chế độ phong kiến với lễ giáo "tam tòng", ngƣời phụ nữ

không có địa vị cả trong xã hội cũng nhƣ trong gia đình, nay đƣợc hƣởng ngay

quyền bầu cử, ứng cử nhƣ nam giới.

Page 56: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

51

Ngày 06-01-1946, cả nƣớc đi bầu cử Quốc hội. Lần đầu tiên trong lịch sử

dân tộc Việt Nam, mọi công dân Việt Nam đƣợc đi bỏ phiếu chọn những ngƣời

đại biểu của mình vào Quốc hội để tạo ra bộ máy nhà nƣớc phục vụ nhân dân.

Đây cũng là lần lần đầu tiên trong lịch sử nƣớc ta, phụ nữ đƣợc cầm lá phiếu trực

tiếp đi bầu cử, phụ nữ Việt Nam đƣợc thực hiện quyền công dân của mình. Không

những thế, trong tổng số 333 đại biểu đƣợc bầu có 10 đại biểu phụ nữ, đây là một

bƣớc tiến mới trong lịch sử. Thắng lợi của Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, đánh

dấu mốc phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nƣớc Việt Nam,

khẳng định rõ quyền bình đẳng nam nữ về chính trị.

Trong quan điểm Hồ Chí Minh, phụ nữ và nam giới còn bình đẳng trong tham

gia các hoạt động chính trị, tham gia công tác Đảng, tham gia lãnh đạo, quản lý.

Nhận thức rõ vị trí, vai trò của phụ nữ, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các sở,

ban, ngành, các cấp ủy chính quyền từ trung ƣơng đến địa phƣơng phải chú ý chăm

lo, bồi dƣỡng, phát triển đội ngũ cán bộ nữ, để chị em tham gia ngày càng nhiều hơn

vào các hoạt động của đời sống chính trị, đời sống cộng đồng của đất nƣớc.

Hồ Chí Minh phê bình tổ chức thanh niên còn giữ xu hƣớng chật hẹp,

không bao bọc đƣợc nhiều giai tầng, không kéo đƣợc đại đa số thanh niên còn

phân ra nam nữ, không giúp đỡ cho các chị em nữ thanh niên phát triển, trong khi

số phụ nữ cũng ngang bằng số đàn ông, vậy mà gạt các chị em ra ngoài, “tổ chức

thanh niên có khác gì đi có một chân.”[97, tr.122]

Đến dự các Hội nghị, các lớp học bồi dƣỡng, lớp học chính trị, bao giờ

Ngƣời cũng để ý tới số lƣợng phụ nữ tham gia. Năm 1961, đến thăm trƣờng sƣ

phạm miền núi Nghệ An, quan sát trong số học sinh không có ai là nữ, Hồ Chí

Minh đặt câu hỏi: “Sao lại không có cháu gái?” [106, tr.269]. Nói chuyện tại Hội

nghị cán bộ toàn Đảng bộ Hà Nội (25-4-1959), Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Số phụ nữ

là đảng viên cũng còn rất ít, cần phát triển thêm.”[105, tr.172]. Tháng 10-1961, đến

thăm và nói chuyện với đồng bào, cán bộ xã Đại Nghĩa (Hà Đông, nay thuộc Hà

Nội) khi thấy số lƣợng đảng viên phụ nữ ít, Ngƣời đã phê bình và nhắc nhở lên chú

ý việc tạo điều kiện phụ nữ tham gia công tác Đảng. Khi đến thăm đảng bộ tỉnh

Page 57: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

52

Thái Bình, biết đảng viên nữ chỉ chiếm 17% tổng số đảng viên, Hồ Chí Minh nhắc

nhở: “Nhƣ thế là còn ít, còn hẹp hòi với phụ nữ” [108, tr.262] v.v..

Hồ Chí Minh đƣa ra nhiều gƣơng phụ nữ điển hình trong công tác quản lý,

kể cả phụ nữ miền núi nhƣ:

Cô Nguyễn Thị Khƣơng ở Hòa Bình là Anh hùng Lao động. Cô

Nguyễn Thị Khoa cũng ở Hòa Bình là Ủy viên tỉnh. Cô Vi Thị Hóa ở

Nghĩa Lộ là Ủy viên tỉnh. Cô Bùi Thị Na, dân tộc Mƣờng ở Thanh

Hóa và cô Hoàng Thị Viện, dân tộc Dao ở Bắc Kạn, là Chủ nhiệm

hợp tác xã giỏi. Cô Hồ Thềnh Sùi, dân tộc Hán ở Quảng Ninh, là Chủ

tịch Ủy ban hành chính xã kiêm Phó Bí thƣ chi bộ, v.v.. [107, tr.262].

Dƣới sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể nói, phụ nữ đã đƣợc

bình đẳng với nam giới trong đời sống chính trị. Hầu hết phụ nữ đến tuổi trƣởng

thành đều đƣợc đảm bảo quyền chính trị: quyền bầu cử, ứng cử, đƣợc tham gia

các sinh hoạt đoàn thể, nhiều phụ nữ tham gia vào bộ máy nhà nƣớc và có đóng

góp lớn cho sự phát triển của đất nƣớc. Nếu trong thời kỳ thuộc Pháp, phụ nữ

không đƣợc tham gia chính quyền, thì tới năm 1960, chỉ 15 năm sau ngày đất

nƣớc độc lập, đã có hàng ngàn phụ nữ tham gia bộ máy nhà nƣớc. Năm 1960, số

phụ nữ công tác ở các cơ quan trung ƣơng là trên 5.000 ngƣời, ở huyện, xã có hơn

16.000 ngƣời và các tỉnh có hơn 330 ngƣời, đặc biệt trong Quốc hội khoá II, có 53

đại biểu phụ nữ, chiếm 16% [105, tr.639]. Quốc hội khóa III trong số 447 đại biểu

cũng có 85 đại biểu nữ chiếm tỷ lệ 19%. Số lƣợng phụ nữ tham gia hoạt động

chính trị ngày càng tăng lên. Đó là kết quả sinh động của quá trình nhận thức và tổ

chức thực hiện tƣ tƣởng bình đẳng nam nữ về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

B ẳng t ĩ c kinh t . Kế thừa, phát triển quan điểm của chủ

nghĩa Mác-Lênin về nguyên nhân sâu xa của bất bình đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh

cho rằng để phụ nữ thật sự đƣợc bình đẳng cần phải xóa bỏ sự lệ thuộc của họ về

kinh tế, giải phóng sức lao động cho phụ nữ. Ngƣời đã kiên quyết đấu tranh thực

hiện quyền bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực kinh tế, làm tiền đề tiến tới bình đẳng

trong các lĩnh vực khác. Bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực kinh tế nghĩa là phụ nữ

Page 58: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

53

có cơ hội việc làm, có thu nhập bình đẳng nhƣ nam giới trong những công việc

giống nhau, phụ nữ bình đẳng với nam giới trong quan hệ tài sản…

Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, bình đẳng về kinh tế trƣớc hết, nam giới và

nữ giới bình đẳng trong lao động, việc làm. Đó là quyền cơ bản đầu tiên của con

ngƣời trong xã hội. Công dân bất cứ nam hay nữ đều đƣợc quyền xin vào làm việc

ở bất cứ ngành nghề nào, nếu họ có đủ trình độ và khả năng cần thiết và đáp ứng

yêu cầu nhân lực của ngành nghề ấy. Các cơ quan xí nghiệp, các sở, ban ngành

không đƣợc phân biệt đối xử giữa lao động nam với lao động nữ trong việc tuyển

chọn và làm việc.

Theo Hồ Chí Minh, giải phóng sức lao động của phụ nữ, cần đƣa phụ nữ

tham gia vào các ngành nghề khác nhau: nông nghiệp, công nghiệp, thủ công

nghiệp thƣơng nghiệp, phát huy sức lao động cần cù, khéo léo, tài năng, trí

tuệ, phẩm chất tốt đẹp của ngƣời phụ nữ phục vụ sự nghiệp xây dựng đất

nƣớc. Đặc biệt, cần tạo điều kiện để phụ nữ đƣợc phân công lao động hợp lý, phù

hợp với sức khỏe phụ nữ; tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia bình đẳng với

nam giới trong môi trƣờng hoạt động kinh tế. Bởi theo Hồ Chí Minh: “Phụ nữ là

một lực lƣợng lao động rất quan trọng”[107, tr.231]

Quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực

kinh tế đã tạo nên nguồn sức mạnh vật chất to lớn cho xã hội, góp phần quan trọng

vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nƣớc và xã hội chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn

cho thấy, thực hiện bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực kinh tế không chỉ tạo

thêm điều kiện cho phụ nữ có cơ hội phát triển tài năng, trí tuệ của mình mà

còn đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân trong sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội.

Trong điều kiện đất nƣớc vừa giành đƣợc độc lập, khó khăn còn chồng

chất, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ do chế độ cũ để lại còn ăn sâu trong suy nghĩ

của nhiều ngƣời dẫn tới tƣ tƣởng coi thƣờng khả năng làm việc của phụ nữ, đồng

thời chị em phụ nữ vẫn còn những hạn chế về trình độ văn hóa, trình độ nghề

Page 59: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

54

nghiệp do lịch sử để lại, vì vậy, càng khó tránh khỏi sự phân biệt trong tuyển chọn

lao động. Để khắc phục sự phân biệt đối xử này, Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp ủy

Đảng, các sở ban ngành cần tập trung quan tâm tạo điều kiện, đồng thời có những

chính sách cần thiết để thúc đẩy sự phân bố, sử dụng lao động nữ một cách hợp lý.

Ngày 8-3-1967, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 31-CP về “ ă ờng l c

ộng nữ ơ p” đáp ứng yêu cầu Hồ Chí Minh

đặt ra. Nghị quyết nêu rõ:

Đến năm 1968 phải tăng tỷ lệ bình quân nữ công nhân viên chức lên

khoảng 35% trở lên so với tổng số công nhân viên chức. Đặc biệt

các ngành giáo dục, y tế, công nghiệp nhẹ, thƣơng nghiệp phải đƣa tỉ

lệ nữ len 50% đến 70% hoặc cao hơn. Các ngành công nghiệp nặng,

giao thông, kiến trúc, thủy lợi, quốc phòng cũng tăng thêm phụ nữ

vào những công việc thích hợp. Những công việc nhƣ văn thƣ, đánh

máy, điện thoại, kế toán, thống kê, nhân viên phục vụ … thì kiên

quyết để phụ nữ đảm nhiệm [28, tr.25].

Chính sách trên đã tạo bƣớc chuyển biến mới mẻ trong việc sử dụng lao

động nữ. Đội ngũ công nhân viên chức đã trở nên đông đảo tạo bƣớc ngoặt quan

trọng trong hoạt động của phụ nữ ngoài xã hội. Nhiều phụ nữ từ khu kinh tế

nông nghiệp đã chuyển sang làm việc ở nhiều ngành nghề sản xuất khác nhau,

xóa bỏ dần sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong việc tuyển chọn, sắp xếp

lao động vào cơ quan nhà nƣớc.Tỷ lệ lao động là phụ nữ ngày càng đƣợc tăng

lên trong các ngành nghề. Kết quả đó đã tạo cho chị em phụ nữ sự phấn khởi,

tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ hăng hái

tham gia lao động sản xuất tạo ra thật nhiều của cải vật chất để phục vụ công

cuộc kiến thiết đất nƣớc và chi viện cho chiến trƣờng miền Nam. Nhận xét về

khả năng làm kinh tế của phụ nữ, Hồ Chí Minh khẳng định: Phụ nữ là một lực

lƣợng lao động quan trọng trong xã hội, là đội quân chủ lực tạo ra của cải vật

chất làm giàu cho đất nƣớc.

Page 60: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

55

B ẳng t ĩ ă hóa - xã hội. Ngay từ những ngày đầu

cách mạng, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của văn hóa trong giải phóng con

ngƣời, đƣa con ngƣời tới tự do, bình đẳng. Ngƣời coi văn hóa là một mặt trận,

ngang hàng với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, chú trọng nâng cao trình độ

văn hóa của nhân dân, nâng cao dân trí bởi theo Hồ Chí Minh “Một dân tộc

dốt là một dân tộc yếu” [97, tr.7].

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đã lật đổ chính quyền phong

kiến thực dân, giành lại vị trí làm chủ đất nƣớc, làm chủ xã hội và bản thân cho nhân

dân lao động, đặc biệt là phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam đƣợc chuyển thân phận từ “kiếp

ngựa trâu” lên địa vị công dân chân chính của một nƣớc Việt Nam độc lập, tự do. Đó

là một sự chuyển biến xã hội sâu sắc và có ý nghĩa nhất đối với phụ nữ Việt Nam

trong thời kỳ cách mạng vô sản dƣới sự lãnh đạo và tổ chức của Hồ Chí Minh.

Quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế của phụ nữ và nam giới đƣợc xác

định thì quyền văn hóa xã hội của phụ nữ cũng đƣợc nâng cao. Hồ Chí Minh đặc

biệt quan tâm tới việc nâng cao trình độ nhận thức, địa vị làm chủ nƣớc nhà của

phụ nữ, Hồ Chí Minh nhắc nhở:

“Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc

chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử

trong nƣớc có quyền bầu cử và ứng cử”[97, tr.41].

Theo Hồ Chí Minh, học tập để nâng cao trình độ văn hóa sẽ giúp chị em

nắm đƣợc những vấn đề cơ bản về lịch sử, địa lý, khoa học tự nhiên, xã hội, chính

trị, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân… có văn hóa sẽ giúp chị em nhận thức

đúng đắn, vƣơn lên làm chủ về mọi mặt một cách vững chắc, thoát khỏi sự phụ

thuộc bất công mà chế độ phong kiến và thực dân từng dùng để trói buộc họ. Có

văn hóa, phụ nữ sẽ phát huy đƣợc tài năng, trí tuệ, cho phép họ có những cống

hiến to lớn cho đất nƣớc và nhân loại, đồng thời sẽ tạo điều kiện cho phụ nữ có

quyền bình đẳng với nam giới trong lĩnh vực xã hội.

Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh, nâng cao trình độ văn hóa cho phụ nữ sẽ

giúp phụ nữ thoát khỏi những ảnh hƣởng của thần quyền, của những thành kiến sai

Page 61: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

56

lầm, những phong tục, tập quán hủ lậu mà các thế lực thống trị trƣớc đây đã lợi

dụng để trói buộc và đè nén phụ nữ, khiến họ phải an phận, sống trong cảnh tối tăm,

bất công. Chính sự dốt nát đã làm cho ngƣời phụ nữ lâm vào bƣớc đƣờng cùng khổ,

là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự tồn tại kéo dài của những thiên kiến sai lầm và

những tín điều duy tâm. Nguyên nhân là bởi phụ nữ ít đƣợc học hành, công việc

nặng nhọc, vất vả, và những đè nén làm cho đầu óc bị mụ mẫm, thêm vào đó, họ lại

thƣờng bị thiệt thòi, bất công nên không giải thích đƣợc vì thế họ đặt niềm tin vào

tín ngƣỡng, tôn giáo… Chỉ khi nào trình độ văn hóa của phụ nữ đƣợc nâng cao thì

họ mới trút bỏ đƣợc những tƣ tƣởng lạc hậu và nhận thức sai lầm đó. Ngƣời nhắc

nhở các cấp lãnh đạo:

“Công tác chúng ta ngày càng tiến lên, càng đòi hỏi nhiều về mặt kỹ

thuật, khoa học, văn hoá, nhƣng trình độ phụ nữ ta còn kém. Đó là một

nhƣợc điểm. Từ nay, các cấp đảng, chính quyền địa phƣơng khi giao

công tác cho phụ nữ, phải căn cứ vào trình độ của từng ngƣời và cần

phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn nữa” [105, tr.639-640].

Nhận thức rõ thực trạng “so với nam giới thì địa vị của phụ nữ trong xã

hội còn quá thấp kém” [106, tr.260], trong qúa trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí

Minh luôn quan tâm tới những nét đặc thù riêng của phụ nữ, từ đó đề ra những

chính sách ƣu đãi đối với phụ nữ để phụ nữ có điều kiện tham gia hoạt động xã

hội bình đẳng nhƣ nam giới.

Hồ Chí Minh nhắc nhở các cấp, các ngành cần quân tâm, thực hiện tốt các

chính sách xã hội đối với phụ nữ để chị em đƣợc hƣởng những quyền lợi của mình

nhƣ chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ đặc biệt khi thai nghén. Ngày 6-4-1961, đến

thăm và nói chuyện với đồng bào, cán bộ tỉnh Bắc Giang, Hồ Chí Minh căn dặn:

“Cần phải tìm mọi cách để bảo vệ phụ nữ thai nghén, để chữa các bệnh đau mắt

hột và bệnh sốt rét.” [106, tr.108]. Thăm đồng bào, cán bộ tỉnh Thái Bình, ngày 1-

1-1967, Hồ Chí Minh cũng căn dặn: “Phải giữ gìn sức khoẻ cho phụ nữ để chị em

Page 62: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

57

tham gia sản xuất đƣợc tốt. Ví dụ: Khi phụ nữ có kinh thì hợp tác xã chớ phân

công cho họ đi làm ở chỗ ruộng sâu, nƣớc rét.” [108, tr.259]

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh yêu cầu các sở, ban, ngành phải lập nhà trẻ,

vƣờn trẻ, nhà ăn để phụ nữ yên tâm công tác, yên tâm lao động, sản xuất. Bởi

“Muốn cho ngƣời mẹ sản xuất tốt thì cần tổ chức tốt những nơi gửi trẻ và những

lớp mẫu giáo” [106, tr.59], “nhà ăn công cộng càng thêm nhiều, thì phụ nữ sẽ rảnh

rang để tham gia lao động. Nhƣ vậy, phụ nữ mới thật đƣợc giải phóng, nam nữ mới

thật là bình quyền” [106, tr.152]. Đồng thời, Ngƣời còn ra sức tuyên truyền giác ngộ

để mọi ngƣời nhận thức rõ hơn vai trò của phụ nữ trong xã hội, vận động mọi ngƣời

cùng nhau giúp đỡ để phụ nữ vƣơn lên khẳng định địa vị của mình, tạo cơ sở cho việc

thực hiện bình đẳng nam nữ trong xã hội.

B ẳ . Gia đình là tế bào của xã hội, là bức tranh thu

nhỏ của xã hội, trong đó bộc lộ đầy đủ và rõ ràng địa vị của ngƣời phụ nữ trong

mối tƣơng quan xã hội với nam giới. Gia đình chính là nơi duy trì nòi giống và tái

sản xuất xã hội.

Trong gia đình, phụ nữ là ngƣời đóng vai trò quan trọng. Phụ nữ là ngƣời

sinh thành và dƣỡng dục con cái chủ yếu trong gia đình; là ngƣời sắp sếp, tổ chức

cuộc sống gia đình; giữ vai trò trọng yếu trong điều hòa các mối quan hệ gia đình;

là nhân tố quan trọng trong sáng tạo, trao truyền và phát triển các giá trị văn hóa

dân tộc. Tuy nhiên, trong gia đình Việt Nam trƣớc đây, phụ nữ thƣờng bị coi

khinh, bị ngƣợc đãi, bị trói buộc bởi đạo “tam tòng”, bởi tƣ tƣởng “trọng nam

khinh nữ”. Để tiến tới bình đẳng nam nữ một cách thực sự, theo Hồ Chí Minh cần

phải thực hiện bình đẳng nam nữ từ gia đình, hạt nhân của xã hội, phải giải phóng

phụ nữ thoát khỏi sự bất công trƣớc hết từ chính gia đình của họ.

Mặc dù quyền bình đẳng nam nữ đã đƣợc thể chế hóa trong Hiến pháp,

pháp luật tuy nhiên, do tàn tích của chế độ phong kiến, thực dân, phụ nữ vẫn chƣa

đƣợc bình đẳng hoàn toàn với nam giới. Nhiều nơi vẫn xảy ra các tệ: đánh vợ, ép

duyên con gái… Hồ Chí Minh đƣa ra nhiều dẫn chứng đau lòng:

Page 63: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

58

Ở Lƣơng Yên (Hà Nội) trong 196 gia đình, thì có 26 ngƣời chồng

thƣờng đánh mắng vợ, có ngƣời đánh vợ bị thƣơng. Ở khu Hai Bà

Trƣng, có ngƣời chỉ vì thức ăn không vừa ý, đã hất cả mâm cơm vào

mặt vợ. Có ngƣời vợ ốm, chồng để mặc, không săn sóc trông nom.

Ở xã Quảng Lƣu (Thanh Hoá), có ngƣời nhét tro vào miệng vợ và

đánh vợ què tay. Có ngƣời cạo trọc đầu và lột hết áo quần vợ, rồi

giong vợ đi bêu khắp thôn xóm... [105, tr.705].

Ngƣời kịch liệt phê phán các hiện tƣợng phân biệt đối xử với phụ nữ,

nạn bạo lực trong gia đình nhƣ đánh vợ, chửi vợ… và cho đó là một điều đáng

xấu hổ “Nhƣ thế thì còn gì là tình nghĩa vợ chồng? Nhƣ thế là phạm pháp, là

cực kỳ dã man” [108, tr.260].

Hồ Chí Minh yêu cầu các đoàn thể có trách nhiệm tuyên truyền cho từng

gia đình và toàn thể cộng đồng trong xã hội, đồng thời kêu gọi chị em phụ nữ

phải tìm hiểu nắm chắc pháp luật để làm cơ sở đấu tranh bảo vệ quyền bình

đẳng trong gia đình của mình.

Trong quan điểm của Hồ Chí Minh gia đình không chỉ bó hẹp ở phạm vi của

những mối quan hệ ruột thịt. Rộng hơn đó còn là tình cảm dân tộc, đồng loại. Theo

đó ngƣời phụ nữ không chỉ quanh quẩn với những công việc nội trợ trong nhà, chăm

lo cho chồng con. Trách nhiệm của mỗi ngƣời phụ nữ trong Đại Gia đình Việt Nam

lớn hơn nhiều. Họ còn là thành viên của xã hội, có trách nhiệm đóng góp cho xã hội

những sản phẩm giáo dục của gia đình có chất lƣợng, bao gồm tri thức, phẩm chất,

sức khỏe…

Hồ Chí Minh quan niệm vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã

hội không hạn chế, triệt tiêu lẫn nhau mà thống nhất bổ sung cho nhau. Vai

trò của phụ nữ trong xã hội đƣợc thể hiện chính từ vai trò của họ trong gia

đình. Bởi gia đình là hạt nhân của xã hội, nhiều gia đình cộng lại mới thành

xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của

xã hội là gia đình. Chính vì vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng chủ nghĩa

Page 64: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

59

xã hội phải chú ý hạt nhân cho tốt, phải tôn trọng và phát huy vai trò của phụ

nữ, thực hiện tốt bình đẳng nam nữ từ trong gia đình [105, tr.300]. Bình đẳng

nam nữ trong gia đình chính là cơ sở cho bình đẳng nam nữ ngoài xã hội, bởi

khi đƣợc quan tâm, chia sẻ công việc và đƣợc tạo điều kiện thuận lợi, ngƣời

phụ nữ sẽ có điều kiện tham gia những hoạt động xã hội, công tác xã hội để

phát huy hết tài năng trí tuệ của mình, nhƣ vậy mới thật là bình đẳng.

2.2.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về điều kiện và biện pháp thực hiện

bình đẳng nam nữ

2.2.3.1. Về điều kiện thực hiện bình đẳng nam nữ

Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tƣ tƣởng mà còn là nhà lãnh đạo thực hành

xuất sắc, Ngƣời luôn gắn tƣ tƣởng với hành động, nói đi đôi với làm, từng bƣớc

đƣa tƣ tƣởng đó trở thành hiện thực trong cuộc sống. Hồ Chí Minh không chỉ đƣa

ra quan điểm về vị trí, vai trò, nội dung của bình đẳng nam nữ mà còn chỉ ra

những điều kiện để hiện thực hóa quan điểm đó.

Tạo cơ sở thiết lập sự bình đẳng thật sự giữa nam và nữ là một cuộc cách

mạng thực sự lớn lao. Để thực hiện thành công cuộc cách mạng này, Hồ Chí Minh

chỉ rõ: “Vì không thể dùng vũ lực mà tranh đấu… Vũ lực của cuộc cách mạng này là

sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hoá, pháp luật. Phải cách mạng từng ngƣời, từng

gia đình đến toàn dân. Dù to và khó nhƣng nhất định thành công” [100, tr.342].

Giải quyết các vấn đề của phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ không phải

là công việc đơn lẻ mà có liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế xã hội rộng lớn,

phức tạp của đất nƣớc. Do đó, để thực hiện tốt, cần có sự phối hợp tổng thể trên

tất cả mọi lĩnh vực, tạo cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện bình đẳng nam nữ.

Trƣớc hết, cần có sự tiến bộ mạnh mẽ của nền kinh tế. Nền kinh tế cần phát

triển nhiều ngành nghề, cần áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để từng

bƣớc giải phóng sức lao động của cả nam và nữ. Việc giảm bớt các khâu lao động

nặng nhọc, nâng cao năng suất lao động sẽ cho phép cải thiện các điều kiện lao

động và sinh sống của phụ nữ, đồng thời lại tạo cơ sở cho phụ nữ có thể đảm nhiệm

những khâu công việc phù hợp với sức khoẻ, với chức năng sinh nở, nuôi dƣỡng

Page 65: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

60

con cái và thu đƣợc hiệu quả cao. Trên cơ sở sự phát triển của kinh tế, phụ nữ sẽ

từng bƣớc đƣợc giải phóng, ngày càng tiến gần tới việc bình đẳng với nam giới.

Trong lĩnh vực chính trị. Sự tiến bộ về chính tr gắn liền với quá trình dân

chủ hoá toàn bộ đời sống xã hội, lành mạnh hoá các mối quan hệ giữa phụ nữ và

các thành viên khác trên mọi phƣơng diện, quyền bình đẳng tự do của chị em

mới thật sự đƣợc đảm bảo.

Trên lĩnh vực luật pháp, sự tiến bộ về pháp lu t thể hiện trong việc thể chế

hoá một cách rõ ràng, ngày càng cụ thể, chính xác các quyền lợi và nghĩa vụ của

ngƣời phụ nữ, để từng bƣớc phụ nữ vƣơn lên, tiến gần hơn tới sự bình đẳng với

nam giới. Đồng thời, luật pháp cũng cần có những biện pháp, những cơ quan

đảm bảo việc thi hành nghiêm minh các quy tắc, luật lệ đã ban hành.

Trên lĩnh vực văn hóa, sự tiến bộ về ă ởng nhằm xoá bỏ những

trở ngại tinh thần mà xã hội đang cố duy trì sự bất bình đẳng giữa nam và nữ,

kìm hãm sự phát triển tài năng, trí tuệ, khát vọng tự do của ngƣời phụ nữ. Chỉ

trên cơ sở sự phát triển của văn hoá, giáo dục mới giúp tạo điều kiện cho phụ nữ

nâng cao trình độ học vấn, cũng nhƣ đƣợc hƣởng thụ những giá trị văn học, nghệ

thuật, tạo điều kiện hình thành những nhân cách có tính độc lập, sáng tạo.

Tóm lại, chỉ trên cơ sở nền kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật phát triển

nhanh chóng thì xã hội mới đảm bảo cho mỗi thành viên những tiện nghi sống và làm

việc thuận lợi, một mức sống cao, những điều kiện phát triển tài năng tốt đẹp. Đồng

thời xã hội cũng mới có khả năng sử dụng một quỹ phúc lợi lớn để xây dựng những

công trình xã hội nhƣ nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trƣờng học, bệnh viện v.v… đáp ứng

những đòi hỏi của phụ nữ và con em họ. Nhƣ vậy sự nghiệp giải phóng phụ nữ không

chỉ liên quan đến việc thiết lập một chế độ chính trị tiên tiến mà còn đòi hỏi sự phát

triển toàn diện của đất nƣớc, sự tiến bộ về kinh tế, văn hoá, xã hội.

2.2.3.2 . Về biện pháp thực hiện bình đẳng nam nữ

Một là, nâng cao nh n th ời dân, xóa bỏ thành ki i với phụ nữ

Nhận thức có ảnh hƣởng, tác động lớn và trực tiếp tới hành vi. Nhận thức

đúng là cơ sở cho hành vi đúng đắn và ngƣợc lại nhận thức sai hay lệch lạc sẽ không

Page 66: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

61

thể đem lại những hành vi đúng. Do đó, để tiến hành giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp, giải phóng con ngƣời, trong đó có giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng

nam nữ, Hồ Chí Minh luôn chú trọng tới việc nâng cao nhận thức cho ngƣời dân. Đó

là những nhận thức chung về xã hội và nhận thức về vai trò của phụ nữ.

Hồ Chí Minh nhận thấy tƣ tƣởng trọng nam kinh nữ là một thói quen đã ăn

sâu vào trong đầu óc mọi ngƣời, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội, vì vậy, phải thông

qua cuộc cách mạng tƣ tƣởng, các cuộc vận động, giáo dục, thuyết phục…để xóa dần

tƣ tƣởng đó, xây dựng tƣ tƣởng tiến bộ, tích cực trong mọi gia đình, mọi ngƣời trong

xã hội. Bên cạnh đó, cần sớm xóa bỏ những thành kiến đối với phụ nữ, tạo điều kiện

cho nữ giới ngày càng phát triển tiến tới bình đẳng với nam giới.

Thành kiến đối với phụ nữ là những suy nghĩ không đúng, những đánh giá

không khách quan, những quy kết sai lầm, coi thƣờng phụ nữ…. Thành kiến đối

với phụ nữ trong xã hội cũ kiểu nhƣ: phụ nữ là ở trong xó bếp (chỉ làm nội trợ,

việc nhà), chỉ có việc sinh con, không tham gia công việc xã hội; phụ nữ là cái

bóng của đàn ông; phụ nữ là hạ cấp (không đƣợc làm lãnh đạo), hiểu biết nông

cạn… đều dẫn đến khinh thƣờng và bất bình đẳng đối với phụ nữ.

Thành kiến đối với phụ nữ thƣờng xuất phát từ tƣ tƣởng cổ hủ, tƣ tƣởng gia

trƣởng trong ngƣời đàn ông, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại lâu dài từ trong

xã hội cũ, là đặc điểm lớn của hệ tƣ tƣởng phong kiến đã đƣợc các thế lực đế quốc,

tay sai duy trì, phát triển, do đó, suy cho cùng đó là một dạng bất bình đẳng nam nữ.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giải phóng ngƣời đàn bà, đồng thời tiêu diệt tƣ tƣởng phong

kiến, tƣ tƣởng tƣ sản trong ngƣời đàn ông” [105, tr.301].

Thành kiến thƣờng “thâm căn cố đế”, ăn sâu trong suy nghĩ, trong lối sống,

nó trở thành vấn đề tâm lý có tính chất toàn xã hội khắc phục không phải một sớm

một chiều. Để khắc phục thực trạng đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: “Chúng

ta làm cách mạng là để tranh lấy bình quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền

nhƣ nhau” [108, tr.260]. Khi đến thăm một số cơ sở sản xuất, Ngƣời nhắc nhở rằng:

“Chế độ thực dân phong kiến nó coi khinh phụ nữ. Từ ngày ta tiếp quản, phụ nữ đã

Page 67: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

62

đƣợc chú ý cất nhắc. Trong các ban quản đốc, đã có 2 phụ nữ. Đó là tốt, nhƣng còn

ít, chƣa đủ. Phải cất nhắc nhiều hơn nữa.” [103, tr.532]

Thành kiến đối với phụ nữ dẫn đến hẹp hòi, hạn chế đến phát triển và phát

huy vai trò của ngƣời phụ nữ. Khi đến thăm một lớp bồi dƣỡng cán bộ, nhƣng phần

đông là nam giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở một cách sâu sắc rằng:

“Cán bộ nữ ít nhƣ vậy là một thiếu sót. Các đồng chí phụ trách lớp

học chƣa quan tâm đến việc bồi dƣỡng cán bộ nữ. Đây cũng là

thiếu sót chung ở trong Đảng. Nhiều ngƣời còn đánh giá không

đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Nhƣ vậy là rất

sai… Bác mong rằng các đồng chí hãy thật sự sửa chữa bệnh thành

kiến, hẹp hòi đối với phụ nữ.” [108, tr.275].

Thành kiến đối với phụ nữ thƣờng từ phía nam giới. Tuy nhiên, trong

thực tế, cũng không ít phụ nữ “thành kiến” với chính mình, chính giới mình

dẫn tới rụt rè, “yên phận”, cam chịu, không tích cực vƣơn lên học hỏi phấn

đấu…. Vì thế, Hồ Chí Minh cũng nhiều lần căn dặn phụ nữ: “phải xóa bỏ cái

tâm lý tự ti và ỷ lại; phải có ý chí tự cƣờng, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình

độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật.” [106, tr.59].

Để nâng cao nhận thức, xóa bỏ thành kiến đối với phụ nữ, Hồ Chí Minh

đặc biệt chú trọng công tác giáo dục và tuyên truyền, coi đây là chìa khóa nhằm

giải quyết vấn đề.

Trong công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và xóa bỏ định

kiến, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ chủ thể tiến hành tuyên truyền là “đảng bộ, chính

quyền và đoàn thể quần chúng (trƣớc hết là đoàn thể phụ nữ và thanh niên)”

[106, tr.524].

Về đối tƣợng tuyên truyền, Hồ Chí Minh chỉ đạo hƣớng tới toàn dân.

Nội dung tuyên truyền, theo Hồ Chí Minh cần gắn gọn, không tràng giang đại

hải, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm đƣợc, để cho mọi ngƣời hiểu rõ

và quyết tâm làm bằng đƣợc. [107, tr.169], nhƣ tuyên truyền và giáo dục một

Page 68: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

63

cách rộng khắp và bền bỉ cho mỗi gia đình hiểu rõ pháp luật Nhà nƣớc và thấm

nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa về vấn đề ấy. [105, tr.706], tuyên truyền Luật

hôn nhân và gia đình [106, tr.524]

Thực hiện bình đẳng nam nữ là một cuộc cách mạng xã hội, vì vậy, toàn xã

hội phải hợp sức, tiêu diệt tận gốc những thành kiến đối với phụ nữ, những tƣ

tƣởng cổ hủ, gia trƣởng trong ngƣời đàn ông, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ.

Xóa bỏ tƣ tƣởng trọng nam, khinh nữ chính là giúp phụ nữ thoát khỏi tâm lý

tự ti, rụt rè, tiêu cực, không tin tƣởng vào khả năng của mình, không dám đấu

tranh cho quyền lợi của mình

Hai là, nâng cao trách nhi m của h th ng chính tr i với th c hi n bình

ẳng nam nữ

Đối với các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, theo Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nƣớc

phải quan tâm giúp đỡ phụ nữ, giải thoát phụ nữ khỏi những bất công của xã hội

bằng cách đề ra chủ trƣơng, chính sách cụ thể nhằm đảm bảo quyền bình đẳng nam

nữ, bên cạnh những chính sách chung, cần có chính sách riêng bảo vệ quyền lợi phụ

nữ, từng bƣớc xóa bỏ bất bình đẳng nam nữ. Đây vừa là điều kiện, vừa là biện pháp

quan trọng để thực hiện bình đẳng nam nữ. Việc cụ thể hóa quyền bình đẳng nam nữ

bằng chủ trƣơng, chính sách và luật pháp là cơ sở để nâng cao trách nhiệm của

Đảng, Nhà nƣớc trong thực hiện bình đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh nói: Muốn cho

phụ nữ đƣợc bình đẳng, bình quyền thì Đảng và Chính phủ phải tạo mọi điều

kiện cho phụ nữ tham gia lao động sản xuất, bảo hộ sức khỏe của phụ nữ, giảm

nhẹ gánh nặng cho phụ nữ, có kế hoạch đào tạo bồi dƣỡng để phụ nữ có thể cống

hiến hết khả năng cho đất nƣớc. Đó là một cuộc cách mạng to lớn, hoàn toàn

không phải là sự ban ơn của Đảng và Chính phủ đối với phụ nữ. Tƣ tƣởng đó thể

hiện ngay trong lời nói và việc làm của Hồ Chí Minh.

Quan điểm này của Hồ Chí Minh đƣợc thể hiện trong Cƣơng lĩnh thành lập

Đảng khi chủ trƣơng thực hiện nam nữ bình quyền. Hồ Chí Minh khẳng

định: Phải giải phóng phụ nữ thực sự, giải phóng phụ nữ thì bằng pháp luật, chính

sách, biện pháp cụ thể để tiến tới thực hiện bình đẳng nam nữ.

Page 69: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

64

Cùng với việc đề ra chủ trƣơng, chính sách, theo Hồ Chí Minh, Đảng và

Chính phủ còn phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia lao động sản

xuất, bảo hộ sức khỏe, giảm nhẹ gánh nặng gia đình cho phụ nữ, có kế hoạch đào

tạo, bồi dƣỡng để phụ nữ thể hiện hết khả năng của mình. Ngƣời chỉ rõ cho các

cấp ủy đảng và chính quyền “phải có phƣơng pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao

hơn nữa địa vị của phụ nữ” [106, tr.260].

Ngƣời yêu cầu: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi

dƣỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể

cả công việc lãnh đạo” [108, tr.617].

Quan điểm của Ngƣời cũng đƣợc thể hiện rất rõ trong thực tiễn, ngay sau

khi nƣớc nhà giành đƣợc độc lập, Hồ Chí Minh đã giới thiệu vào Quốc hội khoá I

của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà một số chị em tiêu biểu nhƣ: Bà Giáo sƣ

Nguyễn Thị Thục Viên, bà Tôn Thị Quế... Từ đó, đội ngũ cán bộ nữ tham gia vào

cơ quan lãnh đạo các cấp từ trung ƣơng đến cơ sở ngày càng đông, đóng góp to

lớn vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nƣớc.

Đặc biệt, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác phát triển Đảng trong

quần chúng phụ nữ. Ngƣời luôn chú ý đến số lƣợng cán bộ nữ. Ngƣời vui mừng

khi ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia công việc quản lý: “Từ ngày nƣớc ta

đƣợc giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến bộ rõ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội. Nhƣng một trong những tiến bộ rõ rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham

gia chính quyền ngày càng nhiều” [105, tr.639].

Với quan điểm đó, mỗi lần đến thăm các lớp bồi dƣỡng cán bộ, thăm các

nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp hoặc dự các cuộc Hội nghị, Hồ Chí

Minh thƣờng quan tâm tới số lƣợng, tỷ lệ đại biểu nữ và ân cần mời chị em lên

hàng ghế đầu, động viên chị em phát biểu. Thấy cán bộ nữ trƣởng thành, Ngƣời

động viên khuyến khích kịp thời. Ở địa phƣơng nào, ngành nào chƣa quan tâm

chú ý đến chị em phụ nữ, có những tƣ tƣởng hẹp hòi đối với phụ nữ, không đánh

giá đúng khả năng của phụ nữ, Ngƣời đã kịp thời phê bình, nhắc nhở. Ngƣời nói,

nếu cán bộ lãnh đạo là nữ mà ít, đấy là một thiếu sót của Đảng. Nguyên nhân của

Page 70: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

65

tình trạng phụ nữ ít đƣợc tham gia lãnh đạo quản lý, theo Ngƣời là vì: “Nhiều

ngƣời còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi.

Nhƣ vậy là rất sai” [108, tr.275]. Ngƣời đã đặt trách nhiệm của Đảng đối với sự

phát triển của phụ nữ. Ngƣời khẳng định: Phải thực sự giải phóng phụ nữ .

Hồ Chí Minh thƣờng xuyên nhắc nhở các cấp lãnh đạo phải triển khai chủ

trƣơng, đƣờng lối và thực hiện chính sách một cách cụ thể, thiết thực, nói đi đôi với

làm, không đƣợc rời xa quần chúng, phải bám sát các hoạt động của phụ nữ, thƣơng

dân, giúp đỡ họ tháo gỡ khó khăn. Ngƣời nói: “Các cấp lãnh đạo đi sát hơn, thiết thực

hơn, thì phong trào phụ nữ chắc rộng hơn, mạnh hơn nữa” [100, tr.340].

Trong bài phát biểu tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 3, tháng 3 - 1961,

Hồ Chí Minh nhấn mạnh:

“Cán bộ đã cố gắng còn phải cố gắng hơn nữa, đoàn kết nội bộ chặt

chẽ hơn nữa, chịu khó học tập hơn nữa, đi sâu đi sát hơn nữa trong

các ngành sản xuất, thông cảm sâu sắc hơn nữa với quần chúng, và

ra sức giúp đỡ chị em giải quyết những thắc mắc, những khó khăn,

phải làm gƣơng mẫu.

Anh em cán bộ các cấp, các ngành thì cần hết lòng giúp đỡ chị em

tiến bộ về mọi mặt.

Các đồng chí làm đƣợc nhƣ vậy, thì phong trào phụ nữ nhất định

không ngừng lên cao” [106, tr.60].

Với quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh, quyền bình đẳng nam nữ đã

đƣợc thể chế hóa trong đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà

nƣớc (Chính cƣơng vắn tắt - 1930; Hiến pháp nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

1946; Hiến pháp 1959, Luật Hôn nhân và gia đình 1960…), tạo cơ sở quan trọng

cho việc thực hiện bình đẳng nam nữ. Đồng thời trong chỉ đạo thực tiễn của Đảng,

Nhà nƣớc quyền bình đẳng nam nữ đã đƣợc thể hiện ngày càng rõ. Phụ nữ tham

gia ngày càng nhiều trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cán bộ nữ cũng

đƣợc đề bạt vào các cấp lãnh đạo ngày càng tăng hơn. Đây là điểm nổi bật, là

bƣớc tiến trong việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ.

Page 71: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

66

Đối với Hội Liên hiệp phụ nữ và các tổ chức chính trị - xã hội, Hồ Chí Minh

yêu cầu các tổ chức cần làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng với phụ nữ.

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống

chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ

nữ Việt Nam, phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới. Theo Hồ

Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là cầu nối giữa Đảng với các tầng

lớp phụ nữ thông qua việc tuyên truyền các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,

Chính phủ, đặc biệt là chủ trƣơng, chính sách có liên quan đến phụ nữ. Để làm

tròn chức năng của mình và bảo vệ tốt quyền lợi của phụ nữ, theo Ngƣời, Hội

phải sâu sát, phản ánh đúng tâm tƣ, nguyện vọng của chị em từ đó tham mƣu,

tƣ vấn cho các cấp ủy Đảng, đề xuất với Đảng những chủ trƣơng, chính sách

phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nói chung và phụ nữ nói riêng.

Tổng kết 30 năm hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Hội Liên

hiệp Phụ nữ phải là lực lƣợng mạnh mẽ giúp Đảng động viên, tổ chức và lãnh đạo

phụ nữ tiến lên chủ nghĩa xã hội” [105, tr.420].

Trong tƣ duy Hồ Chí Minh, bình đẳng nam nữ là cuộc cách mạng xã hội,

do đó đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội, của các tổ chức chính trị xã hội. Hội

Liên hiệp phụ nữ và các tổ chức chính trị - xã hội trƣớc hết là Đoàn Thanh niên

đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ của

phụ nữ nhằm tiến tới bình đẳng thực sự giữa nam và nữ từ trong gia đình cho

tới toàn xã hội.

Trong Hội nghị thảo luận Luật Hôn nhân và gia đình năm 1960, Hồ Chí Minh

nhấn mạnh: “Hội phụ nữ và Đoàn thanh niên phải phụ trách tuyên truyền và giáo dục

một cách rộng khắp và bền bỉ cho mỗi gia đình hiểu rõ pháp luật Nhà nƣớc và thấm

nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa về vấn đề ấy.” [105, tr.706]. Hội Liên hiệp phụ nữ

còn phải tập hợp, đoàn kết chặt chẽ phụ nữ toàn xã hội, để phụ nữ có điều kiện ra sức

tham gia sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nƣớc

nhà và giữ gìn hoà bình thế giới [105, tr.511]. Đồng thời, Ngƣời nhắc nhở trách

Page 72: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

67

nhiệm của quần chúng nhân dân trong ngăn ngừa và hạn chế vi phạm Luật hôn nhân

và gia đình.

Nhƣ vậy, với những hoạt động tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội,

đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ nữ sẽ góp phần tích cực vào giải phóng phụ nữ,

thực hiện bình đẳng nam nữ.

Ba là, b n thân phụ nữ ph i không ngừng c gắ ơ

Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, thực hiện bình đẳng nam nữ là trách nhiệm

không chỉ của Đảng, Nhà nƣớc, Hội Liên hiệp phụ nữ và các tổ chức chính trị -xã

hội mà còn là trách nhiệm của toàn dân. Tuy nhiên, đây chỉ là nhân tố khách quan

có tác dụng hỗ trợ tích cực cho cuộc đấu tranh thực hiện bình đẳng nam nữ,

để thực hiện thành công nhanh chóng sự nghiệp đó, bản thân mỗi chủ thể nam

giới và nữ giới đều phải phấn đấu thực hiện bình đẳng nam nữ. Trong điều

kiện nƣớc ta, do ảnh hƣởng của tƣ tƣởng phong kiến và chế độ xã hội cũ khá

nặng nề, vị trí, vai trò, suy nghĩ đánh giá về phụ nữ còn nhiều bất cập vì vậy

bản thân phụ nữ phải đặc biệt chủ động trong thực hiện bình đẳng nam nữ,

phải không ngừng tự phấn đấu, tự vƣơn lên. Đây là yếu tố mang tính quyết

định. Hồ Chí Minh nhắc nhở phụ nữ không nên chỉ trông chờ vào các chủ

trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc mà phải tự đấu tranh để

khẳng định địa vị của mình.

Hồ Chí Minh luôn động viên, khuyên bảo, nhắc nhở chị em phải tự cố gắng

học tập, sáng tạo vƣơn lên để khẳng định mình. Ngƣời kêu gọi: Chị em phụ nữ

nông thôn thi đua góp sức hoàn thành tốt cải cách ruộng đất và lập những tổ đổi

công tốt. Chị em công nhân và công chức thi đua làm tròn nhiệm vụ của mình.

Chị em trí thức thi đua góp phần vào việc phát triển văn hoá. Nữ thanh niên tuỳ

theo cƣơng vị của mình, thi đua học và hành, xung phong trong mọi công việc

[103, tr.283]. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ một thực trạng: cấp trên có cất

nhắc cán bộ phụ nữ nhƣng chƣa mạnh dạn, tức là còn phần nào chƣa coi trọng trí

tuệ, tài năng của phụ nữ. Vậy phụ nữ phải làm sao cho ngƣời ta thấy phụ nữ giỏi,

lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ cử mình lên [105, tr.537].

Page 73: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

68

Ngày 10-10-1959, trong buổi nói chuyện tại Hộ bộ

L H Ngƣời phân tích: Về phần mình, chị em phụ nữ

không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự

mình phải tự cƣờng, phải đấu tranh [105, tr.301]. Trong bài “Phải thật sự đảm bảo

quyền lợi của phụ nữ”, đăng trên báo Nhân dân ngày 28-12-1962, Hồ Chí Minh

nhấn mạnh: “Lợi quyền của phụ nữ cần đƣợc thật sự bảo đảm, bản thân phụ nữ

phải đấu tranh tự cƣờng, tự lập để giữ lấy quyền lợi của mình” [106, tr.524]

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Quốc tế Phụ nữ, Ngƣời khen ngợi phụ nữ

Việt Nam ta sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong

kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu

nƣớc. Nhƣng phụ nữ ta cần phải cố gắng nhiều để theo kịp chị em các nƣớc bạn,

góp phần nhiều hơn nữa trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh chỉ rõ mặt hạn chế của phụ nữ: “Phụ nữ ta còn một số nhƣợc

điểm nhƣ bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tƣởng vào khả năng của mình; mặt

khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái” [105, tr.640]. Để khắc

phục những nhƣợc điểm của phụ nữ, tạo mọi thuận lợi để phụ nữ xây dựng gia

đình hạnh phúc và tham gia cống hiến cho đất nƣớc, Ngƣời nhắc nhở phụ nữ

“không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng

kiến, tin tƣởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để

giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền [105, tr.640]. Trong

xã hội, nhiều ngƣời chƣa xem trọng đúng mức địa vị của phụ nữ, thƣờng đánh giá

không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi với phụ nữ, do đó, Hồ Chí

Minh yêu cầu phụ nữ cũng phải luôn luôn có ý thức đấu tranh, Ngƣời chỉ rõ: “Các cô

mà không đấu tranh thì những đồng chí nam có thành kiến với phụ nữ sẽ không tích

cực sửa chữa”. [108, tr.275]

Trong điều kiện một đất nƣớc đi lên từ nền kinh tế kém phát triển, hơn 95%

dân số mù chữ, bao nhiêu hủ tục phong kiến lạc hậu kìm hãm sự phát triển của

phụ nữ, vì vậy, để vƣơn tới sự tiến bộ và văn minh, điều kiện tiên quyết là phụ nữ

Page 74: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

69

cần phải học, phải nâng cao trình độ mọi mặt để khẳng định mình. Hồ Chí Minh chỉ

ra đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp với nam giới, để xứng đáng mình là một

thành viên của xã hội. Hồ Chí Minh căn dặn: Tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy

trách nhiệm của ngƣời làm chủ đất nƣớc, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất

và thực hành tiết kiệm để xây dựng nƣớc nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn làm

trọn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xoá bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại; phải có ý chí

tự cƣờng, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hoá, kỹ thuật. Ngƣời

luôn khuyến khích chị em tự mình cố gắng vƣơn lên khẳng định mình. Điều đó thể

hiện sự quan tâm, thƣơng yêu và đầy tinh thần trách nhiệm của một vị lãnh tụ luôn

theo sát, cổ vũ các phong trào của phụ nữ. Bản thân phụ nữ phải:

“- Gắng học tập chính trị, học tập văn hoá, kỹ thuật.

- Nâng cao tinh thần yêu nƣớc và giác ngộ xã hội chủ nghĩa.

- Hăng hái thi đua thực hiện cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm

xây dựng gia đình” [105, tr.511]

Hồ Chí Minh cho rằng đó là chìa khóa của sự nghiệp tranh quyền cho phụ

nữ. Bởi, không có kiến thức, không nhận biết đƣợc pháp luật và quyền lợi của giới

mình thì sẽ không phát huy đƣợc quyền của giới mình trong hoạt động chính trị

cũng nhƣ cuộc sống.

Trong vấn đề hôn nhân và gia đình, phụ nữ cũng phải có ý thức đấu tranh để

bảo vệ quyền lợi của mình, không nên chỉ trông chờ vào sự tham gia giúp đỡ, giáo

dục của các tổ chức, đoàn thể mà phụ nữ “phải tôn trọng quyền của mình”, “phải tự

mình phấn đấu, đấu tranh chống cái tệ đó” [108, tr.295] trên cơ sở những điều đã

đƣợc quy định trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nƣớc.

Nhƣ vậy, phụ nữ phải luôn ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phải

đấu tranh tự cƣờng, tự lập để giữ vững quyền lợi đó. Đây là nhiệm vụ, là trách nhiệm

của mỗi phụ nữ. Sự cố gắng vƣơn lên của phụ nữ là cơ sở để phụ nữ đi tới bình đẳng

thực sự với nam giới. Hồ Chí Minh đã khẳng định rất rõ điều này trong Di chúc để lại

cho toàn Đảng, toàn dân trƣớc lúc ngƣời đi xa: “Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng

Page 75: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

70

vƣơn lên. Đó là một cuộc cách mạng đƣa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”

[108, tr.617].

Có thể khẳng định, trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quyền bình đẳng nam nữ

chỉ có thể thực hiện trong một xã hội độc lập tự do, không còn ngƣời bóc lột

ngƣời, đó là chế độ xã hội chủ nghĩa. Để bảo đảm thực hiện bình đẳng nam nữ,

Đảng và Nhà nƣớc cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách

bảo đảm bình đẳng nam nữ, phát huy vai trò tích cực chủ động của bản thân phụ

nữ trong việc đấu tranh thực hiện quyền bình đẳng của mình.

Tiểu kết chương 2

Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ là một nội dung quan trọng

trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh nhằm giải phóng toàn diện con ngƣời, giải

phóng ngƣời phụ nữ.

Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ là sự thống nhất toàn diện

giữa bình đẳng nam nữ trên lĩnh vực pháp lý và trong đời sống xã hội.

Hồ Chí Minh đã có quan điểm rất đúng đắn về phụ nữ, đã đánh giá cao vị

trí, vai trò khả năng to lớn của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Ngƣời đƣa ra vấn

đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ gắn với sự nghiệp cách

mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời. Ngƣời

luôn coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân là lẽ

sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không thể tách rời quyền của phụ nữ và

bình đẳng nam nữ, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh

phúc, quyền lợi cho phụ nữ và sự bình đẳng nam nữ. Đây là những cơ sở quan

trọng để Hồ Chí Minh xác định quyền bình đẳng nam nữ trên các lĩnh vực

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, thực hiện “nam nữ bình

quyền” đã mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển, tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Đây

Page 76: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

71

là một cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của đất nƣớc nói

chung, sự phát triển của phụ nữ Việt Nam nói riêng, góp phần vào sự nghiệp

đấu tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ trên thế giới. Tƣ tƣởng đó mang giá trị nhân

văn sâu sắc, hƣớng tới giải phóng triệt để con ngƣời, giải phóng ngƣời phụ nữ -

một bộ phận quan trọng của xã hội. Đồng thời, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ cũng thể hiện rõ tƣ duy sáng suốt và tầm nhìn vƣợt thời đại của

lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Quán triệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, năm 1980, Việt Nam là một trong những

quốc gia đầu tiên ký Công ƣớc của Liên hợp quốc về Xóa bỏ tất cả mọi hình thức

phân biệt đối xử với phụ nữ (công ƣớc CEDAW). Đồng thời, tăng cƣờng bình

đẳng giới, nâng cao vai trò và vị thế của phụ nữ trong mọi hoạt động của xã hội là

một trong những “Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ” mà Việt Nam đã cùng 188

quốc gia cam kết thực hiện trong Tuyên bố Liên hiệp quốc năm 2000. Do vậy,

việc nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới trong

xây dựng và phát triển bền vững đất nƣớc là việc làm cần thiết.

Page 77: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

72

Chương 3

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.1. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH

ĐẲNG NAM NỮ VÀO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.1. Thành tựu và nguyên nhân

3.1.1.1. Thành tựu

Trong xây dựng khung pháp lý bảo đảm quyền phụ nữ và quyền bình đẳng giới

Trên cơ sở những nguyên tắc hiến định của Hiến pháp 1946, Hiến

pháp 1959 theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, để phù hợp với tình hình thực tiễn

của đất nƣớc, Hiến pháp Việt Nam đã nhiều lần đƣợc sửa đổi, bổ sung,

hoàn thiện (1980, 1992, 2013), trong đó, các quy định về quyền bình đẳng

nam nữ không ngừng đƣợc mở rộng.

Kế thừa những quy định tốt đẹp trong các bản Hiến pháp trƣớc đây và

tiếp tục hoàn thiện, phát triển các quy định bảo đảm bình đẳng giới, bảo đảm

quyền con ngƣời trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận đầy đủ và phát triển

sâu sắc hơn nữa những quy định về bình đẳng giới, trách nhiệm của các cơ

quan, tổ chức, xã hội và công dân trong việc đảm bảo thực hiện quyền bình

đẳng giới trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Nhà nƣớc và xã hội có trách

nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ nâng cao trình độ về mọi mặt. Nội

dung Hiến pháp năm 2013, Chƣơng II, từ Điều 14 đến Điều 49 đã quy định các

quyền con ngƣời nói chung và quyền công dân nói riêng, trong đó có quyền bình

đẳng nam nữ đƣợc quy định tại Điều 26 “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi

mặt. Nhà nƣớc có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà

nƣớc, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy

vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” [122]. Tại

Điều này trách nhiệm tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai

trò của mình trong xã hội, không chỉ của nhà nƣớc, xã hội mà còn có trách nhiệm

của cả gia đình. Khoản 2, Điều 36 “Nhà nƣớc bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo

Page 78: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

73

hộ quyền lợi của ngƣời mẹ và trẻ em” [122]; Khoản 2, Điều 58 “Nhà nƣớc, xã

hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ngƣời mẹ, trẻ em, thực

hiện kế hoạch hóa gia đình”...[122]. Đặc biệt, lần đầu tiên, thuật ngữ bình đẳng

giới đã chính thức đƣợc đƣa vào đạo luật cơ bản nhất trong hệ thống pháp luật của

quốc gia, từ đó tạo tiền đề cho việc triển khai xây dựng và hoàn thiện chính sách,

pháp luật về bình đẳng giới sau này.

Hiến pháp 2013 đã quy định sự bình đẳng nam nữ một cách toàn diện

hơn, tổng quát hơn và tiến bộ hơn. Quy định nam nữ bình đẳng về mọi mặt trong

tất cả các lĩnh vực. Đây không chỉ là bình đẳng về quyền lợi mà còn là bình đẳng

về trách nhiệm, nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực. So với Hiến pháp năm 1992, nội

dung không phân bi i xử chuyển từ không phân bi i xử với phụ nữ đã mở

rộng sang không phân bi i xử về giới. Các quy định này đã mở rộng và bảo

đảm đƣợc các nguyên tắc của Công ƣớc loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử

với phụ nữ (CEDAW)

Từ những quy định của Hiến pháp, Nhà nƣớc đã sửa đổi, ban hành nhiều

bộ luật mới, quan trọng trong đó khẳng định quyền bình đẳng nam nữ.

Quyền bình đẳng nam nữ đƣợc thể hiện đậm nét, tập trung và đầy đủ

nhất trong Lu t Bình ẳng giới đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam thông qua ngày 29/11/2006, (có hiệu lực từ 1-7-2007) tạo hành lang

pháp lý vững chắc cho việc thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Lần

đầu tiên các khái niệm về giới, bình đẳng giới, việc đảm bảo bình đẳng giới trong

các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, gia đình.v.v..; trách nhiệm của các bộ

ngành, địa phƣơng và các cơ quan, tổ chức trong thực hiện bình đẳng giới; yêu cầu

thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong các văn bản quy phạm pháp luật;

yêu cầu xây dựng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và ngân sách cho hoạt

động bình đẳng giới… đã đƣợc quy định trong Luật. Theo đó, Nhà nƣớc bảo đảm

bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình;

bảo vệ, hỗ trợ ngƣời mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện

để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; áp dụng những biện pháp thích hợp để

xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới; hỗ

Page 79: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

74

trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu

số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều

kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa

phƣơng mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nƣớc. Điều 4

của Lu t Bình ẳng giới khẳng định:

“Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ

hội nhƣ nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát

triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ

và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”. [120]

Luật Bình đẳng giới ra đời đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam

trong việc thực hiện bình đẳng giới và bảo vệ quyền con ngƣời.

Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp và Luật Bình đẳng giới, nội dung

bình đẳng giới đã đƣợc Đảng, Nhà nƣớc, Quốc hội chỉ đạo lồng ghép vào nội

dung nhiều đạo Luật mới và sửa đổi nhƣ: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình

(2007), Luật Cán bộ, công chức (2008), Luật Viên chức (2010), Luật Phòng,

chống mua bán ngƣời (2011), Bộ Luật Lao động (2012), Luật việc làm (2013),

Luật đất đai (2013), Luật Hôn nhân và Gia đình (2014), Bộ Luật dân sự (2015),

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (2015),…

Đi đôi với việc sửa đổi, ban hành các đạo luật, trong thời kỳ đổi mới,

Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam còn đƣa ra nhiều chủ trƣơng, chính sách nhằm cải

thiện cuộc sống, tăng cƣờng vai trò của phụ nữ và thực hiện tốt bình đẳng giới.

Điển hình, là Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 27-4-2007 “Về

p ụ ữ ờ ỳ ẩ ạ p ạ ấ ớ ”. Nghị quyết

thể hiện quan điểm đúng đắn, sáng suốt của Đảng về bình đẳng giới trƣớc yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, trong xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu

hóa. Nghị quyết nêu rõ:

“Phấn đấu để nƣớc ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình

đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực”; “Phát huy vai trò, tiềm năng to

lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây

Page 80: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

75

dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình

đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một

trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt

Nam trong thời kỳ mới”. [41].

Quan điểm nhất quán của Đảng về bình đẳng giới còn đƣợc thể hiện rõ

trong các Văn kiện Đại hội (Đại hội X, XI) của Đảng, trong đó, Đảng luôn chú

trọng tới việc tạo điều kiện để thực hiện bình đẳng giới, nhất là đối với phụ nữ

trên mọi phƣơng diện, phù hợp với tiến trình đổi mới. Nghị quyết Đại hội XI của

Đảng khẳng định:

“Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, tạo

điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình trong gia đình và xã hội; kiên

quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc

phạm nhân phẩm phụ nữ” [42, tr.50].

Đặc biệt, để cụ thể hóa hơn nữa, Ban Bí thƣ đã ra các Thông báo trực

tiếp chỉ đạo về vấn đề bình đẳng giới nhƣ Thông báo Kết luận số 55-KL/TW

ngày 18-1-2013, về ti p tụ ẩy mạnh th c hi n Ngh quy t s 11-NQ/TW của

Bộ Chính tr X “Về công tác phụ nữ thời kỳ ẩy mạnh công nghi p hóa,

hi ạ ấ ớ ”; Thông báo số 196-TB/TW ngày 16-3-2015, về đề án

“ ă ờng s ã ạo củ Đ i với công tác b ẳng giới và vì s

ti n bộ của phụ nữ trong tình hình mới”. Thông báo yêu cầu các cấp cần tập

trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, trong đó phải xác định “công tác bình

đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ là nhiệm vụ chiến lƣợc, lâu dài và

thƣờng xuyên ở từng cấp, từng ngành…” [175].

Để triển khai các chủ trƣơng của Đảng, Chính phủ Việt Nam đã ban hành

nhiều chính sách, chƣơng trình hành động về bình đẳng giới nhƣ: Nghị quyết số

57/NQ-CP, ngày 1-12-2009 về vi b ơ ộng của Chính

phủ ạ n 2020 th c hi n Ngh quy t s 11-NQ/TW, ngày 27-4-2007, của

Bộ Chính tr về công tác phụ nữ thời kỳ ẩy mạnh công nghi p hóa, hi ại hóa

ấ ớc, trong đó đề ra mục tiêu: “... Phấn đấu để nƣớc ta là một trong các quốc

gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực” ; C ơ c gia

Page 81: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

76

về b ẳng giới ạn 2011-2015, do Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt ngày

22-7-2011, với 5 dự án thành phần: (i) nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về

bình đẳng giới; (ii) nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc về bình đẳng

giới; (iii) nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu Quốc hội, nữ đại biểu Hội

đồng nhân dân các cấp, nữ cán bộ quản lý, nữ lãnh đạo các cấp; nữ ứng cử đại

biểu Quốc hội, nữ ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 -

2020, nữ cán bộ thuộc diện quy hoạch; (iv) hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới trong

những lĩnh vực, ngành, vùng, địa phƣơng có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ

cao bất bình đẳng giới; (v) hỗ trợ thực hiện và kiểm tra việc triển khai Chiến lƣợc;

đồng thời lần đầu tiên, chính phủ Việt Nam cam kết bố trí 955 tỷ đồng cho việc

thực hiện Chƣơng trình, trong đó 85% kinh phí từ nguồn ngân sách Nhà nƣớc và

20% là huy động tài trợ. [147]; Quyết định số 629/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính

phủ, ngày 29/5/2012 về Chi c phát triể V t Nam [148]; C ơ

ộng qu c gia phòng, ch ng bạo l ă 2020 [149]…

Nhƣ vậy, cùng với quá trình phát triển của đất nƣớc, các chủ trƣơng,

chính sách, các văn bản pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về phụ nữ,

cán bộ nữ và bình đẳng giới ngày càng đƣợc hoàn thiện, bổ sung, cụ thể hoá và

bảo đảm thực hiện trên thực tế. Hệ thống khung pháp lý về bình đẳng giới ở Việt

Nam đƣợc Liên hợp quốc đánh giá cao. Đó là kết quả của sự vận dụng và phát

triển sáng tạo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của đất nƣớc.

T ễ ộ

Những chủ trƣơng, chính sách, hệ thống pháp luật về bình đẳng giới đã

tạo ra một bƣớc chuyến biến mới cả về lƣợng và chất trong việc bảo đảm quyền

bình đẳng của phụ nữ ở nƣớc ta, tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho việc thực thi

quyền bình đẳng giới trên thực tế, từ đó, Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu

đáng ghi nhận. Theo báo cáo khoảng cách giới toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế

giới năm 2016 về mức độ mất cân bằng giữa nam và nữ Việt Nam xếp thứ 65 trên

144 quốc gia (tăng 18 bậc so với năm 2015), thứ 7 tại khu vực châu Á về thu hẹp

khoảng cách giới trong các lĩnh vực [10, tr.1] (xem phụ lục)

Page 82: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

77

- B ẳng giới t ĩ c chính tr

Kế thừa và phát huy những kết quả đạt đƣợc về thực hiện quyền bình đẳng

nam nữ trong lĩnh vực chính trị mà Hồ Chí Minh đƣa ra và trực tiếp chỉ đạo ngay

từ những ngày đầu lập nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời kỳ mới,

bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị ngày càng đạt đƣợc những thành tựu và

bƣớc tiến rõ rệt. Trong các hoạt động bầu cử, ứng cử, cơ hội tiếp cận quyền tham

chính, sự đóng góp ý kiến của nam giới và nữ giới trong xây dựng Hiến pháp và

pháp luật, trong các chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn

mới, đô thị văn minh ngày càng tiệm cận nhau.

Trong hoạt động bầu cử và ứng cử, bằng những chủ trƣơng, chính sách

đúng đắn của Đảng, Nhà nƣớc, hệ thống pháp luật tƣơng đối đầy đủ, đồng bộ,

những năm qua, sự bình đẳng giới trong lĩnh vực này đã đạt đƣợc những thành tựu

đáng ghi nhận. Nếu ở Quốc hội khóa I (thời Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, điều

hành đã ghi dấu ấn về sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan dân cử) tỷ lệ đại

biểu nữ là 3%, thì đến nay, cùng với sự phát triển của xã hội, sự vận dụng tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV đã đạt tỷ

lệ 26,8%. Số đại biểu nữ giữ các trọng trách quan trọng trong các cơ quan của

Quốc hội cũng đã tăng lên. Trong nhiều năm liền, Việt Nam luôn có Phó chủ tịch

Quốc hội là nữ. Tất cả các Ủy ban của Quốc hội đều có thành viên nữ [132]. Đặc

biệt, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, sáng ngày 31-3-2016, lần đầu tiên

trong lịch sử có nữ Chủ tịch Quốc hội là bà Nguyễn Thị Kim Ngân, đã trúng cử

với số phiếu 95,5%. Đây là vinh dự lớn cho phụ nữ Việt Nam, là trong

lịch sử nữ quyền ở Việt Nam đã có phụ nữ nắm giữ một trong 4 vị trí lãnh đạo cao

nhất “tứ trụ” trong bộ máy quyền lực Nhà nƣớc.

Trong Hội đồng nhân dân các cấp, tỉ lệ đại biểu nữ 3 nhiệm kỳ gần đây đều

tăng, trong đó nhiệm kỳ 2016-2020 đạt mức cao nhất (xem bảng 3.1). Điều này

cho thấy, dấu hiệu tích cực của bình đẳng giới trong các cơ quan dân cử ở địa

phƣơng. Thực hiện quyền bầu cử và ứng cử đối với nữ giới đã đƣợc các cấp, các

ngành triển khai sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân trên cơ sở thực hiện quy chế

dân chủ, công khai trong hoạt động bầu cử. Số lƣợng và chất lƣợng của nữ đại

Page 83: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

78

biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng đƣợc nâng cao,

nhiều chị giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nƣớc. Đây là một

điểm thể hiện rõ bƣớc tiến bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.

Bảng 3.1: Tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo giới

Đơ : %

Nhiệm kỳ

Cấp tỉnh,

thành phố

trực thuộc

trung ương

Cấp quận,

huyện, thị xã

Cấp xã, phường,

thị trấn

Tỷ lệ

nữ/ tổng

số

Tỷ lệ

nam/

tổng số

Tỷ lệ

nữ/ tổng

số

Tỷ lệ

nam/

tổng số

Tỷ lệ

nữ/ tổng

số

Tỷ lệ

nam/ tổng

số

Nhiệm kỳ

2004-2011 23,9 76,1 23,01 76,99 19,5 80,5

Nhiệm kỳ

2011-2016 25,17 74,48 24,62 75,38 21,17 78,83

Nhiệm kỳ

2016 – 2020 26,56 73,44 27,5 72,5 26,59 73,41

Ngu n: S li u thu th p từ các Báo cáo về th c hi n các mục tiêu qu c gia

về b ẳng giới của Chính phủ từ ă 2009 - 2014 Vă Đại hội phụ nữ

toàn qu c l n th XII ă 2016

Không chỉ trong bầu cử, ứng cử, trong lĩnh vực tham chính, sự bình đẳng

giới cũng đạt những bƣớc tiến đáng ghi nhận. Tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng

có xu hƣớng tăng, góp phần quan trọng vào việc thu hẹp khoảng cách bất bình

đẳng giới trong lĩnh vực này.

Trong Ban Chấp hành Trung ƣơng, số lƣợng nữ ủy viên tăng dần qua các

kỳ Đại hội. Tỷ lệ nữ ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá X, có 13 đồng chí,

chiếm 8,13% so với 91,87% nam; khóa XI có 15 đồng chí, chiếm 8,57% so với

91,43% nam; khóa XII có 17 đồng chí chiếm tỷ lệ 9,44% so với 90,56% nam.

Ở cấp cơ sở, tỉ lệ nữ tham gia Ủy viên Ban Chấp hành có xu hƣớng tăng

dần ở cấp xã. Nếu ở nhiệm kỳ 2006-2010, tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy cấp xã là

14,36 % so với 85,64% nam, nhiệm kỳ 2011-2015 tỷ lệ này là 18,1% nữ so với

Page 84: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

79

81,9% nam thì tới nhiệm kỳ 2016-2020 tỷ lệ này chiếm 19,69% nữ so với 80.31%

nam (tăng 1,59%).

Đồng thời, đội ngũ cán bộ, công chức nữ ngày càng giữ vị trí quan trọng đã

và đang đóng góp vai trò tích cực trong đời sống chính trị và xã hội, cùng tham gia

quyết định các vấn đề quan trọng của đất nƣớc và hoạch định chiến lƣợc phát triển

kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của quốc gia, cũng nhƣ của từng địa phƣơng.

Trong hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam luôn có Phó Chủ tịch nƣớc là nữ (Nguyễn

Thị Bình, Nguyễn Thị Doan, Đặng Thị Ngọc Thịnh). Đặc biệt, theo Báo cáo

ơ 5 ă c hi n chi c qu c gia về B ẳng giới ạn 2011-

2020 do Bộ Lao động – Thƣơng binh và xã hội thực hiện gần đây nhất, tháng

5 - 2016, tính đến tháng 12/2015, có 14/30 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan

thuộc Chính phủ có nữ Thứ trƣởng và tƣơng đƣơng, đạt tỷ lệ 46,6%, gồm:

11/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 03/08 cơ quan thuộc Chính phủ; có 18/35 cơ

quan của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp Trung ƣơng có

lãnh đạo chủ chốt là nữ, chiếm tỷ lệ 51%. Đối với các cơ quan của Quốc

hội, có 4 đồng chí nữ trên 18 đồng chí (chiếm 22,2%) tham gia Ủy ban

thƣờng vụ Quốc hội. Đây là nhiệm kỳ có số lƣợng nữ lãnh đạo chủ chốt ở

các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan trực thuộc Chính phủ nhiều nhất.

Trong ngành Công an, lần đầu tiên có ba đồng chí nữ đƣợc phong quân

hàm Thiếu tƣớng; Bộ Quốc phòng cũng đã phong quân hàm cho một nữ

Trung tƣớng và hai nữ Thiếu tƣớng [9]

Đánh giá về mức độ thu hẹp khoảng cách giới trong lĩnh vực tham chính

của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2016 cho thấy Việt Nam đứng thứ 84/144

quốc gia. Đây là một thành tựu mà Việt Nam cần phát huy hơn nữa trong thời

gian tới [10]

Điểm nổi bật của cán bộ nữ là không ngừng phấn đấu vƣơn lên, hoàn thành

tốt nhiệm vụ đƣợc giao, có nhiều đóng góp cho sự phát triển chung của đất nƣớc

và cho mục tiêu bình đẳng giới. Trong công tác, phụ nữ thƣờng thể hiện tinh thần

Page 85: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

80

trách nhiệm cao, trung thực, thẳng thắn, khiêm tốn, biết lắng nghe, có khả năng

thuyết phục, dân chủ trong lãnh đạo, quản lý, liêm khiết, tiết kiệm, ít tham

nhũng nên đƣợc xã hội tin cậy. Điều này đã đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng

định từ những năm 60 của thế kỷ XX: “Hiện nay, có nhiều phụ nữ tham gia

công tác lãnh đạo ở cơ sở. Nhiều ngƣời công tác rất giỏi v.v.. Các cháu gái ở

các hợp tác xã thƣờng có nhiều ƣu điểm: ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay

chè chén, ít hống hách mệnh lệnh nhƣ một số cán bộ nam” [108, tr.275]

- B ẳng giới t ĩ c kinh t

Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, Đảng,

Nhà nƣớc Việt Nam đã tập trung thực hiện nhiều biện pháp nhằm tạo điều kiện

bình đẳng cho mọi ngƣời dân, cả nam và nữ trong tham gia các hoạt động kinh tế.

Do đó, khoảng cách bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực này cũng đang ngày

càng xích lại gần.

Tiếp tục khẳng định và phát triển quan điểm Hồ Chí Minh coi bình đẳng

nam nữ trong lĩnh vực lao động việc làm là nội dung quan trọng trong bình

đẳng giới trên lĩnh vực kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ khi Luật

Bình đẳng giới ra đời cho tới nay, Nhà nƣớc Việt Nam luôn coi trọng sự bình

đẳng trong lao động việc làm cho cả hai giới nam và nữ. Số liệu báo cáo của

Tổng cục thống kê hàng năm cho thấy số việc làm và lao động đƣợc tạo việc

làm theo giới hàng năm ngày càng cân bằng, tỉ lệ lao động nữ đƣợc tạo việc

làm dao động từ 48-49,4%. Đồng thời, theo Báo cáo của Bộ Lao động –

Thƣơng binh và xã hội cho thấy, giai đoạn 2011-2015, cả nƣớc đã giải quyết

việc làm cho tổng cộng khoảng 7,815 triệu lao động (cụ thể, năm 2011: 1,538

triệu ngƣời; năm 2012: 1,52 triệu ngƣời; năm 2013: 1,54 triệu ngƣời; năm

2014: 1,6 triệu ngƣời; năm 2015: 1,625 triệu ngƣời) trong đó, tỷ lệ lao động

nữ/nam chiếm khoảng 48/52% tổng số việc làm đƣợc tạo ra của cả nƣớc [9].

Đây là một minh chứng tiêu biểu cho thành tựu về bình đẳng giới trong lĩnh

vực kinh tế (xem bảng 3.2)

Page 86: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

81

Bảng 3.2: Tỷ lệ lao động theo giới

Đơ tính: %

Tỷ lệ Năm 2007 Năm 2010 Năm 2012 Năm 2014 Tháng

1/2016

Nữ 49,4 48 48,5 48 48,3

Nam 50,6 52 51,5 52 51,7

Tổng số 100 100 100 100 100

Ngu n: S li u th ă 2007 2010 2012 2014 2015 ủa Tổng cục

Th ng kê, Bộ K hoạ Đ

Bên cạnh đó, theo kết quả điều tra lao động - việc làm hàng năm, lao động

nữ đã tham gia ngày càng nhiều trong khu vực phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành

và lĩnh vực kinh tế có yêu cầu kỹ thuật, công nghệ cao và khu vực dịch vụ, khu vực

kinh tế phi chính thức. Năm 2007: Tỷ lệ lao động nữ đã chiếm trên 46% số ngƣời làm

công, ăn lƣơng trong các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh so với 54% của nam giới;

hơn 41% số chủ cơ sở sản xuất kinh doanh là nữ so với 59% nam giới.

Trong lĩnh vực công nghiệp, theo Niên giám thống kê năm 2014 của Tổng

cục Thống kê, lao động nữ chiếm 43,6% so với nam là 56,4%. Đây là lực lƣợng

đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc,

hội nhập kinh tế quốc tế.

Với các quy định hiện hành của pháp luật lao động, nam giới và nữ giới

bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, đƣợc đối xử bình đẳng tại nơi

làm việc về việc làm, tiền công, tiền thƣởng, điều kiện lao động và các điều kiện

làm việc khác.

Từ kết quả trên, Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2016 đã đánh giá Việt Nam

có tỷ lệ tham gia lực lƣợng lao động của nữ/nam là 0,92 - gần tiệm cận mức bình

đẳng. Đây chính là kết quả sinh động của việc vận dụng và phát triển tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực kinh tế.

Page 87: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

82

- B ẳng giới t ĩ ă – xã hội

Nhận thức rõ vai trò của bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa – xã hội sẽ

góp phần thúc đẩy sự phát triển chung, đồng thời, quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ, Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam luôn hƣớng tới việc

thúc đẩy sự bình đẳng giới trên cả lĩnh vực văn hóa và xã hội.

Trong lĩnh vực văn hóa, nổi bật là giáo dục và đào tạo, khoa học và công

nghệ, sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình

đẳng giới đã ngày càng thu đƣợc những thành tựu đáng ghi nhận. Bình đẳng giới

trong giáo dục - đào tạo đƣợc coi là mục tiêu ƣu tiên hàng đầu trong Kế hoạch

hành động quốc gia về giáo dục cho mọi ngƣời giai đoạn 2003-2015. Điều này

giúp cả hai giới nam và nữ đều có điều kiện, cơ hội về nâng cao năng lực trong

đời sống xã hội, tham gia ngày càng hiệu quả vào quá trình xây dựng và phát triển

đất nƣớc, rút ngắn khoảng cách, sự chênh lệch, tạo sự bình đẳng giữa nam và nữ.

Trƣớc hết, cơ hội học tập của cả hai giới đều khá tƣơng xứng, sự tách biệt

không nhiều trong hệ thống giáo dục phổ thông. Đặc biệt, không có bất kỳ sự

phân biệt giới nào trong chƣơng trình, điều kiện học tập, học bổng, trợ cấp …từ

bậc học mầm non cho tới sau đại học. Bên cạnh đó, gia đình và xã hội đã quan

tâm nhiều hơn và tạo điều kiện cho cả trẻ em trai và trẻ em gái đến trƣờng. Do đó,

tỷ lệ nhập học đều tăng lên ở các cấp học. Theo kết quả điều tra năm 2014 cho

thấy, chỉ số bình đẳng giới theo cấp học ở bậc tiểu học và trung học cơ sở không

có sự khác biệt. Ở bậc trung học phổ thông, tỷ lệ trẻ em gái đi học đúng tuổi là

68,3% so với tỷ lệ tƣơng ứng của trẻ em trai là 58,2% [30, tr.66]. Đồng thời, tỷ lệ

biết chữ của phụ nữ cũng đang ngày càng tăng lên thu hẹp khoảng cách giới. Kết

quả điều tra dân số và nhà ở hàng năm của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ biết

chữ của số dân từ 15 tuổi trở lên liên tục tăng. Năm 2009 tỷ lệ biết đọc, biết viết

của phụ nữ là 91,4% so với nam là 95,8%. Sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ của

nông thôn và thành thị cũng rất thấp (97% ở thành thị và 92% ở nông thôn) [20].

Năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết đọc, biết viết đạt 92%[21]. Năm 2013, tỷ lệ phụ nữ

biết chữ ở vùng nông thôn là 94,8% và thành thị là 98,6%[23]. Năm 2014, tỷ lệ

Page 88: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

83

ngƣời dân tộc thiểu số biết chữ đạt 93,76%, trong đó phụ nữ dân tộc thiểu số biết

chữ đạt 93,4%.[25]

Ở bậc học cao hơn, tỷ lệ sinh viên nữ cũng ngày càng tăng, khoảng cách

chênh lệch tỉ lệ giữa nam và nữ ngày càng giảm. Theo Thống kê của Bộ Giáo dục

- Đào tạo, tỷ lệ sinh viên nữ ở các trƣờng Đại học Cao đẳng năm học 2005-2006 là

48,49% nữ so với 51,51% nam, năm học 2006-2007 tỷ lệ này là 55,32% nữ, 44,68

nam. Năm học 2010-2011, tỷ lệ nữ sinh viên chiếm hơn 50% so với nam sinh viên

gần 50% trong các trƣờng đại học và cao đẳng. Năm học 2012 - 2013, tỷ lệ sinh

viên nữ trong các trƣờng đại học và cao đẳng chiếm 49,28% so với nam 50,72

Đặc biệt, ngày càng nhiều nữ sinh viên đạt thủ khoa cả đầu vào và đầu ra đại

học. Theo số liệu báo cáo, năm 2009, trong số hơn 130 thủ khoa tốt nghiệp tại các

trƣờng đại học trên địa bàn Hà Nội, có 60% thủ khoa là nữ [20]. Năm học 2010-

2011, nữ thủ khoa chiếm 61,6% các kỳ tuyển sinh và tốt nghiệp đại học. Năm học

2012 - 2013, thủ khoa đầu ra là nữ các trƣờng đại học chiếm tỷ lệ 67,96%

Thấm nhuần quan điểm Hồ Chí Minh về việc nâng cao trình độ cho phụ nữ, ở

bậc học sau đại học cơ cấu trình độ phụ nữ có bằng thạc sỹ và tiến sỹ cũng đang ngày

càng nâng lên, thu hẹp khoảng cách với nam giới có bằng thạc sỹ, tiến sỹ. Nếu năm

2009, nữ giới có trình độ sau đại học ở thành thị là 23% so với 77% của nam giới, ở

nông thôn là 16,4% so với 83,6% so với nam giới, thì năm 2014, tỷ lệ này là 40,6% nữ

so với 59,4% nam ở thành thị và 36,8% nữ so với 63,2% nam ở nông thôn [30, tr.73].

Các số liệu trên cũng cho thấy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để xây dựng

và phát triển đội ngũ trí thức - những ngƣời đã và đang đóng góp thật sự cho sự

nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc. Cùng với nam trí thức, nữ trí thức cũng

tham gia ngày càng chủ động và tích cực vào các hoạt động khoa học - công nghệ,

có nhiều công trình nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, ứng

dụng vào sản xuất và hoạt động thực tiễn đem lại lợi ích kinh tế - xã hội trên nhiều

lĩnh vực. Nhiều nữ trí thức đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc trao những giải thƣởng cao

quý, nhiều nhà khoa học nữ đƣợc nhà nƣớc tôn vinh anh hùng lao động, cấp bằng

lao động sáng tạo và nhận đƣợc nhiều giải thƣởng trong và ngoài nƣớc.

Page 89: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

84

Có thể nói, Việt Nam đã đạt đƣợc mức độ bình đẳng giới trong lĩnh vực

giáo dục khá cao. Đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới về khoảng cách giới toàn

cầu năm 2016 cho thấy, Việt Nam đã đứng thứ 93/144 quốc gia về thu hẹp khoảng

cách giới trong lĩnh vực giáo dục. [10; tr.1]

Trong lĩnh vực xã hội. Kế thừa và phát triển quan điểm Hồ Chí Minh

về nâng cao địa vị cho phụ nữ trong xã hội đặc biệt quan tâm tới những nét

đặc thù riêng của phụ nữ, từ đó đề ra những chính sách ƣu đãi tạo điều kiện

cho phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội bình đẳng nhƣ nam giới, trong

thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong 10 năm trở lại đây, việc thực hiện chính sách

xã hội của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam luôn đƣợc chú trọng và hƣớng tới cả

hai giới nam và nữ. Trong chính sách phúc lợi xã hội không có sự phân biệt

nào về giới tính, có ƣu tiên cho đồng bào dân tộc, các đối tƣợng chính sách

xã hội. Nhà nƣớc chú trọng phát triển chính sách phúc lợi xã hội, đặc biệt

hƣớng mạnh tới khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, thực hiện thông qua

các chƣơng trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, việc làm và

các chƣơng trình viện trợ phát triển, nhân đạo quốc tế. Đời sống phụ nữ

nông thôn đã đƣợc cải thiện một bƣớc, tạo điều kiện cho khoảng 70% phụ nữ

đƣợc hƣởng thụ từ những công trình phúc lợi công cộng về điện thắp sáng,

đƣờng giao thông, điểm bƣu điện, văn hoá, trạm y tế, trƣờng học [20].

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam còn có những chính sách riêng

nhằm giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, tăng cƣờng sức khoẻ bà mẹ, phòng chống

HIV/AIDS, sốt rét và các dịch bệnh nguy hiểm. Cùng với những tiến bộ của y học nƣớc

nhà, sức khỏe phụ nữ tiếp tục đƣợc cải thiện, tuổi thọ trung bình đƣợc nâng lên. Công tác

chăm sóc sức khoẻ, mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của phụ nữ, đặc biệt phụ nữ dân tộc

thiểu số, vùng sâu, vùng xa đƣợc cải thiện đáng kể. Theo số liệu điều tra chuyên đề của

Bộ Y tế, tuổi thọ bình quân của ngƣời dân Việt Nam năm 2009 đạt trên 72 tuổi; năm

2011 đạt 73,2 tuổi. Tuổi của nữ trung bình cao hơn nam từ 4 đến 5 tuổi.

Tỷ số giới tính khi sinh (số bé trai /100 bé gái) qua các năm đƣợc khống

chế ở mức khá ổn định: Tỷ số giới tính khi sinh năm 2008 là 112/100; năm 2009

Page 90: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

85

là 111/100; năm 2011 là 111,9/100; năm 2012 là 112,3 /100; năm 2013 là

113,8/100; năm 2014 là 112,2 /100 [24]; năm 2016 là 113/100 [27]

Tỷ lệ phụ nữ mang thai đƣợc khám thai trên 3 lần tăng từ 86,2% năm 2007

lên 87% năm 2013. Tỷ lệ bà mẹ khi sinh con đƣợc cán bộ y tế chăm sóc tăng từ

94,3% năm 2007 lên 96,0% vào năm 2013.[26]

Trong thời gian qua, tỷ số tử vong mẹ ở Việt Nam đã giảm từ 68/100.000

trẻ đẻ sống vào năm 2011 xuống còn 59/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2014; năm

2015 là 58,3/100.000 và năm 2016 là 58/100.000. Theo đánh giá của Liên hợp

quốc, Việt Nam có tốc độ giảm tử vong mẹ nhanh so với các nƣớc trong khu vực.

Đồng thời, Việt Nam đã đạt đƣợc những kết quả đáng kể trong việc phòng tránh

lây nhiễm HIV từ mẹ sang con. Tỷ lệ các bà mẹ mang thai đƣợc xét nghiệm HIV

tăng từ 16,5% năm 2006 lên 36,1% năm 2011 và 49,7% năm 2013 [9].

Có thể thấy rõ, trong lĩnh vực xã hội đặc biệt là chính sách xã hội và chăm

sóc sức khỏe, bình đẳng giới đã đạt đƣợc những thành tựu đáng ghi nhận, phụ nữ

ngày càng đƣợc tiếp cận với dịch vụ y tế nhiều hơn, đặc biệt trong việc mang thai

và sinh nở, thiên chức riêng của phụ nữ.

- B ẳng giới t

Cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội của đất

nƣớc, đời sống gia đình Việt Nam cũng có những thay đổi lớn lao. Trong gia đình,

vị trí, vai trò của ngƣời phụ nữ cũng ngày càng đƣợc khẳng định, quyền bình đẳng

nam nữ trong gia đình đã có những thay đổi căn bản so với trƣớc đây.

Kế thừa tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới, quyền tự do và bình

đẳng của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình tiếp tục đƣợc duy trì thực

hiện và ngày càng đƣợc đảm bảo bằng các biện pháp luật pháp. Pháp luật Việt

Nam hiện hành đã ghi nhận và bảo đảm cho phụ nữ có quyền và trách nhiệm bình

đẳng nhƣ nam giới trong những vấn đề có liên quan tới hôn nhân và gia đình, đặc biệt

trong việc kết hôn; lựa chọn bạn đời; trong thời gian hôn nhân hay khi ly hôn; làm

cha mẹ không tính đến tình trạng hôn nhân; tự do quyết định số con và khoảng cách

giữa các lần sinh con, đƣợc tiếp cận với thông tin, giáo dục và những phƣơng tiện để

Page 91: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

86

họ có thể thực hiện những quyền này; giám hộ, bảo trợ, trông nom và nhận nuôi con;

lựa chọn họ, tên, nghề nghiệp và việc làm; sở hữu, thu nhập, kiểm soát, quản lý,

hƣởng thụ và chuyển nhƣợng tài sản; có quy định rõ về tuổi kết hôn tối thiểu và bắt

buộc đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn…

Cùng với đó, trong gia đình, sự chia sẻ trách nhiệm, công việc gia đình giữa

vợ và chồng cũng đang ngày càng nhiều hơn. Theo số liệu khảo sát của Bộ Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới năm

2014 điều tra, khảo sát chỉ tiêu “Rút ngắn khoảng cách về thời gian tham gia công

việc gia đình của nữ giới và nam giới”. Công tác điều tra, khảo sát đƣợc thực hiện tại

03 tỉnh: Hà Nội, Nghệ An và Hậu Giang. Kết quả cho thấy, có tới 64,33% những

ngƣời đƣợc hỏi cho rằng tỷ lệ nam giới đã tham gia việc nhà nhiều hơn trƣớc. Những

biến đổi theo hƣớng tích cực nhƣ trên là tiền đề rất tốt để thúc đẩy công tác bình đẳng

giới trong những năm tiếp theo.[25]

Bên cạnh đó, công tác tƣ vấn, hỗ trợ hôn nhân, gia đình, giảm thiểu bạo lực gia

đình đối với phụ nữ từng bƣớc đƣợc đẩy mạnh. Nhiều mô hình đƣợc duy trì và nhân

rộng, trong đó nổi bật là mô hình câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ

gia đình không có tệ nạn xã hội, mô hình câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau… Các

mô hình mới trong tƣ vấn, hỗ trợ gia đình, hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài, phòng

chống bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ - trẻ em và các tệ nạn xã hội khác đã đƣợc

triển khai thực hiện nhƣ Trung tâm hỗ trợ kết hôn, Địa chỉ tin cậy ở cộng đồng, Ngôi

nhà bình yên, đƣờng dây nóng… bƣớc đầu đáp ứng nhu cầu của các nhóm phụ nữ.

Những mô hình này đã và đang đƣợc Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Văn

hóa thể thao và Du lịch, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các tổ chức chính trị xã

hội khác triển khai thực hiện. [24]

Quyền về sở hữu tài sản trong gia đình, đƣợc pháp luật Việt Nam bổ

sung, sửa đổi hoàn thiện nhằm tạo cơ hội bình đẳng, nâng cao vị thế của phụ

nữ thông qua việc bình đẳng trong nắm giữ và quyết định mua sắm, sử dụng,

quản lý tài sản trong gia đình nhƣ: cùng đứng tên trong Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, đƣợc thừa kế theo luật định; đƣợc quản lý tài sản riêng

trƣớc, trong và sau hôn nhân…

Page 92: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

87

Nhƣ vậy, những thành tựu trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ngày

càng thể hiện rõ rệt trong thực tiễn công cuộc đổi mới và xây dựng đất nƣớc. Nam

giới và nữ giới ngày càng bình đẳng hơn trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã

hội. Đó chính là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm Hồ Chí

Minh về bình đẳng nam nữ trong điều kiện mới.

3.2.1.2. Nguyên nhân của thành tựu

Bình đẳng giới trong những năm vừa qua đã đạt đƣợc những thành tựu

đáng ghi nhận trên các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, những thành tựu đó

là kết quả tác động bởi nhiều yếu tố mà trƣớc hết là sự quán triệt quan điểm Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong một số nội dung lĩnh vực cụ thể.

Với việc quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong thời

kỳ mới, Đ N ớ V N ã ề ủ ơ ,

pháp ơ , tạo điều kiện pháp lý cơ bản, quan trọng

cho việc thực hiện bình đẳng giới trong thực tiễn đời sống. Đồng thời, những mục

tiêu cụ thể, sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ đối với hoạt động bình đẳng giới, sự

quan tâm của các cấp, các ngành đã đem lại những hiệu quả thiết thực.

Bên cạnh đó, t ủ ộ ổ ớ ấ ớ trong thời qua theo

phƣơng châm giữ vững và ổn định chính trị, phấn đấu đổi mới tăng trƣởng kinh tế

một cách bền vững đi đôi với xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã

hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện bình đẳng giới. Thể chế kinh tế

thị trƣờng cũng đã hình thành và từng bƣớc hoàn thiện tạo điều kiện về tiền đề vật

chất bảo đảm quyền con ngƣời. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,

đặc biệt công nghệ thông tin tạo cơ hội cho xã hội trong đó có cả nam giới và nữ

giới tiếp cận với các nguồn thông tin để hiểu rõ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng và

trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới, bảo đảm quyền của phụ nữ.

Hội liên hi p phụ nữ các cấp, Ban vì s ti n bộ phụ nữ tạ p ơ

tích c c trong các hoạt ộng tuyên truyền nâng cao nh n th c cho cộng đồng

ngƣời dân về bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình; tổ chức các hoạt động

nâng cao năng lực cho cán bộ phụ nữ góp phần tăng tỷ lệ nữ trong công tác quản

Page 93: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

88

lý.... chủ động tham mƣu kịp thời với cấp ủy chính quyền địa phƣơng các cấp về

các biện pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực.

S quan tâm của c nam và nữ tới th c hi n b ẳng giới ã thay

ổi đáng kể. Đặc biệt, phụ nữ - đối tƣợng bị ảnh hƣởng nhiều nhất của bất bình

đẳng giới đã không ngừng phấn đấu, nỗ lực vƣợt qua những trở ngại, thách thức

về giới tính cũng nhƣ định kiến để vƣơn lên. Phụ nữ đã không ngừng học tập,

nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, quản lý, khai thác và phát huy thế

mạnh, hạn chế những điểm yếu; đồng thời biết sắp xếp công việc gia đình hợp lý,

khoa học để có thới gian cho công việc xã hội.

Vai trò của cộ ng qu c t i với vấ ề b ẳng giới. Sự coi trọng

của cộng đồng quốc tế với vấn đề bình đẳng giới là một thuận lợi lớn góp phần

thúc đẩy hoạt động bình đẳng giới ở Việt Nam thu đƣợc kết quả khả quan. Trong

xã hội hiện đại, bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ không chỉ nằm trong ý thức

của mỗi quốc gia mà trở thành phong trào ƣu tiên toàn cầu. Vai trò quan trọng của

bình đẳng giới đƣợc cộng đồng quốc tế ghi nhận. Bình đẳng giới không chỉ đƣợc

coi là nền tảng của hòa bình, ổn định, dân chủ, tiến bộ xã hội mà còn là yếu tố cơ sở

của các quyền con ngƣời và vấn đề cốt lõi trong việc đảm bảo các quyền con ngƣời

cho phụ nữ và trẻ em gái chính là bảo đảm các quyền bình đẳng giữa nam và nữ.

Các công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời trong đó có công ƣớc về quyền của phụ

nữ (CEDAW), Công ƣớc về quyền trẻ em.v.v.. đƣợc nhiều nƣớc trong cộng đồng

quốc tế cùng nhau cam kết thực hiện trong đó có Việt Nam.

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, uy tín một nƣớc trên trƣờng

quốc tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự công nhận về mức độ dân chủ

và nhân quyền của quốc gia, thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ

đƣợc coi là những tiêu chí để đánh giá thành tựu đảm bảo quyền con ngƣời của

một quốc gia. Mặt khác, thực hiện bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền

phụ nữ là điều kiện quan trọng để tạo cơ hội cho hơn một nửa dân số quốc gia

cống hiến và hƣởng thụ nên góp phần quan trọng vào ổn định và phát triển bền

Page 94: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

89

vững của quốc gia, dân tộc. Do đó, đã tạo động lực thôi thúc Việt Nam thực hiện

bình đẳng giới ngày càng hiệu quả hơn.

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.1.2.1. Hạn chế

Tuy đã đạt đƣợc những kết quả nhất định song việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay

vẫn còn những hạn chế dẫn tới hiệu quả thực hiện bình đẳng giới và vì sự tiến bộ

của phụ nữ chƣa đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập quốc tế. Khoảng cách giới và bất bình đẳng giới vẫn tồn tại và phần lớn

nghiêng về phía phụ nữ, nhất là đối với phụ nữ ngƣời dân tộc thiểu số, phụ nữ

sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Cụ thể:

Trong xây d ng, hoàn thi n chính sách, pháp lu t về b m quyền phụ

nữ và quyề b ẳng giới

Dù đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định trong việc vận dụng tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới trên lĩnh vực

pháp luật dẫn tới hệ thống khung pháp lý về bình đẳng giới ở Việt Nam tƣơng đối

hoàn thiện, đƣợc Liên hợp quốc đánh giá cao, tuy nhiên khung pháp lý về bảo

đảm quyền phụ nữ và bình đẳng giới vẫn còn một số hạn chế.

Luật pháp Việt Nam về cơ bản đã thể hiện đầy đủ nguyên tắc bình đẳng

nam nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động việc làm, văn hóa –xã hội,

tuy nhiên một số quy định chƣa phù hợp dẫn tới trở thành rào cản cho việc thực

hiện quyền phụ nữ và bình đẳng giới. Tiêu biểu nhƣ quy định của Bộ Luật Lao

động về tuổi nghỉ hƣu của phụ nữ là 55, nam giới là 60, sự phân biệt tuổi tác này

trong những trƣờng hợp nhất định sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa nam và nữ nhƣ:

rút ngắn thời gian làm việc và giai đoạn thăng tiến của phụ nữ, phụ nữ ít cơ hội

thăng tiến hơn, thu nhập tổng cộng hạn chế hơn và hạn chế khả năng đóng góp hiệu

quả của phụ nữ đối với xã hội do họ phải về hƣu ở đỉnh cao của sự nghiệp (đặc

trƣng là trí thức…). Thêm vào đó sự phân biệt tuổi hƣu cũng tác động đến con

Page 95: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

90

đƣờng sự nghiệp trƣớc khi về hƣu của nữ giới liên quan tới quy hoạch, đào tạo, bổ

nhiệm. Cùng với đó, trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, Hiến pháp và pháp luật quy

định: “Nhà nƣớc và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt,

không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội…tạo điều kiện cho phụ nữ

…học tập”; “mọi công dân không phân biệt…nam nữ, …đều bình đẳng về cơ hội

học tập”. Tuy nhiên, nhiều văn bản của cơ quan có thẩm quyền, các Học viện, Bộ,

ngành, cơ quan đơn vị lại quy định việc chọn, cử cán bộ, công chức, viên chức đi

đào tạo, bồi dƣỡng phải theo tiêu chí: “nam dƣới 50 tuổi, nữ dƣới 45 tuổi”, hoặc

“sau đào tạo, ngƣời lao động còn ít nhất 10 năm làm việc” (nghĩa là nam dƣới 50

tuổi, nữ dƣới 45 tuổi theo mức trần tuổi do Bộ Lao động quy định nam đủ 60 tuổi,

nữ đủ 55 tuổi… thì đƣợc nghỉ hƣu). Những quy định trên về nguyên tắc chƣa tạo

điều kiện cho nam và nữ bình đẳng về cơ hội học tập, chƣa phù hợp đồng bộ với

Hiến pháp và pháp luật.

Bên cạnh đó, việc triển khai quy định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới

trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều lúng túng và chƣa đạt

hiệu quả [175]. Nhiều văn bản chính sách chƣa có lồng ghép giới (văn bản chính

sách kinh tế: về tài chính, liên quan đến tiền tệ, cân đối quốc gia…). Hoặc có lồng

ghép giới nhƣng còn tồn tại những bất cập về cơ chế, chính sách về bình đẳng

giới nhƣ vẫn tập trung vào những vấn đề của phụ nữ một cách tách biệt, chƣa

hợp lý trên văn bản đặc biệt trong lĩnh vực lao động (nhƣ quy định tuổi nghỉ

hƣu, quy định nghỉ thai sản dành riêng cho nữ….). Đặc biệt khi rà soát các

văn bản pháp lý liên quan đến quyền tham chính của phụ nữ cho thấy dù ở cấp

quốc gia hay ở cấp địa phƣơng đã có những quy định pháp lý nhằm đảm bảo

quyền tham chính của phụ nữ, song nhìn chung những quy định đó còn nặng

về tính định hƣớng mà thiếu vắng những giải pháp cụ thể, chi tiết, đặc biệt

nhằm hỗ trợ và thúc đẩy phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các hoạt động chính

trị, đặc biệt là ứng cử vào các vị trí lãnh đạo quản lý. Thí dụ, Luật Bình đẳng

giới (2006), Hiến pháp (2013), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân (2015), quy định đảm bảo quyền bầu cử và ứng cử nhƣ: Quy

Page 96: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

91

định tỷ lệ nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong Luật Bầu cử

Hội đồng nhân dân năm 2015. Tuy nhiên, các quy định của Luật mới chỉ dừng

ở tỷ lệ ứng cử, chƣa có giải pháp đảm bảo tỷ lệ đại biểu trúng cử

Triể b ẳng giới trong th c tiễn cuộc s ng ũ ò ạn ch

- Th c hi n b ẳng giới trong ĩ c chính tr

Mặc dù tỷ lệ phụ nữ tham gia sinh hoạt chính trị, tham gia hệ thống chính

trị không ngừng đƣợc tăng lên, nhƣng vai trò, vị thế của phụ nữ chƣa tƣơng xứng

với tiềm năng của họ, sự bất bình đẳng trong lĩnh vực chính trị vẫn còn tồn tại khá

lớn đặc biệt trong lãnh đạo, quản lý.

Trong các cơ quan dân cử, nhƣ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp

tỷ lệ phụ nữ tham gia cũng có nhiều thay đổi. Trong Quốc hội, từ Quốc hội

khóa XI tới Quốc hội khóa XIV tỉ lệ số lƣợng nữ đại biểu Quốc hội có giảm.

Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII cho thấy sự sụt giảm đáng kể và thấp

nhất trong 4 nhiệm kỳ gần đây và trong vòng 14 năm (từ năm 2002 đến năm

2016), đại biểu Quốc hội là nữ giảm 0,51% (xem bảng 3.3). Điều này phản

ánh, tỉ lệ nữ tham gia Quốc hội thiếu sự bền vững.

Bảng 3.3: Đại biểu Quốc hội theo giới

Nhiệm kỳ

Nữ đại biểu Nam đại biểu Tổng số

đại biểu

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Khoá XI (2002-2007) 136 27,31 362 72,69 498 100

Khoá XII (2007-2011) 127 25,76 366 74,24 493 100

Khoá XIII (2011-2016) 122 24,40 378 75,60 500 100

Khóa XIV (2016-2020) 133 26,80 363 73,20 496 100

N : P ụ ụ B ử Q ộ ă 2009 B

ề b ẳ ớ ă ủ C p ủ

Page 97: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

92

Trong Hội đồng nhân dân các cấp, tuy tỉ lệ nữ đại biểu ngày càng tăng

trong cả ba nhiệm kỳ từ nhiệm kỳ Đại hội X đến nhiệm kỳ Đại hội XII nhƣng tỷ

lệ này đều chƣa đạt 30%, mục tiêu mà Chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giai

đoạn 2011-2020 đề ra.

Trong các cấp ủy Đảng, tỷ lệ cán bộ nữ không ổn định hoặc có tăng nhƣng

tăng không đáng kể. Ở Trung ƣơng, theo thống kê ba nhiệm kỳ Đại hội, từ Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tỷ

lệ nữ tham gia Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng

dự khuyết tăng không ổn định. Thậm chí, ở một số vị trí dù có tăng nhƣng tỷ lệ không

đáng kể nhƣ trong Ủy viên Ban Chấp hành Trung ƣơng chỉ duy trì khoảng từ 8-9%

(xem bảng 3.4).

Bảng 3.4: Tỷ lệ đại biểu tham gia Ban Chấp hành Trung ương theo giới

Đơ : %

TT

Danh mục

Khóa X

(2006-2010)

Khóa XI

(2011-2015)

Khóa XII

(2016-2020)

Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam

1 Ủy viên Bộ Chính trị 0 100 14,28 85,72 15,78 84,22

2 Ban Bí thƣ TW Đảng 12,5 87,5 20,0 80,0 10,0 90,0

3 Ủy viên BCHTW 8,13 91,87 8,57 91,43 9,44 90,56

4 Ủy viên BCHTW dự khuyết 14,29 85,71 12,0 88,0 15,0 85,0

Nguồn: Văn kiện Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, năm 2012 và Báo cáo sơ kết

5 năm thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 -2020

Ở đảng bộ cấp cơ sở, tỷ lệ nữ nắm giữ các vị trí chủ chốt còn thấp và

chƣa đảm bảo sự đại diện cho số lƣợng đảng viên. Đặc biệt ở cấp tỉnh và cấp

huyện tỷ lệ nữ trong Ban Chấp hành không có sự ổn định và chỉ dao động

trong khoảng từ 11- 15% (xem bảng 3.5)

Page 98: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

93

Bảng 3.5: Đại biểu Ủy viên Ban Chấp hành Đảng theo giới

Đơ : %

Nhiệm kỳ Tỉnh Huyện

Nữ Nam Nữ Nam

Nhiệm kỳ 2006 -2010 11,75 88,25 14,74 85,26

Nhiệm kỳ 2011 -2015 11,3 88,7 15,16 84,84

Nhiệm kỳ 2016-2020 13,3 86,7 14,3 85,7

Nguồn: Văn kiện Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, năm 2012 và Báo cáo sơ kết

5 năm thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 -2020

Bên cạnh đó, tỷ lệ nữ trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay còn hạn chế.

Ở cấp tỉnh có 2/63 tỉnh, thành có nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân (3,17%); Phó Chủ tịch

Ủy ban nhân dân 14/230 chiếm 6,08%. Có 19/63 tỉnh, thành phố không có nữ đảm

nhiệm một trong 6 chức danh chủ chốt cấp tỉnh (Bí thƣ, Phó Bí thƣ, Chủ tịch và Phó

Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân). Ở cấp huyện, nữ giữ chức vụ

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân đạt 10,04% và ở cấp xã là 10,27% [9].

Số liệu trên cho thấy một số chỉ tiêu về tỷ lệ lãnh đạo nữ theo Nghị quyết 11

của Bộ Chính trị khóa X chƣa đạt và có xu hƣớng giảm nhƣ tỷ lệ tham gia cán bộ

lãnh đạo, quản lý ở một số lĩnh vực và một số địa phƣơng có chiều hƣớng giảm.

Theo báo cáo của Liên minh Nghị viện Thế giới, tỷ lệ phụ nữ tham chính

tại Việt Nam đang giảm dần theo các năm, tại thời điểm cuối năm 2011, tỷ lệ phụ

nữ tham chính tại Việt Nam đứng thứ 43 trên thế giới, giảm so với thứ 36 vào năm

2010 và 2009, thứ 33 năm 2008, thứ 31 năm 2007, thứ 25 năm 2006 và thứ 23

năm 2005. Việt Nam là một trong 21 quốc gia có sự sụt giảm rõ rệt về tỷ lệ phụ nữ

tham chính vào năm 2011 [178].

Qua thực tế cho thấy, công tác cán bộ nữ đã có một số bƣớc tiến mới, song

tỷ lệ nữ giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo các cấp, các ngành hiện đạt rất thấp, đặc

biệt là ở các vị trí lãnh đạo cấp trƣởng. Cán bộ nữ chủ yếu vẫn giữ vị trí cấp phó.

Page 99: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

94

Việc triển khai công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, bổ nhiệm, luân chuyển

cán bộ nữ còn chƣa chủ động và chƣa có chiến lƣợc tạo nguồn lâu dài. Việc thực

hiện chính sách đối với cán bộ nữ vẫn tùy thuộc vào điều kiện và sự quan tâm của

lãnh đạo từng đơn vị, địa phƣơng. Do vậy, khoảng cách giữa các kết quả đạt đƣợc

trong công tác cán bộ nữ hiện nay là khá xa so với các chỉ tiêu của giai đoạn 2011

- 2015 đề ra trong Chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020,

đặc biệt khoảng cách này cho thấy việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ trong lĩnh vực chính trị chƣa thực sự quán triệt một cách sâu sắc.

- Th c hi b ẳng giới trong ĩ c kinh t

Bên cạnh thành tựu đạt đƣợc, bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế vẫn còn

những điểm hạn chế. Tuy số lƣợng lao động nữ tƣơng đƣơng lao động nam nhƣng

vị thế trong việc làm của lao động nữ vẫn kém hơn đáng kể so với nam giới. Năm

2015, có 39,6% lao động nam làm công ăn lƣơng có hợp đồng lao động, trong khi

tỷ lệ tƣơng ứng của lao động nữ chỉ đạt 32%. Tƣơng tự, tỷ lệ nam giới là chủ cơ

sở sản xuất kinh doanh dịch vụ là 3,9%, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ tƣơng ứng

của nữ là 1,9%. Trái ngƣợc với xu thế này, tỷ lệ nam giới là lao động trong hộ gia

đình không hƣởng lƣơng chỉ có 11,4%, thấp hơn so với tỷ lệ tƣơng ứng của nữ là

23,3% [30]

Theo Hồ Chí Minh trong thực hiện bình đẳng nam nữ trên lĩnh vực kinh tế

cần đƣa phụ nữ tham gia vào nhiều ngành nghề khác nhau. Mặc dù thực tế hiện

nay, phụ nữ đã tham gia vào nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau, tuy nhiên, phụ

nữ ngày càng có nguy cơ bị loại ra khỏi nền kinh tế chính thức, hoặc có ít lựa chọn

công việc hơn do tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các công việc dễ bị tổn thƣơng cao

hơn nam giới. Một bộ phận đáng kể phụ nữ không hoặc không đủ việc làm. Nhiều

chị em vẫn phải làm việc trong những điều kiện nặng nhọc, độc hại, sức khỏe phụ

nữ bị giảm sút nhất là ở các vùng miền núi, nông thôn hẻo lánh. Bên cạnh đó,

nguy cơ bất bình đẳng giới vẫn đang tồn tại trên thị trƣờng lao động: Tỷ lệ lao

động nữ chuyển dịch khỏi lĩnh vực nông nghiệp thấp hơn so với nam giới, do vậy

lực lƣợng lao động nông nghiệp đang ngày càng có nhiều nữ. Ví dụ, tỷ lệ lao động

Page 100: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

95

nữ trong nông, lâm, ngƣ nghiệp trong năm 2012 giảm 1,7% so với năm 2011,

trong khi tỷ lệ giảm của lao động nam là 2,4%. Trong công nghiệp và dịch vụ, phụ

nữ có xu hƣớng tập trung vào các ngành và nghề phụ. Tỷ lệ lao động nữ làm việc

trong các ngành điện tử, vi tính, máy móc, cơ khí, khoáng sản rất thấp (lao động

nữ làm thợ lắp ráp, vận hành máy móc, thiết bị chiếm 29,9% trong tổng số); lao

động nữ chủ yếu làm các nghề giản đơn nhƣ dịch vụ cá nhân, bảo vệ, bán hàng

(chiếm 64,1% trong tổng số). Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong khu vực phi

chính thức của thị trƣờng lao động, nhất là khu vực tự doanh, các công việc gia

đình không đƣợc trả công cũng nhƣ các loại hình lao động không ổn định.

Theo số liệu thống kê của Cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và trao

quyền cho phụ nữ (UN WOMEN) phối hợp cùng Vụ Bình đẳng giới của Bộ Lao

động – Thƣơng bình và xã hội nêu trong công trình Th c tiễn và s li u về phụ nữ

và nam giới tại Vi t Nam 2010 - 2015 cho thấy tỷ lệ lao động đang làm việc trong

nền kinh tế không có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Việt Nam rất cao, năm 2010

tỷ lệ này lên tới 85,4%. Trong giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ này có xu hƣớng giảm

dần, xuống 80,1% năm 2015, trong đó nam là 77,6%, nữ là 82,7%. Số liệu cũng

cho thấy các thách thức lớn đối với khu vực nông thôn gần 90% lao động đang

làm việc trong khu vực này chƣa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là lao

động nữ. Tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo năm 2015 chỉ chiếm 17,8%. Tỷ lệ này đặc

biệt thấp ở các lao động nữ đang làm việc ở khu vực nông thôn (10,7%), nhóm lao

động nữ đang làm việc trong ngành nông, lâm, thủy sản (3,1%) và nhóm lao động

nữ đang làm việc cho các cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh và dịch vụ (5,3)% [30]

Tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo theo các số liệu thống kê thƣờng thấp hơn nam

giới, mặt khác trình độ chuyên môn của đa số phụ nữ so với đa số nam giới là thấp

hơn do những công việc nội trợ, gia đình, nuôi dạy con cái chiếm nhiều thời gian.

Chính sự khác biệt trên đã tạo khoảng cách về tiền công giữa nam và nữ

đang có nguy cơ tăng. Thu nhập bình quân của lao động nam luôn cao hơn lao

động nữ trong hầu hết các ngành, lĩnh vực. Theo Báo cáo điều tra lao động việc

làm năm 2014 của Tổng cục Thống kê, nam giới có tiền lƣơng bình quân/tháng

Page 101: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

96

cao hơn 9,7% so với nữ giới. Theo Báo cáo mới nhất của Chính phủ năm 2016,

lƣơng bình quân hàng tháng của lao động nữ làm công hƣởng lƣơng khoảng 4,58

triệu đồng, thấp hơn so với lao động nam là 5,19 triệu đồng. [27, tr.9]

Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp chƣa có sự đối xử công bằng trong

tuyển dụng lao động, chƣa tạo điều kiện cho lao động nữ có cơ hội đƣợc làm việc

vì lý do sức khỏe và thai sản nhƣ: đặt điều kiện vào doanh nghiệp sau 2 năm mới

đƣợc kết hôn hoặc nếu đã kết hôn thì sau 2 năm mới đƣợc sinh con... Tuy nhiên

vấn đề phổ biến hiện nay là các doanh nghiệp, đặc biệt khu vực tƣ nhân thƣờng

hay trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, do vậy ảnh hƣởng rất lớn đến ngƣời

lao động khi họ gặp rủi ro, đặc biệt là lao động nữ.

Khoảng cách bất bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam vẫn

còn khá lớn. Đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2016 cho thấy mức độ

mất cân bằng giữa nam và nữ tại Việt Nam đứng thứ 33/144 quốc gia [10, tr.1].

Đây là điểm hạn chế mà Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân Việt Nam đang hƣớng

tới tìm cách khắc phục để khoảng cách bất bình đẳng giới ngày càng thu hẹp.

Bởi nhƣ Hồ Chí Minh đã từng khẳng định vai trò quan trọng của bình đẳng

nam nữ trong lĩnh vực kinh tế, đây là tiền đề để tiến tới bình đẳng giới trong

các lĩnh vực khác. Do đó, nếu tiền đề không tốt sẽ ảnh hƣởng tiêu cực tới việc

vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng

giới ở Việt Nam hiện nay nói chung.

- Th c hi b ẳng giới trong ĩ ă - xã hội

Trƣớc hết, trong lĩnh vực văn hóa. Dù luật pháp quy định nam giới và nữ giới

có cơ hội tiếp cận giáo dục nhƣ nhau. Tuy nhiên, ở một số vùng, đặc biệt vùng dân

tộc thiểu số và vùng kinh tế khó khăn, cơ hội tiếp cận giáo dục của nam và nữ khá

chênh lệch, nữ giới ít cơ hội tiếp cận giáo dục hơn so với nam giới. Đồng thời, tình

trạng đói nghèo hiện nay cũng đã và đang cản trở học sinh nữ, đặc biệt nữ dân tộc

thiểu số trong việc tiếp cận nền giáo dục có chất lƣợng [18].

Về trình độ văn hóa chuyên môn nghiệp vụ của số đông phụ nữ còn thấp

hơn nam giới, trình độ càng ở bậc cao thì tỷ lệ nữ càng giảm.

Page 102: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

97

Theo số liệu báo cáo thống kê năm 2014. Ở khối các trƣờng đại học, số nữ

tiến sỹ trên tổng số tiến sỹ là 1.568/8.286 (chiếm 19% so với 81% nam), nữ thạc

sỹ trên tổng số thạc sỹ là 10.236/27.175 (chiếm 38% so với 62% nam); khối các

trƣờng cao đẳng, nữ tiến sỹ trên tổng số tiến sỹ là 167/608 (chiếm 27% so với

73% nam), nữ thạc sỹ trên tổng số thạc sỹ là 3.858/8.787 (chiếm 44% so với 56%

nam); khối các trƣờng trung học phổ thông, số nữ tiến sỹ trên tổng số tiến sỹ là

97/193 (chiếm 50% so với 50% nam) [9].

Số liệu cập nhật năm 2016 cũng cho thấy nữ giáo sƣ chỉ chiếm 9,03% so

với nam giáo sƣ 80,7%; nữ phó giáo sƣ chiếm 29,6% so với 70,4 % nam giáo sƣ.

Đây là con số thể hiện khá rõ sự chênh lệch giữa trình độ của nam giới và nữ giới

trong thực tiễn.

Bên cạnh đó, sự tách biệt lớn giữa nam giới và nữ giới về các ngành học tại

Việt Nam còn tồn tại đang ngăn cản cơ hội học tập và cơ hội làm việc của nữ giới

trong tƣơng lai. Đồng thời, những thiếu hụt trong việc đào tạo, bồi dƣỡng kỹ năng

nghề nghiệp cho nữ giới chỉ mới đƣợc giải quyết một phần trong mấy năm gần đây.

Phần lớn chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng cho nữ giới là các khóa ngắn hạn và tập

trung vào những nghề truyền thống của nữ giới nhƣ may mặc, cắt tóc, gội đầu, v.v..

Những nghề này thƣờng cho thu nhập thấp, khiến cho nữ giới vẫn bị yếu thế so với

nam giới trong các cơ hội tiếp cận thị trƣờng lao động. Khác biệt giữa nam và nữ về

cơ hội tiếp cận đào tạo chuyên môn kỹ thuật trong công việc vẫn còn lớn.

Sự khác biệt giới trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo thể hiện rõ hơn ở một số

nhóm đặc thù, ví dụ nhóm ngƣời khuyết tật. Nếu nhƣ tỷ số về biết chữ giữa nam

và nữ ở độ tuổi 15-24 là 1 thì tỷ số đó đối với thanh niên khuyết tật là 0,8 và thanh

niên khuyết tật nghiêm trọng là 0,6 [126]. Điều đó cho thấy, trong khi cả nƣớc về

cơ bản đã đạt đƣợc tiến bộ lớn về bình đẳng giới và tăng quyền năng cho phụ nữ

thì những nỗ lực lớn hơn nữa là hết sức cần thiết nhằm hỗ trợ và khuyến khích các

nhóm dễ bị tổn thƣơng nhƣ nhóm khuyết tật.

Đồng thời, trong lĩnh vực xã hội, do định kiến giới và tƣ tƣởng thích con

trai cùng với việc tiếp cận dễ dàng đến các dịch vụ kỹ thuật chẩn đoán sớm giới

Page 103: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

98

tính thai nhi, sinh con theo ý muốn và dịch vụ phá thai là những nguyên nhân dẫn

tới tình trạng mất cân bằng giới tính gia tăng, đặc biệt cao ở một số tỉnh thuộc

đồng bằng sông Hồng nhƣ: Hƣng Yên 130,7 nam/100 nữ, Hải Dƣơng 120,2

nam/100 nữ, Bắc Ninh 119,4 nam/100 nữ. Điều này sẽ làm nảy sinh các vấn

đề bất cập trong lực lƣợng lao động và dân số của đất nƣớc trong tƣơng lai,

đồng thời có tác động tiêu cực đến sức khỏe nữ giới và làm mất cơ hội bình

đẳng với nam giới trong tìm kiếm việc làm [24].

Mặc dù chế độ, chính sách hiện nay đã có sự ƣu tiên, quan tâm, thực hiện

tốt các chính sách xã hội đối với phụ nữ theo quan điểm Hồ Chí Minh, đặc biệt khi

thai nghén, chăm sóc sức khỏe sinh sản do đó tỷ lệ tử vong bà mẹ đã giảm nhƣng

vẫn còn có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực, các vùng miền. Bên cạnh những

địa phƣơng tỷ lệ này là rất thấp thậm chí không có bà mẹ tử vong nhƣ Tây Ninh

(0/100.000); Hậu Giang (0,02/100.000); Hà Tĩnh (3,75/100.000); Thành phố Hồ

Chí Minh (3,29/100.000); Nam Định (3/100.000)… thì còn một số địa phƣơng tỷ

lệ tử vong mẹ hiện vẫn còn ở mức khá cao nhƣ: Cao Bằng (100/100.000); Lai

Châu (85/100.000)… Đồng thời, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản

cũng không đồng đều giữa các vùng miền, phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc

thiểu số vẫn còn hạn chế trong tiếp cận dịch vụ y tế và mức giảm tỷ suất chết mẹ ở

vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số trong 10 năm qua còn chậm. Phụ nữ trẻ

dân tộc thiểu số và ngƣời di cƣ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin và

dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, bao gồm cả dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.

Việc chăm sóc sức khỏe sinh sản tiền hôn nhân chƣa đƣợc coi trọng.

Định kiến, phân biệt đối xử với phụ nữ còn tồn tại phổ biến trong xã hội. Tệ

ngƣợc đãi phụ nữ, mại dâm, buôn bán phụ nữ trẻ em, bệnh dịch HIV/AIDS, tệ nạn xã

hội...vẫn đang diễn biến phức tạp. Thực tế đó dẫn tới mức độ thụ hƣởng quyền bình

đẳng của phụ nữ ngoài xã hội cũng nhƣ trong phạm vi gia đình chƣa cao.

- Th c hi b ẳng giới t

Định kiến giới trong phân công lao động và ra quyết định đã và đang có

ảnh hƣởng không nhỏ tới vai trò, vị trí của phụ nữ và nam giới trong gia đình và

Page 104: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

99

ngoài xã hội. Quan niệm của hầu hết ngƣời dân vẫn cho rằng công việc nội trợ,

chăm sóc các thành viên trong gia đình là nhiệm vụ của phụ nữ và nam giới chủ

yếu phụ trách việc kiếm tiền.

Theo Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 của

Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cho đến năm 2008, tỷ lệ giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất do nam giới đứng tên là 62%, phụ nữ là 20% còn lại 18%

đồng sở hữu; nhiều loại động sản có giá trị thuộc sở hữu chung nhƣ ôtô, xe máy,

tàu thuyền… phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật vẫn chƣa có

tên cả vợ và chồng do chƣa có hƣớng dẫn triển khai của cơ quan chức năng. Thực

tế này đã làm hạn chế cơ hội tiếp cận các nguồn lực của phụ nữ

Do tài sản, thu nhập của phụ nữ nhìn chung thấp hơn so với nam giới đã tác

động không nhỏ tới tiếng nói của họ trong gia đình và không ít ngƣời đã bị mất

quyền nuôi con, nơi cƣ trú… thậm chí trắng tay khi gia đình ly tán. Thực tiễn này

đòi hỏi cần có những biện pháp tích cực hơn nữa nhằm bảo đảm bình đẳng giới

thực chất trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Sự phát triển xã hội đang làm tăng thêm gánh nặng trách nhiệm của ngƣời phụ

nữ trong thiên chức ngƣời vợ, ngƣời mẹ. Quỹ thời gian của ngƣời phụ nữ bị phân tán

vào công việc nội trợ, chăm sóc gia đình khiến nhiều phụ nữ ít có điều kiện để tiếp

cận với những cơ hội để phát triển bản thân, cơ hội thăng tiến.

Bạo lực gia đình là vấn nạn mà sinh thời Hồ Chí Minh đã kịch liệt phê

phán, yêu cầu các cấp, các ngành, đoàn thể tuyên truyền cho từng gia đình và toàn thể

cộng đồng xã hội cần phải loại bỏ, tuy nhiên, cho tận tới hiện nay, đây vẫn là vấn nạn

còn tồn tại và chủ yếu là bạo lực của ngƣời chồng đối với ngƣời vợ. Theo kết quả điều

tra gia đình Việt Nam công bố năm 2008, tình trạng bạo lực xảy ra với khoảng

20% cặp vợ chồng. Theo số liệu tổng hợp 6 tháng đầu năm 2014 của 61/63 tỉnh,

thành phố trên toàn quốc, có 16.750 vụ bạo lực gia đình. Số vụ bạo lực gia đình

đến cơ sở khám, chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực

gia đình, địa chỉ tin cậy ở cộng đồng để đƣợc tƣ vấn về pháp lý và sức khỏe,

Page 105: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

100

đƣợc hỗ trợ và chăm sóc là 19.660 ngƣời. Số ngƣời gây bạo lực gia đình đƣợc tƣ

vấn là 8.944 ngƣời/16.750 vụ bạo lực gia đình.

3.1.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Mặc dù đã đạt đƣợc những thành tựu đáng ghi nhận trong thực hiện bình

đẳng giới, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế trên cả phƣơng diện xây

dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam. Những tồn

tại, hạn chế đó xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:

Th nhất, việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong

xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam chƣa thực

sự sâu sắc, triệt để, khoa học. Mặc dù, trong di sản Hồ Chí Minh những nội dung

về bình đẳng nam nữ trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn đều đƣợc đề cập rõ.

Ngƣời còn đƣa ra những biện pháp góp phần định hƣớng, khắc phục những hạn

chế, thúc đẩy việc bình đẳng nam nữ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện của

Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam hiện nay, nhiều nội dung vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về bình đẳng nam nữ chƣa thực sự triệt để, khoa học.

Th hai, định kiến giới còn tồn tại trong nhân dân và cả trong một bộ phận

cán bộ, gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình

đẳng giới tại địa phƣơng, cơ sở. Với tƣ tƣởng “trọng nam khinh nữ’, phân biệt đối

xử với phụ nữ của các chủ thể dẫn tới hành vi sai lệch, làm hạn chế kết quả của

công tác đảm bảo quyền của phụ nữ; cản trở phụ nữ thực hiện các quyền bình

đẳng trong lĩnh vực dân sự và chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, gia

đình, gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình

đẳng giới; coi phụ nữ chỉ phù hợp với thiên chức ngƣời tề gia nội trợ, gắn với

công việc bếp núc, công việc gia đình…Định kiến giới dẫn đến tình trạng mất cân

bằng giới tính khi sinh, bạo hành gia đình, tệ nạn xã hội liên quan đến mại dâm và

buôn bán phụ nữ…

Th ba, nhận thức của một bộ phận cấp ủy Đảng, chính quyền về hoạt

động bình đẳng giới còn chƣa đúng đắn dẫn tới chƣa quyết liệt trong chỉ đạo thực

Page 106: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

101

hiện hoặc chỉ đạo, triển khai mang tính hình thức. Nhiều cấp ủy đảng, chính

quyền thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trƣơng

của Đảng về bình đẳng giới, chƣa chủ động nghiên cứu, dự báo và giải quyết kịp

thời các vấn đề xã hội phát sinh liên quan tới bình đẳng giới và vấn đề phụ nữ.

Chủ trƣơng công tác cán bộ nữ chƣa đƣợc quán triệt, thực hiện đầy đủ trong quy

hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dƣỡng, bố trí sử dụng, đề bạt cán bộ, còn có biểu

hiện "khoán trắng" công tác phụ nữ cho Hội phụ nữ.

, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bình đẳng

giới vẫn chƣa đƣợc triển khai đồng bộ và hiệu quả. Việc triển khai thực hiện

nhiều nơi chƣa bài bản, chƣa thực chất. Việc xây dựng kế hoạch hoạt động cụ

thể về bình đẳng giới còn lúng túng và ban hành các văn bản hƣớng dẫn kinh phí

cho hoạt động bình đẳng giới chậm, dẫn đến khó khăn trong việc lập dự toán và

bố trí kinh phí cho các hoạt động này của các Bộ, ngành, địa phƣơng.

ă , sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, địa phƣơng, đơn vị trong

việc triển khai thực hiện bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ còn chƣa

chặt chẽ, thiếu đồng bộ, chƣa thƣờng xuyên và hiệu quả. Đồng thời, chƣa phát

huy hết vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện bình đẳng

giới. Đặc biệt chƣa thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội. Hoạt

động giám sát, phản biện xã hội còn mang tính hình thức, chất lƣợng chƣa

cao….Hoạt động của các cấp hội liên hiệp phụ nữ chƣa giải quyết tốt một số

vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề xã hội bức xúc liên quan tới phụ

nữ; việc tham mƣu, đề xuất với Đảng và Nhà nƣớc về công tác phụ nữ trong

từng thời kỳ còn rất hạn chế.

Th sáu, một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an phận, chƣa chủ động vƣợt khó

vƣơn lên. Trong nội bộ phụ nữ còn có tình trạng níu kéo, chƣa ủng hộ nhau. Bình

đẳng giới là vấn đề chung của cả nam và nữ, tuy nhiên, đa phần nam giới còn chƣa

coi bình đẳng giới là nhiệm vụ của mỗi cá nhân mà coi rằng đó là nhiệm vụ của tổ

chức, của phụ nữ nói riêng…

Page 107: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

102

3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.2.1. Định kiến giới còn khá nặng nề, cản trở việc thực hiện mục tiêu

bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào

thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay cho thấy nỗ lực không ngừng của

Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và sự tiến

bộ của phụ nữ. Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc vẫn tồn tại những hạn chế và

một trong những nguyên nhân của nó là định kiến giới, đây là vấn đề bức xúc

nhƣng không dễ thay đổi ngày một ngày hai.

Định kiến giới đã tồn tại từ rất lâu trong xã hội, đặc biệt trong xã hội

phong kiến. Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh

đã lên án gay gắt quan điểm, thành kiến đối với phụ nữ, một hình thức định

kiến giới và đề nghị phải xóa bỏ thành kiến đối với phụ nữ trong cả tƣ duy và

hoạt động của các cấp lãnh đạo và ngƣời dân. Trải qua thời gian, cùng với sự

phát triển của xã hội, thành kiến đối với phụ nữ đã giảm bớt, tuy nhiên, thực

tế cho thấy, hiện nay các định kiến giới vẫn còn tồn tại và có thể gặp ở nhiều

nhóm xã hội: cả phụ nữ và nam giới, cả trong cán bộ lãnh đạo - những ngƣời

có vai trò quyết định đối với việc hoạch định và thực hiện chính sách đối với

phụ nữ và ngƣời dân.

Định kiến giới là nhận thức, thái độ và cách đánh giá thiên lệch, tiêu cực

về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ. Chính vì vậy, định

kiến giới gây áp lực cho cả nam lẫn nữ, đặc biệt là phụ nữ. Định kiến giới

tạo ra những giới hạn khó vƣợt qua và hình thành hố sâu ngăn cách giữa nam

và nữ bằng sự khác biệt trong cách nhìn nhận, đánh giá, ứng xử và thậm chí

cả hƣởng thụ.

Định kiến giới là việc nhìn nhận không đúng về khả năng của nam giới

hoặc nữ giới; về tính cách; về loại hình hoạt động, nghề nghiệp mà nam hoặc nữ

có thể làm hoặc không thể làm. Thí dụ: Một số định kiến coi phụ nữ là phụ

Page 108: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

103

thuộc, yếu đuối, thụ động, ...; nam giới là độc lập, mạnh mẽ, có năng lực, quan

trọng hơn và là ngƣời ra quyết định tốt hơn,..hay nam ngoại, nữ nội; nam trƣởng,

nữ phó... tuy nhiên, những đặc điểm tính cách này không chỉ của riêng nam giới

hay phụ nữ, mà cả nam giới và nữ giới đều có thể có và có thể đảm nhiệm đƣợc

nhiều công việc khác nhau.

Định kiến giới gây bất lợi cho cả nam và nữ. Họ phải gồng mình để thực

hiện các chuẩn mực, giá trị xã hội đã “gán” cho mình, tuy nhiên, phụ nữ thƣờng

chịu bất lợi nhiều hơn so với nam giới, sự bất lợi đó đƣợc thể hiện trên nhiều

khía cạnh. Một trong những định kiến giới biểu hiện khá rõ là gắn phụ nữ với vai

trò gia đình, coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái là của phụ nữ.

Từ suy nghĩ đó nhiều phụ nữ đã bị hạn chế trên con đƣờng học tập, lao động,

phấn đấu và vƣơn lên trong sự nghiệp, giảm khả năng đóng góp nhiều hơn về

sức lực và trí tuệ cho xã hội.

Bên cạnh đó, hiện nay, nhìn bề ngoài của cuộc sống hầu nhƣ thấy rằng

phụ nữ đã đƣợc bình đẳng với nam giới. Nhiều ngƣời chồng đã ủng hộ vợ tham

gia các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, họ vẫn mong muốn vợ hoàn thành tốt các

công việc gia đình. Để vừa hoàn thành tốt vai trò ngƣời vợ, ngƣời mẹ, vừa làm

tốt công việc xã hội, nhiều phụ nữ phải gánh vác gấp đôi trách nhiệm. Xét tƣơng

quan thời gian lao động trong một ngày giữa phụ nữ và nam giới cho thấy, thời

gian lao động của phụ nữ nhiều hơn nam giới, phụ nữ ít có thời gian để học tập,

nghỉ ngơi, giải trí và tham gia hoạt động xã hội so với nam giới. Đây là một

trong những nguyên nhân rất căn bản tạo ra sự bất bình đẳng giới.

Định kiến giới có thể hiện diện bằng nhiều gƣơng mặt, đƣờng nét, sắc

màu nhƣng hệ lụy chung của nó vẫn là sự phân biệt nam nữ và theo đó là sự bất

bình đẳng mà sự thua thiệt vẫn nghiêng về những ngƣời phụ nữ. S bấ b

ẳ ã p ề p ụ ữ ạ ò ủ

ờ p ụ ữ ạ ộ ã ộ ọ ấ ề

ề ă

Page 109: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

104

Định kiến xã hội về giới nói chung, về vai trò giới nói riêng thể hiện

trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế về mối quan hệ giữa nam và nữ trong

phạm vi gia đình và xã hội, chi phối mạnh tới văn hóa ứng xử của mỗi cá

nhân, nhóm ngƣời, dân tộc hoặc cộng đồng xã hội, ảnh hƣởng tới việc thực

hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.

Nghị quyết 11/NQ-TW ngày 27-4-2011 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đã chỉ rõ một trong

những nguyên nhân hạn chế trong công tác phụ nữ là: “Nhận thức của các cấp ủy

đảng, chính quyền ở nhiều địa phƣơng, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò, năng

lực của phụ nữ còn hạn chế. Định kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận

thức chung của xã hội do ảnh hƣởng tƣ tƣởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc

hậu từ lâu đời”. [41]

Hạn chế này là rào cản lớn ảnh hƣởng việc thực hiện bình đẳng giới

trong thực tiễn cuộc sống. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn

tới bất bình đẳng giới trong xã hội. Vì vậy, trong thời gian tới, nếu không giải

quyết tốt vấn đề nhận thức, không xóa bỏ đƣợc định kiến về giới trong các cấp

ủy đảng, chính quyền, lãnh đạo và đa số nhân dân thì mục tiêu thực hiện bình

đẳng giới mà Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam đề ra khó hoàn thành đƣợc một cách

toàn vẹn.

3.2.2. Sự bất cập giữa quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bình

đẳng nam nữ với thực tiễn triển khai các chính sách của Đảng, Nhà nước

về bình đẳng giới trong cuộc sống

Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về bình đẳng giới và sự

tiến bộ của phụ nữ về cơ bản đã thể hiện khá rõ sự quán triệt tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về bình đẳng nam nữ trong tình hình mới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,

quá trình triển khai các chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về bình đẳng giới vào

cuộc sống còn nhiều bất cập. Những thành tựu của bình đẳng giới hiện nay

chƣa đáp ứng đƣợc những gì Hồ Chí Minh mong đợi. Bên cạnh đó, những hạn

Page 110: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

105

chế trong thực hiện bình đẳng giới thể hiện khá rõ sự bất cập trong vận dụng

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở

Việt Nam hiện nay.

Trong lĩnh vực chính trị, dù chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà

nƣớc đã có quy định hƣớng tới tăng cƣờng sự tham gia của phụ nữ vào các vị

trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bƣớc giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực

chính trị, tiêu biểu nhƣ Chi c qu c gia về b ẳng giớ ạn 2011-

2020 đã đề ra mục tiêu:

“Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng nhiệm kỳ 2016-

2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng

nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ 30% trở lên; Phấn đấu

đến năm 2015 đạt 80% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ; Phấn đấu

đến năm 2015 đạt 70% cơ quan của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính

trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ

30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, ngƣời lao động.” [146]

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động lãnh đạo,

quản lý còn chƣa đạt đƣợc mục tiêu trên, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, vị thế, vai

trò của phụ nữ do đó ảnh hƣởng tới việc ra các quyết định liên quan tới quyền lợi

của cả hai giới nam và nữ, không thu hẹp đƣợc khoảng cách giới trong lĩnh vực

chính trị, cản trở việc thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.

Trong lĩnh vực kinh tế, vẫn còn tồn tại khoảng cách giới trong lao động,

việc làm; trong tiếp cận thị trƣờng vốn; trong công tác đào tạo nghề cho phụ nữ,

nhất là phụ nữ ở các vùng nông thôn, miền núi. Các chỉ tiêu mà Chi c qu c

gia về b ẳng giớ ạn 2011-2020 đã đề ra nhƣ: “Tỷ lệ nữ làm chủ

doanh nghiệp đạt 30% vào năm 2015; Tỷ lệ lao động nữ nông thôn dƣới 45 tuổi

đƣợc đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 25% vào năm 2015; Tỷ lệ nữ ở

vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc thiểu số có nhu cầu đƣợc vay vốn ƣu đãi từ

Page 111: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

106

các chƣơng trình việc làm, giảm nghèo và các nguồn tín dụng chính thức đạt

80% vào năm 2015” [146] đều chƣa đạt đƣợc.

Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, khoảng cách bất bình đẳng giữa nam và nữ

trong giáo dục - đào tạo vẫn còn tồn tại khá lớn đặc biệt ở các cấp học cao. Đồng

thời, tiếp cận và thụ hƣởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe giữa hai giới nam và

nữ vẫn còn nhiều bất cập. Sự mất cân bằng giới tính khi sinh lớn, hạn chế trong

tiếp cận dịch vụ y tế và giảm tỷ suất chết mẹ ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao…,

những vấn đề mới nảy sinh nhƣ nạn buôn bán ngƣời vẫn chƣa đƣợc ngăn chặn

triệt để.

Trong gia đình, thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực này cho

thấy, dù hệ thống luật pháp, quy định, chế tài ngày càng đầy đủ, tuy nhiên, bạo

lực trong gia đình vẫn đang là vấn đề nhức nhối cần loại bỏ trong xã hội; khoảng

cách bất bình đẳng thời gian lao động gia đình giữa hai giới nam và nữ vẫn còn

khá xa.

Sự bất cập trong thực tiễn triển khai các chính sách của Đảng, Nhà nƣớc

về bình đẳng giới vào cuộc sống thời gian qua một lần nữa đặt ra yêu cầu đòi

hỏi phải quán triệt sâu sắc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, từng

bƣớc đƣa tƣ tƣởng của Ngƣời nói chung, tƣ tƣởng về bình đẳng nam nữ vào

thực tiễn cuộc sống một cách đầy đủ, hoàn thiện nhất, cần gắn lý luận với

thực hành, nói đi đôi với làm...

3.2.3 Mâu thuẫn giữa xu thế tất yếu đẩy mạnh thực hiện bình đẳng

giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh với sự thờ ơ của một số tổ chức, cá nhân và

tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ

Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để là lý tƣởng mà nhân loại

luôn hƣớng tới. Ngay từ đầu thế kỷ XIX, S.Phurie - nhà tƣ tƣởng xã hội chủ

nghĩa không tƣởng Pháp đã nhận định: Trình độ giải phóng phụ nữ là thƣớc đo

trình độ phát triển của xã hội. Luận điểm này tiếp tục đƣợc bổ sung, phát triển

đầy đủ hơn trong quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

và cổ vũ cho các phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giữa nam và nữ.

Page 112: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

107

Bình đẳng giới không chỉ là nhu cầu nội tại của bản thân hai giới nam

và nữ trong xã hội mà ở mức độ cao hơn, bình đẳng giới chính là nhu cầu, là

động lực của sự phát triển xã hội, đồng thời là một mục tiêu quan trọng trong

chiến lƣợc phát triển bền vững không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà trên

phạm vi quốc tế.

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, ở

Việt Nam, bình đẳng giới đã đƣợc đƣa vào hiến pháp, pháp luật, vào chủ

trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc, là một nội dung quan

trọng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội, là yêu cầu đòi hỏi sự quan

tâm của toàn xã hội. Tuy nhiên, thực tế xã hội cho thấy, một số tổ chức, cá

nhân, kể cả các cấp ủy Đảng và đảng viên, cả nam và nữ chƣa thực sự coi đây

là nhiệm vụ cần tập trung giải quyết, coi đó không phải là việc của tổ chức, cá

nhân mình. Một số quan niệm phổ biến cho rằng đó là việc của Hội liên hiệp

phụ nữ các cấp, của Ủy ban vì sự tiến bộ của phụ nữ…. Chính sự thờ ơ này đã

là một rào cản, cản trở việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng

nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới một cách hiệu quả.

Bên cạnh đó, việc thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

còn gặp trở ngại từ chính bản thân ngƣời phụ nữ, chủ thể chính trong cuộc cách

mạng này. Một bộ phận lớn phụ nữ chƣa nhận thấy rõ vị trí, vai trò của mình

trong gia đình và ngoài xã hội, còn thiếu tự tin, chƣa thật sự cố gắng vƣơn lên

trong mọi lĩnh vực để khẳng định mình. Nhiều phụ nữ vẫn giữ quan niệm về

phân công lao động truyền thống đối với phụ nữ, yêu cầu phụ nữ cần phải đặt

gia đình lên trên hết, thậm chí hy sinh cả sức khỏe, nguyện vọng cá nhân, phải

tuân theo quyền lực của nam giới. Nhiều phụ nữ vẫn bằng lòng chấp nhận quan

niệm rằng: phục vụ vô điều kiện cho chồng con là “chức năng”, là “thiên

chức”, là sự hy sinh, là nữ tính của ngƣời phụ nữ trong gia đình. Ở các mức độ

khác nhau, thừa nhận quan niệm này, tự phụ nữ đã gán cho mình những trách

nhiệm chính rất nặng nề trong các công việc nội trợ, chăm sóc con cái và các

thành viên trong gia đình, trong khi họ là ngƣời thực hiện chính nhiệm vụ tái

Page 113: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

108

sản xuất sinh học ra con ngƣời và chịu trách nhiệm sản xuất nhƣ nam giới.

Đồng nghĩa với việc lao động quá sức, sự hƣởng thụ của phụ nữ bị coi là thứ

yếu, thậm chí không đƣợc tính đến, đây đƣợc coi là dạng bạo lực lao động mà

nạn nhân chủ yếu là phụ nữ. Nhiều chị em do thiếu hiểu biết và do hệ quả của

quá trình giáo dục trên cơ sở các định kiến về giới, nên chấp nhận quan niệm

việc làm “ra tiền” và “không ra tiền”, do đó chấp nhận làm nhiều việc hơn

chồng để chồng nghỉ ngơi. Điều này không những làm tăng gánh nặng cho phụ

nữ, ảnh hƣởng đến sức khỏe, cơ hội học tập và điều kiện tham gia công việc xã

hội của phụ nữ, mà còn khiến giá trị công việc của phụ nữ không đƣợc gia đình

và cộng đồng đánh giá đúng.

Vì vậy, muốn thực hiện tốt bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,

bản thân phụ nữ cần phải nâng cao trình độ, nhận thức cho chính mình, phải

khắc phục tâm lý tự ti, an phận, không ngừng nỗ lực vƣơn lên khẳng định mình

thì bình đẳng, bình quyền mới đƣợc hiện thực hóa trong cuộc sống.

Tiểu kết chương 3

Sự nghiệp đổi mới đã làm thay đổi diện mạo đất nƣớc Việt Nam trên

nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có bình đẳng giới. Quán triệt quan

điểm lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng,

kim chỉ nam cho hoạt động. Việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng

nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu

đáng ghi nhận trong cả đƣờng lối chính sách, pháp luật và thực tiễn đời sống.

Trong đƣờng lối chính sách, pháp luật quyền bình đẳng nam nữ ngày càng đƣợc

quy định cụ thể và đầy đủ hơn. Trong thực tiễn đời sống, trên lĩnh vực chính trị,

phụ nữ ngày càng có cơ hội tiếp cận quyền tham chính ngang với nam giới. Tỷ lệ

cán bộ nữ tham gia cấp uỷ Đảng, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính Nhà nƣớc ở

tất cả các cấp ngày càng tăng. Trên lĩnh vực kinh tế, vai trò, vị thế của lao động nữ

so với lao động nam đã đƣợc khẳng định ngày càng rõ hơn. Phụ nữ ngày càng độc

lập về kinh tế, là bộ phận quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nƣớc. Trên

Page 114: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

109

lĩnh vực văn hóa - xã hội, trình độ của phụ nữ đã tiến gần hơn với nam giới, phụ

nữ cũng ngày càng đƣợc tiếp cận gần hơn các dịch vụ xã hội đặc biệt trong chăm

sóc sức khỏe, mang thai, sinh nở thực hiện thiên chức của phụ nữ. Trong gia đình,

quyền bình đẳng nam nữ đã có những thay đổi căn bản, vị thế, vai trò của phụ nữ

ngày càng đƣợc khẳng định.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, thực hiện bình

đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh giai đoạn này vẫn còn tồn tại những hạn chế

nhƣ: trong hệ thống luật pháp còn thiếu những quy định, chế tài cụ thể nhằm đảm bảo

quyền bình đẳng nam nữ. Trong đời sống, vai trò, vị thế của phụ nữ vẫn chƣa thực sự

tƣơng xứng với tiềm năng của họ, vẫn còn khoảng cách bất bình đẳng nam nữ trong

lãnh đạo-quản lý, trong lĩnh vực kinh tế, trong trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp

vụ của đa số phụ nữ, trong tỷ lệ phân biệt giới tính, định kiến xã hội…

Thực trạng trên đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết trong thực hiện bình

đẳng giới ở Việt Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nhƣ: Định kiến giới còn

khá nặng nề cản trở việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh; Sự bất cập giữa quán triệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ

với thực tiễn triển khai các chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về bình đẳng giới

vào cuộc sống; Mâu thuẫn giữa xu thế tất yếu đẩy mạnh thực hiện bình đẳng giới,

giải phóng phụ nữ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh với sự thờ ơ của một số tổ chức,

cá nhân và tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ.

Đây thật sự là những thách thức lớn đối với việc thực hiện bình đẳng

giới ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nƣớc. Để khắc

phục đƣợc điều này, đòi hỏi phải có một loạt các giải pháp đồng bộ, trên tất

cả các lĩnh vực, để tạo điều kiện cho phụ nữ, nâng cao vị thế và thực hiện

đƣợc bình đẳng giới trong đời sống.

Page 115: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

110

Chương 4

QU N ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ VÀO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở

VIỆT N M ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

4.1 NHỮNG NHÂN TỐ MỚI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN BÌNH

ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

4.1.1 Cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và

hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

Cuộc cách mạng khoa học - công ngh đã diễn ra mạnh mẽ từ những thập kỷ

cuối thế kỷ XX. Nội dung của cuộc cách mạng này tập trung theo hƣớng lấy công

nghệ cao làm trung tâm đã tạo nên những đột phá có tính bùng nổ với quy mô và

mức độ, sức mạnh chƣa từng có từ trƣớc tới nay, tác động mạnh mẽ đến tất cả các

lĩnh vực của mỗi quốc gia và đời sống quốc tế. Đặc biệt trong những năm gần

đây, sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng công nghiệp

4.0) đã tạo ra những đột phá mới, ảnh hƣởng tới đời sống xã hội của mỗi quốc gia

và trên phạm vi quốc tế. Các nƣớc đều coi phát triển công nghệ cao là hƣớng đột

phá trong phát triển lực lƣợng sản xuất, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, là nhân tố gây

ảnh hƣởng mạnh về chính trị, là nguồn lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đồng thời, cách

mạng khoa học công nghệ, trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến những biến đổi mạnh

mẽ sâu sắc các thể chế và quan hệ xã hội tạo ra cả thời cơ và thách thức cho các

quốc gia, các dân tộc trong thực hiện bình đẳng giới. Cách mạng khoa học công

nghệ làm tăng năng suất, nâng cao trình độ lao động, tạo thêm nhiều tiềm lực to

lớn cho việc thực hiện bình đẳng giới, bên cạnh đó cũng đặt ra không ít những khó

khăn, thách thức mà mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam cần phải có chiến lƣợc

cải cách để thích ứng điều kiện mới.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, tri có

vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lƣợng sản xuất. Kinh tế tri

thức - giai đoạn mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai đoạn kinh tế công

Page 116: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

111

nghiệp, có vai trò nổi bật, thể hiện ở hàm lƣợng trí tuệ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong

giá trị các sản phẩm, trong sự dịch chuyển của khu vực chế tạo sang khu vực dịch

vụ với các đặc điểm mới. Kinh tế tri thức cũng có những tác động đa chiều tới việc

thực hiện bình đẳng giới trong điều kiện mới.

ộ p là một xu thế khách quan, thu hút ngày

càng nhiều nƣớc tham gia. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế phát triển

tất yếu của thế giới dƣới tác động và thúc đẩy mạnh mẽ của cách mạng khoa học -

kỹ thuật, khoa học quản lý đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Xu thế này khiến cho

tất cả các quốc gia, dân tộc ngày càng trở nên gắn kết chặt chẽ với nhau, trở thành

bộ phận cấu thành của hệ thống, ràng buộc và phụ thuộc nhau bởi các quy định

hay các nguyên tắc chung. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là quá

trình hai mặt, thể hiện cả những yếu tố tích cực và tiêu cực đan xen nhau. Toàn

cầu hóa đem lại cơ hội giao lƣu, hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với các nƣớc

trong khu vực và thế giới, qua đó Việt Nam có thể tranh thủ đƣợc nhiều nguồn

lực, kinh nghiệm thực hiện bình đẳng giới của các nƣớc trên thế giới để vận

dụng phù hợp vào bối cảnh của Việt Nam. Mặt khác, toàn cầu hóa cũng chứa

đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho nhiều quốc gia,

nhất là các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Lợi ích của mỗi chủ thể đan xen

nhau, vấn đề lợi ích mang tính toàn cầu ngày càng gia tăng. Toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi đồng thời cũng đặt ra không ít những khó

khăn cho việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc

biệt là lĩnh vực kinh tế, sự cách biệt và chênh lệnh giữa lao động nam và lao

động nữ trên nhiều mặt không những không đƣợc xóa bỏ mà vẫn tồn tại, có thể

sẽ gia tăng do sự chênh lệch về trình độ, cơ hội tiếp cận....

4.1.2 Thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, đặt ra những thách thức mới

trong việc thực hiện bình đẳng giới

Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lƣờng.

Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh

truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh

Page 117: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

112

kiểu mới. Các vấn đề an ninh tài chính, an ninh năng lƣợng, an ninh nguồn nƣớc, an

ninh lƣơng thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp,

đây là những vấn đề không của riêng một quốc gia nào mà mang tính toàn cầu.

Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kinh tế, sự biến động của giá cả thế giới, sự bất

ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi

đối với nền kinh tế thế giới. Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn,

thách thức và còn có nhiều biến động khó lƣờng. Tƣơng quan sức mạnh kinh tế

giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi trong khi hầu hết các quốc gia

tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Để đối phó

với tình hình, hầu hết các nƣớc trên thế giới đều điều chỉnh chiến lƣợc, cơ cấu lại

nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để

phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thƣơng mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị

trƣờng, công nghệ, nhân lực chất lƣợng cao giữa các nƣớc ngày càng gay gắt.

Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế,

khu vực, các hiệp định kinh tế song phƣơng, đa phƣơng thế hệ mới.

Đồng thời, tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ, tài

nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ,

chiến tranh mạng…tiếp tục diễn ra ở nhiều khu vực

Châu Á - Thái Bình Dƣơng, trong đó có ASEAN tiếp tục phát triển năng

động đồng thời cũng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Cộng đồng ASEAN

đƣợc hình thành vào cuối năm 2015 với ba trụ cột là: Cộng đồng chính trị - an

ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa - xã hội vì mục tiêu hòa bình, ổn

định, phát triển và hƣớng tới ngƣời dân. Đây là những cơ hội lớn để các nƣớc

trong khu vực mở rộng hợp tác, tranh thủ nguồn lực để phát triển, đồng thời cũng

phải đối mặt với không ít thách thức.

Tình hình thế giới đang đặt Việt Nam trƣớc những thách thức lớn, làm sao

phải giữ vững, ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, đồng thời thực hiện tốt

bình đẳng xã hội nói chung, bình đẳng giới nói riêng.

Page 118: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

113

4.1.3 Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ

nghĩa ngày càng phát triển, nhưng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức

Qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thu đƣợc những

thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Đất nƣớc ra khỏi khủng hoảng kinh tế

- xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nƣớc đang phát triển có thu nhập

trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Kinh tế tăng trƣởng khá, nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa

từng bƣớc hình thành, phát triển. Đồng thời với sự phát triển kinh tế, tình hình

chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh đƣợc tăng cƣờng, văn hóa - xã

hội có bƣớc phát triển tạo cho bộ mặt đất nƣớc và đời sống của nhân dân có

nhiều thay đổi. Trên cơ sở đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa đƣợc phát huy và ngày

càng mở rộng, sức mạnh về mọi mặt của đất nƣớc đƣợc nâng lên, vị thế và uy tín

của Việt Nam trên trƣờng quốc tế đƣợc nâng cao.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, công cuộc

đổi mới toàn diện đất nƣớc còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Thể hiện rõ trong

lĩnh vực kinh tế dù phát triển nhƣng chƣa bền vững, chƣa tƣơng xứng với tiềm

năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực đƣợc huy động. Chất lƣợng, hiệu quả, năng suất

lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu

bền vững còn thể hiện trong cả lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trƣờng. Nhiều vấn

đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chƣa đƣợc nhận

thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất

ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chƣa đƣợc

thụ hƣởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu

quả hoạt động của hệ thống chính trị chƣa ngang tầm nhiệm vụ.

Những hạn chế trên đặt ra yêu cầu Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục đẩy

mạnh sự nghiệp đổi mới nhằm sớm đƣa đất nƣớc ra khỏi tình trạng kém phát triển,

phấn đấu sớm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện

đại; Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển với những thành tựu mới, tạo điều kiện thuận lợi

Page 119: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

114

cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để thực hiện tốt những vấn đề xã hội,

đem lại sự bình đẳng cho ngƣời dân nói chung, bình đẳng giới nói riêng.

Nhƣ vậy, cùng với những vấn đề đặt ra trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt

Nam hiện nay, tình hình thế giới và trong nƣớc đặt ra yêu cầu mới trong việc thực

hiện bình đẳng giới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.

ớ chúng ta phải tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ trong điều kiện mới. Nghiên cứu nội dung tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ chúng ta nhận thấy rõ nội dung khoa

học, giá trị bền vững trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ. Tuy

nhiên, những quan điểm mà Ngƣời nêu ra trong điều kiện lịch sử lúc đó dù mang

giá trị nền tảng nhƣng thực tiễn cuộc sống đã đặt ra nhiều yêu cầu mới, vì vậy,

trên nền tảng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, cần có những vận

dụng, phát triển sáng tạo, không dập khuôn, máy móc.

trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với

việc phát huy nội lực, nền tảng tƣ tƣởng trong nƣớc, chúng ta cần tiếp thu, kế

thừa có chọn lọc các thành tựu, bài học, kinh nghiệm thực hiện bình đẳng giới

của thế giới trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu phát

triển bền vững đất nƣớc.

4.2. QU N ĐIỂM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH

ĐẲNG N M NỮ VÀO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT N M THỜI KỲ

ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓ , HIỆN ĐẠI HÓ ĐẤT NƯỚC

4.2.1. Thực hiện bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn

liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Sinh thời, trong quan điểm về bình đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh không hề

tách rời mà luôn gắn chặt việc thực hiện bình đẳng nam nữ trong mối quan hệ

với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nói cách khác, kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội là môi trƣờng tạo thuận lợi hoặc khó khăn trong thực

hiện bình đẳng giới.

Page 120: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

115

Trong thời kỳ mới, để phát triển bền vững, mỗi quốc gia phải lựa chọn

cho mình một mô hình phát triển và bƣớc đi thích hợp. Việt Nam đã chọn mô

hình phát triển kết hợp tăng trƣởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng

xã hội. Do đó, công bằng và bình đẳng là nguyên tắc cơ bản trong mọi chính

sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nƣớc, trong đó có sự bình đẳng và công

bằng giữa nam giới và nữ giới.

Phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị của đất

nƣớc là mục tiêu, nhiệm vụ lớn, mang tầm vóc quốc gia, bao trùm mọi mục tiêu,

nhiệm vụ bộ phận, trong đó có bao hàm cả mục tiêu, nhiệm vụ nâng cao chất

lƣợng thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.

Chiến lƣợc Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đã khẳng

định: “Chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận cấu thành quan

trọng của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, là cơ sở nền tảng

của chiến lƣợc phát triển con ngƣời của Đảng và Nhà nƣớc. Công tác bình đẳng

giới là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lƣợng cuộc sống của

từng ngƣời, từng gia đình và toàn xã hội” [146]. Việc thực hiện bình đẳng giới

phải đƣợc gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - chính trị - văn

hóa - xã hội và pháp luật của Nhà nƣớc.

Thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và phát triển kinh tế -

chính trị - văn hóa - xã hội - pháp luật của Nhà nƣớc có mối quan hệ biện chứng,

tƣơng tác, thúc đẩy qua lại lẫn nhau. Nếu kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn

định, văn hóa, giáo dục có nhiều cải cách tiến bộ sẽ tạo ra những điều kiện, yếu tố

cần thiết để đổi mới hoàn thiện pháp luật, củng cố việc thực hiện tốt quyền con

ngƣời, thúc đẩy bình đẳng giới phát triển. Ngƣợc lại, nếu hệ thống pháp luật

không ngừng đƣợc đổi mới và hoàn thiện, việc thực hiện quyền con ngƣời nói

chung, bình đẳng giới nói riêng ngày một tốt sẽ tạo động lực, môi trƣờng xã hội,

hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển nguồn lực con ngƣời, trong đó có

nguồn lực to lớn của phụ nữ, theo đó, các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - chính trị -

Page 121: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

116

văn hóa - xã hội - pháp luật cũng đƣợc thực hiện tốt hơn. Trên thực tế bình đẳng

giới không chỉ mang ý nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả mà trong đó còn bao trùm

nội dung kinh tế - chính trị - xã hội hết sức sâu sắc và rộng lớn. Bình đẳng giới

đƣợc thực hiện một cách thực chất và đầy đủ sẽ đem lại lợi ích lớn cho xã hội, tạo

động lực cho xã hội phát triển. Ngƣợc lại, bất bình đẳng giới vừa là nguyên nhân

của tình trạng nghèo đói, vừa là rào cản đối với sự phát triển bền vững, tác động

tiêu cực đến không chỉ phụ nữ mà cả các thành viên trong xã hội. Nam giới và nữ

giới có số lƣợng tƣơng đƣơng, việc đảm bảo bình đẳng giữa nam và nữ sẽ tạo cơ

hội cho cả hai giới đóng góp công sức cho sự phát triển chung.

Do đó, trong thực hiện chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội, một số chính

sách kinh tế - xã hội cần đƣợc xem xét và nhận thức lại trên quan điểm có tính đến

vấn đề giới, nghĩa là tính đến sự khác biệt về mặt sinh học và mặt xã hội giữa nam

giới và nữ giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong xã hội có

môi trƣờng và điều kiện nhƣ nhau trong quá trình phát triển; tạo lập những nền

tảng tối thiểu và cơ sở xuất phát ban đầu nhƣ nhau cho nam giới cũng nhƣ nữ giới.

4.2.2 Thực hiện bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn

với chiến lược quốc gia về bình đẳng giới

Chiến lƣợc Quốc gia về bình đẳng giới xác định mục tiêu tổng quát: “Đến

năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội,

sự tham gia và thụ hƣởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã

hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nƣớc [146]. Để đạt

đƣợc mục tiêu tổng quát này, chiến lƣợc Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn

2011 - 2020 đã đƣa ra nhiều mục tiêu cụ thể nhƣ:

Trong lĩnh vực chính trị: “tăng cƣờng sự tham chính của phụ nữ, giảm dần

khoảng cách chênh lệnh giữa nam và nữ, Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ

Đảng nhiệm kỳ 2016- 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%; Phấn đấu đến năm 2020 đạt

trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có lãnh

đạo chủ chốt là nữ, 100% cơ quan của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội có

Page 122: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

117

lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công

chức, viên chức, ngƣời lao động [146].

Trong lĩnh vực kinh tế: giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao

động, việc làm; tăng cƣờng sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ

ngƣời dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trƣờng lao động, cụ thể tỷ

lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc thiểu số có nhu cầu đƣợc vay vốn ƣu

đãi từ các chƣơng trình việc làm, giảm nghèo và các nguồn tín dụng chính thức đạt

80% vào năm 2015 và 100% vào năm 2020 [146].

Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội: nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực nữ,

từng bƣớc bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo

dục và đào tạo, với chỉ tiêu về tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15

đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt

90% vào năm 2015 và 95% vào năm 2020; tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 50% vào năm

2020. Tỷ lệ nữ tiến sỹ đạt 25% vào năm 2020. Đồng thời, bảo đảm bình đẳng giới

trong tiếp cận và thụ hƣởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Trong đời sống gia đình, bình đẳng giới ngày càng đƣợc bảo đảm, từng

bƣớc xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới, cụ thể rút ngắn khoảng cách về thời gian

tham gia công việc gia đình của nữ so với nam xuống 2 lần vào năm 2015 và

xuống 1,5 lần vào năm 2020. [146].

Do đó, thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng yêu

cầu phát triển bền vững phải gắn với chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới.

4.2.3. Thực hiện bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn liền

với mục tiêu nâng cao vị thế, năng lực cho phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ

Sinh thời, Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ và luôn

hƣớng tới mục tiêu giải phóng phụ nữ.

Hiện nay, phụ nữ là lực lƣợng xã hội đông đảo, chiếm hơn 50% dân số, là

một chủ thể quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển. Phụ nữ đang sát

cánh cùng nam giới trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc vì mục tiêu phấn đấu sớm

Page 123: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

118

đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại. Tuy nhiên,

bất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn còn diễn ra trên nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Sự

bất bình đẳng về giới - về lý thuyết có thể nghiêng về phía nam hoặc nữ, nhƣng

những thiệt thòi chủ yếu trên thực tế thuộc về ngƣời phụ nữ. Phụ nữ thƣờng đối

mặt với sự phân biệt đối xử và hàng loạt rào cản về kinh tế, chính trị, xã hội, văn

hóa,… làm cản trở sự phát triển và cống hiến của họ cho xã hội, giảm vị thế của

phụ nữ. Vì vậy, thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nhằm đáp

ứng yêu cầu phát triển đất nƣớc phải gắn liền với mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ

nữ. Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới, nâng

cao địa vị của phụ nữ.

Sự tiến bộ của phụ nữ có ảnh hƣởng rất lớn, thúc đẩy sự tiến bộ chung của

xã hội. Đây là quan điểm đã đƣợc Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ đầu thế kỷ XX.

Nhấn mạnh quan điểm này, tháng 3/2010, Tổng thƣ ký Liên hợp quốc Ban Ki-

moon trƣớc Ủy ban Địa vị Phụ nữ của Liên hợp quốc đã khẳng định việc trao

quyền cho phụ nữ là cấp thiết và chỉ đến khi phụ nữ đƣợc giải phóng khỏi nghèo

đói và bất bình đẳng thì những mục tiêu khác của Liên hợp quốc về hòa bình, an

ninh, phát triển bền vững mới thực hiện đƣợc.

Nhận thức rõ ý nghĩa của vấn đề, trong Luật Bình đẳng giới ghi rõ khi

chúng ta tiến hành áp dụng các quy định nhƣ nhau giữa nam và nữ nhƣng không

làm giảm đƣợc sự chênh lệch về vị trí, vai trò, điều kiện cơ hội phát huy năng lực

và thụ hƣởng thành quả của sự phát triển của phụ nữ thì cần phải áp dụng các biện

pháp thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Tuy nhiên, những biện pháp thúc đẩy sự tiến

bộ của phụ nữ chỉ nên đƣợc thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt

khi mục đích bình đẳng giới đã đạt đƣợc. Vì vậy, các biện pháp thúc đẩy bình

đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử giới.

Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 27-4-2011, của Bộ Chính trị về công tác

phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đã đƣa ra những

quan điểm chỉ đạo có tính định hƣớng quan trọng đó là: “Phát huy vai trò, tiềm năng

to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ

Page 124: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

119

Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ... là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan

trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới” [41].

Xét về mặt xã hội (giới), phụ nữ là lực lƣợng cơ bản tham gia các hoạt động

hội xã hội nhƣ mọi công dân, nhƣng phụ nữ còn phải làm tròn chức năng ngƣời

mẹ (giới tự nhiên). Mặt khác, do xã hội nhận thức chƣa đầy đủ về vấn đề giới nên

phụ nữ còn bị phân biệt đối xử và đang là nhóm ngƣời chịu nhiều thiệt thòi nhất

trong bối cảnh hiện nay. Do đó, trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách

kinh tế - xã hội cần phải tính đến đặc thù của phụ nữ, nhận rõ sự khác biệt do “tạo

hóa” và những khác biệt do con ngƣời tạo ra giữa nam giới và nữ giới để có giải

pháp khắc phục, tạo động lực cho sự phát triển xã hội một cách tốt nhất.

Vận dụng sáng tạo và phát triển tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong thực hiện bình

đẳng giới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, chúng ta cần gắn liền với mục tiêu

vì sự tiến bộ của phụ nữ, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ, nâng cao

địa vị của phụ nữ.

4.2.4 Thực hiện bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên

cơ sở phối hợp tổng thể sức mạnh của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ

chức đoàn thể và bản thân người phụ nữ

Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ không phải là công việc

của riêng ai, mà là sự nghiệp của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Quán triệt tƣ tƣởng

của Ngƣời, một trong bốn quan điểm đƣợc đƣa ra trong Nghị quyết 11 ngày

27/4/2011 của Bộ Chính trị là: “Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống

chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình, trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp

ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nƣớc các cấp,

vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”

[41]. Các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã

hội, cơ quan thông tin đại chúng cần tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục nâng cao

nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ,

đảng viên, các tầng lớp nhân dân.

Page 125: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

120

Giới là một lĩnh vực đa ngành, do đó, không nên xem bình đẳng giới là

vấn đề chỉ của riêng phụ nữ. Việc xây dựng xã hội có bình đẳng giới, bảo đảm

bình đẳng giới là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành, mọi cá nhân trong toàn xã

hội, là mục tiêu cần sớm hoàn thành của các quốc gia, để từ đó góp phần xây

dựng một thế giới phát triển bền vững. Do vậy, đòi hỏi có sự phối hợp và trách

nhiệm của cả xã hội. Thực hiện bình đẳng giới là cam kết và trách nhiệm cao của

Đảng, Nhà nƣớc và của cả hệ thống chính trị, đồng thời mở rộng sự tham gia của

các tổ chức xã hội, cộng đồng trong việc tổ chức thực hiện các mục tiêu bình

đẳng giới.

4.3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG

NAM NỮ VÀO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT N M ĐÁP ỨNG YÊU

CẦU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

4.3.1. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về bình đẳng giới và sự tiến

bộ của phụ nữ

Nhận thức có tác động lớn tới thái độ và hành vi. Nhận thức chƣa đúng

về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ sẽ làm hạn chế hiệu quả vận dụng tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt

Nam. Vì vậy, để thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam theo tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh đáp ứng yêu cầu phát triển đất nƣớc chúng ta cần chú trọng trƣớc tiên tới

việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về bình đẳng giới và sự tiến bộ của

phụ nữ, đặc biệt phải làm cho nhận thức đó chuyển hóa thành các hành vi, thái

độ ứng xử bình đẳng với phụ nữ.

Để nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, cần

tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục trong xã hội, ở cộng đồng và trong

các cơ quan Nhà nƣớc theo quan điểm Hồ Chí Minh. Tuyên truyền kết hợp phổ

biến, giáo dục pháp luật về công tác phụ nữ và bình đẳng giới có vai trò quan

trọng góp phần nâng cao nhận thức, cách hiểu về bình đẳng giới, xóa bỏ định

kiến giới trong xã hội. Công tác tuyên truyền về bình đẳng giới sẽ góp phần làm

chuyển biến nhận thức và hành vi của cộng đồng dân cƣ về giới và bình đẳng

Page 126: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

121

giới trong quan hệ đối xử giữa nam và nữ, trong thực hiện kế hoạch hoá gia đình,

trong lựa chọn sinh con theo giới tính, về vị thế của phụ nữ trong gia đình và

ngoài xã hội.

Công tác tuyên truyền kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật về công tác

phụ nữ và bình đẳng giới cần thực hiện trƣớc tiên với đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý các cấp, các ngành. Bởi thực tế cho thấy, hiện nay, một số cán bộ lãnh

đạo quản lý chƣa nhận thức đầy đủ về vấn đề bình đẳng giới. Nhiều ngƣời còn

gặp khó khăn hoặc nhầm lẫn khi phân biệt những khái niệm cơ bản nhƣ: “giới”,

“giới tính”, “bất bình đẳng giới”, “lồng ghép giới”… chẳng hạn, khi nói về giới

một số ngƣời nghĩ rằng đó là nói về phụ nữ. Ngay cả khái niệm “bình đẳng

giới”, khái niệm công cụ cũng có cách hiểu sai lệch cho rằng bình đẳng giới chỉ

là bình đẳng nam nữ theo ý nghĩa là sự cào bằng, cân bằng giữa nam và nữ về

mọi thứ theo tƣ tƣởng mà trƣớc đây Hồ Chí Minh đã phê phán rất gay gắt: hôm

nay em rửa bát, quét nhà; ngày mai anh quét nhà, rửa bát. Cách hiểu này đã làm

triệt tiêu sự khác biệt vốn có giữa hai giới mà tạo hóa đã tạo ra để hình thành nên

thế giới loài ngƣời. Mặt khác, vẫn còn một bộ phận lãnh đạo các cấp, ngành ở

địa phƣơng chƣa nhận thức rõ mối quan hệ mật thiết giữa bình đẳng giới và

công cuộc phát triển bền vững. Họ chƣa hiểu hết tầm quan trọng của việc lồng

ghép bình đẳng giới, nhƣ là một cách tiếp cận hiệu quả nhất để thực hiện bình

đẳng giới, nên chƣa xây dựng đƣợc những chính sách tốt nhằm phát huy vai trò

của phụ nữ, nâng cao vị thế của phụ nữ. Trong khi đó, sinh thời Hồ Chí Minh

đã từng đặt ra yêu cầu: “Cán bộ lãnh đạo và cán bộ các ngành, tƣ tƣởng phải

thông, phải thật thông. Phải có quyết tâm khắc phục khó khăn, làm tròn nhiệm

vụ” [104, tr. 530]. Vì vậy cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận

thức về giới trƣớc hết cho đội ngũ lãnh đạo các cấp.

Để làm đƣợc điều này, cần tăng cƣờng mở các lớp đào tạo về giới và

bình đẳng giới cho các đối tƣợng là cán bộ lãnh đạo của các ban, ngành, đoàn

thể, cán bộ Hội phụ nữ đặc biệt là ở cấp cơ sở. Thông qua các đợt tập huấn đó

sẽ góp phần nâng cao kiến thức và kỹ năng về bình đẳng giới cho đội ngũ cán

Page 127: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

122

bộ lãnh đạo, quản lý, giúp họ có khả năng lồng ghép các chính sách về giới

trong các chƣơng trình kinh tế - xã hội ở địa phƣơng có hiệu quả hơn.

Về nội dung đào tạo, cần cung cấp cho các học viên kiến thức mang tính

toàn diện và khách quan về bình đẳng giới, cần tránh hiện tƣợng cung cấp

những thông tin một chiều nhƣ quá nhấn mạnh đến những thiệt thòi của nữ

giới, mà phải đánh giá cả thực trạng bình đẳng của giới nam và giới nữ… cũng

nhƣ mối quan hệ qua lại giữa hai giới. Nếu trƣớc kia, xu hƣớng chung là cử

một số cán bộ tham gia tập huấn về giới chủ yếu là cán bộ nữ, thì hiện nay để

đạt đƣợc bình đẳng giới trong xã hội, việc đào tạo tuyên truyền về giới không

chỉ tập trung ở đối tƣợng nữ. Bởi lẽ hiện nay, nam giới vẫn đang có những ƣu

thế trong xã hội, nếu cán bộ lãnh đạo cả nam và nữ, đƣợc đào tạo về giới, họ

nhận ra đƣợc bất bình đẳng giới là do định kiến và quan niệm, thì việc xóa bỏ

những bất bình đẳng đó sẽ dễ dàng hơn, khoảng cách bất bình đẳng giới giữa

nam và nữ sẽ nhanh đƣợc thu hẹp. Đƣa nội dung về bình đẳng giới vào chƣơng

trình bồi dƣỡng về quản lý nhà nƣớc, đào tạo về cao cấp lý luận chính trị, nhằm

nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Nhƣ vậy, để công tác bình

đẳng giới có hiệu quả, phải bắt đầu từ nhận thức và sự đánh giá đúng đắn từ

phía những ngƣời có chức trách, thẩm quyền cao là nam giới.

Trong Chƣơng trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-

2020, do Phó Thủ tƣớng Chính phủ Vũ Đức Đam ký ban hành ngày 02 tháng 10

năm 2015 đã đề ra mục tiêu “70% cán bộ, công chức, viên chức, ngƣời lao động,

sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, ngƣời trong lực lƣợng vũ trang và sinh viên, học

sinh các cấp; 50% ngƣời dân ở các cụm dân cƣ đƣợc truyền thông nâng cao nhận

thức về bình đẳng giới” [150].

Cùng với việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, lãnh đạo, quản lý cần nâng

cao nhận thức về bình đẳng giới cho đại đa số nhân dân, thông tin về bình đẳng

giới kịp thời là hết sức quan trọng, nếu không sẽ dẫn tới khoảng cách bất bình

đẳng giới giữa hai giới ngày càng tăng. Để thực hiện việc tuyên truyền nâng cao

Page 128: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

123

nhận thức cho cộng đồng dân cƣ về bình đẳng giới nội dung tuyên truyền cần dễ

hiểu, ngắn gọn súc tích, gắn với hoạt động thƣờng ngày của ngƣời dân theo tinh

thần mà Hồ Chí Minh đã nêu trong biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức, xóa

bỏ định kiến giới. Về hình thức tuyên truyền hiện nay nên phong phú, đa dạng kết

hợp tuyên truyền chính thống thông qua các cuộc họp dân cƣ, các hội nghị với các

phƣơng tiện truyền thông, thông tin đại chúng nhƣ: phát thanh, truyền hình, tạp chí,

tờ rơi, hội thi tìm hiểu... Truyền thông có thể làm duy trì hay thay đổi những quan

niệm truyền thống về vai trò của phụ nữ và nam giới trong xã hội. Truyền thông

nhằm thay đổi quan niệm lệch lạc và hình ảnh truyền thống thiên lệch về phụ nữ và

nam giới, hƣớng tới một quan hệ giới hài hòa, có lợi cho sự phát triển.

Cần phải có sự đầu tƣ, tạo điều kiện thích đáng cho hoạt động tuyên

truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho các địa phƣơng. Tạo điều kiện để xây dựng

tủ sách pháp luật nói chung, có liên quan đến bình đẳng giới nói riêng ở cơ sở là

một hoạt động cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo

dục. Các loại sách phải có nội dung đơn giản, dễ đọc, dễ nhớ và phù hợp với từng

đối tƣợng. Đồng thời, cần có nhiều chƣơng trình, dự án để lồng ghép với phát

triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, tạo điều kiện phát huy vai trò, vị thế của

ngƣời phụ nữ, trên cơ sở đó sẽ giúp cả giới nam và giới nữ xoá bỏ những tƣ

tƣởng phong kiến, lạc hậu ăn sâu trong tâm trí ngƣời dân, tạo điều kiện cho bình

đẳng giới đƣợc thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn.

Phải có sự phối kết hợp thống nhất, chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức để

tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách

nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân; lên

án, đấu tranh chống tƣ tƣởng coi thƣờng phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử,

xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.

Chú trọng việc nêu gƣơng tốt, điển hình trong thực hiện bình đẳng giới qua

các hoạt động tuyên truyền, giáo dục; đồng thời tạo dƣ luận xã hội công khai qua

công tác tuyên truyền với những vụ việc vi phạm về bình đẳng giới.

Trong giáo dục, nâng cao nhận thức về giới, cần đặc biệt quan tâm tới việc

đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trƣờng phổ thông, giúp cho

Page 129: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

124

thanh, thiếu niên nhận thức đúng những vấn đề giới và bình đẳng giới một cách cơ

bản và hệ thống. Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh “tuổi trẻ là mùa xuân của xã

hội” [97, tr.194], nâng cao trình độ nhận thức cho thế hệ trẻ về bình đẳng giới sẽ

tạo ý thức trách nhiệm cho xã hội tƣơng lai thực hiện tốt bình đẳng giới trong cả

gia đình và xã hội. Để thực hiện đƣợc mục tiêu này, trƣớc hết, Bộ Giáo dục và

Đào tạo cần chỉ đạo thực hiện lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào nội dung,

chƣơng trình, sách giáo khoa mới ở tất cả các cấp học từ mầm non, đến phổ thông;

lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào nội dung và các hoạt động giáo dục trong

và ngoài chƣơng trình, cũng nhƣ sách hƣớng dẫn giáo viên về các hoạt động ngoài

giờ lên lớp ở cấp học trung học cơ sở thông qua một số chủ đề nhƣ tình bạn và các

hoạt động ngoại khoá: giáo dục kỹ năng sống, giáo dục quyền trẻ em, giáo dục

phòng chống HIV/AIDS; lồng ghép nội dung bình đẳng giới vào chƣơng trình đào

tạo tại các trƣờng cao đẳng, đại học sƣ phạm và lồng ghép giới vào các chƣơng

trình giáo dục thƣờng xuyên, sách giáo khoa, tài liệu hƣớng dẫn giáo viên, băng

hình, tranh ảnh. Đặc biệt, cần tiếp tục triển khai lồng ghép giới vào chƣơng trình

giáo dục kỹ năng sống cho phụ nữ nông thôn tại các trung tâm học tập cộng đồng.

Bên cạnh đó, các cấp, các ngành, đặc biệt là Bộ Giáo dục cần tổ chức rà

soát chƣơng trình, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy nhằm loại bỏ hình ảnh,

thiên kiến giới. Bởi thực tế, sách giáo khoa ở các trƣờng phổ thông trong giai đoạn

vừa qua vẫn còn có một số biểu hiện về định kiến giới. Các hình ảnh và quan niệm

đƣợc trình bày trong sách giáo khoa vẫn khắc họa vai trò truyền thống của trẻ em

gái và phụ nữ nhƣ làm việc nhà, làm ruộng và các công việc lao động chân tay, họ

thƣờng đƣợc mô tả là rụt rè, trông cậy vào sự giúp đỡ của ngƣời khác và thấp kém

hơn nam giới. Trong khi đó, trẻ em trai và nam giới thƣờng đƣợc khắc hoạ thông

qua hình ảnh các học giả, nhà thám hiểm hay công nhân kỹ thuật đƣợc đào tạo và

là những ngƣời khỏe mạnh, có lý chí, sử dụng kỹ thuật thành thạo, độc lập, đƣợc

ngƣời khác tôn trọng. Điều đó có thể tạo ra những thiên vị giới trong hành vi của

học sinh nam và nữ.

Với những hoạt động nỗ lực của các Bộ, ngành trong việc loại bỏ những

hình ảnh, quan điểm mang định kiến giới sẽ góp phần từng bƣớc nâng cao nhận

thức của toàn xã hội về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.

Page 130: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

125

4.3.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, tạo

cơ sở thực hiện có hiệu quả bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong

các lĩnh vực của đời sống xã hội

Chính sách, pháp luật là cơ sở, căn cứ quan trọng để triển khai hiện thực

hóa trong đời sống. Chính vì vậy, đất nƣớc vừa đƣợc thành lập, một trong những

nội dung đầu tiên Hồ Chí Minh quan tâm chú trọng là xây dựng hệ thống chính

sách, luật pháp nói chung, trong đó có chính sách, luật pháp về bình đẳng nam nữ.

Trải qua thời gian, cùng với quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp

luật nói chung, hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng giới nói riêng đƣợc

xây dựng tƣơng đối đồng bộ, tạo cơ sở và khung pháp lý để điều chỉnh các quan

hệ có liên quan đến quyền bình đẳng nam nữ, trên cơ sở đó, thực hiện bình đẳng

giới ở Việt Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đã đạt đƣợc những kết quả

đáng ghi nhận. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập, sự bất cập đó thể hiện việc chƣa

thực sự quán triệt sâu sắc những quan điểm của Hồ Chí Minh về bình đẳng nam

nữ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời, một số vấn đề trong thực hiện

bình đẳng giới chƣa theo kịp yêu cầu phát triển của thời đại.

Để tiếp tục vận dụng có hiệu quả tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong tình hình

mới và tƣơng thích với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập rất cần thiết phải

tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh và tinh thần của Công ƣớc CEDAW nhằm đảm bảo quyền bình

đẳng nam nữ một cách thực chất, hiệu quả. Nhằm thực hiện tốt giải pháp này, cần

thực hiện các biện pháp sau:

Rà soát, sử ổi, bổ nh còn bất c p, không phù h p với th c

tiễn, tạ ơ p p ý ng bộ ể th c hi b ẳng giới

Rà soát và hệ thống hóa các văn bản hiện hành nói chung và về bình đẳng

giới nói riêng là điều rất cần thiết và không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện

pháp luật về bình đẳng giới. Quá trình rà soát và hệ thống hóa giúp phân loại và

xác định những văn bản, quy phạm nào không cần thiết, không còn hiệu lực hoặc

chồng chéo, trùng lắp hoặc cần sửa đổi, bổ sung. Việc rà soát và hệ thống các văn

Page 131: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

126

bản pháp luật hiện hành về bình đẳng giới trong thời gian tới cần đảm bảo phù hợp

với Hiến pháp 2013, với Luật Bình đẳng giới. Do đó, những quy định dƣới luật cần

hƣớng theo tinh thần của Luật Bình đẳng giới, nếu những quy định nào trùng lặp

hoặc trái với Luật cần bãi bỏ để thực hiện nhất quán, tránh tình trạng văn bản dƣới

luật lại có giá trị hiệu lực cao hơn quy định của luật. Bên cạnh đó, cần thƣờng

xuyên, tổng kết, đánh giá việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ các quy phạm

pháp luật trên các lĩnh vực không phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng giới.

Cùng với việc rà soát, c n ti p tục nghiên c u sử ổi, bổ sung các quy

nh còn bất c p, không phù h p với th c tiễn nhằm tiến tới bình đẳng về thực

chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

ĩ Dù Luật Bình đẳng giới (2006), Hiến pháp

(2013), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (2015), quy

định đảm bảo quyền bầu cử và ứng cử nhƣ: Quy định tỷ lệ nữ ứng cử đại biểu

Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân năm 2015.

Tuy nhiên, các quy định của Luật mới chỉ dừng ở tỷ lệ ứng cử, chƣa có giải pháp

đảm bảo tỷ lệ đại biểu trúng cử trên 35%, do đó, dù đã đƣợc đề cập tới trong Nghị

quyết của Đảng (Nghị quyết 11) và đặt ra mục tiêu trong chiến lƣợc quốc gia về

bình đẳng giới nhƣng trong thực tế, mục tiêu trên còn khoảng cách khá xa. Vì vậy,

trong thời gian tới, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân

và Luật Bình đẳng giới cần có bổ sung quy định tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và Hội

đồng nhân dân ú ử không đƣợc dƣới 35% chứ không phải là số lƣợng ứng cử

viên và có những biện pháp bảo đảm cho phụ nữ hƣớng tới bảo đảm giới thực chất

và bền vững hơn. Thực tế, pháp luật của một số nƣớc (nhất là khu vực Bắc Âu) từ

lâu đã quy định rõ phải có tỷ lệ ½ đại diện phụ nữ trong Quốc hội, Chính phủ…

Đồng thời, Luật Bình đẳng giới, Điều 11 và Hiến pháp (2013), Điều 63 đã

quy định bảo đảm chung về quyền tham gia bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực

của cả nam và nữ, đặc biệt là lĩnh vực chính trị và quản lý nhà nƣớc. Các chiến

lƣợc và kế hoạch quốc gia cũng đã đề ra những mục tiêu cụ thể hơn về sự tham

Page 132: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

127

gia của phụ nữ với tƣ cách lãnh đạo, cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thực tế, số

lƣợng phụ nữ giữ các cƣơng vị lãnh đạo quản lý chƣa tƣơng xứng với tiềm năng

đặc biệt là ở cấp cơ sở (cấp xã). Do vậy, theo chúng tôi, cần có những quy định cụ

thể trong Luật Cán bộ công chức và các văn bản khác về tổ chức của những cơ

quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tỷ lệ nữ giữ vị trí lãnh

đạo không ít hơn 35% nhằm hƣớng tới bình đẳng giới một cách thực sự.

ĩ ộ còn tồn tại nhiều vấn đề trong

thực hiện bình đẳng giới. Trong khi đó, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đây chính là vấn đề gốc, là nội dung có vai trò

quan trọng trong thực hiện bình đẳng giới. Vì vậy, chúng ta cần chú ý tiếp tục

ban hành, bổ sung, hoàn thiện những văn bản pháp luật đề cập tới vấn đề tiền

lƣơng, thu nhập, lao động, việc làm, tạo sự bình đẳng thực sự cho cả hai giới

nam và nữ trong xã hội.

Luật pháp Việt Nam về cơ bản đã thể hiện đầy đủ nguyên tắc bình đẳng

nam nữ trong lao động và việc làm đƣợc thể hiện trong Bộ Luật Lao động (2012)

với chƣơng X: N ữ ớ ộ ữ nhằm bảo vệ ngƣời lao

động nữ với tƣ cách một lao động đặc thù. Xét về góc độ quan tâm đến nhu cầu

của lao động nữ và sự tham gia của họ vào lĩnh vực lao động thì pháp luật về lao

động ở nƣớc ta vẫn là hƣớng trực tiếp và tập trung vào đối tƣợng nữ. Trong khi đó

chƣa chú ý xem xét tác động không mong đợi khi thực hiện các chế độ, chính sách

đối với phụ nữ. Chƣa xác định các hậu quả tiêu cực và tích cực của chính sách đối

với lao động nữ và quan hệ giới nói chung. Các chuyên gia đã chỉ ra rằng, các quy

định riêng về lao động nữ đã tạo ra những rào cản trong việc tiếp cập việc làm của

lao động nữ.

Đầu tiên, là sự chênh lệch tuổi nghỉ hƣu của cán bộ, công chức, viên chức

nam và nữ. Theo quy định của Bộ Luật Lao động (2012) và Luật Bảo hiểm xã hội

(2014) quy định tuổi nghỉ hƣu của lao động nữ là 55, nam là 60, tuy nhiên, đối với

một số nữ cấp Thứ trƣởng và tƣơng đƣơng trở lên (kể cả nữ đại biểu Quốc hội

chuyên trách ở Trung ƣơng) ngang bằng nam giới (60 tuổi). Hiện nay có nhiều ý

Page 133: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

128

kiến khác nhau về quy định của Bộ Luật Lao động đối với tuổi nghỉ hƣu của nam

và nữ chênh nhau 5 năm. Một số ý kiến cho rằng, đây là biện pháp “đặc biệt tạm

thời”, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới nhằm tạo ƣu tiên cho phụ nữ trong lao

động. Tuy nhiên, quy định này, vô hình chung, ở một khía cạnh nào đó đã hạn chế

cơ hội của phụ nữ trong các cơ hội việc làm và cơ hội tham gia vào các vị trí quản

lý. Quy định này đồng thời làm sâu sắc thêm định kiến về vai trò giới nhƣ nam

ngoại, nữ nội trong khi trên thực tế, cả phụ nữ và nam giới đều lao động cho đến

tuổi và sức khỏe cho phép.

Trong điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay, để động viên mọi ngƣời

tham gia lao động xây dựng đất nƣớc, đồng thời góp phần giảm bớt gánh nặng cho

quỹ bảo hiểm xã hội chi trả lƣơng hƣu lâu dài cho ngƣời lao động còn sức khỏe,

nhất là bảo đảm nguyên tắc Hiến định “không phân biệt nam nữ”. Theo chúng tôi

trong điều kiện hiện nay, về phƣơng diện pháp lý cần quy định tuổi nghỉ hƣu của

nam và nữ là nhƣ nhau, trƣờng hợp ƣu tiên thì cho phụ nữ có quyền lựa chọn về

hƣu sớm từ 1-5 năm. Có nhƣ vậy mới tạo cơ hội cho phụ nữ vƣơn lên và đóng góp

công sức cho sự phát triển đất nƣớc, thực hiện tốt bình đẳng giới.

Bên cạnh đó, quy định nghỉ thai sản dành riêng cho lao động nữ đã tạo điều

kiện cho lao động nữ - ngƣời mẹ làm tốt công việc sinh và nuôi con nhỏ. Tuy

nhiên, ngoài việc sinh con và cho con bú sữa mẹ - nhƣ các thảo luận về giới và

giới tính cho thấy các công việc khác, kể cả chăm sóc trẻ nhỏ, nam giới đều có thể

làm đƣợc. Vì vậy, theo chúng tôi cần bổ sung quy định nam giới đƣợc nghỉ một số

ngày nhất định trong thời gian vợ sinh con để phụ giúp việc chăm sóc con nhỏ,

chia sẻ gánh nặng và công việc gia đình với phụ nữ.

Nhƣ vậy, có thể thấy, đây là một sự đối xử khác nhau trong chính sách mà

hậu quả không mong muốn là hạn chế cơ hội của phụ nữ trên thực tế. Do đó, cần

có sự phân tích giới một cách tỷ mỉ và đƣa vào chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách

hợp lý nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho cả nam và nữ.

Đồng thời, trong lĩnh vực kinh tế chúng ta cần có chính sách ƣu tiên cho

các chủ đầu tƣ, doanh nghiệp, tƣ nhân ở các vùng nông thôn sử dụng nhiều lao

Page 134: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

129

động nữ bằng cách ƣu tiên cho vay vốn, giảm mức thuế thu nhập doanh nghiệp,

ƣu tiên thị trƣờng đầu ra… Bên cạnh đó, đối với phụ nữ nông thôn tham gia sản

xuất, cần có quy định ƣu tiên hỗ trợ trong hoạt động xúc tiến thƣơng mại, ứng

dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, tìm kiếm thị trƣờng

đầu ra cho sản phẩm…Đối với chủ hộ là phụ nữ vay vốn cần có những ƣu tiên về

mức vay và lãi xuất cho vay.

ĩ ă - ã ộ Trƣớc hết là lĩnh vực giáo dục, đào tạo, luật

pháp hiện hành đã đƣa ra nhiều đảm bảo chung, trong đó có quyền bình đẳng về cơ

hội học tập không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngƣỡng, giới, nguồn gốc gia đình,

địa vị xã hội, điều kiện kinh tế. Để khắc phục những hạn chế trong điều kiện hiện

nay, các quy định pháp luật cần: Quy định độ tuổi, điều kiện, tiêu chuẩn nhƣ nhau

khi nhập học, tham dự các khóa đào tạo, bồi dƣỡng; bảo đảm bình đẳng trong việc

lựa chọn nghề nghiệp để học và đào tạo; cần quy định các điều kiện nhƣ nhau,

không bị phân biệt đối xử và định kiến về giới trong các hoạt động hƣớng nghiệp;

bên cạnh đó, cần có những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện Điểm b, Khoản 5,

Điều 14 Luật Bình đẳng giới: “Lao động nữ khu vực nông thôn đƣợc hỗ trợ dạy

nghề theo quy định của pháp luật” nhằm tăng tỷ lệ lao động nữ ở nông thôn đƣợc

đào tạo nghề và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả sức cạnh tranh của lao động nữ, tạo

cơ hội để phụ nữ nông thôn có cơ hội kiếm việc làm, có thu nhập ổn định, giúp xóa

đói giảm nghèo. Theo đó, cần sửa đổi Điều 65, Luật Dạy nghề về chính sách đối với

ngƣời học nghề theo hƣớng: Bổ sung đối tƣợng phụ nữ ở nông thôn đƣợc hỗ trợ chi

phí học nghề, không chỉ đối với đào tạo ngắn hạn, trình độ sơ cấp, trung cấp mà cả

trình độ cao đẳng; đồng thời có chính sách ƣu đãi vay vốn đi học cho phụ nữ nông

thôn; quy định rõ trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong việc tìm kiếm việc làm cho

ngƣời học nghề, đặc biệt là ngƣời học nghề là lao động nữ ở nông thôn.

Đồng thời, cần tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện pháp luật liên quan đến chăm

sóc sức khỏe, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền đƣợc

chăm sóc sức khỏe của phụ nữ nhất là phụ nữ ở nông thôn và miền núi. Cần lồng

ghép vấn đề giới trong Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Khám chữa bệnh;

Page 135: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

130

quy định những biện pháp bảo đảm cho phụ nữ đƣợc tiếp cận với các dịch vụ y

tế, chăm sóc sức khỏe có chất lƣợng.

T ĩ Mặc dù Hiến pháp, pháp luật nhƣ

Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia

đình, Bộ Luật dân sự, Luật hình sự… đã quy định về mặt pháp luật nguyên tắc

bình đẳng nam nữ, không phân biệt đối xử về giới nhƣng những quy định trong

các văn bản pháp luật nói trên còn nhiều bất cập, chế tài xử lý vi phạm pháp luật

về các quyền này còn chƣa đủ mạnh. Ví dụ: Luật Phòng chống bạo lực gia đình đã

quy định rất rõ các hành vi bạo lực gia đình, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ

quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình… tuy nhiên, nạn bạo hành gia

đình vẫn diễn ra mà nạn nhân thƣờng nghiêng nhiều hơn về phía phụ nữ, hiện tƣợng

ngƣợc đãi, hành hạ về thể chất và tinh thần đối với phụ nữ trong nhiều gia đình vẫn

không đƣợc xử lý theo pháp luật… Do đó, cần có những quy định, chế tài xử lý vi

phạm pháp luật một cách đủ mạnh, tạo sức mạnh răn đe, hạn chế nạn bạo hành gia

đình, tiến tới bình đẳng giới về thực chất trong gia đình.

Có thể khẳng định, khoảng cách giữa chủ trƣơng, đƣờng lối, sự vận

dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng

giới chỉ thực sự đƣợc thu hẹp nếu pháp luật có những quy định rõ ràng, chặt

chẽ, chế tài xử phạt nghiêm minh, đặc biệt là việc thực thi pháp luật một cách

nghiêm túc và triệt để.

4.3.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn

xã hội về thực hiện bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Hiệu quả thực hiện bình đẳng giới phụ thuộc rất lớn vào các chủ thể ti n

hành. Chủ thể tiến hành bình đẳng giới ở Việt Nam không phải là một tổ chức, cá

nhân mà là toàn xã hội, trong đó đặc biệt là vai trò của hệ thống chính trị. Do đó,

tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về thực hiện

bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một giải pháp quan trọng nhằm thúc

đẩy thực hiện bình đẳng giới đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nƣớc.

Page 136: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

131

Đ ng Cộng s n vừa là thành viên, vừa là lực lƣợng lãnh đạo hệ thống chính

trị, có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Hồ Chí Minh đã từng khẳng

định: “Đảng có vững, cách mạng mới thành công”. Để phát huy vai trò lãnh đạo

của tổ chức Đảng, điều đầu tiên là cần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về

mọi mặt, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao

động và toàn thể dân tộc. Theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là

một Đảng lãnh đạo, Đảng chân chính cách mạng, là đội tiên phong của giai cấp công

nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất, mục tiêu phấn đấu vì

nhân dân, vì dân tộc. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nƣớc, Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nhƣ vậy, vấn đề đặt ra là phải

nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, đây là khâu then

chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, là bài học mà Việt Nam

đã rút ra sau 30 năm đổi mới.

Trên cơ sở sự vững mạnh, Đảng cần nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo

đối với việc thực hiện bình đẳng giới. Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng

phải có những chủ trƣơng, đƣờng lối quan tâm bảo vệ quyền lợi phụ nữ và thực

hiện bình đẳng nam nữ. Trong thời kỳ mới, Đảng cần tiếp tục có những chủ

trƣơng, đƣờng lối kịp thời, phù hợp, thiết thực trong việc bảo đảm quyền bình

đẳng cho cả hai giới nam và nữ, thúc đẩy việc thực hiện Chƣơng trình Nghị sự

2030 mà Việt Nam đã cam kết thực hiện. Quan trọng hơn, Đảng cần có những

định hƣớng, chỉ đạo để các chủ trƣơng thực hiện bình đẳng giới và tiến bộ của phụ

nữ cụ thể hóa thành những văn bản mang tính pháp lý về mặt nhà nƣớc, tạo điều

kiện cũng nhƣ tổ chức thực thi trong đời sống xã hội, đƣợc nhân dân hƣởng ứng,

tích cực học tập, nghiêm chỉnh chấp hành. Đồng thời, trong Đảng, cần nâng cao

trách nhiệm ngƣời đứng đầu cấp ủy theo tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa

XII), tạo sự thống nhất trong cấp ủy Đảng, cơ quan, ban ngành đoàn thể về vấn đề

bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Mỗi đảng viên trong Đảng cũng phải

Page 137: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

132

thực sự là một tấm gƣơng sáng trong việc thực hiện bình đẳng giới và thúc đẩy sự

tiến bộ của phụ nữ.

Qu c hội là cơ quan lập pháp cao nhất của Nhà nƣớc, có vai trò quan trọng

trong việc luật hóa những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng nhằm đƣa bình đẳng

giới vào thực tiễn đời sống. Để thúc đẩy bình đẳng giới, Quốc hội phải tăng cƣờng

trách nhiệm trong việc tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn

bản pháp luật có liên quan tới bình đẳng giới nói chung, tới sự phát triển của phụ

nữ nói riêng. Xác định những lĩnh vực cần ƣu tiên đƣa vào chƣơng trình xây dựng

luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ và hàng năm. Lồng ghép các vấn đề giới vào các

dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết. Trong quá trình làm Luật, Quốc hội cần bám sát

vào tinh thần, định hƣớng chỉ đạo của Đảng tại Văn kiện Đại hội lần thứ XII, các

chủ trƣơng, chiến lƣợc lớn. Các quy định pháp luật phải đáp ứng kịp thời những

đòi hỏi của thực tiễn, có tính khoa học và tính khả thi cao.

Quốc hội cũng cần tăng cƣờng giám sát tối cao việc ban hành các văn bản

và thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ trong

bộ máy nhà nƣớc. Tăng cƣờng giám sát theo chuyên đề về thực hiện bình đẳng

giới, thực hiện các chƣơng trình mục tiêu quốc gia hƣớng tới bình đẳng giới và vì

sự tiến bộ của phụ nữ … có chế tài về việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát,

trong đó, có trách nhiệm trả lời việc xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân.

Đồng thời, cần tăng cƣờng trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong công

tác xây dựng luật, tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức pháp luật nói chung,

pháp luật về bình đẳng giới nói riêng, đảm bảo thực hiện tốt bình đẳng giới và vì

sự tiến bộ của phụ nữ trong xã hội; Thực hiện giám sát đôn đốc, giải quyết khiếu

nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật; chủ động đề xuất và gƣơng

mẫu thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, chống phân biệt, đối xử, vi

phạm quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Chính phủ có vai trò quan

trọng trong việc đảm bảo, thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Vai

Page 138: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

133

trò của Chính phủ đƣợc thể hiện ở việc Chính phủ đã ban hành các văn bản quy

phạm pháp luật tập trung vào việc xây dựng chính sách, chiến lƣợc, chƣơng trình,

mục tiêu, chỉ đạo phối hợp công việc giữa các bộ, ngành, địa phƣơng; thực hiện

thanh, kiểm tra, phát hiện xử lý các vi phạm liên quan đến việc thực hiện bình

đẳng giới; chỉ đạo các cơ quan hữu quan trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật, nâng cao ý thức của nhân dân về bình đẳng giới; tạo điều kiện pháp

lý để phụ nữ thực hiện quyền dân chủ; tạo nguồn nhân lực cho việc tổ chức và

thực hiện bình đẳng giới…

Để tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan Nhà nƣớc cao nhất,

trong thời gian tới, Chính phủ cần tập trung tiếp tục quan tâm hoạch định chiến

lƣợc, chính sách nhằm đảm bảo bình đẳng giới trên tất cả mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội, phát huy vai trò là đầu mối tổ chức và chỉ đạo thực thi các chính sách

quốc gia và các cam kết quốc tế về bình đẳng giới mà Việt Nam đã ký hoặc tham

gia. Chính phủ cũng cần tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành nâng cao chất lƣợng công

tác soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện rà soát, lồng ghép vấn đề

bình đẳng giới; tăng cƣờng chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về bình đẳng giới, các văn bản có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của

phụ nữ nhằm thúc đẩy các cá nhân thụ hƣởng quyền và phát huy việc thực hiện các

quyền của mình. Mặt khác, Chính phủ cần tạo những cơ chế tài phán hành chính

để thúc đẩy phụ nữ thực hiện các quyền chính trị, đóng góp ý kiến vào các chính

sách phát triển kinh tế - xã hội mà Chính phủ xây dựng …; thực hiện tốt chức

năng thanh, kiểm tra, giám sát hoạt động trong bộ máy hành chính nhà nƣớc nhằm

đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ,

chính quyền địa phƣơng ban hành; trong đó, chú trọng đảm bảo tính thống nhất

trong các quy định pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới. Chính phủ cũng cần

đƣa ra các biện pháp xử lý vi phạm liên quan đến các bình đẳng giới và quyền của

phụ nữ, đặc biệt, đối với hành vi vi phạm pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức

xâm phạm và gây thiệt hại đến bình đẳng giới và quyền của phụ nữ phải đƣợc

Chính phủ xác định trách nhiệm để có biện pháp kỷ luật, chế độ chịu trách nhiệm

Page 139: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

134

cả về vật chất và tinh thần. Đồng thời, Chính phủ cần quan tâm, tạo điều kiện

nguồn nhân lực cho việc tổ chức và thực hiện bình đẳng giới; xây dựng lực lƣợng

cán bộ công chức chuyên nghiệp, đƣợc đào tạo, tuyển dụng khắt khe, là ngƣời có

những am hiểu pháp luật về bình đẳng giới, nắm vững các quy định pháp luật về

bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực, tâm huyết vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Các bộ ơ bộ ơ ộc Chính phủ có vai trò to lớn trong

việc thực hiện, thúc đẩy bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ. Trong thời gian tới, để

đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào thực hiện bình

đẳng giới ở nƣớc ta cần tăng cƣờng trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc Chính phủ nhằm từng bƣớc đƣa bình đẳng giới vào thực tiễn đời sống.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ mà trọng tâm là Bộ

Lao động – Thƣơng bình và xã hội, cơ quan quản lý Nhà nƣớc về bình đẳng giới

cần đẩy mạnh việc rà soát, tham mƣu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,

chính sách về bình đẳng giới phù hợp với thực tiễn đất nƣớc; lồng ghép vấn đề

giới, bình đẳng giới vào trong các văn bản, chủ trƣơng và hoạt động của bộ, ngành

mình quản lý. Đồng thời, cần đẩy mạnh việc triển khai thúc đẩy bình đẳng giới, vì

sự tiến bộ của phụ nữ - đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong lĩnh vực mà mình

quản lý; tổng kết những chƣơng trình, mục tiêu quốc gia bình đẳng giới hàng năm

và giai đoạn, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp để triển khai có hiệu quả trong

thời gian tới nhằm thực hiện mục tiêu chung của quốc gia, góp phần thực hiện

Chƣơng trình Nghị sự 2030 mà Việt Nam đã cam kết thực hiện.

Là cầu nối quan trọng giữa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nƣớc về bình đẳng giới với mỗi ngƣời dân, chính quyền địa

phƣơng, đặc biệt chính quyền cấp cơ sở có vai trò quan trọng trong thúc đẩy bình

đẳng giới, do đó, tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng, đặc

biệt là chính quyền cấp cơ sở là việc làm cấp thiết.

Các địa phƣơng cần tiếp tục lồng ghép vấn đề giới, bình đẳng giới vào

chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng, các lĩnh vực của địa phƣơng,

xây dựng kế hoạch, chƣơng trình triển khai thực hiện mục tiêu quốc gia về bình

Page 140: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

135

đẳng giới giai đoạn 2016 - 2020, trên cơ sở mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới

giai đoạn 2011-2020, Chƣơng trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai

đoạn 2016-2020 và kết quả tổng kết các chƣơng trình hành động quốc gia về bình

đẳng giới giai đoạn 2011-2015; triển khai thực hiện tốt các chƣơng trình mục tiêu

quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết số

100/2015/QH13 ngày 12-11-2015 về phê duyệt chủ trƣơng đầu tƣ các chƣơng

trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 - 2020; bảo đảm các điều kiện để phụ nữ

đƣợc bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực kinh tế (đất canh tác, các nguồn vốn tín

dụng, thông tin thị trƣờng, thông tin về luật pháp, chính sách), bình đẳng về cơ hội

sản xuất kinh doanh, bình đẳng trong cơ hội nâng cao trình độ, bồi dƣỡng, đào tạo…;

Bố trí, tạo nguồn cán bộ thực hiện bình đẳng giới có năng lực, đƣợc trang bị kiến

thức, bồi dƣỡng kỹ năng phân tích, đánh giá, lồng ghép giới và năng lực hoạt động

bình đẳng giới. Đồng thời, tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, công tác

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền địa phƣơng trong triển

khai, tổ chức thực hiện Luật Bình đẳng giới và các quy định có liên quan đến

quyền của phụ nữ.

Cùng với việc tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà

nƣớc, chính quyền, trong thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,

cần quan tâm tăng cƣờng trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ, các tổ chức chính

trị - xã hội. Tiếng nói của các tổ chức này sẽ có ảnh hƣởng không nhỏ tới tổ chức

Đảng và chính quyền quan tâm hơn nữa đến thực hiện bình đẳng giới và tiến bộ

của phụ nữ. Trên thực tế, phụ nữ tham gia ở khối đoàn thể nhiều hơn. Bởi vậy

tiếng nói cũng nhƣ những thông tin từ các tổ chức này sẽ là cơ sở để các cấp lãnh

đạo xem xét thực hiện bình đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ.

Hội Liên hi p phụ nữ và Ban vì s ti n bộ của phụ nữ các cấp là tổ chức

chủ đạo trong truyền thông về việc thực hiện bình đẳng giới. Trong quan điểm Hồ

Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có vai trò quan trọng góp phần giải

phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Ngƣời cũng yêu cầu Hội Liên hiệp

Page 141: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

136

phụ nữ phải là lực lƣợng mạnh mẽ giúp Đảng động viên, lãnh đạo phụ nữ [105,

tr.420] và đề ra giải pháp phát huy vai trò, nỗ lực của Hội. Trong điều kiện mới,

thực hiện theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần chủ

động, tích cực tham mƣu, đề xuất, tham gia xây dựng và thực hiện các chủ trƣơng,

chính sách về công tác cán bộ nữ; phát hiện, bồi dƣỡng, giới thiệu nguồn cán bộ

nữ có chất lƣợng cho Đảng; tham gia có hiệu quả vào công tác quy hoạch, đào tạo

cán bộ nữ ở các cấp. Trong đó cần coi trọng công tác tham mƣu, đề xuất, tham gia

giám sát và phản biện xã hội; giới thiệu nguồn cán bộ nữ; tham gia đào tạo, bồi

dƣỡng cán bộ nữ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên... góp phần vào

thành tựu chung về bình đẳng giới của Việt Nam. Thông qua chức năng, nhiệm vụ

của mình, các cấp hội phụ nữ cần khuyến khích mỗi hội viên không ngừng nâng

cao sự hiểu biết, kiến thức xã hội, chuyên môn nghiệp vụ. Chú trọng phát hiện

các nhân tố có năng lực để có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng và tạo nguồn cho

các vị trí trong hệ thống chính trị. Tăng cƣờng công tác giáo dục, tuyên truyền

để từng bƣớc nâng cao nhận thức về vai trò và vị thế của phụ nữ Việt Nam là

một trong những công việc thƣờng xuyên. Cần có những sáng kiến trong các

chƣơng trình, kế hoạch của Hội, nhƣ tổ chức thi tìm hiểu về Luật Bình đẳng

giới và khuyến khích các gƣơng điển hình, tiên tiến trong các phong trào của

Hội, tránh bệnh hình thức, quan liêu. Thông qua mỗi hội viên để xây dựng

hình ảnh phụ nữ thời đại mới, hình thành những giá trị, chuẩn mực mới về

bình đẳng giới để từng bƣớc đẩy lùi những quan niệm định kiến giới đã ăn sâu

trong tiềm thức của các nhóm xã hội.

Mặt tr n Tổ qu c Vi t Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng

cấp tham gia trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà nƣớc về bình

đẳng giới, vì vậy trong thời gian tới Mặt trận và các tổ chức thành viên cần làm

tốt công tác tham gia góp ý khi xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật

về bình đẳng giới; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận

thức và thực hiện tốt bình đẳng giới; đồng thời chủ động nghiên cứu, đề xuất

Page 142: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

137

các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; có cơ chế giám sát, phản biện xã hội về

bình đẳng giới v.v..

Đ là lực lƣợng trẻ, sung mãn, thế hệ hiện tại và tƣơng lai để

thực hiện bình đẳng giới. Có thay đổi hành vi hay không phụ thuộc vào nhận thức

của thanh niên về bình đẳng giới. Bởi, thanh niên vừa là chủ thể tuyên truyền, vận

động; vừa là ngƣời thực hiện chính sách giới nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của

nam và nữ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong tƣơng lai. Do đó, Đoàn thanh

niên có ý nghĩa tích cực trong công tác tuyên truyền vận động và thực hiện bình

đẳng giới. Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Ngƣời luôn yêu cầu cùng với Hội phụ nữ,

Đoàn thành niên phải phụ trách tuyên truyền, giáo dục pháp luật rộng khắp và bền

bỉ để mỗi ngƣời và mỗi gia đình hiểu rõ pháp luật Nhà nƣớc nói chung về vấn đề

hôn nhân gia đình, quyền bình đẳng phụ nữ nói riêng [105, tr.706]. Thời gian tới,

Đoàn thanh niên cần phối hợp với các cơ quan quản lý, cơ quan chức năng tiếp tục

tổ chức tuyên truyền về chính sách, pháp luật về bình đẳng giới trong thế hệ trẻ, về

kỹ năng tƣ vấn, xử lý và thực hiện bình đẳng giới.

Đ i với các tổ ch c chính tr - xã hội khác, cũng có ý nghĩa quan trọng đối

với việc đảm bảo quyền của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới. Do đó, phát huy vai trò

của các tổ chức này trong tuyên truyền các chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của

Đảng và Nhà nƣớc nhằm giúp cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ về bình đẳng giới.

Có nhƣ vậy, khoảng cách giới trong xã hội sẽ ngày càng đƣợc giảm bớt, rút ngắn,

hƣớng tới sự công bằng, bình đẳng trong xã hội và phát triển bền vững đất nƣớc.

Thực hiện bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ là nhiệm vụ chung của

Đảng, Nhà nƣớc, các bộ ngành, cơ quan, các tổ chức và toàn xã hội. Vì vậy, để

thực hiện tốt mục tiêu chung, bên cạnh việc tăng cƣờng trách nhiệm của các cơ

quan, tổ chức cần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả và sự phối hợp liên ngành thúc

đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Thực hiện tốt sự phối hợp liên ngành

giữa các cơ quan, các bộ ngành trung ƣơng và địa phƣơng là cơ sở quan trọng thúc

đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.

Page 143: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

138

4.3.4. Phát huy vai trò nỗ lực vươn lên của nữ giới, nâng cao trách nhiệm

của nam giới trong thực hiện bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong quan điểm Hồ Chí Minh, sự nỗ lực, vươn lên của phụ nữ là yếu tố

mang ý nghĩa quyết định thúc đẩy bình đẳng nam nữ, bởi nếu chủ trƣơng, đƣờng

lối, chính sách và các tổ chức, cá nhân quan tâm tạo điều kiện cho phụ nữ nhƣng

phụ nữ không chủ động, nỗ lực vƣơn lên vƣợt qua rào cản thì kết quả đạt đƣợc

trong thực hiện bình đẳng nam nữ và tiến bộ của phụ nữ sẽ bị hạn chế. Vì vậy, đây

là giải pháp cần thiết và mang tính bền vững nhằm thúc đẩy việc thực hiện bình

đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nƣớc.

Trong điều kiện mới, khi xu thế hội nhập và phát triển ngày càng mạnh mẽ,

phụ nữ Việt Nam có nhiều cơ hội, đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức để

có thể khẳng định và phát huy vai trò của mình. Do đó, bản thân phụ nữ cần tiếp

tục nỗ lực nhiều mặt để vƣợt qua rào cản, thách thức cả truyền thống và hiện đại,

đấu tranh vì quyền bình đẳng và sự tiến bộ của bản thân cũng nhƣ của giới mình.

Một là, phụ nữ cần không ngừng nỗ lực học tập, nâng cao trình độ, kiến

thức mọi mặt. Theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh phụ nữ “phải quyết tâm học tập”

[105, tr.640], học chính trị, học văn hóa, khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao trình

độ học vấn, trình độ hiểu biết về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong điều

kiện mới, phụ nữ phải không ngừng tự cố gắng, tự đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao

trình độ, năng lực bản thân cả năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức, quản

lý…những khía cạnh mà bản thân còn bất cập để sẵn sàng đảm nhiệm những công

việc đƣợc giao; phải nắm bắt đƣợc những biến động của đời sống đất nƣớc nhằm

đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại. Đối với phụ nữ là cán bộ công

chức, cần tự tin, tự khẳng định về phẩm chất và năng lực của bản thân hoàn toàn

xứng đáng đƣợc lựa chọn đƣa vào quy hoạch và sắp xếp vào vị trí lãnh đạo, quản

lý. Phụ nữ cần phải có sự tôn vinh lẫn nhau, hết sức tránh tình trạng níu kéo nhau

giữa cán bộ nữ và xem đó là cách khẳng định phẩm chất lãnh đạo của mình. Nhất

thiết không thể an phận thủ thƣờng, cho phép bằng lòng với hiện tại. Trong số các

giải pháp, thì việc “phụ nữ phải có giải pháp cho chính mình” luôn đƣợc đánh giá

Page 144: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

139

cao. Thực tế cho thấy, trong mọi thời đại, ở mọi lĩnh vực nghề nghiệp luôn có

những phụ nữ xuất sắc, tài giỏi hơn nam giới. Điều này đã đƣợc lịch sử nhân loại

chứng minh nhƣ, trong khoa học nhân loại ghi nhận sự cống hiến, tài giỏi của nhà

khoa học nữ Marie Curie; trong chính trị chúng ta nhắc đến bà Thatcher hay

Halary Clinton…

Hai là, phụ nữ phải nỗ lực, chủ động về công việc, tự lập về kinh tế. Trong

quan điểm Hồ Chí Minh, sự nỗ lực, chủ động trong công việc, tự lập về kinh tế là

tiền đề để phụ nữ tiến tới bình đẳng với nam giới trong các lĩnh vực khác. Trong

điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay, yếu tố này càng trở nên cấp thiết hơn. Vì thế,

phụ nữ cần không ngừng nỗ lực, chủ động tạo lập công việc, tự lập về kinh tế

bằng cánh nỗ lực học tập, rèn luyện, vƣơn lên.

Ba là, phụ nữ phải luôn có ý thức phấn đấu kết hợp hài hòa giữa tiến bộ

nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình. Đây là một nhiệm vụ rất nặng nề, một gánh

nặng đặt lên vai phụ nữ. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của phụ nữ đƣợc đề cao,

phụ nữ đã tham gia vào tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, điều đó đòi hỏi

phụ nữ phải không ngừng nỗ lực rèn luyện, học tập và vƣơn lên. Tuy nhiên, phụ

nữ cũng không đƣợc quên trách nhiệm, thiên chức làm vợ, làm mẹ, là ngƣời thầy

đầu tiên của mỗi con ngƣời. Trong bối cảnh hiện nay, ngƣời phụ nữ còn phải phát

huy trí tuệ, sự khéo léo trong việc gìn giữ hạnh phúc gia đình, giáo dục, dạy dỗ

con, phát huy tính tự lập, định hƣớng cho sự phát triển của con cái…Thực tế cho

thấy, đối với cán bộ nữ, vấn đề dung hòa giữa gia đình và công việc xã hội là điều

không mấy dễ dàng. Tuy nhiên, rất nhiều phụ nữ đã biết cánh giải quyết tốt hai

chức năng này và trở thành ngƣời mẹ hiền, vợ đảm, ngƣời cán bộ giỏi, thành đạt.

Chính những phụ nữ đạt đƣợc thành công trong cuộc sống, sự nghiệp là nguồn cổ

vũ, động viên to lớn cho các chị em gái, cho các đồng nghiệp nữ để họ vững tâm, tự

tin, phấn đấu vƣơn lên. Ngƣợc lại, những phụ nữ an phận thủ thƣờng, đặc biệt là

những phụ nữ coi mình là “phụ nữ hiện đại” với lối sống ích kỷ, buông thả, vô trách

nhiệm với gia đình, bạn bè, ngƣời thân, đồng nghiệp sẽ mất đi niềm tin tƣởng, thậm

chí bị khinh rẻ, giảm thiểu sự tôn trọng của mọi ngƣời xung quanh; đồng thời chính

Page 145: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

140

họ sẽ là tác nhân làm cho phụ nữ vốn dễ bị phân biệt đối xử càng trở nên bị phân biệt

đối xử nhiều hơn trong xã hội, kéo lùi sự nghiệp bình đẳng giới mà cả nhân loại trong

đó Việt Nam đang phấn đấu qua nhiều thế kỷ.

B n là, phụ nữ phải biết chủ động đấu tranh cho quyền lợi của bản thân, tự

tin vào năng lực, khả năng của chính mình; biết vƣợt lên chính mình để xóa bỏ

suy nghĩ “tự ti”, “an bài của số phận”. Đây là quan điểm mà Hồ Chí Minh đã nêu

ra trong việc đấu tranh giành quyền bình đẳng nam nữ, Ngƣời từng khẳng định:

“Bản thân phụ nữ thì phải đấu tranh tự cƣờng, tự lập để giữa lấy quyền lợi của

mình” [106, tr.524]. Ngày nay, phụ nữ cần có thái độ tự tin trong mọi hoàn cảnh

từ gia đình tới nơi làm việc. Để làm đƣợc điều này, một mặt Đảng và Nhà nƣớc

cần tuyên truyền, giáo dục để phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng tự nhận thấy

khả năng của mình. Mặt khác, cần tạo điều kiện cho phụ nữ có cơ hội học tập, bồi

dƣỡng kiến thức; đặc biệt là đƣợc tham gia vào các phong trào thực tiễn bởi chỉ

thông qua hoạt động, phong trào thực tiễn, phụ nữ mới có điều kiện phát huy đƣợc

vai trò to lớn của mình, thể hiện năng lực, trình độ bản thân, trƣởng thành, tiến bộ

hơn. Thực tiễn chính là môi trƣờng đào luyện tốt nhất, rèn luyện và thử thách tốt

nhất đối với mỗi cá nhân trong đó có phụ nữ, giúp ngƣời phụ nữ hiện thực hóa

ƣớc mơ, thúc đẩy sự phát triển của chính mình, của giới mình, của ngành và rộng

hơn là sự phát triển chung của đất nƣớc. Có nhƣ vậy, phụ nữ mới đủ bản lĩnh và

có công cụ lý luận sắc bén để đấu tranh cho quyền lợi của mình. Đồng thời, bản

thân mỗi phụ nữ phải chủ động lên tiếng về sự giúp đỡ của nam giới trong gia

đình để chia sẻ trách nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, xã hội đƣợc

phân công.

Cùng với sự nỗ lực không ngừng của nữ giới, sự tham gia của nam giới góp

phần lớn cho sự thành công trong việc thực hiện bình đẳng giới bởi bình đẳng giới

không thể đạt đƣợc trừ khi nam giới và trẻ em trai cảm thấy đƣợc thuyết phục về tầm

quan trọng của các cơ hội bình đẳng cho nữ giới và trẻ em gái. Do đó, cần không

ngừng nâng cao trách nhiệm của nam giới trong thực hiện bình đẳng giới. Nội dung

Page 146: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

141

này đã đƣợc Hồ Chí Minh đề cập ngay từ sớm, Ngƣời luôn hƣớng tới việc xóa bỏ định

kiến, nâng cao ý thức và trách nhiệm của nam giới trong thực hiện bình đẳng nam nữ.

Để tăng cƣờng sự tham gia của nam giới trong thực hiện bình đẳng giới

trong thời gian tới cần thực hiện một số biện pháp sau:

Mộ , tăng cƣờng sự chia sẻ trách nhiệm của nam giới trong gia đình.

Nam giới cần tích cực chia sẻ với nữ giới trong các công việc gia đình nhƣ

chăm sóc con cái, chăm sóc ngƣời già, ngƣời ốm đau, cùng sắp xếp cuộc

sống gia đình…Bởi gia đình là tế bào của xã hội, là môi trƣờng đầu tiên giáo dục

con ngƣời, giúp con ngƣời hình thành thói quen, nếp nghĩ, nhân cách, thông qua

gia đình, mỗi cá nhân tiếp xúc với nền văn hóa xã hội. Vì vậy, nếu trong gia đình

ngƣời chồng thực sự chia sẻ trách nhiệm với ngƣời vợ, thực sự tôn trọng vợ sẽ là

tấm gƣơng tốt trong nhận thức và hành động của con trẻ, thế hệ thực hiện bình

đẳng giới trong tƣơng lai. Khi nam giới chia sẻ trách nhiệm với nữ giới trong gia

đình sẽ tạo đƣợc sự đồng thuận, gia đình hạnh phúc là nền tảng cho xã hội phát

triển, dân chủ và bình đẳng. Đồng thời, khi nam giới chia sẻ trách nhiệm với nữ

giới ngay từ trong gia đình sẽ tạo điều kiện cho sự vƣơn lên của phụ nữ bình

đẳng với nam giới trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế tới

chính trị, văn hóa… Ngƣời phụ nữ cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc khẳng định

vai trò, vị thế của mình trong đời sống gia đình và xã hội, góp phần tích cực vào

thực hiện bình đẳng giới và xây dựng gia đình hạnh phúc, tạo tế bào lành mạnh

cho xã hội phát triển, đây cũng chính là mong muốn, là định hƣớng của Hồ Chí

Minh lúc sinh thời.

Hai là, thu hút nam giới tham gia vào các chƣơng trình về giới. Thực tế,

nhiều năm qua, bình đẳng giới đƣợc sự quan tâm đặc biệt của quốc tế với các công

ƣớc, chƣơng trình hành động chung (công ƣớc CEDAW, Chƣơng trình hành động

Bắc Kinh…); các chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới, chƣơng trình hành động…

tuy nhiên, tình trạng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra ở mọi lĩnh vực từ kinh tế tới chính

trị, văn hóa, xã hội. Một trong những nguyên nhân dẫn tới hạn chế đó chính là việc

nam giới ít tham gia trong các chƣơng trình về giới.

Page 147: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

142

Thực tế cho thấy ngay tại các cuộc họp về giới cấp quốc gia và cả quốc tế -

từ Hội nghị Bắc Kinh cho tới hội nghị của Liên Hợp Quốc - đại đa số ngƣời tham

gia là phụ nữ... Nhƣ vậy, vô hình chung, chúng ta đang vận động cho những vấn

đề cần phải thay đổi, nhƣng lại không thu hút những ngƣời có quyền lực để thay

đổi những điều cần đƣợc thay đổi, do đó, không thể đạt đƣợc sự thay đổi mà

chúng ta muốn. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần thu hút nam giới vào quá trình lập

chính sách, thực hiện chính sách, và hoạt động về bình đẳng giới. Chỉ khi có sự

tham gia tích cực của nam giới hoạt động bình đẳng giới mới nhanh đạt đƣợc hiệu

quả một cách tối đa.

4.3.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ và huy động nguồn lực cho

các hoạt động bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ

Cùng với việc phát huy nội lực, trong xây dựng phát triển đất nƣớc nói

chung, vấn đề bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ nói riêng, cần tranh thủ sức

mạnh ngoại lực nhằm phát huy tốt nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại

theo quan điểm Hồ Chí Minh.

Xu hƣớng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội phát

triển, giúp Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng với các quốc gia trong khu

vực và trên thế giới. Trong giai đoạn vừa qua, hoạt động bình đẳng giới và tiến bộ

của phụ nữ ở Việt Nam đã nhận đƣợc sự quan tâm hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.

Bên cạnh các đối tác truyền thống nhƣ các tổ chức của Liên hợp quốc thì chúng ta đã

mở rộng quan hệ hợp tác với các nƣớc nhƣ Nauy, Hàn Quốc, Nhật Bản… và các tổ

chức phi chính phủ quốc tế nhƣ Pyd, ActionAid, Plan, Oxfam…. Việc tăng cƣờng

hợp tác quốc tế giúp các cơ quan, tổ chức vừa huy động thêm nguồn lực vừa đƣợc

nâng cao năng lực. Các chƣơng trình hợp tác tập trung vào các hoạt động nhƣ truyền

thông về giới, bình đẳng giới, tập huấn cho các nữ ứng cử viên đại biểu Quốc hội,

Hội đồng nhân dân các cấp, tập huấn cán bộ nguồn về giới, phòng, chống bạo lực

trên cơ sở giới, bạo lực gia đình...

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện bình đẳng giới đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nƣớc, theo chúng tôi cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế cả song

Page 148: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

143

phƣơng và đa phƣơng nhằm học tập, chia sẻ kinh nghiệm và vận động nguồn lực hỗ

trợ thực hiện bình đẳng giới. Cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và tổ

chức phi Chính phủ để tạo thêm nguồn lực cho thực hiện bình đẳng giới, bởi các tổ

chức quốc tế và tổ chức phi Chính phủ có vai trò quan trọng trong: Cung cấp phƣơng

pháp tiếp cận đối với việc giải quyết vấn đề bình đẳng giới; phân tích chính sách và

cung cấp bằng chứng cho việc xây dựng và thực thi chính sách về bình đẳng giới;

tăng cƣờng đối thoại chính sách với các cơ quan nhà nƣớc và hệ thống chính trị của

Việt Nam; hỗ trợ nâng cao nhận thức và năng lực thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở

Việt Nam; hỗ trợ nguồn lực cho việc thực hiện các chƣơng trình, dự án về bình đẳng

giới ở Việt Nam.

Thực tế cho thấy, những thành tựu của Việt Nam hôm nay về việc thực

hiện bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ không thể thiếu sự hỗ trợ, đóng góp

hiệu quả của các tổ chức quốc tế và tổ chức phi Chính phủ trong suốt mấy thập kỷ

qua, kể từ khi có chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế. Trong khi các nguồn kinh

phí hỗ trợ mang lại sự thay đổi về cuộc sống của ngƣời dân, nhất là phụ nữ ở nông

thôn, ngƣời nghèo, ngƣời dân tộc thiểu số thì các hỗ trợ kỹ thuật và phƣơng pháp giải

quyết vấn đề từ kinh nghiệm của quốc tế lại mang lại tƣ duy mới và cách tiếp cận mới

đối với vấn đề có thể là không mới. Đây chính là những điều quý giá mà chúng ta học

đƣợc từ các tổ chức quốc tế. Trong bối cảnh Việt Nam đã là nƣớc đạt mức thu nhập

trung bình thấp, các nguồn viện trợ đang giảm sút qua từng năm, thì các kinh nghiệm

về cách thức giải quyết vấn đề sẽ vẫn là những bài học quý để Việt Nam tự quyết

định giải quyết các vấn đề của đất nƣớc bằng chính nguồn lực của mình.

Tiểu kết chương 4

Cùng với việc giải quyết những vấn đề đặt ra, việc thực hiện bình đẳng

giới ở Việt Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh chịu tác động bởi nhiều

nhân tố mới: Đó là sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ,

kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bên cạnh đó,

tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, đặt ra những thách thức mới trong

Page 149: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

144

việc thực hiện bình đẳng giới. Đồng thời, công cuộc đổi mới đất nƣớc theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam ngày càng phát triển, nhƣng còn gặp nhiều

khó khăn, thách thức.

Để giải quyết những vấn đề đặt ra và đáp ứng tốt yêu cầu mới, trong vận

dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới cần

quán triệt những quan điểm: Thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

phải gắn liền với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc; gắn với chiến

lƣợc quốc gia về bình đẳng giới; với mục tiêu nâng cao vị thế, năng lực cho phụ

nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Đồng thời thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh phải trên cơ sở phối hợp tổng thể sức mạnh của các cấp ủy Đảng,

chính quyền, các tổ chức đoàn thể và bản thân ngƣời phụ nữ. Bên cạnh đó, chúng

ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhƣ: Nâng cao nhận thức của toàn xã hội

về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp

luật về bình đẳng giới, tạo cơ sở thực hiện có hiệu quả bình đẳng giới theo tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; Tăng cƣờng vai trò,

trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về thực hiện bình đẳng giới theo

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; Phát huy vai trò nỗ lực vƣơn lên của nữ giới, nâng cao

trách nhiệm của nam giới trong thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ và huy động nguồn lực cho

các hoạt động bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.

Việc nắm vững những quan điểm và thực hiện đồng bộ những giải pháp

trên sẽ là cơ sở, nền tảng quan trọng đƣa sự nghiệp bình đẳng giới ở Việt Nam đạt

đƣợc hiệu quả tích cực. Tiếp tục thực hiện thành công những mục tiêu thiên niên

kỷ và Chƣơng trình nghị sự 2030.

Page 150: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

145

KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh là một trong số ít ngƣời Việt Nam đã đề cập sớm nhất và đầy

đủ nhất về bình đẳng nam nữ và chính Ngƣời đã suốt đời đấu tranh cho việc thực

hiện quyền con ngƣời trong đó có quyền bình đẳng nam nữ. Tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về bình đẳng nam nữ là sự thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc nhằm giải phóng

toàn diện con ngƣời, giải phóng ngƣời phụ nữ.

Xuất phát từ việc nhìn nhận, đánh giá đúng vị trí, vai trò của phụ nữ, bình

đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh đã chủ trƣơng giải phóng phụ nữ khỏi những bất công

của xã hội, thực hiện bình đẳng nam nữ trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống từ

kinh tế tới chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình đồng thời đƣa ra những điều kiện,

giải pháp để thực hiện nhằm đạt đƣợc các mục tiêu đó. Dƣới sự chỉ đạo trực tiếp

của Ngƣời, cùng với dân tộc, phụ nữ đƣợc giải phóng, thoát khỏi ách áp bức, bất

công, những trói buộc bởi hủ tục và quan niệm phong kiến nặng nề để bƣớc lên

địa vị làm chủ đất nƣớc, làm chủ bản thân, đƣợc bình đẳng với nam giới trên mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nhìn nhận một cách tổng quan tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ

trong bối cảnh lịch sử thế kỷ XX và hiện thực xã hội đƣơng thời chúng ta càng

thấy sự đúng đắn, sáng tạo của Ngƣời, thấy rõ những giá tr thờ ại và ă

sâu sắc của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ. Tƣ tƣởng đó thể hiện rõ

tầm nhìn chiến lƣợc của vị lãnh tụ luôn hết lòng vì nƣớc, vì dân. Ngƣời đƣa ra

quan điểm nam nữ bình quyền từ đầu thập niên 30 (1930) và phải tới cuối thập

niên 70 của thế kỷ XX (1979), quan điểm này mới đƣợc thể hiện trong công ƣớc

quốc tế, Công ƣớc CEDAW của Liên hợp quốc.

Quán triệt quan điểm lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

làm nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hoạt động. Việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đã đạt

đƣợc những thành tựu quan trọng trong cả đƣờng lối chính sách, pháp luật và

thực tiễn đời sống. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế đặt ra những vấn đề

Page 151: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

146

cần giải quyết. Đồng thời, tác động của tình hình thế giới và trong nƣớc đặt ra yêu

cầu mới cần tiếp tục thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ

Chí Minh về bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để trên tinh thần sáng tạo

hƣớng tới sự bình đẳng giữa nam giới và nữ giới một cách thực chất, đáp ứng yêu

cầu phát triển đất nƣớc.

Mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nƣớc hiện nay nhằm hƣớng tới xây dựng

một nƣớc Việt Nam dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực hiện bình đẳng giới trên nền tảng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh sẽ góp phần tạo sự

công bằng, bình đẳng, đồng thời tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Do vậy,

việc tiếp tục nhận thức đầy đủ, toàn diện và vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam có ý nghĩa lý

luận và thực tiễn cấp bách.

Trong thời gian tới chúng ta cần quán triệt quan điểm thực hiện bình đẳng

giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh phải gắn liền với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã

hội của đất nƣớc; với chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới; với mục tiêu nâng

cao vị thế, năng lực cho phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Đồng thời thực hiện

bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở phối hợp tổng thể sức

mạnh của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và bản thân ngƣời

phụ nữ. Và thực hiện đồng bộ các giải pháp nhƣ: Nâng cao nhận thức của toàn xã

hội về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; Tiếp tục hoàn thiện chính sách,

pháp luật về bình đẳng giới, tạo cơ sở thực hiện có hiệu quả bình đẳng giới theo tƣ

tƣởng Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; Tăng cƣờng vai trò,

trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về thực hiện bình đẳng giới theo

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; Phát huy vai trò nỗ lực vƣơn lên của nữ giới, nâng cao

trách nhiệm của nam giới trong thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí

Minh. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ và huy động nguồn lực cho

các hoạt động bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.

Page 152: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

147

Mặc dù thực tiễn hiện nay đã có nhiều đổi thay so với trƣớc, song có thể

khẳng định rằng việc thực hiện bình đẳng giới theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vẫn là

việc làm cần thiết. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vẫn nguyên giá

trị, đóng vai trò định hƣớng cho tƣ duy và hoạt động chính trị của Đảng, Nhà nƣớc

và nhân dân Việt Nam. Tƣ tƣởng của Ngƣời để lại cho chúng ta những bài học quí

giá đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nƣớc trong giai đoạn hiện nay.

Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh bình

đẳng nam nữ, luận án đã phân tích, giải quyết những vấn đề thực tiễn thực hiện

bình đẳng giới ở nƣớc ta hiện nay trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ

đó đƣa ra những nhận xét, đánh giá, những quan điểm và giải pháp mang tính định

hƣớng để giải quyết tốt hơn vấn đề bình đẳng giới ở nƣớc ta hiện nay. Tuy

nhiên, do những lý do chủ quan và khách quan, ở những góc độ nhất định, có

thể đề tài chƣa giải quyết đầy đủ, sâu sắc tất cả các góc cạnh của một vấn đề

phức tạp cả về lý luận và thực tiễn mang tính liên ngành cao. Tác giả đề tài sẽ

tiếp tục nghiên cứu sâu hơn trong những công trình tiếp theo để phục vụ cho

việc nghiên cứu và giảng dạy tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.

Page 153: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

IÊN QU N ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thị Huyền (2017), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ nữ

trong sự nghiệp cách mạng”, Tạp chí Khoa học chính tr (2), tr.18-23

2. Trần Thị Huyền (2017), “Thực hiện bình đẳng giới về chính trị ở Việt

Nam hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí L ch sử Đ ng (5), tr.15-19

3. Trần Thị Huyền (2017) (viết chung), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền

của phụ nữ”, Tạp chí Nhân quyền (5), tr.3-5

4. Trần Thị Huyền (2017), “Giá trị nhân văn trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

về bình đẳng nam nữ”, Tạp chí Nghiên c u H Chí Minh, (2), tr.28-32

Page 154: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Minh Anh (2013), Vai trò của cán bộ ã ạo, qu n lý cấp ơ ở

trong vi c th c hi n mục tiêu b ẳng giới ở Vi t Nam, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

2. Phạm Minh Anh (2015), “Cán bộ quản lý cấp cơ sở trong thực hiện mục tiêu

bình đẳng giới”, Tạp chí Tuyên giáo, (3).

3. Phạm Ngọc Anh (2003), ởng H Chí Minh về quyề ời và v n

dụng nó ở ớ ều ki n hi n nay, Đề tài khoa học cấp bộ,

Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

4. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (1996), Phụ nữ giới và phát triển, Nxb

Phụ nữ, Hà Nội.

5. Trần Thị Vân Anh (1998), Giới và b ẳng giới (tập bài giảng), Viện Chủ

nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

6. Trần Thị Vân Anh (2003), “Bình đẳng giới: một số vấn đề lý luận”, Tạp chí

Khoa học về phụ nữ, (3)

7. Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (chủ biên) (2007), B ẳng giới ở

Vi t Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Ban Luật pháp chính sách Trung ƣơng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và

Công ty Tƣ vấn đầu tƣ y tế thực hiện (2007), Một s thu t ngữ về giới

và b ẳng giới, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

9. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2016), Báo cáo s 32/BC-BLĐ BXH

ngày 20/5/2016 về vi ơ 5 ă c hi n chi c qu c gia về

bình ẳng giới ạn 2011 - 2020, Hà Nội.

10. Báo Nhân dân, thứ 7, ngày 4-3-2017.

11. Nguyễn Thị Báo (2003), “Quyền bình đẳng của phụ nữ trong sự nghiệp và

cuộc sống gia đình”, Tạp chí Lý lu n chính tr , (10).

12. Nguyễn Thị Báo (chủ biên) (2016), B m quyền của phụ nữ ở Vi t Nam

hi n nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

13. Nguyễn Khánh Bật (2000), “Những quan điểm cơ bản về giải phóng phụ nữ trong

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, ạp N ý (3).

Page 155: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

150

14. Chính phủ (2009), Báo cáo s 63/BC-CP ngày 08/05/2009 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới, Hà Nội.

15. Chính phủ (2009), Ngh quy t s 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 về vi c

ban hành các gi p p m b o b ẳng giới, Hà Nội.

16. Chính phủ (2009), Ngh quy t s 57/2009/NQ-CP 1/12/2009 ơ

ộng của Chính phủ ạ ă 2020 c hi n Ngh

quy t s 11-NQ/ W 27 4 ă 2007 ủa Bộ Chính tr về

công tác phụ nữ thời kỳ ẩy mạnh công nghi p hi ạ ấ ớc,

Hà Nội.

17. Chính phủ (2010), Báo cáo s 36/BC-CP ngày 20/4/2010 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới ă 2009 Hà Nội.

18. Chính phủ (2010), Báo cáo qu c gia 15 ă c hi C ơ ĩ

ộng Bắc Kinh vì s ti n bộ của phụ nữ và b ẳng giới, Hà Nội

19. Chính phủ (2011), Báo cáo s 23/BC-CP ngày 09/3/2011 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới ă 2010, Hà Nội.

20. Chính phủ (2012), Báo cáo qu c gia l n 7 và l n th 8 tình hình th c hi n

CEDAW ạn 2004-2010 của Chính phủ Vi t Nam gửi Ủy ban

CEDAW ă 2012 ( C ă 6637/VPCP-KGVX ngày 28/8/2012

củ Vă p ò C p ủ về vi c Phó Thủ ớng Nguyễn Thi n Nhân phê

duy t Báo cáo qu c gia l n th 7 và l n th 8…), Hà Nội.

21. Chính phủ (2012), Báo cáo s 61/BC-CP ngày 06/4/2012 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới nă 2011, Hà Nội.

22. Chính phủ (2013), Báo cáo s 106/BC-CP ngày 24/4/2013 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới ă 2012, Hà Nội.

23. Chính phủ (2014), Báo cáo s 146/BC-CP ngày 14/4/2014 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới ă 2013, Hà Nội.

24. Chính phủ (2014), Rà soát và kiể ể 20 ă c hi C ơ ĩ

ộng Bắc Kinh và k t qu của phiên họp ặc bi t l n th 24 Đại

hộ ng Liên h p qu c, Hà Nội.

Page 156: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

151

25. Chính phủ (2015), Báo cáo s 157/BC-CP ngày 9/4/2015 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới ă 2014, Hà Nội.

26. Chính phủ (2015), Báo cáo qu 20 ă c hi C ơ ĩ hành

ộng Bắc Kinh vì s ti n bộ của phụ nữ và b ẳng giới, Hà Nội.

27. Chính phủ (2017), Báo cáo s 79/BC-CP ngày 10/3/2017 vi c th c hi n

các mục tiêu qu c gia về b ẳng giới ă 2016, Hà Nội.

28. Chính sách ch ộ i vớ ộng nữ (1977), Nxb Phụ nữ, Hà Nội

29. Chủ t ch H Chí Minh anh hùng gi i phóng dân tộ ă ớn,

(1995), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN

WOMEN) - Vụ Bình đẳng giới của Bộ LĐ-TB&XH (2016), Th c tiễn và

s li u về phụ nữ và nam giới tại Vi t Nam 2010 - 2015, Hà Nội.

31. E.Côbêlép (1985), Đ ng chí H Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

32. Công ƣớc Liên hợp quốc (1997), Xóa bỏ mọi hình th c phân bi i xử

với phụ nữ (CEDAW), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

33. Lƣơng Phan Cừ (chủ biên) (2009), Giới và l ng ghép giới với hoạ ộng

của Qu c hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Thị Kim Dung (2001), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc đào tạo

bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ nữ”, Tạp chí L ch sử Đ ng, (11).

35. Nguyễn Thị Kim Dung (2007), “Tăng cƣờng bình đẳng giới và nâng cao vị

thế, năng lực cho phụ nữ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”, Kỷ y u Hội th o

Vi t Nam học, tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

36. Nguyễn Thị Kim Dung (2011), H Chí Minh với cuộ ấu tranh về quyền

b ẳng của phụ nữ, Nxb Dân trí, Hà Nội.

37. Nguyễn Thị Kim Dung (2013), “Hồ Chí Minh với cuộc đấu tranh về quyền

bình đẳng và sự tiến bộ của phụ nữ”, Đặc san H Chí Minh học, (4).

38. Vũ Thị Duyên (2012) “Hồ Chí Minh bàn về vị trí, vai trò của phụ nữ trong

tiến trình lịch sử dân tộc” Tạp chí L ch sử Đ ng, (6).

39. Đại hội đồng Phụ nữ (2001), B ẳng giới, phát triển và hòa bình cho th

kỷ 21 và thành t u của các qu c gia trên th giới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

Page 157: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

152

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Vă Đại hộ ại biểu toàn qu c l n

th X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Ngh quy t s 11-NQ/TW ngày 27/4 của

Bộ Chính tr về công tác phụ nữ thời kỳ ẩy mạnh công nghi p hóa,

hi n ạ ấ ớc, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Vă Đại hộ ại biểu toàn qu c l n

th XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Vă Đại hộ ại biểu toàn qu c l n

th XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Phạm Hoàng Điệp (chủ biên) (2008), Chủ t ch H Chí Minh với s ti n bộ

của phụ nữ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

45. Trần Thị Minh Đức (2006), Đ p b ử ớ : ý

ễ , Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

46. Trần Hàn Giang (2003), “Lịch sử phát triển của lý thuyết nữ quyền và lý

thuyết giới”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ (6), tr.10.

47. Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I thuộc Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), “Vấn đề giới và bình đẳng giới ở

Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới”, ề, số 4 (20).

48. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu quyền

con ngƣời (1999), ởng H Chí Minh về quyề ời, Đề tài

tiềm lực, Hà Nội.

49. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), ởng H Chí Minh –

giá tr ă p ển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

50. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012), Vă n Đại hội ại biểu phụ nữ

toàn qu c l n th XI, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam online.

51. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Báo cáo chính tr Đại hội

Đại biểu Phụ nữ Toàn qu c l n th XII, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam

online.

Page 158: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

153

52. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), L ch sử Hội Liên hi p phụ nữ Vi t

Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

53. H Chủ t ch với vấ ề gi i phóng phụ nữ (1997), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

54. Nguyễn Ngọc Hà (2004), “Một số luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về giải

phóng phụ nữ”, Tạp chí L ch sử Đ ng.

55. Nguyễn Thị Vân Hạnh (2015), “Sự tham gia của phụ nữ vào hệ thống

chính trị ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý lu n chính tr , (10).

56. Ninh Thị Hồng Hạnh, V n dụ ởng H Chí Minh về gi i phóng phụ

nữ vào vi c phòng, ch ng bạo l i với phụ nữ ở Vi t Nam

hi n nay, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

57. Nguyễn Đức Hạt (chủ biên) (2007), N ă ã ạo của cán bộ

nữ trong h th ng chính tr , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Nguyễn Thị Hiên, Lê Ngọc Hùng (2004), N ă c phát triển bền

vững b ẳng giới và gi m nghèo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

59. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2010), “Hồ Chí Minh với cuộc đấu tranh về quyền

trẻ em, bình đẳng và sự tiến bộ phụ nữ”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc

tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh Di s n H Chí Minh

trong thờ ại ngày nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

60. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995),

Từ ển bách khoa Vi t Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển bách

khoa Việt Nam, Hà Nội

61. Trịnh Thị Hồng (2005), “Việt Nam với vấn đề bình đẳng giới”, Tạp chí

Toàn c nh s ki n - d n, (183).

62. Lê Thị Bích Hồng (2005), “Phụ nữ trong bối cảnh bình đẳng giới”, Tạp chí

ở ă (5).

63. Lê Thị Hồng, (2014), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ

nữ”, n tử ờ Đại học Lu t Thành ph H Chí Minh.

64. Nguyễn Văn Huê (2006), “Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ qua các

bản Hiến pháp Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp lu t, (3).

Page 159: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

154

65. Trần Thị Huệ (2006), “Công ƣớc Cedaw và vấn đề bình đẳng giới trong bộ

luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp lu t, (10).

66. Trần Thị Huyền (2008), “Hồ Chí Minh với vấn đề bình đẳng giới”, Tạp chí

G ẻ em, kỳ 1, (3).

67. Trần Đình Huỳnh (1/1/2004), “Hồ Chí Minh – cảm xúc trên quê hƣơng của

Nữ Thần Tự do”, báo S c khỏ ời s ng, Hà Nội.

68. Jean Cazennenva (2000) M ời khái ni m lớn của xã hội học, (Sông Hƣơng

dịch), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

69. Jean Munro (2012), L ng ghép giớ ơ ng dạy, Hà Nội.

70. Jean Sainteny (1970), F H C M (Đ i di n H Chí Minh),

Éditions Seghers, Paris.

71. Trần Thị Quốc Khánh (2006), “Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, lao

động, xã hội", Tạp L ộng và xã hội, (282).

72. Trần Thị Quốc Khánh (2012), Th c hi n pháp lu t về b ẳng giới ở

Vi t Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

73. Hà Thị Khiết (2006), “Quan tâm hơn nữa việc thực hiện bình đẳng giới,

tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia các hoạt động quản lý Nhà nƣớc, xã

hội”, Tạp chí Xây d Đ ng, (5).

74. Vũ Khiêu (2013), H Chí Minh ngôi sao sáng mãi trên b u trời Vi t Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên c u phụ nữ, giớ Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

76. Nguyễn Linh Khiếu (2007), “Nghiên cứu về giới ở Việt Nam - quá trình và

xu hƣớng”, Tạp chí Cộng s n, (3).

77. Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch (chủ biên) (2007), Những vấ ề giới: từ

l ch sử n hi ại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

78. Phan Thanh Khôi (2016), “Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về giải phóng

phụ nữ đến tinh thần bình đẳng giới trong Văn kiện Đại hội XII”, Tạp

chí Thông tin Khoa học chính tr , (5).

Page 160: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

155

79. Bùi Thị Ngọc Lan (2015), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của phụ nữ

và nữ trí thức trong cách mạng Việt Nam”, ạp L ử Đ (9)

80. V.I. Lênin (1977), Toàn t p, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

81. Lênin với vấ ề gi i phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

82. Liên Hợp quốc (2009), Báo cáo Phát triể ời.

83. Đặng Thị Lƣơng (1993), H Chí Minh với s nghi p gi i phóng phụ nữ

trong cách mạng Vi t Nam, Luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

84. Đặng Thị Lƣơng (1994), "Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ",

Tạp chí L ch sử Đ ng, (5).

85. Lê Quốc Lý, Nguyễn Thị Nga (2012), Công nghi p hóa, hi ại hóa,

dân chủ hóa với b ẳng giới ở Vi t Nam hi n nay, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

86. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn t p, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

87. C.Mác, Ph.Ăngghen (2006), Tuyển t p, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995),Toàn t p, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Dƣơng Thanh Mai (chủ biên) (2004), C ớc của Liên h p qu c và

pháp lu t Vi t Nam về xóa bỏ phân bi i xử với phụ nữ, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

90. Võ Thị Mai (2012), Đ b ẳng giới d a trên bằng

ch ng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Nguyễn Thị Mão (1996), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và

xây dựng đội ngũ cán bộ”, Tạp chí Xây d Đ ng, (10).

92. Nguyễn Thị Mão (1996), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ”,

Tạp chí Nghiên c u lý lu n.

93. Dƣơng Thị Minh (2008), “Vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam giai đoạn

hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý lu n, (6).

94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 161: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

156

96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Hồ Chí Minh (2011), Toàn t p, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Furuta Matoo (1997): H Chí Minh gi i phóng dân tộ ổi mới, Nxb

chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Lƣơng Hoàng Nga (2012), Phát triể ộ ũ ữ cán bộ qu n lý các

ờ Đại học Y Vi N ểm b ẳng giới, Luận án

tiến sỹ Quản lý giáo dục, Trƣờng Đại học Giáo dục, Hà Nội.

111. Việt Nga (8/12/2014), "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới", Tạp

Vă ể thao du l ch online

112. Ngân hàng quốc tế về Tái thiết và Phát triển Ngân hàng thế giới (2013),

Báo cáo phát triển th giớ ă 2012 ề “b ẳng giới”

113. Ngân hàng Thế giới (2011), Đ G ới tại Vi t Nam, Hà Nội.

114. Hồ Thị Hồng Nhung (2006), “Bình đẳng giới trong lao động việc làm”,

Báo Hội Liên hi p phụ nữ Vi N n tử, (3).

115. Bùi Đình Phong (2014), H Chí Minh với vấ ề gi i phóng phụ nữ, trang

online Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội.

Page 162: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

157

116. Trƣơng Thị Phúc (2006), ởng H Chí Minh về quyề b ẳng của phụ

nữ với vi c th c hi n trong thời kỳ ổi mới, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

117. Nguyễn Nam Phƣơng (2006), B ẳng giới ộng và vi c làm

với ti n trình hội nh p ở Vi N : Cơ ội và thách th c (sách chuyên

khảo), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

118. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Hi n pháp

ớc cộng hòa xã hội chủ ĩ V N ă 1946 1959 1980

1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Lu t Hôn

G Hà Nội.

120. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Lu t Bình

ẳng giới, Hà Nội

121. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Lu t Phòng,

ch ng bạo l Hà Nội

122. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hi n pháp

2013, Hà Nội

123. Trần Thị Quế (chủ biên) (1999), Những khái ni ơ b n về giới và vấn

ề giới ở Vi t Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

124. Lê Thị Quý (1998), “Bất bình đẳng nan nữ nhìn từ góc độ lịch sử”, Tạp

chí khoa học về phụ nữ, 32 (2), tr.36-40

125. Lê Thị Quý (2010), Giáo trình xã hội học giới, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

126. Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2013), Nghiên c u tại Vi N ă 2013.

127. Nhƣ Quỳnh, Lê Minh Cầm và Minh Hiền (2009), Bác H với s ti n bộ

của phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

128. Rea Abada Chiongson (2009), CEDAW và pháp lu t: Nghiên c u rà soát

ă b n pháp lu t Vi N ơ ở quyền và giớ ă

CEDAW/; Dịch: Lê Thành Long (ch.b.)...; Vũ Ngọc Bình h.đ.. -, Hà

Nội, Quỹ Phát triển phụ nữ Liên Hợp quốc.

Page 163: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

158

129. Trần Thị Rồi (2010): Quyề b ẳng nam nữ trong hoạ ộ ã ạo

qu ý N ớc ở Vi t Nam qua ti n trình phát triển của l ch sử, Nxb

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

130. Singô Sibata (1992), "Hồ Chí Minh - nhà tƣ tƣởng", trong cuốn Giá tr

ởng H Chí Minh trong thờ ại ngày nay, Trƣờng Đại học sƣ phạm

Hà Nội và Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội.

131. Thái Sơn (2005), “Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ”, ạp

Cộ , (5).

132. Tạp chí Xây d Đ ng, số 10/2013.

133. Đỗ Thị Thạch (1995), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ:

nguồn gốc và giá trị hiện thực”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (4).

134. Đỗ Thị Thạch (2003), “Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ ở Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Lý lu n chính tr , (8).

135. Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy ngu n l c trí th c nữ Vi t Nam trong s

nghi p công nghi p hóa, hi ại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

136. Phan Thị Thanh (2001), Ti n bộ về b ẳng giới trong công vi c ở Vi t

Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

137. Song Thành (1997), Một s vấ ề về p ơ p p p ơ p p

nghiên c u về H Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

138. Song Thành (2005), H C M ởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội.

139. Vũ Thị Thành (2011), “Bình đẳng giới ở Việt Nam qua các chỉ số trong

báo cáo phát triển con ngƣời”, Tạp chí Nghiên c ời (5).

140. Lê Thi (1990), Chủ t ch H C M ờ p ụ nữ Vi t Nam

ớ b ẳng, t do, phát triển, Nxb Khoa học, Hà Nội.

141. Lê Thi (1999), Phụ nữ và b ẳng giới ổi mới ở Vi t Nam, Nxb

Phụ nữ, Hà Nội.

142. Lê Thi (2000), “Phụ nữ Việt Nam bƣớc vào thế kỷ XXI”, Tạp chí Cộng

s n, 20 (10), tr.38-41.

Page 164: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

159

143. Lê Thi (2008), “Quyền tự do, trách nhiệm ngƣời phụ nữ trong việc sinh

con và vấn đề bình đẳng giới trong gia đình”, Tạp chí Nghiên c u gia

ới, (4).

144. Chu Thị Thoa (2002), Th c hi n b ẳng giới ở nông

ng bằng sông H ng hi n nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

145. Dƣơng Thoa (1976), Ba cuộc cách mạng với vấ ề gi i phóng phụ nữ,

Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

146. Thủ tƣớng Chính phủ (2010), Quy nh s 2351/QĐ-TTg ngày 24 tháng

12 ă 2010, Phê duy t Chi c qu c gia về b ẳng giới giai

ạn 2011 - 2020, Hà Nội.

147. Thủ tƣớng Chính phủ (2011), Quy nh s 1241/QĐ-TTg ngày 22 tháng

7 ă 2011, Phê duy C ơ c gia về b ẳng giới giai

ạn 2011 - 2015, Hà Nội.

148. Thủ tƣớng Chính phủ (2012), Quy nh s 629/QĐ-TTg ngày 29/5/2012,

phê duy t Chi c phát triể V N ă 2020 m

nhìn 2030, Hà Nội.

149. Thủ tƣớng Chính phủ (2014), Quy 215/QĐ- c phê duy t

ngày 6/02/2014, Phê duy t C ơ ộng qu c gia phòng,

ch ng bạo l ă 2020, Hà Nội.

150. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Quy nh s :1696/QĐ-TTg ngày 2 tháng

10 ă 2015, Phê duy C ơ ộng qu c gia về bình

ẳng giới ạn 2016-2020, Hà Nội.

151. Lê Văn Tích (2010), H Chí Minh với cuộ ấu tranh vì hòa bình và ti n

bộ của nhân loại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

152. Tổng cục Thống kê (2010), Nghiên c u qu c gia về bạo l i

với phụ nữ ở Vi t Nam, Hà Nội.

153. Đài Trang (2010), H Chí Minh tâm và tài của mộ ớc, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154. Đài Trang (2013), H C M ă p ển, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

Page 165: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

160

155. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Uỷ ban Quốc gia

UNESCO của Việt Nam (1995), Chủ t ch H Chí Minh - anh hùng gi i

phóng dân tộc-N ă ớn, NXB KHXH, Hà Nội.

156. Trung tâm Nghiên cứu khoa học về phụ nữ (Viện Khoa học xã hội Việt

Nam), Bảo tàng Phụ nữ (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) (1990), Bác

H với s nghi p gi i phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

157. Trung tâm Nghiên cứu khoa học lao động (1998), Quyề ộng nữ Vi t

Nam trong thời kỳ ổi mới, Hà Nội.

158. Trung tâm Nghiên cứu quyền con ngƣời - Viện Thông tin khoa học Học viện

(1999), Vì quyền trẻ em và s b ẳng của phụ nữ, Hà Nội

159. Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2008), Khoa học giới -

những vấ ề lý lu n và th c tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

160. Cung Văn Tiến (2001), Từ ển Tri t học, Nxb Văn hóa thông tin , Hà Nội

161. Tuminez, Astrid (2012), V ơ ớ ỉnh cao? Báo cáo về Phụ nữ ã ạo

ở Châu Á.

162. Lã Minh Tuyến (2004), “Bình đẳng giới và những vấn đề đặt ra trong việc

đấu tranh bảo vệ quyền lợi ngƣời phụ nữ”, Tạp chí Giáo dục lý lu n, (7).

163. Đặng Ánh Tuyết (2015), Phụ nữ Vi N ã ạo, qu n lý

công hi n nay, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

164. Đinh Thị Minh Tuyết (2006), “Bình đẳng giới trong thực hiện chính sách

hoá giáo dục - đào tạo”, Tạp chí Qu ý ớc, (129).

165. Lê Thị Nhâm Tuyết (2010), Những hủ tục bấ ò ời phụ nữ

Vi t Nam, Hà Nội17

166. UNDP và Bộ Ngoại giao Việt Nam, Chƣơng trình Lãnh đạo nữ

Cambridge-Việt Nam, Nâ ă ã ạo cho Phụ nữ trong

khu v N ớc trong b i c nh Hội nh p Kinh t qu c t ,

www.eowp.net.

167. Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (2009), Giới và l ng ghép giới với

hoạ ộng của Qu c hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 166: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

161

168. Vấ ề gi i phóng phụ nữ (1967), Nxb Sự thật, Hà Nội.

169. Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

(1998), “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng phụ nữ”, Kỷ y u Hội

th o khoa học, Hà Nội.

170. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên) (1994), Từ ển xã hội học, Nxb Thế giới,

Hà Nội

171. Vụ Bình đẳng giới (2010), “Báo cáo chuyên đề về thực hiện Luật Bình

đẳng giới và kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Vì sự tiến

bộ của phụ nữ các cấp năm 2009”, Tạp chí Cộng s n tử.

172. Trần Đức Vui (2008), “Bất bình đẳng giới trong thu nhập và việc làm:

Thực trạng và giải pháp”, L ộng và Xã hội, (334).

173. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1998), Đại từ ển ti ng Vi t, Nxb Văn hóa –

Thông tin

174. Kim Yến (7/3/2013), Phát huy tinh thần bình đẳng giới của Hồ Chí Minh,

n tử Ban qu ý ă C ủ t ch H Chí Minh.

175. http://dangcongsan.vn/tu lieu-vankien/van kien dang/Văn kiện Bộ

Chính trị - Ban Bí thƣ/Thông báo/Thông báo số 196-TB/TW, ngày

16/3/2015 về kết luận của Ban Bí thƣ về Đề án “ ă ờng s lãnh

ạo củ Đ i với công tác BD giới và vì s ti n bộ của phụ nữ

trong tình hình mớ ”, đăng tải ngày 25-9-2015

176. http://infonet.vn/viet-nam-xep-thu-54190-quoc-gia-ve-ti-le-phu-nu-

tham-gia-quoc-hoi-post191974.info

177. https://vietnam.oxfam.org/press_release/oxfam-công-bố-báo-cáo-về-

bất-bình-đẳng-tại-việt-nam-và-khởi-động-chiến-dịch-thu-hẹp

178. www.vn.undp.org/.../vietnam/.../30282_Factsheet_Women_Political_Repr

esentation_in Vietnam

Page 167: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

PHỤ LỤC

Page 168: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

XẾP HẠNG TOÀN CẦU NĂM 2015

VIỆT N M XẾP THỨ 83/145

Eco.: 41; Edu.: 114; Health: 139; Pol.: 88

N : WEF (D ễ 2015)

Page 169: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

XẾP HẠNG TRONG KHU VỰC CHÂU Á – THÁI BÌNH DƢƠNG:

VIỆT NAM ĐỨNG THỨ 9/25 QUỐC GIA

N : WEF (D ễ 2015)

Page 170: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

10 NƯỚC ĐỨNG ĐẦU VỀ KHOẢNG CÁCH GIỚI THẤP NHẤT Chủ yếu là các nƣớc Bắc Âu;

01 nƣớc châu Á: Philippine (7)

01 nƣớc châu Phi: Rwanda (6)

N : WEF (D ễ 2015)

Page 171: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các

XẾP HẠNG TOÀN CẦU NĂM 2016

N : WEF (D ễ 2016)

Page 172: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH - hcma.vn · thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu đánh giá chung của Đảng, Nhà 4 nƣớc, các