hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh nguyỄn thỊ thu … _ nguyen thi thu... ·...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM
ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM
ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN AN NINH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Huyền
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 5
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu ở trong nước 5
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về lợi ích nhóm ở nước ngoài 22
1.3. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu và những nội dung
mới mà luận án thực hiện 31
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM VÀ LỢI
ÍCH NHÓM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM 34
2.1. Khái niệm, cách phân loại và vai trò của lợi ích 34
2.2. Một số vấn đề lý luận về lợi ích nhóm 39
2.3. Lợi ích nhóm trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 68
Chương 3: NHẬN DIỆN LỢI ÍCH NHÓM Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG
ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 78
3.1. Nhận diện lợi ích nhóm ở Việt Nam 78
3.2. Ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay 86
3.3. Ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay 99
3.4. Một số vấn đề đặt ra 113
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH
HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LỢI
ÍCH NHÓM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 122
4.1. Phương hướng phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay 122
4.2. Giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay 131
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng rõ hơn trên những
nét cơ bản trong sự nghiệp đổi mới. Tuy vậy vẫn còn nhiều điều cần làm sáng tỏ,
mà một trong số đó là vấn đề lợi ích. Trước đây, tư duy giáo điều thường nhấn
mạnh một cách cực đoan lợi ích xã hội mà xem nhẹ lợi ích của cá nhân, lợi ích
của từng bộ phận. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, quan niệm đó đã được điều
chỉnh và thực tế đã xác nhận những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử ở lĩnh
vực này. Tuy vậy, cho đến nay, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội vẫn là một bài toán khó. Bởi từ sau thời kỳ đổi mới, lại xuất hiện tình trạng
lợi ích cá nhân bị đẩy lên đến mức biến thành chủ nghĩa cá nhân, vì lợi ích riêng
mà sẵn sàng đi ngược lại với lợi ích chung, lợi ích xã hội. Vấn đề là làm thế nào
để lợi ích cá nhân thực sự là một động lực phát triển của đất nước. Giải quyết
vấn đề này là một trong những mục tiêu trong chính sách của Đảng và Nhà nước
ta. Lãnh đạo phải tính đến các nhu cầu và lợi ích, điều chỉnh chúng, thông qua
chúng để tạo nên tính tích cực hoạt động sáng tạo của quần chúng tự giác tham
gia vào quá trình đổi mới xã hội.
Đặt ra điều này vì trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
sự xuất hiện của lợi ích nhóm đang trở thành một yếu tố tác động cả thuận chiều
và nghịch chiều đến chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, lợi ích nhóm là sự phản ánh lợi
ích chung của nhiều chủ thể đang có nhu cầu tìm kiếm những phương tiện, điều
kiện thực hiện những lợi ích riêng (cá nhân) nhất định. Lợi ích nhóm có cả tác
động tích cực và tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước. Lợi ích nhóm tiêu cực là lợi ích của một cộng đồng, có tổ chức hoặc tự phát
của những người có cùng chung một số mục đích, cùng chung lợi ích; họ tìm mọi
cách tác động đến cơ quan, người có quyền theo hướng có lợi cho nhóm của mình.
Mục đích riêng mà họ đạt được thường xâm hại tới lợi ích chung của toàn xã hội.
2
Nó là các hình thức hối lộ như “chạy” dự án, “chạy” vốn, “chạy” chức quyền và
thậm chí “chạy” cả chính sách vì các lợi ích cục bộ, địa phương... Nguy hại hơn,
lợi ích nhóm đã có những biểu hiện vi phạm lợi ích của xã hội: sử dụng bừa bãi và
tham nhũng tiền vay của quốc gia (ODA) và của nhân dân (công trái) trong các
công trình lớn; làm tha hóa cán bộ, gây mất lòng tin của nhân dân; và làm tăng
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Những năm gần đây, lợi ích nhóm càng
ngày càng gia tăng và phát triển sâu rộng, quy mô lớn hơn nhiều. Tác động tiêu
cực của các nhóm lợi ích vào quá trình thực hiện các lợi ích hợp pháp và chính
đáng khác, vào hiệu quả của thực thi chính sách và gần đây, có cả những dấu hiệu
cho thấy, vào cả quá trình hoạch định chính sách... đã được xác nhận là một thực
tế. Đảng ta cũng khẳng định ba cản trở lớn nhất của tái cơ cấu nền kinh tế là lợi
ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, tính cục bộ. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII, vấn đề phòng chống lợi ích nhóm tiêu cực nhằm xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh cũng đã được đặt ra.
Lợi ích nhóm không chỉ có tác động tiêu cực mà vẫn có cả những lợi ích
nhóm phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng, xã hội, chứa đựng nhiều yếu tố tích
cực. Cần nhận thức rằng, các nhóm lợi ích khác nhau là một trong những hệ quả
của đa dạng hóa về lợi ích - một hiện tượng khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Lợi ích nhóm tác động tích cực sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo
môi trường dân chủ, công bằng, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc chấp nhận hoạt động của
các nhóm lợi ích chính đáng và kịp thời ngăn chặn sự lũng đoạn của các nhóm lợi
ích tiêu cực đang hình thành sẽ góp phần để xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Có thể thấy, trên thế giới, vấn đề lợi ích nhóm đã xuất hiện, được nghiên
cứu từ lâu, và lợi ích nhóm thực chất là một hiện tượng khách quan trong bất kỳ
xã hội nào. Nhưng lợi ích nhóm ở Việt Nam có được hiểu như cách mà các nước
có xã hội dân sự ở phương Tây đã xem xét không, những vấn đề đang nảy sinh
3
đặc biệt là về lợi ích nhóm tiêu cực cần phải được đặt trong bối cảnh nước ta
hiện nay nhanh chóng trở thành bức xúc trong thực tiễn và đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu đầy đủ hơn. Trong một vài năm gần đây, những nghiên cứu một cách
có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn về vấn đề này đã xuất hiện
nhiều hơn. Nhưng còn rất ít nghiên cứu nhìn nhận lợi ích nhóm dưới góc độ như
một yếu tố tác động đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Do đó, chúng tôi
cho rằng, chọn đề tài: “Ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học là cần thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích những biểu hiện và đặc điểm của lợi
ích nhóm và những ảnh hưởng của nó đến định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy những mặt tính tích cực và phòng, chống ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, luận án đề ra
những mục tiêu cụ thể sau:
Một là, tổng quan một số công trình liên quan đến vấn đề lợi ích, lợi ích
nhóm và ảnh hưởng của lợi ích nhóm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Hai là, trình bày một số khái niệm công cụ và các vấn đề lý luận chung về
lợi ích; lợi ích nhóm - bao gồm bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích nhóm, lợi
ích nhóm và kinh nghiệm kiểm soát lợi ích nhóm ở một số nước trên thế giới, biểu
hiện của lợi ích nhóm ở Việt Nam; và những vấn đề xoay quanh chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội có mối quan hệ với
lợi ích nhóm.
Ba là, phân tích cả ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Bốn là, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực của lợi ích nhóm và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối
với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: các lợi ích nhóm ảnh hưởng đến chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: luận án dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nguyên lý về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn; trên quan điểm khách quan, biện chứng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp
văn bản học.
5. Về đóng góp của luận án
5.1. Đóng góp lý luận: góp phần hệ thống hóa và đưa ra quan điểm về
nguồn gốc, bản chất, biểu hiện của lợi ích nhóm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
5.2. Đóng góp thực tiễn: chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của
lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Từ đó đưa ra
phương hướng, giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm.
6. Ý nghĩa của luận án
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy, học tập các lĩnh vực liên quan tới lợi ích nhóm và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác quản
lý xã hội, xây dựng pháp luật, nhận định, tổng kết, rút kinh nghiệm ở địa phương
mình trong công tác lãnh đạo, quản lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
Trong thời kỳ đổi mới, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lợi
ích, cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, các công trình về các nhóm xã hội như nhóm
giai cấp, nhóm giới, nhóm tôn giáo, nhóm dân tộc, lợi ích nhóm, ảnh hưởng của
lợi ích nhóm đến các lĩnh vực của xã hội Việt Nam. Luận án phân loại thành các
nhóm sau đây:
1.1.1. Nhóm các công trình về vấn đề lợi ích, nhóm xã hội và lợi ích nhóm
Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn sách Lợi ích động lực phát triển xã hội [65]
đã trình bày thực chất của lợi ích, nhu cầu và quan hệ lợi ích. Tác giả đã vận dụng
các quan điểm lý luận trên vào việc sử dụng vai trò động lực của lợi ích trong sự
phát triển của xã hội ta hiện nay. Trong đó, tác giả cũng nhấn mạnh rằng, để nhận
thức các quy luật đang chi phối sự vận động của một xã hội cụ thể thì trước hết
phải nhận thức được các lợi ích chung nào đang thôi thúc cả cộng đồng hoạt động
nhằm đạt được chúng. Và, điều quan trọng là, phải vạch ra được những lợi ích nào
đang là cấp bách và căn bản nhất trong hệ thống các lợi ích đang chi phối sự hoạt
động của từng cá nhân, của các nhóm xã hội cũng như của cả xã hội trong giai
đoạn lịch sử ấy. Trong nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu sâu lợi ích riêng, lợi ích
chung và mối quan hệ giữa chúng, từ đó khẳng định lợi ích riêng bao giờ cũng là
động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thôi thúc cá nhân hoạt động và là nhân tố
quyết định trước hết. Nó là cơ sở để thực hiện lợi ích chung, ngược lại, lợi ích
chung với ý nghĩa là những lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của
nhiều thành viên hợp thành cộng đồng nên nó lại là điều kiện và đóng vai trò định
hướng cho việc thực hiện lợi ích riêng [65, tr.81-82]. Vì những lý do trên nên chỉ
khi nào tạo lập được mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng thì
mới có thể tạo nên được sự phát triển không những của các cá nhân, mà của cả
cộng đồng. Từ đó một yêu cầu được đặt ra là cần tạo lập một cơ chế kích thích sao
6
cho mỗi cá nhân riêng lẻ, mỗi cộng đồng riêng lẻ khi hoạt động thực hiện các lợi
ích riêng của mình, nhất là những lợi ích riêng được phản ánh trong các lợi ích
chung của xã hội, cũng sẽ đồng thời tạo nên một xu hướng vận động chung của cả
cộng đồng theo hướng chúng ta mong muốn.
Nguyễn Linh Khiếu, Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích [66]. Trong
cuốn sách này, tác giả đưa ra quan điểm của mình: “Lợi ích, xét đến cùng, chính là
phương thức để thực hiện nhu cầu trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong quan hệ
xã hội, trong đấu tranh xã hội” [66, tr.39]. Từ đó, tác giả phân tích mối quan hệ
giữa các lợi ích trong sự phát triển xã hội như: mối quan hệ giữa lợi ích vật chất và
lợi ích tinh thần, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài. Ở đây, luận án có thể kế thừa các quan điểm về mối quan hệ giữa lợi ích riêng
và lợi ích chung để xem xét chúng trong mối quan hệ với lợi ích nhóm. Trong
công trình này, tác giả chỉ ra một số điểm như sau: một là, lợi ích chỉ tồn tại trong
quan hệ xã hội và luôn gắn liền với các chủ thể nhất định; hai là, mối quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng là rất đa dạng, do đó, mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi
ích chung cũng rất đa dạng; ba là, cần tạo ra sự kết hợp thống nhất giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung; bốn là, quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung thực
chất là các quan hệ cơ bản của một cá nhân hay một nhóm xã hội với cả cộng
đồng; năm là, cần tìm hiểu rõ độ gắn kết về lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng
theo các cấp độ quan hệ khác nhau của đời sống xã hội; sáu là, mối quan hệ giữa
lợi ích riêng và lợi ích chung, hay còn gọi là lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển xã hội. Trong phần về “Lợi ích kinh tế và
các xu hướng vận động chủ yếu của xã hội hiện nay”, tác giả phân tích, xem xét
thực trạng kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và các xu hướng vận động của nó. Tác
giả chỉ ra các thành phần kinh tế như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể sẽ phát triển
theo xu hướng mà ta mong muốn - phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
còn kinh tế tư nhân và tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ nhìn chung có xu
hướng vươn tới phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, hai xu hướng vận động chính này là hai lực kéo đưa xã hội ta vận động và
phát triển tiến lên. Mặt khác, chính hai xu hướng này lại vận động theo hướng
7
khác nhau, lấn át, đấu tranh gay gắt nhằm thủ tiêu nhau, tạo nên mâu thuẫn cơ bản
của xã hội ta trong thời kỳ quá độ. Và chính bộ máy nhà nước của dân, do dân và
vì dân cần quản lý, điều khiển để định hướng sự phát triển của các thành phần
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luận án tiến sĩ Hiệu quả chi tiêu ngân sách dưới sự tác động của vấn đề
nhóm lợi ích ở một số nước trên thế giới [17] của Bùi Đại Dũng trình bày cơ sở
lí luận về hiệu quả chi tiêu ngân sách và vấn đề nhóm lợi ích; hiệu quả chi tiêu
ngân sách dưới sự tác động của các nhóm lợi ích; kinh nghiệm xử lí vấn đề nhóm
lợi ích nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách ở nước ngoài và kiến nghị cho
Việt Nam
Đặng Quang Định trong công trình Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân,
nông dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay [34] đã phân tích những lợi ích kinh tế
của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Qua đó chỉ ra sự
thống nhất và những biểu hiện thiếu thống nhất trong lợi ích kinh tế giữa công
nhân, nông dân và trí thức. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp định hướng tăng
cường sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân và trí thức.
Nguyễn Hữu Khiển trong bài viết Nhóm lợi ích và vấn đề chống tham
nhũng [63] trên cơ sở phân tích những đặc điểm của tham nhũng cùng với nhóm
lợi ích, quan hệ giữa hai vấn đề này, cho rằng phải có biện pháp tổng hợp để
chống tham nhũng và chống lợi ích nhóm tiêu cực. Đồng thời, cần phải coi thúc
đẩy hoạt động của các nhóm lợi ích chính đáng và ngăn chặn sự lũng đoạn của các
nhóm lợi ích tiêu cực là cơ sở để phòng và chống tham nhũng có hiệu quả. Tác giả
khẳng định sự xuất hiện của nhóm lợi ích là khách quan, trong đó “kinh tế hàng
hóa là tiền đề khách quan đầu tiên của sự hình thành nhóm lợi ích” [63, tr.58].
Nhóm lợi ích cũng xuất hiện một cách chủ quan: “với sự phát triển của tri thức và
năng lực của con người, nhất là trong đời sống kinh tế và chính trị, việc tự tìm
kiếm đối tác, đồng minh để hình thành các nhóm “mạnh hơn từng cá nhân đơn lẻ”
là một khuynh hướng tất yếu để tồn tại” [63, tr.58]. Khi chế độ dân chủ xuất hiện
trong xã hội tư bản, nhóm lợi ích kinh tế tìm cách tác động đến đời sống chính trị
để tạo ra lợi thế chính trị cho mình. Như vậy, nhóm lợi ích xuất hiện từ nhu cầu
8
của nhóm sản xuất kinh doanh hay nhóm lợi ích chính trị. Sự phân tích của tác giả
là gợi ý cho luận án về nguồn gốc của nhóm lợi ích.
Công trình Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở nước ta hiện
nay [18] của Vũ Dũng trình bày những chính sách của Đảng và Nhà nước về các
nhóm xã hội yếu thế; thực trạng thích ứng xã hội của nhóm người cao tuổi, người
mắc bệnh hiểm nghèo và người khuyết tật, của nhóm trẻ em lang thang cơ nhỡ;
đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm góp phần nâng cao khả năng thích ứng xã hội
của những nhóm này. Cuốn sách cho thấy hình ảnh nhóm yếu thế ở nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc hài hòa giữa yếu tố thị trường và đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa không hề đơn giản. Có những lúc yếu tố thị trường khiến
nhiều người đặt lợi nhuận lên trên hết, chỉ quan tâm đến lợi ích những nhóm ưu
thế trong xã hội mà quên mất lợi ích các nhóm yếu thế, không đảm bảo được tính
nhân văn của chế độ.
Trong cuốn sách Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội [35], của
Đặng Quang Định đã trình bày các quan niệm về lợi ích, phân loại lợi ích, sự hình
thành và vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội. Tác giả cũng phân tích các
quan điểm của các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen về lợi ích và trình bày quan
điểm của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề lợi ích tạo động lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, trong quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và xu hướng biến
đổi của các quan hệ lợi ích ở nước ta trong những năm tới. Luận án có thể tham
khảo được các khái niệm về lợi ích, quan điểm của các nhà kinh điển về lợi ích và
vai trò của nó.
Công trình Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế [111] của Lê Văn Toàn đã phân chia
các nhóm xã hội theo thu nhập (nhóm giàu, nhóm nghèo), theo giới tính (nhóm
nam, nhóm nữ), theo giai tầng (nhóm công nhân, nhóm nông dân, nhóm trí thức,
nhóm doanh nhân…), theo vùng miền (nhóm ở đồng bằng, nhóm ở miền núi),
theo nghề nghiệp, theo lứa tuổi. Dựa vào sự phân tầng xã hội như trên, có thể thấy,
có bao nhiêu nhóm xã hội là có bấy nhiêu nhóm lợi ích.
9
Lê Xuân Thủy trong cuốn sách Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [109] đã nghiên cứu lý luận và
thực tiễn về lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài;
đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm bảo đảm lợi ích của công nhân
trong loại hình doanh nghiệp này, trước tác động của những điều kiện mới ở Việt
Nam hiện nay
Công trình nghiên cứu Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô
thị hoá ở nước ta hiện nay [42] của Đỗ Huy Hà trình bày một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã
hội trong quá trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay; thực trạng và một số giải pháp
cơ bản nhằm giải quyết các quan hệ lợi ích trong quá trình đô thị hoá để tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
Nguyễn Thị Mai Hoa trong công trình Kiểm soát lợi ích nhóm - tiếp cận từ
góc độ giám sát quyền lực nhà nước [53], khi bàn về mối quan hệ giữa quyền lực
nhà nước và lợi ích nhóm, tác giả khẳng định “tiếp cận lợi ích nhóm không thể
tách rời sự tiếp cận chính trị và quyền lực chính trị” [53, tr.68], do đó, để đảm bảo
lợi ích, công bằng xã hội cho số đông, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được
đặt ra từ rất sớm. Việc tập trung và độc quyền quyền lực sẽ sinh ra một số nhóm
lợi ích theo nghĩa nhóm đặc quyền, đặc lợi, có khả năng tác động lớn hoặc trực
tiếp trong quá trình ra quyết sách của chính quyền. Do đó, cần một thể chế chính
trị minh bạch, tiến bộ, có khả năng phân bổ lợi ích thỏa đáng, kích thích khả năng
đóng góp, hạn chế khả năng gây hại của các nhóm lợi ích. Như vậy, để kiểm soát
lợi ích nhóm, ngăn ngừa nhóm lợi ích tiêu cực, cần tập trung vào vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước. Từ đó, tác giả nêu ra một số giải pháp như sau: một là, xây
dựng cơ chế hoạch định chính sách, ra quyết định minh bạch, khoa học [53, tr.71];
hai là, lành mạnh hóa bộ máy công quyền [53, tr.71]; ba là, thiết lập và thực hiện
nghiêm minh chế độ bãi miễn đối với lãnh đạo mất tín nhiệm [53, tr.72]; bốn là,
đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật [53, tr.72]. Bài viết là gợi ý cho luận án
tiếp cận quan hệ giữa lợi ích nhóm với quyền lực nhà nước, từ đó có thể đưa ra
10
những giải pháp hợp lý cho việc phát huy lợi ích nhóm tích cực và hạn chế lợi ích
nhóm tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm lợi ích [54] của
Nguyễn Thị Mai Hoa bàn về mối quan hệ giữa công bằng xã hội và nhóm lợi ích.
Tác giả cho rằng, “một mặt, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhóm lợi ích tác
động tích cực tới đảm bảo công bằng xã hội, tạo các động lực cơ bản thúc đẩy
phát triển xã hội; mặt khác, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các nhóm lợi
ích… là nguy cơ trực tiếp đối với công bằng xã hội, hủy hoại tiến bộ xã hội” [54,
tr.60]. Từ nhận định này, tác giả đưa ra các giải pháp để triệt tiêu “nhóm lợi ích
ngược”: 1/ đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội; 2/ đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
trong đội ngũ cán bộ công quyền; 3/ trung thực và minh bạch hóa thông tin. Bài
viết cung cấp một góc nhìn về ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến một trong những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội - đó là công bằng xã hội.
Nguyễn Ngọc Hà, Trần Thị Bích Huệ trong bài viết Lợi ích nhóm với tính
cách một khái niệm của triết học xã hội [43] trình bày tính tất yếu của lợi ích
nhóm, phân loại lợi ích nhóm, quan hệ giữa lợi ích nhóm với lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội, quan hệ giữa các lợi ích nhóm với nhau, biểu hiện của lợi ích nhóm
trong chính sách của nhà nước.
Nguyễn Hữu Khiển với bài viết Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích dưới dạng
tham nhũng [64] phân biệt lợi ích nhóm và nhóm lợi ích, khẳng định tính khách
quan trong sự hình thành lợi ích nhóm và nhóm lợi ích; bản chất của lợi ích
nhóm và nhóm lợi ích. Từ đó chỉ ra: “lợi ích nhóm dưới hình thức tham nhũng là
loại lợi ích nhóm tiêu cực mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đang quan tâm và
muốn triệt tiêu trong đời sống dân sự cũng như trong hệ thống chính trị của nước
ta” [64, tr.31] cùng với đó là tính chất nguy hiểm bất thường của nó.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của lợi ích nhóm ở
Việt Nam
Bao gồm các công trình về lợi ích nhóm với đảng cầm quyền, với nhà
nước…, lợi ích nhóm trong các lĩnh vực cụ thể trong kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội; lợi ích nhóm tiêu cực và vấn đề tham nhũng… như sau:
11
Phạm Thành Nam, Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy dân chủ trong
đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay [78] khẳng định: nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng tham nhũng, đã được Đảng ta chỉ rõ, là do việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực đời sống xã hội chưa có hiệu quả;
hệ thống chính trị chưa phát huy được vai trò trong việc quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế; cơ chế chính sách, luật pháp chưa hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở. Bằng các
dẫn chứng từ thực tế, từ các nghiên cứu cũng như thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, các tác giả đã phác họa tương đối đầy đủ thực trạng 9 lĩnh
vực tham nhũng, tiêu cực xảy ra chủ yếu ở nước ta trong thời kỳ đổi mới (trong
lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; trong lĩnh vực quản lý tài chính, ngân sách;
trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản; trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng; trong
lĩnh vực quản lý thuế, quản lý thị trường, quản lý hoạt động kinh doanh thương
mại, xuất nhập khẩu; trong lĩnh vực văn hóa, xã hội; trong lĩnh vực hoạt động tư
pháp, trong tham mưu hoạch định chính sách và trong công tác cán bộ). Trong đó,
lĩnh vực thứ chín là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đề tài chính. Đây là một dạng
tham nhũng, tiêu cực “sạch” vì nó không trực tiếp nhũng nhiễu, lấy tiền của dân,
mà thu lợi gián tiếp, “sạch sẽ” thông qua các đối tượng trung gian như cơ quan,
doanh nghiệp, cá nhân hưởng lợi từ sự tham mưu, quyết định của mình. Ở một số
nước trên thế giới, tham nhũng, tiêu cực dạng này được gọi là tham nhũng chính
trị, vì “nó tạo điều kiện cho một nền kinh tế nội tại kết nối những người ủy quyền
và những người đại diện. Những người ủy quyền đứng ra bảo vệ, đưa ra những
quyết định quan trọng và kiểm soát sự tự chuyên quyền, trong khi các đại diện
chính trị hay quan liêu thì trả tiền để nhận được chiến lợi phẩm của mình”. Hành
vi phổ biến của tham nhũng chính trị là “hàng loạt hoạt động chính trị và xây dựng
chính sách, trong đó có hối lộ, gian lận bầu cử, bảo trợ lạm quyền…” [78, tr.99].
Các tác giả đã bước đầu đưa ra được một số bài học kinh nghiệm, một số quan
điểm, nguyên tắc, biện pháp chỉ đạo việc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực
mà bao trùm lên tất cả là đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực phải vì nhân dân,
dựa vào nhân dân, do nhân dân và động viên được đông đảo nhân dân tham gia.
Tham nhũng chính trị có liên quan rất nhiều đến lợi ích nhóm tiêu cực. Vì vậy,
12
cuốn sách cung cấp tư liệu để luận án sử dụng khi bàn về vấn đề tác động của lợi
ích nhóm tiêu cực đến việc hoạch định chính sách.
Nguyễn An Ninh trong công trình Những nhân tố mới tác động đến triển
vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [84] đã dành chương III để trình bày về
những nét mới của các nhân tố chủ quan trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Trong đó khi bàn về sự xuất hiện và tác động tiêu cực của các
nhóm lợi ích tư, tác giả cho rằng, có thể chia ra hai loại nhóm lợi ích: nhóm lợi
ích công, vận động cho một số đông hay toàn xã hội, có nhiều đồng thuận với
mục tiêu chung của đất nước; nhóm lợi ích tư chỉ vận động cho lợi ích cục bộ
của một số thành viên, do đó đôi khi lợi ích của xã hội có thể bị hy sinh. Nhóm
lợi ích tư có thể tác động tiêu cực cho triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, nhưng khả năng điều hòa, kiềm chế của Nhà nước đối với chúng lại vấp
phải hai vật cản là: sự suy thoái trong đạo đức lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và cơ chế quản lý điều hành của Nhà nước còn thiếu khoa
học và còn chịu nhiều ảnh hưởng của những tàn dư cơ chế cũ. Từ đó, tác giả kết
luận “Sự lộ diện và tác hại ngày càng lớn của các nhóm lợi ích tư chính là một
nhân tố mới cùng góp phần tạo nên các nguy cơ quan liêu, tham nhũng và chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu những nhóm lợi ích tư này không được kiềm chế,
hậu quả ghê gớm sẽ là: chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn còn đó nhưng bản chất đã bị
tha hóa, tiêu chí “nhà nước của dân, do dân, vì dân” vẫn được nêu lên nhưng chỉ
còn là hình thức…” [84, tr.203].
Hồ Bá Thâm, Mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm - Thực trạng, xu hướng và
giải pháp [102]. Cuốn sách phân tích những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích nhóm
và nhóm lợi ích trong giai đoạn từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang
nền kinh tế thị trường ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói
chung. Trong quá trình phân tích, các tác giả đã làm rõ quan niệm về lợi ích nhóm,
nhóm lợi ích, chỉ ra thực trạng, nguyên nhân của những mâu thuẫn, xung đột này
và đề xuất giải pháp để hạn chế chúng. Cách hiểu nhóm lợi ích của các tác giả
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam: “Nhóm lợi ích là nhóm có tác động đến chính
quyền nhà nước ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp bằng nhiều cách: 1/ phản biện
13
xã hội, giám sát xã hội, 2/ tác động bằng phản ứng, khiếu kiện để thay đổi chính
sách hay cách giải quyết, 3/ lợi dụng kẽ hở pháp luật, chính sách vận động chính
quyền có lợi cho họ; 4/ vận động cơ quan chính sách để thông qua đề xuất của họ
về chính sách; 5/ thậm chí có trường hợp mua chuộc quan chức nhà nước, cấu kết
kiểu mafia…” [102, tr.49]. Có 2 nhóm lợi ích: nhóm trục lợi và nhóm thiệt hại. Từ
đây, các tác giả phân tích về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với việc hình thành mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa nhóm trục lợi và
nhóm thiệt hại. Kinh tế thị trường, đô thị hóa, công nghiệp hóa và thương mại hóa
đã tác động hình thành nên những mâu thuẫn xung đột lợi ích chung hiện nay.
Ngoài ra, còn do yếu tố chính sách, pháp luật của nhà nước trong các quá trình đó
chưa chuyển đổi kịp thời, còn nhiều bất cập [102, tr.85-87]. Tiếp theo, tác giả
phân tích thực trạng và nguyên nhân mâu thuẫn, xung đột lợi ích trên một số lĩnh
vực như nhà đất, sử dụng lao động doanh nghiệp, giáo dục và y tế ở thành phố Hồ
Chí Minh, trong đó trình bày thực trạng, nguyên nhân và những tác động tiêu cực.
Cuối cùng, tác giả trình bày xu hướng và đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết
mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm hiện nay.
Công trình Tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán
bộ, công chức, viên chức: Kết quả khảo sát xã hội học [103] là kết quả của một
cuộc điều tra xã hội học do Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng thế giới chủ trì
thực hiện. Trong đó, có một con số đáng lưu ý là 50% số doanh nghiệp đồng ý các
nhóm lợi ích ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong hoạt động kinh doanh. Theo
đó, các doanh nghiệp cho rằng, nhóm lợi ích trong lĩnh vực kinh doanh của họ sẽ
giúp đưa những khó khăn trong quá trình kinh doanh đến được với các nhà hoạch
định chính sách; sử dụng nhóm lợi ích để đạt được mục đích;...
Lê Chi trong bài viết Tham nhũng qua “Nhóm thân hữu” [12] đã nêu ra kết
luận của Ủy ban Kinh tế Trung ương rằng, bản chất của mối quan hệ không bình
thường giữa quan chức với doanh nghiệp để trục lợi là một dạng tham nhũng đặc
biệt dẫn đến “lợi ích nhóm”. Nó có thể chi phối cả nền kinh tế, thậm chí là chính
trị. Tác hại của mối quan hệ này sẽ làm cản trở quá trình phát triển kinh tế nhanh
và bền vững vì nó tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, không bình
14
đẳng. Mối quan hệ này sẽ bóp méo các chính sách của Nhà nước thay vì ban hành
để phục vụ đại bộ phận nhân dân thì nó lại quay hướng để phục vụ cho một số ít
doanh nghiệp hình thành và phát triển “lợi ích nhóm”.
Bài viết Tham nhũng gia tăng bởi lợi ích nhóm hoành hành [112] của Vĩnh
Trà khẳng định: cuộc chiến chống tham nhũng và lợi ích nhóm là cuộc chiến
chống “giặc nội xâm” một mất một còn. Những biểu hiện tham nhũng ngày càng
phức tạp và tinh vi vì đối tượng tham nhũng thường là những người có chức, có
quyền, có trình độ, khả năng che giấu hành vi phạm tội. Nhiều trường hợp còn khó
khăn trong việc chứng minh động cơ vụ lợi trong việc cố ý làm trái, thiếu trách
nhiệm. Thậm chí nhiều nơi, người đứng đầu ngành, địa phương chưa thật sự chỉ
đạo chống tham nhũng, xử lý trách nhiệm người đứng đầu chưa nghiêm. Đặc biệt
trách nhiệm giải trình của người có chức vụ, quyền hạn chưa rõ ràng, công khai
minh bạch, ở đơn vị còn hình thức, chiếu lệ, có tính chất đối phó. Trong khi đó, lợi
ích nhóm ngày càng phát triển càng làm cho tham nhũng trở nên trầm trọng. Bài
viết đưa ra giải pháp chống lại nạn tham nhũng và lợi ích nhóm là “minh bạch
thông tin, minh bạch khiếu nại, khiếu kiện của công dân, minh bạch ngân sách, tài
chính, minh bạch mua sắm công, minh bạch, công khai thu nhập của những người
có chức, có quyền”.
Trong Hội thảo “Nhận diện lợi ích nhóm” của Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh [57], các nhà nghiên cứu đã đưa ra quan điểm về bản
chất, tác động của lợi ích nhóm đến xã hội, đất nước và phát triển kinh tế ở Việt
Nam; các dạng thức biểu hiện của lợi ích nhóm và tác hại của chúng; xu hướng
phát triển các dạng lợi ích nhóm ở Việt Nam; nguyên nhân tồn tại các loại lợi ích
nhóm ở Việt Nam hiện nay; lợi ích nhóm và vấn đề suy thoái đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; giải pháp hạn chế tác hại của lợi
ích nhóm trong tổng thể các giải pháp chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên.
Bài viết Lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng ở Việt Nam hiện nay [36] của
Đặng Quang Định trình bày bản chất của tham nhũng và lợi ích nhóm và mối
quan hệ giữa chúng, từ đó khẳng định, tham nhũng có tính chất và biểu hiện ngày
15
càng phức tạp do có sự móc nối, liên kết. Tác giả chỉ ra “biểu hiện cụ thể của lợi
ích nhóm đi liền với tham nhũng là hiện tượng móc nối, liên kết ngầm nhằm thay
đổi chính sách, dự án đầu tư; thực hiện đấu thầu ảo các dự án hoặc chuyển thầu,
chọn nhà đầu tư mới; thay đổi cán bộ quản lý các dự án; liên kết để đẩy giá hàng
hóa, dịch vụ, tăng giá bất hợp lý; thao túng thị trường hàng hóa, tạo khan hiếm
giả; thao túng lãi suất; chạy dự án… Nguy hiểm hơn, những liên kết ngầm có thể
can dự vào quá trình ban hành, hoạch định chính sách, pháp luật nhằm trục lợi cá
nhân hoặc một nhóm nhất định” [36, tr.84]. Ngoài việc có thể tham khảo về biểu
hiện của lợi ích nhóm, luận án còn có thể kế thừa những quan điểm của tác giả bài
viết về hạn chế lợi ích nhóm tiêu cực, nhằm phòng, chống tham nhũng.
Nguyễn Văn Giang trong bài viết Ảnh hưởng của “lợi ích nhóm” đến sự
lãnh đạo của Đảng cầm quyền [41] phân tích “lợi ích nhóm” theo nghĩa tiêu cực.
Theo đó, tác giả cho rằng “Đó là lợi ích của một nhóm người có quyền lực và vị
thế nhất định câu kết với nhau để mưu cầu lợi ích nhưng lợi ích này đi ngược lại
lợi ích quốc gia, ảnh hưởng không tốt đến lợi ích chính đáng của nhân dân” [41,
tr.83]. Tác giả khẳng định lợi ích nhóm ở nước ta có đặc trưng là liên quan đến
những người có chức quyền các cấp, các ngành, làm cản trở quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, làm băng hoại đạo đức của không ít đảng viên có
chức quyền; và đặc biệt đáng lo là đã bắt đầu tác động đến vai trò lãnh đạo của
Đảng. Bài viết chỉ rõ những tác động của lợi ích nhóm tiêu cực đến tất cả các mặt
trong sự lãnh đạo của Đảng như: 1/ tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng và
thực hiện các chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng [41, tr.84]; 2/ tác động
tiêu cực tới quá trình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật [41, tr.84]; 3/
nhóm lợi ích lợi dụng các phương tiện thông tin, tuyên truyền đánh lừa dư luận,
bóp méo, cản trở sự lãnh đạo của Đảng [41, tr.85]; 4/ thao túng công tác tổ chức,
cán bộ [41, tr.85]; 5/ tác động tiêu cực đến thực hiện các nguyên tắc tổ chức, hoạt
động của Đảng [41, tr.85]; 6/ làm biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
[41, tr.85]. Để ngăn ngừa những điều trên, tác giả đưa ra một số giải pháp như
nâng cao nhận thức, phát huy dân chủ, công khai minh bạch… Luận án có thể kế
thừa phần về tác động tiêu cực của lợi ích nhóm đến nhân tố lãnh đạo quá trình
16
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - là Đảng Cộng sản và giải pháp để ngăn
ngừa, phòng chống điều này.
Cao Văn Thống, Đỗ Xuân Tuất, Nhận diện biểu hiện “Lợi ích nhóm” trong
công tác tổ chức, cán bộ và giải pháp khắc phục [107]. Các tác giả trình bày các
biểu hiện của lợi ích nhóm trong các công đoạn hoạt động của công tác tổ chức,
cán bộ như trong việc ban hành, chỉ đạo, thực hiện chủ trương, chính sách về công
tác tổ chức, cán bộ. Bài viết nêu lên cả nguyên nhân khách quan (các quy định của
Đảng, Nhà nước về công tác này chưa đầy đủ) và nguyên nhân chủ quan (sự thoái
hóa đạo đức của một số cán bộ lãnh đạo và một số cán bộ làm công tác tham mưu
về công tác tổ chức, cán bộ). Các tác giả đưa ra giải pháp để khắc phục tình trạng
này. Bài viết cung cấp cho luận án về vấn đề lợi ích nhóm ở một trong số các lĩnh
vực mà nó tồn tại - đó là trong công tác tổ chức, cán bộ.
Hồng Minh trong bài viết Lợi ích nhóm - một dạng tham nhũng đặc biệt
[77] đã chỉ ra một số doanh nhân, doanh nghiệp đã “móc nối với những phần tử
thoái hóa, biến chất trong bộ máy quản lý nhà nước, vì lợi ích cục bộ, lợi ích
nhóm, làm trầm trọng thêm các tiêu cực xã hội”. Sự “móc nối” giữa doanh nhân,
doanh nghiệp với một số công chức là mối quan hệ không bình thường, dựa trên
sự “có đi, có lại” giữa doanh nhân, doanh nghiệp với công chức có vai trò quan
trọng hoặc quyết định về cơ chế quản lý, chính sách tài chính, tiền tệ, đất đai, thủ
tục hành chính (kể cả một số công chức lãnh đạo, quản lý đã nghỉ hưu hoặc
chuyển công tác nhưng còn có thể lợi dụng để trục lợi)… Mối quan hệ không bình
thường giữa một số công chức với doanh nhân, doanh nghiệp đã và đang gây ra
những hệ lụy rất đáng lo ngại trên các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội và cả về chính trị,
an ninh, quốc phòng. Mối quan hệ ấy đã và đang phá vỡ môi trường kinh doanh
lành mạnh, tạo sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, làm nản lòng
những nhà đầu tư (cả trong nước và nước ngoài) làm ăn chân chính. Mối quan hệ
không bình thường như trên làm tha hóa và hư hỏng một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cao cấp. Tình trạng đó đã và
đang làm trầm trọng thêm sự cách biệt bất hợp lý giữa người giầu, người nghèo.
17
Công trình của Lê Hồng Liêm về Nghiên cứu mối quan hệ không bình
thường giữa một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền với các doanh
nghiệp để trục lợi [69] trình bày cơ sở hình thành và tiêu chí xác định các mối
quan hệ không bình thường giữa cán bộ, đảng viên có chức, có quyền với các
doanh nghiệp để trục lợi. Từ đó, nhận diện mối quan hệ không bình thường giữa
cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong các lĩnh vực chuyên trách như: công tác
Đảng, lĩnh vực tài chính, xuất - nhập khẩu, lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Trong
phần này, có thể thấy rất rõ nhóm lợi ích tiêu cực của Việt Nam biểu hiện qua mối
quan hệ không bình thường giữa cán bộ, đảng viên có chức, có quyền với các
doanh nghiệp để trục lợi. Mối quan hệ đó diễn ra dưới một số hình thức như:
nhóm thân hữu, nhóm chung lợi ích, nhóm lợi ích cục bộ… Bàn về nhóm thân
hữu, các tác giả khẳng định “ở Việt Nam các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm
đến nhóm thân hữu trong vận động điều chỉnh chính sách” [69, tr.38], tuy nhiên
cũng chỉ rõ nhóm thân hữu mới manh nha xuất hiện trong đời sống thực tế và
chưa có bằng chứng pháp lý về sự xuất hiện của nhóm này. Với nhóm chung lợi
ích, các doanh nghiệp lớn thiết lập hiệp hội để tìm sức mạnh, ý thức mặt tích cực
của nhóm lợi ích để thiết lập quyền lực của mình, “dựa vào các hiệp hội để thiết
lập quan hệ với cán bộ, đảng viên có chức, có quyền nhằm tranh thủ lợi thế” [69,
tr.40]. Còn nhóm lợi ích cục bộ xuất hiện khá đa dạng ở Việt Nam dưới hình thức
“nhóm cán bộ thoái hóa trong các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước… sử
dụng quyền lực của nhóm để ăn chia với doanh nghiệp” [69, tr.40]. Phần cuối, tác
giả cuốn sách phân tích thực trạng công tác kiểm tra cùng những giải pháp của các
cơ quan, tổ chức về công tác phòng ngừa, xử lí các mối quan hệ không bình
thường nêu trên. Cuốn sách cũng đưa ra kinh nghiệm của một số nước như
Xingapo, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số doanh nghiệp trên thế giới về hạn chế
mối quan hệ không bình thường này. Cuốn sách là tài liệu để tác giả luận án tham
khảo một khía cạnh biểu hiện của lợi ích nhóm tiêu cực, các quan điểm và giải
pháp nhằm hạn chế chúng.
Tập thể các tác giả trong công trình Lợi ích nhóm - thực trạng và giải pháp
[73] của Lê Quốc Lý khi bàn về khái niệm và nội hàm của lợi ích nhóm, đưa ra 2
18
quan niệm: lợi ích nhóm theo nghĩa thông thường bao gồm cả 2 mặt tích cực và
tiêu cực. Trong đó, lợi ích nhóm mà Văn kiện đại hội đảng đề cập đến là lợi ích
nhóm mang hàm nghĩa không thuận. Khẳng định sự tồn tại của nhóm lợi ích là tự
nhiên, khách quan, nhưng các tác giả của công trình này nhấn mạnh đến lợi ích
nhóm tiêu cực. Trong bản chất và tác động của lợi ích nhóm, các tác giả phân chia
thành bản chất và tác động của lợi ích nhóm trong nền kinh tế thị trường hiện đại
ở các nước phát triển, trong kinh tế thị trường ở các nước đang phát triển và ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũ, hiện nay đã chuyển sang kinh tế thị trường. Về nhận
diện lợi ích nhóm ở nước ta, các tác giả chỉ ra lợi ích nhóm trong các lĩnh vực: đất
đai, ngân hàng, xăng dầu…, từ đó nêu đặc điểm và sự tác hại của các nhóm lợi ích
này. Cuốn sách cũng trình bày về cách hiểu cũng như giải quyết vấn đề về nhóm
lợi ích ở Mỹ và một số nước phương Tây, coi đó cũng là một gợi ý cho Việt Nam
trong việc kiểm soát nhóm lợi ích.
Đề tài khoa học cấp bộ Lợi ích nhóm và tham nhũng trong hoạch định
chính sách ở Việt Nam hiện nay [49] do Trần Thị Hằng làm chủ nhiệm phân tích
thực trạng lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng trong hoạch định chính sách ở Việt
Nam hiện nay, trong đó trình bày những tác động tiêu cực của lợi ích nhóm và
tham nhũng đến quá trình hoạch định chính sách trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa - xã hội. Tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân và những vấn đề đặt ra, từ
đó xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát lợi ích nhóm, đấu tranh phòng, chống
tham nhũng trong hoạch định chính sách ở Việt Nam hiện nay.
Vũ Ngọc Hoàng, “Lợi ích nhóm” và “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” - cảnh
báo nguy cơ [56]. Khẳng định lợi ích nhóm có cả tác động tích cực, tuy nhiên bài
viết xem xét tác động tiêu cực của lợi ích nhóm. Tác giả chỉ ra hàng loạt các tác
động tiêu cực của lợi ích nhóm đến sự phát triển của đất nước như làm kìm hãm
sự phát triển của nền kinh tế; gây ra suy đồi về văn hóa, đạo đức xã hội; làm mất
niềm tin của nhân dân đối với đảng và nhà nước; làm tha hóa đội ngũ cán bộ.
Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến hậu quả mà lợi ích nhóm gây ra là “nhất
định sẽ chệch hướng khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với
chủ nghĩa tư bản hiện đại), đất nước đi theo một con đường khác, sang “chủ nghĩa
19
tư bản thân hữu”, đó là con đường không có tiền đồ và rất nguy hiểm, không có tự
do và dân chủ (vì bị “nhóm lợi ích” độc quyền về kinh tế và chính trị thâu tóm,
lũng đoạn), để lại hậu quả lâu dài mà dân tộc phải gánh chịu”. Trong đó, “Chủ
nghĩa tư bản thân hữu” còn có các cách gọi khác nhau, là “chủ nghĩa tư bản lợi
ích”, “chủ nghĩa tư bản bè phái”, “chủ nghĩa tư bản bè cánh”, “chủ nghĩa tư bản
lũng đoạn”... “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” không phải là một giai đoạn của chủ
nghĩa tư bản, mà là một hiện tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa của chủ nghĩa
tư bản. Đây là loại hình “phát triển” mà trong đó các doanh nghiệp dựa vào ưu thế
về mối quan hệ với những người có quyền lực để tạo ra nguồn thu tài chính cho cá
nhân và đơn vị mình. Bài viết này rất gần với hướng đi của luận án khi bàn về sự
chệch hướng xã hội chủ nghĩa do lợi ích nhóm tiêu cực gây nên.
Hoàng Văn Luân trong công trình Nhóm lợi ích và xung đột lợi ích trong
phát triển [72] đã phân tích hàng loạt vấn đề về nhóm lợi ích như lịch sử nhóm lợi
ích, hoạt động của nhóm lợi ích, cơ chế và chiến lược hoạt động của nhóm lợi ích,
bối cảnh hoạt động và cơ chế tương tác giữa nhóm lợi ích và các cơ quan quyền lực,
vai trò của nhóm lợi ích, một số vấn đề về nhóm lợi ích ở Việt Nam… Từ đó các
tác giả nghiên cứu vấn đề xung đột lợi ích và quản trị xung đột lợi ích ở Việt Nam.
Cuốn sách Thực trạng xu hướng và giải pháp phòng, chống “lợi ích nhóm”
ở nước ta hiện nay [105] của Ngô Văn Thạo và các cộng sự. Công trình này đã
trình bày một số vấn đề lý luận về “lợi ích nhóm” ở nước ta hiện nay, bao gồm
khái niệm, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
đảng về lợi ích, lợi ích nhóm và ảnh hưởng của lợi ích nhóm đối với sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của nhà nước; một số biểu hiện của lợi ích nhóm trong xã hội.
Từ đó, các tác giả chỉ ra tác hại của “lợi ích nhóm” đối với kinh tế, chính trị và
văn hóa - xã hội; những yếu tố tác động đến sự phát triển của “lợi ích nhóm”; kinh
nghiệm xử lý vấn đề “lợi ích nhóm” ở một số nước. Trên cơ sở những vấn đề lý
luận đó, công trình phân tích thực trạng của lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay.
Các tác giả chỉ ra đặc điểm “lợi ích nhóm” ở Việt Nam, đó là: “lợi ích nhóm” nằm
trong các cơ quan quyền lực, các nhóm lợi ích tư hình thành khá phổ biến với
nhiều hình thức khác nhau, có sự thông đồng giữa một số quan chức với doanh
20
nghiệp để vụ lợi. Biểu hiện của lợi ích nhóm diễn ra trên một số lĩnh vực quản lý
nhà nước như trong quản lý và sử dụng đất đai, trong đầu tư công, trong khai thác
tài nguyên, khoáng sản, trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Thực trạng của biểu
hiện “lợi ích nhóm” cũng diễn ra trong công tác xây dựng Đảng. Từ đó, các tác giả
chỉ ra nguyên nhân sự hình thành và phát triển của “lợi ích nhóm” và dự báo xu
hướng phát triển của nó. Công trình cũng đưa ra mục tiêu, yêu cầu và giải pháp
phòng, chống “lợi ích nhóm”.
Luận án tiến sĩ Mâu thuẫn lợi ích giữa các nhóm xã hội trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay [59] của tác giả Trần Thị Bích
Huệ. Luận án trình bày thực trạng mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, bao gồm mâu
thuẫn về lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, giữa người bị thu hồi
đất với chính quyền và nhà đầu tư; giữa người giàu và người nghèo; giữa người
cung cấp dịch vụ giáo dục và người tiếp nhận dịch vụ giáo dục. Từ đó chỉ ra những
nguyên nhân của mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội như do mặt trái của
kinh tế thị trường; một số chính sách của nhà nước còn bất cập, công tác quản lý
nhà nước còn yếu kém; sự yếu kém của tổ chức chính trị; sự sai lầm của các nhóm
xã hội trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn xã hội. Từ đó, tác giả đưa ra
những giải pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay gồm: tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khắc phục một số bất
cập về cơ chế, chính sách về đất đai, doanh nghiệp, giáo dục và xóa đói giảm
nghèo; kiện toàn và nâng cao phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, đội
ngũ cán bộ; nâng cao nhận thức của xã hội, các cấp lãnh đạo và các chủ thể của
các nhóm xã hội trong việc giải quyết mâu thuẫn xã hội về lợi ích.
Bài viết của Nguyễn Thị Lan Hương Sự tác động của nhóm lợi ích đến thực
hiện công bằng xã hội [61] đối với các thành phần kinh tế phân tích sự chi phối
của nhóm lợi ích đến thực hiện công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế
biểu hiện trong các lĩnh vực như đất đai, tài chính, tiền tệ, đầu tư… Từ những
phân tích đó, bài viết cũng chỉ ra một số nguyên nhân của tình trạng đó đồng thời
21
gợi ý một số giải pháp nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ sự chi phối của nhóm lợi
ích đến việc thực hiện công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế.
Bài viết Tác động của nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay [47] của Lương
Đình Hải cho rằng, trong giai đoạn nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, lợi
ích nhóm không được thừa nhận, không có điều kiện để tồn tại hoặc để gây ảnh
hưởng, không có tiền đề, điều kiện để thực hiện lợi ích của nhóm mình. Khi
nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường với nền kinh tế nhiều thành
phần, sự phân hóa xã hội tăng lên, dẫn đến hình thành nhiều nhóm lợi ích. Các
nhóm này có thể được pháp luật thừa nhận, cũng có thể là chưa được thừa nhận,
có nhóm hoạt động ngầm, phi pháp và bị xã hội lên án. Bài viết phân tích 2
phương thức mà nhóm lợi ích sử dụng để gây ảnh hưởng đến việc xây dựng,
thực thi, điều hành, quản lý các chính sách kinh tế - xã hội ở nước ta là phương
thức kinh tế và phương thức chính trị. Tuy khẳng định cả mặt tích cực và tiêu
cực của lợi ích nhóm nhưng tác giả chủ yếu tập trung phân tích về lợi ích nhóm
tiêu cực ở nước ta.
Bài viết Nhận diện “lợi ích nhóm” trong việc ban hành và tổ chức thực
hiện Nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội và giải pháp khắc phục
[108] của Cao Văn Thống cung cấp cho luận án một chi tiết cụ thể về sự ảnh
hưởng của lợi ích nhóm trong lĩnh vực chính trị. Trong đó, tác giả khẳng định: “lợi
ích nhóm có trong tất cả các công đoạn, các khâu, các bước trong quy trình ra nghị
quyết về phát triển kinh tế - xã hội, từ khâu đề xuất ý tưởng đến ra chủ trương,
quyết sách (ban hành nghị quyết, chỉ thị, kết luận…)” [108, tr.50]. Còn trong thực
hiện các nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, lợi ích nhóm thể hiện
ở chỗ “tranh thủ các bộ, ngành Trung ương về cơ chế, chính sách vĩ mô về đất đai,
quy hoạch, về huy động vốn, về chính sách ưu đãi thuế, thu hút kêu gọi đầu tư”
[108, tr.51], “tìm mọi cách lách luật, ban hành và tổ chức thực hiện những chủ
trương, chính sách không đúng với cơ chế, chính sách, quy định chung của Trung
ương” [108, tr.51]. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp để chủ động ngăn ngừa,
ngăn chặn lợi ích nhóm trong ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết của
Đảng về phát triển kinh tế - xã hội.
22
Công trình Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay [44] của
Nguyễn Ngọc Hà là một phần trong kết quả nghiên cứu đề tài cấp nhà nước của
tác giả. Cuốn sách bao gồm công trình nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học, đã
trình bày đặc điểm của lợi ích nhóm và nhóm lợi ích; tác động của lợi ích nhóm và
nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay và cả giải pháp phòng chống lợi ích nhóm tiêu
cực. Đây đều là những tư liệu cần thiết cho luận án. Trong đó có những vấn đề
luận án có thể tiếp thu mà cuốn sách đã phân tích như tác động của lợi ích nhóm
tiêu cực: 1/ là lực cản lớn trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước, làm méo mó chính sách, làm suy yếu chính quyền,
gây mất bình đẳng, công bằng xã hội; 2/ đe dọa đến sự phát triển lành mạnh của
nền kinh tế, gây thiệt hại lớn đối với tài sản của nhà nước, xã hội, tập thể và công
dân, xâm phạm quyền và lợi ích của công dân; 3/ làm tha hóa đội ngũ cán bộ,
công chức, đảo lộn những chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội; 4/ làm xói mòn lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, gây mất ổn
định chính trị, ảnh hưởng đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đe dọa sự
tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Hay các bài “Vai trò của nhân dân trong
việc đấu tranh phòng chống lợi ích nhóm”, “Để giảm thiểu tác động tiêu cực của
nhóm lợi ích đối với sự phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay” trong công trình
khẳng định vai trò của nhân dân và nhà nước trong phòng chống lợi ích nhóm tiêu
cực - là một phần trong giải pháp mà luận án đưa ra.
1.2. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LỢI ÍCH NHÓM Ở
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI CỦA CÁC TÁC GIẢ TRONG NƯỚC VÀ
NƯỚC NGOÀI
Nhóm lợi ích, lợi ích nhóm đã được nghiên cứu khá lâu và phong phú ở
nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ và các nước phương Tây. Chủ đề nghiên cứu cũng
khá phong phú và đa dạng, với các công trình về vai trò của lợi ích nhóm với việc
hoạch định chính sách, lợi ích nhóm với hoạt động của các đảng chính trị; những
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của lợi ích nhóm như nền dân chủ, hệ thống luật
pháp… Hiện nay, các công trình liên quan đến lợi ích nhóm được nghiên cứu,
23
khảo sát tỉ mỉ tại từng khu vực, với nhiều vấn đề. Trong đó, chúng tôi có tiếp cận
được một số công trình của các tác giả cả trong nước và nước ngoài viết về lợi ích
nhóm ở các nước trên thế giới như:
1.2.1. Công trình của các tác giả trong nước
Trương Thị Hồng Hà, Pháp luật về vận động hành lang của một số nước
trên thế giới và một vài gợi ý đối với Việt Nam [46]. Tác giả tóm tắt những luật về
vận động hành lang ở Mỹ và Canada, từ đó đưa ra những gợi ý cho Việt Nam về
vấn đề này nhằm “đổi mới nhận thức từ các nhà lãnh đạo đến mọi công dân, mọi
tầng lớp và các nhóm lợi ích…” để đem lại lợi ích hợp pháp cho các đối tượng và
cộng đồng như: ban hành luật vận động hành lang, tăng cường hoạt động giáo dục
ý thức pháp luật cho nhân dân về vận động hành lang để xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh…; đấu tranh loại bỏ các hình thức vận động hành lang
nhằm mục đích thu lợi bất chính; tăng cường thanh, kiểm tra, giám sát đối với
quan chức Chính phủ và Quốc hội khi tham gia các hoạt động vận động hành lang.
Trần Bách Hiếu trong bài viết Vận động hành lang trong nền chính trị Mỹ
và một số liên hệ tới Việt Nam [51] nêu khái quát những vấn đề liên quan đến vận
động hành lang trong nền chính trị nước Mỹ, trong đó đề cập đến mối quan hệ
giữa vận động hành lang và nhóm lợi ích: “lobby được hiểu là sự vận động của
các nghị sĩ, dân biểu trong Quốc hội Mỹ ở cả Thượng viện và Hạ viện để họ đưa
ra hay ủng hộ các đạo luật, các nghị quyết, các quyết định mang tính chính sách có
lợi cho các nhóm lợi ích khác nhau” [51, tr.55] hay nói cách khác là “Tại Mỹ, quá
trình xây dựng các chính sách và pháp luật chịu ảnh hưởng khá mạnh từ hoạt động
vận động hành lang mà những người thực hiện hoạt động này là các nhóm lợi ích”
[51, tr.56]. Do đó, nước Mỹ vừa phải thừa nhận tính đa dạng về lợi ích, vừa phải
ngăn ngừa các nhóm lợi ích này thông qua hoạt động vận động hành lang để lũng
đoạn chính sách. Một mặt, Mỹ tạo ra hàng loạt luật bảo vệ hệ thống chính trị và
các đảng phái khỏi ảnh hưởng lobby về tài chính, mặt khác, họ thừa nhận và luật
hóa các nhóm lợi ích, các công ty vận động hành lang. Từ những mặt tích cực và
tiêu cực trong hoạt động lobby của các nhóm lợi ích ở Mỹ, tác giả đưa ra những
gợi ý cho Việt Nam. Tuy ở Việt Nam, lợi ích là thống nhất nên việc lobby trong
24
lập pháp thực chất không tồn tại. Tuy nhiên, hoạt động lobby trong kinh tế có rất
nhiều lợi ích to lớn. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu nó để vận dụng vào Việt
Nam là hết sức cần thiết.
Nguyễn Anh Hùng, Tìm hiểu các nhóm lợi ích ở Mỹ [60]. Bài viết tóm tắt
nguồn gốc và lịch sử các nhóm lợi ích Mỹ, bắt đầu từ thói quen gia nhập nhóm,
hội, đoàn hoặc một tổ chức nghiệp dư nào đó do những người thân quen khởi
xướng. Sau đó, các nhóm này dần trở nên có hệ thống, có khuynh hướng bày tỏ,
tác động đến giới chức về vấn đề mà họ quan tâm và mong muốn. Qua quá trình
phát triển, đến những năm 1830, nhiều nhóm đã bắt đầu tham gia vận động tranh
cử nghị sĩ, tổng thống hoặc ủng hộ hội viên tham gia vào các đảng phái chính trị…
để làm lợi cho nhóm mình. Cụm từ “lợi ích nhóm” chính thức xuất hiện. Bài viết
cho biết những cách phân loại nhóm lợi ích ở Mỹ, phổ biến nhất là theo 2 cách:
theo tính chất thành viên có nhóm nguyên thủy, nhóm mục tiêu, nhóm chính trị và
các nhóm lợi ích khác; theo mục tiêu có nhóm kinh tế, nhóm lý tưởng, nhóm quốc
gia, nhóm cơ quan chính quyền, các nhóm lợi ích khác. Ở phần thứ ba, tác giả chỉ
ra sự tác động chính trị của các nhóm lợi ích Mỹ. Các nhóm lợi ích Mỹ sử dụng
công cụ tác động là tài chính, số đông lực lượng thành viên, kiến thức chuyên môn
và các công cụ khác như biểu tình, đình công, bạo động…; phương thức tác động
là tác động trực tiếp tới bộ phận hoạch định chính sách, tác động bằng vận động
hành lang, tác động qua sự công khai và phương tiện truyền thông, tác động bằng
các ủy ban hành động chính trị, tác động bằng gây rối và bạo loạn. Bài viết cho
một cái nhìn tổng thể về nhóm lợi ích Mỹ - là nơi xuất hiện khái niệm lợi ích
nhóm. Điều đó giúp tác giả luận án có thêm một góc nhìn về vấn đề này một cách
khách quan và có tương quan so sánh giữa lợi ích nhóm theo quan niệm phương
Tây và vấn đề lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay.
Lưu Văn An trong công trình Vận động hành lang trong đời sống chính trị
các nước phương Tây [1] định nghĩa “Vận động hành lang là quá trình tác động
của chủ thể lên đối tượng có quyền lực nhằm đạt tới các quyết định có lợi cho
mình. Đó là những hoạt động có tính hệ thống nhằm tiếp cận, cung cấp thông tin,
gây ảnh hưởng, thuyết phục các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình
25
hoạch định và thực thi chính sách, vì lợi ích của cộng đồng, nhóm lợi ích hoặc của
cá nhân” [1, tr.11]. Một trong những chủ thể của vận động hành lang là lợi ích
nhóm. Trong đời sống chính trị phương Tây, vận động hành lang là phương thức
giúp truyền tải quan điểm của nhóm lợi ích đến các cơ quan công quyền. Nó giúp
các nhóm lợi ích liên kết với nhau, hình thành những lực lượng quan trọng trong
đời sống chính trị. Cũng nhờ vận động hành lang mà trong các hoạt động của cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, trong hoạt động của các đảng
chính trị hay trong chính hoạt động chính trị của công dân, các nhóm lợi ích sẽ
góp phần tham gia vào quá trình hình thành, bổ sung các dự luật; việc thực hiện
chính sách dễ dàng hơn, cung cấp thông tin cho quá trình xét xử, gây quỹ trong
quá trình tranh cử… Bên cạnh những giá trị đó, vận động hành lang cũng có
những hạn chế như “vận động hành lang rất tốn kém,… vì vậy chỉ giới chủ giàu
có mới có nhiều khả năng tiến hành vận động hành lang; còn ý kiến, nguyện vọng
của những người dân nghèo yếu thế khó có cơ hội đến với chính quyền và được
thể hiện trong chính sách [1, tr.174]; “là môi trường cho tham nhũng, hối lộ, thúc
đẩy sự tha hóa quan chức” [1, tr.177]; “có thể đưa đến nguy cơ bế tắc trong chính
sách” [1, tr.180]. Từ thực tiễn vận động hành lang ở các nước phương Tây, tác giả
khẳng định cần đẩy mạnh hoạt động vận động hành lang và đưa ra một số kiến
nghị về hoạt động này ở Việt Nam. Bài viết cung cấp cho tác giả luận án một cách
nhìn về vấn đề vận động hành lang - vốn quen thuộc ở các nước phương Tây
nhưng còn mới mẻ ở Việt Nam. Vận động hành lang có quan hệ mật thiết với
nhóm lợi ích. Và với cách hiểu như các nước phương Tây, nó không chỉ có những
điểm tiêu cực (cũng được trình bày trong bài này) mà còn có những yếu tố tích
cực có thể cho Việt Nam học hỏi và nếu nhìn nhận nó một cách nghiêm túc, có thể
giúp kiểm soát lợi ích nhóm tiêu cực.
Bài viết Mối quan hệ giữa Đảng chính trị và nhóm lợi ích trong nền chính
trị Đức hiện đại của Tống Đức Thảo và Phan Duy Anh [104] trình bày lược khảo
lịch sử mối quan hệ giữa đảng chính trị và nhóm lợi ích trong nền chính trị Đức;
nét đặc trưng của mối quan hệ giữa đảng chính trị và nhóm lợi ích, các yếu tố định
hình mối quan hệ giữa đảng chính trị và nhóm lợi ích trong nền chính trị Đức hiện
26
đại. Bài viết khẳng định, “các đảng chính trị có vai trò quan trọng trong xã hội
Đức hiện đại, đặc biệt trong quá trình nắm giữ quyền lực chính trị, hình thành ý
thức chính trị và đại diện ý chí chính trị của dân tộc Đức” [104, tr.101]. Vai trò
của các nhóm lợi ích là “có thể cung cấp cho đảng chính trị những người có
chuyên môn, thông tin về ý kiến và khiếu nại của cử tri, nguồn lực tài chính và
hỗ trợ tổ chức các cuộc bầu cử” [104, tr.102]. Các tác giả chỉ ra đặc trưng nổi bật
của mối quan hệ giữa các đảng chính trị và nhóm lợi ích trong nền chính trị Đức
hiện đại là sự hợp tác thể hiện ở sự kết nối giữa hai bên dựa trên định hướng
chính sách. Các nhóm luôn cố gắng ảnh hưởng đến chương trình chính sách của
đảng và đảng cũng không thể chi phối một chiều mà nhiều khi còn phụ thuộc vào
nhóm lợi ích.
1.2.2. Công trình của các tác giả nước ngoài
Maira Martini, Influence of interest groups on policy - making (Ảnh hưởng
của lợi ích nhóm trong việc hoạch định chính sách) [143] cung cấp một cái nhìn
tổng quan về tình hình nghiên cứu ảnh hưởng tiêu cực và tích cực của các nhóm
lợi ích đến việc ra quyết định, dựa trên thông tin công khai và các văn bản. Bài
viết dựa trên khảo sát các nước Đông Nam Á và Đông Á bao gồm cả Trung Quốc.
Tác giả bài viết xác định các yếu tố kiểm soát và ngăn chặn các nhóm lợi ích có
ảnh hưởng tiêu cực đối với các quyết định quản lý và chính sách trong một quốc
gia (ví dụ như tính minh bạch, phương tiện truyền thông, loại bỏ các quyết định,
cách ly và bảo đảm xung đột lợi ích được hủy bỏ), cung cấp các bài học kinh
nghiệm từ các nước trong khu vực này trong việc kiềm chế tham nhũng và ảnh
hưởng bất hợp pháp bởi các nhóm lợi ích trong khi duy trì các lợi ích.
Pablo T. Spiller and Sanny Liao, Buy, Lobby or Sue: Interest Groups’
Participation in Policy Making - A Selective Survey (Mua bán, vận động hay khởi
kiện: Khảo sát chọn lọc về sự tham gia vào hoạch định chính sách của các nhóm
lợi ích) [144]. Sự tham gia của các nhóm lợi ích trong việc đưa ra chính sách công
là điều tất yếu. Điều tất yếu khách quan đó vấp phải sự nghi ngờ của các nhà chính
trị và cả dân chúng. Gần đây, đã có một tài liệu từ New Institutional Economics
(NIE) nhằm kiểm tra sự tham gia của các nhóm lợi ích trong việc hoạch định
27
chính sách. Nét nổi bật của phương pháp tiếp cận NIE là nó nhấn mạnh việc mở ra
mảng tối trong việc ra các quyết định. Cuốn sách giới thiệu NIE, trong đó phân
tích mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích và các nhà hoạch định chính sách. Đồng
thời, tác giả nhấn mạnh vai trò của môi trường thể chế trong việc tìm hiểu sự quan
tâm của các nhóm.
Heike Kluver, Lobbying in coalitions: Interst group influence on European
Union policy-making (Vận động hành lang trong các liên minh: Ảnh hưởng của
nhóm lợi ích trong việc hoạch định chính sách ở khối EU [140]. Liên minh châu
Âu được thành lập trở thành một cấu trúc cơ hội chính trị đầy hứa hẹn cho lợi ích
có tổ chức. Thắng lợi hay thất bại nằm ở việc phân tích hoạch định chính sách. Có
rất ít người nghiên cứu nó và trong các nghiên cứu hiện có vô số các giả thuyết và
kết quả phần nào mâu thuẫn nhau. Bài viết này nhằm mục đích trình bày một mô
hình trao đổi lý thuyết mới để nhận biết nguồn cung cấp thông tin, hỗ trợ người
dân và sức mạnh thị trường của liên minh vận động hành lang như các nhân tố
chính ảnh hưởng nhóm lợi ích về xây dựng chính sách tại Liên minh châu Âu.
Những giả thuyết được thực nghiệm đánh giá dựa trên số lượng lớn các số liệu
mới kết hợp phân tích định lượng văn bản đệ trình của nhóm lợi ích để Hội đồng
tham vấn với một cuộc khảo sát trực tuyến giữa các nhóm lợi ích. Lý thuyết này
đang được thử nghiệm trên một số chính sách. Phân tích thực nghiệm xác nhận
những kỳ vọng lý thuyết chỉ ra rằng vận động hành lang là một hoạt động kinh
doanh tập thể, trong đó cung cấp thông tin, hỗ trợ người dân và sức mạnh thị
trường của toàn bộ liên minh vận động hành lang thay đổi ảnh hưởng của nhóm
lợi ích.
Heike Kluver, Biasing polictics? Interest group participation in European
policy-making (Xu hướng chính trị? Sự tham gia của các nhóm lợi ích trong hoạch
định chính sách ở châu Âu) [141]. Bài viết này trả lời cho câu hỏi sự thành công
trong vận động ở Liên minh châu Âu có như nhau đối với các nhóm lợi ích
không? Nhóm lợi ích vận động các tổ chức châu Âu để đạt được các quyết định
chính sách phù hợp với lợi ích của mình. Trong khi một số người cho rằng các
nhóm lợi ích khác nhau có khả năng như vậy trong việc tác động đến hoạch định
28
chính sách ở châu Âu, thì có những người khác cho rằng thành công của vận động
hành lang là có thiên vị đối với một số nhóm lợi ích lớn. Các nghiên cứu trước đây
tập trung tại một khu vực hay một vài chính sách cụ thể nên để rút ra kết luận
chung là khá khó khăn. Vì vậy, bài này trình bày một phân tích dựa trên khảo sát
rộng lớn các vận động thành công của một loạt các nhóm lợi ích và các vấn đề
chính sách bằng cách kết hợp một phân tích định lượng văn bản của Ủy ban tham
vấn với một cuộc khảo sát trực tuyến giữa các nhóm lợi ích. Nghiên cứu này chỉ ra
rằng vận động thành công không có sự khác nhau giữa các loại nhóm lợi ích.
Frederick J. Boehmke, The Effect of Direct Democracy on the Size and
Diversity of State Interest Group Populations (Ảnh hưởng của nền dân chủ trực
tiếp vào quy mô và tính đa dạng của các nhóm lợi ích nhà nước) [139]. Bài viết
này nghiên cứu sự ảnh hưởng của nền dân chủ trực tiếp đến quy mô và tính đa
dạng của các nhóm lợi ích nhà nước, cung cấp một kiểm tra thực nghiệm một mô
hình chính thức cách tiếp cận cơ hội ảnh hưởng đến sự hình thành và hoạt động
nhóm như thế nào. Mô hình dự báo rằng nhóm biến động và hoạt động trong trạng
thái chủ động hơn; dự đoán này được khẳng định: dân chủ trực tiếp làm tăng số
thành viên của nhóm lợi ích công khoảng 17%; trong đó, nhóm lợi ích công dân
được tăng 29% trong khi mức tăng chỉ là 12% cho tập đoàn kinh tế. Nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng, dân chủ trực tiếp làm tăng sự đa dạng cho các nhóm lợi ích.
Thomas L. Brunell, The Relationship Between Political Parties and Interest
Groups: Explaining Patterns of PAC Contributions to Candidates for Congress
(Mối quan hệ giữa các đảng chính trị và nhóm lợi ích - Lý giải mô hình của PAC
đóng góp cho ứng cử Quốc hội) [147]. Bài viết cho rằng, các nhóm lợi ích tìm mọi
cách để đạt được lợi ích tối đa từ chính sách, trong khi đó, các đảng phái chính trị
lại cố gắng để có số ghế cao nhất trong Quốc hội. Những mục tiêu này có ý nghĩa
quan trọng trong mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích với các đảng chính trị. Trong
nghiên cứu này, tác giả phát triển và thử nghiệm một giả thuyết liên quan đến mô
hình đóng góp tiền từ Ủy ban hành động chính trị (PACs) cho các ứng viên của
Quốc hội Hoa Kỳ. Tác giả lập luận rằng các nhóm lợi ích có sự ưu tiên cho đảng
nào thực sự đảm bảo cho lợi ích của mình, tức là các nhóm lao động ưu tiên Đảng
29
Dân chủ, trong khi các nhóm doanh nghiệp lại ủng hộ Đảng Cộng hòa. Cũng có
khi nhóm lợi ích lại đóng góp tiền cho đảng khác, nhưng đảm bảo rằng sự đóng
góp đó tác động đến bầu cử càng ít càng tốt. Họ thực hiện chiến lược này bằng
cách đóng góp tiền cho những người đang đương nhiệm - mà những người này
thường không cần đến tiền để tái đắc cử.
Paul Burstein and April Liton, The Impact of Political Parties, Interest
Groups, and Social Movement Organizations on Public Policy: Some Recent
Evidence and Theoretical Concerns (Tác động của các đảng chính trị, nhóm lợi
ích và và các tổ chức phong trào xã hội đến chính sách công: lý thuyết và thực
tiễn) [145]. Bài viết này xem xét tác động trực tiếp của các đảng phái chính trị,
nhóm lợi ích và các tổ chức phong trào xã hội (SMOs) đến chính sách. Giả thuyết
chính là cả ba loại hình tổ chức đều có tác động đáng kể đến chính sách. Các giả
thuyết phụ: 1/ Khi dư luận xã hội được quan tâm, ảnh hưởng của các đảng phái
chính trị là hầu như không đáng kể; 2/ đảng phái chính trị có ảnh hưởng lớn hơn
nhóm lợi ích và SMOs; 3/ nhóm lợi ích và SMOs có ảnh hưởng đến chính sách ở
mức độ là các hoạt động của họ cung cấp cho các quan chức được bầu các thông
tin và các nguồn lực có liên quan đến chiến dịch tranh cử của họ. Từ các giả
thuyết nghiên cứu, dựa vào các tài liệu, văn bản những năm 1990 - 2000, tác giả
đưa ra kết luận về các tác động của các tổ chức đến chính sách.
Fay Lomax Cook, Media and Agenda Setting: Effects on the Public,
Interest Group Leaders, Policy Makers, and Policy (Truyền thông và nghị trường:
Ảnh hưởng trong công chúng, các lãnh đạo lợi ích nhóm, các nhà hoạch định
chính sách và chính sách) [138]. Bài viết khảo sát tác động của các phương tiện
truyền thông lên công chúng, các nhà lãnh đạo lợi ích nhóm, các nhà hoạch định
chính sách và chính sách công. Kết quả cho thấy truyền thông có ảnh hưởng quan
trọng đến quan điểm về các vấn đề giữa công chúng nói chung với các những
người làm chính sách ở chính phủ. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, sự
phản hồi trong dư luận không dẫn đến sự thay đổi trong chính sách tiếp theo. Thay
vào đó, chính sách thay đổi là kết quả sự hợp tác giữa các nhà báo và nhân viên
chính phủ.
30
Hugh A. Bone (1958), Political Parties and Pressure Group Politics (Các
đảng chính trị và các nhóm áp lực chính trị) [142]. Bài viết khẳng định các đảng
chính trị và các nhóm gây áp lực chính trị có sự phụ thuộc lẫn nhau. Các nhóm
lợi ích tìm thấy ở các đảng chính trị cách thức để tiếp cận với những người trong
cơ quan công quyền, trong khi đó, các đảng chính trị cần đến nhóm lợi ích trong
các cuộc tranh cử để đảm bảo quyền lực. Chính cấu trúc của đảng và bản chất
của hệ thống liên bang đã nuôi dưỡng mối quan hệ này. Các nhóm lợi ích tham
gia cả bầu cử sơ bộ trong đảng và cả bầu cử giữa các đảng thông qua ứng cử viên
mà họ ủng hộ, cung cấp cho những người này kinh phí cho chiến dịch bầu cử và
tham gia vào các hoạt động của chiến dịch này. Cả hai bên đôi khi tìm cách thâm
nhập vào nhau nhưng hiếm khi có nhóm lợi ích nào đó kiểm soát được hoàn toàn
một tổ chức đảng.
Seth Binder, Eric Neumayer (2005), Environmental pressure group
strength and air pollution: An empirical analysis (Một phân tích thực nghiệm về
sức mạnh của nhóm gây áp lực về môi trường và ô nhiễm không khí) [146]. Bài
viết khẳng định các nhóm lợi ích về môi trường có ảnh hưởng thực sự đến mức độ
ô nhiễm. Các tác giả cung cấp hệ thống các kiểm tra định lượng chứng minh sức
mạnh của các tổ chức phi chính phủ về môi trường (ENGOs) về mức độ ô nhiễm
môi trường. Do đó, tăng cường các ENGO là một chiến lược quan trọng mà các
nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế và các bên liên quan sử dụng để cố gắng giảm mức
độ ô nhiễm môi trường trên toàn thế giới.
Douglas K. Stevenson, Cuộc sống và các thể chế ở Mỹ [16]. Cuốn sách
trình bày về chính trị ở Mỹ, trong đó có phần tác giả phân tích về các nhóm đặc
quyền đặc lợi ở Mỹ. Tác giả khẳng định:
Người Mỹ luôn quan tâm đến việc các chính trị gia đại diện cho lợi ích
của họ thường lập nên các “nhóm áp lực”, vận động hành lang chính trị,
ủy ban hành động công chúng (PACs), hay các nhóm lợi ích đặc biệt
(SIGs). Các nhóm này tìm cách gây ảnh hưởng đối với các chính trị gia
về hầu hết mọi vấn đề [16, tr.89].
31
Từ đó, tác giả lấy ví dụ và phân tích ra một số nhóm lợi ích ở Mỹ.
Alexis De Tocqueville, Nền dân trị Mỹ [3]. Tác giả dành chương V, VI, VII
để bàn về cách thức người Mỹ sử dụng hình thức hiệp hội - đoàn thể trong đời sống
dân sự; về mối quan hệ giữa các hiệp hội với báo chí; quan hệ giữa hiệp hội dân sự
với hiệp hội chính trị. Trong đó, tác giả chỉ bàn đến những hiệp hội - đoàn thể được
hình thành trong đời sống dân sự và không có tính chất chính trị. Nói về tầm quan
trọng và sự ra đời của các hiệp hội, tác giả khẳng định, trong các xã hội quý tộc trị,
con người không có nhu cầu kết hội bởi trong xã hội này có một nhóm nhỏ công
dân rất giàu có và có thế lực, có khả năng tự mình làm nên những công trình lớn.
Mỗi công dân giàu có và có thế lực này đứng đầu một “hiệp hội” tồn tại thường
xuyên và bắt buộc, gồm tất cả những ai lệ thuộc vào người công dân này và buộc
phải thực hiện các ý đồ của anh ta. Trong các quốc gia dân trị thì khác, mọi công
dân đều độc lập và không có thế lực gì cả. Vì thế họ không thể tồn tại nếu không
biết cách tự do giúp đỡ lẫn nhau. Hiệp hội giúp cho việc điều hành kinh tế, chính trị,
xã hội của chính quyền được tốt hơn. Tác giả khẳng định: “Tại các nước dân chủ,
khoa học về sự kết hội và lập hội là khoa học mẹ; sự tiến bộ của các khoa học khác
tùy thuộc vào những tiến bộ của “bà mẹ” này” [3, tr.178]. Trong sự tồn tại và ra đời
của hiệp hội, báo chí giữ một vai trò quan trọng, nó là phương tiện để các thành
viên trong hiệp hội có thể “tìm đến” với nhau cũng như giúp họ thống nhất hành
động. Trong mối quan hệ với hiệp hội chính trị, “hiệp hội dân sự tạo điều kiện dễ
dàng cho những hiệp hội chính trị; nhưng một mặt khác, hiệp hội chính trị lại đặc
biệt giúp cho việc phát triển và hoàn thiện hiệp hội dân sự” [3, tr.184].
1.3. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG NỘI DUNG MỚI MÀ LUẬN ÁN THỰC HIỆN
1.3.1. Giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Một là, các công trình, bài viết của các tác giả nêu trên đã trình bày được
những vấn đề về lợi ích và vai trò của lợi ích đối với sự phát triển của xã hội, trong
đó khẳng định lợi ích là động lực cho sự phát triển. Các tác giả đã phân tích quan
niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích, bao gồm cả quan điểm của các nhà
32
kinh điển Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và quan điểm
của các tác giả về vấn đề lợi ích. Các tác giả cũng đã trình bày rất sâu sắc về mối
quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Hai là, các nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra phân tích các vấn đề về lợi ích
nhóm, nhóm lợi ích như quan niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích nhóm;
phân biệt lợi ích nhóm và nhóm lợi ích; lịch sử và hoạt động của các nhóm lợi ích
ở một số nước trên thế giới như Mỹ và các nước phương Tây. Các góc độ khác
của nhóm lợi ích cũng được đề cập đến trong các mối quan hệ với vận động hành
lang, với các đảng chính trị, với nhà nước, xã hội dân sự... Các tác giả khẳng định
lợi ích nhóm vừa có tác động tiêu cực, vừa có tác động tích cực đến sự phát triển
của xã hội, từ đó, đưa ra phương thức để kiểm soát lợi ích nhóm.
Ba là, các công trình nghiên cứu nêu trên đã có những đóng góp quan trọng
cả về mặt lý luận và thực tiễn về các vấn đề xoay quanh lợi ích nhóm ở Việt Nam.
Trong đó, các tác giả đã chỉ ra các nhóm lợi ích đang hoạt động ở Việt Nam bao
gồm cả lợi ích nhóm hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và cả lợi ích nhóm
hoạt động ngầm, tác động tích cực của lợi ích nhóm và cả tác động tiêu cực của nó
đến sự phát triển của đất nước. Các vấn đề đưa ra được phân tích khá sâu sắc như
lợi ích nhóm với tham nhũng, lợi ích nhóm và công tác tổ chức cán bộ, lợi ích
nhóm và đảng cầm quyền, lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng... Từ đó, các tác
giả cũng đề xuất được các giải pháp để phát huy tính tích cực và hạn chế tính tiêu
cực của lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay.
1.3.2. Hạn chế của các công trình nghiên cứu
Một là, mặc dù đã có một số nghiên cứu về vấn đề lợi ích nhóm nhưng do
mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau nên đa số khai thác một vài khía
cạnh của vấn đề như lợi ích nhóm với vấn đề công bằng xã hội, lợi ích nhóm với
vấn đề tham nhũng; lợi ích nhóm với hoạch định chính sách, lợi ích nhóm với
công tác tổ chức, cán bộ... Hoặc các công trình nêu trên phân tích lợi ích nhóm
trong những lĩnh vực cụ thể thường là dưới góc độ kinh tế học trong một số lĩnh
vực kinh tế có biểu hiện của lợi ích nhóm. Nhiều công trình (đặc biệt là các bài
viết trên Internet) thường hay đề cập đến lợi ích nhóm dưới góc nhìn tiêu cực.
33
Hai là, các bài viết, công trình nêu trên tuy đã đề cập đến ảnh hưởng của
lợi ích nhóm đến một số mặt của chủ nghĩa xã hội như đảng cầm quyền, công tác
cán bộ; chỉ ra được hậu quả của sự ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến
niềm tin của nhân dân vào chủ nghĩa xã hội, đến sự tồn vong của chế độ xã hội
chủ nghĩa... nhưng chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu một cách toàn
diện lợi ích nhóm như một yếu tố ảnh hưởng đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới.
Ba là, chưa có tác giả, công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống
dưới góc độ chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề lợi ích nhóm ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đây là một trong những khoảng trống cần được bổ
sung nhằm góp phần nghiên cứu về vấn đề lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay.
1.3.3. Những nội dung mới luận án cần thực hiện
Một là, hệ thống hóa về khái niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích
nhóm và hoạt động của các nhóm lợi ích trên thế giới. Đây là nội dung quan trọng
cung cấp cơ sở lý luận để nghiên cứu về lợi ích nhóm nói chung và tác động của
lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới nói riêng.
Hai là, từ sự phân tích hiện trạng, luận án chỉ ra những ảnh hưởng tích cực
và ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới.
Ba là, thông qua các vấn đề đặt ra của Việt Nam và một số kinh nghiệm
của các nước trong việc kiểm soát lợi ích nhóm, đề xuất các phương hướng và giải
pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích
nhóm đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
34
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM
VÀ LỢI ÍCH NHÓM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, CÁCH PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI ÍCH
2.1.1. Khái niệm lợi ích
Từ thực tiễn lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu cơ sở hình thành
lợi ích, mối quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội và vai trò của nó đối
với sự phát triển của lịch sử. Trong một số tác phẩm như Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844, Gia đình thần thánh, Hệ tư tưởng Đức…, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ lợi ích chính là mục tiêu, là động lực hoạt động của con người, là bản
chất con người, tính người. Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích, có ích, có lợi được
sử dụng như nhau. Lợi ích không phải là một cái gì đó trừu tượng mà có tính chất
chủ quan, cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người. Nó vừa tồn tại
dưới hình thái vật thể, vừa là quan hệ xã hội. Nhưng cái sản phẩm ấy chỉ trở thành
lợi ích khi nó thuộc về sở hữu của người nào đó, liên quan và có thể thoả mãn nhu
cầu nào đó, được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau. Người ta quan hệ với
nhau, trao đổi tính người cho nhau chính là thông qua sản xuất và trao đổi sản
phẩm của quá trình sản xuất ấy. Theo quan điểm trên thì lợi ích là cái mang quan
hệ xã hội. Do vậy, việc nhận thức quan hệ xã hội mà thiếu lợi ích thì về cơ bản,
nhận thức đó vẫn chỉ mang tính trừu tượng [14, tr.89].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Lợi ích là một trong những động
lực quan trọng trực tiếp thúc đẩy hành động của con người nhằm thỏa mãn nhu
cầu cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc và xã hội” [115, tr.747].
Từ điển Triết học cho rằng:
Lợi ích - khái niệm nói lên đặc điểm của cái có ý nghĩa khách quan cần
thiết cho cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung…
Lợi ích không phải là sản phẩm của ý thức và của ý chí cá nhân, mà là
sản phẩm của những điều kiện xã hội khách quan, quyết định phương
hướng thích hợp của ý chí và hành động của con người [118, tr.333].
35
Như vậy, lợi ích, xét đến cùng, chính là mục tiêu, động lực, phương thức để
thực hiện nhu cầu trong hoạt động thực tiễn, nhất là trong quan hệ xã hội, trong
đấu tranh xã hội.
2.1.2. Phân loại lợi ích
Có nhiều cách để phân loại lợi ích như sau:
Căn cứ vào các lĩnh vực biểu hiện trong xã hội: có lợi ích kinh tế, lợi ích
văn hóa, lợi ích chính trị… Nói một cách khái quát hơn là lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần.
Căn cứ vào phạm vi thể hiện trong cộng đồng, có lợi ích riêng và lợi ích
chung, cụ thể hơn có thể là lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích tập thể, lợi ích
giai cấp…
Căn cứ vào thời gian tồn tại có lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Căn cứ vào tầm quan trọng có lợi ích căn bản và lợi ích không căn bản.
Căn cứ vào tính chất có lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng.
Các cách phân loại trên đều mang tính tương đối. Bởi trên thực tế, các dạng
thức lợi ích này luôn tồn tại đan xen, tác động qua lại trong các chủ thể lợi ích.
Nghĩa là, quan hệ lợi ích là quan hệ nhiều thứ bậc, nhiều cấp độ, nhiều tầng nấc,
nhiều chiều cạnh và mang những tính chất khác nhau. Xét theo cách phân chia
trên, lợi ích nhóm nằm trong mối quan hệ với lợi ích riêng và lợi ích chung. Hơn
nữa, trong xã hội, không có lợi ích chung chung, trừu tượng bên ngoài con người
cụ thể mà lợi ích luôn gắn liền với những cá nhân, những tập đoàn người, giai cấp
hay cộng đồng xã hội nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu lợi ích nhóm cần phải đề
cập đến những mối quan hệ với lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích cá nhân và
lợi ích tập thể.
Lợi ích riêng hay lợi ích cá nhân là phạm trù phản ánh lợi ích của một cá
nhân cụ thể trong xã hội. Nó tạo thành mục đích, hay động cơ thúc đẩy tính tích
cực hoạt động của mỗi cá nhân trong xã hội.
Lợi ích cá nhân thường mang tính ích kỷ. Cá nhân có xu hướng củng cố,
tăng cường lợi ích của mình bằng những hình thức khác nhau. Mặc dù mang tính
ích kỷ song lợi ích cá nhân và những hoạt động thực hiện lợi ích cá nhân có thể là
36
cơ sở để hình thành lợi ích chung. Theo C.Mác, trong quá trình hoạt động thực
hiện lợi ích riêng, dù ý thức hay không ý thức được, các cá nhân cũng tạo ra lợi
ích chung, đóng góp cho lợi ích chung. Ông viết:
Sức mạnh duy nhất ràng buộc họ với nhau và đặt họ quan hệ với nhau
là lòng vị kỷ, là điều lợi riêng, là lợi ích tư nhân. Nhưng vì mỗi người
chỉ lo cho mình và không ai lo cho người khác, cho nên tất cả bọn họ,
do một sự nhịp nhàng đã định trước của sự vật, hay do sự che chở của
một Thượng đế rất khôn khéo, đều chỉ làm một công việc có lợi cho
cả hai bên, cho điều lợi chung, cho lợi ích chung [11, tr.263].
Lợi ích chung hay lợi ích tập thể là lợi ích có quan hệ tới ít nhất từ hai cá
nhân trở lên. Nó là sự liên kết các lợi ích riêng để cùng đạt đến một mục tiêu
chung. Lợi ích chung có nhiều mức độ: lợi ích chung của nhóm, lợi ích chung của
tập thể, lợi ích chung của xã hội. Nhà nước là chủ thể được ủy quyền để duy trì lợi
ích chung của xã hội mà trong đó lợi ích riêng của cá nhân được bảo đảm. C.Mác
cho rằng: “Lợi ích chung, và việc bảo tồn những lợi ích đặc thù ở trong đó, là mục
đích của nhà nước” [7, tr.329]. Như vậy, mục đích của nhà nước không chỉ duy trì,
điều tiết lợi ích chung mà còn là bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại
của những lợi ích của cá nhân, lợi ích của các nhóm dân cư và các giai tầng xã hội.
Chỉ khi đó, nhà nước mới tồn tại với đúng chức năng của mình.
Với tính cách là mục tiêu, mục đích chung của cộng đồng xã hội; lợi ích
chung và việc cùng hoạt động thực hiện lợi ích chung tạo ra sự thống nhất trong
hoạt động của các cá nhân, tạo ra hợp lực chung. Ph.Ăngghen viết: “Ở đâu không
có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không
thể có sự thống nhất về hành động được” [10, tr.21].
2.1.3. Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội
Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: “Lợi ích là nguyên nhân thật sự, căn bản
của hoạt động lịch sử và hành vi xã hội của con người. Lợi ích được con người ý
thức trở thành động cơ tư tưởng của hoạt động thực tiễn có mục đích”. Những lợi
ích của các chủ thể vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau, tạo nên động lực cơ
bản thúc đẩy xã hội phát triển, thể hiện ở chỗ:
37
Thứ nhất, lợi ích là động lực thúc đẩy sự phát triển theo hướng xã hội hóa.
Theo Mác, Ăngghen, mỗi cá nhân đều chỉ theo đuổi những lợi ích của mình
nhưng muốn vậy, họ phải tham gia vào các quan hệ xã hội, qua đó tạo ra một
phương thức hợp tác theo những cách thức nhất định, tạo thành “sức sản xuất”
mới. Động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Khi nói về
vai trò của lợi ích, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng lợi ích là cái liên kết các thành
viên trong xã hội, nó được đặt trong quan hệ giữa con người với nhau, làm cơ sở
cho việc xác lập các quan hệ giữa họ. V.I.Lênin cũng cho rằng, cần “tìm nguồn
gốc của những hiện tượng xã hội ở trong những quan hệ sản xuất, và phải quy
những hiện tượng ấy vào lợi ích của những giai cấp nhất định” [126, tr.670]. Theo
các ông, hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội suy cho cùng đều nhằm tìm kiếm
lợi ích hoặc những điều kiện để thực hiện những lợi ích khác nhau. Bắt đầu từ cái
cá nhân nhưng tính chất xã hội của hoạt động lại là điều kiện để thực hiện lợi ích
và bao hàm trong mục đích xã hội.
Trước đó, Adam Smith (1723 - 1790), nhà kinh tế chính trị học người Anh
cũng khẳng định vai trò của lợi ích. Ông cho rằng, trong nền kinh tế thị trường tự
do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và lợi ích riêng của cá nhân mình, và
chính các hành động của những cá nhân này lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn
và củng cố lợi ích cho toàn cộng đồng thông qua một "bàn tay vô hình". Ông lý
giải rằng, mỗi một cá nhân đều muốn thu lợi lớn nhất cho mình sẽ tối đa hóa lợi
ích của cả cộng đồng, điều này giống như việc cộng toàn bộ tất cả các lợi ích của
từng cá nhân lại. Ý tưởng cốt lõi trong lý thuyết của Smith là con người có thiên
hướng theo đuổi lợi ích cá nhân và chính điều này dẫn đến sự giàu có của xã hội.
Như vậy, sự theo đuổi lợi ích của mỗi con người tuy được cắt nghĩa khác
nhau về tính chất, nhưng các nhà kinh điển đều thừa nhận xu thế xã hội hóa của
lợi ích. Xu thế xã hội hóa này chính là yếu tố tác động tích cực đến sự phát triển
của chủ nghĩa xã hội. Thực tế là, chính chủ nghĩa tư bản, trong quá trình phát
triển, luôn phải tìm cách điều chỉnh để vượt qua khủng hoảng, cũng như tìm cách
làm dịu đi những mâu thuẫn nội tại của nó. Điều đó nhiều khi lại khiến cho các
nước tư bản chủ nghĩa tiến gần hơn một bước đến với chủ nghĩa xã hội.
38
Thứ hai, giải quyết những mâu thuẫn lợi ích thông qua nhiều biện pháp
trong đó có cách mạng xã hội là động lực thúc đẩy lịch sử phát triển.
Theo Mác, Ăngghen, động lực của lịch sử là từ các mâu thuẫn xã hội. Mà
mọi mâu thuẫn xã hội, xét đến cùng là mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp, tập
đoàn người, các lực lượng, khuynh hướng xã hội.
Theo quan điểm của các ông, mọi xung đột lịch sử đều bắt nguồn từ mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, biểu hiện ra trong xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ và giai
cấp thống trị đại diện cho quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu. Việc giải quyết vấn đề
lợi ích giữa hai giai cấp đối lập ấy thông qua cách mạng là động lực cho sự
phát triển xã hội.
Mác viết: “Tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều dính
liền với lợi ích của họ” [7, tr.98].
Trong các cuộc cách mạng xã hội, cải biến xã hội này, lợi ích cũng chính là
động lực của quần chúng nhân dân nhằm thúc đẩy lịch sử phát triển.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng nhân dân làm cách
mạng bởi họ thấy lợi ích của mình được phản ánh và gắn bó trong lợi ích chung.
Đó cũng là lý do khiến giai cấp thiểu số lôi kéo quần chúng tham gia cách mạng
bằng cách nhân danh lợi ích chung. “Thật ra, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai
cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của mình, đều nhất thiết
phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên
trong xã hội…” [9, tr.68-69]. Tuy nhiên, sự thống nhất lợi ích trong các nhà nước
còn tồn tại đối kháng giai cấp chỉ là tạm thời. Sau khi cách mạng thành công, giai
cấp thống trị mới lại nhanh chóng biến lợi ích chung thành lợi ích riêng của giai
cấp mình.
Mác chỉ ra rằng trong mọi chế độ còn phân chia giai cấp thì “lợi ích chung”
chỉ mang tính chất của “cái chung ảo ảnh, giả tạo”, bởi vì lợi ích của “toàn thể xã
hội” thực chất chỉ là biểu tượng cho lợi ích của giai cấp thống trị, còn nhà nước là
công cụ để bảo vệ và thực hiện các lợi ích của nhóm thống trị đó. Chỉ có trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích
39
của quần chúng nhân dân lao động thì mới giải quyết được triệt để vấn đề đối
kháng về lợi ích giữa các giai cấp trong xã hội.
2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH NHÓM
Lợi ích nhóm là một thực tại khách quan tồn tại trong đời sống xã hội loài
người. Khái niệm lợi ích nhóm cũng đã xuất hiện từ lâu trong đời sống chính trị -
xã hội ở Mỹ và các nước phương Tây. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, lợi
ích nhóm được nhắc đến khá nhiều nhưng vì một số lý do mà lợi ích và lợi ích
nhóm hay được xem xét dưới góc độ tiêu cực. Vì vậy, cần nhận thức về nguồn
gốc, bản chất của lợi ích nhóm một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan để thấy
được cả mặt tích cực và tiêu cực của nó. Từ đây, mới tìm hiểu được thực trạng ảnh
hưởng, phương hướng và kiến nghị phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1. Khái niệm, bản chất, nguồn gốc, phân loại lợi ích nhóm và ảnh
hưởng của lợi ích nhóm đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
2.2.1.1. Khái niệm và bản chất của lợi ích nhóm
Lợi ích nhóm trước tiên liên quan tới nhóm xã hội - hình thái biểu hiện bên
ngoài của nó. Nhóm có thể hiểu là một mô hình tổ chức bao gồm hai hay nhiều cá
nhân, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu cụ thể. Các nhóm
có thể là nhóm chính thức hoặc nhóm không chính thức. Nhóm chính thức là
nhóm thực hiện những công việc cụ thể theo cơ cấu tổ chức. Trong các nhóm
chính thức, mục tiêu của tổ chức là cơ sở thúc đẩy và định hướng các hoạt động cá
nhân. Nhóm không chính thức là sự liên minh giữa các cá nhân được hình thành
không phụ thuộc vào cơ cấu cũng như mục tiêu của tổ chức.
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa nhóm xã hội là:
Khái niệm xã hội học chỉ một tập hợp người liên kết với nhau bởi
các dấu hiệu hình thức hoặc bản chất, được điều chỉnh bởi những
thiết chế có những giá trị chung, và ít nhiều biệt lập với các tập hợp
người khác. Nó nói lên những đặc trưng chung của các cộng đồng từ
nhỏ đến lớn. Theo số lượng các thành viên và điều kiện tác động lẫn
40
nhau trong nhóm, các nhóm xã hội được chia làm nhóm nhỏ và nhóm
lớn. Nhóm lớn là nhóm người liên kết nhau bởi điều kiện khách quan
chung, xác định sự tồn tại của họ một cách vững chắc như giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, đảng chính trị, nghề nghiệp, thể thao, thanh niên,
các hiệp hội… Nhóm nhỏ là nhóm người tồn tại trong khoảng không
gian và thời gian chung, được liên kết bởi các quan hệ thực tế của các
thành viên của nhóm, thực hiện trên cơ sở giao tiếp như các đội sản
xuất, lớp học, gia đình, nhóm bạn bè. Những đội sản xuất trong nhà
máy có tổ chức, có quy tắc hoạt động rõ ràng là những nhóm chính
thức. Còn những nhóm bạn bè, vui chơi là những nhóm không chính
thức. Những nhóm này không nhất thiết trùng với nhóm chính thức,
quan hệ của các thành viên ở đây xoay quanh một trung tâm khác.
Nhóm nhỏ phổ biến hơn cả là nhóm khuếch tán, nghĩa là các thành
viên của nhóm tham gia vào các quan hệ không phải là nội dung của
hoạt động nhóm, mà là sự phù hợp hay không phù hợp giữa các cá
nhân; hội liên hiệp là thành viên của nhóm tham gia các mối quan hệ
chỉ thể hiện các mục đích có ý nghĩa đối với cá nhân; nghiệp đoàn là
thành viên của nhóm tham gia các quan hệ có ý nghĩa đối với cá nhân,
nhưng mang nội dung liên hiệp trong hoạt động nhóm; tập thể là
thành viên của nhóm tham gia các quan hệ có ý nghĩa đối với cá nhân
và có giá trị đối với xã hội trong hoạt động nhóm [116, tr.364].
Như vậy, những liên hệ đặc thù giữa các thành viên về giá trị chung, mục
đích chung, lợi ích chung là cơ sở tạo nên nhóm xã hội.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:
Lợi ích nhóm là một tập thể gồm nhiều cá nhân, tổ chức chia sẻ một
mối quan tâm chung và cùng nhau thúc đẩy các mục tiêu đó bằng
cách tác động vào các chính sách của Chính phủ, là những nhóm vận
động hành lang để tạo ra hay thay đổi những luật lệ và cách thức có
lợi cho phe nhóm của mình, nhằm tạo dựng một vài đặc quyền, đặc
lợi để thụ hưởng [117].
41
Định nghĩa trên có thể được dựa trên quan niệm về lợi ích nhóm ở phương
Tây khi sử dụng khái niệm “vận động hành lang” để định nghĩa lợi ích nhóm. Có
thể nó chưa thực sự phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam - khi mà đất nước ta chưa
chính thức thừa nhận lợi ích nhóm và tạo hành lang pháp lý cho nó hoạt động.
Nhưng điều này không có nghĩa là lợi ích nhóm đó không tồn tại.
Có nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về lợi ích nhóm.
Trong cuốn sách Nhóm lợi ích và xung đột lợi ích trong phát triển, tác giả cho
rằng: Về thực chất, lợi ích nhóm là một dạng đặc thù của lợi ích chung; Lợi ích
chung của một nhóm chủ thể nhất định [72, tr.67]. Đúng như trong sự phân tích về
mối quan hệ giữa lợi ích nhóm với lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích nhóm là
một dạng đặc thù của lợi ích chung. Nhưng cần thấy rằng, lợi ích nhóm cũng là
một dạng đặc thù của lợi ích riêng.
Theo tác giả luận án, về bản chất, lợi ích nhóm là sự phản ánh lợi ích chung
của nhiều chủ thể có nhu cầu tương đồng. Họ tìm kiếm những phương tiện, điều
kiện thực hiện những lợi ích riêng, song lại có những điểm gần gũi hoặc tương
đồng với nhau. Từ đó mà hình thành lợi ích nhóm. Xét theo ý nghĩa rộng rãi nhất,
lợi ích của giai cấp, tầng lớp, lợi ích dân tộc, lợi ích giới, lợi ích của các hiệp hội,
đoàn thể… đều có thể được coi là những lợi ích nhóm. Tuy nhiên, lợi ích nhóm
được đề cập trong luận án này là không đồng nghĩa với lợi ích dân tộc, mà nhóm ở
đây nhỏ hơn.
Lợi ích nhóm phân biệt với các dạng thức lợi ích khác.
Lợi ích riêng thì phong phú, đa dạng và gắn với từng cá nhân, còn lợi ích
nhóm có tính bao quát và sâu sắc hơn. Mỗi cá nhân trong xã hội có thể tham gia
nhiều nhóm khác nhau nên các nhóm lợi ích tồn tại trong xã hội cũng đan xen
phức tạp. Mối quan hệ giữa lợi ích nhóm với lợi ích cá nhân là mối quan hệ giữa
cái bộ phận và cái toàn thể. Bởi vì mỗi người thuộc nhóm đều có những lợi ích
của mình. Trong số đó, có những lợi ích giống với lợi ích của những cá nhân khác
trong nhóm, một số lợi ích lại chỉ của riêng cá nhân đó. Chỉ có những lợi ích
chung của các thành viên trong nhóm mới gọi là lợi ích nhóm. Tuy nhiên, mỗi
42
người lại thuộc nhiều nhóm khác nhau và có nhiều lợi ích khác nữa. Do vậy, lợi
ích của một cá nhân bao hàm nhiều lợi ích nhóm. Khi một người nào đó đạt được
lợi ích cá nhân thì cũng đồng thời đạt được lợi ích nhóm và ngược lại.
Từ lợi ích nhóm hình thành nhóm lợi ích. Nhóm tự nó đã có tính liên kết
các phần tử, thành phần, cá nhân. Nhưng liên kết xuất phát từ vai trò của nhóm để
tạo sức mạnh cho một mục đích mang tính động cơ, tính toán thì đó là lợi ích
nhóm. Xã hội là một hệ thống lợi ích phức tạp cùng với sự tương tác lợi ích trong
từng nhóm, hoặc giữa các nhóm khác nhau trong trạng thái cạnh tranh, đấu tranh
liên tục để nắm giữ bằng được quyền sở hữu, phân phối nguồn lực công và quyền
được tham gia vào quá trình định hình, thông qua, xác lập các quyết định, chính
sách thuộc về quyền lực nhà nước với mục đích mang lại lợi ích nhóm cao nhất.
Theo A.Bentley, “không hình thành, tồn tại các nhóm đứng ngoài lợi ích.
Xã hội - đó là một tổng hợp của các nhóm lợi ích khác nhau, số lượng của chúng
bị quy định và giới hạn bởi một chỉ số duy nhất: lợi ích - cái mà từ đó chúng liên
kết, hình thành và hoạt động” [53, tr.67].
Có quan điểm khẳng định:
Nhóm lợi ích là một tập thể gồm nhiều cá nhân, tổ chức cùng chia sẻ
một mối quan tâm chung và cùng nhau thúc đẩy các mục tiêu đó
bằng cách tác động vào các chính sách của chính phủ. Là những
nhóm vận động hành lang hay cửa hậu (lobby) để tạo ra hay thay đổi
những luật lệ và cách thực thi có lợi cho phe nhóm mình, nhằm tạo
dựng một vài đặc quyền, đặc lợi để thụ hưởng [Error! Reference
source not found.].
Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Britanica:
Nhóm lợi ích là bất kỳ sự tập hợp nào của các tổ chức hay các cá
nhân, thường được thành lập một cách chính thức trên cơ sở chia sẻ
một hay nhiều mối quan tâm nhằm ảnh hưởng đến chính sách công
trong lĩnh vực mình quan tâm. Các nhóm lợi ích hình thành một cách
tự nhiên từ các cộng đồng có chung lợi ích và tồn tại trong tất cả các
xã hội [102, tr.42].
43
Theo cách hiểu về nhóm lợi ích ở các xã hội Âu - Mỹ - nơi nhóm lợi ích
được sinh ra, nhóm lợi ích là một tập hợp những người cùng chí hướng, cùng mưu
cầu một lợi ích, với phương thức hoạt động chủ yếu là tìm cách tác động lên chính
quyền (nghị viện, chính phủ, các hội đồng địa phương) hoặc khai thác sự đa nghĩa
trong một số điều khoản luật để đạt được mục đích. Nó bao gồm các đoàn thể, các
tổ chức nghề nghiệp, xã hội, các cơ cấu dân quyền, thiện nguyện… Sự tồn tại của
các nhóm lợi ích phần lớn được chấp nhận là tự nhiên trong kinh tế thị trường, sở
hữu tư nhân và đa nguyên chính trị.
Ủy ban Kinh tế Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
quan niệm:
Nhóm lợi ích là một tập thể gồm nhiều cá nhân, tổ chức cùng chia sẻ
một mối quan tâm (lợi ích, mục đích) chung và cùng nhau thúc đẩy
các mục tiêu đó bằng cách tác động vào các chính sách của chính
phủ, thông qua vận động hành lang để tạo ra hay thay đổi những luật
lệ và cách thực thi có lợi cho phe nhóm mình [125, tr.113].
Chúng tôi đồng ý với quan niệm cho rằng, nhóm lợi ích, hiểu một cách
chung nhất, là tập hợp các cá nhân có chung một hay nhiều lợi ích hoạt động theo
một cơ chế nhất định nhằm đạt được hoặc gia tăng lợi ích chung của họ tại một
thời điểm cụ thể [72, tr.67].
Như vậy, về cơ bản, lợi ích nhóm và nhóm lợi ích là những khái niệm đề
cập đến khía cạnh khác nhau của cùng một vấn đề: khía cạnh đối tượng và khía
cạnh chủ thể của lợi ích có tổ chức. Lợi ích nhóm được dùng để đề cập đến khía
cạnh đối tượng thỏa mãn những nhu cầu của ít nhất hai chủ thể trở lên. Nhóm lợi
ích được dùng để chỉ ít nhất từ hai chủ thể đang cùng hoạt động theo đuổi những
lợi ích chung nhất định của họ. Vì vậy, theo chúng tôi, không nên phân biệt quá
mức thuật ngữ “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích”. Trong luận án này, chúng tôi
dùng cả hai khái niệm này mà không phân định.
- Ở Mỹ và các nước phương Tây, lợi ích nhóm còn được gắn liền với vận
động hành lang, gọi là lobby groups.
Vận động hành lang là “sự giao tiếp không chính thức với chính trị gia
được bầu nhằm thiết lập nên các quy tắc xử sự nhằm điều chỉnh một số quan hệ
44
nhất định theo hướng có lợi cho người vận động”. Xét theo khía cạnh lợi ích và
đối tượng tác động, vận động hành lang được xem như là sự vận động chính sách.
Đó là sự tác động của các nhóm lợi ích nhất định trong xã hội đến các nhà hoạch
định chính sách công thông qua những nhân vật trung gian. Trong xã hội dân sự,
thông qua vận động hành lang, các nhà hoạch định chính sách dễ dàng nắm bắt
được nhu cầu hợp pháp của các tầng lớp trong xã hội, từ đó có các hình thức quản
lý xã hội và quản lý nhà nước có hiệu quả hơn. Các nhóm lợi ích có được cách
tiếp cận đúng phương pháp, đúng cách thức và kịp thời thông qua việc gửi gắm
tâm tư nguyện vọng cho các nhân vật quan trọng trong Chính phủ, Quốc hội qua
người trung gian.
Ở Mỹ, vận động hành lang (lobby) được hiểu là sự vận động các nghị sĩ,
dân biểu trong Quốc hội Mỹ ở cả Thượng viện và Hạ viện để họ đưa ra hay ủng
hộ các đạo luật, các nghị quyết, các quyết định mang tính chính sách có lợi cho
các “nhóm lợi ích” khác nhau. Như vậy, lobby gắn liền với hoạt động của các
nhóm lợi ích. Người Mỹ luôn quan tâm đến việc các chính trị gia đại diện cho lợi
ích của họ thường lập nên các “nhóm áp lực”, vận động hành lang chính trị, ủy
ban hành động công chúng (PACs), hay các nhóm lợi ích đặc biệt (SIGs). Các
nhóm này tìm cách cố gắng gây ảnh hưởng đối với các chính trị gia về hầu hết mọi
vấn đề. Các nhóm lợi ích, về thực chất là các phe phái chính trị tập hợp lại với
nhau vì một lợi ích chung nào đó. Do đó, các nhóm lợi ích của Mỹ hết sức đa
dạng, nhiều nhóm có lợi ích đối lập nhau và thậm chí mâu thuẫn với lợi ích của cả
bản thân nước Mỹ. “Nhóm lợi ích” (interest groups/ pressure/ lobby/ advocacy…
groups) là mắt xích không thể thiếu trong cơ chế thực hiện và chuyển hóa quyền
lực chính trị Mỹ. Đó cũng là thiết chế không chính thức nhưng rất quan trọng, giữ
vai trò cầu nối giữa chính quyền với nhân dân, phản ánh nhu cầu và thái độ của
các cộng đồng người với Nhà nước, góp phần tham gia hoạch định chính sách và
quản lý, điều hành.
2.2.1.2. Nguồn gốc hình thành lợi ích nhóm
Một là, tạo lập nhóm là một xu thế của xã hội, xuất phát từ nhu cầu chủ
quan của con người. Bởi vì xã hội ngày càng phát triển thì sự cạnh tranh ngày
45
càng cao. Để có thể thực hiện được những mục tiêu ngày càng cao, đáp ứng được
nhu cầu ngày càng lớn thì các nhóm hình thành một cách tự nhiên là chưa đủ. Vì
thế mà xuất hiện các cá nhân, thường là những người có năng lực tập hợp có uy
tín… đứng ra tập hợp những người có nhu cầu chung với mình thành một nhóm.
Ngày nay, có thể thấy xã hội có bao nhiêu tổ chức hay hội, đoàn được thành lập
thì có bấy nhiêu nhóm lợi ích.
Trong nhóm lợi ích, mối quan hệ giữa sinh hoạt kinh tế và hoạt động nhóm
là loại hoạt động trọng yếu nhất, bởi lợi ích kinh tế tác động mạnh nhất đối với
hoạt động của con người. Hơn nữa, có thể coi, kinh tế hàng hóa là tiền đề khách
quan đầu tiên của sự hình thành nhóm lợi ích. Nhu cầu hợp tác để cạnh tranh trong
thương mại là nguồn gốc cho sự xuất hiện của nhóm lợi ích.
Nhóm lợi ích cũng xuất hiện trong sự liên kết giữa kinh tế với chính trị. Đó
là khi nhóm lợi ích kinh tế tìm cách gây ảnh hưởng đến đời sống chính trị nhằm
tạo ra những lợi thế như chính sách kinh tế, chế độ thuế… cho mình.
Hai là, sự hình thành lợi ích nhóm, nhóm lợi ích là một tất yếu khách quan
- đặc biệt là trong xã hội có sở hữu khác nhau, giai cấp khác nhau, vị thế và quan
niệm khác nhau… nhưng cùng tồn tại trong một xã hội được tổ chức thành nhà
nước. Xã hội nào cũng tồn tại các nhóm người, đó là một hiện tượng khách quan.
Ở bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng tồn tại những nhóm người như nhóm nam hay
nhóm nữ, nhóm người cao tuổi hay nhóm thanh niên, nhóm người đa số và nhóm
người thiểu số… Thậm chí, có thể coi các quốc gia này hay quốc gia khác cũng
chỉ là một nhóm người mà thôi. Nhóm người đó có chung những đặc điểm về sinh
hoạt xã hội, nhu cầu cũng như cách thức tổ chức sinh hoạt. Trong nhóm người đó
đã có biểu hiện cộng đồng lợi ích. Bởi vì họ có cùng chung tiêu chí và mục đích
trong sinh hoạt nên có sự ràng buộc lẫn nhau và xu hướng tự nhiên là liên kết với
nhau. Hơn nữa, mỗi cá nhân đều có những nhu cầu, mục tiêu nhất định mà để thực
hiện được chúng thì cần có sự trợ giúp của các cá nhân khác. Như vậy, tập hợp
theo nhóm là một thuộc tính của con người.
Ba là, sự xuất hiện của nhóm lợi ích do tác động của thể chế và có thể tác
động tới thể chế, do yếu kém của pháp luật. Loại nhóm lợi ích này mang tính chất
46
tiêu cực, phản tiến bộ. Đó là những người có vị thế, liên kết lại với nhau thành
nhóm, tìm kiếm lợi thế ở đó nhằm mưu lợi cho cá nhân mình.
2.2.1.3. Phân loại lợi ích nhóm
Xét về mục đích và tính chất, thì lợi ích nhóm có thể chia thành lợi ích
nhóm tích cực (lợi ích nhóm chính đáng) và lợi ích nhóm tiêu cực (lợi ích nhóm
không chính đáng). Cả hai loại này đều lấy lợi ích của xã hội, của tập thể làm
điểm phân biệt để so sánh. Lợi ích nhóm tích cực là lợi ích nhóm phù hợp với xu
thế phát triển tiến bộ của xã hội. Đó là lợi ích chính đáng, hợp pháp, không mâu
thuẫn với lợi ích dân tộc quốc gia, hướng tới hài hòa với lợi ích xã hội, lợi ích dân
tộc và quốc gia. Lợi ích nhóm tiêu cực là lợi ích nhóm đi ngược lại với xu thế tiến
bộ của xã hội, đi ngược lại hoặc phá hoại lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, lợi ích dân
tộc và quốc gia. Tuy nhiên, sự phân định giữa 2 loại lợi ích nhóm này không phải
lúc nào cũng dễ dàng. Có tác giả cũng phân loại tương tự với cách gọi tên khác đi
là lợi ích nhóm chính đáng và lợi ích nhóm không chính đáng.
Có tác giả chia thành: nhóm lợi ích công, vận động cho lợi ích của một số
đông hoặc toàn xã hội như bảo vệ môi trường, các công đoàn, hội nông dân... và
nhóm lợi ích tư, chỉ vận động cho lợi ích cục bộ của một số rất nhỏ các thành viên
(như các doanh nghiệp trong một ngành đòi bảo hộ cho mình...) [80].
Austen Smith phân loại nhóm lợi ích gồm: nhóm đại diện cho lợi ích lan
tỏa (diffuse interests) và nhóm lợi ích đại diện cho lợi ích tập trung (concentrated
interests). Trong đó, nhóm lợi ích lan tỏa thường là nhóm lợi ích công như môi
trường, quyền phụ nữ… Đặc trưng của các nhóm lợi ích này là lợi ích có được từ
vận động hành lang được chia đều cho mọi người cả ở trong nhóm và ngoài nhóm.
Đặc biệt, chi phí cho vận động hành lang lớn, thậm chí lớn hơn nhiều lần so với
lợi ích thu được. Nhóm lợi ích tập trung thường là các nhóm lợi ích cho một số ít
người như một hiệp hội, một ngành kinh doanh… Đặc trưng của nhóm lợi ích này
là lợi ích thu được chỉ phân phối cho thành viên của nhóm và lợi ích thu được
thường lớn hơn nhiều lần so với chi phí [72, tr.76].
Trên cơ sở nghiên cứu lợi ích nhóm ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu
khác lại chia thành lợi ích nhóm chính thức và lợi ích nhóm phi chính thức. Lợi
47
ích nhóm chính thức là các lợi ích nhóm được tổ chức dưới hình thức các hiệp hội
doanh nghiệp, các hiệp hội nghề nghiệp (gọi chung là hội, hiệp hội), các câu lạc
bộ được Nhà nước thừa nhận, hoạt động trong khuôn khổ luật pháp và sử dụng
các mối quan hệ, tiềm lực, khả năng của mình nhằm tác động đến quá trình hoạch
định chính sách có lợi cho nhóm mình. Đó là tập hợp các chủ thể kinh doanh, có
mục đích rõ ràng. Lợi ích nhóm phi chính thức là các lợi ích nhóm nhỏ lẻ, không
chính thức, đôi khi chỉ liên quan tới một số công ty, cá nhân, tập hợp lại như một
liên minh tự nhiên khi lợi ích chung của họ bị ảnh hưởng, hoặc các lợi ích ngầm
rất khó phát hiện và thường hoạt động bất hợp pháp [49].
Tập thể tác giả cuốn Thực trạng xu hướng và giải pháp phòng, chống “lợi
ích nhóm” ở nước ta hiện nay cho rằng, tùy theo đặc điểm và góc độ nghiên cứu,
có thể phân loại lợi ích nhóm theo nhiều cách khác nhau:
Theo sự phát triển của lợi ích nhóm, có: 1/ Lợi ích nhóm tự phát được hình
thành một cách tự nhiên trong các quan hệ xã hội và giao tiếp; 2/ Lợi ích nhóm tự
giác là lợi ích nhóm, mà trong đó các cá nhân trong nhóm ý thức được việc phát
huy vai trò của mình một cách tự giác; 3/ Lợi ích nhóm quyền lợi là khi nhóm tự
giác trong quá trình hoạt động thể hiện được vai trò bảo vệ và vận động cho quyền
lợi của nhóm; 4/ Lợi ích nhóm áp lực là nhóm quyền lợi có khả năng gây ảnh
hưởng, tạo sức ép đáng kể đến quy trình xây dựng và ban hành chính sách của
chính quyền sao cho có lợi cho nhóm mình; 5/ Lợi ích nhóm đặc quyền, đặc lợi là
nhóm vừa có khả năng gây áp lực, vừa có khả năng sử dụng quyền của mình can
thiệp và quyết định trực tiếp đến việc xây dựng và ban hành các chính sách.
Theo tính chất hoạt động của lợi ích nhóm, có: lợi ích nhóm có tổ chức và
lợi ích nhóm không có tổ chức (hay nhóm có lợi ích ảo). Trong đó, lợi ích nhóm
có tổ chức thường hỗ trợ cho Nhà nước cân nhắc đầy đủ và đúng đắn các lợi ích
đa dạng của các nhóm xã hội cụ thể. Lợi ích nhóm không có tổ chức không có
diện mạo, địa chỉ, hành vi vi phạm công khai, liên kết nhất thời theo từng vụ việc,
hoạt động ngoài vòng pháp luật.
Theo mục đích hoạt động của lợi ích nhóm, có: lợi ích nhóm công và lợi
ích nhóm tư.
48
Đó là các cách phân loại chủ yếu. Ngoài ra, còn có một số cách phân loại
khác như: lợi ích nhóm vật chất và lợi ích nhóm tinh thần. Theo lĩnh vực thì có
lợi ích nhóm kinh tế, lợi ích nhóm chính trị, lợi ích nhóm văn hóa… Căn cứ theo
loại nhóm người khác nhau gồm có: lợi ích nhóm người giàu, lợi ích nhóm người
nghèo; hay lợi ích nhóm người lao động trí óc và lợi ích nhóm người lao động
tay chân; hoặc lợi ích nhóm công nhân, lợi ích nhóm nông dân, lợi ích nhóm
doanh nhân…
Trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu lợi ích nhóm xét theo tính chất và
mục đích của lợi ích, để phân tích ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của
lợi ích nhóm đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Trong đó, lợi
ích nhóm góp phần đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là lợi ích
nhóm tích cực, lợi ích nhóm gây nên nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là lợi ích nhóm tiêu cực.
2.2.1.4. Ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến kinh tế, chính trị, xã hội
Ảnh hưởng tích cực:
Một là, giúp cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân đến được với chính
quyền, đặc biệt là cơ quan lập pháp một cách rõ ràng, chính xác và nhanh chóng.
Có một thực tế là không có một chế độ chính trị (hay không có một quốc hội hay
chính phủ nào) có thể ngồi nghe từng ý kiến, nguyện vọng của từng công dân từng
tổ chức cho dù nền dân chủ của nước đó phát triển đến đâu, mặc dù theo quy định
của pháp luật, bất kỳ công dân hay tổ chức nào cũng có thể đề đạt ý nguyện của
mình lên quan chức nhà nước. Những quan điểm, ý nguyện cần tập hợp lại và cần
phải có những tổ chức, nhóm xã hội có uy tín đề đạt lên chính quyền. Chức năng
đó được các nhóm lợi ích thực hiện thông qua các nhà vận động hành lang.
Hai là, lợi ích nhóm góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội phát
triển. Ở các nước phương Tây, theo nguyên tắc tổ chức nhà nước, quyền lực nhà
nước không chỉ nằm trong tay các cơ quan nhà nước mà phải chia sẻ một phần
cho nhân dân, thông qua các nhóm lợi ích. Các nhóm này sử dụng hoạt động vận
động hành lang để tác động lên quá trình xây dựng các dự luật và các quyết định
của nghị viện và chính phủ. Thông qua đó, các giai cấp, tầng lớp xã hội đã đề
49
xuất những ý kiến của mình, tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, ra quyết
định cùng với nghị viện và chính phủ, thúc đẩy dân chủ phát triển. Qua đó, góp
phần nâng cao ý thức công dân và thúc đẩy người dân tích cực tham gia đời sống
chính trị.
Ba là, sự xuất hiện của các lợi ích nhóm góp phần cung cấp thông tin cho
nhà nước trong quá trình hoạch định chính sách, giúp chính sách có chất lượng
cao hơn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn hơn; giúp chính phủ thực thi chính sách dễ
dàng hơn; giúp chính phủ có được nguồn lực để thực hiện các chính sách và chia
sẻ lợi ích trong xã hội.
Ảnh hưởng tiêu cực:
Một là, lợi ích nhóm sẽ tạo ra sự bất công trong xã hội. Để có một quyết
định có lợi cho mình, các nhóm phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đầu tư cho các
mối quan hệ với các quan chức hoặc để thuê các nhà vận động hành lang nổi
tiếng. Đây chính là nguy cơ đối với nền dân chủ. Các thế lực tài chính hùng mạnh
luôn chiếm ưu thế trong các cuộc đua vận động và vì quyền lợi của nhóm, họ sẵn
sàng bóp méo công lý. Phần thua thiệt thường thuộc về các nhóm dân cư nghèo,
không có tiền để thuê các nhà vận động hành lang. Theo kết quả thống kê ở Mỹ về
hoạt động vận động hành lang, 72% số cá nhân và tổ chức vận động đã đăng ký tại
Quốc hội đại diện cho các tổ chức và hiệp hội kinh tế, 8% - đại diện cho các tổ
chức xã hội nghề nghiệp, chỉ có khoảng 5% đại diện cho các nhóm bảo vệ nhân
quyền, phúc lợi xã hội, 2% đại diện cho người nghèo và 1% đại diện cho những
nhóm yếu thế trong xã hội [1, tr.174-175]. Như vậy, chỉ giới chủ giàu có mới có
ảnh hưởng và có lợi, còn ý kiến, nguyện vọng của những người dân nghèo yếu
thế, khó có cơ hội đến với chính quyền và được thể hiện trong chính sách.
Hai là, lợi ích nhóm thúc đẩy sự tha hóa quan chức, làm tăng môi trường
cho tham nhũng, hối lộ phát triển. Để đạt được mục đích của mình, các nhà vận
động hành lang đại diện cho các nhóm lợi ích sử dụng đồng tiền để mua chuộc các
quan chức chính phủ, làm biến chất đội ngũ quan chức, công chức nhà nước cả về
mặt đạo đức và nghề nghiệp. Lúc này, họ không còn là những người đại diện cho
tiếng nói cử tri, cho quyền lực nhà nước nữa mà là đại diện cho tiếng nói của đồng
tiền, cho sức mạnh của các tập đoàn tư bản. Như trường hợp của Abramoff - một
50
nhà vận động hành lang có thế lực nhất nước Mỹ - đã bị coi là “mua cả
Washington” khi bị kết tội biển thủ, gian dối tài chính và mua chuộc chính khách
(hơn 300 nghị sĩ của cả hai đảng). Thực tế hiện nay, tại Mỹ, trong nền chính trị
hiện đại, lobby chính là việc dùng thế lực tiền bạc để vận động và làm áp lực để
Quốc hội hoặc các cơ quan nhà nước hành động theo chiều hướng phục vụ quyền
lợi của các nhóm lợi ích. Ngay cả một số cơ quan chính phủ trung ương và địa
phương cũng dùng tiền để lobby các nhà lập pháp. Điều này dẫn đến nguy cơ bè
đảng, làm tiếng nói của những nhóm yếu thế càng ít đi trong quá trình ra quyết
sách. Đây cũng là khe hở để các thế lực tài chính hùng mạnh có thể giành lợi thế
trong các cuộc chạy đua vận động và bóp méo công lý.
Ba là, sự vận hành của các nhóm lợi ích trong khi xây dựng chính sách
quốc gia đôi khi gây nguy cơ bế tắc trong xây dựng hoặc triển khai chính sách.
Điều này là do quyền lợi của nhiều nhóm lợi ích mâu thuẫn với nhau nên do
nguồn lực có hạn, nhà nước chỉ có thể đáp ứng được yêu cầu của một nhóm đối
tượng nhất định. Vì vậy, một chính sách được đưa ra bao giờ cũng mang lại lợi ích
cho nhóm này và gây tổn hại đến lợi ích của nhóm khác. Các nhóm lợi ích càng
mạnh thì đấu tranh giữa chúng càng tăng và áp lực lên quyền lực nhà nước càng
lớn. Sự đấu tranh quyết liệt của các nhóm có lợi ích khác biệt khiến cho nhiều
chính sách không được thông qua, gây thiệt hại lớn đến sự phát triển của đất nước
và làm suy giảm uy tín và sức mạnh của nhà nước trong việc ban hành chính sách.
2.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng Cộng sản Việt Nam về lợi ích nhóm
2.2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về lợi ích nhóm
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể thấy các nhà kinh điển cũng đã
đề cập đến vấn đề lợi ích nhóm thông qua việc bàn đến lợi ích giai cấp, trong đó
đặc biệt là lợi ích của nhóm giai cấp tư sản và lợi ích của nhóm giai cấp công
nhân. Giai cấp tư sản “dùng mọi thủ đoạn mà tài sản của chúng và cái chính
quyền chúng nắm trong tay có thể cung cấp cho chúng để bảo vệ lợi ích của
mình” [8, tr.592], còn giai cấp công nhân thông qua đấu tranh giai cấp, cách
mạng xã hội để giành lấy lợi ích chính đáng của mình từ tay giai cấp tư sản. Như
51
vậy, lợi ích của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản nhưng
lại có chung lợi ích với toàn thể nhân dân lao động. Vì thế, khi giai cấp công
nhân tiến hành cách mạng xã hội, giải phóng cho giai cấp mình, nó đồng thời
giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Chính vì
lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của toàn xã hội, nên việc giai
cấp công nhân giành được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội đảm bảo cho
sự công bằng, hài hòa về lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, từ công bằng về cơ
hội đến công bằng trong phân phối.
Trong các tác phẩm của mình, Mác và Ăngghen cũng chỉ ra những lợi ích
nhóm tiêu cực ảnh hưởng đến phong trào công nhân, đến quá trình đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đó
chính là lợi ích nhóm của những người tiểu tư hữu bao gồm tiểu nông, tiểu chủ,
tiểu thương, tiểu tư sản.
Ph.Ăngghen khẳng định người tiểu nông có khuynh hướng liên minh với
người tiểu tư sản. Những người dân ở nông thôn tham gia cuộc khởi nghĩa chủ yếu
là do họ bị gánh khá nặng thuế má hoặc bị những gánh nặng của chế độ phong
kiến đẩy vào tay đảng cách mạng. Họ không có tính chủ động của mình, vì thế họ
hợp thành một bộ phận phụ thuộc vào các giai cấp khác trong cuộc khởi nghĩa,
luôn bị ngả nghiêng giữa một bên là giai cấp công nhân và một bên là giai cấp
những người tiểu thủ công và tiểu thương.
Về giai cấp tiểu tư sản, Ph.Ăngghen khẳng định, xuất phát từ tính chất nhỏ
nhen do công việc giao dịch buôn bán và những hoạt động tín dụng của nó đã ảnh
hưởng sâu sắc tới tính cách riêng của họ, điều này khiến hoạt động chính trị của
họ mang dấu ấn đặc trưng là “thiếu nghị lực” và “thiếu tinh thần tháo vát”. Vì thế,
trên thực tế, mặc dù khuyến khích cuộc khởi nghĩa nhưng khi điều này xảy ra thì
tầng lớp tiểu tư sản vội đoạt lấy chính quyền; nhưng sử dụng chính quyền đó để
thủ tiêu những kết quả của khởi nghĩa. Bất cứ nơi nào mà một cuộc xung đột vũ
trang tạo thành một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng thì tầng lớp tiểu tư sản đều
khiếp sợ khi thấy chính quyền rơi vào chính tay mình; và sợ nhất là hậu quả những
chính sách mà họ buộc phải thi hành - nguy hiểm đối với địa vị xã hội và cho tài
sản của họ; đe dọa với ích của họ. Bởi nếu khởi nghĩa thất bại, họ sẽ mất cơ
52
nghiệp. Còn nếu khởi nghĩa thành công, chắc chắn là những người vô sản chiến
thắng sẽ đẩy cuộc cách mạng ấy khỏi toàn bộ chính sách của chúng. Bị kẹt giữa
hai nguy cơ như vậy, bị đe dọa tứ phía, tầng lớp tiểu tư sản đành mặc cho tình
hình phát triển tự nhiên, kết quả là nó làm tiêu tan khả năng thành công còn lại ít
ỏi và làm cho cuộc khởi nghĩa hoàn toàn phá sản.
Các nhà kinh điển giải thích điều này bắt nguồn từ địa vị kinh tế - giai tầng
của tầng lớp tiểu tư sản. Họ là tầng lớp trung gian giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản. Họ tưởng họ có thể đứng trên các đối kháng giai cấp, có thể đứng giữa làm
trọng tài, giảm nhẹ tính đối kháng giữa hai cực. Song, bản chất của tầng lớp này
lại luôn nghiêng ngả. “Họ hy vọng dùng mọi cách để vươn lên hàng ngũ giai cấp
tư sản lớn, họ cũng nơm nớp lo sợ phải rơi xuống hàng ngũ giai cấp vô sản” [9,
tr.621]. Và khi có nguy cơ bị rơi xuống hàng ngũ giai cấp vô sản thì họ hoảng sợ,
kêu gào đấu tranh. Tất nhiên, do bản chất là những phần tử hết sức không chắc
chắn nên họ luôn tính bảo toàn bản thân trong tranh đấu. Họ chỉ “la hét om sòm”
và ngã vào tay của kẻ chiến thắng sau khi cuộc chiến đã kết thúc. Vì vậy, có thể
nói, chính vì lợi ích của nhóm mình, tầng lớp tiểu tư hữu là mối đe dọa cho sự
phát triển của giai cấp công nhân, cho sự thắng lợi của cuối cùng của chủ nghĩa
cộng sản. Hiểu được đặc điểm này để trong quá trình lôi kéo giai tầng này về phía
mình, giai cấp công nhân và chính Đảng của nó phải có những kế sách thích hợp,
mà quan trọng nhất vẫn là hài hòa, đảm bảo lợi ích của giai tầng này với điều kiện
không đi ngược lại với lợi ích toàn xã hội.
Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khi nghiên cứu về
lợi ích các giai cấp, đã chỉ ra các nhóm lợi ích đặc quyền đặc lợi và công cụ bảo vệ
sự đặc quyền, đặc lợi đó của chúng. Ông viết: “Trở ngại chính mà giai cấp công
nhân Nga vấp phải trong cuộc đấu tranh giải phóng là Chính phủ chuyên chế tuyệt
đối với bọn quan lại vô trách nhiệm của nó. Dựa vào những đặc quyền, đặc lợi của
bọn địa chủ và bọn tư bản và cúc cung phục vụ những lợi ích của chúng” [127,
tr.102]. Giai cấp tư sản cũng lập ra Nhà nước nhằm bảo hộ cho bọn tư bản và lợi
ích của chúng “Luật pháp nhà nước không những được lập ra vì lợi ích của giai
cấp tư bản mà còn trực tiếp tước hết của công nhân mọi khả năng tác động đến
những luật đó” [127, tr.120].
53
Khi giai cấp công nhân giành chính quyền, Đảng cầm quyền lại đứng trước
nguy cơ quan liêu, chủ nghĩa cơ hội và tệ hối lộ. V.I.Lênin quan niệm:
Chủ nghĩa quan liêu, tức là đem lợi ích của sự nghiệp phục tùng lợi ích
của tư tưởng danh vị, tức là hết sức chú trọng đến địa vị mà không đếm
xỉa đến công tác; tức là tranh giành nhau để được bổ tuyển khi mà đáng
lẽ phải đấu tranh cho những tư tưởng. Một thứ chủ nghĩa quan liêu như
thế quả thật là hoàn toàn không nên có đối với đảng và có hại cho
đảng… [129, tr.424].
Và “… chủ nghĩa cơ hội là hy sinh những lợi ích bền vững và lâu dài của
giai cấp vô sản cho những lợi ích hào nhoáng, bề ngoài và chốc lát của nó” [131,
tr.311]. Như vậy, tuy Lênin chưa đề cập trực tiếp đến khái niệm lợi ích nhóm
nhưng quan điểm của ông về vấn đề này đã được biểu hiện dưới hình thức của chủ
nghĩa quan liêu và chủ nghĩa cơ hội.
V.I.Lênin phê phán chủ nghĩa bè phái, cục bộ, chủ nghĩa cá nhân:
… bất kỳ bè phái nào cũng là tai hại, không thể dung thứ được; ngay cả
khi các đại biểu của một vài nhóm nào đó có ý muốn bảo vệ sự thống
nhất của đảng đi nữa, thì trong thực tế hoạt động bè phái đó nhất định
sẽ làm yếu sự đồng tâm hợp lực trong công tác và tạo cho những kẻ thù,
đang luồn vào đảng chấp chính, có điều kiện để tăng cường những mưu
toan khoét sâu thêm sự chia rẽ đó để thực hiện những mục đích phản
cách mạng [136, tr.104-107].
Trong đấu tranh cách mạng, bản thân giai cấp công nhân cũng có sự phân
hóa thành các nhóm lợi ích khác nhau: có bộ phận đấu tranh kiên quyết, có bộ
phận muốn thỏa hiệp, có những kẻ vì lợi ích của một bộ phận công nhân mà mưu
lợi ích cho bọn tư bản phản bội lại chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “Trong
công nhân, chúng ta tuyệt nhiên không thể dung thứ được những bọn mưu cầu tư
lợi không chịu kết hợp lợi ích của nhóm của họ với lợi ích của toàn thể công
nông” [135, tr.345]. Người cho rằng không thể vì lợi ích của một nhóm người mà
hi sinh lợi ích căn bản của hàng chục triệu công nhân và tiểu nông. Vì vậy, cần
trừng phạt những kẻ rơi vào chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, đặc biệt trong điều
54
kiện chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc. Người viết: “Trong chiến tranh, ý chí thống
nhất biểu hiện ở chỗ nếu ai đặt lợi ích riêng của bản thân mình, lợi ích của làng
mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung, thì người đó bị kết tội là kẻ mưu cầu
tư lợi, người đó bị xử bắn…” [129, tr.357].
Giai cấp công nhân phải nhận thức đầy đủ về vấn đề trên và có trách nhiệm
chống lại chủ nghĩa công đoàn, chống lại khuynh hướng đặt lợi ích cá nhân, của
nhóm lên trên lợi ích chung của xã hội. V.I.Lênin nói:
… chúng ta phải đấu tranh trong các giới công nhân để chống lại hiện
tượng nhận thức không đầy đủ về những lợi ích chung, chống lại một số
biểu hiện của chủ nghĩa công đoàn, khi công nhân trong một số công
xưởng hay trong một số ngành công nghiệp có khuynh hướng muốn đặt
lợi ích riêng của họ, lợi ích công xưởng của họ, lợi ích ngành công
nghiệp của họ lên trên lợi ích của xã hội [134, tr.351].
Kế thừa và phát triển các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công
nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không phải mưu cầu lợi ích riêng của
một nhóm người nào, của cá nhân nào” [76, tr.607].
Vì vậy, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
không rơi vào chủ nghĩa cá nhân - tức là không phải “…lúc tính toán công việc,
thì đặt lợi ích của cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung” [75,
tr.624]. Đồng thời, cán bộ, đảng viên đã làm cách mạng thì không được cục bộ bởi
vì “cách mạng phải vì lợi ích của dân tộc chứ không phải của một cá nhân. Vì vậy,
nếu một người cách mạng tìm cách cục bộ thì tham vọng của anh ta sẽ khiến anh
ta hành động vì mình chứ không phải vì mọi người” [74, tr.514].
Tuy Hồ Chí Minh chưa sử dụng khái niệm “lợi ích nhóm” nhưng nội hàm
của nó đã được thể hiện, trong đó, lợi ích nhóm được hiểu là lợi ích bộ phận. Bên
cạnh đó, lợi ích nhóm cũng biểu hiện ở tư tưởng cục bộ địa phương; cán bộ, đảng
viên chỉ quan tâm đến lợi ích của địa phương mình mà không quan tâm đến lợi ích
chung. Người viết: “Chỉ chăm chú lợi ích của địa phương mình mà không nhìn
đến lợi ích của toàn bộ. Làm việc ở bộ phận nào chỉ biết bênh vực vun đắp cho bộ
phận ấy” [75, tr.547]. Những tư tưởng cục bộ đó là do chủ nghĩa cá nhân, từ đó
55
sinh ra hàng loạt các vấn đề như vô kỷ luật, vô tổ chức, tham địa vị, tham danh
vọng, bè phái… Khi sa vào chủ nghĩa cá nhân, cán bộ thoái hóa núp dưới danh
nghĩa tập thể lộng hành. Sự biến tướng của chủ nghĩa cá nhân dưới danh nghĩa tập
thể là mối nguy hại rất lớn.
2.2.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lợi ích nhóm
Trước đây, vấn đề lợi ích nhóm tiêu cực chưa được đề cập đến nhưng các
biểu hiện cụ thể của nó đã được Đảng ta bàn đến trong một số văn bản, nghị quyết,
văn kiện như tính cục bộ địa phương, mất đoàn kết, tham ô, tham nhũng, suy thoái
đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đại hội VI của Đảng ghi rõ: “Trong tư tưởng cũng
như trong hành động phải triệt để chống tham nhũng, chống đặc quyền, đặc lợi”
[26, tr.137]. Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII đã chỉ ra những biểu hiện tiêu cực “… là cá nhân chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật,
địa vị, mất đoàn kết, bè phái, cục bộ, mất dân chủ, quan liêu mệnh lệnh, ức hiếp
quần chúng, thoái hóa biến chất về chính trị và lối sống” [21, tr.10]. Văn kiện hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đánh giá: “Vẫn còn tình trạng
phe cánh, bè phái, cục bộ, vụ lợi, cố tình đánh giá sai lệch, trù dập những cán bộ
trung thực, mẫn cán, sử dụng cán bộ phẩm chất và năng lực kém do thân quen, nể
nang, chạy chọt” và nhận định: “Nhiều biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ như
cục bộ, địa phương, lôi bè, kéo cánh, chạy quyền, chạy chức, chạy tội chưa được
khắc phục, khiến cho cán bộ và nhân dân bất bình” [22, tr.172].
Gần đây, vấn đề lợi ích nhóm đã được chỉ rõ và nhận diện đầy đủ hơn.
Trong báo cáo khai mạc Hội nghị triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh:
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng,
cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất
đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc
của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… Trong những biểu hiện đó, cán bộ,
đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất
là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm… ở một bộ phận
đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng,
Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức.
56
Lợi ích nhóm tiêu cực ở đây được nhắc đến gắn với việc phê phán chủ
nghĩa cá nhân trong Đảng.
Đồng thời, khi đánh giá tình hình Đề án xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2011 - 2020,
đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ:
… tư tưởng bản vị cục bộ, ngành nào biết ngành ấy, địa phương nào
biết địa phương ấy, không quan tâm phối hợp và hợp tác, sử dụng
chung. Phải chăng về tầm nhìn, còn hạn chế, thiếu nhìn xa, nhìn tổng
thể, làm cho chất lượng quy hoạch thấp, thiếu đồng bộ giữa kinh tế với
xã hội; giữa cả nước, vùng với địa phương;… Quy hoạch thì “hoành
tráng” nhưng không tính tới nhu cầu sử dụng và nguồn lực thực hiện
nên không khả thi; quy hoạch có khi bị chi phối bởi lợi ích cục bộ hoặc
tư tưởng bình quân, chia đều cho các địa phương,… [29, tr.59].
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do “… Công tác quản lý nhà
nước còn nhiều bất cập, phân cấp đầu tư chưa phù hợp; có nơi, có lúc còn bị chi
phối bởi tư tưởng cục bộ, lợi ích nhóm” [114, tr.25].
Một nhà lãnh đạo khác của Việt Nam cũng chỉ ra bản chất của lợi ích nhóm
và khẳng định kiên quyết ngăn chặn lợi ích nhóm, đồng thời chỉ rõ chúng ta chưa
có một định nghĩa đầy đủ trong từ điển về cụm từ “lợi ích nhóm” nhưng có thể
hiểu, lợi ích nhóm là một nhóm có quyền lực và vị thế nhất định câu kết với nhau
để mưu cầu lợi ích cho các thành viên trong nhóm, nhưng lợi ích này đi ngược lại
với lợi ích quốc gia, ảnh hưởng không tốt đến lợi ích chính đáng của đại đa số
người dân [71].
Đồng chí Trương Tấn Sang - Nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam viết: “Chúng ta không thể chấp nhận những người miệng nói yêu
nước nhưng vì lợi ích cá nhân, “lợi ích nhóm” mà tham nhũng, lãng phí, làm tổn
hại đến lợi ích của đất nước, làm nghèo, suy yếu đất nước. Đây là “giặc nội xâm”,
là những “khối u” trên cơ thể đất nước cần phải cắt bỏ” [92].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Kiên quyết đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội,
thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm” [30, tr.202].
57
Như vậy, có thể thấy, ở nước ta, lợi ích nhóm nhiều khi được nhìn dưới góc
độ tiêu cực. Với nghĩa đó, lợi ích nhóm ở đây được hiểu là:
Lợi ích của một nhóm người (được hình thành trên cơ sở lợi ích cá
nhân, mưu cầu không chính đáng của các cá nhân) mà nhóm này được
hình thành trên nghĩa xấu (hình thành do cấu kết kiếm lợi từ cái chung
cho riêng mình) chứ không phải theo nghĩa của một tập thể với hàm ý
tốt. Tức là, một số người lấy lợi ích không chính đáng của nhóm mình
hay chính bản thân mình để hành động nhằm cầu lợi riêng mà xâm hại
đến lợi ích Nhà nước và lợi ích tập thể. Và để đạt được lợi ích nhóm
theo nghĩa này, con người phải lợi dụng sơ hở, lợi dụng quyền lực, lợi
dụng quan hệ để móc nối kiếm lợi, chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức,
chà đạp lên luật pháp, chà đạp lên mọi yếu tố đạo đức và danh dự để
cầu lợi cho mình, cho nhóm mình [73, tr.18].
Nội hàm của lợi ích nhóm ở đây là lợi ích của một nhóm người hình thành
trên cơ sở: lợi ích cá nhân không chính đáng; trục lợi, kiếm chác, tham nhũng để
làm lợi cho nhóm mình; xâm hại đến lợi ích nhà nước và tập thể; hành động phi
pháp [73, tr.24].
2.2.3. Kinh nghiệm kiểm soát lợi ích nhóm của một số nước trên thế giới
2.2.3.1. Thừa nhận sự phát triển của lợi ích nhóm
Ở rất nhiều nước, sự hình thành và phát triển của lợi ích nhóm được thừa
nhận và có hành lang pháp lý cho hoạt động. Nhờ đó, lợi ích nhóm phát huy được
tính tích cực và hạn chế được tính tiêu cực của nó.
* Lợi ích nhóm ở Mỹ
Người Mỹ có thói quen gia nhập nhóm, hội, đoàn nghiệp dư nào đó của
người thân, bạn bè hay đồng nghiệp để chia sẻ thông tin hoặc chia sẻ các cơ hội
đem đến việc làm phụ nhiều thu nhập, đôi khi là để tương trợ, giúp đỡ người
nghèo. Từ những năm 1760, dân lao động và viên chức Bắc Mỹ đã thích tập hợp
thành nhóm (có người khởi xướng) để trao đổi thông tin về các sắc thuế mới, tình
hình châu Âu, chính sách của Thủ tướng Anh với các vùng thuộc địa. Số lượng
các nhóm như vậy ngày càng đông, dần lan sang cả giới quý tộc và công chức cao
cấp. Cụm từ “nhóm lợi ích” chính thức xuất hiện từ đầu thế kỷ XIX. Tuy vậy, về
58
cơ sở pháp lý, trong bản sửa đổi đầu tiên của Hiến pháp Mỹ năm 1787 đã cung
cấp các cơ sở pháp lý cho cái gọi là “những nhóm lợi ích đặc biệt”. Theo đó, bất
cứ một nhóm nào cũng đều có quyền yêu cầu rằng các quan điểm của họ phải
được sự lắng nghe của công chúng, của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tòa
án. Đến năm 1946, Luật về nhóm gây áp lực được thông qua. Năm 1995, Quốc
hội Mỹ đã biểu quyết chấp thuận một đạo luật mới quy định thể lệ hành nghề
lobby (vận động hành lang), thay thế đạo luật năm 1946. Đến giữa thế kỷ XX, chỉ
khoảng 1/3 dân Mỹ - đa số là giới trẻ, phụ nữ và những người thu nhập thấp - là
không quan tâm đến việc tham gia vào các hội đoàn, còn 2/3 dân Mỹ là thành viên
của một nhóm nghiệp dư hoặc chuyên nghiệp nào đó.
* Lợi ích nhóm ở một số nước châu Âu
Nguồn gốc nhóm lợi ích ở Anh gắn liền với sự ra đời của nghị viện nước
này, tức là khoảng thế kỷ XIII. Trong khi ở Pháp, thời kỳ trước cách mạng tư sản
năm 1789, các nhóm lợi ích đại diện cho quyền lợi của các tầng lớp xã hội đã ra
đời dựa trên sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản và ảnh hưởng của
cách mạng Anh. Tuy nhiên, trong khi ở Anh, các nhóm lợi ích ngày càng nhiều, số
lượng đông, quy mô lớn với những đóng góp lớn cho nền chính trị thì ở Pháp,
chúng lại không được chính quyền ủng hộ mặc dù vẫn tồn tại và hoạt động. Ở
Đức, từ đầu thế kỷ XIX, các đảng phái chính trị hình thành kéo theo sự xuất hiện
của các nhóm lợi ích.
Các nhóm lợi ích ở Tây Âu phát triển nhanh khi Liên minh châu Âu (EU)
ra đời. Những nước có nhóm lợi ích hoạt động mạnh và quy mô, đặc biệt là hoạt
động vận động hành lang là Anh, Đức, Bỉ, Hà Lan, Ý, Áo, Thụy Điển… Các nước
như Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, mặc dù không có quy định cho các nhóm lợi ích
hoạt động nhưng trước việc một châu Âu thống nhất với nhiều lợi ích đan xen và
sau những thua thiệt về lợi ích quốc gia đã phải xem xét đến các hoạt động vận
động hành lang tại EU. Bỉ - nơi đóng trụ sở EU - trở thành trung tâm của các hoạt
động của các nhóm lợi ích ở châu Âu. Nơi đây tập trung rất nhiều văn phòng,
công ty tư vấn, cố vấn và các nhà vận động hành lang. Các nhóm lợi ích ở các
nước Tây Âu đang cố gắng thâm nhập vào hoạt động của các thể chế EU, tìm cách
ảnh hưởng đến các quy tắc, biện pháp hội nhập, sự phát triển và nguồn tài trợ. Bản
59
thân các quan chức EU cũng rất cần thông tin từ các nhóm này để nâng cao vai trò
của các thể chế và chính sách của mình. Hiện nay, có hơn ½ công dân các nước
EU tham gia các nhóm lợi ích.
2.2.3.2. Tạo hành lang pháp lý cho lợi ích nhóm hoạt động và áp dụng cơ
chế công khai, minh bạch để kiểm soát lợi ích nhóm
Một trong những kinh nghiệm để kiểm soát lợi ích nhóm là thừa nhận sự
phát triển của lợi ích nhóm, từ đó tạo hành lang pháp lý cho các lợi ích nhóm hoạt
động. Cùng với đó là công khai, minh bạch các hoạt động để từ đó dễ hơn trong
kiểm soát lợi ích nhóm là kinh nghiệm mà các nước phát triển áp dụng và đạt
được kết quả tích cực.
Ở các nước đa nguyên chính trị, hoạt động của các đảng phái chính trị là hoạt
động của các nhóm lợi ích. Các nhóm lợi ích được đăng ký hoạt động trong khuôn
khổ của luật pháp và được pháp luật bảo vệ hoặc bị xử phạt khi vi phạm. Về cơ sở
pháp lý, Hiến pháp Mỹ năm 1787 trong bản sửa đổi đầu tiên, đã cung cấp cơ sở pháp
lý cho “những nhóm lợi ích đặc biệt”. Theo đó, bất cứ một nhóm nào cũng đều có
quyền yêu cầu các quan điểm của họ phải được sự lắng nghe của công chúng, của các
cơ quan lập pháp, hành pháp và các tòa án. Năm 1946, Luật về nhóm gây áp lực được
thông qua. Năm 1995, Quốc hội Mỹ đã biểu quyết chấp thuận một đạo luật mới quy
định thể lệ hành nghề vận động hành lang để thay thế đạo luật năm 1946.
Đạo luật Vận động hành lang Disclosure (1995) yêu cầu những người vận
động hành lang hoặc tổ chức nào sử dụng một người vận động hành lang bắt buộc
phải đăng ký với Thư ký của Thượng viện và Thư ký Hạ viện. Người vận động
hành lang phải công khai một loạt các thông tin, chẳng hạn như, danh tính của họ
và của các tổ chức, danh tính và địa chỉ kinh doanh của khách hàng, các vấn đề
vận động (với chi tiết cụ thể bằng văn bản pháp luật) cũng như thu nhập của họ
(mỗi khách hàng) và tổng chi phí vận động hành lang mỗi quý. Luật cũng yêu cầu
tất cả các đăng ký và báo cáo được thực hiện phải có sẵn cho công chúng kiểm tra
qua Internet ngay sau khi báo cáo được đệ trình. Về việc ngăn ngừa xung đột lợi
ích, Mỹ thiết lập một hệ thống riêng biệt cho những người giữ vị trí cấp cao.
Luật pháp cũng có những quy định hạn chế đối với những người làm vận
động hành lang. Ví dụ, cấm các Thượng nghị sĩ và nhân viên văn phòng Thượng
60
viện không được nhận quà hoặc chiêu đãi đáng giá trên 100 đô la mỗi người mỗi
năm, cấm không được tham dự những chuyến đi giải trí do tư nhân đài thọ. Tuy
nhiên, thể lệ về quà cáp và chiêu đãi cũng có tới 24 trường hợp ngoại lệ. Luật cũng
buộc những người làm vận động hành lang mỗi năm phải báo cáo với Nhà nước hai
lần về số tiền họ nhận của các công ty, nhận để làm gì và thân chủ của họ là ai; và
quy định rằng, bất cứ ai được trả tiền để vận động các nhà lập pháp và các quan
chức Chính phủ đều được coi là người làm vận động hành lang, nếu người ấy dùng
ít nhất 20% thời gian của mình để đại diện cho thân chủ trong thời gian sáu tháng.
Để tạo vị thế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các nhóm lợi ích,
luật pháp của Canada đã thiết lập quy định về vận động hành lang khá nghiêm
ngặt. Theo Luật Vận động hành lang, các thành viên của Chính phủ không được
phép tham gia vào các hoạt động vận động hành lang với Chính phủ Liên bang
trong vòng năm năm, sau khi họ thôi giữ chức vụ. Hơn nữa, việc đăng ký của các
đơn vị và cá nhân như vận động hành lang theo quy định là bắt buộc và các thông
tin đăng ký được công khai.
Quy tắc ứng xử của người vận động hành lang cũng đã được triển khai để
đảm bảo rằng “vận động hành lang được thực hiện có đạo đức với các tiêu chuẩn
cao nhất trên quan điểm bảo tồn và nâng cao niềm tin và sự tin tưởng vào sự thanh
liêm, tính khách quan và công bằng trong hoạch định chính sách của chính phủ”.
Văn phòng Ủy ban Vận động hành lang chịu trách nhiệm về việc thực hiện và
củng cố cả Luật Vận động hành lang và Các quy tắc ứng xử. Các Ủy viên là đại lý
độc lập của Quốc hội, bởi cả hai viện của Quốc hội nhiệm kỳ bảy năm chỉ định.
Đối với xung đột lợi ích, theo đạo luật xung đột lợi ích, tất cả các cán bộ công
chức, bao gồm cả các thành viên cao cấp của chính phủ, có nhiệm vụ xác định và
tránh xung đột về lợi ích có thể.
Đạo luật yêu cầu các công chức cung cấp một báo cáo mật về tài sản và nợ
phải trả, trong đó có cả các hoạt động trước đây và hiện tại của họ cũng như
những người có quan hệ sinh lý với họ và con cái. Nó vạch ra các quy tắc liên
quan đến tài sản có thể hoặc không thể tiếp tục được quản lý trực tiếp, và cung cấp
định hướng về cách thoái vốn của tài sản. Nó cũng đặt ra những hạn chế về các
hoạt động bên ngoài, chấp nhận những món quà, lời mời đến các sự kiện đặc biệt
61
và tiếp khách, cũng như các hoạt động ngoài công việc, và đưa ra một cơ chế ứng
cứu để giúp các Bộ trưởng trong việc tránh xung đột lợi ích trong việc thực hiện
nhiệm vụ và chức năng chính thức của họ. Ngoài ra, có những hướng dẫn cụ thể
hơn bao gồm các vấn đề quan trọng, như xử lý tốt trong việc đối phó với các hình
thức lobby và các hoạt động gây quỹ chính trị cho các Bộ trưởng.
Tại Liên minh châu Âu, kể từ tháng 6 năm 2001, một bản “Đăng ký minh
bạch” chung để xử lý các hoạt động vận động hành lang ở cả Ủy ban châu Âu và
Nghị viện châu Âu đã được hình thành. Tất cả những người vận động hành lang,
người đăng ký phải kê khai khách hàng của họ là ai và các thu nhập phát sinh từ
hoạt động vận động hành lang. Trong khi việc đăng ký là không bắt buộc, Nghị
viện châu Âu vẫn duy trì hệ thống của mình để đưa ra đường truyền truy cập và
những người vận động hành lang không đăng ký không đủ điều kiện đi qua (Văn
phòng Xúc tiến dân chủ nghị viện, 2011).
Tuy nhiên, mối quan tâm ngày càng tăng về các cuộc đàm phán phi đạo
đức và bất hợp pháp giữa các thành viên của Nghị viện châu Âu và các nhóm lợi
ích đặc biệt khiến Nghị viện châu Âu tăng cường quy chế đạo đức. Trong bối cảnh
này, một Bộ Quy tắc ứng xử mới dành cho các thành viên của Nghị viện châu Âu
đã được phê duyệt trong tháng 12 năm 2011. Bộ Quy tắc ứng xử cho các thành
viên của Nghị viện châu Âu (MEP) thiết lập các yêu cầu công khai thông tin chi
tiết về các lợi ích tài chính cũng như một lệnh cấm rõ ràng về việc tiếp nhận các
khoản thanh toán hoặc bất kỳ loại phần thưởng nào để đổi lấy ảnh hưởng đến
quyết định của Nghị viện. Bộ Quy tắc ứng xử này cũng cung cấp các quy định rõ
ràng về việc nhận quà tặng (không được phép nhận quà tặng trị giá hơn 150 Euro)
và về khả năng cựu thành viên của Nghị viện được làm người vận động hành lang.
Trong khi Bộ Quy tắc ứng xử được đánh giá là kiên quyết và toàn diện, thì
các văn bản vẫn có một số điểm yếu, đặc biệt là liên quan đến ảnh hưởng của
nhóm lợi ích (Tổ chức Minh bạch quốc tế, 2011). Ví dụ, Bộ luật không có điều
khoản để ngăn chặn các thành viên Nghị viện làm công việc vận động hành lang
ngay sau khi kết thúc nhiệm kỳ của mình và không yêu cầu họ lưu giữ hồ sơ của
tất cả các cuộc họp quan trọng với các đại diện của các nhóm lợi ích trong giao
dịch công việc của họ trước đó.
62
Ở các nước phát triển, ai cũng có quyền vận động hành lang nhưng phải
công khai, minh bạch và đúng luật. Điều này được đảm bảo một phần chính là nhờ
có hệ thống báo chí, công luận và cả cơ quan chuyên môn luôn giám sát, vạch ra
những cái sai để những người đề xuất, người thẩm định và người ra quyết định có
nhiều cơ sở xem xét, đánh giá vì quyền lợi chung của cả cộng đồng.
2.2.3.3. Huy động các nhóm lợi ích công cho cải cách
Đây là giải pháp mà Philippin đã áp dụng thành công. Trong thời kỳ dân
chủ (1946 - 1972), nền chính trị của Philippin bị lũng đoạn bởi sự cấu kết giữa các
nhóm lợi ích tư. Các nhóm này hình thành với một bên là khoảng 100 gia đình tài
phiệt muốn giành đặc quyền đặc lợi, với một bên là các chính trị gia cần tiền đề
mua phiếu bầu. Bị lũng đoạn, nền dân chủ non trẻ của Philippin sụp đổ, thay vào
đó là nền độc tài của Marcos. Toàn bộ nhà nước lại trở thành một nhóm lợi ích
khổng lồ tập trung xung quanh Marcos. Nhưng chính sự phát triển của của các
nhóm lợi ích công với sự ủng hộ to lớn từ phía dân chúng đã giúp Philippin hồi
sinh. Để chống lại các nhóm lợi ích tư đã cắm rễ vào từng ngóc ngách của chính
quyền, các nhà cầm quyền hậu Marcos đã chủ động nâng đỡ và đưa các nhóm lợi
ích công vào quá trình hoạch định chính sách, như tổ chức các “hội nghị thượng
đỉnh dân tộc”, các “bàn tròn” với các đại diện của các nhóm lợi ích công. Bên
cạnh đó, chính quyền còn tạo ra các hội đồng về các vấn đề xã hội và cải cách ở
cấp chính phủ, trong đó có sự tham gia của các nhóm này. Kết quả là chính quyền
có được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng để cải cách toàn diện. Từ năm 1992 -
1998, có tới 85 luật cải cách xã hội được thông qua. Mặc dù còn những di sản
nặng nề của nhiều thập kỷ bị lũng đoạn bởi các nhóm lợi ích tư, Philippin vẫn
được coi là một điển hình thể hiện sự ảnh hưởng to lớn, tích cực và từ dưới lên của
các nhóm lợi ích công trong cải cách toàn diện. Ngày nay, có tới 14.000 tổ chức
dân sự phi tôn giáo ở đất nước hơn 80 triệu dân này.
Lịch sử chính trị Mỹ cũng có những ví dụ cho thấy ảnh hưởng tích cực của
các nhóm lợi ích công với chính sách. Vào cuối thập kỷ 1990, dưới sự lobby của
các tập đoàn dược phẩm hùng mạnh, việc nhập khẩu thuốc theo đơn vào Mỹ rất
khó khăn. Không chịu nổi giá thuốc leo thang, các cụ già vùng Đông Bắc Mỹ,
63
dưới sự tổ chức của các hội hưu trí, đã đi xe buýt sang Canada mua thuốc (trái
phép). Phong trào bất tuân dân sự này ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính quyền. Dù
cuộc chiến pháp lý giữa các tập đoàn thuốc và người tiêu dùng còn tiếp diễn
nhưng hàng loạt tiểu bang đã mặc cả với các hãng thuốc để giảm giá cho người
nghèo hay nới lỏng quy định nhập khẩu thuốc.
2.2.3.4. Tạo ra “đối trọng” giữa các nhóm lợi ích để kiểm soát chúng
Mỹ chính là một ví dụ trong trường hợp này. Thomas Jefferson, một trong
những “nhà lập quốc” của Mỹ cho rằng, các nhóm lợi ích vận động chính quyền
để bảo vệ quyền lợi của mình chính là biểu hiện của nền dân chủ tự do, chỉ cần có
pháp luật minh bạch và tạo thế đối trọng giữa các nhóm. Tuy nhiên, trong một thời
gian dài, chính quyền đã không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của các nhóm
lợi ích, đặc biệt là sự cấu kết giữa các tờ-rớt công nghiệp với chính giới vào đầu
thế kỷ 20, khiến một nghị sĩ Mỹ phải báo động “các nhóm lợi ích này đã đạt được
vị thế quyền lực tới mức có thể đe dọa chính nhà nước”. Nước Mỹ đứng trước
mâu thuẫn, một mặt, phải thừa nhận tính đa dạng về lợi ích, và mặt khác, phải
ngăn chặn sự lũng đoạn. Kết quả là, một mặt, họ tạo ra hàng loạt luật lệ mới bảo
vệ hệ thống chính trị và các đảng phái khỏi ảnh hưởng của vận động hành lang về
tài chính. Mặt khác, họ luật hóa các nhóm lợi ích, như các luật về các ủy ban hành
động chính trị (PACs), về các công ty vận động hành lang. Chính sự tự do trong
việc lobby (vận động hành lang) chính sách đã tạo ra rất nhiều nhóm lợi ích cạnh
tranh và đối trọng lẫn nhau.
Tuy nhiên, kinh nghiệm của Mỹ cho thấy, việc này cũng dẫn tới những tác
động tiêu cực. Điển hình của sự thất bại trong việc kiểm soát lợi ích nhóm ở Mỹ
là sự kiện Abramoff - nhà vận động hành lang có thế lực nhất của Mỹ - đã nhận
tội biển thủ, gian dối tài chính và mua chuộc khách hàng. Tạp chí Time gọi ông ta
là “người đã mua cả Washington”. Trung tâm điều tra độc lập Center for
Responsive Politics đã thống kê khoảng hơn 300 nghị sĩ của cả hai đảng từng
nhận hối lộ từ Abramoff từ 1999. Sau vụ khủng hoảng này, hàng loạt kiến nghị cải
tổ luật về các nhóm lợi ích được đưa ra. Trường hợp nước Mỹ cho thấy dù dân
chủ và minh bạch là điều kiện cần để chống lại sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích
64
nhưng không có giải pháp nào là vĩnh viễn. Mỗi chính quyền phải chủ động điều
chỉnh cơ chế linh hoạt thông qua các quá trình tự cải tổ lâu dài.
2.2.4. Công cụ kiểm soát lợi ích nhóm
Từ kinh nghiệm của mình, các nước phát triển như Mỹ và phương Tây đã
chỉ ra một số công cụ để kiểm soát lợi ích nhóm như sau:
Một là, sử dụng một số lợi thế của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường với
những mặt tích cực của nó như năng động, đòi hỏi sự minh bạch, tạo cơ hội công
bằng cho mọi người làm việc và phát triển - đã trở thành công cụ cho việc kiểm
soát lợi ích nhóm. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường hiện đại có đặc điểm là gắn
với xu hướng công nghệ sạch, thân thiện môi trường, gắn với công bằng xã hội,
phúc lợi xã hội, đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp… Xu hướng này là
tiền đề của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nghĩa là góp phần kiểm soát
lợi ích nhóm đi theo quỹ đạo của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, nhà nước pháp quyền: thượng tôn pháp luật là cơ sở cho sự tồn tại,
hoạt động và kiềm chế của các nhóm lợi ích. Hệ thống pháp luật là căn cứ xác
định các lợi ích hợp pháp và các hành vi thực hiện lợi ích hợp pháp của các
nhóm. Thực tiễn cho thấy, các quốc gia phát triển đều xây dựng các bộ luật
chuyên biệt hướng dẫn các hoạt động thực hiện của các nhóm lợi ích: Luật Xung
đột lợi ích của Canada ban hành năm 2006 và có hiệu lực từ ngày 9 tháng 7 năm
2007; Luật Công bố thông tin và Vận động hành lang của Hoa Kỳ… Thậm chí,
do đặc thù về tổ chức nhà nước, các tỉnh, các bang cũng xây dựng luật như: Luật
Xung đột lợi ích của bang Michigan ban hành năm 1968; Luật Xung đột lợi ích
của tỉnh Alberta (Canada)…
Việc thực thi pháp luật nghiêm minh buộc các nhóm lợi ích phải xem xét,
cân nhắc giữa rủi ro và lợi ích khi tiến hành các hoạt động của mình. Ở góc độ
này, công cụ pháp lý tạo ra sức ép bên trong buộc các chủ thể lợi ích hoạt động
phải hạn chế vi phạm tới lợi ích chung, đặc biệt là lợi ích quốc gia.
Như vậy, thị trường và nhà nước pháp quyền là hai công cụ cơ bản và quan
trọng nhất trong quản trị xung đột lợi ích. Có thể nói, các quốc gia phát triển,
ngoài những lợi thế về địa - kinh tế là các quốc gia có cơ chế thị trường và nhà
nước pháp quyền hoàn thiện.
65
Ba là, kiểm soát lợi ích nhóm thông qua các tổ chức xã hội dân sự.
Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự được coi là ba trụ
cột của sự ổn định và phát triển trong mỗi quốc gia, là xu hướng chung ở nhiều
quốc gia trên thế giới hiện nay. Tổ chức xã hội dân sự được hiểu là tổ chức của
những người hoạt động phi nhà nước, phi lợi nhuận, không tìm kiếm quyền lực
quản lý. Cốt lõi của tư tưởng về xã hội dân sự là lý thuyết về dân chủ, quyền con
người, quyền công dân, về bản chất tự do của xã hội và mỗi cá nhân trong mối
quan hệ với nhà nước và thị trường. Các tổ chức xã hội dân sự tập hợp, đoàn kết
mọi người nhằm thúc đẩy các mục tiêu chung và lợi ích chung. Các tổ chức này
hiện diện trong đời sống công cộng, đại diện thể hiện lợi ích, giá trị của mình
(thành viên, tổ chức) và của người khác được thành lập theo pháp luật và dựa trên
cơ sở đạo đức, văn hoá, tôn giáo hoặc từ thiện... Các tổ chức xã hội dân sự bao
gồm: các tổ chức phi chính phủ (NGO), hiệp hội nghề nghiệp, các quỹ, các viện
nghiên cứu độc lập, các tổ chức cộng đồng (CBOs), các tổ chức tín ngưỡng, các tổ
chức nhân dân, các phong trào xã hội và công đoàn.
Quan điểm phổ biến của phương Tây coi các tổ chức xã hội dân sự là một
bộ phận cấu thành xã hội, không hoàn toàn tách biệt với nhà nước, không hẳn đối
lập với nhà nước. Các nhà nước dân chủ tư sản luôn đề cao, nhấn mạnh vai trò của
xã hội dân sự trong bảo vệ tự do cá nhân, dân chủ trước sự can thiệp của quyền
lực nhà nước. Tổ chức xã hội dân sự có vai trò thúc đẩy các công dân tham gia
vào các vấn đề công cộng, cụ thể là tham gia vào quá trình hình thành và thực thi
chính sách của nhà nước. Đó cũng là cơ chế để người dân chủ động tham gia vào
công việc của chính phủ nhằm kiểm soát và làm cân bằng mối quan hệ giữa nhà
nước với xã hội.
Ở Mỹ, các hội, hiệp hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các chính sách của
Chính phủ: Hiệp hội nghề nghiệp là một hình thức của các nhóm lợi ích trong xã
hội, bao gồm Hiệp hội như Hội Y tế, Hội Luật gia, Hội Cựu chiến binh, Hội Nhà
báo, Hội Những người về hưu… Các nhóm lợi ích có vai trò nhất định trong sự
tham gia và giám sát hoạt động của quyền lực nhà nước, và là công cụ đắc lực
giúp người dân tham gia quản lý xã hội. Nhóm lợi ích đại diện cho các hội viên
66
dựa trên lợi ích chung và bảo vệ lợi ích đó, thông qua các nhóm lợi ích góp phần
giám sát quyền lực nhà nước.
Ở Nhật Bản, các tổ chức xã hội dân sự rất phát triển, đó là những hội, hiệp
hội và tổ chức khác nhau hoặc liên kết hoặc độc lập luôn tác động, giám sát quyền
lực nhà nước; nhà nước trên cơ sở pháp luật luôn mở rộng và tạo điều kiện để các
tổ chức xã hội dân sự phát triển. Chính phủ Nhật Bản luôn coi trọng, lắng nghe,
tiếp thu những ý kiến tham gia, đòi hỏi, yêu cầu hợp lý của các tổ chức xã hội dân
sự và coi đó là một trong những biện pháp để Chính phủ phải có ý thức hơn về
trách nhiệm trong sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc ban hành và thực
hiện chính sách của mình.
Các nước Bắc Âu như Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch, Aixơlen, Phần Lan
đều là những nước phát triển. Ngoài tự do, dân chủ, các đất nước trên đều đề cao
tính công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước và coi trọng phát triển
các tổ chức xã hội dân sự. Ở Thuỵ Điển, hệ thống chính trị tạo điều kiện để các
lực lượng xã hội tích cực tham gia các hiệp hội, đảng phái và thông qua đó sẽ tác
động ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chính trị của quốc gia. Các tổ chức xã hội
dân sự có vai trò bổ sung và đóng góp quan trọng vào quan điểm của Chính phủ,
được coi như trường học cho dân chủ và quyền công dân và là công cụ để nhân
dân tham gia hoạt động chính trị, chia sẻ trách nhiệm xã hội với nhà nước.
Bốn là, dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là một công cụ quan trọng
để kiểm soát lợi ích nhóm, thông qua đó, tạo sự minh bạch và cung cấp thông tin.
Dư luận xã hội, ngoài vai trò giáo dục con người, điều chỉnh hành vi cá nhân và
các mối quan hệ xã hội, còn được xem xét như là thông tin giám sát của người dân
và các tầng lớp xã hội đối với các cá nhân, nhóm lợi ích và đặc biệt là việc thực thi
chức năng của các cơ quan, tổ chức xã hội. Tuy nhiên, với tính cách là một nguồn
tin, dư luận xã hội chỉ phát huy vai trò công cụ của nó của nó khi hệ thống truyền
thông đại chúng phát triển. Truyền thông đại chúng phản ánh và truyền tải dư luận
xã hội mà nhờ đó, dư luận xã hội mới phát huy vai trò.
Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng giúp cho các nhóm lợi ích nắm
bắt được những xu hướng, hoạt động của các nhóm khác có liên quan đến lợi ích
của mình, qua đó, họ có những động thái phản biện, đối phó để bảo vệ lợi ích hợp
67
pháp của mình. Chúng cũng góp phần truyền tải thông tin về hoạt động của các
nhóm lợi ích và của các mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích để chủ động có những
giải pháp phù hợp, kịp thời.
Cần nhấn mạnh rằng, những công cụ kể trên là dựa trên kinh nghiệm của
các Mỹ và các nước phương Tây, vì vậy việc áp dụng và học tập cần dựa trên thực
tiễn đất nước ta mới có hiệu quả thực sự.
2.2.5. Một số nhận định về vấn đề lợi ích nhóm
Cần phải thống nhất nhận thức và quan niệm về lợi ích nhóm. Ở Việt Nam,
cách hiểu về lợi ích nhóm còn mơ hồ và chưa đủ nội hàm khoa học. Lợi ích nhóm
thực chất là lợi ích của các cá nhân liên kết lại với nhau để thực hiện một mục tiêu
chung nào đó theo một phương thức nhất định. Lợi ích nhóm tồn tại khách quan
trong xã hội còn nhiều khác biệt về kinh tế và xã hội. Theo đó, một mặt, phải thừa
nhận tính đa dạng về lợi ích, mặt khác, phải ngăn chặn sự lũng đoạn chính sách
bởi nhóm lợi ích.
Lợi ích nhóm vừa thể hiện lợi ích riêng (lợi ích của riêng một nhóm trong
một xã hội tồn tại nhiều các nhóm lợi ích khác nữa) vừa là lợi ích chung (lợi ích liên
kết nhiều cá nhân lại với nhau). Với tư cách là lợi ích riêng, lợi ích nhóm được coi
là một trong những động lực của phát triển xã hội. Ở dạng thức tích cực, nó là cơ sở
để thực hiện lợi ích chung. Với tư cách là cái chung, mẫu số chung của các thành
viên, lợi ích nhóm định hướng cho các cá nhân hành động. Tuy nhiên, với tư cách là
lợi ích riêng, lợi ích nhóm cũng có những tác động tiêu cực đến sự phát triển của xã
hội. Bởi như đã phân tích ở trên, lợi ích riêng mang tính ích kỷ, nên đôi khi, vì lợi
ích riêng có thể xâm hại đến lợi ích chung, mâu thuẫn với lợi ích chung.
Lợi ích vừa liên kết các cá nhân, các nhóm, cộng đồng (khi có cùng chung
nhu cầu, mục đích), vừa chia rẽ các nhóm, các cộng đồng (khi các nhóm có lợi ích
khác nhau và không thể điều hòa). Rõ ràng, mỗi nhóm đều có lợi ích nhóm của
mình. Nhưng giữa các nhóm bao giờ cũng có mối quan hệ. Bởi vì, “con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, hoạt động của mỗi cá nhân đều có tác động trực
tiếp hay gián tiếp đến các thành viên khác. Khi một nhóm có lợi ích thì các nhóm
khác ít hay nhiều cũng đều bị ảnh hưởng (có thể được lợi hơn hoặc bị thiệt hại).
Do đó, quan hệ giữa các nhóm có thể phù hợp hoặc mâu thuẫn. Tuy nhiên, cần
68
nhìn nhận rằng, mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích là hiện tượng tất yếu trong xã
hội. Như vậy, dù cho cơ quan hoạch định chính sách có ý thức vì lợi ích của xã hội
khi ban hành chính sách thì vẫn sẽ có những chính sách chỉ có lợi cho một số
nhóm này và bất lợi cho một số nhóm khác. Một chính sách đúng đắn phải đem lại
lợi ích cho xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, cho dù nó có thể làm
thiệt hại lợi ích của một nhóm nào đó. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là kết hợp lợi
ích của các nhóm cụ thể với lợi ích xã hội thế nào cho hài hòa. Điều này sẽ quyết
định sự ổn định của xã hội, tính hiệu quả của các cơ quan công quyền và uy tín,
năng lực của đảng cầm quyền.
Một chế độ chính trị được coi là minh bạch, tiến bộ khi có khả năng điều
hòa được xung đột lợi ích nhóm, phân bổ lợi ích thỏa đáng, làm cho lợi ích phát
huy giá trị động lực, hạn chế tối đa những mặt tiêu cực của nó. Cho đến nay, ở
Việt Nam chưa tồn tại một văn bản pháp quy cho hoạt động của nhóm lợi ích. Vì
vậy, đã đến lúc chúng ta cần thừa nhận vai trò của nhóm lợi ích, xây dựng các văn
bản pháp luật liên quan đến các nhóm lợi ích cũng như hoạt động của các nhóm
này để điều chỉnh hiệu quả hoạt động của chúng.
2.3. LỢI ÍCH NHÓM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM
2.3.1. Lợi ích nhóm tồn tại khách quan và cần được thừa nhận, định
hướng điều tiết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã xác
định xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất trung
gian. Vì thế, trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, đều có những đặc trưng
trong giai đoạn này. Việt Nam có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hay rơi vào
nguy cơ chệch hướng là do rất nhiều yếu tố tác động, trong đó có lợi ích nhóm.
Trước hết phải khẳng định, lợi ích nhóm vẫn tồn tại khách quan trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội
thừa nhận sự khác biệt về lợi ích và tạo điều kiện cho sự vận động lịch sử - tự
69
nhiên của những lợi ích không trái với lợi ích chung của cộng đồng quốc gia dân
tộc. Trong đó, những lợi ích nhóm tích cực vẫn đóng vai trò động lực xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở cho xu hướng cộng đồng về lợi ích ngày càng
phát triển. Bởi sự xích lại gần nhau của các giai cấp trong quá trình phát triển xã
hội xã hội chủ nghĩa cũng cần tới tác động của vấn đề tương đồng về lợi ích.
Nhưng, chủ nghĩa xã hội không chấp nhận sự khác biệt tới mức xung đột về lợi
ích giữa các nhóm để từ đó tạo ra xung đột giai cấp. Xây dựng xã hội công bằng,
bình đẳng, hài hòa... là để tránh xung đột xã hội về lợi ích nhóm bùng nổ thành nội
chiến và gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là cơ sở định hướng cho việc thực hiện các lợi
ích nhóm tích cực. Định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là hài hòa các nhóm
lợi ích. Ngược lại, vấn đề lợi ích, lợi ích nhóm cũng có tác động đến chủ nghĩa
xã hội. Lợi ích nhóm phù hợp với lợi ích cộng đồng sẽ góp phần thúc đẩy quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cần đến vai trò thúc đẩy hỗ trợ
của Đảng và Nhà nước. Lợi ích nhóm không phù hợp với lợi ích cộng đồng sẽ
trở thành lực cản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với
nhóm này cần đến sự định hướng, điều tiết, kiềm chế của Đảng và Nhà nước và
sự phê phán của dư luận xã hội.
2.3.2. Nhìn nhận và điều tiết một số biểu hiện tiêu biểu của lợi ích
nhóm ở nước ta hiện nay
Trong luận án này, chúng tôi muốn đề cập đến lợi ích nhóm ảnh hưởng đến
các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
được xác định có 8 đặc trưng như Cương lĩnh 2011 đã khẳng định:
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
70
trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [28, tr.70].
Luận án tập trung phân tích ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến 3 lĩnh vực là
kinh tế, xã hội và chính trị.
2.3.2.1. Lợi ích nhóm trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam cần được thừa nhận mặt hợp lý và điều tiết mặt tiêu cực
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên
quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Mác đã khẳng định: chủ
nghĩa xã hội chỉ thực hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”. Nền đại công
nghiệp phát triển trên cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên
lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao
năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của
phương thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung
và lô-gíc vận động như đã luận giải ở phần trên, Đảng ta đã tập trung phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể
chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát
triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức nền
kinh tế đặc biệt của xã hội đặc biệt, nó vừa tuân theo những quy luật của bản thân
hệ thống (kinh tế thị trường), lại vừa bị chi phối bởi những nguyên tắc xã hội chủ
nghĩa. Tính chất xã hội, mục tiêu xã hội mà cụ thể là tăng trưởng kinh tế đi đôi với
xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là những sắc thái đặc thù của xã
hội mà nhân dân ta xây dựng thông qua công cụ là nền kinh tế thị trường. Đây là
nền kinh tế thị trường mới, có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường với
những mặt tích cực của nó - như năng động, đòi hỏi sự minh bạch, tạo cơ hội cho
mọi người làm việc và phát triển. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường hiện đại có
đặc điểm là gắn với xu hướng công nghệ sạch, thân thiện môi trường, gắn với
71
công bằng xã hội, phúc lợi xã hội, đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp…
Đây là xu hướng của một nền kinh tế thị trường mới.
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nếu khuyến khích được lợi ích nhóm tích cực sẽ giúp kích thích sản xuất,
giải phóng sức lao động, góp phần đưa nền kinh tế phát triển. Nhưng nền kinh tế
thị trường nước ta còn sơ khai, trình độ quản lý thấp với khá nhiều sơ hở về thể
chế và thiết chế. Đây là cơ hội cho sự xuất hiện các lợi ích nhóm tiêu cực. Tác
động của lợi ích nhóm, bởi vậy, ở nước ta hiện nay thường được đề cập đến ở mặt
tiêu cực. Nếu lợi ích nhóm tiêu cực không bị kiềm chế, kinh tế thị trường sẽ bộc lộ
những thuộc tính hạn chế vốn có của nó và làm chệch hướng xã hội chủ
nghĩa. Tác động của lợi ích nhóm tiêu cực sẽ tạo môi trường thúc đẩy chủ nghĩa cá
nhân, tham nhũng cùng với những hoạt động phi pháp và sự tha hóa đạo đức phát
triển. Nền kinh tế thị trường cũng gây nên khủng hoảng kinh tế chu kỳ, phân hóa
tạo ra trong xã hội sự phân hóa sâu sắc giữa một bên là những người rất giàu và
cực đối lập là những người rất nghèo, khiến xung đột lợi ích trong xã hội càng
thêm trầm trọng.
Nhìn nhận vấn đề lợi ích nhóm và kiềm chế lợi ích nhóm tiêu cực trong
kinh tế thị trường ở nước ta đều liên quan trực tiếp đến vai trò của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.3.2.2. Lợi ích nhóm trong xã hội cần được Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam quan tâm, điều tiết
Trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, nhà nước, quyền lực
nhà nước phải lấy sự công bằng là một trong những mục tiêu, tôn chỉ tối cao trong
tổ chức và hoạt động của mình. Để hoàn thành mục tiêu ấy, không có con đường
nào khác ngoài xây dựng một nhà nước pháp quyền. Về mặt hình thức, trong nhà
nước pháp quyền, pháp luật có vị trí thống trị tối cao, nhà nước, các cơ quan nhà
nước, nhân viên của bộ máy nhà nước, mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều bị
ràng buộc bởi pháp luật. Nhà nước pháp quyền “về mặt lý thuyết, tự đặt mình
dưới pháp luật mà không phải đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Pháp luật
không chỉ là công cụ để duy trì và phát triển xã hội mà còn là công cụ để duy trì sự
tồn tại của ngay chính bản thân nhà nước. Chức năng, quyền hạn của nhà nước chỉ
72
nằm trong khuôn khổ pháp luật” [124, tr.34]. Về mặt bản chất, pháp luật do cơ
quan lập pháp ban hành không phải là một sản phẩm tự do duy ý chí, không phải
là từ ý muốn của người làm luật, mà nó phản ánh thực tại khách quan của xã hội,
đáp ứng các yêu cầu của tiến bộ xã hội. Nói cách khác, sự đảm bảo tối cao của
Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý
chí chung của nhân dân và lợi ích chung của xã hội. Nhà nước thực hiện và bảo vệ
các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của công dân. Nhà nước và
công dân đảm bảo trách nhiệm lẫn nhau, có quan hệ mật thiết và ràng buộc lẫn
nhau về quyền và nghĩa vụ do pháp luật điều chỉnh. Bảo đảm đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của công dân là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước chịu trách nhiệm
trước công dân về những hoạt động của mình và công dân chịu trách nhiệm trước
Nhà nước về những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Ở tất cả các nước dân
chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền được xem là mục tiêu hàng đầu và quan trọng
nhất, để đảm bảo một xã hội công bằng, nhân văn và văn minh.
Kể từ Đại hội VII, Đảng ta khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong đó quyền lực nhà
nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận vị
trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội; tổ chức và hoạt
động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật; là nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, theo Hiến pháp năm 2013, để thực hiện quyền lực nhà nước,
bộ máy Nhà nước Việt Nam về cơ bản bao gồm 5 bộ phận: các cơ quan quyền lực
nhà nước là Quốc hội; Hội đồng nhân dân các cấp; Chủ tịch nước, các cơ quan
quản lý nhà nước là Chính phủ và hệ thống các cơ quan hành chính; các cơ quan
tòa án; các cơ quan kiểm sát. Giữa các bộ phận này không tồn tại mối liên hệ đối
trọng, kiềm chế lẫn nhau nhưng giữa chúng có sự phân công và phối hợp thực
hiện các chức năng của nhà nước với vai trò trung tâm thuộc về cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - Quốc hội. Nhiệm
73
vụ và quyền hạn của Quốc hội là: lập hiến và lập pháp, quyết định chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc tuân thủ
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chính sách tài chính - tiền tệ, các
vấn đề về ngân sách nhà nước, thuế, các chính sách dân tộc, tôn giáo của Nhà
nước; quy định tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm một số quan chức cấp cao của Nhà nước theo luật định; quyết định vấn đề
chiến tranh và hòa bình; quyết định các chính sách đối ngoại, phê chuẩn hoặc bãi
bỏ các điều ước quốc tế theo luật định…
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoàn xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hệ thống các cơ quan tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bao gồm các cơ quan tòa án và các cơ quan kiểm sát. Hoạt động xét xử, theo luật
định, thuộc về hệ thống tòa án, bao gồm Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các
cấp, tuy nhiên do chất lượng đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên chưa cao dẫn đến
tình trạng oan sai còn lớn; sự độc lập của hoạt động xét xử mới chỉ là tương đối.
Như vậy, lợi ích nhóm ảnh hưởng tích cực là khi các nhóm lợi ích tham
gia vào việc xây dựng, hoạch định, soạn thảo chính sách nhằm đáp ứng được yêu
cầu của các nhóm này một cách tốt nhất, giúp nhà nước xem xét giải quyết hài
hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội. Ngược lại, nếu lợi ích nhóm tiêu cực sẽ
khiến các nhóm lợi ích lợi dụng kẽ hở của pháp luật, thay đổi chính sách có lợi
cho nhóm mình.
2.3.2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong môi trường xã hội đan xen các lợi ích nhóm
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, đại diện cho lợi ích của quốc
gia dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân. Đảng phải là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được thực hiện
chủ yếu thông qua Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương, bằng
74
công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Đảng giới
thiệu đúng cán bộ đủ tiêu chuẩn để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào các cơ quan nhà
nước theo quy định của Điều lệ Đảng.
Việc đại biểu cho những lợi ích nhóm tích cực, đa số, sẽ giúp nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của Đảng. Ngược lại, khi lợi ích nhóm
tiêu cực tấn công vào đội ngũ cán bộ đảng viên sẽ làm đội ngũ này tha hóa, biến
chất, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng… Nhân dân sẽ mất niềm tin vào sự
lãnh đạo Đảng và đảng viên và không thể giữ vững vai trò lãnh đạo sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nếu xử lý không hài hòa các lợi ích và không
hạn chế được sự hoành hành của các nhóm lợi ích.
Đó là những vấn đề có tính quy luật và cũng là kinh nghiệm xương máu
của các đảng bạn mà Đảng Cộng sản Việt Nam cần ghi nhớ.
2.3.2.4. Công bằng, hài hòa các nhóm lợi ích trong xã hội hiện nay
Việc giải quyết hài hòa các lợi ích được thể hiện ở việc Đảng và Nhà nước
ta khẳng định việc phân phối công bằng. Đó là một trong những giá trị đảm bảo
cho sự phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan hệ phân phối bảo đảm
công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng với nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi
xã hội. Điều này vừa khác với phân phối theo tư bản của kinh tế thị trường thông
thường, lại vừa khác với phân phối theo lao động giáo điều mang tính bình quân
trong chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đây. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nếu chính quyền thực sự là chính quyền của dân, do dân,
vì dân thì hoàn toàn có thể thông qua các công cụ phân phối lại và chính sách xã
hội tích cực để giải quyết được mâu thuẫn cố hữu của phát triển kinh tế thị trường.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm tạo sự công bằng, bình
đẳng giữa mọi người dân trong xã hội như: công bằng về cơ hội, về tư liệu sản
xuất (các chủ thể đều có quyền ngang nhau về tiếp cận nguồn vốn, tư liệu sản xuất
và những điều kiện sản xuất kinh doanh nói chung dưới nhiều hình thức khác
75
nhau); về lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và đào tạo,… Việc giải
quyết hài hòa các lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân sao cho mỗi nhóm
đều có công bằng trong các khâu từ tiếp cận cơ hội, tiếp cận tư liệu sản xuất đến
thụ hưởng sẽ thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, là cái để phân biệt
chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản.
2.3.2.5. Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực của lợi ích nhóm
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời
là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đại đa số nhân
dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và
thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Mọi
hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ làm tổn hại lợi
ích của nhân dân và Tổ quốc đều phải bị phê phán và nghiêm trị. Những tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và vô trách nhiệm, lạm quyền và xâm phạm quyền làm
chủ của nhân dân đều phải được ngăn ngừa và trừng trị. Pháp chế xã hội chủ nghĩa
cần được tăng cường, trách nhiệm công dân cần được đề cao. Xây dựng và hoàn
thiện các cơ chế và biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước, phòng ngừa ngăn
chặn và xử lý nghiêm những sai phạm làm suy thoái và biến chất quyền lực nhà
nước của nhân dân.
Các thể chế và cơ chế dân chủ phải bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, tính tích cực chính trị của công dân ngày càng tăng, không khí dân chủ
ngày càng mở rộng và sự quan tâm và tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà
nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về
quyền và trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn
quyền và trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống.
Việc tạo môi trường dân chủ sẽ lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia
vào đời sống chính trị - xã hội và củng cố, bảo vệ lợi ích cộng đồng. Xã hội dân
76
chủ được hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội hỗ trợ,
phối hợp với Nhà nước thực hiện những chức năng xã hội mà Nhà nước không
làm được hoặc thực hiện không có hiệu quả. Mặt khác, nó lại phản biện, giám sát
nhà nước, hạn chế sự lạm quyền, chuyên quyền của các cơ quan và công chức
nhà nước.
Ngược lại, lợi ích nhóm cũng có những tác động tới dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đó là thông qua các nhóm lợi ích, công dân dễ dàng hơn trong việc đề
xuất những ý kiến của mình, tham gia vào các quá trình hoạch định các quyết
sách chính trị, tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, thúc đẩy dân chủ phát
triển. Nhờ đó mà thúc đẩy người dân tích cực tham gia đời sống chính trị. Tuy
nhiên, lợi ích nhóm cũng có tác động tiêu cực đến dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó
là khi những nhóm có tiềm lực về kinh tế, hoặc chính trị, hoặc cả kinh tế và
chính trị, sử dụng quyền lực này để phục vụ lợi ích của nhóm mình, sẽ khiến lợi
ích đôi khi thuộc về thiểu số chứ không phải đa số nhân dân. Đặc biệt, lợi ích
nhóm tiêu cực làm gia tăng tình trạng tham nhũng, đôi khi, nó chính là một dạng
của tham nhũng, cũng gây tổn hại nghiêm trọng đến nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa của nước ta.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Từ việc phân tích một số vấn đề lý luận về lợi ích nhóm, có thể đưa ra một
số kết luận như sau:
Một là, lợi ích nhóm là một hiện tượng khách quan của đời sống xã hội loài
người. Lợi ích nhóm có cả ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển kinh tế xã hội của một đất nước. Nhìn nhận đúng bản chất của lợi ích nhóm
mới có cách ứng xử và kiểm soát nó một cách hiệu quả.
Hai là, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tuy chưa gọi rõ khái niệm lợi ích nhóm nhưng đã đề cập đến những đặc
trưng, biểu hiện của lợi ích nhóm như chủ nghĩa cá nhân, tính tự phát tiểu tư sản,
tính cục bộ, địa phương, bè phái, tham nhũng… Đó là những chỉ dẫn trong việc
77
tìm ra nguyên nhân, từ đó, tìm ra được giải pháp cho việc kiểm soát lợi ích nhóm
ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam trước đây cũng đã từng đề cập đến những
biểu hiện của lợi ích nhóm và gần đây đã gọi tên, chỉ rõ tác hại của lợi ích nhóm
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đến sự lãnh đạo của Đảng
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Việc Đảng ta thừa nhận
sự ảnh hưởng của lợi ích nhóm như trên là cơ sở để chúng ta tiến hành đẩy mạnh
việc đấu tranh chống lợi ích nhóm tiêu cực.
Bốn là, khái niệm lợi ích nhóm tuy mới được nhắc đến gần đây và mới
được giới khoa học Việt Nam nghiên cứu, nhưng trên thực tế, nó đã xuất hiện và
tồn tại ở nước ta từ nhiều năm trước. Sự tồn tại của nó vừa có những ảnh hưởng
tích cực, vừa có những ảnh hưởng tiêu cực đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Việc nghiên cứu lợi ích nhóm của các nước
trên thế giới và các phương thức kiểm soát nó cùng với việc tìm hiểu lợi ích nhóm
ở Việt Nam là cơ sở để chúng ta đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm phát huy
ảnh hưởng tích cực cũng như hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm.
Năm là, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đang chịu nhiều
yếu tố ảnh hưởng trong đó có lợi ích nhóm. Sự ảnh hưởng này được nhìn nhận ở
cả mặt tích cực và tiêu cực trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, xã hội. Nếu
lợi ích nhóm ảnh hưởng thuận chiều, sẽ góp phần đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa; ngược lại, nếu lợi ích nhóm ảnh hưởng nghịch chiều, sẽ khiến đất nước ta
chệch hướng con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
78
Chương 3
NHẬN DIỆN LỢI ÍCH NHÓM Ở VIỆT NAM
VÀ THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA LỢI ÍCH NHÓM
ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. NHẬN DIỆN LỢI ÍCH NHÓM Ở VIỆT NAM
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, có hai dạng lợi ích nhóm: lợi ích nhóm chính
thức và lợi ích nhóm phi chính thức.
3.1.1. Các lợi ích nhóm chính thức
Ở Việt Nam, có thể xem lợi ích nhóm chính thức là các tổ chức chính trị -
xã hội và một số tổ chức xã hội hiện nay. Trung thành với lợi ích chung của dân
tộc, gắn bó với mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, được pháp luật
thừa nhận vai trò đại diện cho lợi ích của quần chúng và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng là những tiêu chí xác định tính chính thức của các nhóm này. Các hội đoàn
có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta coi những tổ chức này
là những bộ phận hữu cơ của hệ thống chính trị Việt Nam. Dưới góc độ nghiên
cứu của chúng tôi, cũng có thể xem như là thừa nhận sự tồn tại của các lợi ích
nhóm chính thức ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam có thể phân biệt
ba loại thiết chế là:
Tổ chức chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam;
Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng như:
Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt Nam, Hội
Nhà báo Việt Nam...
Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các
tổ chức xã hội khác mà tiêu biểu là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
79
Ở trong luận án này, chúng tôi đề cập đến một số nhóm lợi ích tiêu biểu, đại
diện cho những tầng lớp quần chúng nhân dân đông đảo ở Việt Nam (giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân), có ảnh hưởng
lớn đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội như Công đoàn, Hội Nông dân, Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam.
Về các tổ chức chính trị - xã hội
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục
đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn
mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động, phấn đấu xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung
năm 2013), Chương I, Điều 10 đã ghi rõ:
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công
nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện,
đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những
vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên
truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng
nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công đoàn Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp của giai
cấp công nhân. Vì thế, Công đoàn đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân thể
hiện qua chức năng của mình là đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân viên chức - lao động.
Công đoàn Việt Nam phải thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích công
nhân lao động. Do trình độ và kinh nghiệm quản lý của chính quyền các cấp còn
non kém, bộ máy Nhà nước còn quan liêu, hành chính dẫn đến một số người, một
80
số bộ phận thờ ơ trước quyền lợi của công nhân, viên chức và lao động, tình trạng
tham ô, lãng phí, móc ngoặc, hối lộ, tham nhũng, vi phạm đến lợi ích, đời sống
người lao động vẫn còn tồn tại và không thể ngay một lúc xoá bỏ hết được. Vì
vậy, Công đoàn phải là người bảo vệ lợi ích của công nhân, viên chức và người
lao động chống lại tệ nạn quan liêu, chống lại các biểu hiện tiêu cực. Đó là sự bảo
vệ đặc biệt, khác hẳn với sự bảo vệ trong chủ nghĩa tư bản.
Công đoàn Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích của người
lao động không bằng cách đấu tranh chống lại Nhà nước làm suy yếu Nhà nước.
Cuộc đấu tranh đó không mang tính đối kháng giai cấp, không phải là đấu tranh
giai cấp. Ngược lại, Công đoàn còn vận động, tổ chức cho công nhân viên chức
lao động tham gia xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Đồng thời, Công đoàn cũng bảo vệ chính lợi ích của Nhà nước - Nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Đấu tranh chống lại các thói hư tật xấu của một số người,
nhóm người bị tha hoá, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật Nhà
nước, bảo vệ chính quyền Nhà nước.
Trong quá trình thực hiện các nội dung hoạt động nhằm thực hiện chức
năng bảo vệ lợi ích, cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc các vấn đề cơ bản như:
Một là, lợi ích của người lao động gắn liền với lợi ích của Nhà nước, của
tập thể, sự tồn tại của Nhà nước chính là sự đảm bảo lợi ích cho người lao động.
Lợi ích của người lao động không chỉ thuần tuý ở cơm ăn, áo mặc mà cao hơn là
lợi ích chính trị (đại diện là Nhà nước), lợi ích kinh tế, lợi ích văn hoá, tinh thần,
lợi ích trước mắt, hàng ngày, lâu dài, lợi ích cá nhân, tập thể, Nhà nước.
Hai là, Nhà nước là người bảo đảm, Công đoàn là người bảo vệ lợi ích của
công nhân, viên chức và người lao động. Đây là vấn đề quan trọng nói lên mối
quan hệ khăng khít, biện chứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Đồng thời, nó là cơ sở
nhận thức về lợi ích của công nhân, viên chức và người lao động trong điều kiện
mới, thể hiện đúng bản chất cách mạng của Công đoàn Việt Nam.
Hội Nông dân Việt Nam: là tổ chức chính trị, xã hội của giai cấp nông dân
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội
81
Nông dân Việt Nam đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà
nước; đồng thời chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông
dân Việt Nam.
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên Hiệp Hội Việt
Nam) được thành lập theo Quyết định số 121/HĐBT ngày 29/7/1983 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam,
cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và đoàn kết.
Khi thành lập, Liên hiệp Hội Việt Nam mới có 15 hội thành viên, thì đến
năm 2014, con số đó đã lên đến 134, trong đó có 74 hội ngành toàn quốc và 60
liên hiệp hội địa phương. Ngoài ra, trong hệ thống của Liên hiệp Hội Việt Nam
còn có hơn 500 đơn vị nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo được
thành lập theo Nghị định 81; 192 tờ báo, tạp chí, bản tin, đặc san, trang tin, báo
điện tử. Có thể khẳng định rằng, hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội Việt Nam có
tốc độ phát triển rất nhanh.
Liên Hiệp Hội Việt Nam tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức khoa học và
công nghệ ở trong nước, trí thức khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước
ngoài; điều hoà, phối hợp hoạt động của các hội thành viên; làm đầu mối giữa các
hội thành viên và các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong hoạt động của Liệp
hiệp Hội Việt Nam; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên,
hội thành viên, của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam.
Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai
trò vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân
dân, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên
vừa thực hiện vai trò nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động
viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
82
Về một số tổ chức xã hội đại diện cho nhóm xã hội nghề nghiệp
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): Đây là tổ chức quốc
gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, người sử dụng lao động và
các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển, bảo vệ và hỗ trợ
các doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thúc đẩy các
quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học - công nghệ giữa Việt Nam với
các nước trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam là tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận, có tư cách pháp nhân
và tự chủ về tài chính. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đại diện để
thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp
và người sử dụng lao động ở Việt Nam trong các quan hệ trong nước và quốc tế;
Thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp, doanh nhân, sự liên kết giữa các doanh
nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, xúc tiến và hỗ trợ các hoạt động thương mại, đầu
tư, hợp tác khoa học - công nghệ và các hoạt động kinh doanh khác của các doanh
nghiệp ở Việt Nam và nước ngoài.
Tổ chức này thực hiện việc bảo vệ lợi ích của các thành viên thông qua một
số hoạt động như:
Một là, tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các doanh nghiệp để phản ánh, kiến
nghị và tham mưu cho Nhà nước các vấn đề về pháp luật, chính sách kinh tế - xã
hội nhằm cải thiện môi trường kinh doanh;
Hai là, tham gia xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tham dự các hội nghị, các đoàn đàm phán về
kinh tế và thương mại phù hợp với quy định của Nhà nước.
Ba là, tổ chức các diễn đàn, đối thoại, các cuộc tiếp xúc giữa doanh nghiệp,
người sử dụng lao động với các cơ quan Nhà nước, với đại diện người lao động và
với các tổ chức hữu quan khác ở trong và ngoài nước để trao đổi thông tin và ý
kiến về các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp và môi trường kinh doanh.
Bốn là, tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của doanh nghiệp và người sử dụng lao động trong các quan hệ kinh
doanh trong nước và quốc tế.
83
Năm là, tập hợp và liên kết với các hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam, hợp
tác với các Phòng Thương mại và Công nghiệp, các tổ chức hữu quan khác ở nước
ngoài, tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế phù hợp với mục đích của Phòng
và giúp đỡ các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong các tổ chức đó.
Cùng với đó là những hoạt động khác như tiến hành các hoạt động xây
dựng, quảng bá và nâng cao uy tín doanh nghiệp, doanh nhân, hàng hóa, dịch vụ
của Việt Nam; thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh; hỗ trợ doanh
nghiệp phát triển quan hệ kinh doanh và đầu tư ở trong và ngoài nước; tổ chức đào
tạo bằng những hình thức thích hợp để phát triển nguồn nhân lực cho các doanh
nghiệp, giúp các doanh nhân nâng cao kiến thức, năng lực quản lý và kinh doanh;
giúp đăng ký và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ ở Việt
Nam và ở nước ngoài; cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho hàng hoá xuất khẩu của
Việt Nam và chứng thực các chứng từ cần thiết khác trong kinh doanh; xác nhận
các trường hợp bất khả kháng; giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước giải
quyết bất đồng, tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải hoặc trọng tài; thực
hiện những công việc khác mà Nhà nước Việt Nam hoặc các tổ chức khác uỷ thác.
Năm 2013, theo một nghiên cứu của VCCI, có khoảng gần 400 hiệp hội
doanh nghiệp hoạt động chính thức trên cả nước. Có 78 hiệp hội doanh nghiệp
tham gia cuộc khảo sát này của VCCI. Trong đó, có 50 hiệp hội đa ngành cấp tỉnh
(chiếm tỷ lệ hơn 64%) và 28 hiệp hội ngành cấp quốc gia (chiếm tỷ lệ gần 36%).
Có gần 53% các hiệp hội doanh nghiệp được thành lập do sáng kiến của nhóm
doanh nghiệp. Khoảng 1/3 các hiệp hội doanh nghiệp được thành lập theo sáng
kiến của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Khoảng gần 10% các hiệp hội
doanh nghiệp được thành lập theo sáng kiến của một vài cá nhân. Trước đây, các
hội, hiệp hội do Nhà nước thành lập và thành viên chủ yếu là các doanh nghiệp
nhà nước, hiện nay vẫn có một số ít các hội, hiệp hội doanh nghiệp được thành lập
bởi nhiều chủ thể khác nhau.
Hiệp hội kinh doanh ở Việt Nam hết sức đa dạng, nếu theo ngành nghề
kinh doanh thì được phân chia thành các hiệp hội doanh nghiệp đa ngành (như:
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hiệp hội Công thương, Hiệp hội doanh nghiệp
84
trẻ Việt Nam…) và các hiệp hội doanh nghiệp cùng một ngành hàng (như: Hiệp
hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Hiệp hội Thép Việt
Nam (VSA), Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt
Nam (VICOFA), Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), Hiệp hội
Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ
Chí Minh (HOREA)...). Nếu phân chia theo địa bàn hoạt động thì bao gồm các
hiệp hội doanh nghiệp cấp quốc gia (như Hiệp hội Dệt May Việt Nam, Hiệp hội
Lương thực Việt Nam, Hiệp hội Mía đường Việt Nam…) và các hiệp hội cấp địa
phương (như Hiệp hội Vận tải đường bộ thành phố Hải Phòng, Hiệp hội Nhựa
thành phố Hồ Chí Minh…). Theo điều tra của VCCI, có khoảng 30% doanh
nghiệp Việt Nam là thành viên của một hiệp hội doanh nghiệp nào đó, một doanh
nghiệp có thể là thành viên của nhiều hiệp hội [86, tr.10].
3.1.2. Các lợi ích nhóm phi chính thức
Lợi ích nhóm phi chính thức thường được hình thành một cách tự phát, tập
hợp lại khi lợi ích chung của họ bị ảnh hưởng hoặc khi cùng mong muốn giành
được một số quyền lợi nào đó. Đó cũng có thể là các nhóm lợi ích hoạt động
ngầm, bất hợp pháp. Ở Việt Nam chưa có hành lang pháp lý cho các lợi ích nhóm
phi chính thức hoạt động, tuy nhiên, không phải tất cả các nhóm này đều trái pháp
luật và có ý nghĩa xấu. Nhưng do những điều kiện khách quan và chủ quan nên sự
hình thành và hoạt động của các lợi ích nhóm phi chính thức ở Việt Nam gần đây
thường được gắn với ý nghĩa tiêu cực.
Nhận diện chủ thể của lợi ích nhóm tiêu cực, phi chính thức: các quan chức
lợi dụng chức vụ, quyền hạn móc nối với nhau; các quan chức và các doanh
nghiệp móc nối với nhau; các doanh nghiệp móc nối với nhau; những nhóm người
tìm cách bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương mình móc nối với nhau…
Nhận diện thủ đoạn của lợi ích nhóm tiêu cực, phi chính thức:
Một là, tạo quan hệ với cấp trên, với cơ quan có thẩm quyền, khi cần thiết
có thể “hối lộ” dưới mọi hình thức để giành được kinh phí, đề tài, dự án cho đơn
vị, địa phương; trong khi việc bố trí kinh phí, đề tài, dự án cho đơn vị, địa phương
khác có thể sẽ có lợi và hiệu quả hơn.
85
Hai là, tạo quan hệ, móc ngoặc với những người có chức vụ, có quyền
quyết định để bản thân hoặc người thân trong gia đình được bố trí vào các chức vụ
mong muốn, trong khi năng lực, phẩm chất không đáp ứng được yêu cầu của vị trí
công tác đó.
Ba là, nhà đầu tư, doanh nghiệp, tạo quan hệ móc nối với cơ quan, người có
thẩm quyền quyết định, hình thành nhóm lợi ích để xây dựng các dự án, chủ
trương đầu tư hoặc giành được các dự án “phát triển kinh tế - xã hội” nhằm mục
đích kiếm lợi, có chi trả “phần trăm” cho chủ đầu tư mà không tính đến hiệu quả
đầu tư hoặc hiệu quả thấp, miễn là “có việc” là “có ăn”. Người có chức quyền,
thoái hóa, biến chất, chỉ chăm lo thu vén lợi ích cá nhân, chỉ phê duyệt cho đơn vị,
cá nhân nào biết quan hệ, biết điều, chi trả “phần trăm” đậm hơn.
Bốn là, các doanh nghiệp và những người có chức, có quyền hình thành
nhóm lợi ích, cố kết với nhau để cùng nhau có lợi ích, bảo vệ lợi ích cho nhau.
Doanh nghiệp tìm cách vận động để một số người tạo dựng uy tín, được vào
những vị trí công tác mong muốn. Đến lượt những người này phải trả ơn, chăm lo
lợi ích của các doanh nghiệp, phê duyệt cho họ những dự án “béo bở”, cất nhắc họ
vào những vị trí làm việc hứa hẹn nhiều bổng, lộc…
Năm là, bộ phận quan chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để móc
nối, thông đồng với nhau lách luật hay vi phạm luật nhằm tham nhũng;
Sáu là, một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất trong các cơ
quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát, cơ quan điều tra… cũng bị móc
nối và vì lợi ích của mình mà hình thành nhóm lợi ích với các cơ quan, cán bộ,
công chức là đối tượng bị thanh tra, kiểm tra, điều tra để che chắn khuyết điểm,
thậm chí làm nhẹ tội cho các đối tượng này.
Một số lĩnh vực lợi ích nhóm phi chính thức có ảnh hưởng tiêu cực thường
xuất hiện:
Một là, trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Lợi ích nhóm trong quản
lý và sử dụng đất đai có hàng loạt những biểu hiện trong quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; trong giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất; trong chuyển mục đích sử
dụng đất và thu hồi đất; trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai…
86
Hai là, trong lĩnh vực đầu tư công. Đầu tư công là nguồn lực quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân; đã và đang đóng vai trò chủ đạo trong
toàn bộ tổng đầu tư của nền kinh tế. Lợi ích nhóm tiêu cực đang len lỏi vào tất cả
quá trình đầu tư, như xây dựng cơ bản, đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước,
mua sắm tài sản công.
Ba là, trong khai thác tài nguyên, khoáng sản. Thông qua những kẽ hở
của pháp luật hoặc những sai phạm trong cấp phép thăm dò, khai thác khoáng
sản ở các địa phương nhóm lợi ích tiêu cực giành được những ưu đãi hoặc đặc
quyền. Hệ quả là tài nguyên bị khai thác vì lợi ích cục bộ, không đảm bảo phát
triển bền vững.
Bốn là, trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Nhóm lợi ích tiêu cực thường
liên kết để thâu tóm trái pháp luật các ngân hàng, một số cổ đông lớn thao túng
các ngân hàng, thực hiện sai mục đích các chương trình đầu tư phát triển xã hội,
công ích. sử dụng vốn không hiệu quả gây thất thoát vốn ngăn cản quá trình tái
cơ cấu.
3.2. ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC CỦA LỢI ÍCH NHÓM ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Cần phải nhận thức rằng, không phải các nhóm lợi ích chính thức đều có
ảnh hưởng tích cực cũng như không phải cứ nhóm lợi ích phi chính thức là ảnh
hưởng tiêu cực đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng thực tế là hiện nay, ngoài
các tổ chức chính trị - xã hội được Nhà nước và pháp luật thừa nhận, chưa có hành
lang pháp lý cho các nhóm lợi ích nhỏ lẻ, tự phát hoặc phi chính thức hoạt động.
Vì vậy, rất khó có căn cứ để bàn về ảnh hưởng tích cực của các nhóm lợi ích này.
Hơn nữa, cũng chính vì sự chưa hoàn thiện của pháp luật, các nhóm lợi ích phi
chính thức cũng chưa phát huy được tính tích cực của mình. Do đó, trong phần
bàn về ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
chúng tôi chủ yếu khảo sát và phân tích các tổ chức chính trị - xã hội là Công
đoàn, Hội Nông dân; các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
87
3.2.1. Ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm đến vai trò lãnh đạo của Đảng
Hoạt động của lợi ích nhóm tích cực là một kênh quan trọng để đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Quan tâm
đến các nhóm lợi ích tích cực sẽ là một cơ sở thực tiễn để Đảng định ra các nghị
quyết, quyết sách. Qua tranh luận, tranh biện và chất vấn, giải trình… tầm tư duy,
năng lực cầm quyền, các quyết sách chính trị của Đảng sẽ sát với thực tế và hợp
lòng dân. Vai trò hạt nhân, trung tâm lãnh đạo của Đảng cũng được tăng cường
khi các quyết sách đúng và được tổ chức hiệu quả trong thực tế, uy tín của các tổ
chức đảng cũng được nâng cao, vai trò hạt nhân chính trị càng được củng cố,
Đảng thực sự hoạt động trong lòng nhân dân và đường lối quần chúng sẽ thể hiện
rõ trong chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Hoạt động của nhóm lợi ích tích cực một cách khách quan là một kênh
quan trọng để đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao
năng lực cầm quyền phù hợp với thời kỳ mới và xu thế phát triển, tránh bị động,
lúng túng.
Mặt khác, các nhóm lợi ích tích cực như các tổ chức chính trị - xã hội, các
hội xã hội, hội nghề nghiệp cũng là một kênh rất quan trọng để giám sát cán bộ,
đảng viên, đặc biệt là những người giữ cương vị, trọng trách trong bộ máy Đảng
và chính quyền. Thông qua giám sát để giúp Đảng có biện pháp tự điều chỉnh, tự
chỉnh đốn và giáo dục cán bộ, đảng viên của mình.
Sự tồn tại của các nhóm lợi ích tích cực được bảo vệ và ủng hộ cũng là một
kênh, một cầu nối quan trọng để thực hiện các hoạt động phản biện xã hội trong
việc ban hành chính sách, người dân có tiếng nói của mình thông qua các nhóm
lợi ích, tạo nên sức mạnh đồng thuận để bảo vệ lợi ích chung.
Thông qua tôn chỉ và hoạt động của một số tổ chức chính trị - xã hội tiêu
biểu có thể thấy được vai trò tích cực của họ trong việc hoạch định đường lối, chủ
trương của Đảng và trong việc đảm bảo để đưa đường lối, chủ trương của Đảng
vào thực tiễn cuộc sống.
Công đoàn Việt Nam là sợi dây nối liền giữa Đảng với giai cấp công nhân,
với toàn thể người lao động. Trách nhiệm của Công đoàn Việt Nam đối với Đảng
88
được xác định rõ: 1/ Công đoàn là người tuyên truyền, phổ biến chủ trương,
đường lối, chế độ chính sách và nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến
với quần chúng công nhân, viên chức và lao động, đồng thời vận động tổ chức cho
công nhân, viên chức và lao động thực hiện nghiêm túc; 2/ Công đoàn thường
xuyên tổ chức cho quần chúng tham gia góp ý xây dựng Đảng với tinh thần thẳng
thắn, chân thành, trung thực. Công đoàn thường xuyên bồi dưỡng, rèn luyện công
nhân, viên chức và lao động, từ đó lựa chọn, giới thiệu những đoàn viên ưu tú cho
Đảng xem xét kết nạp, nhằm bổ sung, tăng cường thành phần công nhân trong
Đảng; 3/ Công đoàn nắm những tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc của quần
chúng công nhân, viên chức, lao động phản ánh với Đảng, để Đảng nghiên cứu đề
ra đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của
quần chúng công nhân, viên chức, lao động.
Ngay khi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ: “Nâng cao
hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn, thực sự đại diện quyền lợi cho người lao
động, giải quyết kịp thời các tranh chấp… Có cơ chế để công đoàn, tổ chức đại diện
cho người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng giám sát thực hiện thỏa ước
lao động tập thể” [30, tr.301]; giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam
đã nhanh chóng thực hiện nội dung các văn kiện và Nghị quyết Đại hội. Trong đó,
các cấp công đoàn đã tổ chức nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền để thông báo
nhanh, phổ biến kịp thời kết quả Đại hội đến cán bộ, đoàn viên, công nhân, viên
chức, lao động và xây dựng chương trình hành động của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam với các mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp nhằm đổi mới tổ chức, nội
dung, phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn; tập trung chăm lo bồi
dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; thực hiện tốt
chức năng đại diện bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ tại doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, cùng với các cấp, các ngành, Công đoàn cả nước đã tổ chức
nhiều hoạt động thiết thực, chăm lo trực tiếp đến người lao động.
Hội Nông dân Việt Nam là đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiệm vụ của Hội Nông dân
89
Việt Nam chính là tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu biết
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…; Các cấp Hội là thành
viên tích cực trong hệ thống chính trị thực hiện các chính sách, pháp luật, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước ở nông thôn…; Tham gia
xây dựng Đảng chính quyền trong sạch, vững mạnh; Tham gia giám sát và phản
biện xã hội theo quy chế; Kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nông dân
với Đảng và Nhà nước; Bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của hội
viên, nông dân; Thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn, giữ
gìn đoàn kết trong nội bộ nông dân; Góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; Chống quan liêu, tham
nhũng lãng phí và các tệ nạn xã hội…
Trên thực tế, các nhóm lợi ích trên cũng đã đóng góp quan trọng vào việc
xây dựng và phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Sự hoạt động
tích cực của nhóm lợi ích này cũng góp phần tích cực nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng, góp phần xây dựng chính quyền Nhà nước không ngừng lớn mạnh.
Hoạt động của các nhóm lợi ích tích cực đã tạo nên bầu không khí sinh hoạt
chính trị sôi nổi. Các nhóm lợi ích đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham gia,
góp ý vào việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cũng làm cho người dân
quan tâm hơn đến đường lối, chính sách. Khi nghị quyết, chỉ thị được ban hành,
cũng chính các nhóm lợi ích tích cực là cầu nối để tuyên truyền, động viên thực
hiện giúp cho những đường lối, nghị quyết ấy có sức lan tỏa lớn trong cuộc sống.
Đây là yếu tố góp phần quan trọng tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
3.2.2. Ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm đến đổi mới quản lý
nhà nước
Thứ nhất, các nhóm lợi ích đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành
nên các chính sách góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội thông qua việc
kiến nghị nhiều chính sách quan trọng. Ở Việt Nam, luật pháp cũng đã có những
quy định tạo khung cho sự tham gia của các nhóm lợi ích chính thức vào quá trình
hoạch định chính sách ở cấp độ quốc gia và địa phương. Theo đó, các hiệp hội có
90
tiếng nói quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách. Phần lớn các chính
sách và pháp luật của Nhà nước ban hành đều phải có ý kiến tham gia dưới các
hình thức khác nhau của tổ chức này. Mặt khác, chính các tổ chức này cũng được
phép trình sáng kiến luật và bỏ phiếu thông qua ở Quốc hội. Các nhóm lợi ích
cũng đã phối hợp một cách hết sức chặt chẽ với các cơ quan hoạch định chính
sách thông qua việc tham gia một cách tích cực và chủ động vào quá trình soạn
thảo chính sách, pháp luật. Cụ thể, các hiệp hội doanh nghiệp đã tham gia và có
tiếng nói quan trọng trong việc soạn thảo các dự án luật như: Luật Đầu tư, Luật
Kinh doanh bất động sản, Luật Đấu thầu…
Thứ hai, các nhóm lợi ích góp phần cải thiện chất lượng thực thi chính
sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước. Đó là cầu nối để cung cấp
thông tin cho các nhà hoạch định chính sách. Nhờ đó, các chủ trương, chính sách
phản ánh chính xác hơn nhu cầu của cuộc sống, mang lại lợi ích cho nhiều chủ thể
trong xã hội. Việc lấy ý kiến từ các nhóm lợi ích được pháp luật công nhận đã và
đang được triển khai. Đây cũng là một biểu hiện cụ thể về sự dân chủ trong điều
hành và quản lý của Nhà nước. Chính thông qua đối thoại, các hiệp hội với tư
cách là tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp địa phương hoặc ngành có
thể trao đổi, kiến nghị với chính quyền các cấp về các vấn đề liên quan đến chính
sách, pháp luật của môi trường đầu tư kinh doanh. Đối thoại chính quyền - doanh
nghiệp ngày càng được các hiệp hội và cả cho cơ quan chính quyền các cấp chú
trọng nhiều hơn bởi lợi ích mang lại không chỉ cho doanh nghiệp mà cả các cơ
quan quản lý. Nhìn chung, qua kết quả điều tra các hiệp hội doanh nghiệp, so với
trước đây, hoạt động đối thoại chính quyền - doanh nghiệp dường như đã có
chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Khảo sát cho thấy trong số 71 hiệp hội có
cung cấp thông tin về hoạt động đối thoại chính quyền - doanh nghiệp, đã có 85%
hiệp hội doanh nghiệp tiến hành hoạt động đối thoại với chính quyền. Trong đó,
có tới 90% các hiệp hội doanh nghiệp cấp tỉnh và 79% hiệp hội ngành hàng quốc
gia được khảo sát cho biết có tiến hành hoạt động này [69, tr.23, 25]. Thời gian
qua, hoạt động tham gia xây dựng pháp luật và đối thoại chính sách của các doanh
nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp đã có những chuyển biến và thành công nhất
91
định. Nhiều Dự án luật, Pháp lệnh đã có sự tham gia tích cực và chủ động của các
hiệp hội doanh nghiệp. Nhiều hiệp hội đã tham gia vào quá trình đối thoại chính
sách như tham gia phản biện đối với Dự thảo Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2006 - 2010, chính sách thuế nhập khẩu, chính sách đất đai… Sự tham gia
và chủ động của nhiều hiệp hội đã có những ảnh hưởng tích cực tạo nên nhiều
chuyển biến ở một số lĩnh vực: chẳng hạn, bãi bỏ các giấy phép kinh doanh con,
đổi mới một số điều khoản của Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam; thay đổi trực
tiếp trong quy định về thủ tục mua bán hóa đơn VAT, các chính sách về độ cao
container, vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng ngay sau khi những cuộc đối
thoại được tổ chức [100]; sửa đổi các chuẩn mực kỹ thuật để Hiệp hội Cơ khí có
thể tham gia các dự án trước sự cạnh tranh của các nhà thầu Trung Quốc, xóa bỏ
tình trạng độc quyền trong khai thác các cảng hàng không (kiến nghị của Hiệp hội
Giao nhận Kho vận Việt Nam)…
Khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho
biết: phần lớn các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành hoạt động tham
vấn ý kiến hội viên về cải thiện môi trường kinh doanh. Lĩnh vực đối thoại của
hiệp hội doanh nghiệp với chính quyền các cấp tập trung chính vào những khó
khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp đang gặp phải. Trong đó, thuế, đất đai, tài
nguyên, thủ tục hải quan là những chủ đề thường xuyên được lựa chọn nhất. Đối
với các hiệp hội doanh nghiệp cấp tỉnh, những lĩnh vực đối thoại khác có thể bao
gồm vấn đề tiếp cận vốn, thanh quyết toán và giải ngân tín dụng, môi trường, quy
hoạch và các thủ tục hành chính công có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Những lĩnh vực đối thoại khác của hiệp hội ngành hàng
quốc gia thường liên quan đến chính sách phát triển ngành, thực thi cam kết hội
nhập của nhà nước, chính sách tiền tệ, tài chính, đấu thầu… Đã có 57/78 hiệp hội
doanh nghiệp thực hiện hoạt động này, chiếm tỉ lệ 73%; trong đó có 37/50 hiệp
hội đa ngành cấp tỉnh (74%) và 20/28 hiệp hội ngành hàng quốc gia (71%). Trong
57 hiệp hội có thực hiện hoạt động này, trong khoảng 5 năm trở lại đây, 50% hiệp
hội thực hiện tham vấn 1 hoặc 2 lần trong 1 năm; 23% hiệp hội thực hiện 3 hoặc 4
lần/năm và 27% tiến hành từ 5 lần trở lên. Các hiệp hội quốc gia có tần suất tiến
92
hành các hoạt động này cao hơn của các hiệp hội cấp tỉnh. Một số hiệp hội quốc
gia có tần suất tiến hành hoạt động này trên 10 lần/năm bao gồm Hiệp hội Chế
biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội
Bảo hiểm Việt Nam, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam, Hội Làng nghề
Việt Nam, Hiệp hội Da giày Việt Nam, Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công
nghệ thông tin Việt Nam, Hiệp hội Nhựa Việt Nam. Một số hiệp hội cấp tỉnh cũng
thường xuyên tiến hành hoạt động này như Hội Doanh nhân trẻ Đà Nẵng, Hội
Doanh nghiệp Hưng Yên, Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và vừa Nghệ An và Hội
Doanh nghiệp trẻ Hà Nam [87].
Từ đó, các nhóm lợi ích góp phần không nhỏ làm cho chính sách đi vào
thực tiễn cuộc sống thông qua hoạt động phản biện, giám sát xã hội đối với quá
trình hoạch định chính sách. Giám sát và phản biện xã hội của các nhóm lợi ích
kinh tế đối với quá trình hoạch định chính sách và thực thi chính sách công là một
hành vi xác định tính khoa học, tính hợp pháp trong hành động của viên chức và
cơ quan nhà nước. Giám sát và phản biện xã hội là biểu hiện đặc trưng chuyên
nghiệp nhất của đời sống dân chủ.
3.2.3. Lợi ích nhóm góp phần thúc đẩy dân chủ, công bằng xã hội
Dân chủ, công bằng xã hội là những giá trị của chế độ xã hội chủ nghĩa. Lợi
ích nhóm có tác dụng thúc đẩy những giá trị đó phát triển.
Một là, dựa vào thông tin đa chiều từ các nhóm lợi ích nên những chính
sách đưa ra thể hiện được lợi ích của đa số người dân hơn. Vì vậy, có thể khẳng
định vai trò tích cực của lợi ích nhóm là góp phần nâng cao tính công bằng đúng
đắn trong quyết sách của nhà nước.
Bằng những hoạt động của mình, các nhóm lợi ích còn thúc đẩy sự phát
triển dân chủ ở các cấp, đặc biệt là thúc đẩy sự cạnh tranh công bằng giữa các
nhóm lợi ích, qua đó, góp phần nâng cao sự hiểu biết của dân chúng trong việc
tham gia quản lý nhà nước. Nhờ có quá trình nhóm lợi ích tham gia vào quá trình
ra quyết sách của nhà nước mà tính hiệu quả của công dân trong việc tham gia vào
chính trị được nâng cao, phát huy tính tích cực của công dân và thúc đẩy dân chủ
ở các cấp phát triển. Nói cách khác, các công dân thông qua đại diện lợi ích nhóm
93
của mình để tác động đến quá trình hoạch định chính sách nên có thể coi nhóm lợi
ích là một hình thức dân chủ đại diện tự nguyện.
Ở Việt Nam, vai trò của nhóm lợi ích trong việc phát huy dân chủ thể hiện
ở vai trò phản biện xã hội của nó và được thừa nhận về mặt chính sách, qua Quy
chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội ban hành theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Quyết định số
14/2014/QĐ-TTg ngày 14/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về hoạt
động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam.
Có thể kể đến hàng loạt hoạt động tư vấn, phản biện, giám định của Liên
hiệp hội các tỉnh thành ở nước ta như: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
tỉnh Phú Yên phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức Hội đồng phản
biện Đề án hiện trạng môi trường tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011-2015; Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hòa Bình đã tổ chức Hội thảo tư vấn phản biện
dự án: “Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng CT229 tỉnh
Hòa Bình giai đoạn 2010-2020” do Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với
Công ty cổ phần tư vấn xây dựng thủy lợi soạn thảo; Liên hiệp Hội Việt Nam đã
tổ chức hội thảo “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Chuyển giao công nghệ năm 2006”; Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh
Hà Giang vừa tổ chức Hội nghị tư vấn phản biện đối với dự án “Rà soát, điều
chỉnh, bổ sung quy hoạch thủy lợi tỉnh Hà Giang đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030”; Liên hiệp Hội Quảng Bình chủ trì phối hợp với Hội Luật gia tham gia
phản biện, đóng góp ý kiến vào các dự thảo Luật như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Dự thảo sửa đổi, Dự thảo Bộ luật Dân
sự (sửa đổi)…
Qua đó, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã tham gia tư
vấn, phản biện, giám định xã hội các đề án, chính sách, góp phần phát triển kinh tế
- xã hội, nâng cao vai trò quản lý, hoàn thiện cơ chế, chính sách của nhà nước.
94
Hai là, lợi ích nhóm góp phần thúc đẩy sự công bằng xã hội
Nhiều nhóm lợi ích đại diện và bảo vệ lợi ích cho nhân dân lao động, góp
phần thúc đẩy sự công bằng xã hội.
Các nhóm người lao động như công nhân, nông dân tuy chiếm số đông
trong xã hội nhưng lại đang chịu nhiều khó khăn và trở thành nhóm “yếu thế”
trong xã hội. Việc họ liên kết lại thành các nhóm lợi ích trong những hiệp hội như
Công đoàn hay Hội Nông dân giúp cho người công nhân, nông dân có chỗ dựa, có
tiếng nói và nguyện vọng của họ được đề đạt và đến được với các nhà hoạch định
chính sách một cách dễ dàng hơn.
Chính vì vậy mà từ khi ra đời đến nay, Công đoàn Việt Nam đã góp phần
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Trong sự phát
triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, hàng loạt các vấn đề
bức xúc, nhất là các vấn đề xã hội đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết như việc
làm, thu nhập, đời sống của công nhân, quan hệ lao động. Công đoàn đã tham gia
xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về lao động, nhất
là Luật Tiền lương tối thiểu, đảm bảo tiền lương tối thiểu ít nhất phải bằng mức
sống tối thiểu được quy định trong bộ Luật Lao động năm 2012, tiến tới mức sống
tối thiểu của công nhân phải bằng mức trung bình của xã hội. Công đoàn Việt
Nam tăng cường hơn nữa sự tham gia với Hội đồng Tiền lương quốc gia, nhằm
góp phần điều chỉnh tiền lương tối thiểu hợp lý cho người lao động. Năm 2015, có
cuộc thương lượng về mức tăng tiền lương cho công nhân. Trong đó, VCCI đại
diện cho các doanh nghiệp, muốn tăng 6%, còn Liên đoàn Lao động Việt Nam,
đại diện cho công nhân, muốn tăng 16%. Cuối cùng, Hội đồng Tiền lương quốc
gia chốt mức tăng là 12,4%. Tuy người lao động Việt Nam chưa hài lòng với mức
tăng đó nhưng họ chấp thuận và điều này phần nào góp phần nâng cao đời sống
của công nhân lao động.
Công đoàn đã tích cực, chủ động nghiên cứu, tổ chức vận động và thực
hiện tốt chính sách, pháp luật liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công nhân, lao
động, như Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, chính sách tiền lương, tiền
thưởng, chính sách bảo hộ lao động, chính sách giải quyết việc làm, chính sách
95
đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động; hướng dẫn, giúp công nhân, lao
động ký giao kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động; đại diện cho
công nhân, lao động thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, xây dựng
quy chế doanh nghiệp; vận động, tổ chức cho công nhân, lao động thực hiện thỏa
ước lao động tập thể, nội quy, quy chế doanh nghiệp; luôn chủ động tham gia và
tổ chức vận động công nhân, lao động tham gia kiểm tra, giám sát thực hiện chế
độ, chính sách về lĩnh vực lao động, bảo đảm hài hòa lợi ích của công nhân, lao
động với lợi ích của người sử dụng lao động, lợi ích nhà nước và xã hội. Tham gia
giải quyết tranh chấp lao động ở cơ sở, phát hiện, ngăn chặn kịp thời những hành
vi vi phạm pháp luật, chế độ chính sách của Nhà nước đối với công nhân, lao
động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Công đoàn cơ sở tích cực, chủ động, đổi mới tổ chức, đa dạng hóa các hình
thức vận động nhằm tập hợp công nhân, lao động trong các doanh nghiệp, cơ
quan, các thành phần kinh tế gia nhập và tham gia hoạt động công đoàn. Đến
tháng 6/2012, Công đoàn Việt Nam đã có hơn 113.000 công đoàn cơ sở với hơn
7,7 triệu đoàn viên công đoàn; từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động, tích cực xây dựng, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật, các chế độ, chính
sách có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công nhân; vận động người sử dụng
lao động và công nhân chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật, nội quy, quy chế
doanh nghiệp.
Công đoàn còn có vai trò hết sức quan trọng trong giải quyết tranh chấp lao
động, đình công. Khi đình công xảy ra, công đoàn cơ sở là người trực tiếp tiếp xúc
lắng nghe, tập hợp những yêu cầu, kiến nghị của những người tham gia đình công.
Thống kê hằng năm của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho thấy, từ tháng
01/2000 đến tháng 6/2011, có 3.602 cuộc ngừng việc tập thể và đình công, trong
đó, đình công xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2.718 cuộc,
chiếm tỷ lệ 75,4%. Nếu những năm 1995 - 2000, tại các doanh nghiệp FDI xảy ra
231 cuộc, chiếm tỷ lệ 56,4% số cuộc đình công trong cả nước, thì trong 5 năm tiếp
theo (2001- 2005), số cuộc đình công tăng gần gấp 3 lần, với 627 cuộc, chiếm
96
64,1%. Riêng 6 tháng đầu năm 2012, có 331 cuộc ngừng việc tập thể và đình
công, trong đó, ở các doanh nghiệp FDI có 259 cuộc, chiếm 78,25%.
Hội Nông dân Việt Nam có vai trò là người đại diện và phát huy quyền làm
chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Trường
hợp như vụ kiện của nông dân thành phố Hồ Chí Minh, nông dân Bà Rịa - Vũng
Tàu, nông dân Đồng Nai đối với công ty Vedan xả nước thải chưa qua xử lý ra
môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, kinh tế của họ là một minh
chứng. Vụ kiện này có sự tham gia của Hội Nông dân thành phố Hồ Chí Minh,
Hội Nông dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Hội Luật gia tỉnh Đồng Nai, Bộ Tài
nguyên và Môi trường. Nhờ có sự tham gia của Bộ và các Hội này, cùng với việc
hàng ngàn nông dân đồng loạt kiện công ty Vedan, tác động mạnh mẽ tới dư luận
trong nước, buộc công ty Vedan phải bồi thường hơn 200 tỉ đồng cho nông dân 3
tỉnh nêu trên.
Như vậy, chính nhờ có sự liên kết của nông dân hay công nhân thành các
nhóm với đại diện lợi ích cho họ là các tổ chức như Hội Nông dân hay Công đoàn
mà quyền lợi của những nhóm này được bảo vệ, quan tâm, giúp họ đảm bảo đời
sống, củng cố niềm tin vào Đảng và chính quyền. Ăngghen khẳng định, hệ tư
tưởng mà xa rời lợi ích thì tự nó bôi nhọ mình. Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động, nghĩa là lấy
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư tưởng của mình. Vì vậy, việc chăm lo
tốt lợi ích của công nhân và “những người bạn đồng hành” của họ là nông dân
chính là củng cố nền tảng tư tưởng đó, là củng cố “vũ khí vật chất” của Đảng, bảo
vệ chế độ.
3.2.4. Lợi ích nhóm góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
Một là, đáp ứng các nhóm lợi ích tích cực giúp giải phóng sức sản xuất.
Trong nông nghiệp, điều này biểu hiện rất rõ qua “khoán 100”, “khoán 10”.
Xuất phát điểm là “khoán hộ”, “khoán chui”, ban đầu nhằm đảm bảo lợi ích của
một bộ phận nông dân ở một số địa phương. Lúc đó, lợi ích nhóm này còn bị coi
là mang tính chất tiêu cực, không phù hợp bởi nhận thức: “…còn chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và lối làm ăn riêng lẻ thì vẫn còn cơ sở vật chất và
97
điều kiện xã hội cho khuynh hướng tư bản chủ nghĩa tự phát nảy nở” [20]. Tuy
nhiên, thực tế đã chứng minh, lợi ích nhóm này không hề đi ngược lại với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà góp phần thúc đẩy kinh tế phát
triển, cải thiện đời sống người nông dân.
Nhu cầu bức xúc về lương thực và cần phải tìm cách cải cách khâu quản lý
trong nông nghiệp đã dẫn đến việc một số địa phương chủ động chuyển sang
khoán gọn đến từng hộ gia đình. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính
trị Khóa VI: “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” ra đời. Ngày 5/4/1988,
Bộ Chính trị chính thức cho ra đời Nghị quyết 10 (gọi tắt là khoán 10). Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ sai lầm trong mô hình hợp tác xã trước đây:
việc chủ quan, nóng vội, gò ép nhân dân vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất; việc
đưa hợp tác xã lên quy mô to lớn khi trình độ quản lý không tương ứng; việc hợp
tác hóa triệt để tư liệu sản xuất trong khi không đủ khả năng quản lý… là nguyên
nhân cơ bản dẫn mô hình hợp tác xã vào chỗ lụn bại… Như vậy, để tự giải quyết
lợi ích của người nông dân, một số địa phương “khoán chui” đến hộ gia đình. Đó
là cơ sở thực tiễn để Đảng ra Nghị quyết về khoán 100 và sau đó là khoán 10,
đảm bảo lợi ích nhóm của nông dân, của hộ gia đình. Chính việc thỏa mãn lợi
ích của nông dân đã góp phần đưa kinh tế Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng,
tiếp tục phát triển.
Từ đó, Đảng tuyên bố: “Công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực
của kinh tế cá thể tư nhân, đảm bảo quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp
pháp của các hộ cá thể tư nhân”. Nghị quyết đưa ra 3 quyết định quan trọng trong
quản lý nông nghiệp: Thứ nhất là: coi hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ. Hộ
nông dân là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã, được giao đất ổn định 15 năm, mức
khoán ổn định 5 năm, được tự chủ hoàn toàn từ A đến Z trong quá trình sản xuất;
được làm chủ hoàn toàn số nông sản làm ra sau khi nộp thuế nông nghiệp cho nhà
nước; Thứ hai: tạo điều kiện cho người nông dân tự do cả đầu vào như vật tư,
phân bón và đầu ra là sản phẩm nông nghiệp trên thị trường theo cơ chế “thuận
mua vừa bán”; Thứ ba: chuyển hợp tác xã sang làm công tác dịch vụ cho nông
dân. Nghị quyết nhanh chóng được người nông dân đón nhận và đi vào cuộc sống.
98
Sự “cởi trói” chính thức có ý nghĩa giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp,
đem lại sinh khí mới cho nền nông nghiệp nước nhà. Kết quả là, sau đó chỉ một
năm, từ một nước thiếu lương thực triền miên, đến năm 1989 sản lượng lúa gạo
nước ta đạt con số 21,5 triệu tấn và lần đầu tiên, Việt Nam xuất khẩu được 1,2
triệu tấn lúa gạo. Sản lượng lúa gạo của cả nước ngày càng tăng; trong năm 2012,
Việt Nam đạt con số 43,7 triệu tấn, sản lượng lúa gạo xuất khẩu đạt 7,7 triệu tấn,
mang lại 3,5 tỉ USD, Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế
giới (sau Ấn Độ).
Trước thời kỳ đổi mới, chỉ có lợi ích của giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân được quan tâm. Còn các giai cấp, tầng lớp khác chưa được chú ý một
cách đúng mức, nhất là đội ngũ doanh nhân. Cùng với đó, các thành phần kinh tế
như kinh tế tư nhân không được phép tồn tại, mà chỉ có 2 thành phần kinh tế là
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kể từ khi đổi mới, chúng ta chuyển sang xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả kinh tế tư nhân tư bản chủ
nghĩa, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội X đã quy định, đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân. Tại Đại hội XII,
Đảng ta xác định, khuyến khích kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của
nền kinh tế. Đội ngũ doanh nhân cũng đang ngày càng có đóng góp quan trọng
cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nhờ quan tâm đến lợi ích của nhóm
lợi ích này, mà cùng với nó là việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế
nước ta đã có bước tiến lớn. Đáp lại, từ khi được tham gia xây dựng kinh tế, đội
ngũ doanh nhân Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ cho sự phát triển
kinh tế xã hội đất nước, nhất là trong quá trình hội nhập với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Hai là, lợi ích nhóm giúp chính phủ có được nguồn lực để thực hiện các
chính sách. Chính sách của chính phủ khi được quốc hội thông qua để thực hiện
đương nhiên đã bao hàm cả dự trù kinh phí và nhân lực cho việc thực hiện, nhưng
trên thực tế thường không đáp ứng đủ. Do đó, việc có được sự tài trợ từ các nhóm
xã hội, nhóm lợi ích và các tổ chức phi chính phủ là hết sức cần thiết và được
99
chính phủ tạo điều kiện thực hiện. Nhờ đó, chính phủ có thêm được nguồn lực to
lớn cho việc thực hiện các chính sách.
Xây dựng nông thôn mới là một chính sách thu hút được các nhóm lợi ích
tham gia, không chỉ có nhóm lợi ích của nông dân mà cả nhóm lợi ích cả các
doanh nghiệp. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Trong đó, có thể nói, các doanh nghiệp là lực lượng tham gia tích cực và có hiệu
quả thiết thực, đặc biệt là trong thực hiện đề án phát triển sản xuất nâng cao thu
nhập cho người dân. Bằng những tư duy và hành động thiết thực, hiệu quả, doanh
nghiệp đã tập trung giúp đỡ và hỗ trợ các địa phương triển khai chương trình xây
dựng nông thôn mới dưới nhiều hình thức như: ủng hộ về tinh thần và vật chất;
đầu tư trực tiếp về nông thôn; cam kết sử dụng lao động; giúp nông dân phát triển
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm… Các công ty, ngân hàng cũng đã triển khai nhiều
chương trình về an sinh xã hội, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phúc lợi xã
hội như đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng
đồng, nhà ở cho hộ nghèo… với giá trị hàng chục tỷ đồng, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội.
3.3. ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LỢI ÍCH NHÓM ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.3.1. Ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm đến sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam
3.3.1.1. Lợi ích nhóm tiêu cực làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng
Một là, lợi ích nhóm tiêu cực ảnh hưởng tới quá trình xây dựng và thực
hiện các chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nó bóp méo
chính sách, làm thay đổi chính sách, thể hiện rất rõ ở chỗ lợi ích nhóm tiêu cực
có mối quan hệ với tham nhũng chính sách. Tham nhũng được coi là một trong
những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, làm chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó, đặc biệt đáng lo ngại là tham nhũng trong quá trình hoạch định
chính sách. Những kẻ tham nhũng dạng này không trực tiếp nhũng nhiễu, lấy
tiền của dân, mà thu lợi gián tiếp thông qua các đối tượng trung gian như cơ
quan, doanh nghiệp, cá nhân được hưởng lợi từ sự tham mưu, quyết định của
100
mình. Hành vi phổ biến của tham nhũng chính sách là “hàng loạt hoạt động
chính trị và xây dựng chính sách, trong đó có hối lộ, cưỡng đoạt, gian lận bầu cử,
bảo trợ lạm quyền…” [78, tr.99].
Tham nhũng chính sách chính là một dạng tham nhũng thường gắn liền với
một số nhóm lợi ích tiêu cực, nhờ sự cấu kết giữa những người có quyền lực trong
hệ thống chính trị tạo ra những quyết định hoặc tìm cách tác động vào những
chính sách của nhà nước để phục vụ lợi ích của một cá nhân, doanh nghiệp hay
một nhóm lợi ích nào đó; có khi còn nhằm thay đổi các quy định của pháp luật để
phục vụ quyền lợi của những kẻ tham nhũng.
Như vậy, nếu không kiểm soát được lợi ích nhóm tiêu cực, đảm bảo quyền
lực nhà nước thuộc về số đông, bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người, sẽ
nảy sinh một số nhóm lợi ích theo nghĩa đặc quyền, đặc lợi, có khả năng tác động
mạnh mẽ hoặc trực tiếp tham gia vào quá trình ra quyết sách của nhà nước. Những
nhóm này sử dụng chính trị để trục lợi kinh tế, dùng lợi ích kinh tế để củng cố
quyền lực chính trị. Lợi ích thu được từ chính sách được xem là “siêu lợi nhuận”,
so với bất kỳ lợi nhuận nào thu được từ sản xuất hay kinh doanh.
Hai là, lợi ích nhóm tiêu cực ảnh hưởng đến thực hiện các nguyên tắc tổ
chức, hoạt động của Đảng, như: làm biến dạng nguyên tắc tập trung dân chủ, phá
hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; vô hiệu hóa nguyên tắc tự phê bình và
phê bình; biến nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật thành khẩu hiệu sáo rỗng… Tình trạng “trên bảo dưới không nghe”, thăm dò
tín nhiệm thì đạt nhưng khi bỏ phiếu chính thức lại trượt… là những biểu hiện về
sự chi phối của yếu tố lợi ích nhóm tiêu cực.
Ba là, lợi ích nhóm tiêu cực làm mất đi vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng
ở cơ sở, chia rẽ khối đoàn kết giữa Đảng và nhân dân. Tổ chức Đảng khi đã bị
thao túng trở nên tê liệt, bị mất uy tín trước nhân dân; có nơi gây mất đoàn kết
nghiêm trọng giữa Đảng, chính quyền và người dân. Lợi ích nhóm tiêu cực trong
công tác tổ chức, cán bộ đưa những cán bộ, đảng viên kém đức, kém tài vào các vị
trí lãnh đạo. Vừa qua, đã có những trường hợp đặt ra tổ chức không vì yêu cầu
nhiệm vụ mà vì sự chi phối của một nhóm lợi ích; bố trí cán bộ không vì năng lực,
101
vì công việc mà vì thân quen. Tình trạng “chạy chức, chạy quyền” cũng là biểu
hiện của nhóm lợi ích tiêu cực, nó được nuôi dưỡng bởi một “đường dây lợi ích”
nào đó. Khi đó, những kẻ cơ hội chính trị vào hàng ngũ cao cấp của Đảng có thể
dẫn đến sự sụp đổ của đảng cầm quyền.
3.3.1.2. Lợi ích nhóm tiêu cực làm suy thoái đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên
- Lợi ích nhóm tiêu cực làm biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Thực tế cho thấy vì lợi ích nhóm tiêu cực, một tập thể cán bộ, đảng viên trong một
tổ chức đảng có thể đánh mất đi tính chiến đấu, đồng lõa làm trái với nguyên tắc,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp
trên. Chưa kể đến sự “tấn công” của lợi ích nhóm tiêu cực vào đội ngũ cán bộ,
đảng viên bằng lợi ích cục bộ, hối lộ… làm thoái hóa, biến chất, làm mất vai trò
tiên phong gương mẫu của đảng viên.
- Đó còn là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, sống thiếu lý tưởng, hoài bão,
thờ ơ trước đời sống chính trị và vô cảm trước nguyện vọng của nhân dân. Sự suy
thoái này làm giảm sút sức chiến đấu của đảng viên, dẫn đến chuyển hóa về tư
tưởng như phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhóm lợi ích tiêu cực hoạt động càng
mạnh, sự chia bè, kéo cánh, cục bộ… sẽ làm sự suy thoái tư tưởng càng mạnh.
Đây cũng chính là “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến”. Sự suy thoái về tư tưởng còn
biểu hiện ở chỗ, nếu thừa nhận lợi ích nhóm tiêu cực thì phải thừa nhận quyền tự
do lập hội và cuối cùng là thừa nhận đa đảng.
- Lợi ích nhóm hoạt động ngầm, tác động nhiều chiều cũng làm cho lối
sống ngay thẳng, trung thực bị nhường chỗ cho lối sống thực dụng, giả dối, gian
trá trong hoạt động của cán bộ, đảng viên. Lối sống thực dụng, chạy theo đồng
tiền, sử dụng đồng tiền lấn át tình cảm đồng chí. Các hiện tượng tiêu cực trước
đây hoàn toàn xa lạ đối với cán bộ, đảng viên như bồi dưỡng, lại quả, phong bì,
tiêu cực phí thì nay đã trở thành quen thuộc trong đời sống xã hội. Có không ít
đảng viên đã trở thành trung gian thực hiện các phi vụ làm ăn mờ ám và béo bở,
trở thành cầu nối cho các tệ nạn chạy chức, chạy quyền.
102
- Sự suy thoái về đạo đức, lối sống dưới sự tác động của lợi ích nhóm tiêu
cực sẽ kéo theo sự suy thoái của cả một mảng lớn cán bộ, đảng viên, nên tác hại sẽ
ngày càng lớn. Tệ hại nhất của sự suy thoái là tham nhũng về quyền lực, tham
nhũng chính trị; nó bộc lộ sự thoái hóa, biến chất của người cán bộ, đảng viên,
thiếu trong sạch trong bộ máy. Sự không minh bạch, không thực hiện trách nhiệm
giải trình đã tạo mảnh đất thuận lợi cho tham nhũng nảy sinh, nó ngầm dung
dưỡng, bảo kê cho tham nhũng hoành hành.
Nếu như trước kia, sự suy thoái, tham ô, tham nhũng của từng cá nhân đảng
viên là sự hư hỏng của một con người, diễn ra lẻ tẻ thì hiện nay, khi cá nhân đảng
viên sa vào lợi ích nhóm tiêu cực sẽ kéo theo sự hư hỏng của một nhóm người, tập
thể người, sức tàn phá của nó sẽ rất lớn.Trước đây, trong thời bao cấp, các vụ án
tham nhũng chỉ có cá nhân phạm tội hay một số ít người phạm tội thì ngày nay, cả
một tập thể người, nhóm người phạm tội, nhóm lợi ích tiêu cực đã chuyển thành
nhóm phạm pháp.
- Lợi ích nhóm tiêu cực cũng hình thành mâu thuẫn trong xã hội, sự tích
cực hoạt động của các nhóm sẽ làm cho đảng viên tham gia nhóm lợi ích tiêu cực
này hoặc nhóm khác, dần dần trở thành bè cánh và phe phái trong Đảng, tạo thành
mâu thuẫn, mất đoàn kết. Từ đó, lợi ích nhóm càng có cơ sở để hoạt động, nó sẽ
phá hoại Đảng ta một cách ghê gớm và sâu sắc nhất.
3.3.2. Lợi ích nhóm tiêu cực làm giảm sút hiệu lực quản lý của Nhà nước
3.3.2.1. Lợi ích nhóm phá vỡ quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa quản lý
nền kinh tế bằng công cụ kế hoạch. Lợi ích nhóm tiêu cực (cục bộ, địa phương)
tác động xấu đến quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sự chi phối của lợi ích nhóm tiêu cực đã khiến các nhà lãnh đạo,
quản lý chỉ nhìn thấy lợi ích bộ phận, không nhìn thấy lợi ích toàn thể. Do đó,
trong hoạt động, họ chỉ nghĩ đến lợi ích địa phương mình, ngành mình. Hiện nay,
có một thực trạng là việc phát triển tràn lan trong rất nhiều ngành mà không có
quy hoạch mang tầm quốc gia dẫn đến tình trạng ế thừa hoặc nơi thừa, nơi thiếu;
lại có tình trạng chỉ chú trọng đến lợi nhuận mà quên các vấn đề khác như môi
103
trường, dân sinh… Sự xuất hiện tràn lan các nhà máy xi măng, sắt thép, thủy điện,
sân golf… bất chấp quy hoạch chung của cả nước, gây thiệt hại về kinh tế, môi
trường và bức xúc trong xã hội là những ví dụ.
Điều này dẫn đến nhiều nghịch lý. Ví dụ, tập đoàn Than và Khoáng sản
Việt Nam từ lâu đã chỉ ra rằng, từ năm 2013, Việt Nam sẽ phải nhập than đá
nhưng cũng chính tập đoàn này trong năm 2009 đã xuất khẩu 29 triệu tấn than đá
và năm 2010 lại đề nghị xuất khẩu tiếp 18 triệu tấn. Việc khai thác, chế biến cũng
như xuất khẩu khoáng sản vẫn diễn biến theo chiều hướng xấu. Phải chăng đó là
vì lợi ích cục bộ của chính tập đoàn này? Vấn đề xây dựng ồ ạt hồ thủy điện trong
những năm qua cũng là một ví dụ. Quy hoạch mỗi hồ thủy điện không dựa trên
quy hoạch tổng thể, không có quy hoạch chiến lược, đánh giá môi trường của toàn
bộ lưu vực con sông. Trong khi đó, việc phân cấp cho địa phương làm quy hoạch
thường dẫn đến việc địa phương chỉ lo quyền lợi của mình. Thế nên, ở thượng
nguồn thì phá rừng còn hạ nguồn phải gánh chịu lũ lụt.
Cũng đã từng tồn tại quan niệm cho rằng, thị trường sẽ “tự điều tiết”, cần
hạn chế tối đa sự “can thiệp”, quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế. Thực tế
của không chỉ các nước xã hội chủ nghĩa mà cả các nước tư bản chủ nghĩa cũng
cho thấy nếu nhà nước không tham gia quản lý nền kinh tế sẽ dẫn đến những hậu
quả như thế nào. Các nhà quản lý và các nhà khoa học đã nhìn thấy “lỗ hổng của
bàn tay vô hình”. Những nhược điểm của chủ nghĩa tự do mới khiến nhiều nước
từ chối đi theo con đường này. Sự phục hồi sau khủng hoảng kinh tế tài chính thế
giới từ năm 2008 đến nay cũng là nhờ sự can thiệp của nhà nước. Chủ nghĩa xã
hội cũng cần kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản cũng cần tới kế hoạch. Việc
phá vỡ các kế hoạch, quy hoạch của nhà nước vì những lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm là cản trở, làm chậm việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
3.3.2.2. Lợi ích nhóm tiêu cực tác động đến công tác tổ chức, cán bộ
Trong công tác tổ chức, cán bộ, biểu hiện của lợi ích nhóm tiêu cực cũng
rất đa dạng, phức tạp, có trong tất cả các công đoạn, các khâu, các bước trong quy
trình hoạt động của công tác tổ chức, cán bộ, có thể kể đến như sau:
104
Lợi ích nhóm tiêu cực trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công
tác tổ chức, cán bộ. Một bộ phận cán bộ tham mưu, khi tham mưu cho cấp có
thẩm quyền ban hành chính sách có liên quan đến công tác cán bộ thì không vì
chính sách, lợi ích chung mà tham mưu, ban hành những chính sách có lợi cho
họ (ví dụ: nới lỏng hơn các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương,
chuyển ngạch, nâng ngạch,…). Biểu hiện khác của tình trạng này là những cán
bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng,
ban hành chính sách cán bộ “dưới tiêu chuẩn, điều kiện cơ bản” (như điều kiện
tiếp nhận, điều chuyển, bố trí công tác, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt hoặc được
đi học, đi công tác nước ngoài) để người thân của họ, hoặc cán bộ lãnh đạo có đủ
điều kiện đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện đó; ban hành chính sách, quyết định,
nhiều khi mang tính “nội bộ”, có tính chất đặc quyền, đặc lợi cho một số ít cán
bộ, trái với quy định hoặc theo quy định của Nhà nước nhưng không minh bạch
để trục lợi.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện
Nhân khẳng định: “Tình trạng bổ nhiệm người thân trong gia đình vào các vị trí
lãnh đạo mà không bảo đảm quy trình và các tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ năng
lực, uy tín đã làm giảm niềm tin của nhân dân” [55].
Lợi ích nhóm tiêu cực trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của cấp
trên về công tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế, quy trình cụ thể của
cấp dưới để trục lợi. Có tình trạng quy định của cấp trên về chính sách, chế độ
chung của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ không được cấp dưới cụ thể hóa bảo
đảm đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục. Họ “vận dụng” ban hành chính sách, chế
độ đối với cán bộ vì lợi ích nhóm tiêu cực của số ít cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm
công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ dẫn đến việc thực hiện trái quy
định của cấp trên vì nhiều lý do hoặc luôn có sự thay đổi để cho “vừa” với những
tiêu chuẩn, điều kiện cá biệt của một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý để trục lợi cho
bản thân hoặc cho người thân của mình theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối
sách” làm thiệt hại cho lợi ích chung của cán bộ, công chức, viên chức, gây bất
105
bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có nơi, đáng lẽ phải vận dụng quy định
của cấp trên để ban hành chính sách về công tác cán bộ của cấp mình phù hợp
nguyên tắc, chủ trương, quy định, nhưng lại vận dụng ban hành trái quy định
nhằm “lách luật” để có lợi cho bản thân hoặc người thân của mình trong việc
tuyển dụng, đề bạt, thực hiện các chính sách cán bộ khác, như mở tuổi để được đề
bạt, bổ nhiệm, bầu cử, kéo dài thời gian công tác,…
Lợi ích nhóm tiêu cực trong việc chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách
về công tác tổ chức, cán bộ. Biểu hiện của lợi ích nhóm tiêu cực này dễ thấy nhất
và đang phổ biến hiện nay là cán bộ lãnh đạo trong một số doanh nghiệp nhà nước
đã chỉ đạo xây dựng chính sách lương, chính sách thu nhập có lợi cho họ, dẫn đến
biểu hiện lương “khủng” - “thu nhập quá cao và không minh bạch” trong một số
cán bộ lãnh đạo, quản lý của một số doanh nghiệp, lĩnh vực ngành, nghề… Theo
thông báo của đại diện Kiểm toán Nhà nước, tại cuộc họp báo công bố báo cáo
kiểm toán năm 2012, việc phân phối quỹ tiền lương giữa các đơn vị trong các Tập
đoàn, Tổng công ty và giữa các đơn vị, các bộ phận còn chưa hợp lý, chưa tương
xứng với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kiểm toán Nhà nước chỉ ra như tại Tập
đoàn Xăng Dầu Việt Nam (Petrolimex), mặc dù Tập đoàn này báo cáo kinh doanh
thua lỗ 1.671 tỉ đồng, nhưng Ban Lãnh đạo, Chủ tịch Tập đoàn cũng như hội đồng
thành viên vẫn có mức lương từ 40 - 58 triệu đồng/người/tháng. Trong khi mức
lương bình quân của cán bộ, nhân viên tại Tập đoàn này đều ở mức trên 6 triệu
đồng/người/tháng [91]. Trong 2 năm 2011- 2012, tại các tập đoàn, tổng công ty
Nhà nước có gần 20 vị Chủ tịch, Tổng Giám đốc hưởng thu nhập trên 1 tỷ
đồng/năm. Mức thu nhập "khủng" này gấp 4-5 lần so với thu nhập bình quân
chung của các lãnh đạo khối doanh nghiệp Nhà nước và gấp vài chục lần so với
lương của người lao động [50].
Bên cạnh đó là việc ban hành, thực hiện những chủ trương, chính sách cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý hằng năm đi nghiên cứu, tham quan, học tập ở nước
ngoài quá nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí, thất thoát kinh phí của cơ quan, đơn
vị, tổ chức. Một biểu hiện nữa là có những cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo, quản
106
lý tuy biết cán bộ cấp dưới thuộc “phe cánh” của mình, có trình độ năng lực hạn
chế, nhưng vẫn bổ nhiệm, đề bạt, bao che để tạo thành một “ê-kíp” cán bộ làm
việc vì lợi ích nhóm nhằm trục lợi. Trong khi đó, cán bộ có đủ năng lực, trình độ,
điều kiện thì không được quan tâm quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng
đúng khả năng, sở trường của họ, khiến họ “bất bình”, thậm chí đi tìm cơ hội làm
việc ở những nơi khác.
Lợi ích nhóm tiêu cực trong việc tổ chức thực hiện công tác tổ chức, cán
bộ. Biểu hiện này thể hiện ở việc một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức,
cán bộ thuộc phe, cánh của người lãnh đạo đã tham mưu trong việc bố trí người
thân của họ dù trình độ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém, kinh nghiệm công
tác không có vào những chức vụ, vị trí công tác có nhiều “lợi thế, màu mỡ, quyền
thế” để trục lợi theo kiểu “quyền đi liền với lợi lộc, quyền đi liền với tiền”. Trong
khi những cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt và có kinh nghiệm
trong công tác, có uy tín thì không được xem xét bố trí đảm nhiệm các công việc
đó. Tình trạng này đã hình thành “cơ quan”, “chi bộ” mang tính chất gia đình như
ở vụ PMU18 trước đây và một số vụ việc tiêu cực khác. Có cán bộ lãnh đạo khi
sắp hết nhiệm kỳ, hết thời hạn làm lãnh đạo quản lý đã ban hành những quyết định
bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, thay đổi vị trí công tác tốt hơn cho cán bộ thuộc
diện “thân tín”, cho người thân trong gia đình mình không đúng theo chế độ, tiêu
chuẩn, điều kiện. Vụ việc của Trần Văn Truyền - nguyên Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ - kí quyết định bổ nhiệm gần 60 cán bộ
cấp vụ (và tương đương) tại cơ quan Thanh tra Chính phủ là một ví dụ. Đặc biệt
nghiêm trọng là, chỉ trong 2 ngày (1/8/2011 và 3/8/2011), ông Truyền đã kí bổ
nhiệm 26 người, riêng ngày 3/8/2011, ông kí bổ nhiệm 22 người. Trong ngày
3/8/2011, ông Trần Văn Truyền đã kí bổ nhiệm 3 hàm Vụ trưởng ở văn phòng, 3
hàm Phó Vụ trưởng ở Trường Cán bộ Thanh tra, 3 hàm Cục phó ở Cục III, 2 hàm
Phó Vụ trưởng, hàm Vụ phó ở Cục I, 2 hàm Vụ trưởng, hàm Vụ phó ở Tạp chí,
nhiều Phó Cục trưởng, Phó Vụ trưởng, hàm Vụ trưởng, hàm Phó Vụ trưởng ở các
cục, vụ, đơn vị trực thuộc [38].
107
3.3.3. Lợi ích nhóm tiêu cực ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế ở
nước ta
Có một nhận định đáng quan tâm cho rằng:
Hiện nay, “lợi ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã
và đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý
doanh nghiệp nhà nước, quản lý dự án đầu tư, nhất là đầu tư công;
trong quản lý ngân sách, thuế, quản lý ngân hàng - tín dụng; trong quản
lý các nguồn vốn và chương trình đầu tư về xã hội, trong quản lý tài
sản, đất đai, bất động sản, tài nguyên khoáng sản, xuất nhập khẩu; trong
công tác cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý việc cấp các loại giấy
phép; kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương, chính sách
và trong điều hành… Tức là tình hình xấu đã lan rộng, khá phổ biến và
khá ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo động [56].
Việc lợi ích nhóm tiêu cực đang len lỏi vào các cấp, các ngành, các lĩnh vực
và tác động tiêu cực ngày càng tăng là nguyên nhân gây nên sự tụt hậu về kinh tế
ở nước ta, mà biểu hiện rõ nhất là lợi ích nhóm tiêu cực làm gia tăng tình trạng
tham nhũng
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi [89, tr.8]. Tổ chức Minh bạch quốc tế định nghĩa:
“Tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực được tin cậy giao phó vì lợi ích cá nhân”.
Tham nhũng được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Trong đó, một trong
những đặc trưng quan trọng của tham nhũng là tính chất vụ lợi của hành vi, nghĩa
là công chức tham nhũng vì muốn thu được các lợi ích dưới các hình thức khác
nhau. Như vậy, bản chất của tham nhũng là sự tư lợi cá nhân. Trong khi đó, lợi ích
nhóm tiêu cực cũng là một “biến thể của chủ nghĩa cá nhân phát triển đến mức độ
cao khiến tham nhũng phát triển sâu rộng, tính chất ngày càng phức tạp” [68,
tr.50]. Người ta coi lợi ích nhóm tiêu cực là một dạng tham nhũng đặc biệt. Chính
lợi ích nhóm tiêu cực làm sâu sắc thêm vấn đề tham nhũng ở Việt Nam, và ngược
lại tham nhũng chính là nguyên nhân của sự phát triển lợi ích nhóm tiêu cực. Như
Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Đình Quyền nhận định: “Năng lực không
108
thiếu, tổ chức bộ máy không thiếu, quyết tâm không thiếu nhưng vẫn không phát
hiện được tham nhũng, phải chăng có vấn đề về lợi ích nhóm, về bao che trong đội
ngũ cán bộ?” [45]. Trong các dạng tham nhũng, cần đặc biệt lưu ý đến tham
nhũng chính sách.
Như đã phân tích ở phần trên, tham nhũng chính sách hình thành nhờ sự
cấu kết giữa những người có quyền lực trong hệ thống chính trị nhằm tạo ra những
quyết định hoặc tìm cách tác động vào những chính sách của nhà nước để phục vụ
lợi ích của một cá nhân, doanh nghiệp hay một nhóm lợi ích nào đó. Tham những
chính sách có khi còn nhằm thay đổi các quy định của pháp luật để phục vụ quyền
lợi của những kẻ tham nhũng.
Nói về tác hại của loại tham nhũng này, một đại biểu Quốc hội cho rằng:
Tham nhũng chính sách là loại tham nhũng cực kỳ nguy hiểm! Về kinh
tế, nó tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, thiếu bình đẳng,
khiến doanh nghiệp không cần nâng cao năng lực, chất lượng sản
phẩm, chỉ cần có “quan hệ” là giành được những hợp đồng béo bở. Từ
đó gây lãng phí tiền của, cản trở sự phát triển nhanh và bền vững, làm
suy yếu khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam. Về xã hội, nó bóp
méo các chính sách của Đảng, Nhà nước để phục vụ nhóm lợi ích,
thương mại hóa quyền lực, làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và vai trò
quản lý của Nhà nước, làm mất lòng tin của nhân dân [4].
Ở Việt Nam, biểu hiện của tham nhũng dạng này thể hiện ở hành vi lợi
dụng kẽ hở hoặc cố tình tạo ra kẽ hở để làm ăn phi pháp hay bán thông tin kinh tế,
xã hội, làm lộ thông tin về các chủ trương, chính sách mới, đầu tư, dự án, về quy
hoạch đất đai, xuất nhập khẩu… Ví dụ như vụ vi phạm quản lý đất đai ở thị xã Đồ
Sơn, Hải Phòng, một bộ phận tham mưu và cán bộ chủ chốt đã lợi dụng việc quy
hoạch giải phóng mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng để đặt hẳn ra một cơ chế riêng
cấp bán đất cho cán bộ quản lý của thị xã, thành phố và dùng để “đối ngoại”. Hay
vụ việc gần đây ở tỉnh Bình Dương, khi dự án bất động sản mới chỉ có quy hoạch
1/2000, chưa có quy hoạch chi tiết 1/500, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, UBND tỉnh và các cơ quan chức năng vẫn cho phép doanh nghiệp phân lô,
109
bán nền. Hơn nữa, cơ quan chức năng tỉnh còn “sáng tạo” ra giấy phép trái quy
định pháp luật để cho khách hàng của doanh nghiệp được xây nhà trái phép [80].
Cùng với sự phát triển của nhóm lợi ích tiêu cực, vấn đề tham nhũng chính
sách lại càng trở nên phức tạp hơn. Trong đó, đặc biệt là một số doanh nghiệp,
doanh nhân đã “móc nối với những phần tử thoái hóa, biến chất trong bộ máy
quản lý nhà nước, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, làm trầm trọng thêm các tiêu
cực xã hội” [27]. Đó là sự cấu kết để tạo ra lợi ích nhóm giữa những chủ đầu tư
với những kẻ thoái hóa, biến chất trong bộ máy Đảng, Nhà nước, đặc biệt là ở
những cơ quan có chức năng và khả năng soạn thảo, thông qua và điều hành cơ
chế, chính sách, các cơ quan tư pháp. Tham nhũng chính sách là dạng tham nhũng
phức tạp và tinh vi bởi các nhóm lợi ích hoạt động, tung hoành không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế mà cả trong chính trị, xã hội.
Hơn nữa, lợi ích nhóm tiêu cực thông qua vận động hành lang để điều
chỉnh, hướng các chính sách, quyết định có lợi cho nhóm mình. Nếu không kiểm
soát được lợi ích nhóm tiêu cực, để đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về số
đông, bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người, sẽ nảy sinh một số nhóm
lợi ích theo nghĩa đặc quyền, đặc lợi, có khả năng tác động mạnh mẽ hoặc trực
tiếp tham gia vào quá trình ra quyết sách của nhà nước. Những nhóm này sử dụng
chính trị để trục lợi kinh tế, dùng lợi ích kinh tế để củng cố quyền lực chính trị.
Lợi ích thu được từ chính sách là “siêu lợi nhuận”, nhiều hơn bất kỳ thứ lợi nhuận
nào thu được từ sản xuất hay kinh doanh, do vậy, những nhóm này tìm mọi cách
tác động đến quá trình hoạch định chính sách của nhà nước, thực hiện các hoạt
động “tham nhũng chính sách” [53].
Hậu quả là, tham nhũng làm thất thoát đáng kể công quỹ, tiền của tích cóp
của nhân dân; dẫn đến năng suất lao động xã hội giảm sút, giá thành sản phẩm xã
hội tăng cao, khả năng cạnh tranh của kinh tế đất nước đã yếu kém lại càng tụt hậu
hơn. Nguy hại hơn, nó có thể làm suy giảm, thậm chí, có thể làm triệt tiêu động
lực lao động. Qua một số vụ tham nhũng có thể thấy rằng, tham nhũng là ăn cắp
các nguồn lực công cộng, làm suy yếu tính ổn định kinh tế vĩ mô, làm chậm lại
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tham nhũng chẳng những là sự bóc lột tiền
110
của người lao động mà trong tương lai và ngay cả bây giờ, chính họ và con cháu
mình phải bù đắp sự thâm hụt ngân sách nhà nước một cách vô lý.
Bên cạnh đó, hậu quả mà lợi ích nhóm tiêu cực đối với nền kinh tế là nó
làm tổn thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư. Nên kinh tế vì thế mà bị kìm
hãm không thể phát triển nhanh, thậm chí không thể phát triển bình thường, mất
sức sống, nền kinh tế sẽ bị khiếm khuyết, dị tật, kinh tế “ngầm”, thị trường “ảo”,
chụp giật, hoang dã, khống chế và “thanh toán” lẫn nhau để giành độc quyền, làm
hỏng môi trường phát triển lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.
3.3.4. Lợi ích nhóm tiêu cực ảnh hưởng tiêu cực đến những giá trị
trong chủ nghĩa xã hội
Lợi ích nhóm tiêu cực gây ra hiện tượng bất công, bất bình đẳng, mất dân
chủ nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - xã hội.
Một là, đặc trưng tồn tại và hoạt động của các lợi ích nhóm ở các nước trên
thế giới có tính cạnh tranh, thậm chí đối kháng để đạt tới trạng thái bình thường là
cân bằng và chế ước lẫn nhau. Nhưng ở nước ta, nhà nước chưa cho phép và chưa
có cơ sở xã hội cho sự đối kháng giữa các lợi ích nhóm. Tính chất cạnh tranh, chế
ước và cân bằng, tùy thời điểm, tùy lĩnh vực và điều kiện cụ thể, có thể lúc mạnh,
lúc yếu khác nhau nhưng luôn tồn tại trong quan hệ giữa các nhóm lợi ích khác
nhau, với nhau và với xã hội. Do đó, xã hội cần có cơ chế tự điều chỉnh để sự cạnh
tranh không phát triển thành đối kháng, nhưng lại đảm bảo tính dân chủ và công
bằng để cho các nhóm lợi ích có thể tự chế ước lẫn nhau, giữ được trạng thái cân
bằng cho xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, do quá trình chuyển
đổi sang kinh tế thị trường chưa hoàn thành, các lợi ích nhóm chưa được thừa
nhận chính thức, chưa trở thành chính thống, tính chất dân chủ và công bằng trong
quan hệ giữa các nhóm chưa thật đảm bảo, nên trong nhiều trường hợp, một số
nhóm lợi ích đã trở thành nhóm độc quyền, do vậy tính chất chế ước và cân bằng
bị ảnh hưởng. Một số nhóm do “độc quyền” nên có cơ hội tốt hơn các nhóm khác
trong tác động chính sách, trong tác động vào điều hành, quản lý các quá trình xã
hội, thu lợi bất chính hoặc bất hợp lý. Trong khi đó, các nhóm lợi ích khác lại rơi
vào điều kiện bất lợi, do không thể cân bằng, chế ước được nhóm đối tác. Theo tác
111
giả Nguyễn An Nguyên, Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) là
một tập đoàn lợi ích như thế. Được hưởng đặc lợi từ các loại thuế và lệnh cấm
đánh vào ô tô nhập khẩu, giá ô tô sản xuất ở Việt Nam luôn cao gấp 3 - 5 lần so
với giá ở các nước khác. Dù thế, VAMA vẫn dựa vào thế thống trị thị trường để
cùng nhau nâng giá ô tô. Tuy nhiên, dù luôn cam kết nội địa hóa lên 30 - 40%
trong vòng 10 năm, đến nay tỉ lệ nội địa hóa mà các doanh nghiệp thực hiện mới
chỉ đạt 2 - 10%. Vậy là, trong khi người tiêu dùng phải hi sinh, chịu thiệt thòi để hi
vọng vào một nền sản xuất ô tô phát triển hơn thì ngược lại, VAMA có những
khoản lợi nhuận khổng lồ mà nền sản xuất ô tô Việt Nam vẫn không phát triển
được như mong đợi.
Hai là, lợi ích nhóm tiêu cực đã tác động khiến cho việc phân phối không
còn công bằng, tạo sự phân hóa giàu nghèo không chính đáng - nghĩa là, phân hóa
giàu nghèo không xuất phát từ tài năng, đóng góp mà do ý muốn chủ quan, sự
điều chỉnh lợi ích của một nhóm người. Cần nhận thức rằng công bằng xã hội là
tiêu chí quan trọng bậc nhất để phân biệt chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Dưới góc độ công bằng xã hội, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các nhóm lợi
ích, nhất là trong các nền chính trị không minh bạch, thông qua hình thức vận
động hành lang, nhằm tác động tới cách thức, tỷ lệ phân bổ lợi ích của Nhà nước,
để tạo dựng và thụ hưởng đặc quyền, đặc lợi là nguy cơ trực tiếp đối với công
bằng xã hội. Sự bất công xã hội do lợi ích nhóm gây nên là sự bất công ngay từ
“gốc” chứ không chỉ ở phần “ngọn”. Nghĩa là, bất công diễn ra ngay từ sự phân
phối cơ hội phát triển.
Hiện nay, có sự phân cực rất rõ giữa những nhóm giàu có quyền lực lớn và
những nhóm dân cư yếu thế, chịu nhiều thua thiệt. Mặc dù nhóm giàu có chiếm số
lượng nhỏ trong dân cư nhưng lại thu lợi lớn từ công cuộc đổi mới và phát triển.
Họ sở hữu một lượng tài sản lớn, nhờ đó có quyền lực mạnh, không những có thể
bảo vệ lợi ích riêng của nhóm mà còn phát huy ảnh hưởng đến việc hoạch định
chính sách thông qua nhiều phương tiện và mua chuộc những kẻ thoái hóa, biến
chất trong bộ máy nhà nước để làm lợi cho họ. Ví dụ, các nhà đầu tư nước ngoài
lót tay cho các cán bộ xét duyệt và cấp phép dự án FDI, nên được hưởng quá
112
nhiều ưu đãi, như miễn giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế trong quá nhiều năm,
được nhận những khu đất vàng..., không hề cân nhắc xem dự án đầu tư có tạo
thêm nhiều việc làm không, có tăng thu ngân sách không, có tiếp nhận được công
nghệ mới không… Hậu quả là tăng trưởng cao nhưng không cải thiện đời sống
nhân dân mà chỉ lợi cho các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, hiện nay, còn xuất hiện những kẻ làm giàu phi pháp, chủ
yếu thuộc hai nhóm: nhóm thứ nhất là bọn buôn gian, bán lận, lừa đảo, đầu cơ
trên thương trường; nhóm thứ hai là những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến
chất chỉ lo tìm cách lợi dụng vị thế và quyền lực được giao (nhất là trong các
lĩnh vực địa chính - nhà đất, xây dựng cơ bản, tài chính doanh nghiệp nhà
nước, thuế vụ, hải quan...) để đục khoét tài sản của Nhà nước và của nhân dân.
Hơn thế nữa, thực tế nhiều vụ án kinh tế lớn còn cho thấy rõ có sự móc ngoặc
tinh vi giữa hai nhóm trên.
Cả hai nhóm này đều có lợi ích đối kháng với lợi ích của toàn xã hội.
Chúng phải bị pháp luật trừng trị và xóa bỏ. Nếu để cho chúng tiếp tục phát triển
và câu kết chặt chẽ với nhau thì sớm muộn chúng sẽ ngang nhiên phá hoại sự
nghiệp đổi mới ngay từ bên trong, biến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thành nền kinh tế thị trường "hoang dã", vừa cản trở tăng trưởng kinh tế
nhanh, lành mạnh và bền vững vừa kìm hãm tiến bộ và công bằng xã hội, gây bất
bình trong quảng đại nhân dân, tạo thành nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà toàn Đảng, toàn
dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới.
Hậu quả của nó là ảnh hưởng đến chủ nghĩa xã hội, là làm xói mòn lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, hình thành những
nhóm tiêu cực, sa vào tham nhũng, lãng phí, thu vén lợi ích cá nhân làm giảm sút
lòng tin của nhân dân, gây bất bình trong dư luận xã hội, thậm chí có cả biểu tình
phản đối. Điều này cũng khiến các thế lực thù địch rất dễ lợi dụng xuyên tạc, bôi
nhọ, nói xấu, kích động nhân dân chống lại Đảng, Nhà nước. Trên thực tế, có
lúc, có nơi các thế lực thù địch đã kích động được một bộ phận nhân dân gây bạo
113
loạn làm mất ổn định chính trị. Nếu Đảng, Nhà nước không kiên quyết xử lý
nghiêm minh, tiếp tục để lợi ích nhóm tiêu cực lộng hành, phát triển, gây bức
xúc trong nhân dân và xã hội sẽ tạo thuận lợi thêm cho các thế lực thù địch lợi
dụng thực hiện những âm mưu gây bạo loạn đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà
nước và chế độ ta.
Từ những phân tích trên, sự khẳng định dưới đây là có cơ sở:
Hậu quả thứ hai do “nhóm lợi ích” gây ra là nhất định sẽ chệch hướng
khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với chủ nghĩa
tư bản hiện đại), đất nước đi theo một con đường khác, sang “chủ nghĩa
tư bản thân hữu”, đó là con đường không có tiền đồ và rất nguy hiểm,
không có tự do và dân chủ (vì bị “nhóm lợi ích” độc quyền về kinh tế
và chính trị thâu tóm, lũng đoạn), để lại hậu quả lâu dài mà dân tộc phải
gánh chịu [56].
3.4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Một là, xu hướng hành chính, quan liêu hóa đang diễn ra trong một số tổ
chức hội.
Điều này dẫn đến hạn chế dần tác dụng của các tổ chức hội, nhất là các tổ
chức xã hội đặc thù với tư cách là các nhóm lợi ích đáp ứng các nhu cầu và lợi ích
của các đoàn viên, hội viên mà nó đại diện. Đa số trường hợp các nhóm lợi ích
hợp pháp ở nước ta hiện nay ra đời do các cơ quan của chính phủ trực tiếp xây
dựng. Do vậy, chúng thường mang dấu ấn hành chính, công quyền, chính trị.
Ngay cả các lợi ích nhóm dưới hình thái các tổ chức nghề nghiệp cũng vậy. Trong
nhiều trường hợp, chúng mất tính độc lập, công bằng, trở thành công cụ hành
chính của Nhà nước. Nhiều tổ chức xã hội có xu hướng mong muốn trở thành tổ
chức xã hội đặc thù, muốn trở thành “con đẻ” của Nhà nước để được cấp ngân
sách hoạt động. Có thể thấy, sự hoạt động của một số Hội chưa thực sự hiệu quả
như Hội Nông dân. Tiếng nói của Hội này chưa phát huy được vai trò thực sự…
Điều này khiến cho Hội chưa bảo vệ được tốt nhất quyền lợi của người nông dân.
Cũng như vậy, hoạt động của Công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích cho
114
công nhân, nhất là công nhân ở các doanh nghiệp FDI, vẫn còn nhiều bất cập, đôi
khi trở nên hình thức, chưa thực sự trở thành chỗ dựa cho người công nhân. Có thể
kể đến một số những mặt hạn chế trong tổ chức và hoạt động công đoàn bảo vệ
quyền và lợi ích người lao động trong các doanh nghiệp FDI hiện nay như: 1/ hiệu
quả tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý trực tiếp cho người lao động trên thực tế còn
thấp, hầu hết mới dừng lại ở mức độ phổ biến, tuyên truyền pháp luật; 2/ sự đại
diện cho tập thể người lao động tiến hành đối thoại tại nơi làm việc và thương
lượng tập thể còn mang tính hình thức. Trong đó, về thỏa ước lao động tập thể
ngành, mới có 1 bản thỏa ước được ký kết giữa Hiệp hội Dệt May Việt Nam và
Công đoàn Dệt May Việt Nam năm 2010, và hiện nay, có khoảng 100 doanh
nghiệp tham gia; 3/ việc đại diện cho tập thể người lao động tham gia giải quyết
tranh chấp lao động còn chưa được thực hiện tốt; 4/ chưa thể hiện được vai trò
trong tổ chức và lãnh đạo đình công. Từ năm 1995 đến nay, trong hơn 4000 vụ
đình công trong cả nước, mặc dù trong 70% số vụ xảy ra ở các doanh nghiệp có tổ
chức công đoàn… nhưng chưa có một vụ nào công đoàn là người tổ chức và lãnh
đạo… [100, tr.155 - 157].
Có thể thấy, những nhóm lợi ích hoạt động kém hiệu quả ở Việt Nam
thường phổ biến ở một số trường hợp như đại diện của nó không hưởng lợi trực
tiếp từ nhóm lợi ích mà họ đại diện (Hội Nông dân, Công đoàn) hoặc hưởng lợi từ
những hoạt động khác (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, Hội
Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam). Việc không được hưởng lợi trực tiếp của các
nhóm lợi ích này đã tạo ra hiện tượng tách biệt quyền lợi với trách nhiệm, làm
giảm vai trò đối thoại chính sách của các nhóm hay đại diện của các nhóm này.
Kết quả là, môi trường sinh thái không những không được cải thiện mà còn
có phần nghiêm trọng hơn; vấn đề an toàn thực phẩm, hàng giả, hàng nhái ngày
càng tràn lan. Những vụ việc trầm trọng về môi trường, về quyền lợi người tiêu
dùng ở Việt Nam chủ yếu là do nhân dân lên tiếng, báo chí và các cơ quan quản lý
Việt Nam vào cuộc. Các hội, hiệp hội trong lĩnh vực này hầu như không có tiếng
nói và hành động bảo vệ cho những lợi ích công này. Điều này vừa đặt ra vấn về
115
tính hiệu quả trong hoạt động của một số hội, hiệp hội; nhưng cũng là một gợi ý
trong việc đưa ra giải pháp về phát huy dân chủ và vai trò của báo chí, truyền
thông trong việc bảo vệ các lợi ích nhóm tích cực.
Bên cạnh đó, các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam hiện khá tích cực và có
nhiều nỗ lực trong hoạt động vận động chính sách; tuy nhiên, bản thân các hiệp
hội cũng chưa thỏa mãn về hiệu quả của việc đóng góp ý kiến cho cơ quan nhà
nước để nâng cao chất lượng của chính sách và văn bản pháp luật. Ở mức độ
chung, chỉ có 38% các hiệp hội cho rằng việc đóng góp ý kiến của hiệp hội và
cộng đồng doanh nghiệp địa phương, ngành đối với chất lượng của chính sách,
văn bản pháp luật là hiệu quả.
Hai là, chưa có sự phân phối công bằng giữa các nhóm lợi ích trong cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có một thực tế là hiện nay, lợi ích nhóm của các doanh nhân nhiều khi
được chú trọng nhiều hơn lợi ích nhóm của công nhân, nông dân - những nhóm
được coi là lực lượng cơ bản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Nhóm yếu thế hay nhóm bị thiệt hại thuộc về người dân, mà đa phần ở đây là
nông dân. Một trong những nguyên nhân khiến người nông dân trở thành nhóm bị
thiệt hại là do sự tham gia và tác động của nông dân (và các tổ chức đại diện quyền
lợi của họ) trong các quyết định về phát triển liên quan đến họ còn ít và yếu. Các kết
quả nghiên cứu và điều tra khảo sát xã hội học về nông nghiệp, nông thôn và nông
dân Việt Nam của các tổ chức trong nước và quốc tế đều có nhận định rằng, tiếng
nói của nông dân ít được lắng nghe trong thiết kế, hoạch định, và càng ít được quan
tâm hơn trong theo dõi, giám sát thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch và dự án phát triển. Vai trò và chức năng phản biện xã hội của các tổ chức
chính trị - xã hội và nghề nghiệp có liên quan trực tiếp và nhiều tới đời sống chính
trị, kinh tế - xã hội của nông dân (như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến
binh…) còn ít được phát huy và tạo điều kiện đóng góp [94, tr.66].
Trong khi đó, lợi ích của một số nhóm doanh nghiệp cũng đang được
hưởng quá nhiều ưu đãi. Vài năm trước đây, chúng ta luôn kêu gọi đầu tư, cải
116
cách, mở cửa, bằng mọi cách thu hút các nhà đầu tư, “trải chiếu hoa, thảm đỏ” đón
họ vào. Việc quá chú trọng đến số lượng, thậm chí chạy theo thành tích thu hút
đầu tư khiến các tỉnh quá dễ dãi về điều kiện đầu tư, môi trường. Kết quả là, trong
khi các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nước ngoài được nhận hàng loạt ưu
đãi thì công nhân vẫn phải sống trong những khu ổ chuột, đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần đều ở mức thấp. Hay như vụ việc công ty Vedan gây ô nhiễm môi
trường, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng nghìn hộ dân, nhưng lãnh đạo tỉnh
Đồng Nai vẫn tìm cách bảo vệ, “bao che” cho doanh nghiệp này.
Kết quả là những giai cấp, tầng lớp lao động, những người đi đầu trong
công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội lại đang trở thành những nhóm
yếu thế và chịu thua thiệt về lợi ích so với các nhóm lợi ích tiêu cực.
Ba là, lợi ích nhóm tiêu cực nằm trong các cơ quan quyền lực.
Đây là một thực tế đáng chú ý và có xu hướng gia tăng, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hình ảnh của Đảng và Nhà nước ta. Trong thực tế, nhiều lợi ích
nhóm bất hợp pháp lại núp bóng cơ quan công quyền, núp bóng pháp luật, hoặc
mượn danh các tổ chức nhà nước, các tổ chức và nhóm hợp pháp khác để ẩn nấp,
giấu mình, ngấm ngầm thực hiện lợi ích riêng, gây tổn thất lớn cho xã hội, trở
thành lực lượng phá hoại ghê gớm, gây hậu quả khó khắc phục.
Ở các quốc gia khác, nhất là các nước phát triển, các nhóm lợi ích thường
nằm bên ngoài quyền lực, muốn tác động vào chính sách của Chính phủ phải
thông qua vận động hành lang. Nhưng ở nước ta, lợi ích nhóm lại nằm bên trong
các cơ quan quyền lực khiến nó trở nên nguy hiểm và khó kiểm soát. Có nhà
nghiên cứu cho rằng, nền kinh tế thị trường càng lớn thì lợi ích thu được từ việc
ảnh hưởng chính sách càng khổng lồ. Do đó, từ giới tư bản nước ngoài, các tổng
công ty, các đại gia tư nhân cho đến những tập đoàn tội phạm đều ra sức thâm
nhập và ảnh hưởng vào bộ máy nhà nước để giành đặc lợi. Trong khi đó, bộ máy
nhà nước cũng giảm dần sự thống nhất, trở thành đại diện cho các nhóm lợi ích
khác nhau. Tình trạng phân hóa này đã được nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại
Trương Đình Tuyển đề cập đến: “Mỗi ngành khi đi đàm phán đều có phương án
đàm phán riêng của mình mà trưởng đoàn đàm phán không biết” [81].
117
Bốn là, sự lớn mạnh của các nhóm lợi ích tư cũng là một yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Khác với nhóm lợi ích công, nhóm lợi ích tư chỉ vận động cho lợi ích cục
bộ của một số rất nhỏ các thành viên (như các doanh nghiệp trong một ngành đòi
bảo hộ cho mình…). Những nhóm này tuy ít thành viên nhưng lại có thể thu lợi
lớn từ việc bóp méo chính sách do có khả năng cấu kết rất chặt, vì thế thường
thành công hơn những nhóm nhiều thành viên nhưng thiếu tổ chức. Đã có một
nhận xét:
…các nhóm lợi ích tư ở Việt Nam sẽ ngày càng lớn mạnh, ngày càng
can thiệp sâu quá trình ra chính sách. Với tiềm lực tài chính lớn và ở
ngay sát nách với Nhà nước, nó tiến hóa và thích nghi với sự phát triển
kinh tế còn nhanh hơn cả sự nhận thức của số đông công chúng hay các
nhóm lợi ích công. Những nhóm lợi ích mới sẽ tiếp tục hình thành từ
trong nước và từ nước ngoài vào. Dù cuộc cạnh tranh giữa chúng sẽ
tiếp tục mạnh lên, nhưng không có gì đảm bảo rằng quyền lợi của đại
bộ phận dân chúng sẽ được bảo vệ. Nếu không sớm thừa nhận và chuẩn
bị sống chung với nó, các nhóm lợi ích tư này có thể ngăn chặn cải cách
hoặc làm quá trình cải cách tuột khỏi sự kiểm soát, tạo ra một xã hội
được thống trị bởi thiểu số [81].
Điều đáng nói là các tập đoàn lợi ích tư thường nhân danh lợi ích quốc gia
nhưng thực tế thì họ thường vì lợi nhuận của chính họ.
Năm là, có sự cấu kết giữa các nhóm lợi ích trong và ngoài nước.
Giao lưu, hợp tác quốc tế hiện nay đang có xu hướng ngày càng mở rộng,
các nhóm lợi ích trong nước đang và sẽ liên kết với các nhóm lợi ích nước ngoài
để có những tác động cả tích cực và tiêu cực đến Việt Nam. Cần chú ý đến những
nhóm lợi ích phản động, bề ngoài tìm cách viện trợ, hỗ trợ cho các nhóm yếu thế
trong xã hội, nhưng họ còn tìm cách vận động, truyền bá tôn giáo trái phép, lôi
kéo kích động các tổ chức phản động chống phá cách mạng, gây ra biểu tình, đình
công hoặc lợi dụng các dự án mang tính chất nhân đạo, từ thiện để thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”. Dưới sự tài trợ của quốc tế núp dưới bóng các hoạt
118
động của các tổ chức phi chính phủ, các nhóm lợi ích sẽ có nguồn kinh phí dồi dào
để hoạt động theo định hướng của các tổ chức đó, thực hiện lôi kéo quần chúng,
các đối tượng cơ hội chính trị, cực đoan, cài cắm người vào cơ quan của Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ nước ta để thực hiện “cách mạng xanh”, “cách mạng hoa hồng”.
Khi đó, tài chính, quyền lực và tư tưởng phản động sẽ ảnh hưởng mạnh đến sự
lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Bài học sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và các nước Đông Âu là một minh chứng. Nhóm lợi ích là các nhà tài phiệt nắm
giữ quyền lực và có tư tưởng phản động của nước ngoài đã phá hoại một cách có
tính chất hệ thống, dẫn đến sự sụp đổ cả một hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu đã cho chúng ta bài học kinh nghiệm sâu sắc. Điều đó đòi hỏi phải có sự vững
mạnh và sáng suốt của Đảng cầm quyền.
Sáu là, tính tích cực hay tiêu cực của lợi ích nhóm đôi khi mang tính chất
tương đối.
Lợi ích nhóm tích cực đôi khi ban đầu chưa được nhìn nhận và ủng hộ. Nó
khá khó khăn trong việc khẳng định vai trò và vị thế mở đường, nhưng khi được
thừa nhận và tạo điều kiện, lợi ích nhóm tích cực trở thành động lực dẫn đầu cho
sự nghiệp đổi mới.
Nhóm lợi ích nhóm tiêu cực thường núp bóng tập thể, nhân danh lợi ích xã
hội, nhân danh đạo đức, nhân nghĩa để thực hiện những toan tính của mình. Vì
vậy, cần cảnh giác với những thủ đoạn của nhóm lợi ích tiêu cực; ngăn chặn từ xa
khả năng xuất hiện các vấn đề liên quan tới lợi ích nhóm tiêu cực bằng cách “bịt
các lỗ hổng” của thể chế, giảm dần cơ chế “xin cho” để tránh hiện tượng “chạy dự
án, chạy ngân sách”… Cùng với đó là đạo đức xã hội, dư luận xã hội cũng cần
góp sức chống lợi ích nhóm tiêu cực trong chạy chức, chạy quyền, chạy tội.
Về ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm chính thức
và lợi ích nhóm phi chính thức cũng có tính chất tương đối. Cần khẳng định không
phải cứ lợi ích nhóm chính thức là có ảnh hưởng tích cực cũng không phải cứ lợi
ích nhóm phi chính thức là có ảnh hưởng tiêu cực. Thực tế là trong nhóm lợi ích
chính thức có sự nảy sinh những lợi ích nhóm không chính thức, có ảnh hưởng
119
tiêu cực đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự việc Hội Tiêu
chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) vừa qua bị điều tra
trong vụ công bố về hàm lượng asen trong nước mắm truyền thống là một ví dụ.
Đây là nhóm lợi ích chính thức, đại diện cho lợi ích người tiêu dùng Việt Nam
nhưng một số cá nhân lại dựa vào uy tín của Hội, có dấu hiệu cấu kết với doanh
nghiệp, trục lợi, gây hoang mang cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến nền sản
xuất trong nước. Điều này cũng đặt ra vấn đề về việc ban hành Luật về Hội, những
Hội nào là tham gia vào quản lý Nhà nước thì phải được cơ quan có thẩm quyền
quản lý, kiểm soát chứ Hội không thể làm thay việc của cơ quan quản lý Nhà nước
được. Ngược lại, cứ không phải lợi ích nhóm phi chính thức là tiêu cực. Có những
lợi ích nhóm phi chính thức là do chưa có hành lang pháp lý cho hoạt động của nó,
nhưng lại có tác động tích cực đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam như. Lợi ích nhóm trong nông nghiệp trước thời kỳ đổi mới đã phân tích ở
trên là một ví dụ. Vì vậy, đòi hỏi các nhà lập pháp cần nghiên cứu để xây dựng
luật về hội nhằm phát huy tính tích cực của các nhóm lợi ích này.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Như vậy, lợi ích nhóm đang là một yếu tố ảnh hưởng ngày càng rõ nét đến
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ảnh hưởng này bao hàm cả mặt
tích cực và tiêu cực như đã phân tích ở trên. Qua đó, có thể thấy:
Một là, cần khách quan nhận thấy rằng, lợi ích nhóm chính đáng, tích cực
đang tạo ra có những tác động thuận chiều cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Lợi ích nhóm chính đáng ảnh hưởng tích cực đến năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu và vai trò hạt nhân của Đảng. Nó buộc người lãnh đạo phải quan tâm
đến nhu cầu, lợi ích cụ thể của từng con người, từng nhóm xã hội.
Lợi ích nhóm chính đáng ảnh hưởng tích cực đến vai trò quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật và các cơ quan quản lý buộc phải quan
120
tâm đầy đủ đến sự đa dạng của các lợi ích và cân bằng các lợi ích trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lợi ích nhóm chính đáng khi được thỏa mãn sẽ tạo sức mạnh cho các giai
cấp, tầng lớp đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
như giai cấp công nhân, giai cấp nông dân.
Vì vậy, cần quan tâm và hiện thực hóa các nhu cầu, lợi ích của các nhóm
góp phần thúc đẩy công bằng, dân chủ, bình đẳng ở Việt Nam.
Hai là, lợi ích nhóm tiêu cực cũng đang làm gia tăng nguy cơ chệch hướng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lợi ích nhóm tiêu cực gây ra nguy cơ làm tụt hậu nền kinh tế bởi nó có mối
liên hệ mật thiết với tham nhũng, tham nhũng chính sách; nó làm tổn hại đến các
nguồn lực của đất nước.
Lợi ích nhóm tiêu cực làm ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, bao gồm cả năng lực lãnh đạo của Đảng và đạo đức, phẩm chất của
cán bộ, đảng viên.
Lợi ích nhóm tiêu cực làm ảnh hưởng đến vai trò quản lý của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
Lợi ích nhóm tiêu cực gây tác động xấu đến các giá trị của chủ nghĩa xã hội
như công bằng, dân chủ…
Ba là, lợi ích nhóm ở Việt Nam đang có một số vấn đề đặt ra cần suy ngẫm
và giải quyết như sau:
Nhận thức về vấn đề lợi ích nhóm, sự tồn tại tự nhiên của các nhóm lợi ích
và điều tiết các nhóm lợi ích trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cần được tăng cường trong khi hoạch định chính sách. Thực tại rộng lớn và phức
tạp này đang mâu thuẫn với sự hạn chế, bất cập trong tư duy chiến lược của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta.
Xu hướng hành chính, quan liêu hóa đang dần hạn chế tác dụng của các
Hội khiến chúng chưa thực sự đại diện cho quyền và lợi ích của các thành viên.
Một số hội nghề nghiệp chưa thực sự tham gia vào quá trình xây dựng chính sách.
121
Có sự bất công trong đối xử giữa các nhóm lợi ích, sự quá ưu đãi nhóm lợi
ích doanh nghiệp mà chưa thật sự quan tâm đến nhóm lợi ích của công nhân, nông
dân có thể là mầm mống của những xung đột xã hội sâu sắc và làm tổn hại đến
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Lợi ích nhóm tiêu cực ở nước ta xuất hiện trong các cơ quan công quyền
đang làm sai lệch nhiều chính sách, chương trình kinh tế xã hội, là biểu hiện của
quan liêu, xa dân, tham nhũng, lãng phí và làm xấu đi hình ảnh của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Sự lớn mạnh của lợi ích nhóm tư, đôi khi, đi ngược lại lợi ích chung, lợi ích
tập thể cũng là một yếu tố gây chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự cấu kết giữa lợi ích nhóm trong nước và lợi ích nhóm nước ngoài bên
cạnh những mặt tích cực cũng có những mặt trái, với những nguy cơ có thể dẫn
đến sụp đổ chế độ.
Bên cạnh đó, cần nhận thức rõ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực của lợi ích
nhóm chỉ mang tính tương đối.
122
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC
CỦA LỢI ÍCH NHÓM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LỢI ÍCH NHÓM ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Giải quyết đúng các quan hệ lợi ích, phát huy ảnh hưởng tích
cực và khắc phục, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của lợi ích nhóm là vấn đề
thường xuyên, lâu dài, đồng thời còn là vấn đề cấp bách trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Một là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vẫn còn tồn tại nhiều
giai cấp, tầng lớp, tương ứng với nó là các nhóm lợi ích tồn tại trong mối quan
hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Mỗi nhóm này có vai trò, vị trí và đóng góp xã
hội nhất định, không có nhóm lợi ích hoàn toàn xấu, cũng không có nhóm lợi ích
hoàn toàn tốt mà tính tích cực hay tính tiêu cực của các nhóm lợi ích cần được
đặt trong một mối quan hệ cụ thể, nhất định. Vì vậy, cần đối xử một cách bình
đẳng, hướng tới hài hòa lợi ích giữa các nhóm, hướng tới giảm thiểu những xung
đột lợi ích giữa các nhóm hoặc giảm thiểu tác động tiêu cực của nhóm lợi ích
này tới lợi ích của nhóm khác. Nói cách khác, cần điều hòa tốt mối quan hệ lợi
ích giữa các nhóm, tăng cường sự thống nhất mục tiêu, động lực và hành động
cho toàn xã hội.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa
các nhóm phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, khi bắt đầu đổi mới, do cơ
chế bao cấp và phân phối bình quân còn ảnh hưởng nặng nề, cần khuyến khích
những người có khả năng làm giàu trước. Nhưng khi kinh tế thị trường phát
triển, việc phân phối lần đầu chịu tác động tự phát của các quy luật kinh tế tất
yếu dẫn đến tăng mức chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, tăng hệ số
bất bình đẳng, có nguy cơ mất an ninh xã hội. Bởi vậy, Nhà nước cần điều tiết
123
lợi ích giữa các nhóm thông qua phân phối lại bằng thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản, kể cả thuế thừa kế. Đây là thuế trực thu lũy
tiến nhằm giảm thu nhập của nhóm dân cư giàu có để hỗ trợ cho nhóm nghèo
khó. Dĩ nhiên, mức thuế cao nhất cũng phải ở một giới hạn nhất định sao cho
không triệt tiêu động cơ và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp cũng như sự
nỗ lực của những người có tài năng, sáng tạo.
Hai là, cần chú ý đến lợi ích của những nhóm yếu thế. Trong đó, có
những nhóm lợi ích có thể coi là cơ bản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đó đáng lẽ phải là những nhóm xã hội chủ lực trong sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay nhưng lại đang bị đẩy vào thế yếu
như nhóm nông dân, thậm chí cả công nhân. Khi Nhà nước chủ trương hỗ trợ
những nhóm dân cư yếu thế cần phải nghiên cứu những giải pháp khả thi để sự
hỗ trợ đến đúng đối tượng (như chính sách thu mua tạm trữ lúa gạo, quy định
nhập khẩu muối, trợ giúp vay vốn để nuôi thủy sản… hỗ trợ cho nông dân).
Như vậy, cần quan tâm đến lợi ích của những nhóm xã hội cơ bản và
hướng tới mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trước hết là lợi ích của giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động.
Phải nhận thức rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường thì sự phân hóa
giàu nghèo giữa các nhóm xã hội là tất yếu, kéo theo đó là sự mâu thuẫn về lợi
ích. Chính sách của Đảng phải ưu tiên cho việc giải quyết lợi ích của các tầng
lớp đông đảo những người lao động, đặc biệt là tầng lớp dân nghèo ở thành thị
và nông thôn; mặt khác, cần động viên, khuyến khích đúng mức, kịp thời các
tầng lớp xã hội mới - vốn là con đẻ của kinh tế thị trường và có vai trò quan
trọng đối với phát triển sức sản xuất, tiến bộ kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cần giải
quyết mối quan hệ lợi ích này theo nguyên tắc hiệu suất kinh tế và tăng trưởng,
kết hợp với đảm bảo công bằng và ổn định xã hội để đại đa số nhân dân được
hưởng lợi từ thành tựu của kinh tế thị trường và phát triển, khuyến khích mọi
người cống hiến và hưởng thụ tương xứng với thành quả sản xuất kinh doanh,
nhưng lưu ý nâng đỡ những người nghèo, thu nhập thấp.
124
Ba là, phải quan tâm lợi ích nhóm chính đáng. Hiện nay, ở nước ta, lợi ích
nhóm thường được đề cập đến với ý nghĩa tiêu cực. Nhưng trong thực tiễn lợi
ích nhóm lại có cả mặt tích cực. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người cũng như
mỗi nhóm người hoạt động trước hết đều vì lợi ích riêng của cá nhân hay của
nhóm mình. Bởi vậy, để phát triển kinh tế - xã hội cần phải khuyến khích lợi ích
cá nhân và lợi ích nhóm, phải quan tâm đến lợi ích chính đáng của họ, thông qua
đó mà thúc đẩy họ tham gia vào sự nghiệp chung là phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước. Nhưng, như đã nói, lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm có khi vừa phù
hợp với lợi ích chung lại vừa có mâu thuẫn nhất định với lợi ích chung hay với
lợi ích nhóm khác. Vì thế, mỗi khi ban hành một chủ trương, chính sách hay quy
phạm pháp luật đều phải tính toán đến lợi ích cá nhân và các lợi ích nhóm. Đời
sống thực tế đã chỉ cho chúng ta thấy, nếu lấy cớ vì tăng trưởng và vì lợi ích
chung mà làm hại lợi ích cá nhân, hay tìm lợi ích riêng cho nhóm dân cư này
bằng cách hy sinh lợi ích của nhóm khác, tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả là mất ổn
định xã hội. Trong trường hợp đó, cùng một chính sách hay một đạo luật có thể
nhận được sự ủng hộ từ những người này nhưng lại gặp sự chống đối từ những
người khác. Có thể ví các lợi ích nhóm như những véctơ lực theo những hướng
lệch nhau. Một chủ trương, chính sách hay, quy phạm pháp luật đúng phải tạo ra
một hợp lực, quy tụ các véctơ lực nói trên theo cùng một hướng, tới cùng một
đích là tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế và cải thiện đời
sống của nhân dân. Mỗi nhóm có thể có những điều chưa thật hài lòng, nhưng
đều tìm thấy lợi ích của mình trong việc thực thi các chủ trương, chính sách và
chấp hành các quy phạm pháp luật ấy, dù lợi ích của các nhóm không đều nhau.
4.1.2. Trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện tốt chính sách kinh tế nhiều thành phần để phát huy
ảnh hưởng tích cực, hạn chế, bài trừ ảnh hưởng tiêu cực từ lợi ích nhóm
Đây là nhân tố bảo đảm phát triển lợi ích nhóm theo hướng lành mạnh,
phù hợp; hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ lợi ích nhóm. Để hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng đến phát huy tính tích
125
cực và hạn chế tính tiêu cực của lợi ích nhóm trong tác động tới chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, cần nhất quán định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức
nền kinh tế đặc biệt của xã hội đặc biệt, nó vừa tuân theo những quy luật của bản
thân hệ thống (kinh tế thị trường), lại vừa bị chi phối bởi những nguyên tắc nằm
ngoài hệ thống (nguyên tắc xã hội hóa - xã hội chủ nghĩa). Đây là nền kinh tế thị
trường mới, có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường với những mặt tích
cực của nó - như năng động, đòi hỏi sự minh bạch, tạo cơ hội cho mọi người
làm việc và phát triển - đã trở thành công cụ cho việc kiểm soát lợi ích nhóm.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường hiện đại có đặc điểm là gắn với xu hướng
công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, gắn với công bằng xã hội, phúc lợi xã
hội, đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp… Xu hướng này là tiền đề của
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nghĩa là góp phần kiểm soát lợi ích
nhóm đi theo quỹ đạo của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhưng, kinh tế thị trường cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là nền kinh tế có
nhiều chế độ sở hữu và thành phần kinh tế với nhiều chủ thể lợi ích có xu hướng
phân hóa đa dạng khác nhau, có khi đối lập nhau như lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm, lợi ích giai tầng xã hội…, từ đó, nảy sinh mâu thuẫn lợi ích. Bên cạnh đó,
nền kinh tế thị trường có bản chất và động lực cơ bản là chạy theo mục đích lợi
nhuận, thậm chí có lúc, đó gần như là mục đích duy nhất. Do đó, nó trở thành
môi trường làm cho chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng cùng với những hoạt động
phi pháp và sự tha hóa đạo đức gia tăng - một nguyên nhân làm nảy sinh lợi ích
nhóm tiêu cực. Nền kinh tế thị trường cũng gây nên khủng hoảng kinh tế chu kỳ,
phân hóa, tạo ra trong xã hội sự phân hóa sâu sắc giữa một bên là những người
rất giàu và cực đối lập là những người rất nghèo, khiến xung đột lợi ích trong xã
hội càng thêm trầm trọng. Cùng với đó, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đô thị hóa đã làm nảy sinh nhiều vấn đề về lợi ích khác nhau, thậm
chí đối lập nhau, nhất là trên lĩnh vực nhà đất, các quan hệ lao động trong các
126
doanh nghiệp và môi trường sống. Nước ta đã bước vào thời kỳ đổi mới, phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Nhưng nền kinh tế này còn sơ khai, trình độ
thấp, mặc dù có yếu tố để tiến tới nền kinh tế thị trường hiện đại, hướng tới
kinh tế thị trường hiện đại. Trong thời kỳ mới này, những mâu thuẫn, xung đột
lợi ích đã và đang diễn ra rất đa dạng và có phần phức tạp.
Vì vậy, định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm góp phần đưa hoạt động của
nhóm lợi ích không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực từ kinh tế thị trường,
hoạt động không chệch hướng, đồng thời cũng phát huy tính tích cực của chúng.
4.1.3. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà
nước, vai trò làm chủ của nhân dân để phát triển các lợi ích nhóm đúng
hướng, đấu tranh kiên quyết với các lợi ích phe nhóm tiêu cực
Một là, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Trong phần phương hướng, nhiệm vụ nhằm xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội XII
khẳng định, cần “Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói
không đi đôi với làm” [30, tr.202].
Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước là nhân tố quyết định
thành công của công tác phòng, chống lợi ích nhóm tiêu cực.Trong điều kiện
một đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam cần phát huy hơn nữa
vai trò tiên phong trong đấu tranh phòng, chống lợi ích nhóm. Là lực lượng có
ảnh hưởng lớn đối với hệ thống chính trị, Đảng cần phải tạo được sự chuyển biến
rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng,
để Đảng thực sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững
mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng
cố niềm tin trong Đảng và nhân dân. Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh chống lợi ích
nhóm tiêu cực, Đảng cần tiến hành những bước đi cụ thể như: 1/ cụ thể hóa
nguyên tắc tập trung dân chủ để phòng ngừa lợi ích nhóm tiêu cực. Đây là
127
nguyên tắc “xương sống” của Đảng. Để phòng ngừa lợi ích nhóm tiêu cực lợi
dụng nguyên tắc này thao túng các quyết sách, quyết định của Đảng dưới danh
nghĩa tập thể nhưng thực chất là làm lợi cho nhóm, cần cụ thể hóa các mặt của
tập trung và dân chủ để xây dựng và ban hành quy định nhằm ngăn chặn nguy cơ
lợi ích nhóm tiêu cực nảy sinh từ dân chủ hoặc từ tập trung hoặc sự kết hợp của
cả hai mặt này. Cần quy định rõ những vấn đề tập thể chịu trách nhiệm và những
vấn đề cá nhân chịu trách nhiệm trong thực hiện nguyên tắc này; 2/ quy định về
phòng chống đặc quyền, đặc lợi trong Đảng. Đặc quyền, đặc lợi cũng chính là lợi
ích nhóm tiêu cực của cán bộ, đảng viên giữ các cương vị chủ chốt nhưng bị tha
hóa. Nó cũng là một nguy cơ gây nên sự sụp đổ của đảng cầm quyền nếu hình
thành một tầng lớp đặc quyền, đặc lợi sống trên và cách biệt với những đảng
viên chân chính và người lao động. Việc một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức,
có quyền lợi dụng quyền lực để có những lợi ích đặc biệt đòi hỏi Đảng ta phải
kiên quyết chống, hạn chế tối đa sự phát triển của hiện tượng này, củng cố lòng
tin của nhân dân đối với Đảng.
Hai là, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Với Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần
đầu tiên, trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền tư
sản không thể có được. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do
nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và
vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích
của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây chính là cơ sở để Nhà nước ta giải
quyết hài hòa các quan hệ lợi ích, hướng đến số đông, chứ không vì thiểu số.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là công cụ để kiểm soát lợi ích
nhóm tiêu cực, đi ngược lại lợi ích của dân tộc, lợi ích của xã hội, nhất là lợi
ích của nhân dân.
128
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của
nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng
thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao
ý thức pháp luật cho nhân dân. Hệ thống pháp luật càng hoàn chỉnh, minh bạch,
mới tạo cơ sở cho lợi ích nhóm hoạt động hiệu quả, tích cực; không để lợi ích
nhóm tiêu cực “hoành hành”.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng
thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đại đa
số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia
hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước. Việc tạo môi trường dân chủ sẽ lôi cuốn đông đảo quần chúng tham
gia vào đời sống chính trị - xã hội và củng cố, bảo vệ lợi ích cộng đồng. Xã hội
dân chủ được hình thành và phát triển sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội hỗ
trợ, phối hợp với Nhà nước thực hiện những chức năng xã hội mà Nhà nước
không làm được hoặc thực hiện không có hiệu quả. Mặt khác, nó lại phản biện,
giám sát nhà nước, hạn chế sự lạm quyền, chuyên quyền của các cơ quan và
công chức nhà nước. Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng trong việc phát huy tính tích cực
của lợi ích nhóm, giúp các nhóm khác nhau trong các tầng lớp dân cư có thể
đóng góp xây dựng chủ trương, chính sách; cũng như hạn chế tính tiêu cực của
lợi ích nhóm, tạo công bằng cho các nhóm, không để nhóm lợi ích cục bộ, lợi ích
cá nhân chi phối…
129
4.1.4. Nâng cao vai trò của các tổ chức, cơ quan đơn vị và trách nhiệm
của người đứng đầu trong đấu tranh không khoan nhượng chống tham
nhũng và lợi ích nhóm tiêu cực ở nước ta hiện nay
Có thể nói, vấn đề người đứng đầu rất được Đảng ta chú trọng. Hội nghị
trung ương 4, khóa XI xác định: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp trung ương, người đứng
đầu làm cần làm tốt và phải thật sự gương mẫu để cho các cấp noi theo. Làm tốt
nhiệm vụ xây dựng Đảng cũng chính là để thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Cần xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị tránh việc hình thành lợi
ích nhóm tiêu cực. Đây là vấn đề mấu chốt trong việc phát hiện và xử lý kịp thời
những sai phạm trong lãnh đạo, quản lý. Khi xác định được sai phạm trong vấn
đề này, người đứng đầu nhất định phải chịu trách nhiệm cao nhất, phải chịu các
hình thức kỷ luật đảng, chính quyền.
Đối với công tác xây dựng Đảng, tại Đại hội XII, vấn đề về vai trò và
trách nhiệm của người đứng đầu lại được tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh.
Trong tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, thực dụng, Đại hội XII khẳng định “Xây dựng và thực hiện tốt các
quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối
sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị” [30, tr.203]. Đối với việc
tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị thì
phải “đề cao trách nhiệm của người đứng đầu”. Về đổi mới công tác cán bộ, yêu
cầu đặt ra là lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí
lãnh đạo, đặc biệt là vị trí người đứng đầu. Đối với đổi mới, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, một mặt, “nâng cao nhận thức
của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp
ủy, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát…” [30, tr.208]; mặt khác, “chú
130
trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội…” [30, tr.208 - 209]. Về đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cần “xử lý nghiêm minh
trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng phí trong tổ
chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình trực tiếp quản lý…” [30, tr.212]. Về đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XII khẳng định cần “Quy định rõ
hơn… về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập
thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu,… tính chủ động của người đứng
đầu và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm” [30, tr.215].
Đảng và Nhà nước ta có được niềm tin của người dân hay không một
phần là do đội ngũ cán bộ, đặc biệt là những cán bộ cấp cao, những người đứng
đầu có tận tâm, tận lực với công việc, sử dụng đúng đắn quyền lực được giao
phó để làm lợi cho nhân dân hay không. Đối với vấn đề lợi ích nhóm tiêu cực,
người đứng đầu là người nắm nhiều quyền và lợi ích nhất mà các nhóm lợi ích
luôn quan tâm và lôi kéo. Đó là người đứng đầu cấp ủy và chính quyền, các tổ
chức kinh tế của Nhà nước. Ý thức trách nhiệm của người lãnh đạo, quản lý, đặc
biệt là của người đứng đầu, giữ cương vị chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của lợi ích
nhóm. Bởi họ là người chịu trách nhiệm chính trong việc đề ra chủ trương, nghị
quyết, chính sách, các quyết định quan trọng đối với sự phát triển của tập thể, địa
phương, đơn vị. Người đứng đầu có ý thức, trách nhiệm sẽ có hành động đấu
tranh không khoan nhượng để ngăn chặn sự phát triển của lợi ích nhóm tiêu cực
một cách mạnh dạn, kiên quyết.
4.1.5. Gắn việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao kỷ luật, kỷ
cương với giáo dục rèn luyện đạo đức, phẩm chất, lối sống cho người cán bộ
đảng viên
Đại hội XII khẳng định: “Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước
quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực
nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền
tảng đạo đức xã hội” [30, tr.176].
131
Để ngăn chặn sự hình thành, phát triển của các lợi ích nhóm tiêu cực, cần
có những giải pháp đồng bộ vừa cấp bách, vừa lâu dài, nhưng trước hết cần có hệ
thống pháp luật, cơ chế chính sách đầy đủ, thống nhất ở các lĩnh vực, không còn
kẽ hở để lợi dụng, lách luật, nhằm trục lợi cá nhân. Bởi lỗ hổng pháp lý trong hệ
thống cơ chế chính sách tạo ra lợi ích nhóm tiêu cực, là điều kiện để lợi ích
nhóm làm lợi cho mình. Nhất là đối với vấn đề lợi ích nhóm, ở Việt Nam chưa
có những văn bản pháp luật nhằm hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động của nó.
Điều đó khiến lợi ích nhóm không những không phát huy được tính tích cực mà
còn khiến tính tiêu cực của nó nảy sinh và phát triển.
Bên cạnh việc sử dụng “pháp trị” thì việc sử dụng “đức trị” cũng rất cần
thiết. Do đó, cần chú trọng nâng cao kỷ luật, kỷ cương với giáo dục rèn luyện đạo
đức, phẩm chất, lối sống cho người cán bộ đảng viên. Đúng như mục tiêu Đại hội
XII đề ra để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là: “Xây dựng và thực hiện tốt
các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức,
lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị” [30, tr.203].
4.2. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LỢI ÍCH NHÓM ĐẾN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức xã hội về lợi ích nhóm và
chủ nghĩa xã hội
Một là, thống nhất nhận thức về sự tồn tại khách quan của các nhóm lợi
ích và sự vận động tất yếu của lợi ích nhóm. Trong nhận thức của nhiều người,
lợi ích nhóm hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, hoạt động vận động hành lang
hay vận động chính sách ở Việt Nam vẫn chủ yếu được coi là đồng nghĩa với
việc chạy chọt, hối lộ, đút lót các quan chức có ảnh hưởng tới các quyết định
chính sách. Nhận thức trên đúng trong nhiều trường hợp nhưng không phải trong
tất cả. Hơn nữa, việc thực hiện các hành vi nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của
các nhóm lợi ích cũng là điều cần thiết. Ở Việt Nam đã bắt đầu có những hoạt
132
động vận động hành lang ở nước ngoài để bảo vệ lợi ích quốc gia, nhưng bản
thân việc vận động hành lang, hay vận động chính sách vẫn chưa được chính
thức thừa nhận ở trong nước. Đúng như nhận định của một nhà nghiên cứu: các
nhóm lợi ích là hệ quả của xu thế đa dạng hóa về lợi ích do phát triển đem lại. Vì
thế, vấn đề không phải là cấm sự hoạt động của chúng mà tạo điều kiện cho các
nhóm lợi ích làm lợi cho xã hội. Nếu có hành lang pháp lý cho hoạt động vận
động hành lang và quá trình ra chính sách minh bạch, các nhóm lợi ích sẽ phải
thuyết phục công chúng thay vì hối lộ các quan chức. Chẳng hạn như, để tránh
sự phê phán từ các tổ chức bảo vệ môi trường, các hãng ô tô sẽ đầu tư vào các dự
án bảo vệ môi trường, an toàn giao thông [81]. Muốn vậy, cần nghiên cứu về lợi
ích nhóm một cách đầy đủ, toàn diện để có một quan điểm thống nhất trong nhận
thức và cách ứng xử đúng đối với vấn đề này.
Hai là, nâng cao ý thức cảnh giác, phòng chống ảnh hưởng của lợi ích
nhóm tiêu cực đến sự lãnh đạo của Đảng. Trong cơ chế thị trường và với tình
trạng còn nhiều kẽ hở trong quản lý hiện nay, việc các doanh nghiệp tìm cách
móc nối, làm quen để lợi dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện thuận lợi
cho việc làm ăn đang là một thực tế nhức nhối. Thậm chí, họ có thể sử dụng
những thủ đoạn rất tinh vi, để tiếp cận, làm quen, lôi kéo, khống chế cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Bởi vậy rất cần thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác của cán
bộ lãnh đạo, quản lý, phòng chống sự lôi kéo vào các nhóm lợi ích.
Cùng với đó là uốn nắn những nhận thức lệch lạc của cán bộ, đảng viên và
nhân dân, chống lại những luận điệu xuyên tạc như: lợi ích tập thể không cần
quan tâm; lợi ích nhóm tiêu cực chỉ có ở cấp trên, ở nơi khác, không có trong cơ
quan, đơn vị; lợi ích nhóm tiêu cực chỉ có ở những người có chức vụ, giữ cương
vị lãnh đạo còn mình hoàn toàn vô can, từ đó, không xác định được trách nhiệm
của cá nhân đối với những khuyết điểm, yếu kém của tập thể. Những luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch, ví dụ như luận điệu cho rằng: lợi ích nhóm
tiêu cực hình thành do Đảng thực hiện tập trung và không có dân chủ; lợi ích
nhóm tiêu cực làm thay đổi bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ. Các thế
133
lực thù địch cho rằng, thực chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thâu tóm
quyền lực vào một nhóm người và từ một nhóm người rút lên một vài cá nhân, từ
đó, sinh ra lộng quyền, lạm quyền và độc tài. Họ ra sức khuyến khích dân chủ
cực đoan, cổ vũ cho sự bất đồng ý kiến, để lợi dụng sự bất đồng đó tạo thành
những phe phái đối lập. Họ coi việc Đảng có nhiều phe nhóm để tranh luận,
kiềm chế nhau là thước đo dân chủ. Từ đó, họ hướng đến tự do lập hội rồi đến
kêu gọi đa nguyên, đa đảng. Tập trung xuyên tạc nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng là họ muốn đánh vào tổ chức, phá vỡ sự thống nhất của Đảng, làm
tan rã, phân liệt về tổ chức.
Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, tổ chức đảng, các
cán bộ lãnh đạo, quản lý về tác hại của nhóm lợi ích tiêu cực để từ đó nâng cao
vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu, ban hành các chủ
trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, quy định, quyết định sao cho đúng,
khắc phục triệt để lợi ích nhóm tiêu cực. Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo
đức, trách nhiệm cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tích cực tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp, trước hết là người đứng đầu phải nêu cao tinh thần “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư”, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời, thực hiện nghiêm Quy định về những
điều đảng viên không được làm; nêu cao ý thức thực hiện đúng quy định về đạo
đức công vụ, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức.
4.2.2. Nhóm giải pháp về xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế,
chính sách, pháp luật
Một là, trên cơ sở thống nhất về nhận thức, cần sớm xây dựng hành lang
pháp lý về các nhóm lợi ích và hoạt động của các nhóm lợi ích theo những giá trị
chuẩn chung trên cơ sở điều chỉnh của luật pháp.
Ở Việt Nam hiện nay, các nhóm lợi ích đang hoạt động trong một không
gian chủ yếu phi chính thức, bất hợp pháp, trong không ít trường hợp có quan hệ
đến buôn lậu hay các hoạt động có tính chất phạm pháp ở mức độ khác nhau.
134
Bởi khung khổ pháp luật, môi trường thể chế chính thức cho hoạt động của các
nhóm lợi ích chưa được xác lập, mặc dù cũng đã có các hiệp hội, nhóm lợi ích có
tổ chức và đăng ký hoạt động chính thức như: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu
Thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Thép Việt Nam, Hiệp hội Cao su Việt Nam, Hiệp
hội Cà phê, Ca cao Việt Nam, Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam… Tuy
vậy, hoạt động của các nhóm lợi ích này vẫn mang tính tự phát và đôi khi ảnh
hưởng đến lợi ích chung.
Thực tiễn vận hành của các quốc gia phát triển trên thế giới cho thấy, ở
các quốc gia này đã có luật về lobby (vận động hành lang), các nhóm lợi ích hình
thành và hoạt động một cách công khai nhằm tác động tới các chính sách của
Quốc hội và Chính phủ một cách công khai và hợp pháp. Họ vận động qua nhiều
kênh khác nhau, thậm chí còn sử dụng các chuyên gia và công ty tư vấn để thực
hiện các hoạt động vận động của nhóm. Với cách thức như vậy, hoạt động của
các nhóm lợi ích được bảo đảm tính hợp pháp và được phát huy một cách có
hiệu quả ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động của các nhóm lợi ích
thường diễn ra một cách tự phát, không chính thức nên nhóm lợi ích ở Việt Nam
chưa có kênh tác động chính thức đến quá trình soạn thảo, ban hành luật pháp
của Quốc hội và chính sách của Chính phủ, quá trình vận động chưa được công
khai và luật hóa. Đồng thời, các nhóm lợi ích không bị điều chỉnh bởi các quy
phạm pháp luật nên hoạt động với cả hình thức công khai và hoạt động ngầm.
Trong đó, hoạt động ngầm thiếu minh bạch, dễ dẫn đến tham nhũng và gây thiệt
hại cho tập thể, cho xã hội hoặc cho các nhóm có lợi ích đối lập khác. Việc thiếu
một khung pháp lý đầy đủ cho lợi ích nhóm tích cực hoạt động và ngăn ngừa,
phòng chống lợi ích nhóm tiêu cực đã gây ảnh hưởng không tốt trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, càng không thể tạo ra một xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh.
Bởi vậy, ở Việt Nam hiện nay, cần có những đầu tư nghiên cứu một cách
bài bản để xác định bản chất, hình thức, phạm vi hoạt động của các loại nhóm lợi
135
ích khác nhau; một mặt, đối với các lợi ích nhóm tiêu cực, giúp nhìn nhận một
cách toàn diện hơn những “lỗ hổng” của luật pháp mà các nhóm lợi ích đã và
đang lợi dụng, từ đó tìm cách khắc phục chúng; mặt khác, xây dựng và phát huy
hoạt động của các tổ chức xã hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, tích cực của
các nhóm cộng đồng mà nó đại diện.
Hai là, để phát huy ảnh hưởng tích cực của lợi ích nhóm, cần xây dựng
một môi trường chính sách, pháp luật minh bạch, đầy đủ thông tin và được thực
thi một cách có tổ chức.
Điều này xuất phát từ một thực tế là nguyên nhân hình thành và phát triển
của lợi ích nhóm tiêu cực chính là do môi trường luật pháp thiếu minh bạch, hệ
thống quản lý yếu kém, nhân dân thiếu thông tin. Một nhà nghiên cứu khẳng
định, ở Việt Nam, quy trình ra quyết định chính sách không rõ ràng, không khoa
học và không minh bạch; văn bản pháp luật quá nhiều những vẫn nằm trong tình
trạng không đầy đủ, không rõ ràng, không cụ thể, không tương thích, không
minh bạch, không tiên liệu trước, không hợp lý, không hiệu quả, hiệu lực. Số
lượng văn bản ban hành nhiều nhưng chất lượng chưa cao, chưa thể hiện nhất
quán và thấu suốt tinh thần cải cách hành chính. Hệ thống văn bản còn thiếu tính
toàn diện, đồng bộ, còn chồng chéo, trùng lặp; mục tiêu khắc phục tính cục bộ
ngành, lĩnh vực trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản chưa đạt yêu cầu.
Thực tế đã chứng tỏ rằng, trong điều kiện của một chính quyền tốt, vững
mạnh, những người ra quyết định chính sách tận tâm phục vụ quốc gia thì việc
ảnh hưởng của các nhóm lợi ích cũng giúp những nhà hoạch định chính sách có
những thông tin đầy đủ và toàn diện hơn để ra các quyết định chính sách tốt hơn.
Tuy nhiên, khi các hoạt động xã hội phát triển (đặc biệt là trong kinh tế), những
lợi ích to lớn bắt đầu xuất hiện từ các chính sách phát triển thì hoạt động của các
nhóm lợi ích trở nên mạnh mẽ và tinh vi hơn. Đặc biệt là trong môi trường luật
pháp thiếu minh bạch, các quy trình ra quyết định chính sách không rõ ràng,
thiếu thông tin và các nhóm khác có những lợi ích liên quan mà thiếu tổ chức…
thì các nhóm lợi ích sẽ gây ảnh hưởng, cấu kết, mua chuộc những người ra quyết
136
định để hướng chính sách về phía có lợi cho lợi ích của nhóm mình, bất chấp lợi
ích của các nhóm khác, của số đông và lợi ích của quốc gia.
Vì thế, công khai, minh bạch là phương tiện rất quan trọng để bảo đảm sự
công bằng, trung thực trong hoạch định và thực thi chính sách. Công khai, minh
bạch sẽ ngăn chặn sự méo mó trong hoạch định và thực thi chính sách do sự ảnh
hưởng, tác động của các nhóm lợi ích.
Muốn vậy, để các nhóm lợi ích không thể “lũng đoạn”, “thao túng”, cần
có một hệ thống luật pháp và cơ chế ra quyết định công bằng và minh bạch. Cơ
chế ra quyết định chính sách phải bảo đảm tính công khai, minh bạch dựa trên cơ
chế đối thoại, tương tác cần thiết giữa các lợi ích có liên quan trong quá trình
phát triển thông qua đối thoại, phản biện khoa học.
Hướng tới một sự phát triển đất nước thực sự bền vững trong điều kiện
ghi nhận sự hiện diện và vận động của lợi ích nhóm, cần có các cơ chế giám sát
để bảo đảm sự tách bạch giữa hoạch định chính sách và thực thi chính sách.
Để thực hiện được mục tiêu này, những đại biểu của nhân dân ở các cơ
quan dân cử và các cơ chế giám sát cần phát huy đầy đủ vai trò, nghĩa vụ của
mình và phải có đủ năng lực để thực sự bảo vệ những lợi ích chính đáng và hợp
pháp của những người có liên quan. Cơ chế lên tiếng của người dân cũng cần
được xây dựng và bảo đảm để người dân nói lên tiếng nói của mình khi lợi ích
của họ bị xâm phạm. Ở đây, cần nâng cao năng lực cho các nhóm lợi ích có tổ
chức (các hội và hiệp hội thương mại, nghề nghiệp, xã hội…) trong việc thực sự
đại diện và bảo vệ cho lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên của mình.
Đồng thời, thực hiện việc tách bạch giữa hoạch định chính sách và thực thi chính
sách để bảo đảm trách nhiệm của những công chức, viên chức trong bộ máy
chính quyền. Đây cũng là một xu hướng chung trong đổi mới quản lý công trên
thế giới hiện nay.
Ba là, từ hai phân tích trên, cần ban hành các luật về tiếp cận thông tin,
Luật về vận động hành lang, Luật về trưng cầu dân ý, Luật về hội:
Luật về tiếp cận thông tin cho phép quy trình ban hành chính sách được
minh bạch, xã hội được biết, truyền thông được biết. Trong quá trình dự thảo
137
khung chính sách, pháp luật cần dự kiến tổ chức các cuộc tranh luận công
khai giữa các nhóm lợi ích hợp pháp với sự chủ trì của các nhà làm luật. Việc
công khai nhằm đi đến sự dung hòa của chính các bên lợi ích, làm cơ sở cho
việc đưa ra các quyết sách được đúng đắn, hợp lý và tạo được sự đồng thuận
trong xã hội.
Luật về vận động hành lang tạo nên hành lang pháp lý để mọi chủ thể
cùng tiếp cận và vận động được lợi ích chính đáng của nhóm mình và làm rõ
ranh giới giữa vận động hành lang và tham nhũng.
Luật về trưng cầu dân ý là một trong các công cụ để nhân dân có ý
kiến, phản ánh đầy đủ tiếng nói của toàn dân đối với những vấn đề trọng đại
của quốc gia.
Luật về hội để bảo đảm quyền lập hội của công dân và xây dựng hành
lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động của hội, gồm các tổ chức có tư cách pháp
nhân và các tổ chức không có tư cách pháp nhân trong cộng đồng để các tổ chức
này hoạt động phù hợp với pháp luật, đồng thời, để Nhà nước có cơ sở quản lý
hoạt động. Qua đó, giúp hình thành lợi ích nhóm hợp pháp, có tổ chức và hạn
chế lợi ích nhóm tiêu cực. Trong đó, cần quy định rõ những hoạt động “bị hạn
chế” hoặc “cấm” đối với các tổ chức xã hội, đồng thời, xây dựng hệ thống tiêu
chuẩn chuyên môn trong những lĩnh vực đặc thù mà tổ chức xã hội phải tuân thủ
để định hướng cho các hội hoạt động theo chiều hướng tích cực. Quy định trách
nhiệm giải trình của các tổ chức này trước cơ quan nhà nước cũng như quyền
khiếu nại và khởi kiện của các tổ chức đó với cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm
quyền và lợi ích của hội. Cùng với đó, cần phân loại các hội thành hội hoạt động
“vì lợi ích của hội viên” (nhóm lợi ích công) và các hội hoạt động “vì lợi ích
cộng đồng” (nhóm lợi ích tư) để có những chính sách cho phù hợp. Các hội vì lợi
ích công nên được hưởng các ưu đãi như miễn thuế, nhận tài trợ từ các tổ chức,
cá nhân và Nhà nước, song phải công khai, minh bạch các nguồn thu chi tài
chính và chịu sự giám sát chặt chẽ từ các cơ quan nhà nước.
138
Bốn là, xóa bỏ cơ chế xin - cho trong quản lý.
Lợi ích nhóm tiêu cực được hình thành từ cơ chế xin - cho đã duy trì từ
thời bao cấp đến nay trong mọi lĩnh vực. Cơ chế này đã hình thành một loại quan
hệ mới trong đời sống và tồn tại trong nền kinh tế là có xin, có cho và có “lại
quả”, làm trái với chủ trương, chính sách, gây bất bình trong cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Cùng với đó là cơ chế độc quyền trong kinh doanh. Đây là vỏ bọc
hợp pháp để hình thành nên lợi ích nhóm tiêu cực, lợi ích nhóm đặc quyền, đặc
lợi. Cùng với đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế, cơ chế xin - cho đã dần bị loại
bỏ, bị hạn chế. Tuy vậy, đến nay, tình trạng này vẫn còn tồn tại ở không ít lĩnh
vực, như trong quản lý quy hoạch, đất đai, ngân sách, tài chính, biên chế… Bởi
vậy, ngăn chặn sự ảnh hưởng của lợi ích nhóm đến sự lãnh đạo của Đảng cần
kiên quyết hạn chế và đi đến xóa bỏ cơ chế xin - cho. Trong công tác tổ chức cán
bộ cần tổ chức, cần tổ chức thực hiện tốt việc khoán biên chế, quỹ lương; trong
quản lý kinh tế, cần để cho quy luật kinh tế thị trường xử lý những doanh nghiệp
yếu kém; trong thu chi ngân sách, cần chấm dứt sự tùy tiện trong chi tiêu ngân
sách. Quốc hội phải có thực quyền quyết định phân bổ ngân sách. Sự phân cấp
chi tiêu ngân sách phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ.
Năm là, để đảm bảo cho các chính sách trong tương lai thật sự đại diện
cho lợi ích của số đông, phải tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích công hình thành.
Các nhóm lợi ích công (các nhóm bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, hỗ
trợ nông dân, công đoàn…) và truyền thông có thể là khắc tinh của các nhóm lợi
ích tư. Tuy nhiên, muốn các nhóm lợi ích công phát triển và trở thành “đồng
minh” tin cậy của mình, Nhà nước phải nới bớt quyền kiểm soát với chính các
“đồng minh” này. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng phải tạo ra cơ chế kiềm chế và
đối trọng giữa các nhóm lợi ích tư nếu muốn độc lập về chính sách.
4.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức và cán bộ
4.2.3.1. Đối với công tác tổ chức
Hoạt động yếu kém của các tổ chức đảng là nguyên nhân làm cho lợi ích
nhóm tiêu cực phát triển. Có thể thấy, trong thời gian qua, sự giám sát quản lý
139
đảng viên một cách lỏng lẻo đang diễn ra ở không ít các tổ chức đảng. Công tác
đảng ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, không ít các đơn vị, cơ quan kinh tế,
tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước coi nhẹ vai trò của tổ chức đảng và trách
nhiệm của đảng viên. Mọi sinh hoạt phê bình và tự phê bình chỉ là hình thức,
dẫn đến sự lộng quyền, lộng hành. Nhiều tổ chức đảng bị vô hiệu hóa; chi bộ,
đảng viên trở thành những người làm công thực thụ cho các ông chủ. Ở những
nơi này, lợi ích nhóm tiêu cực có điều kiện phát triển, nhất là những nhóm đặc
quyền, đặc lợi.
Cùng với đó, trong Đảng cũng như trong xã hội thiếu một cơ chế giám
sát, kiểm soát, nhất là giám sát người đứng đầu một cách đầy đủ, công khai,
minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn lợi ích nhóm tiêu cực, giám sát nội bộ
thì hầu như không có hiệu quả do có sự ràng buộc lẫn nhau, giám sát từ bên
ngoài nhưng trong cùng hệ thống hiệu quả không cao. Trong khi đó, giám sát
của nhân dân thì chưa thật sự phát huy tác dụng. Hoạt động giám sát của các cơ
quan có thẩm quyền như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cũng còn mang
tính hình thức.
Đại hội XII khẳng định, cần:
Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi
mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ
quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi
với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn
thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự
lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương [30, tr.203].
Trong việc kiểm soát lợi ích nhóm, việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền
lực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước là hết sức cần thiết. Với sự tồn tại, đấu
tranh của các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, để thúc đẩy xã hội phát triển
140
bền vững, vấn đề chất lượng thể chế chính trị thể hiện qua khả năng, mức độ
kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước có ý nghĩa sống còn. Để
quyền lực nhà nước thực sự thuộc về số đông, đảm bảo lợi ích cho số đông, thực
hiện công bằng xã hội cho mọi người, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà
nước, chống tập trung quyền lực được đặt ra từ rất sớm và luôn luôn tồn tại khi
còn tồn tại nhà nước. Ở nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia có thể chế chính trị
tương đối hoàn thiện, việc tiếp tục xây dựng, hiện đại hóa cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước - tạo lập một cơ chế có khả năng khuyến khích tối đa ảnh
hưởng tích cực của nhóm lợi ích (phân bổ công bằng lợi ích nhóm), cũng như
giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của nhóm lợi ích (phân bổ một cách bất công lợi
ích giữa các nhóm, kìm chế tiềm năng, tước đoạt điều kiện phát triển) vẫn luôn
được chú trọng.
Việc xây dựng các thể chế này càng cụ thể và chặt chẽ bao nhiêu thì
quyền lực càng bị kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu. Cần làm cho quyền lực bị giới
hạn theo đúng tinh thần của Hiến pháp và pháp luật, khắc phục tình trạng lạm
quyền, chuyên quyền trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.
Muốn vậy, cần có cơ chế giám sát trong bộ máy nhà nước như sau:
Cần tiến hành sự phân quyền cụ thể về mặt chức năng, thẩm quyền giữa
các nhánh quyền lực cũng như thiết kế sự kiểm soát lẫn nhau giữa chúng. Đúng
như Đảng ta khẳng định: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi
quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của
mỗi quyền” [30, tr.176].
Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách chống
tham nhũng thuộc các bộ phận như thanh tra, kiểm toán, công an, viện kiểm sát.
Thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng. Đây là cơ chế để
giám sát, phát hiện sớm ngay trong nội bộ Đảng, các tác động của lợi ích nhóm
đến sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy, những biểu hiện của lợi ích cục bộ,
141
lợi ích nhóm không khó nhận biết nhưng các cơ chế lãnh đạo, quản lý, kiểm tra,
giám sát hiện nay chưa đủ để ngăn chặn. Nếu thực hiện được chế độ chất vấn
trong Đảng kết hợp với chất vấn cán bộ lãnh đạo cơ quan Nhà nước thì có thể tạo
được cơ chế mới để ngăn chặn ảnh hưởng của lợi ích nhóm vào cơ quan lãnh đạo
và đội ngũ cán bộ của Đảng.
Đặc biệt, cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân:
Một là, phát huy dân chủ, tăng cường hoạt động giám sát của người dân,
các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh
chống lợi ích nhóm tiêu cực. Có thể coi xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân
đối với quyền lực nhà nước là giải pháp quan trọng khắc phục lợi ích nhóm tiêu
cực ở Việt Nam hiện nay.
Trong xu hướng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay việc mở rộng dân chủ phải gắn chặt với việc thực hiện giám sát
của nhân dân. Giám sát nhân dân vừa là phương thức đồng thời là thước đo sự
dân chủ trong xã hội. Đây cũng là cách thức hữu hiệu nhằm khắc phục lợi ích
nhóm ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta phải tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn
quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát,
kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan và đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước. Để nhân dân có thể thực hiện tốt hoạt động thì các đại biểu
phải định kỳ báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cử tri, nếu không có đủ tín
nhiệm thì cử tri thực hiện quyền bãi miễn. Có các hình thức để nhân dân có thể
dự thính hoặc theo dõi trực tiếp nắm bắt thông tin các kỳ họp của các cơ quan
dân cử. Cải tiến cách thức để nhân dân tham gia thảo luận và góp ý kiến vào các
dự luật, các dự thảo nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước thật sự thiết
thực và có hiệu quả, tránh cách làm mang tính hình thức, tràn lan, tốn kém. Công
khai minh bạch và dân chủ trở thành thước đo cho hoạt động của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
142
Mục đích của giám sát quyền lực và giám sát nhân dân đối với các cơ quan
dân cử là để quyền lực không bị lạm dụng, bị tha hóa, sự ủy quyền của nhân dân
đối với các cơ quan quyền lực, đối với đội ngũ các cơ quan quyền lực, đối với đội
ngũ cán bộ, công chức được kiểm soát. Thực tế đã chứng minh, quyền lực nói
chung và quyền lực nhà nước nói riêng, luôn có xu hướng bị tha hóa, bị biến dạng
và bị lạm dụng và những mục đích cá nhân nhiều khi đi ngược lại lợi ích xã hội.
Vì vậy, để ngăn ngừa những hậu quả tiêu cực của nó, quyền lực, quyền lực chính
trị và quyền lực nhà nước phải được kiểm soát chặt chẽ. Giám sát nhân dân là một
cách thức quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước.
Một trong các quyền quan trọng thể hiện quyền lực thuộc về nhân dân
trong các nhà nước dân chủ là quyền quyết định của nhân dân lựa chọn các đại
diện thực hiện ý chí của mình và đi đôi với nó là quyền phế truất khi người
được ủy quyền không thi hành được ý nguyện của dân chúng. Vì vậy, hệ thống
bầu cử theo nhiệm kỳ luôn là công cụ kiểm soát quan trọng, thể hiện rõ ràng
nhất quyền quyết định tối cao của nhân dân. Tuy nhiên, ở Việt Nam bầu cử
Quốc hội được thực hiện theo cơ chế Đảng cử, dân bầu. Toàn dân bầu Quốc hội
nhưng là bầu cho những ứng cử viên đã được dự kiến trước theo sự sắp xếp của
cấp ủy, của Đảng. Về thực chất, cơ chế ủy quyền này ngay từ khâu ủy quyền
đầu tiên đã chưa bảo đảm thực chất quyền quyết định của nhân dân đối với các
đại diện của mình.
Hai là, Nhà nước cần thể chế hóa cụ thể và chặt chẽ các quy định cũng
như cơ chế để nhân dân có thể thuận tiện thực hiện quyền làm chủ của mình, qua
đó phản ánh, kiến nghị, tố cáo những hành vi tiêu cực, đặc biệt là thực hiện
quyền bãi miễn của mình đối với những cán bộ tham nhũng. Điều này chỉ có thể
đạt được thông qua việc thúc đẩy nhanh, mạnh tiến trình dân chủ hóa xã hội để
tạo đủ quyền và trách nhiệm của người dân trong cuộc chiến với nạn tham nhũng
- đó là quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng tổ chức, chọn lựa và bãi miễn
nhân sự cho hệ thống chính quyền; quyền được khiếu nại, tố cáo những hành vi
tham nhũng cũng như tiếp cận thông tin và tự do ngôn luận; quyền được đòi hỏi
143
phải xử lý nghiêm minh các tổ chức và cá nhân tham nhũng. Điều này cũng đồng
nghĩa với việc xây dựng cơ chế để Đảng phải chịu sự giám sát của nhân dân.
Ba là, bên cạnh đó, cũng cần phát huy sức mạnh của các phương tiện
thông tin đại chúng để tăng sức mạnh giám sát của nhân dân. Các phương tiện
thông tin đại chúng cung cấp thông tin đến công chúng một cách kịp thời và
chính xác về những hoạt động của nhà nước, góp phần tạo lập sự kiểm soát
quyền lực từ phía xã hội thông qua sức ép dư luận, hình thành nên bầu không khí
thảo luận dân chủ, thúc đẩy sự hình thành một chính phủ minh bạch, trách
nhiệm, phối hợp hành động và giúp cho việc thiết lập, duy trì sự quản lý tốt.
Muốn vậy, phải bảo đảm cho các phương tiện truyền thông chủ động tiếp cận
được với những thông tin chính thống.
Bốn là, cần đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, triển khai rộng rãi
cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; xử lý mọi thông tin nhân dân
cung cấp; nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác của
nhân dân đối với sự nghiệp lành mạnh hóa, trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, đảng
viên và xã hội.
Năm là, xây dựng cơ chế phản biện của nhân dân đối với các quyết định
lãnh đạo, quản lý. Trong xã hội tồn tại nhiều nhóm lợi ích khác nhau, mỗi nhóm
theo đuổi một mục tiêu và đôi khi xung đột nhau. Phản biện giúp cho xung đột
của các nhóm lợi ích được điều chỉnh thông qua thảo luận và thỏa thuận. Phản
biện xã hội là một thể chế hành động thúc đẩy sự phát triển của xã hội trong điều
kiện một đảng cầm quyền. Tuy nhiên, việc xây dựng và đưa cơ chế phản biện đi
vào đời sống cũng không hề đơn giản. Bởi người Việt Nam có thói quen là chấp
nhận thỏa hiệp. Thói quen này là do văn hóa đề cao sự đồng thuận, không thích
tranh luận, phản biện, tạo ra những con người luôn sẵn sàng chấp nhận cái sai,
chịu sống chung với những yếu kém, bất cập, sai trái, khiến những hành vi
không bình thường như phong bì, quà cáp, biếu xén… lâu dần trở thành bình
thường. Hậu quả là đa số dân chúng và xã hội chịu thiệt, chỉ có một số ít người
được hưởng lợi bất chính.
144
Sáu là, đẩy mạnh sự liên kết các tầng lớp nhân dân thông qua các tổ chức
chính trị - xã hội và xây dựng cơ chế cho người dân tham gia xây dựng chính
sách. Sự liên kết này hiện nay đang được thực hiện bởi Mặt trận Tổ quốc, Công
đoàn, Hội Phụ nữ… Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế chính trị như tập hợp,
đoàn kết các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia công việc nhà nước và xã hội,
hoạt động của các tổ chức này cũng bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường, nơi tồn tại nhiều quan hệ lợi ích đan xen và ngược
chiều. Do vậy, cần tạo môi trường pháp lý về lập hội và hoạt động của hiệp hội,
các tổ chức nhân dân để đa dạng hóa và tạo điều kiện cho sự liên kết của công
dân theo các nhóm quan điểm, lợi ích và để thể hiện tiếng nói của mình trong
quá trình tham gia hoạch định chính sách. Trước hết là trong thời gian tới, cần tổ
chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo
tinh thần Đại hội XII.
Bên cạnh đó, xây dựng cơ sở hoạt động cho xã hội công dân, thực hiện
đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội…; thực hiện tốt chức
năng giám sát, phản biện xã hội nhằm phát huy vai trò các yếu tố tích cực của xã
hội công dân trong kiểm soát quyền lực. Đây là phương tiện kiểm soát quyền lực
toàn diện và triệt để nhất vì nó phản ánh đúng bản chất của quyền lực nhà nước
là bắt nguồn từ nhân dân. Nếu hoạt động tốt, đây sẽ là công cụ hỗ trợ hiệu quả
cho hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước.
4.2.3.2. Đối với công tác cán bộ
Sự tha hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; đặc
biệt là sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa cá nhân khi những người này chạy
theo địa vị, danh lợi, chức quyền, sử dụng quyền lực nhà nước thành công cụ,
phương tiện phục vụ mục đích cá nhân, tìm mọi cơ hội để trục lợi đang là một
thực tế. Trong khi đó, sự yếu kém trong công tác lãnh đạo của một số cấp ủy
145
đảng, sự dung túng, bao che của các cấp ủy địa phương đối với những đảng viên
suy thoái, nhất là đảng viên có chức, có quyền khiến lợi ích nhóm tiêu cực càng
hoạt động mạnh.
Vì vậy, phòng, chống lợi ích nhóm tiêu cực trong công tác cán bộ cần một
số giải pháp sau:
Một là, xây dựng bộ quy chuẩn cán bộ và quy trình bổ nhiệm chặt chẽ để
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống mẫu mực, có trình độ, năng lực đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ
được giao.
Khi xây dựng được bộ quy chuẩn đánh giá và sử dụng cán bộ một cách
khoa học, chặt chẽ, có giá trị như một bộ luật mà các tổ chức, cơ quan, đơn vị
đều phải làm theo sẽ hạn chế được nhiều trường hợp bổ nhiệm tùy tiện những
người trong gia đình, dòng họ, thân tộc, quen biết vào vị trí lãnh đạo hoặc các vị
trí công tác quan trọng.
Hai là, phải dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, nhất là
trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen
thưởng, kỷ luật và bổ nhiệm cán bộ, vì đó là những khâu hết sức quan trọng
trong quá trình phát hiện, bồi dưỡng, đề bạt, cất nhắc, quản lý và giám sát cán
bộ. Cần quy định tiêu chuẩn chức danh chức vụ lãnh đạo, quản lý. Đây là việc
làm rất cần thiết trong công tác cán bộ, bởi nó là cơ sở để tạo ra cơ chế minh
bạch. Đồng thời, phải lượng hóa rất cụ thể tiêu chuẩn, tránh chung chung, nhất là
tình trạng hiểu và áp dụng thế nào cũng được, thế nào cũng đúng, bị lợi dụng để
phục vụ cho những quan hệ, ý đồ cá nhân không lành mạnh mà mục đích là vì
“lợi ích nhóm”, “chạy chức, chạy quyền” để trục lợi.
Ba là, gắn cuộc đấu tranh chống lợi ích nhóm tiêu cực với việc nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Tăng cường sức chiến đấu và hiệu quả của công tác tư tưởng, lý luận theo
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), làm cho công tác tư tưởng luôn chủ động,
kịp thời, sắc bén, có tính thuyết phục cao, góp phần củng cố sự đoàn kết thống
146
nhất về chính trị, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân. Đổi mới công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp gắn với thực hiện tốt việc học
tập, làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kiên
quyết, kịp thời đấu tranh chống những biểu hiện cơ hội, những quan điểm sai trái
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Chú trọng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ
chốt các cấp, các ngành. Đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ, quy trình
tuyển chọn, đào tạo, đề bạt, luân chuyển cán bộ. Tăng cường dân chủ trong
Đảng và trong nhân dân, có cơ chế cụ thể để phát huy quyền kiểm tra, giám
sát, đánh giá cán bộ, đảng viên của các tổ chức và nhân dân. Thực hiện
nghiêm túc, đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, tiếp tục đẩy
mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương
4 khóa XI. Trong sinh hoạt đảng, cần tập trung đấu tranh chống tư tưởng cơ
hội, thực dụng cùng những biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy đảng cần có cơ chế tổ chức, giám sát, kiểm tra để mỗi đảng
viên không ngừng tự học tập, tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân, nâng cao trình độ
lý luận, nhận thức và phẩm chất đạo đức cán bộ. Đảng viên cần đi sâu vào quần
chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, giải thích cho dân hiểu bản chất, biểu
hiện của kẻ cơ hội, động viên nhân dân tích cực đấu tranh. Cần chú trọng chất
lượng, không chạy theo số lượng trong công tác phát triển đảng viên mới.
Cần có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền,
chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương như Đại hội XI
của Đảng chỉ ra, cho dù họ ở bất cứ cương vị nào. Lênin đã từng nhắc nhở:
"Điều rất cần thiết hiện nay là, về mặt tổ chức, phải hoàn toàn tách hẳn những
phần tử cơ hội chủ nghĩa ấy ra khỏi các đảng công nhân" [132, tr.327] dù cho
bản thân đảng có "phải tạm thời chịu đau đớn kịch liệt đi nữa" [133, tr.154].
147
Thực hiện thường xuyên phê bình và tự phê bình. Bản chất, mục đích của
phê bình và tự phê bình là xây dựng Đảng. Có thái độ thành khẩn, trung thực, tôn
trọng sự thật, lẽ phải, không giấu giếm, bao che, thổi phồng hoặc bóp méo sự thật.
Tăng cường hiệu quả công tác bảo vệ Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức, chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ góp phần phát hiện,
ngăn chặn kịp thời và đưa những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
Xây dựng và hoàn chỉnh các chế độ quản lý cán bộ, đảng viên, trước hết là
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Sự lỏng lẻo, dễ dãi trong quản lý mối quan
hệ xã hội, nhất là mối quan hệ của cán bộ lãnh đạo, quản lý với giới kinh doanh
hiện nay là mảnh đất màu mỡ cho sự lôi kéo, làm quen, cấu kết giữa người có
chức, có quyền với giới kinh doanh, hình thành những nhóm lợi ích bất chính,
ảnh hưởng xấu đến sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, cần xây dựng chế độ quản lý
bảo đảm kiểm soát chặt chẽ mối quan hệ giữa cán bộ lãnh đạo, quản lý với giới
kinh doanh.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Từ các phân tích về phương hướng, giải pháp để phát huy ảnh hưởng
tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực ở Việt Nam hiện nay, có thể rút ra một
số kết luận:
Một là, phương hướng để phát huy tính tích cực và hạn chế tính tiêu cực
của lợi ích nhóm ở Việt Nam hiện nay phải đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa từ nhận thức đến thực tiễn. Trong đó, cần chú trọng đến vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các đoàn
thể chính trị - xã hội đặc biệt là vai trò của nhân dân.
Hai là, giải pháp để phát huy tính tích cực và hạn chế tính tiêu cực của lợi
ích nhóm ở nước ta hiện nay phải bắt đầu từ nhận thức đến việc xây dựng cơ chế
chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật; công tác tổ chức, cán bộ và sự cần
thiết phải gắn cuộc đấu tranh chống tham nhũng với việc phòng, chống lợi ích
nhóm tiêu cực.
148
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà chúng ta hướng tới, là định hướng chung
cho việc xác định đâu là lợi ích nhóm tích cực, đâu là lợi ích nhóm tiêu cực,
cũng là cơ sở cho việc đưa ra phương hướng và kiến nghị nhằm phát huy tính
tích cực và hạn chế tính tiêu cực của lợi ích nhóm. Muốn vậy, trong ứng xử với
lợi ích nhóm cần đảm bảo nguyên tắc: đảm bảo sự lãnh đạo bền vững, lâu dài
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội; dựa trên cơ sở nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, làm phong phú thêm những tư tưởng ấy
bằng những kinh nghiệm quốc tế hiện đại; dựa trên cơ sở văn hóa truyền thống,
dung hợp được và không để dẫn đến xung đột với văn hóa truyền thống dân tộc;
phù hợp với những chuẩn mực quốc tế và xu thế chính trị thế giới hiện nay.
149
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận như sau:
Một là, lợi ích nhóm và nhóm lợi ích là vấn đề đã được nghiên cứu từ
khá lâu ở Mỹ và các nước phương Tây nhưng mới được quan tâm ở Việt Nam
trong những năm gần đây. Tuy nhiên, trong khi các nhà khoa học xem xét lợi
ích nhóm với cả mặt tích cực và mặt tiêu cực thì dư luận lại chủ yếu nhìn nhận
lợi ích nhóm theo nghĩa xấu. Vì vậy, việc thống nhất nhận thức về vấn đề này,
khẳng định lợi ích nhóm tồn tại khách quan trong xã hội với cả những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực đến chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một vấn đề hết
sức cần thiết.
Hai là, tuy mới được quan tâm gần đây nhưng xét theo quan niệm về lợi
ích nhóm thì nó đã tồn tại ở nước ta từ lâu. Đảng Cộng sản Việt Nam trong các
văn kiện đại hội trước đây tuy không đề cập trực tiếp đến vấn đề lợi ích nhóm
nhưng đã cảnh báo những biểu hiện liên quan đến nó với các mặt trái như lợi
ích bè phái, lợi ích cục bộ, địa phương, chủ nghĩa cá nhân… Bên cạnh đó, các
nhóm lợi ích chính thức như các hội nghề nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội
hay các nhóm lợi ích phi chính thức cũng đã hình thành và phát triển ở nước ta.
Ba là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam các lợi ích
nhóm tồn tại một cách khách quan và có ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực, góp
phần đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội nhưng ngược lại, cũng có thể làm
chệch hướng con đường mà chúng ta lựa chọn. Lợi ích nhóm tác động đến
những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Đảng Cộng sản,
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các giá trị như công bằng, dân chủ, văn minh…
Bốn là, trước những ảnh hưởng nêu trên của lợi ích nhóm đến chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải có phương hướng, giải pháp để phát
huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó. Trước hết, việc
150
học hỏi kinh nghiệm của các nước, từ những nước phát triển như phương Tây
hay các nước có trình độ phát triển như nước ta là hết sức cần thiết. Vì những
nước này đã có kinh nghiệm kiểm soát lợi ích nhóm từ lâu với hệ thống pháp
luật và những tình huống xử lý thực tiễn khá phong phú. Bên cạnh đó, cũng cần
căn cứ vào thực tiễn Việt Nam để có những phương hướng, giải pháp cụ thể từ
nhận thức, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến công tác tổ chức, cán bộ…
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thu Huyền (2014), “Phê phán tính tự phát tiểu tư sản ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, trong cuốn Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.359-369.
2. Nguyễn Thị Thu Huyền (2014), “Một số giải pháp nâng cao dân trí đồng bào dân tộc thiểu số”, trong cuốn 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc và tôn giáo. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.152-162.
3. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Phê phán tính tự phát tiểu tư sản trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận (135 + 136), tr.14-17.
4. Nguyễn Quốc Phẩm, Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Chủ nghĩa xã hội hiện thực - Thành tựu, khủng hoảng và triển vọng”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị (3), tr.3-9.
5. Nguyễn Quốc Phẩm, Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Từ phác thảo của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội đến những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, trong cuốn Phát triển và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.227-237.
6. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), “Tư tưởng của V.I.Lênin về chính sách đối ngoại và ý nghĩa đối với Việt Nam”, trong cuốn Phát triển và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.498-508.
7. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Tác động của lợi ích nhóm đến nguy cơ đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội (2), tr.64-67; 71.
8. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng chính sách ở Việt Nam hiện nay - Một số biểu hiện và giải pháp phòng ngừa”, Tạp chí Giáo dục lý luận (243), tr.37-39.
9. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Một số điểm mới về vấn đề dân chủ trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, (1), tr.16-19.
10. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Lựa chọn con đường cứu nước của Hồ Chí Minh - Cơ sở lý luận, thực tiễn và ý nghĩa hiện nay”, Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị, 02(3), tr.80-83.
11. Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), Vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc kiểm soát lợi ích nhóm hiện nay, Tạp chí Cộng sản điện tử, cập nhật ngày 23/8/2016.
12. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn Thị Thu Huyền (2016), “Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong công tác phòng chống tham nhũng theo tinh thần Đại hội XII của Đảng”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị (8), tr.17-21.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Lưu Văn An (2010), Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước
phương Tây, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
2. Lưu Văn An (2011), “Vận động hành lang trong đời sống chính trị các nước
phương Tây”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8), tr.83-88.
3. Alexis De Tocqueville (1981), Nền dân trị Mỹ, Nxb Tri thức, Hà Nội.
4. Vương Tuấn Anh (2014), Tham nhũng chính sách là loại tham nhũng cực kỳ
nguy hiểm, tại trang http://hanoimoi.com.vn, [truy cập ngày 5/1/2015].
5. Bộ Nội vụ (2005), Báo cáo tổng kết công tác hội năm 2004, sơ kết thực hiện
Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 của Chính phủ, Tài liệu lưu
hành nội bộ, Hà Nội.
6. Lê Bửu (2003), “Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”, Tạp chí Khoa học xã hội, (2), tr.45-46.
7. C.Mác, Ph.Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Lê Chi (2013), Tham nhũng qua ”Nhóm thân hữu, tại trang http://dantri.com.vn,
[truy cập ngày 10/4/2013].
13. Đặng Ngọc Chiến (2003), “Tham gia xây dựng chính sách có hiệu quả là góp
phần quan trọng bảo vệ quyền và lợi ích người lao động”, Tạp chí Lao
động và công đoàn, (275, 276), tr.4-5.
14. Phạm Văn Chung (2006), Triết học Mác về lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
15. Đặng Ngọc Dinh (chủ biên) (2011), Giải quyết xung đột và phòng chống
tham nhũng: Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
153
16. Douglas K. Stevenson (2000), Cuộc sống và các thể chế ở Mỹ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
17. Bùi Đại Dũng (2005), Hiệu quả chi tiêu ngân sách dưới sự tác động của vấn
đề nhóm lợi ích ở một số nước trên thế giới, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Hà Nội.
18. Vũ Dũng (chủ biên) (2012), Thích ứng xã hội của các nhóm xã hội yếu thế ở
nước ta hiện nay, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
19. Vũ Tiến Dũng (2008), “Tạo sự hài hoà về lợi ích giữa công nhân và doanh
nhân ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3), tr.72 - 76
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1959), Báo cáo tại Hội nghị lần thứ 16 (mở rộng)
Ban Chấp hành Trung ương khóa II, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu lần 2 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ
đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phần
I, tr.137
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011
của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh
nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Ngô Văn Điểm (2006), “Quản lý nhà nước và mục tiêu bảo đảm hài hòa lợi
ích của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, (8), tr.13 - 16.
32. Đặng Quang Định (2008), “Quan điểm của triết học Mác về lợi ích với tư
cách động lực của lịch sử”, Tạp chí Triết học, (8), tr.75-80.
33. Đặng Quang Định (2009), “Quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề lợi ích
tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, (2), tr.52-55.
34. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông dân
và trí thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đặng Quang Định (2012), Vai trò của lợi ích đối với sự phát triển xã hội,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đặng Quang Định (2014), “Lợi ích nhóm với vấn đề tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (2), tr.82 - 85.
37. Mạnh Đức, VnEconomy.vn, ngày 06/06/2011
38. Minh Đức, 60 cán bộ được ông Truyền bổ nhiệm ở “phút 89” hiện giờ ra
sao?, tại trang http://vtc.vn, [truy cập ngày 23/102014].
39. Nguyễn Đình Gấm (2004), “Giải quyết đúng đắn, hài hoà các quan hệ lợi ích
động lực to lớn của sự phát triển kinh tế xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu con
người, (1), tr.52-58.
40. Vũ Văn Gầu (2006), “Hồ Chí Minh nói về lợi ích, về mối quan hệ giữa các
loại lợi ích và thực hiện lợi ích”, Tạp chí Khoa học xã hội, (7), tr.12-18.
41. Nguyễn Văn Giang (2014), “Ảnh hưởng của “lợi ích nhóm” đến sự lãnh đạo
của Đảng cầm quyền”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.83 - 87.
42. Đỗ Huy Hà (chủ biên) (2013), Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá
trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
155
43. Nguyễn Ngọc Hà, Trần Thị Bích Huệ (2014), “Lợi ích nhóm với tính cách
một khái niệm của triết học xã hội”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,
(4), tr.40-46.
44. Nguyễn Ngọc Hà (chủ biên), Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay.
45. Nguyên Hà (2012), Lợi ích nhóm có bao che tham nhũng, tại trang
http://vneconomy.vn, [truy cập ngày 22/8/2015].
46. Trương Thị Hồng Hà (2008), “Pháp luật về vận động hành lang của một số
nước trên thế giới và một vài gợi ý đối với Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, (7), tr.73-83.
47. Lương Đình Hải (2015), “Tác động của nhóm lợi ích ở Việt Nam hiện nay
của tác giả”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 4(89).
48. Nguyễn Thị Hằng (2006), “Bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động
trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa”, Tạp chí Lao động và xã
hội, (287), tr.2-4.
49. Trần Thị Hằng (2015), Lợi ích nhóm và tham nhũng trong hoạch định chính
sách ở Việt Nam hiện nay, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài
khoa học cấp bộ năm 2014, Hà Nội.
50. Phạm Hạnh, Ngân Giang (2013), Doanh nghiệp thua lỗ, sếp vẫn nhận lương
“khủng”, tại trang: http://vietbao.vn, [truy cập ngày 20/7/2015].
51. Trần Bách Hiếu (2009), “Vận động hành lang trong nền chính trị Mỹ và một
số liên hệ tới Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (16), tr.55-62.
52. Trần Bách Hiếu (2009), “Hoạt động vận động hành lang trong quá trình xây
dựng chính sách và pháp luật ở Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (2),
tr.23 - 28.
53. Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), “Kiểm soát lợi ích nhóm - tiếp cận từ góc độ
giám sát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Lý luận chính trị, (11), tr.67-72.
54. Nguyễn Thị Mai Hoa (2013), “Đảm bảo công bằng xã hội từ góc nhìn nhóm
lợi ích”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (4), tr.58-64.
55. Võ Hải, Nguyễn Hoài (2016), Ông Nguyễn Thiện Nhân: Bổ nhiệm người thân
sai tiêu chuẩn khiến dân mất niềm tin, tại trang vnexpress.net [truy cập
ngày 20/7/2016].
156
56. Vũ Ngọc Hoàng (2015), “Lợi ích nhóm” và “chủ nghĩa tư bản thân hữu” -
Cảnh báo nguy cơ, tại trang www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày
2/6/2015].
57. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2013), Hội thảo
“Nhận diện lợi ích nhóm”, ngày 11/1/2013, Hà Nội.
58. Thái Hải (2016), Kiểm soát xung đột lợi ích, phòng ngừa tham nhũng, tại
trang thanhtra.com.vn, [truy cập ngày 20/5/2016].
59. Trần Thị Bích Huệ (2015), Mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến
sĩ Triết học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
60. Nguyễn Anh Hùng (2009), “Tìm hiểu các nhóm lợi ích ở Mỹ”, Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, (9), tr.13-20.
61. Nguyễn Thị Lan Hương (2015), “Sự tác động của nhóm lợi ích đến thực hiện
công bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế”, Tạp chí Khoa học xã
hội Việt Nam, 5(90), tr.62-67.
62. Nguyễn Quốc Huy (2008), “Vận động hành lang trong nền chính trị Hoa Kỳ”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.83-88.
63. Nguyễn Hữu Khiển (2011), “Nhóm lợi ích và vấn đề chống tham nhũng”,
Tạp chí Triết học, (3), tr.53-59.
64. Nguyễn Hữu Khiển (2015), “Lợi ích nhóm và nhóm lợi ích dưới dạng tham
nhũng”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 12(97).
65. Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích động lực phát triển xã hội, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Linh Khiếu (2002), Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đỗ Thiên Kính (2012), Hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay (Qua
những cuộc điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002 - 2004 - 2006 -
2008), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
157
68. Vũ Ngọc Lân (2013), “Lợi ích nhóm và phòng, chống tham nhũng”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (6), tr.50-51, 61.
69. Lê Hồng Liêm (chủ biên) (2014), Nghiên cứu mối quan hệ không bình thường
giữa một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền với các doanh
nghiệp để trục lợi: Sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Linh Linh (2014), Cổ phần hóa vấp nhóm lợi ích, tại trang
thoibaonganhang.vn, [truy cập ngày 11/7/2014].
71. Káp Long, Hải Sâm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Kiên quyết ngăn chặn lợi ích
nhóm, tại trang http://www.thanhnien.com.vn, [truy cập ngày 4/12/2012].
72. Hoàng Văn Luân (2015), Nhóm lợi ích và xung đột lợi ích trong phát triển,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
73. Lê Quốc Lý (chủ biên) (2014), Lợi ích nhóm - thực trạng và giải pháp, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hồng Minh (2013), Lợi ích nhóm - một dạng tham nhũng đặc biệt, tại trang
http://baobacninh.com.vn, [truy cập ngày 26/6/2013].
78. Phạm Thành Nam, Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy dân chủ trong đấu tranh
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
79. Lê Hoàng Nga (2007), “Cổ phiếu hoá doanh nghiệp nhà nước và lợi ích người
lao động”, Tạp chí Ngân hàng, (17), tr.30-33.
80. Ngô Nguyên (2014), “Xé rào” bán đất, hợp thức hóa sai phạm”, Báo Hà Nội
mới, ngày 28, 29/11.
81. Nguyễn An Nguyên (2006), Thuần dưỡng các nhóm lợi ích, tại trang
http://vietbao.vn/Kinh-te, [truy cập ngày 5/3/2015].
82. Trần Quang Nhiếp (2005), Nâng cao hiệu quả của báo chí trong đấu tranh
chống quan liêu tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
158
83. Nguyễn An Ninh (2007), Về triển vọng của chủ nghĩa xã hội trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn An Ninh (2010), Những nhân tố mới tác động đến triển vọng của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn An Ninh (2012), Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI của khu
vực Mỹ Latinh hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tổ chức hợp tác kỹ
thuật Đức (GTZ) (2007), Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam với vai trò vận
động chính sách - Vẫn có thể làm tốt hơn rất nhiều, Tài liệu lưu hành nội
bộ, Hà Nội.
87. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Đại sứ quán Vương
quốc Anh, Ukaid, USAID (2011), Năng lực hoạt động của các hiệp hội
doanh nghiệp Việt Nam, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
88. Vũ Đình Quân (2009), “Giải pháp khắc phục mâu thuẫn về lợi ích trong quá
trình đô thị hóa nông thôn tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa
học chính trị, (5).
89. Quốc hội (2010), Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005; sửa đổi, bổ sung
năm 2007, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Lê Quỳnh (2005), Đấu tranh chống tham nhũng - trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước, xã hội và công dân, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
91. Nguyễn Quỳnh (2013), Petrolimex lỗ nặng, lãnh đạo vẫn nhận lương
“khủng”, tại trang http://baohatinh.vn [truy cập ngày 26/7/2015].
92. Trương Tấn Sang (2014), Vì nền độc lập tự do của đất nước, vì sự toàn vẹn
lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, xứng đáng với sự tin cậy và ủy thác
của nhân dân, Tạp chí Cộng sản, (862).
93. Đỗ Ngọc Sơn (2004), “Giải quyết tốt lợi ích nông dân là biện pháp tăng
cường cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân”, Tạp chí
Nông thôn mới, (131), tr.4-12.
94. Nguyễn Danh Sơn (2009), “Lợi ích của nông dân trong đổi mới và phát triển
đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (8), tr.60-70.
159
95. Võ Kim Sơn (2013), “Vận động hành lang và mâu thuẫn lợi ích trong quá
trình vận động hành lang”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (205), tr.41-46.
96. Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (chủ biên) (2010), Nhận diện tham nhũng và
các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
97. Nguyễn Đinh Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
98. Tạ Ngọc Tấn (2013), Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
99. Mai Tết, Nguyễn Văn Tuất và Đặng Danh Lợi (2006), Sự vận động, phát
triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Đỗ Thị Thạch, Nguyễn An Ninh (2013), Công đoàn bảo vệ quyền lợi của
người lao động từ tư tưởng Rosa Luxemburg đến kinh nghiệm của Đức
và thực tiễn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
101. Hồ Bá Thâm (2011), Bàn về mâu thuẫn xung đột lợi ích hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
102. Hồ Bá Thâm (chủ biên) (2011), Mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm - Thực
trạng, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
103. Thanh tra Việt Nam, The World Bank (2012), Tham nhũng từ góc nhìn của
người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức: Kết quả khảo
sát xã hội học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Tống Đức Thảo, Phan Duy Anh (2015), Mối quan hệ giữa Đảng chính trị và
nhóm lợi ích trong nền chính trị Đức hiện đại, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
105. Ngô Văn Thạo và các cộng sự (2015), Thực trạng xu hướng và giải pháp
phòng, chống “lợi ích nhóm” ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
106. Trần Đăng Thịnh (2013), “Nhóm lợi ích và vận động hành lang: Nhìn từ
nước Mỹ”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (8), tr.62-64.
107. Cao Văn Thông, Đỗ Xuân Tuất (2014), “Nhận diện biểu hiện “Lợi ích
nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ và giải pháp khắc phục”, Tạp chí
Cộng sản, (5), tr.68-72.
160
108. Cao Văn Thống (2016), “Nhận diện “lợi ích nhóm” trong việc ban hành và
tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội và
giải pháp khắc phục”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận chính trị,
(2(15)), tr.49-54.
109. Lê Xuân Thủy (2013), Lợi ích của công nhân trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị, Hà Nội.
110. Nguyễn Thị Bích Thủy (2006), “Kết hợp đúng đắn các loại lợi ích trong phát
triển kinh tế - xã hội hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.13 - 16.
111. Lê Văn Toàn (2012), Phân tầng xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
112. Vĩnh Trà, Tham nhũng gia tăng bởi lợi ích nhóm hoành hành, tại trang
vov.vn, [truy cập ngày 23/7/2013].
113. Nguyễn Phương Quỳnh Trang, Stromseth, J. R (2002), Hiệp hội Doanh
nghiệp Việt Nam: Thực trạng, vai trò và hoạt động, Tài liệu lưu hành nội
bộ, Hà Nội.
114. Nguyễn Phú Trọng, Quyết tâm cao, biện pháp quyết liệt nhằm tạo chuyển
biến mới về xây dựng Đảng.
115. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
116. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
117. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2011), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
118. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
119. Nguyễn Kế Tuấn (2013), “Nhóm lợi ích - Yếu tố cản trở quá trình tái cơ cấu
kinh tế”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (190), tr.31-35.
120. Trần Đình Tuấn (2008), “Vận động hành lang ở Mỹ và một số kinh nghiệm
với Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (10), tr.39-40.
121. Vũ Anh Tuấn (2010), “Một số nội dung cơ bản trong luật về đạo đức và tính
minh bạch trong vận động hành lang của Canada”, Tạp chí Thanh tra,
(8), tr.39-40.
161
122. Đỗ Xuân Tuất, Phạm Quang Hưởng và Nguyễn Ngọc Hân (2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, Nxb
Lao động, Hà Nội.
123. Phạm Thị Tuý, Trần Đăng Thịnh (2013), “Nhận diện và ứng xử với vấn đề
lợi ích nhóm”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (7), tr.25-27.
124. Đào Trí Úc (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Ủy ban Kinh tế Quốc hội (2012), Báo cáo kinh tế vi mô 2012: Từ bất ổn vĩ
mô đến con đường tái cơ cấu, Nxb Tri thức, Hà Nội.
126. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
127. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, M. Mát-xcơ-va.
128. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
129. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
130. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 11, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
131. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 13, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
132. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
133. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
134. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
135. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
136. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
137. Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Anh
138. Fay Lomax Cook (1983), “Media and Agenda Setting: Effects on the Public,
Interest Group Leaders, Policy Makers, and Policy”, Oxford Journals, (1),
pp. 16-35.
139. Frederick J. Boehmke (2002), “The Effect of Direct Democracy on the Size
and Diversity of State Interest Group Populations”, Journal of Politics, (8).
162
140. Heike Kluver (2011), “Lobbying in coalitions: Interst group influence on
European Union policy-making”, Nufield’s Working Papers Series in
Politics, (2).
141. Heike Kluver (2011), “Biasing polictics? Interest group participation in
European policy-making”, Nufield College, University of Oxford, (9).
142. Hugh A. Bone (1958), “Political Parties and Pressure Group Politics”, The
Annals of the American Academy of Political and Social Science,
(319), pp. 173-183.
143. Maira Martini (2012), “Influence of interest groups on policy - making”, U4
Expert Answer, (6), pp. 335.
144. Pablo T. Spiller and Sanny Liao (2006), “Buy, Lobby or Sue: Interest
Groups’ Participation in Policy Making - A Selective Survey”, NBER
Working Paper, (12209).
145. Paul Burstein and April Liton (2002), The Impact of Political Parties,
Interest Groups, and Social Movement Organizations on Public Policy:
Some Recent Evidence and Theoretical Concerns, Social Forces, (2),
pp. 380-408.
146. Seth Binder, Eric Neumayer (2005), “Environmental pressure group strength
and air pollution: An empirical analysis”, Ecological Economics, (55),
pp. 527 - 538.
147. Thomas L. Brunell (2005), “The Relationship Between Political Parties and
Interest Groups: Explaining Patterns of PAC Contributions to Candidates
for Congress”, Political Research Quarterly, (58), pp. 681-688
148. Thomas J. Dilorenzo (1985), “The origins of antitrust: An interest-group
perspective”, International Review of Law and Economics, (5), pp. 73-90.