hoÀn thiỆn phÁp luẬt vỀ xỬ lÝ vi phẠm phÁp luẬt …
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN TUẤN AN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
HÀ NỘI - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN TUẤN AN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lí luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 62.38.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HOÀNG THẾ LIÊN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi.
Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong Luận án hoàn toàn trung thực.
Những kết luận khoa học của Luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác./.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Tuấn An
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 QPPL Quy phạm pháp luật
2 THA Thi hành án
3 THADS Thi hành án dân sự
4 TNPL Trách nhiệm pháp lý
5 VPPL Vi phạm pháp luật
6 XHCN Xã hội chủ nghĩa
7 XLVPPL Xử lý vi phạm pháp luật
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 6
1.1. Nội dung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10
1.2. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề
tài luận án
23
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬ VỀ
XỬ LÝ VI PHẠ PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
26
2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của xử lý vi phạm pháp luật trong thi
hành án dân sự
26
2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật về
xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân ự
38
2.3. Khái niệm, ý nghĩa và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
70
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ
86
3.1. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân
sự
86
3.2. Thực trạng hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi
hành án dân sự
106
Chƣơng 4: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN Ự
126
4.1. Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong
thi hành án dân sự
126
4.2. Giải pháp về thực hiện xây dựng, hoàn thiện pháp luật 131
4.3. Giải pháp về nhận thức tư tưởng 150
4.4. Giải pháp về tổ chức thực hi n 156
KẾT LUẬN 162
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 166
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã đẩy mạnh công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cải cách tư pháp và chú trọng xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Mục tiêu là tạo được một hệ thống pháp luật
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước [9].
háp luật về XLV L trong TH DS là một bộ phận quan trọng của pháp
luật Việt Nam. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam cần
chú trọng đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS sẽ góp phần vào việc hoàn thiện
pháp luật về TH DS nói riêng, pháp luật Việt Nam nói chung.
Thực ti n hiện nay cho thấy, pháp luật về XLV L trong TH DS đang có
những hạn chế, bất cập nhất định. Nhiều quy định pháp luật chưa đầy đủ, nhiều vướng
mắc trong cơ chế thực thi chưa được tháo gỡ kịp thời. Đặc biệt, thực ti n XLV L
trong TH DS đang bộc lộ những mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực
ti n và yêu cầu của đời sống xã hội, vì vậy, hiệu quả đạt được chưa cao, tính
nghiêm minh của pháp luật còn là vấn đề lớn hiện nay. Nhiều vấn đề phát sinh trong
thực ti n XLV L trong TH DS chưa được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Có thể nói, pháp luật về XLV L trong TH DS ở nước ta chưa hoàn thiện,
thiếu đồng bộ, còn mang tính chất tình thế, chắp vá và chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực ti n. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần phải hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS nhằm tạo ra sự tương thích, phù hợp giữa pháp luật và thực tế
XLV L, đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, khoa học, khả thi và nghiêm minh của
pháp luật, đảm bảo các quy định của pháp luật được thực hiện hiệu quả trong thực tế,
tránh sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật và gây oan sai trong thực ti n XLV L.
Vấn đề XLV L nói chung và XLV L trong TH DS nói riêng hiện nay
có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội. Việc XLV L không nghiêm, kém
hiệu quả sẽ gây dư luận xấu ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
tính nghiêm minh của pháp luật, kỷ cương phép nước bị xem thường.
Do vậy, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS nhằm bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật, nâng cao hiệu quả trong thực ti n XLV L là yêu
cầu cấp bách đặt ra trong hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay.
2
Bên cạnh đó, hiện nay, công tác TH DS đang ngày càng được chú trọng,
đang dần được xã hội hóa. Trong đó, số lượng các vụ việc TH DS cần giải quyết
ngày càng tăng, mức độ phức tạp ngày càng cao. hạm vi công tác TH DS lúc đầu
chỉ giới hạn ở việc tổ chức thi hành các bản án dân sự, hôn nhân và gia đình, phần
dân sự trong bản án hình sự thì đến nay đã mở rộng đối với các loại việc mới như
thi hành các bản án, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động, hành
chính, các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài nước ngoài... Cùng với đó,
các vụ việc V L trong TH DS xảy ra ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp hơn.
Bởi vậy, yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS càng ngày càng trở nên cấp thiết. Theo đó, pháp luật cần được hoàn thiện
theo hướng bảo đảm tính đồng bộ, đầy đủ, khả thi và dự liệu được các loại V L
trong thực ti n hoạt động TH DS, đặc biệt là những loại V L mới có thể xảy ra.
háp luật về XLV L trong TH DS hoàn thiện sẽ góp phần xử lý nghiêm cũng
như hạn chế các V L trong TH DS.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể nhận thấy, việc nghiên cứu, tổng kết, đánh
giá pháp luật về XLV L trong TH DS cả về lý luận và thực ti n, để từ đó đề ra
những quan điểm và giải pháp hoàn thiện là rất cần thiết.
Với những lý do đó, tôi chọn đề tài " t u t v v
u t tr g t dâ sự ở V t Na ay" làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quan điểm, tư tưởng về XLV L
trong THADS, thực trạng pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS và hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
hạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung tổng hợp, hệ thống hóa cũng như
lý giải r những vấn đề lý luận về XLV L và pháp luật về XLV L trong
TH DS; đánh giá mặt ưu điểm, mặt hạn chế của pháp luật và hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS; đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở Việt Nam hiện nay.
3. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận
khoa học và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về cải cách tư pháp; về
xây dựng và hoàn thiện pháp luật XHCN....
3
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lênin kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học khác nhau để đáp ứng yêu cầu làm r những nội dung nghiên cứu.
hương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt để nêu, phân
tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực ti n trong luận án.
hương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần
thiết, đối chiếu, so sánh, làm r các nội dung liên quan, đặt trong tổng thể hệ thống
pháp luật về XLV L trong TH DS cũng như lịch sử phát triển của nó.
hương pháp mô tả được sử dụng để nêu, làm sáng tỏ những vấn đề về hình
thức thể hiện của pháp luật XLV L trong TH DS.
hương pháp lịch sử - cụ thể được sử dụng để phân tích, đánh giá, bình luận
thực trạng pháp luật về XLV L trong TH DS.
hương pháp khái quát hóa được sử dụng để nêu và phân tích, kết luận về
những vấn đề có tính chất chung, bao quát như thành tựu của các công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án, những thành tựu đạt được trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS...
hương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để góp phần tổng kết thực ti n
sâu sắc về pháp luật XLV L trong TH DS, quá trình tổ chức thực hiện pháp luật
và hiệu quả của nó trong thực ti n.
hương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực ti n cũng được sử dụng
trong tiến trình thực hiện luận án để đưa ra những bình luận, quan điểm, kết luận về
những nội dung nghiên cứu...
Trên thực tế, hoạt động XLV L trong TH DS ở nước ta khá phức tạp,
pháp luật về XLV L trong TH DS khá đa dạng, còn có nhiều nhược điểm, hạn
chế nên để thấy r bản chất, khuynh hướng vận động và phát triển của pháp luật
cũng như cơ chế thực thi XLV L trong TH DS nói chung cần phải sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm làm r các khía cạnh khác nhau của vấn đề
đặt ra.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực ti n của pháp luật
về XLV L trong TH DS, luận án đặt mục tiêu là đề xuất các giải pháp nhằm tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
4
hân tích, làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của XLV L trong
TH DS; khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật về
XLV L trong TH DS; khái niệm, đặc điểm, nội dung, mục tiêu, ý nghĩa của hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS; nêu r các tiêu chí xác định mức độ
hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Đánh giá khách quan, toàn diện, có hệ thống về thực trạng pháp luật và
hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS nhằm làm r những ưu điểm, thành
tựu và những nhược điểm, hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm, thành tựu và
những nhược điểm, hạn chế của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS cũng như cơ chế thực thi.
hân tích các nguyên tắc của việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện, có hệ thống
về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở Việt Nam, có
những đóng góp mới về khoa học như sau:
Thứ nhất, luận án đã đưa ra được khái niệm, chỉ r đặc điểm, nội dung, ý
nghĩa của XLV L trong hoạt động TH DS.
Thứ hai, xây dựng được khái niệm, phân tích đặc điểm, nội dung và hình
thức thể hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS.
Thứ ba, xây dựng được khái niệm, xác định được mục tiêu, nội dung, ý
nghĩa của hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS; nêu lên được các tiêu
chí xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L trong THADS.
Thứ tư, phân tích, làm r thực trạng của pháp luật và hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS, đánh giá được ưu điểm, thành tựu cũng như nhược
điểm, hạn chế và nguyên nhân của nó.
Thứ năm, nêu lên được các nguyên tắc và đề xuất các giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
6. Ý nghĩa l luận và thực tiễn của luận án
Các kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung vào lý luận về TH
cũng như pháp luật về TH DS và pháp luật về XLV L trong TH DS.
Luận án là sự nhìn nhận, đánh giá khoa học về những ưu điểm, hạn chế, bất
cập của pháp luật về XLV L trong TH DS. Kết quả của luận án cung cấp các
luận cứ khoa học và thực ti n có giá trị tham khảo cho quá trình xây dựng và hoàn
5
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, góp phần thúc đẩy cải cách tư pháp
cũng như công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu
giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo luật và nghề tư pháp.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp
luật trong thi hành án dân sự.
Chương 3: Thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật trong thi hành án dân sự.
Chương 4: Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp
luật trong thi hành án dân sự.
6
C ươ g 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hoàn thiện pháp luật là một đòi hỏi khách quan trong hoạt động tư pháp của
bất cứ nhà nước nào. Ở nước ta, trong xu thế hội nhập quốc tế và thực hiện chủ
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tăng cường quản lý xã hội bằng
pháp luật cũng đang đặt ra nhu cầu bức xúc về hoàn thiện pháp luật nói chung và
hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại
hội VIII đã đưa ra quan điểm chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật như sau:
Ban hành các đạo luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Ưu tiên các luật về kinh tế, về các quyền công dân và
các luật điều chỉnh các hoạt động văn hóa, thông tin. Coi trọng tổng kết
thực ti n Việt Nam, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành
các văn bản luật với những quy định cụ thể, d hiểu, d thực hiện. Giảm
dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung, muốn
thực hiện được phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành [1].
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vai trò lập pháp của Quốc hội:
"Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc
hội, trọng tâm là công tác lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình
ban hành và hướng dẫn thi hành luật" [2]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội X của Đảng cũng chỉ r : "Hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định pháp luật" và "Đổi mới
hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh" [3].
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục khẳng định chủ
trương đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật [4]. Bên cạnh đó, các Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X và XI của Đảng đã khẳng định nhất quán chủ
trương xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như hệ thống pháp luật Việt Nam
cùng với quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 [10] và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [11] của Bộ Chính trị ra đời có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, là định hướng và cơ sở chính trị quan trọng để xây dựng, hoàn
7
thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực ti n xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị đã đánh giá một
cách khái quát về công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta.
Theo đó, sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan
trọng. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu
thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Trước thực trạng đó, Nghị
quyết đã đặt ra mục tiêu:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi
mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và
hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020 [10].
Có thể nói, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị đã định
hướng r cho công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta. Những
quan điểm chỉ đạo cơ bản của Nghị quyết là cơ sở và nền tảng để xây dựng, hoàn
thiện pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã xác định mục
tiêu của cải cách tư pháp là "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa..." [11]. Nghị quyết cũng đã đề ra nhiều quan điểm
tiến bộ, toàn diện, tổng thể và có tính đột phá cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp. Trong đó, một trong những nhiệm vụ cơ bản
được đề ra là cải cách tổ chức và hoạt động các cơ quan TH . Nghị quyết xác định:
Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư
pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Xác định
r trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của cơ quan
chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các
8
hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án
của tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình
thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực
hiện một số công việc thi hành án [11].
Như vậy, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã
xác định là cần đổi mới tổ chức và hoạt động cơ quan TH . Đây cũng chính là cơ
sở chính trị quan trọng để hoàn thiện pháp luật về TH DS nói chung, pháp luật về
XLVPPL trong THADS nói riêng.
Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam được đề
cập trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học, đáng chú ý là một số công trình,
bài viết như sau:
Cuốn "Nghiên cứu tư tưởng Hồ chí Minh về nhà nước và pháp luật" 1993
của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp đã nghiên cứu và phân tích những nội
dung cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề xây dựng nhà nước và hệ thống
pháp luật Việt Nam, trong đó, những kết quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ và cho thấy
những giá trị có tính chất nền tảng trong tư tưởng Hồ chí Minh về xây dựng và hoàn
thiện nhà nước cũng như hệ thống pháp luật nước ta [12].
Cuốn "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn" 2003 của tác giả Lê Minh Tâm đã nghiên cứu và làm sáng tỏ
những nội dung chủ yếu về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Trong đó,
tác giả đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật như: Bản chất,
chức năng, giá trị xã hội, hình thức, hiệu lực của pháp luật và những tiêu chí cơ bản để
xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật, xây dựng và hệ thống hóa pháp luật. Đồng
thời, tác giả cũng đã phân tích quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp
luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Trên cơ sở đó, tác giả nêu lên những phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam [82].
Cuốn "Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay" (2008)
của tác giả Ngô Huy Cương đã đề cập đến vấn đề xây dựng, hoàn thiện pháp luật
một cách khái quát, trong đó, tác giả đã phân tích và trình bày có hệ thống những
vấn đề cơ bản về cải cách pháp luật trên cơ sở lý luận và từ thực ti n Việt Nam [43].
Cuốn "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm phát triển bền
vững ở Việt Nam hiện nay" 2010 do tác giả Nguy n Văn Động chủ biên đã phân
tích, làm sáng r nhiều vấn đề quan trọng và cấp thiết đối với việc xây dựng, hoàn
thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững như: Cơ sở khoa học trong
9
các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển bền vững và định hướng của
việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm phát triển bền vững; mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau giữa phát triển bền vững với xây dựng, hoàn thiện pháp luật;
cách thức xác định các yếu tố phát triển bền vững trong nội dung pháp luật và lồng
ghép chúng vào quá trình xây dựng, ban hành các văn bản Q L; tiêu chuẩn đánh
giá mức độ bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững trong xây dựng, hoàn thiện pháp
luật; hài hòa hóa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế trong xây dựng, hoàn
thiện pháp luật trước yêu cầu phát triển bền vững [54]. Đồng thời, tác giả Nguy n
Văn Động cũng công bố hai bài nghiên cứu trên Tạp chí Luật học số 3 năm 2010
(Hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cầu phát triển bền vững của Việt Nam
hiện nay) [55] và Tạp chí Luật học số 5 năm 2010 (Cách thức xác định các yếu tố
phát triển bền vững của pháp luật và lồng ghép chúng vào quá trình xây dựng
pháp luật) [56]. Hai bài viết này đã tập trung phân tích vấn đề xây dựng, hoàn
thiện pháp luật trước yêu cầu phát triển bền vững; làm r cách thức xác định các
yếu tố phát triển bền vững của pháp luật và vấn đề lồng ghép các yếu tố này vào
quá trình xây dựng pháp luật.
Cuốn "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" 2011 của tác giả Nguy n Minh
Đoan đã nghiên cứu và làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu về xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, gắn với điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN. Trong đó, tác giả đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận cơ bản
về xây dựng pháp luật, xem xét tính hệ thống của pháp luật, làm r những nội dung
chủ yếu của hệ thống pháp luật XHCN, phân tích những vấn đề cơ bản về văn bản
Q L, đánh giá tác động của văn bản Q L, nêu lên những yêu cầu đối với hoạt
động xây dựng pháp luật, đánh giá chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật và chất
lượng hệ thống pháp luật Việt Nam, đặt ra vấn đề trách nhiệm của người xây dựng
pháp luật và vai trò của các nhà khoa học trong hoạt động xây dựng pháp luật, vấn
đề phản biện xã hội đối với công tác xây dựng pháp luật, từ đó, nêu lên những nội
dung chủ yếu của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam gắn với
điều kiện xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN [53].
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội
cũng đã đề cập đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nêu lên
những yêu cầu và biện pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta,
đáp ứng yêu cầu của thực ti n [93].
10
Bên cạnh đó, một số công trình khác như: Cuốn "Hồ Chí Minh toàn tập"
tập 5 [73]; Hồ Chí Minh, "Nhà nước - pháp luật" [74]; Cuốn "Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia [91]; Cuốn
"Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam" của GS.TS Đoàn Trọng Truyến [88].... đều có những nghiên cứu, đánh
giá mang tính tổng thể, toàn diện về nhà nước và pháp luật, nêu lên những yêu cầu,
phương hướng, biện pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống
pháp luật, đặc biệt là trong điều kiện cải cách hành chính và xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN hiện nay. Đây đều là những tài liệu có giá trị tham khảo quan
trọng trong việc nghiên cứu các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà
nước và hệ thống pháp luật Việt Nam.
Có thể nói, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung đã
được đề cập trong những công trình nghiên cứu khoa học và đã được nhìn nhận một
cách tổng thể, toàn diện, khoa học, trên cơ sở lý luận và thực ti n, gắn với điều kiện
phát triển kinh tế, xã hội cũng như trước những yêu cầu của thực ti n đang đặt ra ở
nước ta. Việc kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc xây dựng luận án, là cơ sở để phân tích và làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận, thực trạng cũng như xây dựng những giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật theo mục đích xác định của đề tài. Tuy nhiên, đây là những công trình
nghiên cứu khoa học về vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung nên nhìn chung, các vấn đề được đề cập đều trên diện rộng và tổng
quát. Trong khi đó, vấn đề hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS mang
tính chuyên sâu về một lĩnh vực, cần thiết phải nghiên cứu, tìm hiểu những nội dung
cụ thể và sâu hơn.
1.1. NỘI DUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
hù hợp với định hướng nghiên cứu đề tài, việc xem xét, đánh giá kết quả
các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận án được tiến hành tập
trung ở các nội dung sau: XLV L trong TH DS, pháp luật về XLV L trong
TH DS và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
1.1.1. Xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Cho đến nay, chưa có công trình khoa học nghiên cứu độc lập nào đề cập
riêng biệt đến vấn đề XLV L trong lĩnh vực TH DS. Do đó, hiện nay, chưa có
các quan điểm riêng nêu lên khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của XLV L đối với
11
hoạt động TH DS. Trên thực tế đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết liên
quan nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu những vấn đề chung về XLV L trong đời
sống xã hội chứ chưa đề cập đến hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Chẳng hạn, trong vấn đề XLV L hành chính nói chung, có thể kể đến bài viết
"Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính - thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng
và hướng hoàn thiện" của tác giả Trần Minh Hương đăng trên Tạp chí Luật học số 8
năm 2008, đã nêu lên những vấn đề cơ bản về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính trên cơ sở phân tích thực trạng các quy định pháp luật cũng như thực trạng
của việc áp dụng pháp luật trong thực ti n, trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số
quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
nói chung [63]; Bài viết "Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính: những bất
cập, hạn chế và phương hướng hoàn thiện" - Tạp chí Luật học số 1 năm 2009 của
tác giả Bùi Xuân Đức đã phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề về thực trạng hệ
thống xử phạt vi phạm hành chính, làm r những bất cập, hạn chế và nêu lên một số
quan điểm nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hệ thống chế tài xử phạt vi phạm
hành chính [57]... Trong vấn đề xử lý tội phạm hình sự có thể kể đến cuốn "Một số
vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam" (2006) của tác giả hạm Văn Tình,
đã phân tích và nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng về tình hình tội
phạm, góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề tội phạm nói
chung [85]... Trong vấn đề xử lý kỷ luật, có thể kể đến bài viết "Một số bất cập của
pháp luật về xử lý kỷ luật công chức" - Tạp chí Luật học số 11 năm 2012 của tác giả
Cao Vũ Minh và tác giả Nguy n Thị Thiện Trí đã tập trung phân tích và làm sáng rõ
những bất cập của pháp luật hiện hành về vấn đề xử lý kỷ luật công chức hiện nay
và nêu lên một số giải pháp khắc phục [72]...
Có thể nhận thấy, cho đến nay mới chỉ có các công trình nghiên cứu tổng thể
về vấn đề XLV L và từng biện pháp XLV L trong đời sống xã hội nói chung.
Trong đó, hầu hết các quan điểm hiện nay đều cho rằng XLV L là một vấn đề có
ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội và hoàn thiện pháp luật về XLV L là
một vấn đề có tính cấp thiết. Về mặt khái niệm XLV L, các quan điểm đều cho rằng
XLV L là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm
quyền nhằm xử lý đối với chủ thể thực hiện hành vi V L bằng nhiều biện pháp khác
nhau tương ứng với mỗi loại V L, là hoạt động có tính chất cưỡng chế và thể hiện
quyền lực nhà nước. Các biện pháp XLV L trong đời sống xã hội được phân loại
theo từng V L, bao gồm: XLV L hành chính, xử lý hình sự, XLV L dân sự,
12
xử lý kỷ luật, bồi thường thiệt hại trong thi hành công vụ, XLV L gây thiệt hại về
vật chất trong cơ quan, tổ chức. Đây là những quan điểm đúng đắn, phù hợp với quy
định pháp luật hiện hành và cần được tiếp thu trong quá trình nghiên cứu vấn đề
XLV L trong lĩnh vực TH DS, đặc biệt là trong quá trình xây dựng khái niệm
XLVPPL trong TH DS và phân loại các biện pháp XLV L trong TH DS...
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu độc
lập nào về vấn đề XLV L trong TH DS, do đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về vấn
đề này là rất cần thiết. Đề tài luận án "Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp
luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" sẽ tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận chung về XLV L trong TH DS, nêu bật khái niệm, đặc điểm của
XLV L trong TH DS, đề cập và nêu lên các khái niệm về V L, TNPL trong
TH DS, từ đó, nêu và phân tích ý nghĩa của việc XLV L trong TH DS. Những
nội dung này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần bổ sung về lý luận đối với
vấn đề XLV L trong lĩnh vực TH DS.
1.1.2. Pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Trên thực tế, các công trình liên quan đến pháp luật về XLV L trong
TH DS được nghiên cứu tách biệt ở hai nội dung là pháp luật về TH DS và pháp
luật về XLV L nói chung, cụ thể như sau:
Các công trình nghiên cứu về pháp luật THADS chủ yếu liên quan đến vấn
đề lý luận về TH DS, tổ chức TH DS và thủ tục TH DS :
Về vấn đề lý luận TH DS, có thể kể đến một số công trình như: Đề tài
khoa học cấp nhà nước độc lập "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ
chức, hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" 2003 do TS Nguy n
Đình Lộc làm Chủ nhiệm và GS.TS Hoàng Thế Liên làm hó Chủ nhiệm đã
nghiên cứu một cách khá toàn diện, khoa học về từng nội dung liên quan đến tổ
chức và hoạt động TH nói chung, thực trạng công tác TH ở nước ta, trên cơ sở
đó, nêu lên các quan điểm, yêu cầu và giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động
TH trong thời gian tới [21]. Đề tài KX.04.06 thuộc Chương trình khoa học xã hội
cấp nhà nước 2001-2005) "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các
thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do Bộ Tư pháp chủ trì đã
nghiên cứu TH trong mối quan hệ với hệ thống tư pháp và việc thực hiện quyền tư
pháp, trong đó đã đề xuất một số nội dung cải cách tổ chức và hoạt động của cơ
quan TH trong điều kiện cải cách tư pháp [22]. Số chuyên đề "Xã hội hóa hoạt
13
động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" (2001) - Thông tin
khoa học pháp lý, Viện khoa học pháp lý đã đề cập đến vấn đề xã hội hóa hoạt động
TH DS ở nước ta trên cơ sở lý luận và thực ti n, những kinh nghiệm tiếp thu từ
thực ti n ở các nước, nêu lên một số quan điểm nhằm xã hội hóa hoạt động TH DS
[18]. Cuốn Tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự" 2004 của Trường Đại học Luật Hà Nội đã nêu, tổng hợp
kết quả nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự",
trong đó, các tác giả đã tập trung đánh giá và làm r những vấn đề cơ bản của pháp
luật TH DS hiện hành, từ đó nêu lên được những phương hướng, giải pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện pháp luật TH DS ở nước ta [92]. Đề tài khoa học cấp bộ năm
2005 "Bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004" do Viện khoa học pháp
lý - Bộ Tư pháp chủ trì đã phân tích và làm r một số vấn đề về khái niệm, bản chất
TH DS, đồng thời, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
TH DS [23]. Luận án tiến sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay" (2008 của tác giả Nguy n Thanh Thủy, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh đã nghiên cứu trực tiếp và toàn diện về vấn đề hoàn thiện
pháp luật TH DS, trong đó, tác giả đã phân tích và làm r những vấn đề lý luận về
TH DS như: Khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật TH DS, các tiêu
chí hoàn thiện pháp luật TH DS, phân tích lịch sử và thực trạng pháp luật TH DS,
từ đó, đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật TH DS, nâng
cao hiệu quả hoạt động TH DS [84]. Số chuyên đề về Luật THADS - Tạp chí Nghề
luật số 2 năm 2009 đã tập trung phân tích và đánh giá những nội dung cơ bản của
Luật TH DS năm 2008, nêu lên những điểm mới, tiến bộ và thành tựu của Luật
trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các văn bản pháp luật về TH DS trước đây, trong
đó tập trung chủ yếu về những vấn đề như: Ra quyết định TH ; thông báo TH ;
xác minh điều kiện TH ; tự nguyện và thỏa thuận trong TH ; hoãn, tạm đình chỉ,
đình chỉ, trả lại đơn yêu cầu TH ; chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong TH ; ủy
thác THADS; phí THA; các biện pháp bảo đảm TH ; cưỡng chế TH ; xử lý tài
sản, vật chứng trong TH ; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm; quyết định phá sản; TH lao động; giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong TH [62]. Bài viết "Những điểm mới cơ bản của Luật Thi hành án dân sự"
của tác giả Nguy n Văn Nghĩa đăng trên Tạp chí Luật học số 5 năm 2009 đã phân
tích và làm sáng tỏ một số điểm mới cơ bản của Luật TH DS năm 2008 so với
háp lệnh TH DS năm 2004 cũng như những văn bản liên quan trước đó [79]. Số
14
chuyên đề về TH DS - Tạp chí Dân chủ và pháp luật hàng năm từ năm 2006 đến
năm 2012 đã tập trung nghiên cứu các nội dung cơ bản về TH DS, những vấn đề
lý luận và thực ti n, những quy định của pháp luật về TH DS, hoạt động áp dụng
pháp luật về TH DS trong thực ti n, những tồn tại, vướng mắc trong tổ chức và
hoạt động TH DS, đồng thời, đã nêu được những giải pháp cơ bản, trên cơ sở lý
luận và thực ti n nhằm đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả công tác TH DS.
Thành tựu nổi bật trong các số chuyên đề này là đã phản ánh được khá đầy đủ và
chi tiết những vấn đề cơ bản về TH DS ở từng giai đoạn nhất định, cả thể chế và
thực ti n, đồng thời, đã nêu được những đề xuất, kiến nghị nhằm khắc phục khó
khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động TH DS, góp phần quan trọng vào quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TH DS [26-33]. Giáo trình Luật TH DS
năm 2009 của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã trình bày những vấn đề cơ bản
về pháp luật TH DS cũng như hệ thống tổ chức, hoạt động và thủ tục TH DS ở
nước ta hiện nay [97].
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu về pháp luật TH DS ở các
nước trên thế giới đã có những đánh giá và rút ra kinh nghiệm quan trọng cho nước
ta, trong đó có thể kể đến cuốn "Tài liệu tham khảo về thừa phát lại và thi hành án"
dịch từ "L’Hussier de la justice" do Hội đồng thừa phát lại háp ấn hành tháng
2/1994 đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về thừa phát lại và TH , trong đó chủ
yếu đã nêu và làm sáng r những nội dung cơ bản về tổ chức TH tư nhân và quy
chế Chấp hành viên Thừa phát lại . Đó là những kinh nghiệm cần thiết cho việc đổi
mới tổ chức và hoạt động TH DS ở nước ta [75].... Đề tài "Thi hành án dân sự -
thực trạng và hướng hoàn thiện" 1998 của Dự án VIE/98/01 do Bộ Tư pháp phối
hợp với Dự án VIE thực hiện cũng đã có những đánh giá quan trọng về thực trạng
và kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về TH DS ở
Việt Nam [16]. Báo cáo đề xuất "Bình luận của STAR Việt Nam về dự thảo Bộ luật
thi hành án của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (2005 của tác giả
Jame F. Harigan [64] và Báo cáo tại Hội thảo góp ý dự thảo Bộ luật TH "Các yêu
cầu của Hiệp định thương mại WTO và khuyến nghị của Dự án STAR - Việt Nam về
dự án Bộ luật thi hành án" 2006 của tác giả John Bently [65] đã có những bình
luận mang tính khoa học cao về các quy định trong Dự thảo Bộ luật TH , đồng
thời, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về TH ở
Việt Nam. Bài viết "Vài nét về thi hành án dân sự ở Singapore" của tác giả Nguy n
Công Bình đăng trên Tạp chí Luật học số 5 năm 1999 đã tập trung phân tích và
15
đánh giá những nét mang tính đặc trưng của pháp luật về TH DS ở Singapore [8].
Cuốn "Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp một số nước trên thế
giới" 2011 của Bộ Tư pháp cũng đã có những phân tích và đánh giá về tổ chức và
hoạt động tư pháp của một số nước trên thế giới, trong đó có đề cập đến vấn đề tổ
chức và hiệu quả hoạt động của TH ở các nước này. Đây là những nội dung có
tính chất tham khảo quan trọng đối với Việt Nam [26]. Cùng với đó, các báo cáo
của Bộ Tư pháp nghiên cứu, khảo sát về pháp luật TH DS của một số nước tiên
tiến trên thế giới như: Báo cáo của Cục Quản lý TH DS - Bộ Tư pháp về kết quả
tọa đàm Luật TH DS của Thụy Điển từ ngày 28-29/10/1997 [14], Báo cáo của
Đoàn khảo sát liên ngành - Bộ Tư pháp về kinh nghiệm TH DS tại Cộng hòa Liên
bang Đức từ ngày 15/4/1998 đến ngày 25/4/1998 [15], Báo cáo của Vụ háp luật
Dân sự, Kinh tế - Bộ Tư pháp về kết quả tọa đàm pháp luật TH DS Nhật Bản từ
ngày 2-3/10/2000 và ngày 6-7/10/2000 [17], về kết quả tọa đàm pháp luật TH DS
Thụy Điển từ ngày 11-13/12/2002 [19], Báo cáo của Đoàn khảo sát liên ngành Bộ
Tư pháp về kết quả khảo sát, tìm hiểu Luật TH tại Hoa kỳ từ ngày 27/9/2005 đến
ngày 06/10/2005 [21]... đã có sự nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá sâu về pháp luật
TH DS của một số nước như Thụy Điển, Hoa kỳ, Đức, Nhật Bản... từ đó nêu lên
những kinh nghiệm quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp
luật về TH DS cho Việt Nam. Năm 2011, được sự hỗ trợ của UND , một nhóm
chuyên gia của Bộ Tư pháp do GS.TS Hoàng Thế Liên chỉ đạo đã biên soạn và
cho công bố cuốn "Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp của năm
quốc gia: Trung Quốc, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga". Cuốn sách đã
cung cấp đầy đủ các thông tin về TH hình sự và dân sự của năm nước nêu trên,
làm r loại TH , tổ chức, mô hình, nhiệm vụ chức năng, quan hệ quy trình, các cơ
chế của TH hình sự và dân sự [26].
Qua việc tìm hiểu những công trình nêu trên có thể nhận thấy, trong những
năm qua, đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu những vấn đề lý luận về
TH DS, trong đó, chủ yếu tập trung vào những nội dung cơ bản như: Đổi mới tổ
chức và hoạt động TH DS; khắc phục những tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong
TH DS; nâng cao hiệu quả hoạt động TH DS; xã hội hóa hoạt động TH DS; kinh
nghiệm về TH DS của một số nước tiên tiến trên thế giới... Nhìn chung, những kết
quả nghiên cứu này đã góp phần đáng kể trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về TH DS, thực hiện và áp dụng pháp luật về TH DS, đóng góp quan
trọng cho việc nghiên cứu về TH DS, là quá trình tổng kết pháp luật về TH DS.
16
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về TH DS, những
công trình này chưa đề cập đến vấn đề V L và XLV L trong TH DS, chưa xem
xét XLV L dưới góc độ một bộ phận quan trọng của pháp luật TH DS. Điều này
là không tương thích với vai trò, ý nghĩa của việc XLV L trong TH DS. Đây có
thể nói là một khoảng trống cần được bổ sung kịp thời.
Về vấn đề tổ chức TH DS, có thể kể đến một số công trình như: Đề tài
khoa học cấp bộ số 96-98-027/ĐT năm 1996 "Về mô hình quản lý thống nhất công
tác thi hành án" do Bộ Tư pháp chủ trì đã phân tích, đánh giá khá r nét cơ chế
quản lý trong công tác TH DS, đặt trong mối quan hệ giữa quản lý TH DS với
quản lý các lĩnh vực TH khác hình sự, hành chính… , đồng thời, nêu ra một số
kiến nghị về mô hình quản lý thống nhất công tác TH [13]. Luận văn thạc sĩ luật
học "Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Việt Nam" (1996)
của tác giả Trần Văn Quảng đã nêu lên khá đầy đủ và r ràng thực trạng tổ chức,
hoạt động TH DS và kiến nghị một số giải pháp kiện toàn tổ chức cũng như nâng
cao hiệu quả hoạt động TH DS [80]. Số chuyên đề "Một số vấn đề về tổ chức và
hoạt động thi hành án hiện nay" (2002) - Thông tin khoa học pháp lý, Viện Khoa
học pháp lý đã phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực ti n trong tổ
chức và hoạt động TH , từ đó nêu lên một số quan điểm nhằm đổi mới tổ chức và
hoạt động TH [20]. Bài viết "Nâng cao tính độc lập trong hoạt động của các cơ
quan thi hành án" của tác giả Mai Kim Liên đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật -
Số chuyên đề về TH năm 2006, đã phân tích và làm r yêu cầu nâng cao tính độc
lập trong hoạt động TH , đồng thời, đề xuất các giải pháp nâng cao tính độc lập
trong hoạt động của cơ quan, cán bộ TH nói chung [69]. Bài viết "Cải cách cơ
quan tiến hành tố tụng và cơ quan thi hành án dân sự trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền" đăng trên Tạp chí Nghề luật số 2 năm 2006 của tác giả Lê Cảm đã
nêu lên vấn đề cải cách cơ quan TH DS trong mối quan hệ với các cơ quan tiến
hành tố tụng cũng như trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân [41]. Bài viết "Đổi mới công tác thi hành án dân sự theo tinh
thần cải cách tư pháp" - Tạp chí Nghề luật số 4 năm 2006 đã nêu lên một số quan điểm
nhằm đổi mới công tác TH DS gắn với công cuộc cải cách tư pháp [60]...
Một số công trình nghiên cứu về tổ chức TH trên thế giới như: Kỷ yếu hội
thảo "Các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới" ngày 17-18/4/2006 của Nhà
pháp luật Việt - háp [76]; Bài viết "Mô hình tổ chức thi hành án một số nước trên
thế giới" - Tạp chí Nghề luật số 1 năm 2007 [61]; Các bài viết về TH DS của một
17
nước trên thế giới và các báo cáo khảo sát của Bộ Tư pháp về pháp luật TH DS ở
các nước Thụy Điển, Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản... như nêu trên đã có sự phân tích,
đánh giá về ưu, nhược điểm của một số mô hình tổ chức TH cơ bản trên thế giới
hiện nay như: Mô hình tổ chức TH công, mô hình tổ chức TH bán công và mô
hình tổ chức TH tư nhân. Đây chính là những kinh nghiệm quan trọng cho Việt
Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhằm đổi mới tổ chức và nâng
cao hiệu quả hoạt động TH DS.
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, bài viết khác
nhau đề cập đến vấn đề tổ chức cơ quan TH nói chung và cơ quan TH DS nói
riêng. Trong đó, thành tựu đáng kể là những công trình, bài viết này đã nêu lên khá
nhiều giải pháp nhằm cải cách và đổi mới tổ chức cơ quan TH , nâng cao vai trò,
tầm quan trọng cũng như tính độc lập của các cơ quan TH trong thực ti n. Những
kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất lớn, góp phần quan trọng trong việc xây dựng
mô hình cơ quan TH nói chung và cơ quan TH DS nói riêng. Tuy nhiên, quá
trình nghiên cứu về tổ chức TH DS chưa đề cập đến vai trò, vị trí của cơ quan
TH DS, Chấp hành viên cũng như những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đối với
vấn đề XLV L trong lĩnh vực TH DS. Đây cũng là một thiếu sót trong quá trình
nghiên cứu về tổ chức TH DS cần được bổ sung và làm r .
Về vấn đề thủ tục và hoạt động TH DS, có thể kể đến một số công trình
như: Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam"
2005 của tác giả Lê nh Tuấn đã đánh giá tương đối đầy đủ và r ràng thực trạng
pháp luật về thủ tục và thực ti n áp dụng trong TH DS, nêu ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện thủ tục về TH DS [86]. Bài viết "Vấn đề đổi mới các quy định về
thi hành án dân sự" của tác giả Nguy n Công Long đăng trên Tạp chí Dân chủ và
pháp luật - Số chuyên đề Bộ luật TH dự thảo năm 2005 đã nêu lên một số vướng
mắc, bất cập trong thủ tục TH DS và kiến nghị giải pháp khắc phục [70]... Bên cạnh
đó, các số chuyên đề về TH DS hàng năm đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
Tạp chí Nghề luật, các bài viết liên quan trên Tạp chí Luật học, Thông tin khoa học
pháp lý... đều có những nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thể chế cũng như thực
trạng công tác TH DS, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp
luật, trên cơ sở đó, đề xuất và kiến nghị những biện pháp nhằm hoàn thiện quy định
pháp luật về thủ tục và nâng cao hiệu quả trong hoạt động TH DS. Ngoài ra, các báo
cáo tổng kết về TH DS hàng năm của Tổng cục TH DS và Bộ Tư pháp đều có sự
đánh giá, nhận xét sâu và cụ thể về hoạt động TH DS, các vụ việc V L, cách thức
18
xử lý và bài học kinh nghiệm [35-37]... Đây là những tư liệu quan trọng để đánh giá
thực trạng pháp luật về XLV L trong TH DS trong quá trình thực hiện luận án.
Có thể nói, hoạt động TH DS nói chung đã được đề cập tương đối đầy đủ
trong những công trình nghiên cứu, bài viết khác nhau. Trong đó, các công trình,
bài viết này đã tập trung phân tích và làm r những vấn đề liên quan đến hoạt động
của các cơ quan TH DS, đặc biệt, đã phân tích và đánh giá khá đầy đủ, chi tiết về
thực trạng thủ tục TH DS hiện nay, từ đó, kiến nghị và đề xuất những giải pháp
quan trọng nhằm hoàn thiện thủ tục cũng như các quy định pháp luật liên quan đến
hoạt động TH DS. Những kết quả nghiên cứu này đã có đóng góp đáng kể trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TH DS nói chung. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu hoạt động TH DS chưa có sự đề cập cần thiết đến tình trạng V L và
hoạt động XLV L trong TH DS. Đây cũng chính là hạn chế cơ bản trong quá trình
nghiên cứu về vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động TH DS hiện nay.
Các công trình nghiên cứu pháp luật về XLVPPL chủ yếu được chia theo
từng loại V L :
Các công trình nghiên cứu pháp luật về xử lý vi phạm hành chính: Cuốn
"Bình luận khoa học Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002" 2005 của
Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, đã phân tích và làm sáng tỏ những nội dung
cơ bản của háp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, những điểm mới trong
các quy định pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật xử lý vi phạm
hành chính [24]. Đặc san về xử lý vi phạm hành chính - Tạp chí Luật học năm 2003
đã phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về xử lý vi phạm hành chính,
những điểm mới của háp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, góp phần quan
trọng trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định pháp luật về vấn đề xử lý vi
phạm hành chính nói chung [90]. Bài viết "Đổi mới trình tự tố tụng hành chính theo
tinh thần cải cách tư pháp" - Tạp chí Nghề luật số 2 năm 2006 của tác giả Nguy n
Thanh Bình, đã phân tích những vấn đề cơ bản về trình tự, thủ tục tố tụng hành
chính gắn với vấn đề cải cách tư pháp [9]. Số chuyên đề về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 8 năm 2011 đã
phân tích và làm r một số nội dung cơ bản của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tư pháp, nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong việc thực
hiện pháp luật hiện nay, trong đó, bài viết "Bàn về các biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm xử lý vi phạm hành chính" của tác giả Trương Khánh Toàn đã tập trung phân
tích thực trạng của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, đồng thời, nêu lên một số đề
19
xuất, kiến nghị để hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn trong xử lý vi
phạm hành chính; bài viết "Một số ý kiến về xây dựng Luật Xử lý vi phạm hành
chính" của tác giả Nguy n Thị Kim nh đã đề xuất và kiến nghị một số biện pháp
cơ bản về cấu trúc và hình thức trong việc xây dựng Luật Xử lý vi phạm hành
chính; bài viết "Những bất cập của pháp luật xử lý vi phạm hành chính qua công
tác thanh, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo" của tác giả Quốc Hoàn đã tập
trung phân tích mối quan hệ giữa hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
với việc xử lý vi phạm hành chính, phân tích những hạn chế, bất cập cần xem xét
trong thẩm quyền xử phạt, mức phạt tiền, thủ tục tiến hành xử phạt, cơ chế bảo đảm
thi hành quyết định xử phạt, cơ chế giám sát việc phát hiện và xử lý vi phạm hành
chính; bài viết "Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự"
của tác giả Hoàng Quốc đã tập trung phân tích và làm r các quy định của pháp luật
hiện hành về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TH DS [33]...
Gần đây nhất có bài viết của tác giả Hoàng Thế Liên về "Luật xử lý vi phạm hành
chính với nhiệm vụ bảo đảm trật tự, kỷ cương quản lý hành chính, trật tự an toàn xã
hội và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân" đăng trên Tạp chí Dân chủ và
pháp luật số 8 năm 2013. Bài viết này đã làm r lý do phải ban hành Luật xử lý vi
phạm hành chính, những điểm mới của Luật xử lý vi phạm hành chính so với háp
lệnh xử lý vi phạm hành chính, các biện pháp đưa Luật xử lý vi phạm hành chính
vào đời sống xã hội [68].
Các công trình nghiên cứu pháp luật về xử lý tội phạm hình sự: Bài viết "Quy
định về tội phạm học của một số trường phái tội phạm học" - Tạp chí Nghề luật số 8
năm 2004 của tác giả Nông Xuân Trường đã nêu và phân tích một số quan điểm về
tội phạm học của các trường phái tội phạm học khác nhau [89]. Bài viết "Kỹ thuật
xây dựng cấu thành tội phạm và việc hoàn thiện Bộ luật hình sự" của tác giả Nguy n
Ngọc Hòa đăng trên Tạp chí Luật học số 4 năm 2006, đã phân tích một cách khoa
học và khái quát về vấn đề cấu thành tội phạm, nêu lên một số quan điểm nhằm
hoàn thiện các quy định về kỹ thuật xây dựng cấu thành tội phạm của Bộ luật hình
sự, phù hợp với thực ti n [59]. Bài viết "Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ
quy định tội phạm trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm
2009" - Tạp chí Luật học số 1 năm 2010 của tác giả Hồ Sĩ Sơn đã phân tích và làm
sáng tỏ những vấn đề ảnh hưởng và quyết định đến những quy định về tội phạm
trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 [98]. Bài viết
"Tội phạm học - khái niệm và đối tượng nghiên cứu" - Tạp chí Luật học số 2 năm
20
2011 của tác giả Lê Thị Sơn đã nêu lên một số vấn đề lý luận cơ bản về vấn đề tội
phạm học, làm r hơn khái niệm và đối tượng nghiên cứu của tội phạm học [99]...
Các công trình nghiên cứu pháp luật về xử lý kỷ luật: Bài viết "Sự khác
nhau cơ bản giữa kỷ luật lao động và kỷ luật công chức" - Tạp chí Luật học số 3
năm 2005 của tác giả Trần Thúy Lâm đã tập trung phân tích và làm sáng tỏ những
điểm khác nhau cơ bản giữa kỷ luật lao động và kỷ luật công chức, giúp cho việc
tìm hiểu và phân biệt hai khái niệm này được r ràng hơn trong quá trình thực hiện
và áp dụng pháp luật [66]. Bài viết "Khái niệm và bản chất pháp lý của kỷ luật lao
động" - Tạp chí Luật học số 9 năm 2006 của tác giả Trần Thúy Lâm đã tập trung
phân tích và làm sáng tỏ khái niệm cũng như bản chất của kỷ luật lao động [67]. Bài
viết "Một số vấn đề về kỷ luật cán bộ, công chức" - Tạp chí Luật học số 6 năm 2010
của tác giả Bùi Thị Đào đã tập trung làm r những vấn đề lý luận cơ bản về kỷ luật
đối với cán bộ, công chức nhà nước theo quy định pháp luật hiện hành [51]...
Các công trình nghiên cứu pháp luật về XLV L dân sự: Bài viết "Bàn về
khái niệm trách nhiệm vật chất của công chức" - Tạp chí Luật học số 10 năm 2006
của tác giả Trần Thị Hiển đã tập trung phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề cơ
bản về trách nhiệm vật chất của công chức theo quy định của pháp luật [58]. Bài
viết "Về sự tương đồng và khác biệt giữa nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự" -
Tạp chí Luật học số 10 năm 2006 của tác giả hạm Văn Tuyết đã tập trung phân
tích và so sánh những điểm tương đồng cũng như những điểm khác biệt giữa nghĩa
vụ dân sự và trách nhiệm dân sự, giúp cho việc phân biệt hai khái niệm này được r
hơn trong thực ti n [87]...
Bên cạnh đó, giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Luật Hành chính,
Luật Hình sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hình sự... của Trường Đại học
Luật Hà Nội đã cung cấp những nội dung cơ bản trên cơ sở quy định của pháp luật
về từng ngành luật ở nước ta, trong đó, các loại V L nói chung vi phạm hành
chính, tội phạm, vi phạm kỷ luật, V L dân sự, V L của cán bộ, công chức trong
khi thi hành công vụ, V L gây thiệt hại về vật chất trong cơ quan nhà nước đã
được trình bày chi tiết, cụ thể dưới góc độ nghiên cứu của từng ngành luật [93-96].
Đây chính là cơ sở quan trọng góp phần tìm hiểu, nghiên cứu về khái niệm, bản
chất, vai trò của pháp luật nội dung đối với các loại V L.
Nhìn chung, các công trình khoa học, bài viết nêu trên đã tập trung nghiên
cứu làm r vấn đề V L và XLV L trong đời sống xã hội. Các vấn đề được đề
cập khá đa dạng và phong phú, trên cơ sở lý luận và thực ti n, giúp cho chúng ta có
21
cách nhìn tổng thể về các loại V L cũng như hoạt động XLV L nói chung. Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến từng loại V L theo
quy định pháp luật, chưa đề cập đến các loại V L trong một lĩnh vực nhất định, cụ
thể như lĩnh vực TH DS.
1.1.3. Hoàn thiện pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành
án dân sự
Có thể nói, việc nghiên cứu về pháp luật cũng như vấn đề hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS ở Việt Nam là một hoạt động còn rất mới m , chưa
được quan tâm đầy đủ và mới chỉ được nghiên cứu ở mức độ nhất định. Một số
công trình, bài viết liên quan trực tiếp đến vấn đề này như sau:
Bài viết "Một số ý kiến về cơ chế và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt
động thi hành án dân sự" của tác giả Nguy n Quang Thái đăng trên Số chuyên đề
về TH DS - Tạp chí dân chủ và pháp luật năm 2007 đã nêu lên một số nội dung cơ
bản về cơ chế XLV L và vấn đề XLV L trong hoạt động TH DS như: Cơ chế
và hình thức xử lý đối với hành vi không thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản án,
quyết định của Tòa án; cơ chế và hình thức xử lý đối với hành vi cố ý cản trở,
chống đối người thi hành công vụ trong hoạt động TH DS; đồng thời, nêu lên một
số vấn đề về thực trạng V L đối với hoạt động TH DS như: tình trạng coi thường
pháp luật của người phải TH , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tình trạng
cơ quan nhà nước không gương mẫu, cản trở việc TH ; cá nhân và cơ quan chưa
nhìn nhận đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác TH ; tình trạng ngân
hàng, tổ chức tín dụng, tài chính, bảo hiểm chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình
trong hoạt động TH . Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của việc XLV L trong TH DS như: xác định r các hành vi V L
về TH DS bằng các quy định cụ thể của pháp luật; phân loại cụ thể các chủ thể để
có biện pháp xử lý phù hợp; quy định r thẩm quyền XLV L trong hoạt động
TH DS; các cơ quan tư pháp cần phải kiên quyết đưa ra và xét xử nghiêm những
trường hợp cản trở, chống đối và không chấp hành án; quy định r chế tài đối với
các trường hợp bỏ lọt tội phạm liên quan đến hoạt động TH DS. Tuy nhiên, nội
dung bài viết mang tính khái quát, chưa đề cập đến từng vấn đề một cách cụ thể và
chi tiết, mới chỉ dừng lại ở một số ý kiến về cơ chế và XLV L trong TH DS. Các
hành vi V L trong TH DS mới chỉ được đề cập một cách chung chung, chưa bao
hàm đầy đủ các loại hành vi V L cụ thể trong TH DS. Vấn đề thực trạng
XLV L trong TH DS cũng mới chỉ được đề cập ở mức độ nhất định, chủ yếu
22
phân tích, đánh giá ở nhận thức, thái độ V L mà chưa đề cập đến mức độ hoàn
thiện của pháp luật, sức mạnh của chế tài. Các giải pháp nêu ra chủ yếu nhằm mục
đích tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và cũng mới chỉ dừng
lại ở đề xuất xử lý nghiêm các trường hợp V L mà không đề cập đến yêu cầu cần
phải hoàn thiện nội dung, hình thức pháp luật về XLV L trong TH DS [83].
Luận án tiến sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay" của tác giả Nguy n Thanh Thủy cũng đã đề cập đến vấn đề XLV L
trong TH DS khi phân tích nội dung pháp luật TH DS nhưng chỉ mang tính khái
quát một cách chung nhất, trong đó tác giả mới chỉ nêu vấn đề XLV L trong
TH DS là một nội dung của pháp luật TH DS mà chưa phân tích sâu dưới góc độ
lý luận cũng như thực ti n. Do đó, trong phần đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về TH DS đã không đề cập đến nội dung hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS. Điều này là không hợp lý và tương thích với thực ti n cũng như vai
trò, ý nghĩa của việc XLV L đối với hoạt động TH DS [84].
Bài viết "Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân
sự" của tác giả Hoàng Quốc - Số chuyên đề về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 8 năm 2011 đã tập trung phân tích
các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực TH DS, trong đó, tác giả đã nêu lên khái niệm về thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính nói chung, từ đó, tập trung làm r vai trò của từng chủ thể có thẩm
quyền theo quy định pháp luật trong việc xử phạt các vi phạm hành chính trong hoạt
động TH DS. Tuy nhiên, nội dung bài viết chủ yếu mang tính chất nêu các quy định
pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực TH DS mà chưa
phân tích sâu, làm r những ưu điểm cũng như hạn chế trong các quy định này [33].
Bên cạnh đó, một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí cũng có đề cập đến
vấn đề XLV L trong TH DS nhưng mang tính riêng biệt và mới chỉ đề cập ở một
số vụ việc V L cụ thể trong hoạt động TH DS mà chưa có sự nghiên cứu cần
thiết về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu về pháp luật TH DS ở các nước trên thế giới
như đã nêu ở trên có đề cập đến các quy định pháp luật về XLV L trong TH DS
của các nước này nhưng chủ yếu chỉ đề cập đến quyền hạn, trách nhiệm của Chấp
hành viên, Thừa phát lại hoặc Thẩm phán TH trong quá trình thực thi nhiệm vụ
được tự mình hoặc đề nghị các cơ quan chức năng xử lý những trường hợp V L
trong TH DS mà chưa có sự đánh giá tổng thể, sâu rộng về vấn đề này.
23
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học, bài viết liên quan trực
tiếp đến vấn đề hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS như nêu trên, có
thể nhận thấy một số ưu điểm và hạn chế như sau:
V ưu đ ể :
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đều cho rằng XLV L trong TH DS
là một trong những nội dung quan trọng của pháp luật về XLV L trong TH DS
và việc xử lý nghiêm đối với các V L trong TH DS là rất cần thiết. Đây là quan
điểm đúng đắn và cần phải tiếp thu, phát triển trong quá trình nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đều đánh giá tình trạng V L trong
TH DS hiện nay di n ra khá phổ biến, trong đó có cả các V L từ phía người phải
TH , người được TH , người có quyền lợi liên quan và từ phía các cơ quan thực
thi quyền lực nhà nước trong lĩnh vực TH DS. Các hành vi V L rất đa dạng bao
gồm nhiều loại V L trong đời sống xã hội như vi phạm hành chính, phạm tội, vi
phạm kỷ luật, V L gây thiệt hại trong thi hành công vụ trong TH DS... Những
đánh giá này đã phần nào phản ánh được tình trạng V L trong TH DS. Trong quá
trình nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS cần tìm
hiểu và làm sáng tỏ, đầy đủ hơn về tình trạng V L trong TH DS, mức độ ảnh
hưởng và tác động tiêu cực của nó đối với hoạt động TH DS cũng như đối với đời
sống xã hội nói chung.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu đã nêu lên yêu cầu của thực ti n đang đặt
ra hiện nay là cần phải tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm đối với các trường hợp
VPPL trong TH DS. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực ti n công tác TH DS
hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu luận án cần tiếp thu và phát triển nội dung này
nhằm xây dựng các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
V c ế:
Có quá ít công trình khoa học, bài viết nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS. Điều này cho thấy mức độ nhận thức về vai trò, ý
nghĩa của hoạt động XLV L trong TH DS chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế,
đồng thời, việc đánh giá về thực trạng pháp luật cũng như thực trạng XLV L trong
TH DS hiện nay là chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực ti n cũng
như yêu cầu tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS nói chung.
24
Các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan mới chỉ tập trung phân tích,
tìm hiểu về một số loại V L phổ biến trong TH DS như vi phạm hành chính,
phạm tội mà chưa nghiên cứu sâu về các loại V L khác trong TH DS như vi
phạm quy định pháp luật dân sự, vi phạm kỷ luật, V L gây thiệt hại trong khi thi
hành công vụ, V L gây thiệt hại về vật chất và tác động, ảnh hưởng của những
V L này đối với hoạt động TH DS. Điều này cũng chưa phù hợp và đáp ứng
được đòi hỏi của thực ti n thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay.
Có thể nói, việc tìm hiểu, nghiên cứu về các loại V L, việc XLV L và
mức độ ảnh hưởng, tác động của các V L đối với công tác TH DS là chưa đầy đủ
và còn rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu
đầy đủ, chuyên sâu về vấn đề này, trên cơ sở đó xây dựng và đề xuất các giải pháp
để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan chưa nêu lên được tầm quan
trọng của các quy định pháp luật cũng như chưa đặt ra vấn đề cần phải hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS. Do đó, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần có sự
nghiên cứu sâu, đầy đủ và toàn diện về lý luận cũng như thực ti n đối với việc hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Trên cơ sở đó, xây dựng và đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, bổ sung vào kho
tàng lý luận về pháp luật TH DS nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.
Có nhiều nội dung cần nghiên cứu, tìm hiểu và làm r về vấn đề hoàn thiện
pháp luật XLV L trong TH DS nhưng chưa được đề cập đến trong các công trình
nghiên cứu như: Khái niệm, đặc điểm, nội dung, mục tiêu, tiêu chí và nguyên tắc
hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS... Đây là một khoảng trống và đang
đặt ra yêu cầu cần phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu để làm r trong quá trình nghiên
cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Thực tế hiện nay cho thấy, vấn đề XLV L trong TH DS có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong công tác TH DS nói riêng và trong đời sống xã hội nói
chung. Hoạt động XLV L hiệu quả sẽ góp phần ngăn chặn, hạn chế đến mức có
thể các V L trong TH DS. Đồng thời, qua việc XLV L, ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, công chức và người dân được nâng cao, để từ đó, tự ý thức được
trách nhiệm pháp luật của mình và không thực hiện các hành vi V L.
háp luật về XLV L trong TH DS hoàn thiện là cơ sở và nền tảng cho
việc XLV L trong TH DS được đúng đắn, hiệu quả, đồng thời, góp phần nâng
cao hiệu quả trong công tác TH DS. Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện
25
pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay"
có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực ti n, góp phần bổ sung vào lý luận về
TH DS, pháp luật về TH DS, pháp luật về XLV L nói chung, đồng thời, góp
phần khắc phục những thiếu sót và khoảng trống của những công trình nghiên cứu
trước đây có liên quan đến vấn đề này. Quá trình thực hiện luận án sẽ cố gắng
nghiên cứu, làm r những vấn đề lý luận và cơ sở thực ti n của việc hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Hiện nay, có rất ít công trình khoa học, bài viết nghiên cứu vấn đề hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Một số công trình liên quan mới chỉ đề
cập đến những vấn đề chung và khái quát như: V L và các biện pháp XLV L
trong đời sống xã hội nói chung, những vấn đề về pháp luật TH DS, những nội
dung cơ bản về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam...
2. Có rất nhiều nội dung cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ nhưng chưa
được đề cập trong các công trình nghiên cứu trước đó như: Khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa của XLV L đối với hoạt động TH DS; khái niệm, đặc điểm, nội dung và
hình thức thể hiện của pháp luật XLV L trong TH DS; mục tiêu, đặc điểm, nội
dung, ý nghĩa, tiêu chí và nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS... Đây là một khoảng trống và đang đặt ra yêu cầu cần phải có sự nghiên
cứu, tìm hiểu và làm r trong quá trình nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về
XLVPPL trong THADS.
3. Đề tài "Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành
án dân sự ở Việt Nam hiện nay" sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích và làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa của XLV L trong TH DS đối với hoạt động TH DS;
khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật về XLV L
trong TH DS; khái niệm, mục tiêu, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa, tiêu chí và nguyên
tắc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ; thực trạng pháp luật và thực
trạng của việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, để từ việc nghiên
cứu đó, xây dựng và đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS. Đây chính là những điểm mới và là những đóng góp quan
trọng của luận án.
26
C ươ g 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP
LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1.1. Khái niệm xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
XLV L trong TH DS là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
nhà nước và cá nhân có thẩm quyền nhằm xử lý bằng các hình thức, biện pháp khác
nhau theo quy định pháp luật đối với chủ thể thực hiện hành vi V L xâm phạm
các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động TH DS. Căn cứ thực ti n
để XLV L trong TH DS chính là V L trong TH DS [93]. Do đó, để hiểu được
bản chất của vấn đề XLV L trong TH DS thì trước hết cần tìm hiểu về V L
trong THADS.
V L là một hiện tượng phức tạp của đời sống xã hội. Thực chất, V L là
những hành vi tiêu cực của một số cá nhân, tổ chức đi ngược lại ý chí của Nhà
nước, quyền và lợi ích chính đáng của xã hội, cộng đồng. Những hành vi đó luôn
gây hại cho Nhà nước, xã hội và công dân, do vậy, chúng luôn bị lên án và đấu
tranh nhằm ngăn chặn, loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội [93]. V L trong TH DS
cũng cần phải bị xử lý, bảo đảm cho hoạt động TH DS di n ra phù hợp với pháp
luật, đạt được công lý trên thực tế.
TH DS là một dạng hoạt động mang tính hành chính - tư pháp của Nhà
nước, do cơ quan TH DS thực hiện và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước.
Mục đích của hoạt động TH DS là nhằm thực hiện đầy đủ, kịp thời những bản án,
quyết định dân sự được đưa ra thi hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Hoạt động TH DS có vai trò, ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội, bảo đảm thực
thi các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự trên thực tế, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng cũng như hoạt động áp dụng pháp luật nói chung,
đồng thời, góp phần bảo đảm trật tự, công bằng xã hội, nâng cao ý thức pháp luật
của cán bộ và nhân dân [21].
Cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong TH DS khó tránh
khỏi những V L cần có cơ chế pháp luật để đấu tranh và loại bỏ. V L trong
TH DS có những dấu hiệu của V L nói chung, đồng thời, có những đặc điểm
riêng xuất phát từ đặc thù của tổ chức và hoạt động TH DS:
27
Trước hết, có thể nói, V L trong TH DS là những hành vi trái pháp luật,
gây nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực TH DS, xâm hại trật tự về tổ chức và hoạt
động TH DS được pháp luật về TH DS xác lập, bảo vệ. Hành vi V L trong
TH DS có thể biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Đó là những
phản ứng, cách ứng xử của chủ thể trái với pháp luật về TH DS được biểu hiện ra
bên ngoài trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định, được hình thành trên cơ sở
nhận thức và khả năng kiểm soát của chủ thể về hành vi của mình. Hành vi trái pháp
luật TH DS tuy ở những mức độ khác nhau nhưng đều nguy hiểm và gây hại cho
xã hội. Hậu quả của hành vi trái pháp luật trong TH DS chính là những thiệt hại
trong thực tế, có thể là những thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc những thiệt hại
khác cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật trong TH DS được
xác định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây hại
cho xã hội mà hành vi đó gây ra. Hành vi trái pháp luật trong TH DS và hậu quả
trong thực tế sự thiệt hại cho xã hội có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hậu quả
hay sự thiệt hại trong thực tế là do hành vi trái pháp luật TH DS trực tiếp gây ra,
nói cách khác, sự thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả trực tiếp và tất yếu của hành
vi VPPL trong THADS [93].
Hành vi trái pháp luật trong TH DS chính là những hành vi xâm hại các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực TH DS được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Đó là những quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động TH DS, được coi
là khách thể có thể bị xâm hại bởi những hành vi trái pháp luật [93]. Khách thể của
V L trong TH DS rất đa dạng, bao gồm toàn bộ những vấn đề về tổ chức và hoạt
động TH DS; quản lý nhà nước về TH DS; trình tự, thủ tục TH DS; các mối
quan hệ trong TH DS. Trong đó có các mối quan hệ bên trong mối quan hệ giữa
các cơ quan quản lý nhà nước về TH DS; mối quan hệ giữa các cơ quan TH DS;
mối quan hệ nội tại trong mỗi cơ quan TH DS; mối quan hệ giữa các cơ quan
TH DS với người phải TH , người được TH và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc TH và các mối quan hệ bên ngoài mối quan hệ giữa các cơ
quan TH DS với các cơ quan tiến hành tố tụng Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân ; mối quan hệ giữa các cơ quan TH DS với các cơ quan,
đơn vị, cá nhân tham gia quá trình THADS).
Sự phân tích ở trên cho thấy đặc điểm riêng cho phép phân biệt V L trong
TH DS với V L trong những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, phản ánh đặc thù
trong tổ chức và hoạt động của TH DS.
28
Chủ thể thực hiện hành vi V L của mình trong TH DS có thể là cá nhân
hoặc tổ chức có năng lực TN L, tức là có khả năng chịu trách nhiệm đối với hành
vi V L trong TH DS và được xác định là hành vi trái pháp luật có lỗi cố ý hoặc
vô ý [93]. Trong quá trình TH DS luôn tồn tại những mối quan hệ khác nhau như
đã nêu trên, do đó, chủ thể V L trong TH DS rất đa dạng và phức tạp, có thể là bất
cứ chủ thể nào tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật về TH DS xác lập và
bảo vệ như: Thủ trưởng cơ quan TH DS, Chấp hành viên, cán bộ, công chức TH DS;
người phải TH DS, người được TH DS, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến
việc TH ; cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp giải quyết việc TH DS.
Như vậy, có thể hiểu, VPPL trong THADS là hành vi trái pháp luật, có lỗi,
do chủ thể có năng lực TNPL thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
THADS, được pháp luật về THADS xác lập và bảo vệ.
Xét về bản chất, V L trong TH DS cũng tương tự các V L trong các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội, đều là những hành vi trái pháp luật, xâm hại các quan hệ xã
hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Tuy nhiên, V L trong TH DS khác với V L
trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ở chỗ, đó là những hành vi trái pháp luật, được
thực hiện bởi những chủ thể tham gia trực tiếp trong quan hệ TH DS, xâm hại các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực TH DS và được pháp luật về TH DS xác lập, bảo vệ.
Căn cứ vào những quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS được pháp luật
xác lập, bảo vệ cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi V L xâm hại
những quan hệ xã hội đó, có thể phân loại và đưa ra khái niệm các V L trong
TH DS như sau:
Vi phạm hành chính trong THADS: là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước trong tổ chức và hoạt động TH DS mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Phạm tội trong THADS: là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực TH DS.
Vi phạm quy định pháp luật dân sự trong THADS: là những hành vi trái
pháp luật, có lỗi, xâm hại những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan đến
tài sản, quan hệ phi tài sản trong lĩnh vực TH DS.
Vi phạm kỷ luật trong THADS: là hành vi trái với những quy chế, quy tắc
xác lập trật tự trong tổ chức và hoạt động TH DS.
29
VPPL gây thiệt hại trong thi hành công vụ trong THADS: là hành vi trái
pháp luật của cán bộ, công chức của cơ quan TH DS trong thi hành công vụ, không
thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của pháp luật
gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân.
VPPL gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan THADS: là hành vi VPPL, làm
mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc gây ra thiệt hại về tài sản của cơ quan
TH DS nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
V L trong TH DS là sự kiện pháp lý và là cơ sở thực tế để truy cứu
TN L trong TH DS [93]. Căn cứ vào các loại V L trong TH DS như đã nêu
trên, có thể phân chia và đưa ra khái niệm về các loại TN L trong TH DS như sau:
Trách nhiệm hành chính trong THADS: là loại TN L do các cơ quan nhà nước
hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động TH DS.
Trách nhiệm hình sự trong THADS: là loại TN L nghiêm khắc nhất do Tòa
án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội trong TH DS đã được Bộ
luật hình sự quy định.
Trách nhiệm dân sự trong THADS: là loại TN L do Tòa án hoặc chủ thể khác
được phép áp dụng đối với các chủ thể có hành vi trái pháp luật xâm hại những quan hệ tài
sản, quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản, quan hệ phi tài sản trong lĩnh vực TH DS.
Trách nhiệm kỷ luật trong THADS: là loại TN L do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng đối với cán bộ, công chức hoặc nhân viên TH DS khác vi
phạm kỷ luật trong TH DS.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong THADS: là loại TN L của cơ quan
TH DS thực hiện bồi thường cho cá nhân, tổ chức và cơ quan bị thiệt hại do cán
bộ, công chức TH DS gây ra trong khi thi hành công vụ.
Trách nhiệm hoàn trả của người gây thiệt hại trong thi hành công vụ trong
THADS: là loại TN L do cơ quan TH DS áp dụng đối với cán bộ, công chức
TH DS gây ra thiệt hại trong khi thi hành công vụ phải hoàn trả cho ngân sách nhà
nước một khoản tiền mà cơ quan TH DS đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo
quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Trách nhiệm vật chất trong THADS: là trách nhiệm bồi thường bằng tiền
của cán bộ, công chức hoặc nhân viên TH DS khác cho cơ quan TH DS bị thiệt
hại về tài sản do có hành vi trái pháp luật, làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị
hoặc gây ra thiệt hại về tài sản của cơ quan TH DS đó.
30
Có thể hiểu, TNPL trong THADS là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể
VPPL phải chịu do có hành vi VPPL trong THADS, được các QPPL về XLVPPL
trong THADS xác lập và điều chỉnh.
Như vậy, có thể nhận thấy, lĩnh vực TH DS cũng bao hàm đầy đủ trong nó
các loại V L và TN L khác nhau trong đời sống xã hội. Mỗi loại V L trong
TH DS được pháp luật quy định TN L tương ứng. Theo đó, các chủ thể khi tham
gia vào các quan hệ pháp luật TH DS mà có hành vi V L sẽ phải chịu hậu quả
pháp lý bất lợi TN L theo quy định pháp luật.
V L trong TH DS chính là căn cứ thực tế để tiến hành XLV L. Việc tiến
hành XLV L trong TH DS được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước và cá nhân
có thẩm quyền trên cơ sở các quy định pháp luật. Đó chính là hoạt động áp dụng
pháp luật nhằm xử lý chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật xâm phạm các quan hệ
xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động TH DS [93].
Căn cứ vào hành vi V L trong TH DS được pháp luật quy định, các cơ
quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi V L, những thiệt hại thực tế xảy ra do tác động của hành vi V L, từ
đó, lựa chọn hình thức và biện pháp xử lý phù hợp. Hoạt động XLV L trong
TH DS được thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, bao
gồm toàn bộ quá trình phát hiện hành vi V L, xác định thiệt hại cho xã hội do tác
động của hành vi V L đến việc xử lý, truy cứu TN L và tổ chức thi hành của các
cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền.
Như vậy, có thể hiểu, XLVPPL trong THADS là hoạt động áp dụng pháp
luật của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền, mang tính chất cưỡng
chế và thể hiện quyền lực nhà nước, nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi
VPPL trong THADS bằng những hình thức, biện pháp khác nhau và tổ chức thi
hành đối với việc XLVPPL đó theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.
Căn cứ vào các loại V L và TN L trong TH DS, có thể phân loại và hiểu
các biện pháp XLV L trong TH DS như sau:
XLVPPL hành chính trong THADS: là hoạt động quản lý nhà nước mang
tính chế tài, cưỡng chế hành chính của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định pháp luật đối với những hành vi vi
phạm hành chính trong TH DS.
Xử lý tội phạm hình sự trong THADS: là hoạt động truy cứu trách nhiệm
hình sự, kết tội và áp dụng hình phạt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
31
người đã thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực TH DS.
XLVPPL dân sự trong THADS: là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án
hoặc chủ thể khác có thẩm quyền nhằm buộc những chủ thể thực hiện hành vi trái
pháp luật xâm hại những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan đến tài
sản, quan hệ phi tài sản trong TH DS phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy
định pháp luật.
Xử lý vi phạm kỷ luật trong THADS: là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm buộc cán bộ, công chức hoặc nhân viên TH DS
khác phải chịu trách nhiệm kỷ luật theo quy định pháp luật do đã thực hiện hành vi
trái với những quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong tổ chức và hoạt động THADS.
XLVPPL gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ về THADS: là hoạt động áp
dụng pháp luật của cơ quan TH DS trong việc thực hiện trách nhiệm bồi thường
thiệt hại và buộc cán bộ, công chức TH DS thực hiện nghĩa vụ hoàn trả theo quy
định của pháp luật do đã thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trong khi thi
hành công vụ.
XLVPPL gây thiệt hại cho cơ quan THADS: là hoạt động áp dụng pháp luật
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm buộc cán bộ, công chức hoặc nhân viên
TH DS khác bồi thường về tài sản do có hành vi trái pháp luật làm mất mát, hư
hỏng trang bị, thiết bị hoặc gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan TH DS nhưng chưa
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
XLV L trong TH DS là một hoạt động có tính chất phức tạp, đòi hỏi
việc áp dụng pháp luật phải đúng đắn và chính xác. Theo đó, việc XLV L trong
TH DS phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau:
Một là, chỉ XLV L đối với những hành vi trái pháp luật xâm hại các quan
hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS được pháp luật quy định.
Hai là, phải luôn bảo đảm được nguyên tắc pháp chế trong hoạt động
XLVPPL trong THADS.
Ba là, phải bảo đảm sự công bằng và nhân đạo trong hoạt động XLV L
trong THADS.
Bốn là, phải bảo đảm tính phù hợp khi XLV L trong TH DS, tức là phải
bảo đảm sự phù hợp của các Q L được áp dụng, sự tương thích giữa biện pháp trừng
phạt của nhà nước và tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi V L trong TH DS...
Năm là, việc XLV L trong TH DS phải được tiến hành kịp thời, nhanh
chóng, công minh, chính xác theo đúng quy định của pháp luật và phải đạt kết quả cao.
32
Như vậy, V L trong TH DS là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm
hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS, được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Chủ thể thực hiện hành vi V L trong TH DS phải chịu TN L do pháp luật quy
định. Quá trình phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi V L trong TH DS bằng
những hình thức, biện pháp khác nhau và tổ chức thi hành trên thực tế chính là hoạt
động XLV L trong TH DS.
2.1.2. Những đặc điểm cơ bản của xử l vi phạm pháp luật trong thi
hành án dân sự
Qua tìm hiểu khái niệm XLV L và các biện pháp XLV L trong TH DS,
có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản của XLV L trong TH DS như sau:
XLVPPL trong THADS là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà
nước và cá nhân có thẩm quyền mà nội dung chủ yếu của nó là áp dụng các biện
pháp chế tài mang tính cưỡng chế và thể hiện quyền lực nhà nước theo quy định
pháp luật đối với chủ thể VPPL trong THADS.
háp luật quy định XLV L là hoạt động chỉ được tiến hành bởi các cơ quan
nhà nước và cá nhân có thẩm quyền. Nói cách khác, pháp luật chỉ trao quyền cho một
số chủ thể nhất định tiến hành xử lý đối với những hành vi V L được pháp luật quy
định là phải xử lý. Trên cơ sở những quy định pháp luật và căn cứ vào hành vi V L
trong TH DS, các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền sử dụng các biện pháp khác nhau
có tính chất cưỡng chế nhằm trừng phạt đối với những hành vi V L trong TH DS.
Đó chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể V L trong TH DS phải chịu do đã
thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật về
TH DS xác lập và bảo vệ. Do đó, XLV L trong TH DS trước hết là hoạt động áp
dụng pháp luật của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền, trong đó, các chủ thể
này sử dụng quyền của mình được pháp luật quy định để tiến hành xử lý đối với những
V L trong TH DS bằng việc lựa chọn hình thức và biện pháp xử lý tương ứng đối
với hành vi V L được pháp luật quy định. Điều này cho thấy hoạt động XLV L
trong TH DS gắn liền với vai trò và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và cá
nhân được pháp luật trao quyền áp dụng pháp luật về XLV L trong TH DS.
XLVPPL trong THADS là quá trình bao gồm toàn bộ các hoạt động phát
hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi VPPL trong THADS bằng những hình thức, biện
pháp khác nhau và tổ chức thi hành đối với việc XLVPPL đó theo quy định pháp
luật.
Hành vi V L trong TH DS phải được phát hiện kịp thời và xử lý theo quy
định của pháp luật nhằm đấu tranh, ngăn chặn, loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội, đồng
33
thời để phòng ngừa những V L tương tự có thể xảy ra. Khi phát hiện các hành vi
V L trong TH DS, cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm
áp dụng các quy định pháp luật để ngăn chặn, xử lý các V L đó, đồng thời, tổ chức
thực hiện đối với việc xử lý đó trên thực tế. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi V L
trong TH DS phải chịu TN L tương ứng theo quy định của pháp luật. háp luật quy
định cụ thể các loại TN L cũng như các hình thức và biện pháp xử lý tương ứng đối
với mỗi loại V L trong TH DS. Việc xử lý đối với những hành vi V L cụ thể
trong TH DS được hiểu là hoạt động của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm
quyền nhằm đưa ra quyết định xử lý đối với các hành vi V L trong TH DS bằng
các hình thức, biện pháp khác nhau và tổ chức thi hành việc xử lý đó trên thực tế, theo
trình tự, thủ tục được pháp luật quy định, thể hiện sự trừng phạt của pháp luật đối
với chủ thể V L. Hoạt động XLV L trong TH DS được tiến hành dựa trên căn
cứ thực tế là các V L trong TH DS, do các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền thực hiện và trên cơ sở các quy định của pháp luật về XLV L trong TH DS.
XLVPPL trong THADS chỉ được tiến hành khi có hành vi VPPL trong
THADS.
Như trên đã nói, căn cứ thực tế để XLV L trong TH DS là hành vi V L
trong TH DS. Có thể nói, chỉ khi có hành vi V L, xâm hại đến trật tự trong tổ
chức và hoạt động TH DS mới đặt ra yêu cầu XLV L trong TH DS. Đây cũng
chính là đặc điểm cơ bản để phân biệt việc XLV L trong TH DS với việc XLV L
trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội vì hoạt động XLV L trong TH DS
luôn gắn liền với các V L trong TH DS. Đây đồng thời cũng là một nguyên tắc
cần tuân thủ triệt để trong quá trình áp dụng pháp luật về XLV L trong TH DS.
Hoạt động XLVPPL trong THADS được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực
nhà nước.
háp luật XLV L trong TH DS quy định về V L và XLV L trong
lĩnh vực TH DS, đồng thời, cũng quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm cho việc
thực hiện các quy định đó trên thực tế. Do đó, toàn bộ quá trình xác định tính chất
và mức độ nguy hiểm của hành vi V L, hậu quả thực tế xảy ra do tác động của
hành vi V L, thẩm quyền XLV L, các hình thức và biện pháp XLV L cũng
như trình tự, thủ tục tiến hành XLV L đều phải tuân theo các quy định pháp luật
về XLV L trong TH DS. Mọi chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về TH DS đều
phải tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành các quy định đó. Cá nhân, tổ chức vi
phạm sẽ bị xử lý trách nhiệm tương ứng với hành vi V L của mình. Như vậy, có
34
thể nói, hoạt động XLV L trong TH DS phải được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật, mọi hành vi V L trong quá trình thực hiện XLV L trong TH DS
sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đây chính là sự bảo đảm bằng quyền lực
nhà nước, là sự bảo đảm bằng các Q L để hoạt động XLV L này được thực hiện
nghiêm minh, đúng đắn và trên cơ sở pháp luật.
Hoạt động XLVPPL trong THADS phải được tiến hành theo trình tự, thủ
tục chặt chẽ do pháp luật về XLVPPL trong THADS quy định.
Toàn bộ quá trình phát hiện ra hành vi V L trong TH DS, việc ngăn
chặn, xử lý, truy cứu TN L và tổ chức thi hành đối với việc xử lý các hành vi VPPL
đó của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền... đều được pháp luật về
XLV L trong TH DS quy định cụ thể bằng các Q L. Do vậy, hoạt động
XLV L trong TH DS phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ triệt để các quy
định của pháp luật về trình tự và thủ tục. Đó là các quy định bảo đảm cho hoạt động
XLV L trong TH DS được tiến hành một cách đúng đắn, đồng bộ, thống nhất và
trên cơ sở pháp luật. Do đó, bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào được Nhà
nước trao quyền trong việc thực hiện XLV L trong TH DS đều phải tuân theo.
Những hành vi vi phạm các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục XLV L trong
TH DS cũng sẽ bị xử lý trên thực tế. Đây cũng chính là một vấn đề mang tính
nguyên tắc trong việc XLV L trong TH DS.
Hoạt động XLVPPL trong THADS mang tính đặc thù cho phép phân biệt
với hoạt động XLVPPL trong những lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
TH DS là một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội nên tổ chức, hoạt động
TH DS có nhiều nét đặc thù và hoạt động XLV L trong TH DS có những nét
riêng biệt được quyết định bởi những đặc thù đó. Điều này cho phép chúng ta phân
biệt được hoạt động XLV L trong TH DS với hoạt động XLV L trong những
lĩnh vực khác của đời sống xã hội, được thể hiện ở một số điểm như sau:
Căn cứ pháp lý để XLV L trong TH DS là tổng thể các Q L về V L
và XLVPPL trong THADS.
Căn cứ thực ti n để XLV L trong TH DS là những hành vi V L xâm
hại trực tiếp các quan hệ xã hội trong tổ chức và hoạt động TH DS.
Chủ thể có thẩm quyền XLV L trong TH DS được pháp luật quy định cụ
thể theo từng loại V L cơ quan, tổ chức quản lý về TH DS; Thủ trưởng cơ quan
TH , Chấp hành viên; cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp giải quyết việc
TH ; các cơ quan tiến hành tố tụng .
35
Đối tượng bị XLV L trong TH DS đối tượng V L trong TH DS là
rất đa dạng và phức tạp, có thể là Thủ trưởng cơ quan TH , Chấp hành viên, cán
bộ, công chức TH ; người phải TH , người được TH , người có quyền, nghĩa vụ
liên quan đến việc TH ; cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp giải quyết
việc TH hoặc bất cứ chủ thể nào tham gia các quan hệ xã hội được pháp luật về
TH DS xác lập, bảo vệ…
Như vậy, XLV L trong TH DS cũng tương tự như hoạt động XLV L
trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ
quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền nhằm xử lý đối với các hành vi V L.
Bên cạnh đó, XLV L trong TH DS có những đặc thù, phản ánh được những nét
riêng của lĩnh vực TH DS. Đây chính là những đặc trưng cho phép phân biệt với
hoạt động XLV L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
2.1.3. Ý nghĩa của xử l vi phạm pháp luật đối với hoạt động thi hành
án dân sự
XLV L trong TH DS thực chất là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ
quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền nhằm xử lý đối với chủ thể thực hiện hành
vi V L trong TH DS bằng những hình thức, biện pháp khác nhau tương ứng với
mỗi loại V L. Do đó, có thể nói, XLV L trong TH DS là hoạt động căn bản và
có ý nghĩa, vai trò rất quan trọng đối với lĩnh vực TH DS nói riêng và đối với đời
sống xã hội nói chung, điều này được thể hiện cụ thể như sau:
XLVPPL trong THADS là hoạt động nhằm phòng ngừa, đấu tranh chống
VPPL trong lĩnh vực THADS.
Thực chất, XLV L trong TH DS là hoạt động phòng, chống V L trong
TH DS. Theo đó, những hành vi V L trong TH DS được phát hiện và xử lý trên
cơ sở các quy định pháp luật, bảo đảm tính đúng đắn và nghiêm minh của pháp luật.
Đó chính là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền nhằm đưa ra
xử lý trên thực tế những hành vi V L xâm hại đến tổ chức và hoạt động TH DS.
Hoạt động này thể hiện sự trừng phạt của Nhà nước và pháp luật đối với chủ thể đã
thực hiện hành vi V L trong TH DS. Qua việc xử lý đó, chủ thể thực hiện hành
vi V L trong TH DS phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi tương ứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật của mình. Từ đó, các chủ thể này sẽ
nhận thức được TN L của mình mà không thực hiện hành vi V L tương tự, đồng
thời, việc xử lý đó cũng sẽ tác động tới ý thức của những người khác về V L và
TN L khi tham gia các quan hệ TH DS để từ đó không V PL trong THADS.
36
Như vậy, hoạt động XLV L trong TH DS một mặt có tác dụng ngăn
chặn, tiến tới loại bỏ những V L trong TH DS, mặt khác có tác dụng phòng
ngừa, răn đe, hạn chế những hành vi V L tương tự. Do đó, có thể nói, hoạt động
XLV L trong TH DS hiệu quả sẽ góp phần giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã
hội trong lĩnh vực TH DS nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung. Đồng thời,
qua việc XLV L, ý thức chấp hành pháp luật về TH DS của người dân được
nâng cao, tự ý thức được trách nhiệm pháp luật của mình và không thực hiện các
hành vi VPPL trong THADS.
XLVPPL trong THADS là một hoạt động nhằm bảo đảm tính công bằng
trong lĩnh vực THADS.
háp luật về TH DS là ý chí của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực TH DS, là những quy tắc xử sự chung mà các chủ
thể khi tham gia vào quan hệ TH DS phải tuân theo. Khi tham gia quan hệ pháp
luật này, các chủ thể được hưởng quyền cũng như có trách nhiệm và nghĩa vụ tương
ứng theo quy định pháp luật. Mọi hành vi V L xâm hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác Nhà nước và công dân đều phải bị xử lý nghiêm minh, công
bằng và trên cơ sở pháp luật. XLV L trong TH DS là hoạt động thể hiện sự trừng
phạt của Nhà nước và pháp luật đối với hành vi V L trong TH DS nhằm bảo đảm
sự công bằng trong những quan hệ pháp luật TH DS đó. Đó cũng chính là cơ sở để
duy trì trật tự pháp luật và an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS.
XLVPPL trong THADS là hoạt động nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của
những bản án, quyết định được thi hành theo quy định của pháp luật về THADS.
Về nguyên tắc, những bản án, quyết định của Tòa án về vụ việc và vụ án
dân sự phải được đưa ra thi hành trên thực tế. TH DS là hoạt động nhằm đưa ra thi
hành đối với những bản án, quyết định đó. Tuy nhiên, việc thi hành những bản án,
quyết định này có thể bị ngăn cản, chống đối hoặc trì hoãn... bởi bất cứ cơ quan, tổ
chức hay cá nhân nào khi tham gia vào quan hệ pháp luật TH DS. Theo quy định
của pháp luật về XLV L trong TH DS thì mọi hành vi V L nhằm chống đối,
cản trở việc thi hành những bản án, quyết định đó đều phải bị xử lý bởi các cơ quan
nhà nước và cá nhân có thẩm quyền. Việc xử lý đối với những hành vi V L này có
tính chất ngăn chặn, loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội, tức là ngăn chặn và loại
bỏ việc chống đối, cản trở quá trình thi hành những bản án, quyết định dân sự của
cơ quan TH DS. Do đó, hoạt động XLV L này góp phần bảo đảm tính nghiêm
minh và hiệu lực thi hành của những bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành
37
trên thực tế.
XLVPPL trong THADS là hoạt động góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác THADS.
Việc xử lý nghiêm các V L trong TH DS có ý nghĩa và vai trò rất quan
trọng trong hoạt động TH DS, là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả và
chất lượng công tác TH DS. Trong thực ti n, có nhiều vụ việc TH DS rất phức
tạp, đương sự không tự nguyện chấp hành, cố tình chống đối, ngăn cản hoặc trì
hoãn việc TH . Việc xử lý nghiêm đối với những hành vi này là cơ sở để thi hành
dứt điểm những vụ việc TH phức tạp. Quá trình XLV L trong TH DS cũng sẽ
có tác động tích cực tới ý thức của những người phải TH , ngăn chặn và phòng
ngừa được những V L có thể xảy ra, để từ đó, người phải TH tự nguyện thi hành
nghĩa vụ pháp lý của mình.
XLVPPL trong THADS bảo đảm cho các quy định của pháp luật về THADS
được thực thi đúng đắn, nghiêm minh và hiệu quả trong thực tiễn.
XLV L trong TH DS là hoạt động áp dụng pháp luật của Nhà nước
nhằm đấu tranh ngăn chặn và phòng ngừa các V L trong lĩnh vực TH DS. Mục
đích của hoạt động áp dụng pháp luật đó là để duy trì trật tự pháp luật TH DS, đảm
bảo cho pháp luật được thực thi đúng đắn, nghiêm minh và hiệu quả trong đời sống
xã hội, không bị chống đối, ngăn cản, vi phạm hay làm sai lệch sự điều chỉnh của nó
trên thực tế. Những quy định của pháp luật TH DS phải được tuân thủ và nghiêm
chỉnh chấp hành. Những hành vi trái pháp luật, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của nhà nước và công dân trong lĩnh vực TH DS sẽ bị xử lý trên cơ sở pháp luật.
Qua hoạt động XLV L đó trên thực tế, ý thức pháp luật của các cơ quan, tổ chức,
cán bộ, công chức và người dân theo đó cũng được nâng cao và việc tuân thủ các
quy định pháp luật về TH DS từ đó cũng được triệt để hơn. háp luật về TH DS
được thực thi đúng đắn, nghiêm minh và hiệu quả là cơ sở đảm bảo cho công tác
TH DS được thực hiện chất lượng và hiệu quả, góp phần duy trì an ninh trật tự và
an toàn xã hội của đất nước.
XLVPPL trong THADS góp phần bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội
trong hoạt động THADS.
Như ở trên đã nói, mọi hành vi V L cần phải xử lý nghiêm trên thực tế,
nếu không, nó sẽ luôn có tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội và do đó, mục
đích của pháp luật trong việc điều chỉnh những quan hệ của đời sống xã hội sẽ
không đạt được. Hoạt động XLV L trong TH DS chính là nhằm bảo đảm cho trật
38
tự xã hội trong lĩnh vực TH DS di n ra một cách bình thường, trong khuôn khổ
pháp luật. Theo đó, mọi hành vi V L xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
TH DS xác lập và bảo vệ đều phải bị xử lý nghiêm minh. Đó chính là cơ sở để giữ
gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS nói riêng và trong đời
sống xã hội nói chung.
XLVPPL trong THADS là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo
dục và nâng cao ý thức pháp luật về THADS.
XLV L trong TH DS là hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật về
THADS, để những quy định pháp luật TH DS được thi hành và phát huy hiệu quả
trong thực ti n. Qua hoạt động XLV L, ý thức pháp luật về TH DS của những
người bị XLV L nói riêng và cán bộ, công chức, nhân dân nói chung được nâng
lên. Có thể nói, hoạt động XLV L trong TH DS là một hoạt động tuyên truyền,
giáo dục gián tiếp pháp luật về TH DS. Qua hoạt động XLV L trong TH DS,
những chủ thể tham gia quan hệ TH DS hiểu được r hơn về các hành vi bị coi là
V L và TN L đối với mỗi hành vi đó, từ đó có sự điều chỉnh hành vi, xử sự cho phù
hợp với các quy định pháp luật để không V L. Như vậy, hoạt động XLV L
trong TH DS một mặt góp phần nâng cao ý thức và hiểu biết pháp luật TH DS cho
cán bộ, công chức, nhân dân, mặt khác, đó chính là cơ sở để phòng, chống các V L
trong TH DS nói riêng và V L trong đời sống xã hội nói chung.
Tóm lại, XLV L trong TH DS là hoạt động áp dụng pháp luật có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng không chỉ đối với lĩnh vực TH DS mà còn đối với cả đời sống
xã hội nói chung. Việc tăng cường và nâng cao hiệu quả XLV L trong TH DS là
rất cần thiết và có tính thời sự cao trong thực ti n. Do đó, hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS luôn là một vấn đề có tính cấp bách và là đòi hỏi khách
quan của thực ti n hiện nay.
2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN CỦA
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.2.1. Khái niệm pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành
án dân sự
TH DS là hoạt động thực thi pháp luật mà nội dung chủ yếu của nó là thi
hành những bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành theo quy định của pháp
luật. Tổ chức và hoạt động TH DS có nhiều nét đặc thù, vừa mang tính hành chính,
vừa mang tính tố tụng [21]. Hệ thống tổ chức TH DS bao gồm cơ quan quản lý
TH DS cơ quan quản lý TH DS thuộc Bộ Tư pháp, cơ quan quản lý TH thuộc Bộ
39
Quốc phòng và cơ quan TH DS cơ quan TH DS tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; cơ quan TH DS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cơ quan TH quân
khu và tương đương . Hoạt động TH DS là nhằm thi hành những bản án, quyết định
dân sự, bao gồm: Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính,
xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự,
phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải TH của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh, quyết định của Trọng tài thương mại, bản án, quyết định về cấp dưỡng,
trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức
lao động hoặc bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận
người lao động trở lại làm việc, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời...
Các quan hệ xã hội phát sinh trong TH DS rất đa dạng và phức tạp, trong đó bao
gồm cả các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức TH DS và các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động TH DS. Trong tổ chức TH DS, đó là các quan hệ xã hội
mang tính hành chính - nhà nước, thể hiện trong việc quản lý nhà nước về TH DS,
trong đó có sự tham gia của các cơ quan quản lý về TH DS, các cơ quan TH DS,
các cơ quan, đơn vị hữu quan tham gia, phối hợp trong TH DS. Trong hoạt động
TH DS, đó là các quan hệ xã hội mang tính tố tụng, thể hiện trong việc tổ chức thi
hành các bản án, quyết định dân sự của các cơ quan TH , trong đó có sự tham gia
của cơ quan TH , các cơ quan, đơn vị hữu quan, Chấp hành viên, người phải TH ,
người được TH , người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc TH .
Các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động THADS là khách
thể có thể bị xâm hại bởi những hành vi V L trong TH DS. Chính bởi các quan
hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động TH DS là đa dạng nên V L trong
TH DS khá phức tạp, có thể xảy ra trong tất cả các mặt của TH DS bằng nhiều
loại hành vi VPPL khác nhau.
Hành vi V L, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật về TH DS xác
lập và bảo vệ sẽ bị xử lý bằng những hình thức, biện pháp khác nhau trên cơ sở
pháp luật. Hoạt động XLV L trong TH DS được điều chỉnh bởi nhiều Q L
khác nhau, liên quan đến pháp luật của nhiều chuyên ngành như: háp luật TH DS,
pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật tố tụng… Các
quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động TH DS vừa được pháp luật về
TH DS xác lập, bảo vệ, vừa được pháp luật nội dung khác xác lập, bảo vệ. Do đó,
để xác định hành vi V L và XLV L trong TH DS cần phải xem xét và áp dụng
40
Q L của nhiều chuyên ngành khác nhau. Có thể nói, pháp luật về XLV L trong
TH DS bao gồm toàn bộ các Q L trong các luật chuyên ngành khác nhau điều
chỉnh về V L và hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Như vậy, có thể hiểu, pháp luật về XLVPPL trong THADS là tổng thể các
QPPL điều chỉnh hoạt động xử lý đối với những hành vi VPPL xâm hại các quan hệ
xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động THADS, bao gồm các quy định về
VPPL; TNPL; đối tượng chịu TNPL; thời hiệu truy cứu TNPL; các hình thức và
biện pháp XLVPPL; thẩm quyền XLVPPL; trình tự, thủ tục XLVPPL và giải quyết
khiếu nại, tố cáo về XLVPPL trong THADS.
háp luật về XLV L trong TH DS luôn có vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội nói chung và trong lĩnh vực TH DS nói riêng. háp luật về XLV L
trong TH DS là phương tiện thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, là phương tiện để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, công bằng xã hội
và là cơ sở để tăng cường quản lý nhà nước về TH DS. Đó đồng thời cũng là cơ sở
pháp lý để tiến hành xử lý đối với chủ thể thực hiện hành vi V L trong TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng chính là cơ sở để thiết lập, củng cố và
tăng cường trật tự xã hội trong tổ chức, hoạt động TH DS, là cơ sở đảm bảo quyền,
lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan, đơn vị hữu quan trong hoạt động TH DS và có vai trò to lớn trong việc giáo
dục ý thức pháp luật đối với cán bộ và nhân dân. Bởi vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu
và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS luôn
có ý nghĩa quan trọng trong thực ti n xã hội ở nước ta hiện nay.
2.2.2. Đặc điểm pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án
dân sự
háp luật về XLV L trong TH DS có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Pháp luật về XLVPPL trong THADS là tổng thể các QPPL điều chỉnh hoạt
động xử lý đối với những hành vi trái pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực THADS.
háp luật về XLV L trong TH DS là tổng thể các Q L về V L, TN L,
đối tượng chịu TN L, thời hiệu truy cứu TN L, các hình thức và biện pháp XLV L,
thẩm quyền XLV L, trình tự, thủ tục XLV L và giải quyết khiếu nại, tố cáo về
XLV L trong TH DS. V L trong TH DS bao hàm đầy đủ các loại V L trong
đời sống xã hội như: Vi phạm hành chính, tội phạm hình sự, vi phạm dân sự, vi phạm
kỷ luật, V L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ, V L gây thiệt hại về vật
41
chất trong cơ quan TH DS. háp luật về XLV L trong TH DS bao gồm toàn bộ
các Q L điều chỉnh hoạt động xử lý đối với mỗi loại V L đó. Trong đó, nội
dung các Q L liên quan đến pháp luật của nhiều chuyên ngành, như: háp luật
TH DS, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật tố
tụng... Tùy vào từng vụ, việc cụ thể mà hoạt động XLV L trong TH DS được
thực hiện đúng đắn, phù hợp với các Q L điều chỉnh trong từng lĩnh vực đó.
Hệ thống QPPL về VPPL và XLVPPL trong THADS phản ánh đặc thù
trong tổ chức và hoạt động THADS.
Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS rất đa dạng và phức tạp. Điều
này được chi phối bởi những đặc thù trong tổ chức và hoạt động TH DS, vừa mang
tính hành chính, vừa mang tính tố tụng. háp luật về XLV L trong TH DS là
tổng thể các Q L mà nội dung chủ yếu của nó là các quy định về hoạt động xử lý
đối với các hành vi V L xâm hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS, bao
gồm: XLV L hành chính, xử lý tội phạm hình sự, XLV L dân sự, xử lý vi phạm
kỷ luật, xử lý đối với hành vi V L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ, xử lý
đối với hành vi V L gây thiệt hại về tài sản trong cơ quan TH DS. Những V L
và việc xử lý đối với những V L này thuộc về lĩnh vực TH DS mà không phải
bất cứ một lĩnh vực nào khác của đời sống xã hội. Do đó, những quy định pháp luật
này luôn phản ánh được những đặc thù về tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực
TH DS. Đặc điểm này cũng cho phép phân biệt pháp luật về XLV L trong
TH DS với pháp luật về XLV L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS quy định hoạt động thực hiện quyền
lực nhà nước nhằm xử lý đối với chủ thể thực hiện hành vi VPPL xâm hại trật tự
THADS bằng các hình thức và biện pháp tương ứng.
XLV L trong TH DS thực chất là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước
của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền nhằm xử lý đối với chủ thể thực
hiện hành vi V L trong TH DS bằng các hình thức, biện pháp được pháp luật quy
định. Các Q L điều chỉnh hoạt động XLV L trong TH DS rất đa dạng, liên quan
đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, do đó, việc thực hiện và áp dụng pháp luật đòi
hỏi phải chính xác và đúng đắn, trên cơ sở pháp luật, tránh việc tùy tiện trong áp dụng
pháp luật và oan sai trong việc XLV L. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, chủ
thể có thẩm quyền được pháp luật trao quyền xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi V L trong TH DS, những thiệt hại cho xã hội do tác động của hành vi
V L, từ đó, áp dụng, lựa chọn các biện pháp xử lý tương ứng theo quy định pháp
42
luật nhằm trừng phạt đối với hành vi V L đó. Đó chính là hoạt động thực hiện
quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước và cá nhân được pháp luật trao quyền
XLV L trong TH DS. Theo đó, các chủ thể đã thực hiện hành vi trái pháp luật
xâm hại đến trật tự TH DS phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi V L của
mình. Việc xác định hành vi V L và quá trình xử lý đối với hành vi đó được thực
hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật về XLV L trong TH DS.
Nội dung của pháp luật về XLVPPL trong THADS rất đa dạng và phong phú.
Thực chất, pháp luật về XLV L trong TH DS là tổng thể các Q L về
V L và quá trình xử lý đối với những hành vi V L xâm hại tổ chức và hoạt động
TH DS. Toàn bộ các nội dung này được quy định theo từng chế định pháp luật về
mỗi loại V L trong TH DS. Do đó, pháp luật về XLV L trong TH DS luôn
phản ánh những nét đặc thù trong tổ chức và hoạt động TH DS, đồng thời, nó cũng
được chi phối bởi những đặc thù đó. Điều này cho thấy sự phức tạp, đa dạng và
phong phú trong nội dung pháp luật về XLV L trong TH DS vì các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực TH DS vốn đã đa dạng và phức tạp.
Hình thức của pháp luật về XLVPPL trong THADS cũng rất đa dạng, gồm
nhiều văn bản QPPL với những thứ bậc khác nhau.
háp luật về XLV L trong TH DS không phải là một đạo luật chung,
thống nhất về XLV L trong TH DS mà nó được quy định trong rất nhiều văn bản
Q L khác nhau, liên quan đến nhiều luật chuyên ngành, như: pháp luật TH DS,
pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật tố tụng... V L
và các biện pháp XLV L trong TH DS được quy định ở nhiều văn bản Q L với
các thứ bậc khác nhau, từ các bộ luật Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao
động... , luật Luật TH DS, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật Cán bộ, công
chức, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước... đến các nghị định, thông tư
Nghị định số 81/2013/NĐ-C của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính; Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày
24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ
trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, TH DS, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã; Nghị định số 34/2011/NĐ-C ngày 17/5/2011 của Chính phủ
quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức; Nghị định số 118/2006/NĐ-C ngày
10/10/2006 của Chính phủ về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức;
Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-BNV-BTC ngày 20/05/2008 của Bộ Nội vụ và
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 118/2006/NĐ-C ngày 10/10/2006
43
của Chính phủ... . Do đó, có thể nói, hình thức pháp luật về XLV L trong TH DS
là rất đa dạng, các chế định pháp luật và Q L về XLV L trong lĩnh vực TH DS
được quy định trong rất nhiều văn bản Q L có thứ bậc khác nhau.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS có mối quan hệ mật thiết với pháp luật
THADS và pháp luật nội dung khác.
háp luật về XLV L trong TH DS có mối quan hệ mật thiết với pháp luật
TH DS: háp luật TH DS là tổng thể các Q L điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong tổ chức và hoạt động TH DS, trong đó có các quy định về XLV L
trong TH DS. Tuy nhiên, pháp luật TH DS chỉ quy định những vấn đề chung nhất
về XLV L trong TH DS mà không quy định về từng vấn đề cụ thể. háp luật về
XLV L trong TH DS là tổng thể các Q L về XLV L trong TH DS, trong đó
quy định cụ thể về từng loại V L cũng như hình thức, biện pháp, thẩm quyền xử
lý đối với từng loại vi phạm đó. Bởi vậy, pháp luật về XLV L trong TH DS và
pháp luật TH DS có mối quan hệ mật thiết với nhau, không tách rời.
háp luật về XLV L trong TH DS có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật
hành chính: háp luật hành chính là tổng thể các Q L điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, trong đó có các quy định pháp luật
về quản lý nhà nước đối với hoạt động TH DS. Những Q L về XLV L hành
chính, xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức… trong pháp luật hành chính là cơ sở
để xử lý đối với những loại hành vi V L này trong TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS có mối quan hệ chặt chẽ và khăng
khít với pháp luật hình sự: háp luật hình sự là tổng thể các Q L về cấu thành tội
phạm và hình phạt, trong đó có các quy định về tội phạm và hình phạt trong lĩnh
vực TH DS. Những Q L đó là cơ sở pháp lý để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự trong TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật
dân sự: háp luật dân sự là tổng thể các Q L điều chỉnh quan hệ tài sản, quan hệ
nhân thân có liên quan đến tài sản, quan hệ phi tài sản, trong đó có các quy định
điều chỉnh các hành vi V L dân sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử lý trách nhiệm dân sự
cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước về TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS có mối quan hệ mật thiết với pháp
luật tố tụng pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng
hành chính : háp luật tố tụng quy định tổng thể trình tự, thủ tục xử lý đối với các
44
loại V L cụ thể như: V L hành chính, tội phạm, V L dân sự... Đây chính là cơ
sở pháp lý quan trọng để thực hiện hoạt động truy cứu TN L trong lĩnh vực
TH DS đối với các loại V L này.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS mang tính đặc thù cho phép phân biệt
với pháp luật về XLVPPL trong những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đặc biệt
là đối với các lĩnh vực có liên quan.
TH DS là một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. háp luật về XLV L
trong TH DS là tổng thể các Q L điều chỉnh hoạt động xử lý đối với những hành
vi V L xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động THADS,
bao gồm toàn bộ các quy định về V L và XLV L trong TH DS. Như vậy, nội
dung của pháp luật về XLV L trong TH DS được quyết định bởi những đặc trưng
trong tổ chức và hoạt động TH DS. Điều này cho phép phân biệt với nội dung của
pháp luật về XLV L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Chẳng hạn, pháp
luật về XLV L trong TH hình sự là tổng thể các Q L điều chỉnh hoạt động xử lý
đối với những hành vi V L xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và
hoạt động TH hình sự, đó là những quy định về xử lý đối với những hành vi V L
xâm hại đến hoạt động thi hành các hình phạt chính cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình , các hình phạt bổ sung
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú,
quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản đến việc thực hiện các biện
pháp tư pháp tịch thu tang vật, tài vật liên quan đến tội phạm, buộc công khai xin lỗi,
bắt buộc chữa bệnh, giáo dục người chưa thành niên tại xã, phường, thị trấn, đưa vào
trường giáo dưỡng... . Đó cũng chính là những đặc thù của pháp luật về XLV L trong
TH hình sự, được quyết định bởi những nét riêng biệt trong tổ chức và hoạt động
của lĩnh vực này. Đối với pháp luật về XLV L trong các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội cũng vậy, mang đặc trưng riêng do đặc thù của mỗi lĩnh vực quyết định.
Chính điều này là cơ sở để phân biệt được bản chất của pháp luật về XLV L trong
TH DS với pháp luật về XLV L trong các lĩnh vực cụ thể khác của đời sống xã hội.
2.2.3. Nội dung pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án
dân sự
2.2.3.1. Quy đị v v u t tr g t dâ sự
Vi phạm hành chính:
Theo quy định tại Điều 162 Luật TH DS năm 2008 và Điều 52 Nghị định
số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình,
45
TH DS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, trong lĩnh vực TH DS có các loại hành
vi vi phạm hành chính sau:
- Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có thẩm quyền
TH nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý
do chính đáng.
- Không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý
để TH theo yêu cầu của người có thẩm quyền TH mà không có lý do chính đáng.
- Không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc
không được làm theo bản án, quyết định; Trì hoãn thực hiện nghĩa vụ TH trong
trường hợp có điều kiện TH ; Không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận theo
quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; Cung cấp chứng cứ giả
cho cơ quan TH DS.
- Làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ TH hoặc để trốn tránh
việc kê biên tài sản; há hủy niêm phong tài sản đã kê biên; Không chấp hành quyết
định của người có thẩm quyền TH về việc trừ vào thu nhập.
- Tẩu tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ TH hoặc để trốn tránh việc
kê biên tài sản; Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu
hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên; Hủy hoại tài sản đã kê biên; Không chấp
hành quyết định của người có thẩm quyền TH về việc thu tiền của người phải TH
đang do người thứ ba giữ; Cố ý không thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhân dân hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay.
- Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền TH về việc khấu
trừ tài khoản, thu hồi giấy tờ có giá của người phải TH ; Không chấp hành quyết
định của người có thẩm quyền TH về việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của
người phải TH ; về việc thu tiền của người phải TH đang giữ.
- Không thực hiện việc phong tỏa tài khoản của người phải TH theo quyết
định của người có thẩm quyền TH .
Tội phạm:
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã dành 19 điều quy
định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, trong đó có các tội xâm phạm hoạt
động TH DS, cụ thể như sau:
- Các tội xâm phạm hoạt động TH DS do những người có chức vụ, quyền
hạn trong hoạt động TH DS thực hiện gồm những tội phạm trong đó chủ thể đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện các hành vi trái pháp luật hoặc có
46
sự thiếu trách nhiệm trong hoạt động TH DS : Hành vi ra quyết định trái pháp luật
Điều 296 ; hành vi ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật Điều 297 ; hành
vi không TH Điều 305 ; hành vi cản trở việc TH Điều 306 .
- Các tội xâm phạm hoạt động TH DS do những người liên quan đến việc
TH thực hiện: Hành vi không chấp hành án Điều 304 ; hành vi vi phạm việc niêm
phong, kê biên tài sản Điều 310 ; hành vi chống người thi hành công vụ Điều 257 .
Vi phạm quy định pháp luật dân sự:
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, các loại hành vi V L dân sự
bao gồm cả lĩnh vực TH DS gồm có:
- Hành vi không thực hiện nghĩa vụ giao vật Điều 303 .
- Hành vi không thực hiện nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc không
được làm một công việc Điều 304 .
- Hành vi chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự Điều 305 .
- Hành vi chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự Điều 306 .
Vi phạm kỷ luật:
Điều 165 Luật TH DS năm 2008, Điều 3 Nghị định số 34/2011/NĐ-C
ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức quy
định hành vi vi phạm kỷ luật của công chức nói chung, trong đó có công chức
TH DS, gồm có:
- Vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp của công
chức trong thi hành công vụ; những việc công chức không được làm quy định tại
Luật Cán bộ, công chức.
- V L bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật.
- Vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy
định khác của pháp luật liên quan đến công chức nhưng chưa đến mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm mà cán bộ, công chức,
trong đó có công chức TH DS bị áp dụng hình thức xử lý trách nhiệm kỷ luật
tương ứng từ Điều 9 đến Điều 14 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011
của Chính phủ cụ thể như sau:
Khiển trách: áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi: Có thái
độ hách dịch, cửa quyền hoặc gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân trong thi hành công vụ; không thực hiện nhiệm vụ được giao mà không
47
có lý do chính đáng; gây mất đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; tự ý nghỉ
việc, tổng số từ 03 đến dưới 05 ngày làm việc trong một tháng; sử dụng tài sản công
trái pháp luật; xác nhận giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện; vi phạm quy
định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hiện tiết kiệm, chống lãng
phí; kỷ luật lao động; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định
khác của pháp luật liên quan đến công tác.
Cảnh cáo: áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi: Cấp giấy tờ
pháp lý cho người không đủ điều kiện; sử dụng thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ
chức, đơn vị để vụ lợi; không chấp hành quyết định điều động, phân công công tác
của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền; sử dụng giấy tờ không hợp pháp để
được tham gia đào tạo, bồi dưỡng, được dự thi nâng ngạch công chức; tự ý nghỉ
việc, tổng số từ 05 đến dưới 07 ngày làm việc trong một tháng; sử dụng trái phép
chất ma túy bị cơ quan công an thông báo về cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi công chức
đang công tác; bị phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ đối với
công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; vi phạm ở mức độ nghiêm trọng
quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; kỷ luật lao động; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy
định khác của pháp luật liên quan đến công chức nhưng đã thành khẩn kiểm điểm
trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật.
Hạ bậc lương: áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi: không
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao mà không có lý do chính đáng, gây ảnh
hưởng đến công việc chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị; lợi dụng vị trí công tác, cố
ý làm trái pháp luật với mục đích vụ lợi; vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định
của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ
luật lao động; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác
của pháp luật liên quan đến công chức.
Giáng chức: áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có
một trong các hành vi: không hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân
công mà không có lý do chính đáng, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng; vi phạm ở
mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các
quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức nhưng đã thành khẩn kiểm
điểm trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
để xảy ra hành vi V L nghiêm trọng trong phạm vi phụ trách mà không có biện
48
pháp ngăn chặn.
Cách chức: áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có một
trong các hành vi: Sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được bổ nhiệm chức vụ; không
hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân công mà không có lý do chính
đáng, để xảy ra hậu quả rất nghiêm trọng; bị phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo
không giam giữ; vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng giới; phòng,
chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức.
Buộc thôi việc: áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi: Bị
phạt tù mà không được hưởng án treo; sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được
tuyển dụng vào cơ quan, tổ chức, đơn vị; nghiện ma túy có xác nhận của cơ quan y
tế có thẩm quyền; tự ý nghỉ việc, tổng số từ 07 ngày làm việc trở lên trong một
tháng hoặc từ 20 ngày làm việc trở lên trong một năm mà đã được cơ quan sử dụng
công chức thông báo bằng văn bản 03 lần liên tiếp; vi phạm ở mức độ đặc biệt
nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy
định khác của pháp luật liên quan đến công chức.
Theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012, người lao động bao gồm cả
lao động hợp đồng làm việc trong cơ quan TH DS vi phạm quy định về việc tuân
theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động
là vi phạm kỷ luật lao động và bị xử lý kỷ luật lao động Điều 118 .
VPPL gây thiệt hại trong thi hành công vụ:
Theo quy định tại Điều 38 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2009 và Điều 6 Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày 15/12/2011
của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước trong hoạt động TH DS thì trong lĩnh vực TH DS, Nhà nước có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công
vụ cán bộ, công chức cơ quan TH DS gây ra trong các trường hợp sau đây:
- Các hành vi về ra hoặc cố ý không ra quyết định TH bao gồm: Thủ
trưởng cơ quan TH DS ra quyết định TH trái pháp luật; Thủ trưởng cơ TH DS
cố ý không ra quyết định TH theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 36 Luật TH DS
quyết định TH chủ động và quyết định TH theo đơn yêu cầu TH .
- Các hành vi về thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về TH bao gồm:
Thủ trưởng cơ quan TH DS, Chấp hành viên ra quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung,
hủy quyết định về TH trái pháp luật; Thủ trưởng cơ quan TH DS, Chấp hành viên
49
cố ý không ra quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về TH khi có căn
cứ thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về TH theo quy định của pháp luật.
- Các hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm TH bao gồm: Chấp hành
viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm TH không có căn cứ pháp luật hoặc
cố ý không ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm TH khi có căn cứ áp dụng
biện pháp bảo đảm trong trường hợp tự mình áp dụng biện pháp bảo đảm TH ;
Chấp hành viên ra không đúng hoặc cố ý không ra quyết định áp dụng biện pháp
bảo đảm TH trong trường hợp áp dụng biện pháp bảo đảm TH theo yêu cầu của
đương sự. Trường hợp Chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm
TH đúng theo yêu cầu của đương sự mà gây thiệt hại thì không thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
- Các hành vi về cưỡng chế TH bao gồm: Chấp hành viên ra quyết định
cưỡng chế TH trái pháp luật; Chấp hành viên cố ý không ra quyết định cưỡng chế
TH khi có căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế TH theo quy định của pháp luật.
- Các hành vi về thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
của Tòa án bao gồm: Thủ trưởng cơ quan TH DS ra quyết định TH để thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án trái pháp luật; Thủ
trưởng cơ quan TH DS cố ý không ra quyết định TH để thi hành quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án trong thời hạn theo quy định của pháp
luật. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan TH DS ra quyết định TH để thi hành quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án đúng với quyết định đó mà
gây ra thiệt hại thì không thuộc trách nhiệm bồi thường trong hoạt động TH DS.
- Các hành vi về hoãn TH bao gồm: Thủ trưởng cơ quan TH DS ra quyết
định hoãn TH trái pháp luật; Thủ trưởng cơ quan TH DS cố ý không chủ động ra
quyết định hoãn TH khi việc TH thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 48 Luật TH DS năm 2008 Người phải TH bị ốm nặng, có xác
nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; chưa xác định được địa chỉ của người phải
TH hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải TH không thể tự mình thực
hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định; Người được TH đồng ý cho người
phải TH hoãn TH ; Người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước
không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế
TH hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên; Tài sản kê biên
có tranh chấp đã được Tòa án thụ lý để giải quyết; Việc TH đang trong thời hạn
cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ
50
quan TH DS hoặc cố ý không ra quyết định hoãn TH khi nhận được yêu cầu của
người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật TH DS năm 2008 . Trường hợp Thủ
trưởng cơ quan TH DS ra quyết định hoãn TH theo điểm b khoản 1 Điều 48 Luật
TH DS năm 2008 Người được TH đồng ý cho người phải TH hoãn TH
hoặc theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị theo quy định tại khoản 2
Điều 48 Luật TH DS năm 2008 mà gây ra thiệt hại thì không thuộc phạm vi trách
nhiệm bồi thường trong hoạt động TH DS.
- Các hành vi về tạm đình chỉ TH bao gồm: Thủ trưởng cơ quan TH DS
ra quyết định tạm đình chỉ TH trái pháp luật; Thủ trưởng cơ quan TH DS cố ý
không ra quyết định tạm đình chỉ TH trái pháp luật; Trường hợp Thủ trưởng cơ
quan TH DS ra quyết định tạm đình chỉ TH khi nhận được thông báo của Tòa án
về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải TH theo quy
định tại khoản 2 Điều 49 của Luật TH DS năm 2008 mà gây ra thiệt hại thì không
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động TH DS.
- Các hành vi về đình chỉ TH bao gồm: Thủ trưởng cơ quan TH DS ra
quyết định đình chỉ TH trái pháp luật; Thủ trưởng cơ quan TH DS cố ý không ra
quyết định đình chỉ TH khi việc TH thuộc các trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 50 Luật TH DS năm 2008 Người phải TH chết không để lại di sản
hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định
không được chuyển giao cho người thừa kế; Người được TH chết mà theo quy
định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không
được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế; Đương sự có
thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được TH có văn bản yêu cầu cơ quan
TH DS không tiếp tục việc TH , trừ trường hợp việc đình chỉ TH ảnh hưởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba; Bản án, quyết định bị hủy một phần
hoặc toàn bộ; Người phải TH là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo
quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;
Có quyết định mi n hoặc giảm một phần nghĩa vụ TH ; Tòa án ra quyết định mở
thủ tục phá sản đối với người phải TH ; Người chưa thành niên được giao nuôi
dưỡng theo bản án, quyết định đã thành niên .
- Các hành vi về tiếp tục TH bao gồm: Thủ trưởng cơ quan TH DS ra
quyết định tiếp tục TH trái pháp luật; Thủ trưởng cơ quan TH DS cố ý không ra
quyết định tiếp tục TH khi căn cứ, thời hạn hoãn TH không còn theo quy định
51
tại khoản 1, 2 Điều 48 Luật TH DS năm 2008 hoặc đã nhận được một trong các
quyết định tạm đình chỉ TH quy định tại khoản 3 Điều 49 Luật TH DS năm 2008 .
- Việc tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành quyết định bao
gồm: Thủ trưởng cơ quan TH , Chấp hành viên và những người thi hành công vụ
khác có hành vi trái pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành các quyết định về TH ;
Thủ trưởng cơ quan TH , Chấp hành viên và những người thi hành công vụ khác
cố ý không tổ chức thi hành các quyết định về TH theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP
ngày 15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng thì trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước trong trường hợp người thi hành công vụ ra quyết định hoặc tổ chức thi
hành quyết định về TH DS như nêu trên chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện: Có
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành
công vụ là trái pháp luật; Hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ thuộc
phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại Điều 38 của Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước năm 2009; Có thiệt hại thực tế xảy ra; Có mối quan hệ nhân
quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ
Khoản 1 Điều 3 . Trong trường hợp người thi hành công vụ không ra quyết định
hoặc không tổ chức thi hành quyết định về TH DS quy định tại Điều 38 Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện nêu trên và có lỗi cố ý của người thi hành
công vụ Khoản 2 Điều 3 . Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người bị thiệt hại; trường hợp người thi hành công vụ và người bị
thiệt hại cùng có lỗi thì Nhà nước chỉ bồi thường một phần thiệt hại tương ứng với
phần lỗi của người thi hành công vụ Khoản 3 Điều 3 .
VPPL gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan THADS:
Theo quy định tại Nghị định số 118/2006/NĐ-C ngày 10/10/2006 của
Chính phủ về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức và Thông tư liên
tịch số 02/2008/TTLT-BNV-BTC ngày 20/05/2008 của Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 118/2006/NĐ-C ngày 10/10/2006 của Chính
phủ thì hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan TH DS được hiểu
là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết
bị hoặc gây ra thiệt hại về tài sản của cơ quan TH DS nhưng chưa đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự. Tài sản bị gây thiệt hại là trang bị, thiết bị, máy móc,
phương tiện, trụ sở làm việc, tiền, giấy tờ có giá hoặc các tài sản khác dưới dạng
52
tiền tệ, tài chính, phần mềm, dữ liệu. Mức bồi thường thiệt hại về tài sản là giá trị
tính bằng tiền một phần thiệt hại hoặc toàn bộ thiệt hại do cơ quan, người có thẩm
quyền xem xét, quyết định buộc cán bộ, công chức phải bồi thường.
Đối với lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS có hành vi vi phạm các
quy định của pháp luật, làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc gây ra thiệt hại
về tài sản của cơ quan TH DS thì phải bồi thường theo quy định của Bộ luật lao
động năm 2012 Điều 130 .
Như vậy, pháp luật về XLV L trong TH DS đã quy định khá đầy đủ về
các loại V L trong TH DS. Theo đó, lĩnh vực TH DS cũng bao gồm đầy đủ các
loại V L của đời sống xã hội. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác
định và đưa ra xử lý đối với các hành vi V L trong lĩnh vực TH DS trên thực tế.
2.2.3.2. Quy đị v tr c tr g t dâ sự
háp luật hiện hành không quy định r về các loại TN L trong TH DS, tuy
nhiên, từ các quy định của pháp luật về TH DS, pháp luật về V L và XLV L
nói chung có thể xác định các loại TN L trong TH DS gồm có: Trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trong khi thi hành
công vụ, trách nhiệm hoàn trả của người gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ và
trách nhiệm vật chất.
Có thể nói, trong đời sống xã hội nói chung và trong lĩnh vực TH DS nói
riêng, tương ứng với V L nào thì có TN L đó. Đây là hậu quả pháp lý bất lợi mà
chủ thể V L trong TH DS phải chịu, thể hiện sự trừng phạt của pháp luật đối với
hành vi V L, xâm hại trật tự TH DS, được pháp luật xác lập và bảo vệ. Việc xác
định TN L trong TH DS phải căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành về mỗi
loại V L và xử lý đối với mỗi loại V L đó trong TH DS.
2.2.3.3. Quy đị v đố tượ g c ịu tr c tr g t
dâ sự
Đối tượng chịu TN L trong TH DS là cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi
trái pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS. Đối tượng chịu
TN L về mỗi loại V L được pháp luật quy định riêng biệt, cụ thể như sau:
Đối tượng chịu trách nhiệm hành chính: Theo quy định tại Điều 165 Luật
TH DS năm 2008, Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Điều 1 Nghị
định số 81/2013/NĐ-C của Chính phủ và Điều 2 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP
ngày 24/9/2013 của Chính phủ thì có thể xác định đối tượng chịu trách nhiệm hành
53
chính là cá nhân, tổ chức có hành vi trái pháp luật xâm phạm các quy định của pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực TH DS, cụ thể: Cá nhân có hành vi vi
phạm hành chính trong TH DS trở thành chủ thể của V L hành chính nếu có
năng lực trách nhiệm hành chính và đạt độ tuổi nhất định. Năng lực trách nhiệm
hành chính là khả năng tự chịu trách nhiệm về hành vi V L của cá nhân đó, tức là
chủ thể V L có khả năng hiểu và điều khiển được hành vi của mình. Về độ tuổi,
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về những vi phạm hành
chính do cố ý, người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra. Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra.
Đối tượng chịu trách nhiệm hình sự: Theo quy định tại Điều 8 và Điều 12
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì có thể hiểu đối tượng
chịu trách nhiệm hình sự là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi
luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội trong lĩnh vực TH DS. Năng lực trách
nhiệm hình sự là khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và có khả năng điều khiển được hành vi đó. Về độ tuổi, người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đối tượng chịu trách nhiệm dân sự: Theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2005 thì chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể là cá nhân Chương III , pháp
nhân Chương IV , hộ gia đình, tổ hợp tác Chương V . Các bên phải nghiêm chỉnh
thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị
cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật Điều 7 . Như vậy, đối tượng chịu
trách nhiệm dân sự có thể là cá nhân hoặc tổ chức có hành vi V L dân sự. Những
đối tượng này khi tham gia vào quan hệ pháp luật TH DS và có hành vi V L dân
sự trong lĩnh vực TH DS thì phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định pháp luật.
Đối tượng chịu trách nhiệm kỷ luật: Căn cứ quy định tại Điều 1 Nghị định
số 34/2011/NĐ-C ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với
công chức và Điều 5 Nghị định số 06/2010/NĐ-C ngày 25/01/2010 của Chính phủ
quy định những người là công chức có thể xác định được đối tượng chịu trách
nhiệm kỷ luật là cá nhân, tức là những công chức TH DS có hành vi V L. Theo
quy định tại Chương VIII Bộ luật lao động năm 2012, cá nhân người lao động vi
54
phạm kỷ luật lao động bao gồm cả lao động hợp đồng trong các cơ quan TH DS
thì bị xử lý kỷ luật lao động.
Đối tượng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi VPPL của cán bộ,
công chức THADS gây ra trong khi thi hành công vụ: Theo quy định tại Điều 619
Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 38, khoản 2 Điều 40 Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước năm 2009, Điều 4, 5 Nghị định số 16/2010/NĐ-C ngày 03/3/2010 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước, Điều 6 và 10 Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP
ngày 15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng thì Nhà nước có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra và
cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan TH DS trực tiếp quản lý người thi
hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại.
Đối tượng chịu trách nhiệm hoàn trả đối với việc bồi thường thiệt hại của Nhà
nước do có hành vi VPPL gây ra thiệt hại trong khi thi hành công vụ: Theo quy định
tại Điều 619 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước năm 2009, Điều 6 Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-
BQP ngày 15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng thì người thi hành công vụ
Thủ trưởng cơ quan TH DS, Chấp hành viên và người thi hành công vụ khác của cơ
quan TH DS có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước
(hoàn trả trực tiếp cho cơ quan TH DS đã thực hiện việc bồi thường một khoản
tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có
thẩm quyền.
Đối tượng chịu trách nhiệm vật chất: Theo quy định tại Điều 165 Luật
TH DS năm 2008, Điều 1 Nghị định số 118/2006/NĐ-C ngày 10/10/2006 của
Chính phủ thì đối tượng chịu trách nhiệm vật chất là những cán bộ, công chức nói
chung, trong đó có những cán bộ, công chức trong cơ quan TH DS. Theo quy định
tại Điều 130 Bộ luật lao động năm 2012 thì người lao động trong cơ quan TH DS
phải bồi thường vật chất nếu có hành vi làm mất mát, hư hỏng tài sản của người sử
dụng lao động cơ quan TH DS .
Như vậy, pháp luật về XLV L đã có quy định riêng về đối tượng chịu
TN L đối với mỗi loại V L. Tuy vậy, pháp luật không quy định cụ thể về đối
tượng chịu TN L trong lĩnh vực TH DS, do đó, việc xác định đối tượng chịu
TN L trong TH DS phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về mỗi loại V L
nói chung.
55
2.2.3.4. Quy đị v t ờ u truy cứu tr c tr g t
dâ sự
Thời hiệu truy cứu TN L trong TH DS có thể hiểu là khoảng thời gian
được pháp luật quy định mà nếu hết khoảng thời gian đó thì người có thẩm quyền
không được áp dụng việc xử lý vi phạm đối với chủ thể V L nữa [93].
Thời hiệu truy cứu TN L được pháp luật quy định khác nhau, căn cứ vào
đặc trưng của mỗi loại V L, cụ thể như sau:
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong THADS: Theo quy định tại
điểm a, khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì thời hiệu xử
phạt vi phạm hành chính trong TH DS là một năm, kể từ ngày vi phạm hành chính
được thực hiện.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong THADS: Theo quy định tại
khoản 2, 3 Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng,
mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng, mười lăm năm đối với các tội phạm
rất nghiêm trọng, hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện.
Thời hiệu xử lý kỷ luật trong THADS: Căn cứ quy định tại Điều 80 Luật cán
bộ, công chức năm 2008 và Điều 6, 7 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011
của Chính phủ thì có thể xác định thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời
điểm công chức có hành vi V L cho đến thời điểm người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ
luật. Thời hạn để xử lý kỷ luật tối đa là 02 tháng, kể từ ngày phát hiện công chức có
hành vi V L cho đến ngày cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định
xử lý kỷ luật; trường hợp vụ việc có liên quan đến nhiều người, có tang vật, phương
tiện cần giám định hoặc những tình tiết phức tạp khác thì người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết định kéo dài thời hạn xử lý kỷ
luật tối đa không quá 04 tháng theo quy định tại khoản 2, Điều 80 Luật Cán bộ,
công chức năm 2008. Thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động tối đa là 06 tháng, kể từ
ngày xảy ra vi phạm, trường hợp đặc biệt cũng không được quá sáu tháng Điều 124
Bộ luật lao động năm 2012 .
Thời hiệu xử lý trách nhiệm dân sự trong THADS: Theo quy định tại khoản 3,
Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá
56
nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm; thời
hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh
quyền yêu cầu.
Thời hiệu yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi
thường do hành vi VPPL của cán bộ, công chức THADS gây ra trong thi hành công
vụ: Theo quy định tại khoản 1, Điều 5 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
năm 2009 thì thời hiệu yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi
thường là hai năm, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản
xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc kể từ ngày bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định
người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định của pháp luật.
Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất trong THADS: háp luật
không quy định cụ thể thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất đối với cán bộ,
công chức hoặc lao động hợp đồng gây ra thiệt hại. Căn cứ vào khoản 1, Điều 12 Nghị
định số 118/2006/NĐ-C ngày 10/10/2006 của Chính phủ, khoản 2, Mục II Thông
tư liên tịch số 02/2008/TTLT-BNV-BTC ngày 20/5/2008 của Bộ Nội vụ - Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 118/2006/NĐ-C ngày 10/10/2006 của Chính
phủ thì có thể hiểu thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất đối với cán bộ, công
chức được xác định trong quyết định bồi thường thiệt hại và do người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị hoặc cấp có thẩm quyền quyết định. Đối với lao động hợp đồng
có hành vi V L gây ra thiệt hại thì theo quy định tại Điều 124 Bộ luật lao động năm
2012, thời hiệu chung để xử lý kỷ luật lao động là 06 tháng kể từ ngày xảy ra vi phạm.
Như vậy, thời hiệu truy cứu TN L cũng được pháp luật quy định cụ thể đối
với mỗi loại V L và không có quy định riêng biệt trong lĩnh vực TH DS. Để xác
định thời hiệu truy cứu TN L trong TH DS cần phải căn cứ vào các quy định pháp
luật về thời hiệu truy cứu TN L trong mỗi loại V L nói chung.
2.2.3.5. Quy đị v c c ì t ức v b v u t
tr g t dâ sự
XLVPPL hành chính: là hoạt động buộc chủ thể có hành vi vi phạm hành
chính trong TH DS phải chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì hình
thức xử phạt vi phạm hành chính gồm có các hình thức xử phạt chính cảnh cáo, phạt
tiền , các hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính và các
57
biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi
do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhi m môi trường, lây lan dịch
bệnh do vi phạm hành chính gây ra; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc
tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe
con người, vật nuôi và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại; biện pháp khắc phục hậu quả
khác do người có thẩm quyền quyết định áp dụng theo quy định của Chính phủ .
Trong lĩnh vực TH DS, căn cứ quy định tại Điều 52 Nghị định số
110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ, có thể xác định hình thức
XLV L hành chính gồm có: Các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền
không có các hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả là
buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra.
Xử lý tội phạm hình sự: là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
quy định hệ thống hình phạt gồm có hình phạt chính cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình , hình phạt bổ sung
cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú,
quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng
là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính và các biện
pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh .
Trong lĩnh vực TH DS, căn cứ vào các Điều 257, 296, 297, 304, 305, 306,
310 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 có thể xác định các hình
phạt chính được áp dụng gồm có cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có
thời hạn và các hình phạt bổ sung được áp dụng gồm có cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
XLVPPL dân sự: là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án hoặc chủ thể
khác nhằm truy cứu TN L đối với những hành vi trái pháp luật dân sự trong lĩnh
vực TH DS. Theo quy định tại Điều 302, 303, 304, 305, 306, 307 Bộ luật dân sự năm
2005 thì có thể xác định chủ thể thực hiện hành vi V L dân sự trong lĩnh vực
TH DS có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần ; thực hiện một
công việc nhất định hoặc không được thực hiện một công việc nhất định.
Xử lý vi phạm kỷ luật: là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước
58
có thẩm quyền đối với cán bộ, công chức, lao động hợp đồng trong cơ quan
THADS có hành vi trái pháp luật. Căn cứ Điều 78 và 79 Luật cán bộ công chức
năm 2008 và các Điều 9, 10, 11, 12, 13, 14 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày
17/5/2011 của Chính phủ thì có thể xác định trong lĩnh vực TH DS, công chức có
hành vi V L thì tùy từng trường hợp, có thể bị xử lý bằng các hình thức khiển
trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc.
Lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS có hành vi vi phạm các quy định
của Bộ luật lao động thì tùy mức độ vi phạm mà bị xử lý bằng các hình thức khiển
trách; kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng; cách chức; sa thải Điều 125
Bộ luật lao động năm 2012 .
Xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ: là hoạt
động áp dụng pháp luật của cơ quan TH DS trong việc thực hiện trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và buộc cán bộ, công chức TH DS thực hiện nghĩa vụ hoàn trả
theo quy định của pháp luật trong trường hợp cán bộ, công chức TH DS gây thiệt
hại trong khi thi hành công vụ. Căn cứ vào Điều 619 Bộ luật dân sự năm 2005 và
các Điều 38, 40, 56 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Điều 4, 5
Nghị định số 16/2010/NĐ-C ngày 03/3/2010 của Chính phủ, Điều 6 Thông tư liên
tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQ ngày 15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng
có thể xác định cá nhân, tổ chức bị gây thiệt hại bởi hành vi trái pháp luật của cán
bộ, công chức TH DS trong thi hành công vụ có quyền yêu cầu cơ quan TH DS
quản lý cán bộ, công chức đó bồi thường đối với thiệt hại thực tế xảy ra. Cơ quan
TH DS đã bồi thường thiệt hại có quyền yêu cầu cán bộ, công chức có hành vi trái
pháp luật hoàn trả khoản tiền mà cơ quan đó đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
Xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan THADS:
là việc cơ quan TH DS buộc cán bộ, công chức hoặc nhân viên TH DS khác bao
gồm cả lao động hợp đồng bồi thường về tài sản vật chất do có hành vi trái với
những quy chế, quy tắc trong tổ chức và hoạt động TH DS gây thiệt hại về tài sản
cho cơ quan TH DS. Theo quy định tại Điều 2, 3 Nghị định số 118/2006/NĐ-C
ngày 10/10/2006 của Chính phủ và Điều 130 Bộ luật lao động năm 2012 thì chủ thể
V L phải bồi thường bằng tiền và có thể được thực hiện bằng cách khấu trừ lương
đối với giá trị tài sản bị thiệt hại.
Có thể nhận thấy, hoạt động XLV L trong TH DS được tuân theo những
hình thức và biện pháp xử lý khác nhau, được pháp luật quy định cụ thể và chặt chẽ.
Đối với mỗi loại V L khác nhau có hình thức và biện pháp xử lý khác nhau, phù
59
hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi V L cũng như phù hợp với thực ti n kinh
tế, xã hội. Do vậy, việc XLV L trong TH DS phải được thực hiện nghiêm minh
và trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành.
2.2.3.6. Quy đị v t ẩ quy v u t tr g t
dâ sự
Thẩm quyền XLVPPL hành chính: Điều 163 Luật TH DS năm 2008, Điều 49
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Điều 68, 72 Nghị định số
110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ có thể xác định Chấp hành viên
TH DS đang thi hành công vụ, Chi cục trưởng Chi cục TH DS, Chấp hành viên
TH DS là tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản của vụ việc phá sản, Cục trưởng
Cục TH DS, Trưởng phòng hòng TH cấp quân khu, Tổng cục trưởng Tổng cục
TH DS là những người có thẩm quyền XLV L hành chính trong TH DS.
Thẩm quyền xử lý tội phạm hình sự: Theo quy định tại Điều 13 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 thì khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
điều tra, khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định
để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Thẩm quyền XLVPPL dân sự: Theo quy định tại các Điều 171, 172 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự
và các việc dân sự nói chung, trong đó có các vi phạm dân sự trong lĩnh vực TH DS.
Thẩm quyền xử lý vi phạm kỷ luật: Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số
34/2011/NĐ-C ngày 17/5/2011 của Chính phủ thì đối với công chức giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm
tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật. Đối với công chức không
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan quản lý hoặc người đứng
đầu cơ quan được phân cấp quản lý công chức tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định
hình thức kỷ luật. Đối với công chức biệt phái, người đứng đầu cơ quan nơi công
chức được cử đến biệt phái tiến hành xử lý kỷ luật, quyết định hình thức kỷ luật và
gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan quản lý công chức biệt phái. Đối với công
chức đã chuyển công tác mới phát hiện có hành vi V L mà còn trong thời hiệu
quy định, thì người đứng đầu cơ quan quản lý công chức trước đây tiến hành xử lý
kỷ luật, quyết định hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan
đang quản lý công chức. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị trước đây đã giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách thì những người có trách nhiệm liên quan phải bàn giao
60
hồ sơ để cơ quan đang quản lý công chức thực hiện việc xử lý kỷ luật.
Căn cứ các quy định nêu trên có thể xác định những người có thẩm quyền ra
quyết định kỷ luật trong TH DS gồm có: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng
Tổng cục TH DS, Cục trưởng Cục TH DS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và Cục trưởng Cục TH thuộc Bộ Quốc phòng, Trưởng phòng TH cấp quân khu.
Theo quy định của Chương VIII Bộ luật lao động năm 2012 thì lao động
hợp đồng trong cơ quan TH DS vi phạm kỷ luật thì sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy
định của pháp luật lao động, trong đó người có thẩm quyền xử lý kỷ luật là người sử
dụng lao động Cơ quan TH DS .
Thẩm quyền xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại trong khi thi hành
công vụ: Theo quy định tại Điều 619 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 2, Điều 40
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009, Điều 4, 5 Nghị định số
16/2010/NĐ-C ngày 03/3/2010 của Chính phủ, Điều 10 Thông tư liên tịch số
24/2011/TTLT-BT -BQ ngày 15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng thì
cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động TH DS là cơ quan TH DS
trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, cụ
thể: Trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Tổng cục
TH DS thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là Tổng cục TH DS; Người thi
hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Cục TH DS cấp tỉnh, Cục TH Bộ
Quốc phòng thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là Cục TH DS cấp tỉnh, Cục
TH Bộ Quốc phòng; Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Chi
cục TH DS cấp huyện, hòng TH cấp quân khu thì cơ quan có trách nhiệm bồi
thường là Chi cục TH DS cấp huyện, hòng TH cấp quân khu. Thủ trưởng cơ
quan có trách nhiệm bồi thường có thẩm quyền ra quyết định hoàn trả; trong trường
hợp thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường là người có nghĩa vụ hoàn trả thì
thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người đó có thẩm quyền ra quyết định
hoàn trả Điều 59 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 . Như vậy,
cơ quan TH DS quản lý cán bộ, công chức có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
cho cá nhân, tổ chức trong khi thi hành công vụ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, đồng thời có quyền yêu cầu cán bộ, công chức đó
hoàn trả khoản tiền đã được bồi thường. Theo quy định tại Điều 22 Luật trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì các bên cũng có thể khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết và phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành.
Thẩm quyền xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại về vật chất cho cơ
61
quan THADS: Theo quy định tại Điều 3, 6 Nghị định số 118/2006/NĐ-C ngày
10/10/2006 của Chính phủ thì cơ quan bị thiệt hại về tài sản bởi hành vi trái pháp
luật của cán bộ, công chức trong cơ quan TH DS có quyền yêu cầu người gây ra
thiệt hại bồi thường khoản tiền theo quy định pháp luật. Việc xử lý đối với hành vi
V L gây thiệt hại về vật chất phải thành lập Hội đồng để giải quyết Điều 9 Nghị
định số 118/2006/NĐ-C . Lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS làm mất mát,
hư hỏng tài sản của người sử dụng lao động cơ quan TH DS phải bồi thường theo
quy định Điều 130 Bộ luật lao động năm 2012 .
Như vậy, thẩm quyền XLV L được pháp luật quy định cụ thể đối với mỗi
loại V L nói chung và được quy định cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực TH DS. Nói cách khác, thẩm quyền XLV L
trong TH DS được pháp luật quy định dựa trên cơ sở các loại V L nói chung và
gắn liền với đặc thù của mỗi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
2.2.3.7. Quy đị v trì tự, t ủ tục v u t tr g t
dâ sự
Trình tự, thủ tục XLVPPL hành chính: Được quy định tại Chương III từ
Điều 55 đến Điều 88 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 , Chương 7 Nghị
định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ, theo đó, khi phát hiện hành
vi vi phạm hành chính hoặc nhận được báo cáo, biên bản về hành vi vi phạm hành
chính trong TH DS, người có thẩm quyền xử phạt phải kiểm tra, xác minh, ra lệnh
đình chỉ ngay hành vi vi phạm; người có thẩm quyền đang thi hành nhiệm vụ, công vụ
phải kịp thời lập biên bản vi phạm hành chính trừ trường hợp xử phạt bằng hình thức
phạt cảnh cáo, phạt tiền đến 200.000 đồng; người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết
định xử phạt theo thủ tục được pháp luật quy định; yêu cầu cá nhân, tổ chức bị xử phạt
hành chính thực hiện nghĩa vụ, nếu không tự nguyện chấp hành khi hết thời hiệu theo
quy định pháp luật, người có thẩm quyền xử phạt tự mình hoặc đề nghị người có thẩm
quyền thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và chuyển
quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành theo quy định của pháp luật.
Trình tự, thủ tục xử lý tội phạm hình sự: Việc xử lý đối với người thực hiện
hành vi phạm tội trong TH DS được thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ được
pháp luật tố tụng hình sự quy định, bao gồm toàn bộ hoạt động khởi tố, điều tra,
quyết định việc truy tố; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm; kháng cáo, kháng nghị;
thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được quy định thành từng chương,
62
điều cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự .
Trình tự, thủ tục XLVPPL dân sự: Việc XLV L dân sự đối với tổ chức, cá
nhân vi phạm dân sự trong lĩnh vực TH DS thực hiện theo trình tự, thủ tục được
pháp luật tố tụng dân sự quy định, bao gồm toàn bộ hoạt động khởi kiện và thụ lý
vụ án; hòa giải và chuẩn bị xét xử; xét xử sơ thẩm; xét xử phúc thẩm; kháng cáo,
kháng nghị; giám đốc thẩm và tái thẩm được quy định thành từng chương, điều cụ
thể trong Bộ luật tố tụng dân sự .
Trình tự, thủ tục xử lý vi phạm kỷ luật: Được thực hiện theo quy định của
Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ bao gồm toàn bộ quy
trình xem xét kỷ luật và áp dụng hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức
TH DS vi phạm kỷ luật, trong đó có thủ tục tổ chức họp kiểm điểm công chức có
hành vi V L Điều 16 , trình tự thành lập Hội đồng kỷ luật Điều 17, 18 , tổ chức
họp Hội đồng kỷ luật Điều 19 , trình tự ra quyết định kỷ luật Điều 20 và khiếu
nại quyết định kỷ luật Điều 21 . Đối với lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS,
khi cơ quan TH DS họp xét kỷ luật, người sử dụng lao động cơ quan THADS)
phải chứng minh được lỗi của người lao động; phải có sự tham gia của tổ chức đại
diện tập thể lao động tại cơ sở; người lao động phải có mặt và có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; trường hợp là người dưới 18 tuổi thì
phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật; việc xử lý kỷ
luật lao động phải được lập thành biên bản Điều 123 Bộ luật lao động năm 2012 .
Trình tự, thủ tục bồi thường thiệt hại đối với hành vi VPPL gây thiệt hại
trong khi thi hành công vụ: Được thực hiện theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước năm 2009, Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày
03/3/2010 của Chính phủ và Chương IV Từ Điều 10 đến Điều 20 Thông tư liên tịch
số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày 15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng,
theo đó, hồ sơ yêu cầu bồi thường được gửi đến cơ quan TH DS; cơ quan TH DS
tiến hành thụ lý, cử người đại diện thực hiện việc bồi thường, xác minh, thương
lượng, ra quyết định giải quyết bồi thường và chi trả tiền bồi thường theo quy định
của pháp luật. Trong trường hợp người yêu cầu bồi thường trong hoạt động TH DS
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì trình tự, thủ tục giải quyết tại Tòa à án được
thực hiện theo quy định tại Mục 2, Chương IV Luật trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của nhà nước năm 2009, Điều 9 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010
của Chính phủ và Điều 18 Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày
15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng.
Trình tự, thủ tục hoàn trả của người gây thiệt hại trong khi thi hành công
63
vụ: Được thực hiện theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2009, theo đó, cơ quan TH DS có trách nhiệm bồi thường phải thành lập Hội đồng
xem xét trách nhiệm hoàn trả để xác định trách nhiệm hoàn trả, mức hoàn trả đối với
cán bộ, công chức TH DS đã gây ra thiệt hại trong khi thi hành công vụ. Trường hợp
có nhiều người thi hành công vụ thuộc nhiều cơ quan khác nhau gây ra thiệt hại thì Hội
đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả phải có sự tham gia của đại diện các cơ quan liên
quan. Thủ trưởng cơ quan TH DS có thẩm quyền phải ban hành quyết định hoàn trả
và việc hoàn trả được thực hiện theo quyết định hoàn trả Chương VII, từ Điều 56 đến
Điều 63 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và Chương III, từ Điều
13 đến Điều 20 Nghị định số 16/2010/NĐ-C ngày 03/3/2010 của Chính phủ .
Trình tự, thủ tục bồi thường thiệt hại đối với hành vi VPPL gây thiệt hại về
vật chất cho cơ quan THADS: Theo quy định tại Nghị định số 118/2006/NĐ-C
ngày 10/10/2006 của Chính phủ từ Điều 6 đến Điều 13 thì khi có thiệt hại về vật
chất do hành vi trái pháp luật gây ra, cơ quan TH DS quản lý cán bộ, công chức
gây ra thiệt hại yêu cầu cán bộ, công chức đó bồi thường vật chất theo giá trị tài sản
bị thiệt hại. Người có thẩm quyền phải thành lập Hội đồng và Hội đồng tiến hành
họp để quyết định bồi thường thiệt hại đối với cán bộ, công chức gây ra thiệt hại.
Đối với lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS gây thiệt hại thì phải bồi thường
trực tiếp hoặc khấu trừ lương , người sử dụng lao động cơ quan TH DS phải
chứng minh được lỗi của người lao động; phải có sự tham gia của tổ chức đại diện
tập thể lao động tại cơ sở; người lao động phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa; trường hợp là người dưới 18 tuổi thì phải có sự
tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật; việc xử lý kỷ luật lao động
phải được lập thành biên bản Điều 131 Bộ luật lao động năm 2012 .
Như vậy, trình tự và thủ tục XLV L đã được pháp luật quy định cụ thể đối
với mỗi loại V L khác nhau. háp luật không quy định về trình tự, thủ tục
XLV L riêng trong lĩnh vực TH DS. Do đó, hoạt động XLV L trong lĩnh vực
TH DS được tuân theo những quy định của pháp luật về trình tự và thủ tục
XLV L đối với các V L nói chung.
2.2.3.8. Quy đị v g ả quyết k ếu , tố c v v
u t tr g t dâ sự
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLVPPL hành chính: Theo quy định tại
Điều 15 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực TH DS hoặc người đại diện hợp pháp của họ có
64
quyền khiếu nại về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chấp hành viên hoặc Thủ
trưởng cơ quan TH DS; mọi công dân có quyền tố cáo về hành vi trái pháp luật trong
việc xử lý vi phạm hành chính của Chấp hành viên hoặc Thủ trưởng cơ quan TH DS.
Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L hành chính
trong TH DS được thực hiện theo quy định chung của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về xử lý tội phạm hình sự: Theo quy định tại
Chương XXXV Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì công dân, cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt
động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự
hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp
nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo
bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc
phục. Trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do pháp luật quy định.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLVPPL dân sự: Theo quy định tại Chương
XXXIII Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến
hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động
tố tụng dân sự. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và
giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về
kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết. Trình tự, thủ tục và thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do pháp luật quy định.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về xử lý vi phạm kỷ luật: Theo quy định tại
Điều 21 Nghị định số 34/2011/NĐ-C của Chính phủ thì có thể xác định công chức
TH DS bị xử lý kỷ luật có quyền khiếu nại đối với quyết định kỷ luật theo quy
định của pháp luật về khiếu nại. Căn cứ vào các quy định của Luật TH DS, Luật
khiếu nại năm 2011 và Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì có thể xác định được
những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng
cục trưởng Tổng cục TH DS, Cục trưởng Cục TH DS cấp tỉnh, Chi cục trưởng
Chi cục TH DS cấp huyện và Cục trưởng Cục TH thuộc Bộ Quốc phòng, Trưởng
phòng TH cấp quân khu. Cơ quan, người có thẩm quyền khi nhận được khiếu nại
của cán bộ, công chức TH DS phải có trách nhiệm xem xét trả lời đương sự theo
đúng thẩm quyền và đúng thời hạn được pháp luật quy định. Việc giải quyết tố cáo
được thực hiện theo quy định của Luật tố cáo năm 2011.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLVPPL gây thiệt hại trong khi thi hành
65
công vụ: Theo quy định tại Điều 60 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2009 thì trường hợp người thi hành công vụ cán bộ, công chức TH DS có trách
nhiệm hoàn trả do có hành vi V L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ không
đồng ý với quyết định hoàn trả thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định
hoàn trả theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLVPPL gây thiệt hại vật chất cho cơ quan
THADS: Cán bộ, công chức cơ quan TH DS bị xử lý trách nhiệm vật chất có quyền
khiếu nại về quyết định bồi thường thiệt hại của cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo Điều 4 Nghị định số 118/2006/NĐ-C
ngày 10/10/2006 của Chính phủ . Người bị xử lý kỷ luật lao động, bị tạm đình chỉ
công việc hoặc phải bồi thường theo chế độ trách nhiệm vật chất nếu thấy không
thỏa đáng có quyền khiếu nại với người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo
trình tự do pháp luật quy định Điều 132 Bộ luật lao động năm 2012 . Việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L gây thiệt hại vật chất trong cơ quan TH DS
được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, pháp luật về XLV L trong TH DS đã quy định khá đầy đủ về
vấn đề khiếu nại, tố cáo trong việc xử lý đối với mỗi loại V L trong TH DS. Việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo được tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật về
khiếu nại, tố cáo và pháp luật về XLV L trong TH DS quy định.
2.2.4. Hình thức thể hiện của pháp luật về xử l vi phạm pháp luật
trong thi hành án dân sự
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 1992, khái
niệm "hình thức" được hiểu là "toàn thể nói chung những gì làm thành mặt bề ngoài
của sự vật" và là "cái chứa đựng hoặc biểu hiện nội dung" [102]. Như vậy, hình
thức của pháp luật về XLV L trong TH DS được hiểu là nơi chứa đựng nội dung
của pháp luật về XLV L trong TH DS, đồng thời cũng là nơi tồn tại của nó ở
ngoài thế giới khách quan. Lý luận nhà nước và pháp luật chia tách hình thức của
pháp luật thành hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong
của pháp luật về XLV L trong TH DS là cơ cấu nội tại của nó. háp luật về
XLV L trong TH DS được cấu thành từ nhiều chế định cụ thể khác nhau và
trong mỗi chế định đó lại có các Q L cụ thể. Hình thức bên ngoài của pháp luật về
XLV L trong TH DS được hiểu là nơi chứa đựng nội dung các Q L và là căn
66
cứ pháp lý để XLV L trong TH DS. Có thể nói hình thức bên ngoài của pháp
luật về XLV L trong TH DS chính là hình thức thể hiện của nó [93].
Hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS liên quan đến nhiều ngành luật
khác nhau như: háp luật TH DS, pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hình
sự, pháp luật dân sự, pháp luật về cán bộ, công chức, pháp luật về trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước... háp luật về XLV L trong TH DS bao gồm toàn bộ các chế
định pháp luật về XLV L hành chính, xử lý tội phạm, XLV L dân sự, xử lý kỷ luật,
xử lý đối với hành vi V L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ của công chức
TH DS, xử lý đối với hành vi V L gây ra thiệt hại về vật chất cho cơ quan TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng bao gồm đầy đủ hệ thống Q L về XLV L
trong TH DS, đó là các Q L về V L; TN L; đối tượng chịu TN L; thời hiệu truy
cứu TN L; các hình thức và biện pháp XLV L; thẩm quyền XLV L trong TH DS;
trình tự, thủ tục XLV L và giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L trong TH DS.
Hình thức thể hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS chủ yếu qua
các văn bản Q L. Tuy nhiên, pháp luật về XLV L trong TH DS không phải là
một đạo luật chung, thống nhất mà nó được quy định trong rất nhiều văn bản Q L
khác nhau, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật chuyên ngành. Do đó, có thể nói,
các văn bản Q L về XLV L trong TH DS rất đa dạng và phong phú, bao gồm
từ Hiến pháp là đạo luật cơ bản đến các bộ luật, luật, pháp lệnh và các văn bản
hướng dẫn thi hành có các Q L về V L và XLV L trong TH DS.
Trước hết, nội dung các quy định pháp luật về XLV L trong TH DS được
quy định trong pháp luật TH DS các văn bản Q L về TH DS . háp luật TH DS
là tổng thể các Q L điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt
động TH DS, trong đó có các quy định về XLV L trong TH DS. háp lệnh
TH DS ngày 28/8/1989 là hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao, lần đầu tiên đã
được ban hành, đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường công tác TH DS, trong đó đã đề
cập đến vấn đề XLV L trong TH DS Chương 6, Điều 40 và 41 . Tiếp đến, háp
lệnh TH DS ngày 21/4/1993, háp lệnh TH DS ngày 14/01/2004 và Luật TH DS
năm 2008 đều quy định về vấn đề XLV L trong TH DS. Chương VII từ Điều 162
đến Điều 165 Luật TH DS năm 2008 quy định về xử lý vi phạm trong TH DS, trong
đó, quy định cụ thể về các hành vi vi phạm hành chính Điều 162 , thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính Điều 163 , xử phạt vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về
xử phạt vi phạm hành chính trong TH DS Điều 164 và xử lý vi phạm Điều 165 .
Điều 165 Luật TH DS năm 2008 đã nêu những nội dung mang tính nguyên tắc
67
trong việc XLV L trong TH DS, theo đó, tùy theo tính chất, mức độ hành vi
V L mà chủ thể thực hiện hành vi V L có thể bị xử lý hành chính, truy cứu trách
nhiệm hình sự, xử lý kỷ luật hoặc bồi thường thiệt hại... Điều này cũng hoàn toàn
phù hợp với pháp luật nội dung khác khi quy định về các V L cụ thể trong lĩnh
vực TH DS. Tuy nhiên, pháp luật TH DS chỉ quy định những vấn đề mang tính
nguyên tắc, là cơ sở pháp lý chung để thực hiện việc XLV L trong TH DS mà
không quy định về từng vấn đề cụ thể.
Bên cạnh đó, các chế định pháp luật về XLV L trong TH DS còn được
quy định cụ thể trong các luật chuyên ngành, được thể hiện qua nhiều văn bản
Q L khác nhau, cụ thể như sau:
XLVPPL hành chính trong THADS: háp luật hành chính điều chỉnh vấn đề
XLV L hành chính nói chung và trong lĩnh vực TH DS nói riêng. Việc XLV L
hành chính trong TH DS vừa phải căn cứ vào các quy định của Luật TH DS năm
2008, vừa phải căn cứ vào Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định số
81/2013/NĐ-C để quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi
phạm hành chính và Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư
pháp, hôn nhân và gia đình, TH DS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Xử lý tội phạm hình sự: háp luật hình sự quy định về tội phạm và hình
phạt nói chung, tội phạm và hình phạt trong lĩnh vực TH DS nói riêng. Do vậy,
việc xác định tội phạm và hình phạt trong TH DS phải căn cứ vào Bộ luật hình sự
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và trình tự, thủ tục truy cứu trách nhiệm
hình sự trong TH DS phải căn cứ vào Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng như
các văn bản hướng dẫn thi hành.
XLVPPL dân sự: háp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản, quan hệ
nhân thân có liên quan đến tài sản, quan hệ phi tài sản, trong đó có các quy định điều
chỉnh về hành vi V L dân sự và trách nhiệm dân sự trong TH DS. Việc xác định
các V L dân sự phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và trình
tự, thủ tục XLV L dân sự trong TH DS phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành.
Xử lý vi phạm kỷ luật: háp luật hành chính điều chỉnh vấn đề xử lý kỷ luật
đối với cán bộ, công chức nói chung và trong lĩnh vực TH DS nói riêng. Do đó,
việc xác định các hành vi V L của công chức TH DS cũng như vấn đề xử lý kỷ
luật đối với công chức TH DS phải căn cứ vào các quy định của Luật TH DS năm
68
2008, Luật cán bộ công chức năm 2008 và Nghị định số 34/2011/NĐ-C ngày
17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức. Việc xử lý
kỷ luật đối với lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS còn phải căn cứ vào các
quy định tại Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại trong thi hành công vụ: Việc xử lý
đối với hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trong thi hành công vụ của công chức
TH DS phải căn cứ vào các quy định của Điều 619 Bộ luật dân sự năm 2005, Luật
TH DS năm 2008, Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước năm 2009, Nghị định số 16/2010/NĐ-C ngày 03/3/2010 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước và Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày
15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TH DS.
Xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan THADS:
Việc xử lý đối với hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan
THADS của công chức TH DS phải căn cứ vào các quy định của Luật TH DS
năm 2008, Luật cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 118/2006/NĐ-C về
xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức, Nghị định số 107/2006/NĐ-
C ngày 22/9/2006 quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức đơn vị do mình quản
lý, phụ trách và Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-BNV-BTC ngày 20/05/2008
của Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 118/2006/NĐ-C
ngày 10/10/2006 của Chính phủ về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công
chức. Việc xử lý đối với hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan
TH DS của lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS phải căn cứ vào các quy
định tại Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Như vậy, pháp luật về XLV L trong TH DS là một hệ thống văn bản
pháp luật đa dạng về V L và XLV L trong TH DS. Nội dung pháp luật về
XLV L trong TH DS được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau
được thể hiện ở nhiều thứ bậc khác nhau, từ Bộ luật, Luật, háp lệnh, Nghị định đến
Thông tư... háp luật về TH DS chỉ quy định một cách chung nhất về vấn đề
XLV L trong TH DS, đó là những nội dung mang tính nguyên tắc và khái quát.
Vấn đề XLV L trong TH DS được phân loại theo từng loại V L và có pháp
luật nội dung điều chỉnh riêng biệt đối với mỗi loại V L đó. Thực tế đó cho thấy
69
sự tồn tại và liên quan mật thiết với nhau của pháp luật về TH DS và hệ thống
pháp luật nội dung khác. Việc xử lý đối với một loại V L cụ thể, một chủ thể cụ
thể trong TH DS vừa phải căn cứ vào pháp luật TH DS, vừa phải căn cứ vào pháp
luật nội dung điều chỉnh đối với loại V L đó.
Có thể nói, hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS tương đối đồ sộ
đã được hình thành trong thực tế, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội nói chung và trong lĩnh vực TH DS nói riêng. Đây là một tiền đề cơ
bản, quan trọng làm cơ sở cho những bước tiếp theo trên con đường tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS nhằm đáp ứng tốt hơn, hiệu quả
hơn yêu cầu, đòi hỏi của thực tế xã hội đối với vấn đề XLV L trong TH DS ở
nước ta hiện nay và trong giai đoạn những năm tiếp theo.
Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, pháp luật về TH nói chung và pháp
luật về XLV L trong TH DS nói riêng được quy định khá đầy đủ, chặt chẽ và có
tính khoa học cao. Ở một số nước, nội dung pháp luật về XLV L trong TH DS
được quy định ngay trong pháp luật về TH DS, thông qua thẩm quyền của Chấp hành
viên hoặc Thẩm phán TH . Chẳng hạn, ở Thụy Điển, pháp luật quy định Chấp hành
viên có quyền áp dụng biện pháp phạt tiền, nếu đã phạt tiền mà con nợ vẫn không đến
thì cơ quan TH có quyền yêu cầu cảnh sát bắt người phải TH . Cơ quan TH cũng
có quyền tạm giữ con nợ khi con nợ cố tình trì hoãn không lập danh sách kê khai tài
sản của mình theo yêu cầu của cơ quan TH [14]. Ở Đức, Chấp hành viên có quyền
yêu cầu cảnh sát áp giải đương sự theo giấy triệu tập đến cơ quan TH nếu đương sự
cố tình trốn tránh, được báo gọi nhiều lần mà không đến. Chấp hành viên có quyền
khám nhà và những nơi cất giữ tài sản của con nợ, có quyền cho mở khóa nhà, khóa
phòng hoặc ngăn có chứa đồ đạc bị khóa nếu thấy việc đó cần thiết cho việc TH .
Trong trường hợp con nợ chống đối hoặc phản kháng lại, Chấp hành viên có quyền
dùng vũ lực và yêu cầu cảnh sát hỗ trợ [15]. Ở các nước quy định về Thẩm phán
TH thì Thẩm phán TH có thẩm quyền rất lớn, gần như quyết định toàn bộ quá
trình TH . Thẩm phán TH có thẩm quyền ra các quyết định cho phép áp dụng
biện pháp sai áp tài sản, quyết định phá khóa, phá nhà, khám đồ vật, quyết định bắt
giữ người có hành vi cản trở, chống đối việc TH , quyết định dẫn giải người phải
TH khi đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình không có mặt... [25]. Bên
cạnh đó, nhiều nước trên thế giới cũng xây dựng pháp luật theo xu hướng các đạo
luật chung, cơ bản Bộ luật hình sự, Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính chỉ quy
định những vấn đề mang tính nguyên tắc, còn các nội dung cụ thể các V L như vi
phạm hành chính, tội phạm cụ thể được quy định trong các luật chuyên ngành,
70
chẳng hạn như Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính của Cộng hòa liên bang Đức,
Luật xử phạt hành chính của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa... chỉ quy định những
nguyên tắc chung, thẩm quyền xử phạt và thủ tục xử phạt còn vấn đề xử lý đối với
các vi phạm hành chính cụ thể được quy định trong các luật chuyên ngành [25].
Mặc dù pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng và pháp luật nội dung
nói chung ở các nước được quy định bằng những cách thức khác nhau nhưng xem xét
kinh nghiệm xây dựng pháp luật của các nước tiên tiến trên thế giới như háp, Hoa Kỳ,
Canada, Đức... có thể nhận thấy, ở các nước này thường xây dựng những bộ pháp điển
nhằm tập hợp, sắp xếp các Q L đang có hiệu lực pháp luật tại nhiều văn bản khác
nhau thành các bộ luật theo từng chủ đề [6]. hương pháp này có ý nghĩa rất lớn trong
thực ti n, vừa có thể tập hợp được tất cả các Q L đang nằm phân tán, rải rác ở nhiều
văn bản trong một văn bản pháp luật duy nhất, vừa minh bạch hóa và bảo đảm tính
cập nhật của các Q L thông qua việc bãi bỏ các nội dung không r ràng, mâu thuẫn,
không phù hợp, đồng thời, nó còn góp phần bảo đảm duy trì tính hệ thống của hệ
thống pháp luật, nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật cũng
như tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình làm luật. Đây chính là kinh nghiệm có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng cho nước ta trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng.
2.3. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.3.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong
thi hành án dân sự
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
XHCN. Do vậy, để quản lý xã hội được tốt đòi hỏi Nhà nước phải không ngừng xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của thực ti n quản lý xã hội [53].
háp luật về XLV L trong TH DS là một bộ phận của pháp luật Việt Nam,
là công cụ của Nhà nước trong việc quản lý hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS,
là cơ sở để thiết lập và củng cố trật tự pháp luật về TH DS. háp luật về XLV L
trong TH DS cũng như pháp luật Việt Nam nói chung luôn đặt ra yêu cầu cần được
hoàn thiện, làm cơ sở pháp lý đầy đủ và vững chắc cho việc quản lý xã hội của Nhà nước.
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một hoạt động gắn liền
với hoạt động xây dựng pháp luật về XLV L trong TH DS của Nhà nước. Đây
có thể nói là những hoạt động cơ bản và đặc thù của nhà nước. Nếu như hoạt động
xây dựng pháp luật là nhằm tạo ra những văn bản Q L về XLV L trong TH DS
71
thì hoạt động hoàn thiện pháp luật là nhằm làm cho những văn bản Q L đó được
hoàn chỉnh và toàn diện.
Xét về bản chất, xây dựng pháp luật về XLV L trong TH DS cũng chính
là một hoạt động của quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Mong muốn của hoạt động xây dựng pháp luật về XLV L trong TH DS là làm
thế nào để có được hệ thống pháp luật hoàn thiện. Hoạt động xây dựng pháp luật về
XLV L trong TH DS có chất lượng là cơ sở để pháp luật về XLV L trong
TH DS được hoàn thiện [53].
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một hoạt động được
tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu sôi động, biến đổi không
ngừng của đời sống xã hội, bảo đảm cho công tác quản lý nhà nước đạt kết quả cao
hơn. Có thể nhận thấy, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một hoạt
động xuất phát từ yêu cầu quản lý xã hội của Nhà nước. Thông qua hoạt động này,
các quy định của pháp luật được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho
phù hợp với nhu cầu điều chỉnh của pháp luật về XLV L trong TH DS [53].
Cũng có thể thấy, hoạt động hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
gắn liền với quá trình nhận thức của Nhà nước về nhu cầu cần điều chỉnh bằng
những quy định pháp luật đối với các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS. Do đó,
hoạt động hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS cần phải được thực hiện
thường xuyên, liên tục, mang tính cập nhật, kịp thời.
Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một hoạt động
mang tính củng cố, sửa chữa, điều chỉnh để những quy định pháp luật đã có được hoàn
chỉnh và toàn diện hơn nhằm tạo ra sự hoàn thiện của pháp luật về XLV L trong
TH DS, tức là làm cho hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS trở nên đồng
bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp ứng ngày càng đầy đủ các yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng
như thực ti n xã hội, điều chỉnh toàn bộ quá trình XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một quá trình được tiến
hành theo trình tự và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Quá trình hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS đòi hỏi trước hết phải xác định r nhu cầu cần
hoàn thiện pháp luật, trong đó, cần xác định r sự cần thiết, đối tượng, phạm vi,
phương pháp điều chỉnh của pháp luật, từ đó, làm sáng tỏ nội dung cần hoàn thiện.
Trên cơ sở đó, thực hiện các bước trong trình tự, thủ tục do Luật ban hành văn bản
Q L quy định để cụ thể hóa nội dung của việc hoàn thiện pháp luật về XLV L
72
trong THADS.
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một hoạt động gắn liền
với vai trò của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhất định. Đó là những chủ thể thực
hiện việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Những chủ
thể này có vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng tiến hành các hoạt
động nhằm chuyển hóa ý chí của nhà nước cũng như nguyện vọng của nhân dân
thành những quy định pháp luật về XLV L trong TH DS bảo đảm tính hoàn
chỉnh và toàn diện. Quá trình đó được thực hiện trên cơ sở phân công, phối hợp với
nhau theo đúng quy định của pháp luật [53].
Như vậy, có thể hiểu, hoàn thiện pháp luật về XLVPPL trong THADS là
quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, dựa trên những
nguyên tắc nhất định và bằng các hình thức, biện pháp khác nhau làm cho pháp
luật về XLVPPL trong THADS ngày càng được hoàn chỉnh, toàn diện, đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của quản lý
nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS cần phải được tiến hành về cả nội dung và hình thức thể hiện của
pháp luật. Nội dung pháp luật XLV L trong TH DS cần được hoàn thiện theo
hướng bảo đảm tính toàn diện và đồng bộ của các chế định pháp luật XLV L
hành chính, xử lý tội phạm, XLV L dân sự, xử lý vi phạm kỷ luật, xử lý đối với
hành vi V L trong khi thi hành công vụ, xử lý trách nhiệm vật chất và của các
Q L về V L, TN L, đối tượng chịu TN L, thời hiệu truy cứu TN L, các hình
thức và biện pháp XLV L, thẩm quyền XLV L, trình tự, thủ tục XLV L và
giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L trong TH DS đối với từng loại V L nên
cần đặt ra ở đây là phải bảo đảm nội dung pháp luật về XLV L trong TH DS
thống nhất, không mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo với nhau, mang tính phổ thông,
ổn định và có tính khả thi cao, phù hợp với thực ti n kinh tế, xã hội của đất nước.
Hình thức pháp luật về XLV L trong TH DS cần được hoàn thiện theo hướng
đồng bộ giữa các văn bản Q L, bao hàm và thể hiện được đầy đủ, minh bạch các
chế định pháp luật và các Q L, bảo đảm được sự thống nhất trong mỗi văn bản
Q L và trong toàn bộ hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS, được biểu
đạt bằng ngôn ngữ pháp lý r ràng, cô đọng, lô gíc, chính xác và một nghĩa.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
73
pháp luật về XLV L trong TH DS, có nhiều yếu tố không thể không tính đến
như: Điều kiện tài chính và cơ sở vật chất cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp
luật, trình độ, năng lực của các cơ quan, cán bộ, công chức tham gia công tác xây
dựng, hoàn thiện pháp luật... Mỗi yếu tố có ảnh hưởng khác nhau đến quá trình
hoàn thiện pháp luật, có thể theo hướng tích cực, thúc đẩy quá trình hoàn thiện pháp
luật di n ra nhanh, đúng hướng hoặc tiêu cực, gây cản trở đến quá trình hoàn thiện
pháp luật. Do đó, quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS phải có các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện, trong đó, ngoài các điều
kiện chung như chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ, tổ chức cán bộ... thì
cần có những điều kiện bảo đảm cụ thể như: Sự đổi mới trong quan điểm của Đảng
và chính sách pháp luật của Nhà nước về hoàn thiện pháp luật XLV L trong
TH DS, các điều kiện về tổ chức xây dựng, tổ chức thực hiện, tổ chức bảo vệ pháp
luật XLV L trong TH DS [53].... Theo đó, chúng ta cần tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện các quan điểm của Đảng về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS, đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường vai trò, năng lực của cơ quan
TH DS và đội ngũ cán bộ pháp lý trong hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS, đồng thời, cần tăng cường dân chủ, công khai trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có sự bảo
đảm về cơ sở vật chất, kinh phí, đầu tư trang thiết bị.... cho quá trình hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS. Có như vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS mới thực sự hiệu quả và đáp ứng được những yêu cầu của
thực ti n hiện nay.
2.3.2. Ý nghĩa của hoàn thiện pháp luật về xử l vi phạm pháp luật
trong thi hành án dân sự
Sau khi háp lệnh TH DS năm 1993 ra đời, Nhà nước đã ban hành một
loạt văn bản pháp luật mới liên quan đến công tác TH DS như: Bộ luật dân sự, Bộ
luật lao động, Luật đất đai… Bên cạnh đó, các quy định pháp luật liên quan đến
hoạt động TH DS như: Kinh tế, thương mại, lao động, hành chính…. còn rất nhiều
hạn chế. Chính điều đó đã làm cho các văn bản pháp luật về XLV L trong
TH DS thiếu tính thống nhất cao, tản mạn. Mặt khác, do chưa có pháp luật riêng về
XLV L trong TH DS mà việc xử lý đối với mỗi loại V L trong TH DS phải
áp dụng quy định chung của pháp luật chuyên ngành về loại V L đó, mang tính áp
dụng pháp luật chung vào một lĩnh vực cụ thể, cho nên, vấn đề XLV L trong
TH DS gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực ti n, hiệu quả đạt được chưa
74
cao, tính nghiêm minh của pháp luật chưa được bảo đảm. Vẫn còn tình trạng bỏ lọt
việc XLV L trong TH DS, gây ảnh hưởng tiêu cực đối với chất lượng, hiệu quả
công tác TH DS nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
háp luật về XLV L trong TH DS được quy định trong rất nhiều văn bản
Q L khác nhau nên hay thay đổi và thiếu tính ổn định. Bên cạnh đó, thực ti n cho
thấy, các văn bản pháp luật về XLV L trong TH DS chưa đầy đủ, chưa hoàn
chỉnh, có nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, vướng mắc và bất cập nhưng chậm được
khắc phục. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do vấn đề XLV L trong
TH DS chưa được điều chỉnh chung trong một đạo luật thống nhất, có hiệu lực
pháp lý cao, do cơ quan Quốc hội ban hành. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS là một đòi hỏi khách quan hiện nay.
Mặt khác, trong bối cảnh nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền thì
việc hoàn thiện các quy định pháp luật về XLV L trong TH DS sẽ góp phần bảo
đảm quyền, tự do cơ bản của công dân, đặc biệt khi người dân tham gia vào các
quan hệ TH DS.
Thực ti n hiện nay cho thấy, hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS
và việc thực thi pháp luật về XLV L trong TH DS đã bộc lộ những bất cập, hạn
chế đòi hỏi phải giải quyết kịp thời, đáp ứng yêu cầu phòng, chống V L đang di n
ra ngày càng phức tạp trong thực ti n TH DS. Trong khi đó, tình trạng V L trong
lĩnh vực TH DS đang xảy ra ngày càng nhiều. Hoạt động XLV L trong TH DS
chưa thực sự hiệu quả, không bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật cũng
như không bảo đảm được tính nghiêm minh của những bản án, quyết định dân sự
được thi hành theo pháp luật về TH DS. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự kiểm
soát của Nhà nước về công tác TH DS và vấn đề XLV L trong TH DS, ảnh
hưởng đến trật tự TH DS nói chung.
Trước yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế, cải cách bộ
máy nhà nước, cải cách hành chính, từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền
trong bối cảnh hội nhập toàn diện của Việt Nam thì vấn đề xúc tiến mạnh mẽ việc
cải cách hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về XLV L trong TH DS, nhằm
tạo ra sự đồng bộ, thống nhất của thể chế, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh
chống V L trong TH DS, đồng thời, đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, là
một vấn đề có tính thời sự, đặt ra cả dưới góc độ lý luận và thực ti n. Do đó, yêu
cầu hiện nay là cần phải hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS nhằm giải
quyết cơ bản những vấn đề hạn chế, bất cập đặt ra từ hệ thống pháp luật về
75
XLV L trong TH DS, đồng thời, xác lập cơ sở pháp lý mới với những nội dung
thay đổi phù hợp có tính khoa học và khả thi để nâng cao một bước cơ bản về hiệu
lực, hiệu quả của pháp luật XLV L trong TH DS đòi hỏi phải có sự nhìn nhận,
đánh giá khách quan, đầy đủ về thực trạng pháp luật XLV L trong TH DS hiện
hành và định hướng cơ bản cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
THADS ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của việc XLV L đối với hoạt
động TH DS cũng đang đặt ra yêu cầu cần phải hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS. Như đã đề cập ở trên, XLV L trong TH DS là một hoạt động mang
tính phòng ngừa, đấu tranh chống V L trong lĩnh vực TH DS. Đó là một hoạt
động nhằm bảo đảm tính công bằng trong lĩnh vực TH DS, bảo đảm tính nghiêm
minh của những bản án, quyết định được thi hành theo quy định của pháp luật về
TH DS. Hoạt động XLV L trong TH DS hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động TH DS. Đồng thời, XLV L trong TH DS là cơ sở bảo
đảm cho các quy định của pháp luật về TH DS được thực thi đúng đắn, nghiêm
minh và hiệu quả trong thực ti n, là cơ sở bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội
trong hoạt động TH DS. XLV L trong TH DS còn là một hoạt động có ý nghĩa
quan trọng trong việc giáo dục pháp luật về TH DS. Do đó, hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lĩnh
vực TH DS và là một đòi hỏi mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS còn có ý nghĩa về
chính trị, xã hội rất quan trọng ở nước ta hiện nay, cụ thể như sau:
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện sẽ góp phần thể chế hóa
đầy đủ, toàn diện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.
háp luật về XLV L trong TH DS nói riêng và hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung đều là phương tiện thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng. Nội dung pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở các quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng, phù hợp với lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Trên cơ sở
các quy định của pháp luật, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng được cụ
thể hóa một cách toàn diện nhất, chi phối và tác động tới mọi mặt của đời sống xã
hội, trở thành những quy tắc xử sự chung của cộng đồng. Do đó, pháp luật về
XLV L trong TH DS hoàn thiện sẽ trở thành phương tiện thể chế hóa đầy đủ và
toàn diện các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, là cơ sở bảo đảm cho các
quan điểm, đường lối, chính sách đó đi vào đời sống xã hội.
76
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện sẽ góp phần hoàn thiện pháp
luật về THADS, pháp luật về XLVPPL nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung.
háp luật về XLV L trong TH DS có sự liên hệ chặt chẽ với pháp luật về
TH DS và pháp luật về XLV L nói chung. Đó là mối liên hệ mật thiết và không
tách rời trong cùng một hệ thống pháp luật. Do đó, pháp luật về XLV L trong
THADS hoàn thiện sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về TH DS, pháp luật về
XLV L và ngược lại. Điều đó đòi hỏi pháp luật về XLV L trong TH DS và
pháp luật nội dung nói chung phải luôn có sự thống nhất và đồng bộ, không mâu
thuẫn và không chồng chéo với nhau. Đó chính là cơ sở góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện sẽ góp phần bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội.
háp luật về XLV L trong TH DS nói riêng và pháp luật nói chung đều
là những quy tắc xử sự chung trong đời sống xã hội. háp luật về XLV L trong
TH DS hoàn thiện là cơ sở để Nhà nước điều chỉnh và quản lý trật tự TH DS hiệu
quả hơn trong đời sống xã hội, đồng thời, là cơ sở để bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật và công bằng xã hội trong lĩnh vực TH DS.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện sẽ góp phần tăng cường
quản lý nhà nước về THADS.
háp luật về XLV L trong TH DS là những Q L điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS mà nội dung chủ yếu của nó là những vấn đề về
V L và XLV L trong TH DS. Thực chất, pháp luật là phương tiện để Nhà nước
quản lý và duy trì trật tự xã hội. háp luật về XLV L trong TH DS hoàn thiện là
phương tiện hữu hiệu để Nhà nước thực hiện quản lý đối với hoạt động TH DS, áp
dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn và loại bỏ các V L
trong TH DS ra khỏi đời sống xã hội, bảo đảm cho hoạt động TH DS di n ra bình
thường trong khuôn khổ pháp luật.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện sẽ góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác THADS.
Có thể nói, hiện nay, tình trạng V L trong TH DS còn nhiều, những hành
vi chống đối, cản trở hoạt động TH DS xảy ra khá phổ biến trên thực tế, đồng thời,
việc XLV L trong TH DS chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của thực ti n,
hiệu quả chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do
pháp luật về XLV L trong TH DS còn có những hạn chế, bất cập nhất định. Do
77
đó, pháp luật về XLV L trong TH DS hoàn thiện là cơ sở ngăn chặn, phòng ngừa
và đấu tranh loại bỏ các V L trong TH DS, đồng thời, góp phần nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật về TH DS của người dân. Theo đó, chất lượng và hiệu quả
công tác TH DS sẽ từng bước được nâng cao trong thực ti n.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện là cơ sở pháp lý đầy đủ và
vững chắc hơn để xử lý đối với những hành vi VPPL trong THADS.
Chủ thể thực hiện hành vi V L trong TH DS phải chịu hậu quả pháp lý
bất lợi, thể hiện sự trừng phạt của Nhà nước đối với những hành vi trái pháp luật.
háp luật XLV L trong TH DS quy định những vấn đề cơ bản về V L và
XLV L trong TH DS. Chỉ những hành vi V L về TH DS đã được pháp luật
quy định mới bị xử lý trên thực tế và chỉ xử lý bằng những hình thức, biện pháp
được pháp luật quy định đối với những đối tượng có năng lực TN L. Do vậy, pháp
luật về XLV L trong TH DS hoàn thiện chính là hành lang pháp lý vững chắc
cho việc XLV L trong TH DS nghiêm minh, công bằng và trên cơ sở pháp luật.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện tạo cơ sở chắc chắn hơn để
thiết lập, củng cố và tăng cường trật tự xã hội trong tổ chức, hoạt động THADS.
háp luật về XLV L trong TH DS là những Q L điều chỉnh những quan
hệ xã hội trong tổ chức và hoạt động TH DS. Bởi vậy, pháp luật về XLV L trong
TH DS có ý nghĩa quan trọng trong việc duy trì và bảo đảm trật tự pháp luật TH DS.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về XLV L trong TH DS, Nhà nước thiết
lập, củng cố và tăng cường trật tự xã hội trong tổ chức và hoạt động TH DS, bảo
đảm cho hoạt động TH DS di n ra bình thường trong khuôn khổ pháp luật.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện góp phần đảm bảo tốt hơn
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân.
háp luật về XLV L trong TH DS nói riêng và pháp luật Việt Nam nói
chung đều có vai trò là cơ sở đảm bảo quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội và công
dân. Đó là những giá trị xã hội có ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội. háp luật là
cơ sở để bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng đó. Mọi hành vi trái pháp luật
xâm hại quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân được pháp luật về
XLV L trong TH DS bảo vệ đều bị xử lý. Như vậy, chỉ có thể bằng phương tiện
pháp luật thì các quyền và lợi ích đó mới được bảo vệ một cách toàn diện.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện sẽ góp phần tăng cường cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị hữu quan trong hoạt động THADS.
XLV L trong TH DS là một dạng hoạt động thực thi pháp luật rất phức
tạp mà hiệu quả của nó không phải chỉ được quyết định ở một cơ quan nhất định.
78
Các V L trong TH DS rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực và nhiều mối
quan hệ khác nhau. Để hoạt động XLV L trong TH DS có hiệu quả đòi hỏi sự
tham gia, phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, đơn vị với nhau. Chẳng hạn, để xử
lý người phạm tội trong hoạt động TH DS cần có sự tham gia, phối hợp giữa cơ
quan THADS, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, chính
quyền địa phương… Chính bởi vậy, quá trình thực hiện pháp luật về XLV L trong
TH DS là cơ sở để tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị hữu quan
trong hoạt động TH DS.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS hoàn thiện sẽ có vai trò to lớn trong
việc giáo dục ý thức pháp luật cho mọi người.
Sự tồn tại của hệ thống Q L tự bản thân nó đã có ý nghĩa giáo dục, tác
động tới nhận thức và tư tưởng của mỗi thành viên trong xã hội. Những Q L về
XLV L trong TH DS được đặt ra đã xác định r quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mỗi chủ thể khi tham gia những quan hệ xã
hội trong lĩnh vực TH DS. Theo đó, mỗi chủ thể được sử dụng những quyền đã
được pháp luật về XLV L trong TH DS quy định để phục vụ lợi ích của mình
nhưng đồng thời cũng phải thực hiện những nghĩa vụ tương ứng khi tham gia các
quan hệ xã hội được pháp luật về XLV L trong TH DS xác lập và bảo vệ.
Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS là một vấn đề rất cần thiết nhằm xây dựng hệ thống Q L về
XLV L trong lĩnh vực TH DS hoàn chỉnh, toàn diện, đáp ứng được đầy đủ các
yêu cầu về quản lý nhà nước đối với việc XLV L trong TH DS cũng như các yêu
cầu của thực ti n kinh tế, xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.3.3. Tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về xử l vi
phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Có nhiều tiêu chí để xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L
trong TH DS, trong đó có các tiêu chí cơ bản là: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính
phù hợp, tính khoa học, tính thực ti n, tính công khai, minh bạch và tính dân chủ.
2.3.3.1. Tí t d
Tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên và cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện
của pháp luật về XLV L trong TH DS. Cũng như đối với hệ thống pháp luật nói
chung, tính toàn diện là tiêu chí để "định lượng" pháp luật về XLV L trong
TH DS, có ý nghĩa quan trọng nhằm tiếp tục nghiên cứu để "định tính" [82].
Về nội dung của pháp luật: Tính toàn diện đòi hỏi pháp luật về XLV L
trong TH DS phải có đủ các chế định pháp luật và các Q L.
79
Về hình thức thể hiện của pháp luật: Tính toàn diện đòi hỏi pháp luật về
XLV L trong TH DS phải bao hàm và thể hiện đầy đủ các chế định pháp luật và
các Q L về XLV L trong TH DS, đồng thời, phải có đầy đủ các văn bản
Q L, các chế định pháp luật, các Q L về XLV L trong TH DS và biểu hiện
được toàn bộ các nội dung của pháp luật về XLV L trong TH DS.
Trong việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, tính toàn diện
đòi hỏi pháp luật về XLV L trong TH DS cần được hoàn thiện về cả nội dung và
hình thức thể hiện của pháp luật.
Tính toàn diện được bảo đảm bởi 4 yếu tố chủ yếu sau:
Nhận thức tư tưởng thống nhất và đúng đắn là tiền đề tư tưởng trực tiếp
quan trọng để tiến hành có kết quả việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS. Yêu cầu ở đây là cán bộ và nhân dân, đặc biệt là cán bộ
trong các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trực tiếp xây dựng và ban hành pháp luật
cơ quan TH DS và Bộ Tư pháp phải nhận thức đúng đắn, khoa học quan điểm
của Đảng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và
pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng; nhận thức đúng đắn và đầy đủ về sự
cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
hát huy dân chủ, huy động được tất cả các cá nhân và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế và những đối tượng có
liên quan hoặc chịu sự tác động trực tiếp của pháp luật về XLV L trong TH DS
tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trở thành những chủ thể
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Số lượng các chủ thể
tham gia và chất lượng tham gia của các chủ thể đó vào quá trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một căn cứ quan trọng để đánh giá
mức độ toàn diện trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Chủ thể xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải
thực hiện đầy đủ, đúng đắn các yêu cầu, đòi hỏi về nội dung, hình thức, phương
pháp hoạt động trong từng giai đoạn xây dựng và hoàn thiện pháp luật, từ giai đoạn
soạn thảo nội dung văn bản Q L, thẩm định, thẩm tra đến soạn thảo và thông qua
văn bản Q L về XLV L trong TH DS.
Những điều kiện bảo đảm cho xây dựng và hoàn thiện pháp luật XLV L
trong TH DS về tổ chức - kỹ thuật kể cả kỹ thuật xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS , con người, vật chất, tinh thần... đều được huy động, sử dụng
80
vào các giai đoạn của quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS. Để xác định được hiệu quả của việc sử dụng những bảo đảm này cần dựa vào
các căn cứ như: Mục tiêu sử dụng, mức chi phí cho việc sử dụng và kết quả sử dụng,
trong đó mức chi phí là quan trọng nhất. Ngoài ra, đối với yếu tố con người, cần phải
tính đến năng lực và tinh thần trách nhiệm đối với công việc của từng người [54].
2.3.3.2. Tí đồ g bộ
Tính đồng bộ chính là cơ sở để xác định tính chất và trình độ của pháp luật
về XLV L trong TH DS. Tính đồng bộ của pháp luật về XLV L trong TH DS
thể hiện ở hai mức độ:
Ở cấp độ chung, đó là sự đồng bộ giữa các chế định pháp luật tương ứng
với các loại V L cụ thể.
Ở cấp độ cụ thể, đòi hỏi mỗi chế định pháp luật và giữa các Q L về
XLVPPL trong THADS luôn có sự thống nhất và nhất quán với nhau [82].
Hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS được cấu tạo bởi các thành
tố khác nhau, cho nên để bảo đảm được tính đồng bộ của pháp luật thì giữa các
thành tố cấu tạo nên nó trước hết là không được thiếu một bộ phận nào, sau đó là
phải không có sự mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Bất cứ một sự mâu thuẫn, chồng
chéo nào xảy ra trong nội dung cũng như hình thức thể hiện của pháp luật về
XLV L trong TH DS cũng đều phải được phát hiện và loại bỏ khỏi hệ thống.
Tính đồng bộ đòi hỏi công tác hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
cũng phải được thực hiện trên cả mặt nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật,
trong đó cần đặc biệt chú trọng ở công tác hệ thống hóa và kiểm tra các văn bản
Q L về XLV L trong TH DS. Hoạt động này sẽ giúp cho việc phát hiện những
khoảng trống, mâu thuẫn, chồng chéo, bất hợp lý trong nội dung pháp luật cũng như
hình thức pháp luật các văn bản Q L về XLV L trong TH DS được kịp thời
để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản Q L về
XLV L trong TH DS được phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của thực ti n [53].
2.3.3.3. Tí ù ợ
háp luật nói chung cần có sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế, xã
hội cũng như trình độ xây dựng pháp luật của đất nước, đồng thời, phải phản ánh
đúng trình độ phát triển đó [82]. Tính phù hợp đòi hỏi pháp luật về XLV L trong
TH DS phải bảo đảm về mặt nội dung và hình thức như sau:
Về nội dung pháp luật: Tính phù hợp đòi hỏi nội dung pháp luật về XLVPPL
trong TH DS phải phù hợp, có sự tương quan với điều kiện chính trị, kinh tế, xã
81
hội của đất nước, phù hợp với các quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước, những nguyên tắc và yêu cầu về xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật XHCN Việt Nam, trong đó, phải đảm bảo có đầy đủ các yếu tố về
công khai, minh bạch và dân chủ, đồng thời, có sự phù hợp, thống nhất, không mâu
thuẫn và chồng chéo với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Về hình thức thể hiện của pháp luật: Tính phù hợp đòi hỏi hình thức thể
hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS phải có sự phù hợp, thống nhất với
hình thức thể hiện của pháp luật Việt Nam nói chung, phù hợp với trình độ nhận
thức và tiếp cận của nhân dân, d tìm hiểu và d đi vào đời sống xã hội [53].
Trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS,
tính phù hợp đòi hỏi các nhà làm luật phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu các quy luật
kinh tế, điều kiện kinh tế - xã hội, các điều kiện chính trị, nội dung pháp luật quốc tế
cũng như các chủ trương, quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước,
trình độ nhận thức của nhân dân, các phong tục tập quán của đất nước, xu hướng
phát triển của đất nước và những dự báo khoa học... để xây dựng, hoàn thiện pháp
luật đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của tính phù hợp về cả nội dung và hình
thức thể hiện của pháp luật XLV L trong TH DS.
2.3.3.4. Tí k a ọc
Tính khoa học được thể hiện trên hai mặt là tổ chức xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS và nội dung xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLVPPL
trong TH DS. Đối với việc tổ chức xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS, cần xác định cụ thể, r ràng, dứt khoát và chuẩn bị đầy đủ mọi yếu tố: con
người, cơ sở vật chất - kỹ thuật, thời gian, địa điểm, kế hoạch, tiến độ hoàn thành, kết
quả đạt được... Đối với nội dung xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS cần xác định r mức độ, phạm vi, khối lượng công việc trong mỗi giai đoạn xây
dựng và hoàn thiện các văn bản Q L, làm cho chúng phù hợp với mục tiêu và khả
năng thực tế để thực hiện. Tính khoa học đòi hỏi pháp luật về XLV L trong TH DS
được biểu hiện ở nội dung và hình thức các kết quả cụ thể đã đạt được trong mỗi giai
đoạn của quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS [53].
Về nội dung pháp luật: Tính khoa học đòi hỏi pháp luật về XLV L trong
TH DS được xây dựng và hoàn thiện theo những nguyên tắc tối ưu, xác định được
chính xác cơ cấu nội tại của nó và ở trình độ kỹ thuật lập pháp cao. Nội dung pháp
luật về XLV L trong TH DS phải được xây dựng theo quan điểm toàn diện, có
đủ luận cứ khoa học, mang tính phổ thông và ổn định cao.
82
Về hình thức thể hiện của pháp luật: háp luật về XLV L trong TH DS phải
được biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý r ràng, cô đọng, lô gíc, chính xác và một nghĩa.
Tính khoa học đặt ra yêu cầu cần phải huy động được trí tuệ của con người
cũng như những trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS. Việc huy động được trí tuệ, đặc biệt là trí tuệ của các nhà
khoa học, sẽ xây dựng được những quan điểm khoa học mang tính toàn diện, đề ra
những luận cứ khoa học phù hợp để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS. Việc huy động các trang thiết bị hiện đại sẽ giúp cho công tác hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS được thực hiện ở một trình độ kỹ thuật cao,
đáp ứng được yêu cầu của thực ti n và thời đại.
2.3.3.5. Tí t ực t ễ
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền, một mặt, thường xuyên
nghiên cứu, khảo sát nhu cầu, đòi hỏi về sự điều chỉnh của pháp luật về XLV L
trong TH DS, mặt khác, có tính tới khả năng, điều kiện hiện có để thực hiện các
Q L sẽ được ban hành. Bên cạnh đó, các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải thường xuyên tổng kết thực ti n
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS để rút ra những bài học,
kinh nghiệm cần thiết [53].
Tính thực ti n đòi hỏi công tác hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS phải thường xuyên có sự kiểm nghiệm và đánh giá, tổng kết pháp luật qua
thực ti n thi hành. Qua quá trình kiểm nghiệm, tổng kết, có thể đánh giá được mức
độ phù hợp cũng như tính khả thi của pháp luật về XLV L trong TH DS, đồng
thời, có thể dự liệu được những vấn đề phát sinh trong quan hệ xã hội cần có sự
điều chỉnh của pháp luật, từ đó, có sự sửa đổi, bổ sung hoặc điều chỉnh kịp thời
những nội dung của pháp luật về XLV L trong TH DS cho phù hợp và đáp ứng
đầy đủ những yêu cầu của thực ti n.
2.3.3.6. Tí cô g k a , b c
Tính công khai, minh bạch bắt nguồn từ quyền lực của pháp luật, trong điều
kiện hội nhập quốc tế, là một đòi hỏi, yêu cầu khách quan của hệ thống pháp luật
nói chung, pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng [53].
Tính công khai, minh bạch đòi hỏi pháp luật về XLV L trong THADS
phải được ban hành đúng thẩm quyền, theo trình tự luật định và công bố rộng rãi
theo quy định của pháp luật. Mọi trình tự, thủ tục của pháp luật về XLV L trong
83
TH DS phải đầy đủ, r ràng, cụ thể, ổn định, có thể dự đoán trước, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận và thực hiện, tránh được sự tùy tiện.
Tính công khai, minh bạch đòi hỏi các văn bản pháp luật về XLV L trong
TH DS phải tiến tới được ban hành với hình thức pháp lý cao, hạn chế tối đa các
văn bản mang tính chất hướng dẫn, có phạm vi điều chỉnh hẹp hoặc giới hạn nội bộ.
Ngôn ngữ thể hiện trong mỗi văn bản phải r ràng, cụ thể, mạch lạc, một nghĩa và
d hiểu, d thực hiện [53].
Trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS,
tính công khai, minh bạch đòi hỏi các nhà làm luật phải có sự nghiên cứu, am hiểu
sâu về pháp luật trong nước cũng như pháp luật quốc tế, tuân thủ triệt để các nguyên
tắc lập pháp trong quá trình thực hiện, đồng thời, phải có sự đánh giá đúng đắn và
đầy đủ về trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như trình độ nhận
thức của người dân ở mỗi thời điểm... để quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của tính công khai,
minh bạch về cả nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật.
2.3.3.7. Tí dâ c ủ
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải
có sự tham gia rộng rãi, tích cực của nhân dân và các tổ chức xã hội dưới các hình
thức khác nhau.
Tính dân chủ đòi hỏi các Q L về XLV L trong TH DS phải thể hiện
được ý chí, nguyện vọng chính đáng của đông đảo nhân dân, đồng thời, phải có cơ
chế để nhân dân tham gia, giám sát quá trình thực hiện một cách có hiệu quả.
Tính dân chủ đòi hỏi pháp luật về XLV L trong TH DS phải được thể
hiện bằng các hình thức phù hợp với trình độ nhận thức của nhân dân, được di n đạt
d hiểu, d tiếp cận và thực hiện, ngôn ngữ pháp lý mang tính phổ thông cao [53].
Trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS,
tính dân chủ đòi hỏi Nhà nước phải công bố, công khai và tổ chức lấy ý kiến rộng
rãi đến các tầng lớp nhân dân về quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung. Nhà nước
cũng cần có những thiết chế tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân có thể tiếp cận và
tham gia đóng góp ý kiến của mình trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp
luật về XLV L trong TH DS.
Ngoài ra, để xác định được mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L
trong TH DS cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác như: Tính khả thi, tính hiệu
quả, tính thống nhất, tính hiện đại, tính cụ thể, tính xã hội hóa, trình độ kỹ thuật lập
84
pháp... Những tiêu chí này cùng với các tiêu chí cơ bản như nêu trên là cơ sở giúp
cho việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L trong TH DS được
đầy đủ và toàn diện.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
1. VPPL trong TH DS là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng
lực TN L thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS, được pháp
luật về TH DS xác lập và bảo vệ. V L trong TH DS gồm có: V L hành chính,
tội phạm, V L dân sự, vi phạm kỷ luật, V L gây thiệt hại trong khi thi hành
công vụ về TH DS và V L gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan TH DS. V L
trong TH DS là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu TN L trong TH DS. Mỗi
V L trong TH DS có TN L tương ứng: Trách nhiệm hành chính, trách nhiệm
hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
trách nhiệm hoàn trả của người gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ và trách
nhiệm vật chất trong TH DS.
2. XLV L trong TH DS là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
nhà nước và cá nhân có thẩm quyền nhằm xử lý đối với chủ thể thực hiện hành vi
V L trong TH DS bằng nhiều biện pháp khác nhau tương ứng với mỗi loại V L
có tính chất cưỡng chế và thể hiện quyền lực nhà nước. XLV L trong TH DS
gồm có: XLV L hành chính, xử lý tội phạm hình sự, XLV L dân sự, xử lý vi
phạm kỷ luật, XLV L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ và XLV L gây
thiệt hại cho cơ quan TH DS. XLV L trong TH DS có những dấu hiệu, đặc
điểm chung của XLV L, đồng thời, có những đặc trưng riêng cho phép phân biệt
với XLV L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. XLV L trong TH DS
có ý nghĩa rất quan trọng, là hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống V L trong
TH DS, bảo đảm công bằng trong TH DS, bảo đảm tính nghiêm minh của những
bản án, quyết định được thi hành theo quy định của pháp luật về TH DS, đồng
thời, đó cũng là hoạt động góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
TH DS, là cơ sở bảo đảm cho các quy định của pháp luật về TH DS được thực thi
đúng đắn, nghiêm minh và hiệu quả trong thực ti n, góp phần bảo đảm an ninh trật
tự và an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS.
3. háp luật về XLV L trong TH DS là tổng thể các Q L điều chỉnh
hoạt động xử lý đối với những hành vi V L xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh
trong tổ chức và hoạt động TH DS. Nội dung pháp luật về XLV L trong TH DS
bao gồm toàn bộ các quy định về V L; TN L; đối tượng chịu TN L; thời hiệu
85
truy cứu TN L; các hình thức và biện pháp XLV L; thẩm quyền XLV L; trình
tự, thủ tục XLV L và giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L trong TH DS.
Hình thức thể hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS rất đa dạng và phong
phú, bao gồm nhiều văn bản Q L với các thứ bậc khác nhau, liên quan đến nhiều
luật chuyên ngành khác nhau. háp luật về XLV L trong TH DS có những đặc
trưng riêng do đặc thù của lĩnh vực TH DS quyết định. Chính điều này là cơ sở để
phân biệt bản chất của pháp luật về XLV L trong TH DS với pháp luật về
XLV L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
4. Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là quá trình hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, dựa trên những nguyên tắc nhất định
và bằng các hình thức, biện pháp khác nhau trên cơ sở cụ thể hóa ý chí của nhà
nước và nguyện vọng của nhân dân. Mục tiêu là làm cho hệ thống pháp luật
XLV L trong TH DS được toàn diện, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch,
có tính khả thi cao, có sự đổi mới căn bản, có đầy đủ các chế định pháp luật và hệ
thống Q L về XLV L trong TH DS, đáp ứng được yêu cầu quản lý và duy trì
trật tự pháp luật TH DS ổn định, trong khuôn khổ pháp luật, đáp ứng được yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng như
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Quá trình hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, do đó, Nhà
nước cần có các điều kiện để đảm bảo cho quá trình đó được hiệu quả và đáp ứng
được yêu cầu của thực ti n. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong THADS
cần phải được tiến hành về cả nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật.
5. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay là rất cần
thiết và là một đòi hỏi mang tính khách quan. Từ thực ti n hiện nay đang đặt ra yêu
cầu cần phải hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực TH DS nói
riêng và trong đời sống xã hội nói chung.
6. Để xác định được mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L trong
THADS cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó có các tiêu chí cơ
bản: Tính toàn diện, tính đồng bộ, tính khoa học, tính thực ti n, tính phù hợp, tính
công khai, minh bạch và tính dân chủ. Những tiêu chí này cùng với các tiêu chí
khác là cơ sở giúp cho việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L
trong TH DS được đầy đủ và toàn diện.
86
C ươ g 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1.1. Ƣu điểm và thành tựu
Trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS đã từng bước
được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của thực ti n, là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động
XLV L trong TH DS được đúng đắn, nghiêm minh, công bằng và hiệu quả, góp phần
quan trọng trong việc phòng ngừa, đấu tranh chống các V L trong lĩnh vực TH DS,
giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân, đồng thời, tạo môi trường thuận lợi để hoạt động TH DS đạt chất lượng cao.
Căn cứ vào các tiêu chí cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật
về XLV L trong TH DS, có thể nhận thấy một số ưu điểm và thành tựu cơ bản,
r nét về pháp luật XLV L trong TH DS như sau:
Trước hết, có thể nhận thấy, pháp luật về XLVPPL trong THADS được ban
hành tương đối đầy đủ và toàn diện đáp ứng yêu cầu XLVPPL trong THADS.
Xét về nội dung của pháp luật, có thể nói, pháp luật về XLV L trong
TH DS đã quy định một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về các loại V L, các
hành vi V L trong TH DS. Theo đó, V L trong TH DS đã bao hàm đầy đủ
trong nó các loại V L của đời sống xã hội. Trong mỗi loại V L trong TH DS,
pháp luật đã có những quy định cụ thể, r ràng về từng hành vi V L. Những quy
định này cho phép chúng ta phân biệt được các loại V L trong TH DS với các
loại V L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đồng thời, đó chính là căn
cứ pháp lý để xử lý các hành vi V L trong lĩnh vực TH DS trên thực ti n.
háp luật về XLV L trong TH DS đã xác định được từng loại TN L đối
với mỗi V L trong TH DS, tạo cơ sở pháp lý để xử lý đối với các chủ thể V L
trong THADS.
Việc xác định đối tượng chịu TN L trong TH DS rất phức tạp, bao gồm
nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống xã hội, bất cứ cá nhân, tổ chức nào có
hành vi V L xâm phạm tổ chức và hoạt động TH DS. Đối tượng chịu TN L
trong TH DS được pháp luật quy định theo từng loại V L, tạo cơ sở pháp lý quan
trọng để XLV L đối với từng vụ việc cụ thể trong TH DS.
87
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã xác định r vấn đề thời hiệu
truy cứu TN L trong TH DS. Thời hiệu XLV L trong TH DS được pháp luật quy
định riêng đối với mỗi loại V L, không có quy định thời hiệu chung về xử lý đối với
mọi V L trong TH DS. Do đó, việc xác định thời hiệu để xử lý từng loại V L
cụ thể trong TH DS phải căn cứ vào quy định pháp luật đối với mỗi loại V L đó.
háp luật về XLV L trong TH DS đã quy định tương đối đầy đủ về các
hình thức và biện pháp XLV L trong TH DS, theo đó, trong lĩnh vực TH DS có
V L nào thì sẽ có hình thức, biện pháp xử lý tương ứng.
Vấn đề thẩm quyền XLV L trong TH DS cũng được pháp luật quy định cụ
thể theo mỗi loại V L riêng biệt, theo đó, có thẩm quyền XLV L hành chính, thẩm
quyền xử lý tội phạm hình sự, thẩm quyền xử lý vi phạm kỷ luật, thẩm quyền XLV L
dân sự, thẩm quyền XLV L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ về TH DS,
thẩm quyền XLV L gây thiệt hại về vật chất trong cơ quan TH DS. Các quy định
của pháp luật về thẩm quyền XLV L là cơ sở pháp lý quan trọng để việc XLV L
trong TH DS được thực hiện nghiêm chỉnh, đúng thẩm quyền và trên cơ sở pháp luật.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã quy định tương đối đầy đủ,
chi tiết về trình tự, thủ tục XLV L trong TH DS. Tuy nhiên, pháp luật không quy
định trình tự, thủ tục chung về xử lý đối với tất cả V L trong TH DS. Mỗi loại
V L trong TH DS tuân theo một trình tự, thủ tục khác nhau, do pháp luật quy định.
Tóm lại, một thành tựu cơ bản và r nét có thể nhận thấy, đó là trong những
năm qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản Q L khá đồ sộ về
XLV L trong lĩnh vực TH DS. Hệ thống văn bản pháp luật này là tương đối toàn
diện, bao hàm trong đó đầy đủ những Q L về V L và XLV L trong TH DS,
là cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động XLV L trong TH DS trên thực ti n.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS cơ bản đã có sự đồng bộ và thống nhất
nhất định.
Ở mức độ chung, có thể thấy rằng, mặc dù pháp luật về XLV L trong TH DS
không phải là một hoặc một nhóm văn bản Q L chung, thống nhất mà là tập hợp
của nhiều văn bản pháp luật nội dung khác nhau nhưng giữa các chế định pháp luật này
đã có sự đồng bộ, thống nhất nhất định. Chẳng hạn, những nội dung của pháp luật
về XLV L hành chính trong TH DS có sự kế thừa và tiếp nhận những nội dung về
xử lý tội phạm hình sự như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, phòng vệ chính đáng, hình
thức xử phạt chính và bổ sung... Trong nhiều trường hợp, giữa vi phạm hành chính, vi
phạm kỷ luật và tội phạm trong TH DS chỉ là một ranh giới mỏng manh mà vượt
88
qua nó, vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật có thể chuyển hóa thành tội phạm trong
TH DS. Ngược lại, cùng một hành vi nhưng nếu vi phạm với số lượng không lớn
hoặc không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc không có hậu quả hoặc chưa bị XLV L
hành chính hoặc xử lý kỷ luật... thì chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự.
Ở mức độ cụ thể, pháp luật về XLV L trong TH DS cũng đã có sự đồng
bộ, thống nhất nhất định trong mỗi Q L. Chẳng hạn, các quy định pháp luật về
XLV L hành chính trong TH DS đã xác định cụ thể những hành vi V L hành
chính trong TH DS, từ đó xác định các hình thức và biện pháp xử lý, thẩm quyền
xử lý cũng như trình tự, thủ tục XLV L hành chính trong TH DS... Những nội
dung pháp luật này có sự thống nhất căn bản với nhau tạo thành hệ thống quy định
pháp luật về XLV L hành chính trong TH DS. Việc xử lý tội phạm hình sự trong
TH DS cũng vậy, các quy định pháp luật về xác định hành vi phạm tội cũng như
thẩm quyền, trình tự, thủ tục và chế tài của nó đều có sự thống nhất với nhau, tạo
thành những quy định cụ thể về xử lý tội phạm hình sự trong TH DS...
Nói chung, trong các chế định hay các Q L về xử lý đối với mỗi V L
trong TH DS có sự thống nhất, đồng bộ cơ bản trong bản thân nó, tạo thành chỉnh
thể tương đối thống nhất về mỗi loại V L trong TH DS.
Pháp luật về XLVPPL trong lĩnh vực THADS cơ bản đã phù hợp với điều
kiện chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta.
Trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS đã được xây
dựng và từng bước hoàn thiện trên cơ sở thực ti n chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của đất nước, thể hiện r quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước ta. Do đó, các quy định pháp luật phù hợp và phản ánh
tương đối đầy đủ, r nét thực ti n, trình độ phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của đất nước, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhất là
các chủ trương lớn được nêu trong Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, phù hợp căn bản với những nguyên tắc, yêu
cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Đồng thời, pháp luật cũng phản ánh được nguyện vọng, nhu cầu của nhân
dân về XLV L nói chung và XLV L trong TH DS nói riêng. Theo đó, những
quy định pháp luật về V L và XLV L trong lĩnh vực TH DS đều nhằm mục
đích bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của Nhà nước và công dân, bảo đảm sự
công bằng cho người dân khi tham gia vào quan hệ TH DS. Mọi hành vi V L
89
xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đều phải chịu hậu quả
pháp lý bất lợi trên cơ sở quy định của pháp luật. Xét ở khía cạnh này cho thấy, mục
đích của pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS chính là hướng đến phục vụ
nhu cầu và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân khi tham gia các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu
của quản lý nhà nước. Các quy định của pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện XLV L trong TH DS cũng như quản lý
đối với việc XLV L trong lĩnh vực TH DS. Mặt khác, pháp luật về XLV L
trong TH DS cũng chính là công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý và duy trì
trật tự trong TH DS. Điều này được thể hiện r nét trong những quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn
XLVPPL trong THADS...
Nội dung của pháp luật cũng đã có sự phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
cũng như các yêu cầu khách quan của lĩnh vực TH DS. Những quy định về các
hành vi V L và hình thức, biện pháp XLV L trong TH DS đã phản ánh tương
đối đầy đủ, khách quan sự vận động, phát triển của các mối quan hệ xã hội trong
lĩnh vực TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã kế thừa có chọn lọc kinh
nghiệm của các nước trong việc xây dựng pháp luật, đảm bảo các nội dung pháp luật
không mâu thuẫn, chồng chéo với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Các văn bản về XLV L trong TH DS có sự phù hợp, thống nhất cơ bản
với nhau, văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý
cao hơn, Q L do cơ quan cấp dưới ban hành phù hợp với Q L do cơ quan cấp
trên ban hành và phù hợp với Hiến pháp.
Như vậy, hình thức thể hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS có sự
phù hợp cơ bản với thực ti n ban hành văn bản Q L của nước ta cũng như phù
hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Văn bản Q L là hình thức pháp luật
tiến bộ nhất, trong đó được phân ra theo thứ bậc cao thấp khác nhau là Hiến pháp,
luật và các văn bản Q L dưới luật. Mặc dù pháp luật về XLV L trong TH DS
được quy định trong nhiều văn bản Q L có thứ bậc khác nhau nhưng có sự gắn kết
thống nhất, phù hợp cơ bản với nhau. Các văn bản Q L về XLV L trong
TH DS được ban hành theo đúng thẩm quyền, có hình thức kết cấu và bố cục
tương đối chặt chẽ, hợp lý. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động thực hiện
90
pháp luật và tuân thủ pháp luật về XLV L trong TH DS đạt được hiệu quả cao
trong thực ti n.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS đã đáp ứng được tương đối yêu cầu
của tính khoa học.
Có thể nhận thấy, pháp luật về XLV L trong TH DS đã được xây dựng
trên quan điểm toàn diện, theo những nguyên tắc tối ưu, có đủ những luận cứ khoa
học, xác định được cơ cấu nội tại của nó, đồng thời, nó cũng được xây dựng ở một
trình độ kỹ thuật lập pháp ngày càng cao.
Từ các quy định của pháp luật hiện hành cho thấy, trong quá trình xây dựng và
từng bước hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, chúng ta đã xác định được
vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc XLV L nói chung và XLV L trong TH DS nói
riêng, từ đó, ban hành các văn bản Q L để quy định về vấn đề VPPL và XLVPPL
trong TH DS phù hợp với thực ti n kinh tế, xã hội của đất nước, khắc phục những tồn
tại và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh hoặc đang đặt ra xâm hại đến tổ chức
và hoạt động TH DS. Hệ thống văn bản Q L về XLV L trong TH DS cơ bản đã
đáp ứng được yêu cầu về XLV L trong TH DS ở nước ta trong những năm qua.
Có thể thấy, tính khoa học của pháp luật về XLV L trong TH DS được
biểu hiện r nét ở kết quả đã đạt được trong mỗi giai đoạn của quá trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật. Trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS
đã từng bước được hoàn thiện ở từng giai đoạn khác nhau để đáp ứng yêu cầu của
thực ti n. Đối với pháp luật TH DS, từ năm 1993 đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn xây dựng và hoàn thiện, thể hiện bằng việc ra đời háp lệnh TH DS năm
1993, háp lệnh TH DS năm 2004 và Luật TH DS năm 2008 cùng với hệ thống
văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với pháp luật về mỗi loại V L nói chung cũng vậy,
có sự xây dựng và hoàn thiện qua từng giai đoạn khác nhau, chẳng hạn, đối với pháp
luật xử lý vi phạm hành chính thể hiện qua các giai đoạn như sự ra đời của háp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989, háp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
1995, háp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và háp lệnh xử lý vi phạm
hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012...
Nội dung của pháp luật về XLV L nói chung cũng chính là cơ sở để đánh giá
tính khoa học của pháp luật về XLV L trong TH DS mà kết quả cụ thể của nó gắn
với từng giai đoạn xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mỗi loại V L đó. Đến nay,
chúng ta đã có được một hệ thống Q L tương đối đầy đủ và toàn diện về XLV L
trong TH DS, là cơ sở để xử lý đối với mọi hành vi V L trong TH DS trên thực ti n.
91
Pháp luật XLVPPL trong THADS đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của tính
thực tiễn.
Xét về nội dung pháp luật, có thể thấy, pháp luật về XLV L trong
TH DS là những quy tắc ứng xử chung của cộng đồng, đã được áp dụng và bảo
đảm được thực hiện trong thực ti n, đồng thời, đã phát huy được vai trò tích cực
trong đời sống xã hội, trở thành công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo an ninh trật
tự và an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS.
Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật hiện hành về XLV L trong
TH DS đã xây dựng được cơ chế quản lý thống nhất về hoạt động XLV L trong
lĩnh vực TH DS, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cũng như tăng cường mối quan
hệ giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan với nhau. Điều này được thể hiện r trong
những quy định về thẩm quyền XLV L, trình tự, thủ tục XLV L, giải quyết
khiếu nại, tố cáo về XLV L… Qua đó đã giúp cho hoạt động XLV L trong
TH DS thống nhất trong toàn quốc, góp phần bảo đảm các quy định pháp luật được
thực thi nghiêm minh, có hiệu quả trên thực tế cũng như phục vụ các nhiệm vụ
chính trị nói chung.
háp luật về XLV L trong TH DS là cơ sở và có ý nghĩa tạo tiền đề cho
hoạt động của cơ quan TH DS, các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan
tiến hành tố tụng trong quá trình tham gia vào các quan hệ TH DS được minh bạch
và công khai hơn, mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia và thực
hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động TH DS nói chung và hoạt động
XLV L trong TH DS nói riêng.
Trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS,
chúng ta luôn có sự tìm hiểu những yêu cầu, đòi hỏi của thực ti n xã hội, có sự tiếp
thu, chọn lọc kinh nghiệm của thực tế đất nước và quốc tế, từ đó, có sự điều chỉnh
cho phù hợp. Do đó, hình thức pháp luật về XLV L trong TH DS đã ngày càng
được hoàn thiện, đáp ứng được đầy đủ hơn những yêu cầu của thực ti n xã hội.
Ngày nay, việc tra cứu, tìm hiểu những quy định pháp luật nói chung và
pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng đã trở nên d dàng, thuận lợi hơn.
Việc tiếp cận những văn bản Q L về XLV L trong TH DS cũng trở nên đơn
giản hơn so với trước đây. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thực
hiện pháp luật và áp dụng pháp luật trong giai đoạn hiện nay, đồng thời, đây cũng
chính là cơ sở cần thiết để hệ thống văn bản Q L về XLV L trong TH DS d đi
vào cuộc sống, có tính hiệu quả cao hơn và nhân dân có thể d tiếp nhận hơn.
92
Pháp luật về XLVPPL trong THADS đã cơ bản bảo đảm được tính công
khai, minh bạch.
háp luật về XLV L trong TH DS là những quy tắc xử sự chung để tất
cả mọi người khi tham gia vào quan hệ TH DS đều phải biết và tuân theo. Các
Q L về XLV L trong TH DS, đặc biệt là những quy định về trình tự, thủ tục là
tương đối đầy đủ, r ràng, cụ thể, phù hợp, ổn định. Những quy định chung chung,
nặng về định tính dần dần được thay thế bằng các quy định cụ thể, r ràng. Nhờ đó,
tính minh bạch của quy định pháp luật ngày càng được nâng cao, có ý nghĩa lớn đối
với việc khắc phục tình trạng tùy tiện trong xác định và XLVPPL trong THADS.
Có thể nhận thấy, pháp luật về XLV L trong TH DS được thể hiện bằng
những hình thức phổ biến, thông dụng và được công bố rộng rãi trong đời sống xã
hội, thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận và thực hiện để bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Việc tiếp cận, tìm hiểu những quy định pháp luật về
XLV L trong TH DS hiện nay là rất thuận lợi, có thể thông qua nhiều hình thức
khác nhau như: Tra cứu qua hệ thống công báo, qua mạng internet, các tài liệu phổ
biến, tuyên truyền pháp luật của các cơ quan nhà nước hoặc người dân cũng có thể
hỏi trực tiếp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền... Xét ở khía cạnh này, có thể nói,
pháp luật về XLV L trong TH DS đã có sự công khai, minh bạch cần thiết và cơ
bản đáp ứng được yêu cầu của thực ti n xã hội cũng như nhu cầu tìm hiểu pháp luật
của người dân khi tham gia vào các quan hệ TH DS.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS đã cơ bản bảo đảm được tính dân chủ.
Xét về nội dung pháp luật, có thể thấy, các Q L về XLV L trong
TH DS thể hiện tương đối đầy đủ, đúng đắn ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
đồng thời phản ánh sát với yêu cầu của đời sống xã hội.
Như đã trình bày ở các phần trên, mục đích quan trọng của pháp luật về
XLV L trong TH DS chính là bảo đảm công bằng và duy trì trật tự xã hội trong
lĩnh vực TH DS. Những quy định của pháp luật về XLV L trong TH DS chính
là nhằm xử lý đối với mọi hành vi V L xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhà nước và công dân. Điều này thể hiện cụ thể trong những quy định về các hành
vi VPPL và TNPL trong TH DS. Ở góc độ này, có thể nhận thấy, nội dung pháp
luật về XLV L trong TH DS có tính dân chủ tương đối r rệt.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã xây dựng được cơ chế để nhân dân tham gia
góp ý kiến vào quá trình xây dựng văn bản Q L và tham gia giám sát hoạt động
XLV L trong TH DS một cách có hiệu quả. Điều này thể hiện ở ngay trong
93
những quy định về xử lý đối với những hành vi vi phạm việc XLV L trong lĩnh
vực TH DS của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền, những quy định
về khiếu nại, tố cáo, khởi kiện và việc giải quyết đối với các khiếu nại, tố cáo hay
khởi kiện của người dân...
Xét về hình thức thể hiện, có thể nhận thấy, pháp luật về XLV L trong
TH DS được thể hiện bằng các hình thức phù hợp với trình độ nhận thức của nhân
dân, được di n đạt d hiểu, d tiếp cận và thực hiện, ngôn ngữ pháp lý mang tính
phổ thông cao.
Như vậy, trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS
không ngừng được hoàn thiện về cả mặt nội dung và hình thức. Những thành tựu và
kết quả đạt được trên thực tế là rất quan trọng và là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về XLV L trong TH DS nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu
ngày càng cao của thực tế xã hội.
Trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về XLVPPL trong THADS cũng đã
đạt được một số thành tựu quan trọng, điều này được thể hiện ở một số điểm như sau:
háp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về XLV L trong TH DS nói
riêng là công cụ quản lý xã hội sắc bén của Nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật chỉ có
thể phát huy được vai trò và những giá trị của nó trong việc duy trì trật tự và tạo
điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống.
Vì vậy, tổ chức thực hiện pháp luật là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong
thực ti n đời sống xã hội. Tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS
chính là hoạt động nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng
đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể khi
tham gia vào quan hệ pháp luật TH DS [52].
Thực ti n cho thấy, trong những năm qua, việc tổ chức thực hiện pháp luật về
XLV L trong lĩnh vực TH DS ở nước ta đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Trước hết, có thể nhận thấy, việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật
về XLV L trong TH DS đã được thực hiện tương đối đồng bộ. Các văn bản
Q L sau khi được ban hành và có hiệu lực đã được tổ chức thực hiện kịp thời,
thống nhất từ trung ương đến địa phương trong phạm vi cả nước. háp luật đã tạo ra
cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS được thực
hiện thống nhất, hiệu lực, hiệu quả trong thực ti n, góp phần duy trì trật tự xã hội ổn
định, công bằng trong lĩnh vực TH DS ở nước ta. Qua đó, vai trò của cơ quan
TH DS nói riêng và vai trò của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
XLVPPL trong TH DS nói chung được khẳng định trong đời sống xã hội.
94
Trong những năm qua, đặc biệt là sau khi Luật TH DS năm 2008 được áp
dụng trong thực ti n, hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS đã đạt được
những kết quả tích cực kết quả XLV L trong TH DS được di n giải trong các
hụ lục 1, 2, 3, 4 và 5 . Chẳng hạn, trong vấn đề xử lý kỷ luật cán bộ TH DS, năm
2010, Ngành TH DS đã xử lý kỷ luật đối với 31 trường hợp, trong đó, cảnh cáo 08
trường hợp, khiển trách 13 trường hợp, buộc thôi việc 03 trường hợp, tạm đình chỉ
công tác 02 trường hợp do bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đến năm 2011, đã xử lý
được 54 trường hợp, tăng 23 trường hợp so với năm 2010, trong đó, khiển trách 20
trường hợp, cảnh cáo 17 trường hợp, hạ bậc lương 03 trường hợp, giáng chức 01
trường hợp, cách chức 04 trường hợp, buộc thôi việc 05 trường hợp trong đó có 02
trường hợp bị kết án tù , tạm đình chỉ công tác 04 trường hợp, khởi tố hình sự 06
trường hợp. Năm 2012, đã xử lý được 69 trường hợp, tăng 15 trường hợp so với
năm 2011, trong đó, khiển trách 32 trường hợp, cảnh cáo 15 trường hợp, hạ bậc
lương 02 trường hợp, giáng chức 01 trường hợp, cách chức 02 trường hợp, buộc
thôi việc 04 trường hợp, khởi tố hình sự 12 trường hợp hụ lục 2 và 3 [40]. Trong
việc XLV L hành chính, từ năm 2010 đến năm 2012, Ngành TH DS đã xử lý
được 13 vụ việc hụ lục 4 [38]. Với công tác bồi thường nhà nước trong TH DS,
từ năm 2010 đến năm 2012, đã có 24 vụ việc TH DS tại 15 địa phương tiến hành
thụ lý giải quyết theo thủ tục bồi thường nhà nước, trong đó, giải quyết xong 06
việc với số tiền đã bồi thường là 1.518.379.000 đồng, điển hình là các vụ ở Lạng
Sơn, n Giang, Ninh Thuận, Quảng Ngãi.... hụ lục 1 [39]. Đặc biệt, đáng chú ý
gần đây là trường hợp của vợ chồng ông V Văn Học, bà Huỳnh Thị Nga ở xã hổ
Thạnh, huyện Đức hổ, tỉnh Quảng Ngãi, cơ quan TH DS đã phải bồi thường số
tiền là 2.308.750.000 đồng [39] [108].... Cùng với đó, công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo của Ngành TH DS cũng được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả, năm
2010, toàn ngành tiếp nhận 7.110 đơn khiếu nại, tố cáo, đã giải quyết được 6.787
đơn; năm 2011, tiếp nhận 7.342 đơn, đã giải quyết được 6.981; đến năm 2012, tiếp
nhận 7.513 đơn và đã giải quyết được 7.217 đơn hụ lục 5 [35-37]...
Nhìn chung, trong những năm qua, nhiều vụ việc V L trong TH DS đã
được kịp thời phát hiện và xử lý dứt điểm, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và công dân, tạo ra những chuyển biến tích cực về nhận thức của các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan hữu quan và nhân dân về công
tác XLV L trong TH DS. Đó là những kết quả đáng ghi nhận do công tác tổ chức
thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã được triển khai, thực hiện
nghiêm túc, hiệu lực và hiệu quả.
95
Mặt khác, những quy định của pháp luật cũng đã góp phần cơ bản trong
việc phòng ngừa các V L trong TH DS. Khi tham gia vào các quan hệ TH DS,
mọi tổ chức, cá nhân đều phải biết và tuân theo các quy định của pháp luật về
XLV L trong TH DS. Từ đó, những quy định của pháp luật đã tác động đến nhận
thức, làm cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình tham gia các mối quan hệ về
TH DS thực hiện nghiêm chỉnh, qua đó nâng cao được ý thức chấp hành pháp luật
về XLV L trong TH DS.
Như vậy, có thể nhận thấy, trong những năm qua, công tác tổ chức thực
hiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận. Điều này được thể hiện r nét trong thực ti n XLV L và phòng chống các
V L trong TH DS. Đây chính là cơ sở quan trọng để duy trì và bảo đảm trật tự
pháp luật trong lĩnh vực TH DS.
3.1.2. Nhƣợc điểm và hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật về XLV L trong TH DS còn
bộc lộ những nhược điểm và hạn chế nhất định, điều này được thể hiện cụ thể ở
những điểm sau:
Pháp luật về XLVPPL trong THADS còn có những điểm chưa toàn diện.
Như đã trình bày ở các phần trên, pháp luật về XLV L trong TH DS không
phải là một hệ thống pháp luật thống nhất, một đạo luật chung về XLV L trong
lĩnh vực TH DS mà nó là sự tập hợp của rất nhiều Q L về từng loại V L trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nói cách khác, toàn bộ các nội dung pháp
luật về XLV L trong TH DS được quy định thành từng nhóm Q L theo luật nội
dung điều chỉnh về một loại V L cụ thể. Chính điều này đã dẫn đến những điểm
còn thiếu toàn diện trong nội dung pháp luật về XLV L trong TH DS. Chẳng hạn,
trong vấn đề xử lý tội phạm hình sự trong TH DS, Bộ luật hình sự hiện nay không
có những quy định riêng về các tội phạm trong lĩnh vực TH DS mà chỉ có quy định
chung về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, do đó, việc áp dụng và thực hiện pháp
luật trên thực tế là rất khó khăn. Bởi lẽ, lĩnh vực tư pháp bao gồm nhiều hoạt động khác
nhau: Điều tra, kiểm sát, xét xử, TH TH hình sự và TH DS . Hoạt động THADS
chỉ là một trong những hoạt động thuộc lĩnh vực tư pháp và xét về bản chất, hoạt
động TH DS có nhiều nét đặc thù. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự hiện nay cũng
không có sự phân biệt giữa các hành vi xâm phạm hoạt động TH DS với các hành
vi xâm phạm hoạt động TH hình sự. Trên thực tế, bản chất của hoạt động TH
hình sự và TH DS là hoàn toàn khác nhau nên bản chất của loại tội xâm phạm tổ
96
chức và hoạt động trong TH hình sự và TH DS cũng rất khác nhau. Do đó, việc
pháp luật chỉ quy định chung về các loại tội phạm là rất khó khăn trong quá trình
thực hiện và áp dụng pháp luật vào thực ti n. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có
một chế định pháp luật riêng để xử lý tội phạm về TH DS trong Bộ luật hình sự.
Việc xử lý đối với các V L khác trong TH DS như V L dân sự, vi
phạm kỷ luật, V L gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan TH DS... cũng vậy, hiện
nay, pháp luật chỉ có những chế định chung về xử lý đối với các V L này trong
đời sống xã hội mà không có những Q L cụ thể về các hành vi V L, chủ thể
thực hiện hành vi V L, thẩm quyền XLV L, hình thức và biện pháp XLV L
trong lĩnh vực TH DS... Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có các chế định
pháp luật, các Q L cụ thể tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và vững chắc để xử lý đối với
mỗi loại V L này trong TH DS....
Tính toàn diện đòi hỏi hình thức thể hiện của pháp luật về XLV L trong
TH DS phải bao hàm và thể hiện đầy đủ các chế định pháp luật và các Q L về
XLV L trong TH DS, tức là biểu hiện được toàn bộ các nội dung của pháp luật về
XLV L trong TH DS, đồng thời, phải có đầy đủ các văn bản Q L, các chế định
pháp luật, các Q L về XLV L trong TH DS [82]. Tuy nhiên, xét từ góc độ này cho
thấy, r ràng hình thức biểu hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS còn chưa
đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của tính toàn diện. Điều này đang đặt ra yêu cầu cần
phải hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS mà một trong những vấn đề cơ bản
hiện nay là cần phải hoàn thiện pháp luật theo hướng đầy đủ, toàn diện và hoàn chỉnh.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS còn có những quy định chưa thống
nhất và đồng bộ.
Sự chưa thống nhất và đồng bộ trước hết thể hiện trong pháp luật nội dung
về mỗi loại V L. Một số ngành luật có sự phát triển cao hơn hoặc trội hơn như
pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, so với các ngành luật
khác như pháp luật về bồi thường thiệt hại của nhà nước, pháp luật TH DS, pháp
luật lao động... Bên cạnh đó, cơ cấu của hệ thống pháp luật còn có sự mất cân đối
do hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS là tập hợp của rất nhiều Q L
của các luật chuyên ngành khác nhau.
Tính không thống nhất, thiếu đồng bộ còn thể hiện ở mức độ cụ thể hơn đối
với từng văn bản quan trọng và những văn bản giải thích, hướng dẫn nó. Có thể nói
đây là một nhược điểm kéo dài trong nhiều năm, qua các thời kỳ nhưng đến nay vẫn
chưa giải quyết được. Tình trạng một số văn bản rất quan trọng và cấp bách được
97
ban hành nhưng sau một thời gian dài, những văn bản cụ thể hóa, giải thích và
hướng dẫn thực hiện vẫn không được soạn thảo hoặc ban hành chậm làm cho chúng
không phát huy được hiệu lực trong thực ti n.... Ví dụ: Việc XLV L hành chính
trong lĩnh vực TH DS, việc xử lý vi phạm kỷ luật đối với công chức TH DS, việc
xử lý đối với V L gây thiệt hại về tài sản cho TH DS... đến nay chưa có một văn
bản riêng biệt để hướng dẫn cụ thể, chi tiết, chẳng hạn như một nghị định của Chính
phủ hoặc thông tư của Bộ Tư pháp....
Sự thiếu đồng bộ, thống nhất còn được biểu hiện ngay trong từng chế định
pháp luật đối với từng loại V L cụ thể trong TH DS. Chẳng hạn, trong vấn đề
XLV L hành chính trong TH DS, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành mới một
loạt các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính như: Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012, Nghị định số 81/2013/NĐ-C ngày 19/7/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính,
đặc biệt là Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn
nhân và gia đình, TH DS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Chính điều này đã dẫn
đến một thực tế là một số quy định tại Chương VII từ Điều 162 đến Điều 165 Luật
TH DS năm 2008 không còn phù hợp với những quy định pháp luật hiện hành về
xử lý vi phạm hành chính trong TH DS, đặc biệt là các quy định về hành vi vi phạm
hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong TH DS các văn bản
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hiện hành đã bổ sung một số hành vi vi phạm
hành chính trong TH DS như: Không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận theo
quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; Cung cấp chứng cứ giả cho
cơ quan TH DS; Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền TH về việc
thu tiền của người phải TH đang do người thứ ba giữ; Không chấp hành quyết
định của người có thẩm quyền TH về việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của
người phải TH , về việc thu tiền của người phải TH đang giữ.... và bổ sung quy
định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính như: Thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính của Tổng cục trưởng Tổng cục TH DS... . Tuy nhiên, đến nay, các quy
định này trong Luật TH DS năm 2008 vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung cho thống
nhất với quy định tại các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nêu trên.
Bên cạnh đó, một trong những bộ phận quan trọng, với số lượng tương đối
lớn cấu thành hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS có nguồn gốc từ những
văn bản dưới luật nghị định, thông tư... . Các văn bản pháp luật này không có tính
98
ổn định cao do thường xuyên thay đổi, chẳng hạn như các văn bản về xử phạt vi
phạm hành chính, xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất....
Thực ti n đó đang đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong toàn bộ hệ thống
văn bản Q L, các chế định pháp luật và các Q L về XLV L trong TH DS.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS còn có những điểm chưa phù hợp và
đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của thực tiễn.
Trên thực tế, có những quy định pháp luật về XLV L trong TH DS chưa
thực sự phù hợp với yêu cầu của thực ti n. Chẳng hạn, trong xử lý tội phạm hình sự
về TH DS, Điều 304 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy
định: "Người nào cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm". Ở đây, điều
kiện bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án là "đã bị
áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết", có nghĩa là người phải TH phải là người
có điều kiện TH và đã bị áp dụng cưỡng chế nhưng vẫn không thi hành. Điều này
là không khả thi và cũng rất khó để xác định thế nào là đã bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế cần thiết. Trong khi đó, trên thực tế, có nhiều trường hợp đương sự vẫn
tham gia vào các quan hệ giao dịch dân sự bình thường nhưng không có tài sản
điều kiện TH nên không thể ra quyết định cưỡng chế. Do đó, cơ quan TH DS
không thể đề nghị khởi tố được... Trong việc XLVPPL hành chính trong THADS,
khoản 8, Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy
định về biện pháp khắc phục hậu quả nhưng không quy định chế tài trong trường
hợp tổ chức, cá nhân bị buộc khắc phục hậu quả không tự nguyện chấp hành. Điều
này là rất khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền trong thực ti n áp dụng pháp luật....
Trong vấn đề giải quyết bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán bộ,
công chức TH DS gây ra trong thi hành công vụ, hiện tại, Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước năm 2009, Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của
Chính phủ cũng như Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày
15/12/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng chưa có các quy định về việc trả lại
hồ sơ yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc từ chối thụ lý yêu cầu bồi thường thiệt hại
trong các trường hợp như: Đơn yêu cầu bồi thường không đúng; Thời hiệu yêu cầu
bồi thường thiệt hại đã hết; Hồ sơ yêu cầu bồi thường không đầy đủ.... nên rất khó
khăn cho cơ quan TH DS trong quá trình giải quyết bồi thường thiệt hại đối với
99
những trường hợp này trên thực tế.
Bên cạnh đó, các chế tài về XLV L trong TH DS hiện nay chưa đủ mạnh
để đáp ứng được yêu cầu răn đe, phòng ngừa và ngăn chặn, loại bỏ các V L trong
TH DS. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày
24/9/2013 của Chính phủ thì hình thức XLV L hành chính trong lĩnh vực TH DS
gồm có các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền không có các hình thức
xử phạt bổ sung và mức phạt tiền cao nhất cho hành vi V L hành chính trong
TH DS là 40.000.000đ. Trong xử lý tội phạm về TH DS, các hình phạt chính được
áp dụng gồm có cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn và các hình
phạt bổ sung được áp dụng gồm có cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định và mức xử phạt cao nhất cho các tội phạm trong THADS là
tù có thời hạn đến 3 năm.... Nếu so sánh với một số lĩnh vực khác của đời sống xã
hội như bảo hiểm, lao động, giao thông, môi trường... thì có thể nhận thấy, nhìn
chung, các chế tài về XLV L trong lĩnh vực TH DS có mức độ nhẹ hơn nhiều.
Các quy định về trình tự, thủ tục XLVPPL trong THADS còn có những điểm
chưa phù hợp với thực tiễn.
Một thực tế có thể nhận thấy hiện nay, đó là, pháp luật không có những quy
định chung về trình tự, thủ tục XLV L trong lĩnh vực TH DS. Hoạt động XLV L
trong TH DS được tuân theo những quy định của pháp luật về trình tự và thủ tục
xử lý đối với từng loại V L nói chung trong đời sống xã hội. Điều này đã dẫn đến
những điểm không phù hợp trong thực ti n XLV L trong TH DS đối với cả các cơ
quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền cũng như những đối tượng bị XLV L.
Về phía các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền, trong quá trình
thực hiện XLV L trong TH DS, việc tuân theo các quy định về trình tự, thủ tục
xử lý đối với mỗi loại V L cụ thể có những khó khăn nhất định do trong các quy
định này còn có những điểm hạn chế, bất cập. Chẳng hạn, trong việc XLV L hành
chính trong TH DS, thông thường, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc
nhận được báo cáo, biên bản về hành vi vi phạm hành chính trong TH DS, người
có thẩm quyền xử phạt phải kiểm tra, xác minh, ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm;
người có thẩm quyền đang thi hành nhiệm vụ, công vụ phải kịp thời lập biên bản vi
phạm hành chính, tự mình hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử phạt ra quyết định
xử phạt, tổ chức thi hành quyết định xử phạt; trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị
xử phạt hành chính không tự nguyện chấp hành khi hết thời hiệu theo quy định pháp
luật, người có thẩm quyền xử phạt tự mình hoặc đề nghị người có thẩm quyền thực
100
hiện cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Nếu người bị xử phạt
hành chính có khiếu nại về việc xử phạt thì các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
phải tiến hành giải quyết khiếu nại theo trình tự, thủ tục được pháp luật về khiếu nại
quy định. Nếu người bị xử phạt hành chính khởi kiện về việc xử phạt ra Tòa án thì
Tòa án xem xét xét xử việc khởi kiện này theo trình tự, thủ tục tố tụng hành chính
được pháp luật về tố tụng hành chính quy định... Như vậy, theo quy định về trình tự,
thủ tục XLV L hành chính bao gồm cả việc tổ chức thi hành và giải quyết khiếu
nại hoặc khởi kiện thì việc XLV L hành chính nói chung là một quá trình lâu dài
với những thủ tục khá phức tạp. Để giải quyết dứt điểm được từng vụ việc cụ thể
đòi hỏi cả phía cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền cũng như các đối tượng vi
phạm phải thực hiện nhiều công đoạn khác nhau, mất nhiều thời gian và công sức.
Bên cạnh đó, các quy định về trình tự, thủ tục XLV L hành chính còn những
điểm không r , gây khó khăn trong quá trình thực hiện, ví dụ: Khoản 1, Điều 58 Luật
xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: "Khi phát hiện vi phạm hành chính
thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp
thời lập biên bản...", tuy nhiên, pháp luật không quy định thời hạn bao nhiêu thì được
coi là đảm bảo tính "kịp thời" của việc lập biên bản vi phạm hành chính.... Do vậy, việc
áp dụng các quy định pháp luật này trên thực tế còn có nhiều khó khăn, vướng mắc.
Một thực tế hiện nay cũng cho thấy, việc quy định về các loại V L và
trình tự, thủ tục xử lý đối với mỗi loại V L trong nhiều văn bản pháp luật với các
thứ bậc khác nhau như hiện nay là rất khó khăn cho các tổ chức, cá nhân khi tham
gia vào các quan hệ TH DS, đặc biệt là những đối tượng bị XLV L trong việc
tìm hiểu, tiếp cận để thực hiện cũng như bảo vệ quyền, lợi ích của mình.
Như vậy, có thể nhận thấy, các quy định về trình tự, thủ tục XLV L trong
TH DS hiện nay còn có những điểm không phù hợp với thực ti n, đặc biệt, chưa
tạo được điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện XLV L trong TH DS của các cơ
quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền.
Trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về XLVPPL trong THADS còn
có những hạn chế nhất định, điều này được thể hiện như sau:
Qua xem xét các báo cáo kết quả công tác hàng năm của Tổng cục TH DS
- Bộ Tư pháp và qua tham khảo thực ti n XLV L trong lĩnh vực TH DS của các
cơ quan TH DS ở một số địa phương các tỉnh phía bắc như: Hà Nội, Vĩnh húc,
hú Thọ, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Nam Định, Hải hòng, Hà
Nam, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Thái Bình... cho thấy, việc XLV L trong
101
TH DS hiện nay còn có những điểm hạn chế, bất cập về cả mặt thể chế và thực ti n
thực hiện.
Về quy định pháp luật hiện hành, như đã nêu ở phần trên, hiện còn những quy
định pháp luật không phù hợp và có tính khả thi không cao. Chẳng hạn, trên thực tế, có
nhiều trường hợp vi phạm quy định tại Điều 304 Bộ luật hình sự năm 1999 về tội
không chấp hành án nhưng việc truy cứu đối với tội danh này gần như không được đặt
ra trên thực tế. Nhiều trường hợp, Chấp hành viên lập hồ sơ vi phạm và đề nghị Viện
Kiểm sát khởi tố vụ án nhưng bị trả lại do hồ sơ không đảm bảo về trình tự, thủ tục mà
chủ yếu là không xác định được r hành vi "cố ý không chấp hành bản án, quyết định
của Tòa án" của đương sự. Điều này xuất phát từ chính quy định của pháp luật như đã
trình bày ở phần trên, việc mô tả về hành vi "không chấp hành án" là không r và rất
khó để xác định thế nào là "đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết"....
Về mặt thực ti n, việc XLV L trong TH DS hiện nay còn nhiều hạn chế
chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân chủ quan của những người trực tiếp thực hiện việc
XLV L. Nhiều Chấp hành viên có tâm lý e ngại trong việc XLV L hoặc lập hồ sơ
đề nghị XLV L trong TH DS, chủ yếu chỉ tập trung vào việc giải quyết án với lựa
chọn phương án động viên, thuyết phục đương sự hoặc những người liên quan tự nguyện
TH và không V L. Trên thực tế, nhiều người trực tiếp làm công tác TH DS đều
cho rằng, nhiều V L trong lĩnh vực TH DS không được phát hiện và xử lý hoặc có
phát hiện nhưng không được xử lý và đề nghị xử lý. Điều này đang là trở ngại trong
việc bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Một vấn đề tồn tại chủ yếu trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
XLV L trong TH DS hiện nay đó là, chỉ khi có V L trong thực ti n, tức là có
những vụ việc cụ thể cần áp dụng quy định pháp luật để xử lý thì vấn đề thực hiện
pháp luật và áp dụng pháp luật về XLV L trong TH DS mới được đặt ra. Việc tổ
chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS chủ yếu chỉ được thực hiện
đồng thời với hoạt động TH DS, tức là, chỉ qua thực ti n công tác TH DS mới đặt
ra hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS, từ đó mới tác
động đến nhận thức của cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ TH DS. Như vậy,
có thể nói, pháp luật về XLV L trong TH DS không thường xuyên được thực
hiện và áp dụng trong thực ti n.
Bên cạnh đó, hiện nay, cơ chế phối hợp trong hoạt động XLV L trong
TH DS chưa được nhận thức và tổ chức thi hành phù hợp nên đã tạo ra những bất
cập làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong công tác XLV L trong TH DS. Hoạt động
102
XLV L trong TH DS hiện nay đang chịu sự chi phối, thực hiện và giám sát của
nhiều cơ quan khác nhau. Điều này xuất phát từ thẩm quyền xử lý đối với mỗi loại
V L trong TH DS cũng như đặc thù của mỗi loại V L do nhiều cơ quan khác
nhau thực hiện. Chẳng hạn, cơ quan TH DS thực hiện việc XLV L hành chính,
xử lý kỷ luật, xử lý trách nhiệm vật chất hay thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà
nước trong lĩnh vực TH DS; Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện
điều tra, khởi tố đối với các hành vi phạm tội trong TH DS; Tòa án nhân dân có
chức năng xét xử theo thẩm quyền đối với các V L dân sự, tội phạm... Công tác
XLVPPL trong TH DS do nhiều cơ quan chức năng khác nhau quản lý, tổ chức thực
hiện làm cho hoạt động này d dẫn đến tình trạng chồng chéo, gây khó khăn trong
việc giám sát, chỉ đạo, rất cần có cơ chế phối hợp thực hiện. Điều này đã làm cho
hoạt động nghiên cứu, tổng kết xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp về công tác
XLV L trong TH DS di n ra chậm, không kịp thời và bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý.
Như vậy, có thể nói, công tác tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong
lĩnh vực TH DS hiện nay còn những điểm bất hợp lý, chưa phù hợp và đáp ứng được
đầy đủ các yêu cầu của thực ti n hiện nay. Điều này đang đặt ra yêu cầu cần phải có
những giải pháp quan trọng để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS cũng
như khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực ti n XLV L trong TH DS hiện nay.
3.1.3. Nguyên nhân
3.1.3.1. Nguyê â của ữ g ưu đ ể v t tựu
Trước hết, đạt được những ưu điểm và thành tựu nêu trên là xuất phát từ quan
điểm, chủ trương lãnh đạo đúng đắn của Đảng, chính sách pháp luật phù hợp của Nhà
nước. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta không ngừng xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về XLV L trong TH DS. Điều
này đã trở thành quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và toàn dân, được ghi nhận
trong hầu hết các văn kiện và trong các chương trình hành động từng bước hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Từ đó, Nhà nước đã ban hành
được hệ thống văn bản pháp luật về XLV L, trong đó, những quy định pháp luật về
XLV L trong lĩnh vực TH DS đã tạo cơ sở cho hoạt động XLV L trong TH DS
được nghiêm minh, công bằng, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu của thực ti n ở nước ta.
Quan điểm nhận thức ở nước ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói
chung, trong đó có pháp luật về XLV L trong TH DS ngày càng được nâng cao.
Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu và đề ra các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện
và nâng cao chất lượng các quy định pháp luật hiện hành trên thực tế từng bước
103
được chú trọng. Đây là cơ sở quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng.
Trong những năm qua, Nhà nước cũng đã quan tâm hơn đối với vấn đề kiểm
tra, theo d i, tổng kết, đánh giá hiệu quả trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật
về XLV L, trong đó, có pháp luật về XLV L trong TH DS. Vì thế, quá trình
sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật về XLV L trong TH DS không
còn phù hợp, thiếu cụ thể, r ràng, không đồng bộ, khả thi hoặc lạc hậu so với thực
ti n được chú trọng và tiến hành kịp thời. Do vậy, các quy định của pháp luật về
XLV L trong TH DS đã dần được hoàn thiện, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu
của thực ti n XLV L trong TH DS nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung.
Bên cạnh đó, mỗi loại V L trong đời sống xã hội nói chung và trong lĩnh
vực TH DS nói riêng có pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Nói cách khác, pháp
luật về XLV L trong TH DS là tập hợp của nhiều văn bản pháp luật khác nhau,
gắn với từng pháp luật chuyên ngành. Các quy định pháp luật về xử lý đối với mỗi
loại V L luôn có sự kiểm tra, rà soát, đánh giá riêng, đồng thời, mỗi pháp luật nội
dung về từng loại V L lại trải qua quá trình xây dựng và hoàn thiện riêng biệt. Vì
vậy, những quy định của từng pháp luật nội dung luôn có sự sửa đổi, bổ sung kịp
thời phù hợp với yêu cầu của thực ti n cũng như từng lĩnh vực đó.
Về hình thức thể hiện pháp luật XLV L trong TH DS, có thể nói, sau khi
Luật ban hành văn bản Q L năm 1996, tiếp đến là Luật ban hành văn bản Q L
năm 2008 được thông qua đã tạo ra sự chuyển biến nhanh chóng về mặt nhận thức
và tổ chức thực hiện việc xây dựng văn bản Q L, trong đó có những văn bản
Q L về XLV L trong TH DS. Luật ban hành văn bản Q L đã quy định cụ thể
những vấn đề trình tự, cách thức, thủ tục tiến hành các bước của quá trình xây dựng
văn bản Q L, đồng thời, xác định nội dung, hình thức, bố cục của từng loại văn
bản và ngôn ngữ của văn bản Q L. Điều này là cơ sở để xây dựng hệ thống văn
bản Q L về XLV L trong TH DS khoa học và phù hợp với thực ti n.
Việc coi trọng vấn đề kỹ thuật pháp lý đã giúp cho công tác xây dựng văn
bản Q L ở nước ta nói chung và hệ thống văn bản Q L về XLV L trong
TH DS nói riêng đạt được những thành tựu và kết quả quan trọng: Tốc độ xây
dựng các văn bản Q L nhanh hơn; chất lượng các văn bản Q L được nâng lên r
rệt; cấu trúc hợp lý; các mục đích, nguyên tắc được quy định r ràng; có đủ quy
phạm để điều chỉnh các quan hệ cơ bản phù hợp với yêu cầu đặt ra về tính chất và
nội dung văn bản; ngôn ngữ thể hiện đặc thù, cô đọng, chính xác và một nghĩa,
thuận tiện cho việc nghiên cứu và áp dụng...
104
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã ngày
càng được chú trọng. Quá trình tổ chức thực hiện pháp luật đã cơ bản quán triệt đến
các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước, tăng cường vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị, sự tham gia đông đảo của các tầng lớp
nhân dân trong xã hội. Việc tổ chức hướng dẫn các văn bản pháp luật về XLV L
trong TH DS đã được đẩy mạnh, góp phần đảm bảo cho quá trình thực thi pháp
luật được đúng đắn, hiệu quả. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
từng bước được chú trọng, các hình thức tuyên truyền pháp luật ngày một đa dạng,
có sự tham gia của nhiều cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, cá nhân, trách nhiệm phối
hợp trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được đề cao. Nhà
nước cũng đã quan tâm hơn đối với vấn đề kiểm tra, theo d i, đánh giá hiệu quả
trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Việc tổ
chức bảo vệ pháp luật, vấn đề rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật
từng bước được chú trọng, góp phần quan trọng trong việc đề ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả trong tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong THADS.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng chú trọng đến các điều kiện đảm bảo cho việc tổ chức
thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS như: thống nhất chỉ tiêu biên chế,
đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ, công chức, đảm bảo cơ sở vật chất, kinh phí,
phương tiện kỹ thuật…. do đó, đã từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
3.1.3.2. Nguyê â của ữ g ược đ ể v c ế
Trong thực ti n, vấn đề XLV L trong TH DS chưa được quan tâm đúng
mức. Tình trạng người dân thờ ơ, thậm chí xem thường các quy định của pháp luật về
TH DS cũng như các quy định pháp luật về XLV L trong TH DS khá phổ biến.
Bên cạnh đó, nhận thức của các tổ chức, cá nhân trong xã hội về vai trò của
các thiết chế XLV L trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển
nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ và thống nhất. Việc triển khai thực hiện pháp
luật về XLV L trong TH DS chưa triệt để, thiếu sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền và sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp.
Quan điểm nhận thức về vai trò, ý nghĩa của công tác TH DS hiện nay
cũng chưa được đầy đủ. Từ đó, vấn đề V L và XLV L trong lĩnh vực TH DS
cũng không được quan tâm và có phần bị xem nhẹ. Do đó dẫn đến tình trạng nhận
thức chưa cao cũng như thiếu thống nhất trong quá trình nghiên cứu xây dựng và
thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
105
Do không có sự quan tâm đầy đủ và cần thiết về vấn đề XLV L trong
TH DS nên việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực ti n, đặc biệt là việc
xây dựng các chế tài về XLV L trong TH DS. Có thể nhận thấy r rằng, các chế
tài về XLV L trong TH DS hiện nay chưa đủ mạnh, điều này cũng chính là một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng V L trong TH DS nhiều và
có chiều hướng gia tăng. Do vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải tăng các chế
tài ở mức độ đủ mạnh trong các quy định pháp luật về XLV L trong TH DS. Tuy
nhiên, ở đây cũng cần lưu ý rằng, việc tăng các chế tài này là cần thiết nhưng cần
phải đặt trong tổng thể các quy định pháp luật, trong đó yêu cầu cơ bản là phải bảo
đảm được tính đồng bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế của nhân dân.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng pháp luật về
XLV L trong TH DS như nêu trên, đó là, sự tác động của các yếu tố chính trị,
kinh tế, lịch sử, tư tưởng, văn hóa, xã hội của đất nước đã có ảnh hưởng lớn đến quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về XLV L
trong TH DS nói riêng. Trước tiên, có thể nhận thấy, đất nước ta giành được độc
lập đã gần 70 năm nhưng phải mất hơn 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, để
lại nhiều hậu quả nặng nề, nếp sống thời chiến và sự điều hành nhà nước chủ yếu
bằng mệnh lệnh hành chính góp phần tạo nên thái độ xem nhẹ vai trò của pháp luật
từ phía người dân cũng như sự buông lỏng của cơ quan nhà nước trong quản lý xã
hội bằng pháp luật. Cùng với đó, nhận thức về vấn đề XLV L nói chung và
XLV L trong lĩnh vực TH DS nói riêng chưa đầy đủ và đúng mức cần thiết. Việc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN gắn với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập khu
vực và thế giới đang di n ra một cách nhanh chóng đòi hỏi hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng phải xây dựng và hoàn
thiện trong điều kiện rất đặc thù, phải vừa tìm tòi, vừa rút kinh nghiệm do không có
một mô hình sẵn để nghiên cứu áp dụng.
Việc tổng kết công tác XLV L trong TH DS cũng như tổng kết, đánh giá
hiệu quả quá trình thực thi pháp luật về XLV L trong TH DS chưa được thực
hiện thường xuyên, đầy đủ và toàn diện; vấn đề kiểm tra, giám sát hoạt động
XLV L trong TH DS còn nhiều hạn chế. Do đó, pháp luật về XLV L trong
TH DS chậm được phát hiện những thiếu sót, mâu thuẫn, chồng chéo nên không
được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện kịp thời.
106
Trong việc nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về XLV L trong
TH DS chưa có sự chú trọng đúng mức và chưa có sự đầu tư cần thiết; chưa có sự
thu hút, tham gia đông đảo của các nhà chuyên môn, các nhà khoa học và chưa có
sự khảo sát đầy đủ điều kiện thực ti n trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp
luật về XLV L trong TH DS… Do đó, pháp luật về XLV L trong TH DS
chưa được hoàn thiện và đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của thực ti n hiện nay.
Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về XLV L trong TH DS
chưa được chú trọng đúng mức nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả công tác tổ chức
thực hiện pháp luật. Thực tế cho thấy, pháp luật về XLV L trong TH DS được
quy định ở nhiều văn bản Q L khác nhau nên có nhiều khó khăn trong công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục. Do đó, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về XLV L trong TH DS bị cắt khúc làm cho nhận thức của cán bộ,
công chức, viên chức và nhân dân về pháp luật XLV L trong TH DS thiếu tính
hệ thống, đồng bộ, đầy đủ.
3.2. THỰC TRẠNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP
LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.2.1. Ƣu điểm, thành tựu của việc hoàn thiện pháp luật về xử l vi
phạm pháp luật trong thi hành án dân sự và nguyên nhân
3.2.1.1. Ưu đ ể v t tựu của v c t u t v v
u t tr g t dâ sự
Có thể nói, chất lượng hệ thống văn bản pháp luật về XLVPPL trong
TH DS là cơ sở để đánh giá chất lượng, hiệu quả của hoạt động xây dựng, hoàn
thiện pháp luật và ngược lại, chất lượng, hiệu quả của hoạt động xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là nguyên nhân dẫn đến thực trạng của
hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS.
Trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS đã có những
bước phát triển quan trọng, từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý vững
chắc cho hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS; duy trì trật tự pháp luật TH DS;
góp phần bảo đảm các quan hệ TH DS; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước
và người dân; đảm bảo công bằng xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội; góp phần cải
cách tư pháp; nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác TH DS; phân định chức năng,
thẩm quyền, nâng cao trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực TH DS.
Quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS gắn liền với quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật TH DS, cụ thể như sau:
107
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với sự ra đời của Bộ Tư pháp
và các cơ quan Tòa án, tổ chức TH DS cũng từng bước được hình thành, đáp ứng
yêu cầu của công tác xét xử và bảo vệ pháp chế. Tuy nhiên, từ năm 1945 cho đến
thời điểm trước khi có háp lệnh TH DS năm 1989 là giai đoạn mà tổ chức và hoạt
động TH DS chưa được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực
pháp lý cao do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Trong giai đoạn này,
công tác TH DS chủ yếu được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án và tồn tại
dưới hai hình thức là Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã. Tuy hoạt động TH DS đều
thể hiện quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước nhưng vấn đề xử lý đối với các hành vi V L về TH DS trong giai đoạn này
chưa được cụ thể hóa bằng những quy định pháp luật. Mặc dù vậy, ngay từ giai
đoạn này, pháp luật đã có những quy định nhằm thực thi có hiệu quả những việc
TH DS cũng như bảo đảm tính hiệu lực của pháp luật TH DS. Chẳng hạn, tại
Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành các
án hình và hộ đã có những quy định về cách thức thi hành như: "Đối với những việc
dân sự, các Thẩm phán phải thấu triệt những thủ tục chấp hành và phải theo d i
công việc xem có đạt được kết quả không. Nếu cần, Thẩm phán nên thân hành đến
chứng kiến việc làm của các cơ quan thừa hành", hoặc "Mỗi khi có trở lực trong việc
chấp hành, ông biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ r nhiệm vụ làm cho pháp luật được
tôn trọng"... Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành đã có những quy
định về các tội xâm phạm hoạt động TH nói chung như: Chương X Các tội xâm
phạm về hoạt động tư pháp đã quy định về tội không chấp hành án, tội cản trở việc
TH Điều 240 và tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản Điều 244 . Đây là
những quy định có ý nghĩa quan trọng và tiền đề cho thấy vị trí, vai trò của công tác
TH nói chung, công tác TH DS nói riêng đã bắt đầu được nhìn nhận một cách
đúng đắn và vấn đề XLV L trong TH DS đã bước đầu được chú trọng.
Tuy nhiên, xét ở góc độ chung có thể nhận thấy, trong giai đoạn từ khi Cách
mạng tháng Tám 1945 thành công đến trước khi có háp lệnh TH DS ngày
28/8/1989, nội dung pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS hầu như chưa
được đặt ra. Trong thời kỳ này, tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt động của
cơ quan TH DS chưa được chú trọng, hoạt động TH DS ít được quan tâm. Điều
này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không được thi hành chiếm tỷ lệ rất lớn, đặc
biệt là các V L trong tổ chức và hoạt động TH DS không có sự quản lý nghiêm
theo quy định pháp luật, không có cơ chế, chế tài để xử lý trên thực tế.
108
háp lệnh TH DS ngày 28/8/1989 ra đời là một hình thức văn bản pháp lý
có hiệu lực cao, lần đầu tiên được ban hành, đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường,
hoàn thiện tổ chức và hoạt động TH DS. Với háp lệnh TH DS năm 1989, lần
đầu tiên, những quy định về XLV L trong lĩnh vực TH DS mới được cụ thể hóa
Chương sáu, Điều 40 và 41 quy định việc XLV L đối với người không chịu chấp
hành bản án, quyết định của Tòa án , mặc dù chưa đầy đủ và hoàn chỉnh nhưng đã
đặt ra những vấn đề nguyên tắc nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực
thi trên thực tế.
háp lệnh TH DS ngày 21/4/1993 được ban hành thay thế háp lệnh TH DS
ngày 28/8/1989 có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần bảo đảm hiệu lực cho những bản
án, quyết định của Tòa án, góp phần bảo vệ trật tự kỷ cương và quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Trong đó, Điều 47 háp lệnh đã quy định những vấn đề mang tính
nguyên tắc để xử lý khi có những hành vi V L xâm phạm tới tổ chức và hoạt động
TH DS. Theo quy định này, người nào cố ý không thi hành bản án, quyết định của
Tòa án; lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc TH hoặc ép buộc chấp hành viên
TH trái pháp luật; phá hủy niêm phong hoặc có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng,
đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên trong khi TH , thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường khoản 3,
Điều 47 . Quy định này cũng đã được cụ thể hóa tại Điều 21 Nghị định số 69/C
ngày 18/10/1993 của Chính phủ về quy định thủ tục TH DS. Theo những quy định
này đã có thể xác định được trong lĩnh vực TH DS cũng bao hàm đầy đủ các loại
V L chung của đời sống xã hội, đó là: Vi phạm hành chính, tội phạm, vi phạm kỷ
luật, vi phạm quy định pháp luật dân sự và trách nhiệm bồi thường khi gây ra thiệt hại.
háp lệnh TH DS ngày 14/01/2004 được ban hành đã xác định Chính phủ
thống nhất quản lý công tác TH DS, các cơ quan giúp Chính phủ quản lý về công
tác THADS gồm có Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Để cụ thể hóa
quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005
quy định về cơ quan quản lý TH DS, cơ quan TH DS và cán bộ, công chức làm
công tác TH DS, đồng thời, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Quyết định số
1148/2005/QĐ-BT ngày 18/5/2005 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, sự phân
cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước giữa Bộ Tư pháp với Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh và Sở Tư pháp về công tác TH DS. Theo đó, lĩnh vực TH DS đã được xác
109
định r hơn và có nhiều nét đặc thù trong tổ chức, hoạt động. Trên cơ sở đó, những
quy định của pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS cũng đã có sự sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và đáp ứng yêu cầu
của thực ti n xã hội.
háp lệnh TH DS năm 2004 đã dành riêng Điều 67 để quy định những vấn
đề mang tính nguyên tắc trong XLV L về TH DS. Theo quy định này, cá nhân,
cơ quan, tổ chức có hành vi V L trong lĩnh vực TH DS thì tùy theo tính chất,
mức độ, đối tượng vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Như vậy, quy
định này đã xác định được tương đối cụ thể về các loại hành vi V L, đối tượng
chịu TN L và các hình thức, biện pháp XLV L trong lĩnh vực TH DS. Từ quy
định này cũng cho thấy, pháp luật đã xác định TH DS là một lĩnh vực riêng của đời
sống xã hội, mọi hành vi V L xâm hại tới tổ chức, hoạt động TH DS đều có thể
bị xử lý trên thực tế và trên cơ sở pháp luật. Trong lĩnh vực TH DS đã bao hàm
đầy đủ những V L của đời sống xã hội và có sự đa dạng về các đối tượng V L,
có thể là bất cứ cá nhân, tổ chức nào tham gia vào quan hệ TH DS được pháp luật
xác lập. Tuy nhiên, háp lệnh TH DS năm 2004 mới chỉ quy định những vấn đề
chung, mang tính nguyên tắc trong việc xác định hành vi V L, đối tượng chịu
TN L và các hình thức, biện pháp XLV L trong lĩnh vực TH DS. Việc tiến hành
xử lý đối với các V L trong TH DS trên thực tế phải căn cứ vào các luật nội
dung quy định về từng loại V L.
Điều 40a háp lệnh xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2008,
Chương V từ Điều 32 đến Điều 34 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004
của Chính phủ quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong
TH DS đã quy định đầy đủ, cụ thể về vấn đề vi phạm hành chính và xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực TH DS. Đó là những quy định về các hành vi vi phạm
hành chính; mức xử phạt; đối tượng chịu TN L; thời hiệu xử phạt vi phạm hành
chính; thẩm quyền xử phạt; thẩm quyền cưỡng chế trong trường hợp không thực
hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính; trình tự, thủ tục xử lý vi phạm và
khiếu nại, tố cáo về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực TH DS. Có thể nói,
đây là những quy định đầy đủ và toàn diện nhất về XLV L hành chính trong
TH DS từ khi có háp lệnh TH DS đầu tiên năm 1989 đến thời điểm trước khi
có Luật TH DS năm 2008. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc
XLVPPL hành chính trong TH DS một cách chất lượng và hiệu quả, đồng thời, đó
110
cũng là cơ sở góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về TH DS, thiết lập
trật tự pháp luật TH DS ổn định trong đời sống xã hội.
Vấn đề xử lý tội phạm hình sự trong lĩnh vực TH DS được thực hiện theo
những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Đó là những quy định về tội chống
người thi hành công vụ Điều 257 , tội ra quyết định trái pháp luật Điều 296 , tội
ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật Điều 297 , tội không chấp hành án
Điều 304 , tội không TH Điều 305 , tội cản trở việc TH Điều 306 , tội vi
phạm việc niêm phong, kê biên tài sản Điều 310 .
Bộ luật dân sự ngày 14/6/2005 được ban hành đã có sự điều chỉnh các quy
định về xác định các loại V L dân sự và trách nhiệm dân sự bao gồm cả lĩnh vực
TH DS : Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự Điều 302 ; trách nhiệm do
không thực hiện nghĩa vụ giao vật Điều 303 ; trách nhiệm do không thực hiện nghĩa
vụ phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc Điều 304 ; trách
nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự Điều 305 ; trách nhiệm do chậm tiếp nhận
việc thực hiện nghĩa vụ dân sự Điều 306 ; trách nhiệm bồi thường thiệt hại Điều 307 .
Việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức TH DS được thực hiện theo
Nghị định số 35/2005/NĐ-C ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ
luật đối với cán bộ, công chức. Nghị định này đã quy định cụ thể, chi tiết về đối
tượng chịu trách nhiệm kỷ luật, hình thức và thời hiệu xử lý kỷ luật, Hội đồng kỷ
luật, quy trình xem xét kỷ luật, áp dụng hình thức kỷ luật, thẩm quyền xử lý kỷ luật.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công
chức V L nói chung và cán bộ, công chức TH DS có hành vi V L nói riêng.
Đối với lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS có hành vi V L có thể bị xử lý
theo quy định của pháp luật lao động. Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung
năm 2002, 2006, 2007 đã dành toàn bộ Chương VIII từ Điều 82 đến Điều 94 để
quy định về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với lao động hợp đồng nói
chung, trong đó, áp dụng đối với cả lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS có
hành vi vi phạm kỷ luật lao động và gây ra thiệt hại trong quá trình lao động.
Đối với trường hợp cán bộ, công chức TH DS gây ra thiệt hại trong khi thi
hành công vụ thì được thực hiện theo quy định tại Điều 619 Bộ luật dân sự 2005
Bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra và các quy định tại Nghị định số
47/NĐ-C ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do
công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra.
111
Ngày 17/5/2011, Chính phủ ban hành Nghị định số 34/2011/NĐ-CP quy
định về xử lý kỷ luật đối với công chức, trong đó đã có các quy định cụ thể và chi
tiết về các hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật; thời hạn xử lý kỷ luật; thẩm quyền xử lý
kỷ luật; trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật và khiếu nại về quyết định xử lý kỷ luật...
Những quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý kỷ luật đối với công chức
TH DS có hành vi V L. Đối với lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS vi
phạm kỷ luật lao động vẫn được xử lý theo các quy định về kỷ luật lao động và
trách nhiệm vật chất tại Điều 192 Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm
2002, 2006, 2007).
Như vậy, trong suốt giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công đến trước khi có Luật TH DS năm 2008, pháp luật về XLV L trong
TH DS đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước cũng như đáp ứng yêu cầu của thực ti n công tác
TH DS. háp luật về XLV L trong TH DS đã xây dựng được hệ thống các chế
định pháp luật, các Q L về XLV L tạo ra hành lang pháp lý vững chắc nhằm xử
lý mọi hành vi V L cũng như thiết lập trật tự ổn định và tăng cường quản lý nhà
nước trong lĩnh vực TH DS.
Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật TH DS, mở ra một bước
ngoặt quan trọng về công tác TH DS ở nước ta. Cùng với đó là các văn bản hướng
dẫn thi hành như: Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TH DS về thủ tục
TH DS, Nghị định số 74/2009/NĐ-C ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TH DS về cơ quan quản lý
TH DS, cơ quan TH DS và công chức làm công tác TH DS. Theo đó, hệ thống
TH DS được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất, là một ngành mang tính độc
lập cao và thể hiện nhiều nét đặc thù trong tổ chức và hoạt động. Hệ thống tổ chức
TH DS gồm có cơ quan quản lý TH DS trung ương Tổng cục TH DS , cơ quan
TH DS địa phương Cục TH DS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Chi cục
TH DS huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và hệ thống tổ chức TH trong
quân đội gồm có: Cục TH thuộc Bộ Quốc phòng, hòng TH quân khu. Hoạt động
TH DS được tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ được pháp luật quy định. Có thể nói,
với sự ra đời của Luật TH DS và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra
những thay đổi lớn về tổ chức và hoạt động TH DS. Vị trí của ngành TH DS đã được
quy định r ràng, cụ thể hơn, thể hiện r vai trò của một lĩnh vực quan trọng trong
112
đời sống xã hội ở nước ta. Theo đó, pháp luật về XLV L trong TH DS cũng có
những thay đổi quan trọng để đáp ứng yêu cầu của thực ti n trong tình hình mới.
Luật TH DS năm 2008 đã dành toàn bộ Chương VII từ Điều 162 đến
Điều 165 để quy định về vấn đề XLV L trong lĩnh vực TH DS, trong đó, Luật
đã quy định cụ thể về các hành vi vi phạm hành chính trong TH DS Điều 162 ,
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong TH DS Điều 163 , giải quyết khiếu
nại, tố cáo về xử lý vi phạm hành chính trong TH DS Điều 164 và những vấn đề
mang tính nguyên tắc trong việc xử lý đối với các hành vi V L trong TH DS
Điều 165 . Theo các quy định này, tùy thuộc vào hành vi V L và tính chất, mức
độ, đối tượng vi phạm mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi V L trong
TH DS có thể bị XLV L hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý kỷ luật
hoặc bồi thường thiệt hại nếu gây ra thiệt hại. Đây là những quy định có ý nghĩa
quan trọng, là những nguyên tắc và cơ sở pháp lý cần thiết để xử lý đối với mọi
hành vi V L xâm hại những quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS được pháp luật
xác lập và bảo vệ.
Cùng với đó, ngày 02/4/2008, háp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 cũng được Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung, trong đó, có những
sửa đổi, bổ sung quan trọng đối với vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong TH DS
như bổ sung Điều 40a về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của cơ quan
TH DS... Ngày 23/7/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2009/NĐ-C quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, trong đó, đã quy định cụ
thể về hành vi vi phạm quy định về hoạt động TH DS Điều 7 ; thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính của cơ quan TH DS Điều 47 và trình tự, thủ tục xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp bao gồm cả lĩnh vực TH DS . Tiếp đó,
ngày 20/6/2012, Quốc hội đã thông qua Luật xử lý vi phạm hành chính, quy định
toàn bộ các nội dung về xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành
chính, trong đó có những quy định áp dụng riêng đối với việc XLV L hành chính
trong lĩnh vực TH DS như: Thẩm quyền của cơ quan TH DS Điều 49 ; thẩm
quyền quyết định cưỡng chế Khoản l, Điều 87 . Ngày 19/7/2013, Chính phủ cũng
đã ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP để quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính. Ngày 24/9/2013, Chính phủ ban hành
Nghị định số 110/2013/NĐ-C quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, TH DS, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã, trong đó, Nghị định đã quy định cụ thể về hành vi và hình thức
113
xử phạt, mức phạt, thẩm quyền xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả về xử lý vi
phạm hành chính trong TH DS. Như vậy, có thể nói, vấn đề XLV L hành chính
trong TH DS đã được pháp luật quy định khá đầy đủ, cụ thể và chi tiết, là cơ sở
pháp lý quan trọng để thực hiện việc xử lý đối với mọi hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực TH DS.
Ngày 19/6/2009, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự, tuy nhiên, không có sự sửa đổi, bổ sung về vấn đề xử lý tội phạm
trong TH DS. Do đó, việc xử lý tội phạm trong TH DS vẫn được thực hiện theo
những quy định chung của Bộ luật hình sự năm 1999 như đã nêu trên.
Trong giai đoạn này, việc XLV L dân sự trong lĩnh vực TH DS vẫn
được thực hiện theo các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005.
Ngày 18/6/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý đối với những hành vi V L
gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ của cán bộ, công chức nhà nước, trong đó
có cán bộ, công chức TH DS. Cùng với những quy định chung về nguyên tắc bồi
thường, thời hiệu yêu cầu bồi thường, quyền và nghĩa vụ của các bên, thiệt hại được
bồi thường, kinh phí và hoạt động chi trả... Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2009 đã dành riêng Chương IV từ Điều 38 đến Điều 44 để quy định về
vấn đề bồi thường thiệt hại trong hoạt động TH nói chung và hoạt động TH DS
nói riêng. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 16/2010/NĐ-CP
ngày 03/3/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước, Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư
liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQ ngày 15/12/2011 hướng dẫn thực hiện trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TH DS, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho hoạt động XLV L gây thiệt hại trong thi hành công vụ trong TH DS.
Ngày 10/10/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 118/2006/NĐ-C
về xử lý trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức, Nghị định số
107/2006/NĐ-C ngày 22/9/2006 quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do
mình quản lý, phụ trách. Tiếp đó, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
liên tịch số 02/2008/TTLT-BNV-BTC ngày 20/05/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 118/2006/NĐ-C ngày 10/10/2006 của Chính phủ về xử lý trách nhiệm vật
chất đối với cán bộ, công chức. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý trách
nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức gây ra thiệt hại về vật chất cho cơ quan
114
TH DS cũng như xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan khi để xảy ra
tham nhũng trong cơ quan do mình quản lý, phụ trách. Lao động hợp đồng trong cơ
quan TH DS có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại về vật chất cho cơ quan
TH DS phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của Bộ luật lao động năm
2012 Điều 130 .
Như vậy, trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS đã
không ngừng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực ti n. Có thể
nhận thấy một số ưu điểm và thành tựu nổi bật trong việc hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS ở nước ta trên các mặt nội dung, hình thức và kỹ thuật xây
dựng pháp luật như sau:
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc đề
ra những chủ trương, đường lối và chính sách nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, trong đó có pháp luật về XLV L trong TH DS. Điều này được
thể hiện r trong nhiều Văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, các chương trình, kế
hoạch của Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước đã thể hiện được tính đúng đắn, khoa học và phù hợp với thực ti n
kinh tế, xã hội của nước ta. Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, một khối lượng lớn văn bản
Q L về XLV L trong TH DS đã được ban hành, trong đó, các văn bản do Quốc
hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chiếm số lượng tương đối lớn. Các văn
bản pháp luật được ban hành đã có sự phát triển mạnh về cả số lượng và chất lượng.
Hoạt động xây dựng văn bản pháp luật về XLV L trong TH DS không ngừng phát
triển, có nhiều tiến bộ đáng kể và với nhịp độ khá nhanh. Tính toàn diện và phạm vi
điều chỉnh của pháp luật về XLV L trong TH DS ngày càng được mở rộng, là cơ
sở để nâng cao ý thức pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cán bộ và nhân dân.
Công tác xây dựng văn bản Q L về XLV L trong TH DS từng bước
được đẩy mạnh góp phần nâng cao chất lượng các văn bản Q L, trong đó, công
tác soạn thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản và công tác thảo luận, thông qua văn bản
Q L về XLV L trong TH DS được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật,
115
công khai, minh bạch, đảm bảo hiệu quả và chất lượng. Đặc biệt, sau khi Nhà nước
ban hành Luật ban hành văn bản Q L Luật ban hành văn bản Q L năm 1996
được thay thế bằng Luật ban hành văn bản Q L năm 2008 đã tạo ra cơ sở pháp lý
căn bản cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về
XLV L trong TH DS nói riêng. Theo đó, hoạt động hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS đã được củng cố đáng kể và đi vào nền nếp.
Công tác sửa đổi, bổ sung, loại bỏ những quy định không phù hợp hoặc
thay thế bằng các quy định mới cũng như quá trình hoàn thiện các quy định pháp
luật về XLV L trong TH DS được thực hiện tương đối kịp thời, đáp ứng được
yêu cầu của thực ti n. Trong đó, quá trình hoàn thiện các Q L về XLV L trong
TH DS cơ bản được tiến hành đồng thời với quá trình hoàn thiện pháp luật về
TH DS. Do đó, pháp luật về XLV L trong TH DS luôn bảo đảm được sự thống
nhất, đồng bộ, phù hợp cần thiết với pháp luật về TH DS cũng như thực ti n
TH DS và thực ti n kinh tế, xã hội của đất nước.
Quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã có
sự thống nhất từ giai đoạn lập kế hoạch, soạn thảo, xin ý kiến, thẩm tra, thông qua,
công bố và việc sửa đổi, bổ sung, loại bỏ những quy định không phù hợp, việc ban
hành các văn bản pháp luật mới... đều được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục,
thẩm quyền được pháp luật quy định. Hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật
ngày càng khoa học, dân chủ hơn, nhiều văn bản Q L trước khi được ban hành
hoặc sửa đổi, bổ sung đã được tổ chức lấy ý kiến nhân dân rộng rãi và công khai
trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật
TH DS, Luật xử lý vi phạm hành chính....
Nói chung, thành tựu nổi bật có thể nhận thấy là trong những năm qua,
công tác hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã được đẩy mạnh và thực
hiện thường xuyên. Điều đó đã tạo nên hệ thống pháp luật về XLV L trong
TH DS có chất lượng, trong đó, tính đồng bộ cơ bản được đảm bảo, các chế định
pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh hơn, phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của
đất nước. Chất lượng pháp luật về XLV L trong TH DS đã được nâng cao r rệt
về cả nội dung và hình thức thể hiện như đã đánh giá trong phần ưu điểm, thành tựu
của pháp luật ở trên.
Thành quả quan trọng của hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS là đã tạo dựng được hệ thống chế định pháp luật cơ bản về
XLV L trong lĩnh vực TH DS, đó là các chế định về XLV L hành chính, xử lý
116
tội phạm hình sự, XLV L dân sự, xử lý vi phạm kỷ luật, xử lý đối với hành vi
V L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ và xử lý đối với hành vi V L gây
thiệt hại về vật chất trong cơ quan TH DS. Nội dung của pháp luật bao gồm toàn bộ
các quy định về V L; TN L; đối tượng chịu TN L; thời hiệu truy cứu TN L; các
hình thức và biện pháp XLV L; thẩm quyền XLV L; trình tự, thủ tục XLV L và
giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L trong TH DS. Những chế định và Q L này
đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc XLV L trong lĩnh vực TH DS, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật và góp phần duy trì trật tự bình thường, ổn định trong
tổ chức và hoạt động TH DS. Hệ thống văn bản pháp luật về XLV L trong TH DS
cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của việc XLV L trong TH DS ở nước ta trong
những năm qua, là cơ sở để đảm bảo việc tăng cường pháp chế XHCN, góp phần
quan trọng trong việc giữ vững trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực TH DS cũng như
hoạt động XLV L trong TH DS, là cơ sở để đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa
mọi V L trong TH DS, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân,
từ đó, góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân về
công tác XLV L trong TH DS. háp luật về XLV L trong TH DS đã góp
phần đảm bảo thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân khi bị xâm hại trong lĩnh vực TH DS; xây
dựng được cơ chế quản lý thống nhất hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS,
đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cũng như tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan,
tổ chức hữu quan với nhau. Qua đó đã giúp cho hoạt động XLV L trong TH DS
thống nhất trong toàn quốc, góp phần bảo đảm các quy định pháp luật được thực thi
nghiêm chỉnh trong thực tế cũng như phục vụ các nhiệm vụ chính trị nói chung.
Hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
ngày càng được đổi mới về chất, phản ánh và thể hiện được trong pháp luật những
nhu cầu căn bản, khách quan về công tác XLV L trong TH DS. Hoạt động xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã thể chế hóa kịp thời
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Nội dung pháp luật đã tạo được tiền đề cho hoạt động của cơ quan
TH DS, các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc XLV L trong TH DS được minh bạch và công khai hơn, mặt khác, tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát của mình đối với
hoạt động TH DS nói chung và hoạt động XLV L trong TH DS nói riêng.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đã làm cho pháp luật về
117
XLV L trong TH DS có sự hình thành và phát triển tương đối đồng bộ, đã dần
cân đối, hài hòa hơn, từng bước khắc phục được sự chồng chéo, mâu thuẫn, lệch
lạc, không đồng đều trong các văn bản pháp luật. Các quy định pháp luật đã góp
phần căn bản trong việc phòng ngừa và đấu tranh loại bỏ các V L trong TH DS,
góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực TH DS, duy trì sự ổn định
trong các quan hệ xã hội trong TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS đã mang được những sắc thái riêng,
vừa truyền thống vừa hiện đại, trong đó, các yếu tố truyền thống được kế thừa và
phát triển, các yếu tố hiện đại và kinh nghiệm xây dựng, hoàn thiện pháp luật được
nghiên cứu, chọn lọc và tiếp thu. háp luật về XLV L trong TH DS cơ bản đã
phản ánh được trình độ phát triển của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
đất nước, đáp ứng một phần nhu cầu hội nhập quốc tế và khu vực, đồng thời, phản
ánh r nét đặc thù của lĩnh vực TH DS ở nước ta. Bên cạnh đó, pháp luật đã ngày
càng khẳng định được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của nó và từng bước làm
thay đổi nhận thức về bản chất, giá trị xã hội trong đời sống xã hội.
Kỹ thuật lập pháp nói chung và kỹ thuật xây dựng pháp luật về XLV L
trong TH DS nói riêng đã ngày càng được cải tiến, mang lại những kết quả cao và có
ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Chất lượng các
văn bản Q L về XLV L trong TH DS ngày càng được nâng cao, tốc độ xây dựng
văn bản ngày càng nhanh hơn. Các văn bản Q L về XLV L trong TH DS đã được
xây dựng ở trình độ lập pháp khá cao, có cấu trúc hợp lý, các nguyên tắc, mục đích
được quy định r ràng, có đủ các chế định pháp luật và các Q L để điều chỉnh các
quan hệ cơ bản phù hợp với yêu cầu đặt ra về tính chất và nội dung của văn bản, ngôn
ngữ thể hiện cô đọng, chính xác, một nghĩa, thuận tiện cho việc nghiên cứu và áp dụng.
Nói chung, trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS đã
có những bước phát triển quan trọng, từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang
pháp lý vững chắc cho hoạt động XLV L trong TH DS, duy trì trật tự pháp luật
TH DS, góp phần bảo đảm các quan hệ TH DS, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ
quyền lợi của Nhà nước và người dân, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, an ninh
trật tự, an toàn xã hội, góp phần cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả và chất lượng
công tác TH DS, phân định chức năng, thẩm quyền, nâng cao trách nhiệm giữa các
cơ quan nhà nước trong lĩnh vực TH DS ở nước ta.
3.2.1.2. Nguyê â của ữ g ưu đ ể v t tựu
Có những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những ưu điểm và
118
thành tựu trong việc hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS nêu trên, trong đó
có những nguyên nhân chính sau đây:
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương,
đường lối, chính sách về tăng cường cải cách tư pháp, không ngừng xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật XLV L trong
TH DS. Công tác tổ chức thực hiện việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng
được chú trọng và tăng cường góp phần bảo đảm chất lượng và hiệu quả pháp luật
về XLV L trong TH DS. Quan điểm nhận thức về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật XLV L trong TH DS theo đó đã được nâng cao.
Việc đề ra chương trình, kế hoạch hoàn thiện các văn bản Q L về
XLV L trong TH DS ngày càng được chú trọng và có nhiều cải tiến đã góp phần
quan trọng trong việc phát hiện và đề xuất các vấn đề cần thiết cho việc xây dựng
mới hoặc sửa đổi, bổ sung pháp luật. Vấn đề phân tích chính sách, khảo sát và tổng
kết thực ti n để làm cơ sở cho việc xây dựng các văn bản Q L về XLV L trong
TH DS cũng ngày càng được quan tâm và chú trọng hơn.
Nhà nước cũng đã có sự đầu tư cần thiết cho việc nghiên cứu một cách cơ bản
và có hệ thống những vấn đề lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và
về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, những chủ trương, chính
sách, định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã được
đề ra khá kịp thời, khoa học, mang tính chiến lược và tổng thể đã góp phần xây
dựng được hệ thống văn bản Q L về XLV L trong TH DS khá đồng bộ, thống
nhất, đầy đủ, toàn diện và có hiệu lực cao, phù hợp với yêu cầu của thực ti n.
Nhà nước cũng đã chú trọng hơn trong việc nghiên cứu những vấn đề lý
luận cơ bản về pháp luật, tập quán, kỹ thuật pháp lý... từ đó đã có sự áp dụng trong
quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, góp phần làm cho công
tác hoàn thiện pháp luật hiệu quả và khoa học hơn.
Quy trình thực hiện hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, công
tác tổ chức soạn thảo các dự án, dự thảo văn bản đã có sự đầu tư cần thiết và thích
hợp về thời gian, công sức cũng như các điều kiện về vật chất, tài chính... và có sự
tham gia đóng góp của đội ngũ chuyên gia, các nhà chuyên môn, các nhà khoa học,
đồng thời, đã có sự khảo sát tương đối đầy đủ các điều kiện thực ti n để chất lượng
hoạt động hoàn thiện pháp luật ngày càng được nâng cao và phù hợp với thực ti n.
Các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật đã từng bước được đổi mới về
tổ chức cũng như nâng cao về năng lực, đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng,
119
thẩm tra, thẩm định, rà soát văn bản Q L nói chung và văn bản Q L về XLV L
trong TH DS nói riêng đã dần được bổ sung và đào tạo, bồi dưỡng về kinh nghiệm,
trình độ đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Nhà nước cũng đã quan tâm hơn đối với vấn đề kiểm tra, theo d i, đánh giá
hiệu quả và rút kinh nghiệm trong quá trình tổ chức xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS. Do đó, việc đề ra các biện pháp, giải pháp nhằm
khắc phục những nhược điểm, hạn chế cũng như phát huy những thành tựu, ưu
điểm trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
được kịp thời và hiệu quả.
Nhà nước cũng đã từng bước xây dựng được cơ chế tổ chức hợp lý, đầu tư
kinh phí và chú trọng đến các điều kiện bảo đảm khác chính trị, kinh tế, tổ chức cán
bộ, cơ sở vật chất, nâng cao trình độ cán bộ, công chức, đảm bảo cơ sở vật chất, kinh
phí, phương tiện kỹ thuật…. để công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS được thực hiện thường xuyên và hiệu quả hơn trong thực ti n.
3.2.2. Nhƣợc điểm, hạn chế và nguyên nhân trong việc hoàn thiện pháp
luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
3.2.2.1. N ược đ ể v c ế tr g v c t u t v
v u t tr g t dâ sự
Trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật, bất kỳ một văn bản
Q L nào được ban hành đều nhằm tới những mục tiêu nhất định. Mục tiêu quan
trọng nhất của pháp luật về XLV L trong TH DS chính là thiết lập trật tự ổn định
trong lĩnh vực TH DS, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của pháp luật, trong đó, nội
dung cơ bản là hạn chế, giảm thiểu, phòng, chống, ngăn ngừa và loại bỏ các V L
trong TH DS. Chính vì vậy, hiệu quả thực hiện pháp luật trên thực tế là thước đo
chính xác nhất đối với một văn bản Q L. Các văn bản Q L được ban hành là để
hướng hành vi của các chủ thể trên thực tế đến một mục tiêu cụ thể chứ không phải
là để trưng bày hoặc chỉ để có đầy đủ quy định điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đặc
biệt, trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc ban hành các văn bản
Q L nhưng không đạt được những mục tiêu đã định sẽ làm giảm tính nghiêm
minh của hệ thống pháp luật, và có thể dẫn tới việc làm giảm ý thức tuân thủ pháp
luật của người dân. Qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về XLV L trong
TH DS hiện nay cho thấy còn có những nhược điểm và hạn chế nhất định, chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực ti n hiện nay. Bên cạnh đó, tình trạng V L về
120
TH DS trong những năm gần đây xảy ra ngày càng nhiều và có chiều hướng gia
tăng, việc xử lý đối với các V L trong TH DS chưa nghiêm và triệt để. Thực
trạng này cho thấy hiệu quả của công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS chưa đạt được kết quả như mong muốn cũng như các mục
tiêu đã đề ra.
Thực ti n cho thấy, trong những năm gần đây, mặc dù Đảng và Nhà nước ta
luôn chú trọng đến việc đề ra những chủ trương, đường lối và chính sách nhằm xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tuy nhiên, vấn đề xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong từng lĩnh vực cụ thể của xã hội như lĩnh vực TH DS
thì chưa được chú trọng ở mức cần thiết để đáp ứng yêu cầu của thực ti n về xây
dựng và hoàn thiện pháp luật. Do vậy, có thể nói, những chủ trương và chính sách
về phát triển, hoàn thiện hệ thống pháp luật XLV L trong TH DS là chưa thực sự
r ràng. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến thực ti n của hoạt động hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong THADS.
Chất lượng công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS còn nhiều hạn chế dẫn đến hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS
chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, hoàn chỉnh, toàn diện, chưa hoàn toàn phù hợp với
đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, tính khả thi thấp và chậm đi vào cuộc sống.
Công tác hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS chưa được thực
hiện một cách đồng bộ, triệt để và toàn diện trên các mặt của hệ thống pháp luật,
chưa có sự thống nhất, chưa được thực hiện mang tính tổng thể và bao quát đối với
toàn bộ nội dung pháp luật. Quá trình này được thực hiện mang tính đơn l đối với
từng mảng pháp luật về XLV L trong TH DS. Điều này xuất phát từ thực trạng
pháp luật về XLV L trong TH DS hiện hành là tập hợp của nhiều văn bản pháp
luật khác nhau, liên quan đến nhiều luật chuyên ngành, do đó, công tác hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS chủ yếu được thực hiện đối với từng luật
chuyên ngành đó mà không đặt ra vấn đề hoàn thiện chung về pháp luật XLV L
trong THADS. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật sửa đổi, bổ sung, loại bỏ hay ban
hành những Q L mới chỉ được thực hiện đối với một hoặc một nhóm văn bản
pháp luật của một luật chuyên ngành cụ thể mà không được tiến hành đồng thời đối
với cả hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, việc hoàn thiện chế định XLV L hành
chính trong TH DS được tiến hành gắn liền với quá trình hoàn thiện pháp luật hành
chính, việc hoàn thiện chế định pháp luật về xử lý tội phạm hình sự trong TH DS
gắn liền với việc hoàn thiện Bộ luật hình sự... Chính điều này đã dẫn đến thực trạng
121
trong pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay là không có một đạo luật
chung, thống nhất hoặc một nhóm văn bản Q L cụ thể điều chỉnh về toàn bộ vấn
đề XLV L trong lĩnh vực TH DS mà pháp luật về XLV L trong TH DS vẫn
được quy định theo các luật chuyên ngành.
Cùng với đó thì việc xây dựng các chương trình, kế hoạch mang tính chiến
lược về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS còn rất hạn chế và hầu như chưa
được đặt ra. Thực tế cho thấy, chúng ta chưa có những kế hoạch, chương trình tổng thể
nhằm hoàn thiện toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật về XLV L trong TH DS.
Đây cũng là hạn chế nói chung trong quá trình hoàn thiện pháp luật ở nước ta, bởi lẽ,
chúng ta mới chỉ chú trọng hoàn thiện đối với một văn bản pháp luật hoặc một lĩnh
vực cụ thể mà chưa xây dựng được những kế hoạch, chương trình để hoàn thiện pháp
luật về một vấn đề trong những lĩnh vực cụ thể đó, như vấn đề XLV L trong TH DS.
Xét về chất lượng trong công tác hoàn thiện pháp luật thì có thể thấy, việc
hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
của thực ti n cũng như mục tiêu đề ra. Như đã trình bày trong phần thực trạng pháp
luật, thực tế cho thấy, pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay còn nhiều bất
cập và hạn chế, chưa hoàn chỉnh và toàn diện, chưa thống nhất và đồng bộ, chưa
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của thực ti n kinh tế xã hội, các yêu cầu của việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân. Nội dung một số văn bản pháp luật về XLV L
trong TH DS chưa có sự thể chế hóa đầy đủ và kịp thời chủ trương, đường lối,
chính sách đổi mới của Đảng.
Quá trình thực hiện hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS di n ra
chưa thường xuyên, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực ti n. Việc sửa đổi, bổ
sung, loại bỏ những quy định pháp luật đã lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp chưa
được kịp thời, công tác hướng dẫn thực hiện pháp luật còn chậm so với yêu cầu và
có nhiều bất cập...
Trong nhiều trường hợp, việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS còn mang tính bị động, chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung, loại bỏ hoặc ban
hành mới những quy định pháp luật với mục đích cho phù hợp với các văn bản pháp
luật mới được ban hành mà chưa có kế hoạch mang tính tổng thể và thực hiện sâu
rộng đối với toàn bộ nội dung pháp luật.
Chất lượng công tác thẩm định, thẩm tra đối với các văn bản pháp luật về
XLV L trong TH DS nhìn chung chưa cao, chưa thực sự mang tính phản biện và
122
có đầy đủ cơ sở pháp lý và thực ti n cần thiết. Điều này cũng là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến chất lượng pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay chưa cao.
Nhà nước chưa chú trọng đến việc tổ chức tổng kết, sơ kết, đánh giá hiệu
quả pháp luật trong thực ti n nhằm xây dựng những luận cứ khoa học trên cơ sở
thực ti n cho việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Do đó, những
bất cập, hạn chế hoặc những khó khăn, vướng mắc trong các quy định pháp luật về
XLV L trong TH DS chậm được phát hiện dẫn đến tình trạng sửa đổi, bổ sung,
loại bỏ, ban hành mới hoặc hướng dẫn luật không kịp thời, chất lượng và hiệu quả
không cao.
Công tác đánh giá chất lượng, hiệu quả pháp luật và đặc biệt là việc đánh
giá đối với công tác hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS chưa được tiến
hành thường xuyên, đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu của thực ti n. Do đó, việc phát
hiện ra những hạn chế, yếu kém trong thực ti n xây dựng, hoàn thiện pháp luật cũng
không được kịp thời và toàn diện nên chưa đề ra các giải pháp thực sự khoa học,
trên cơ sở lý luận và thực ti n để tiếp tục hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng
pháp luật về XLV L trong TH DS.
Các điều kiện bảo đảm cho việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS còn nhiều hạn chế. Để việc tổ chức hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS có hiệu quả và chất lượng trong thực ti n đòi hỏi phải có các điều kiện đảm
bảo cho hoạt động đó, trong đó có các điều kiện chung về chính trị, kinh tế, xã hội,
khoa học công nghệ, tổ chức cán bộ và các điều kiện cụ thể như kinh phí, cơ sở vật
chất, phương tiện, kỹ thuật... Tuy nhiên, hiện nay, các điều kiện bảo đảm này chưa
được chú trọng để đáp ứng được các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS. Đây đồng thời cũng chính là một trong những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến việc tổ chức hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
chưa hiệu quả và chất lượng, tương thích với ý nghĩa và vai trò của nó hiện nay.
3.2.2.2. Nguyê â của ữ g ược đ ể v c ế
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, mặc dù đạt được những thành tựu đáng ghi nhận nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển chung. Điều kiện về con người, cơ sở vật chất, phương tiện
kỹ thuật, kinh phí… trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong THADS mặc dù có sự quan tâm nhất định của Nhà nước nhưng về cơ bản vẫn
còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Quan điểm nhận thức về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS vẫn
123
còn những hạn chế nhất định, có nơi, nhận thức còn chưa đúng, không đầy đủ và
tương thích với vai trò, ý nghĩa của công tác XLV L trong TH DS. Do đó, pháp
luật về XLV L trong TH DS chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện, chưa có những giải pháp đồng bộ và thống nhất để hoàn thiện nhằm đáp ứng
yêu cầu của thực ti n xã hội.
Xét một cách tổng quan, cho đến nay, Nhà nước chưa hoạch định được
chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về XLV L
trong TH DS nói riêng mang tính toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược. Do
đó, việc hoàn thiện pháp luật chưa được thực hiện một cách triệt để, sâu rộng trên
tất cả các mặt.
Bên cạnh đó, lĩnh vực TH DS nói chung chưa được nhìn nhận đúng với
tầm quan trọng của nó. Đảng và Nhà nước ta chưa có chiến lược toàn diện, cụ thể
về công tác TH DS. Sự lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng đối với công tác TH DS
chưa sâu, chưa chặt chẽ, có nơi vẫn để tình trạng buông lỏng, thiếu quan tâm chỉ
đạo, kiểm tra. Chính điều đó cũng dẫn đến việc nghiên cứu, tìm hiểu và đề ra các
quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS không được chú trọng và đáp ứng yêu cầu.
Hoạt động nghiên cứu, đánh giá, tổng kết về chất lượng và hiệu quả hoạt động
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS trên thực tế di n ra chậm,
không kịp thời và bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Do đó, việc đề ra các giải pháp, biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS không kịp thời và đáp ứng được yêu cầu của thực ti n.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS chưa huy động được sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, các nhà
khoa học cũng như ý kiến đóng góp của những người làm thực ti n về công tác này.
Do vậy, chất lượng của hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
XLV L trong TH DS chưa cao và chưa đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của
thực ti n.
Một thực tế hiện nay trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói
chung ở nước ta đó là việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật chưa theo kịp
đòi hỏi của thực ti n; việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp
luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân còn nhiều hạn chế.
Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xây dựng và hoàn thiện
pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật XLV L trong TH DS nói riêng.
124
Nói chung, trong những năm qua, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung, pháp luật về XLV L trong TH DS cũng không ngừng
được củng cố, hoàn thiện về cả nội dung, hình thức cũng như kỹ thuật xây dựng
pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS trên thực tế vẫn chưa được chú trọng. Điều này dẫn đến thực trạng
pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay còn những nhược điểm và hạn chế
nhất định, đòi hỏi cần tiếp tục được nghiên cứu để có những giải pháp hoàn thiện,
đáp ứng yêu cầu của thực ti n kinh tế xã hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN cũng như trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
1. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về XLV L trong TH DS trên
cả phương diện nội dung, hình thức và tổ chức thực hiện pháp luật cho thấy, pháp
luật về XLV L trong TH DS đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, là cơ
sở pháp lý để xử lý đối với mọi hành vi V L trong lĩnh vực TH DS cũng như đáp
ứng được những yêu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động XLV L
trong lĩnh vực TH DS, góp phần cơ bản trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, xã hội và công dân.
2. Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu đáng ghi nhận, pháp luật về
XLV L trong TH DS cũng bộc lộ những nhược điểm và hạn chế nhất định trên
cả phương diện nội dung và hình thức thể hiện như: háp luật về XLV L trong
TH DS còn chưa đầy đủ và toàn diện, chưa thống nhất và đồng bộ, chưa đáp ứng
được đầy đủ những yêu cầu của tính khoa học và thực ti n. Hiệu lực pháp lý của
những văn bản Q L về XLV L trong TH DS chưa phù hợp với tình hình kinh
tế, xã hội nước ta hiện nay cũng như chưa tương thích với những yêu cầu của công
tác XLV L trong lĩnh vực TH DS. Hệ thống văn bản Q L về XLV L trong
TH DS chưa thực sự tạo được nền tảng cho hoạt động XLV L trong thực ti n mà
ngược lại còn làm giảm, thậm chí làm cản trở tính hiệu quả trong thực ti n
XLV L về TH DS. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong
TH DS còn có những hạn chế nhất định, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
3. Qua nghiên cứu thực ti n xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS những năm qua ở nước ta cho thấy, việc hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS đã đạt được những kết quả và thành tựu đáng ghi nhận,
pháp luật về XLV L trong TH DS không ngừng được hoàn thiện và phát triển
125
qua từng giai đoạn lịch sử, từng bước đáp ứng được yêu cầu về điều chỉnh pháp luật
đối với hoạt động XLV L trong TH DS ở nước ta. Đến nay, chúng ta đã xây
dựng được hệ thống Q L về XLV L trong TH DS tương đối đầy đủ, toàn diện,
đồng bộ cũng như đã đáp ứng được phần nào những yêu cầu về tính khoa học, thực
ti n, phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và thực ti n TH DS.
4. Thực ti n hiện nay cũng cho thấy, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS còn có những nhược điểm và hạn chế nhất định,
chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đặt ra. Hoạt động hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS chưa được thực hiện một cách tổng thể trên các mặt của
pháp luật mà chủ yếu được thực hiện đơn l theo từng pháp luật nội dung. Do đó,
pháp luật về XLV L trong TH DS về cơ bản chưa được hoàn thiện, đáp ứng
được đầy đủ các yêu cầu của thực ti n hiện nay.
5. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS, trong đó có những nguyên nhân khách quan và chủ
quan. Việc phân tích, tìm hiểu các nguyên nhân này có ý nghĩa quan trọng, cho
phép chúng ta xây dựng và đề xuất những quan điểm và giải pháp để phát huy
những ưu điểm, thành tựu đạt được cũng như khắc phục những nhược điểm, hạn
chế trong thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
6. Thực trạng trên đang đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS nhằm xây dựng pháp luật về XLV L trong TH DS
toàn diện, đồng bộ, khoa học và có tính khả thi cao, là cơ sở pháp lý hữu hiệu và
nền tảng vững chắc cho hoạt động XLV L, góp phần duy trì bảo đảm an ninh trật
tự và an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS ở nước ta.
126
C ươ g 4
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
4.1. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ
VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
háp luật về XLV L trong TH DS là một bộ phận cấu thành trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, vì vậy, các nguyên tắc của pháp luật nói chung được áp
dụng cùng những nguyên tắc đặc thù của pháp luật về XLV L trong TH DS.
Các nguyên tắc của việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là
những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, quán triệt trong toàn bộ quá trình hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS [93]. Các nguyên tắc này có vai trò rất quan
trọng trong việc chỉ đạo, định hướng và áp dụng vào toàn bộ quá trình hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS, đồng thời, nó còn có ý nghĩa là tiêu chuẩn
quan trọng để xác định tính hợp pháp và hợp lý của pháp luật cũng như trong hành
vi của các chủ thể pháp luật, tác động mạnh mẽ tới ý thức pháp luật, văn hóa pháp
lý và trật tự pháp luật. Các nguyên tắc này gồm những nguyên tắc chung và những
nguyên tắc đặc thù.
4.1.1. Những nguyên tắc chung
4.1.1.1. t u t v v u t tr g t
dâ sự ả uất t từ yêu cầu ây dự g N ước quy ã ộ c ủ
g ĩa V t Na
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI đều khẳng định chủ trương của
Đảng ta là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2013 cũng khẳng định "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"
Khoản 1 Điều 2 . Thực ti n của công cuộc đổi mới những năm qua ngày càng
khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan, mang tính quy luật của
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, mở rộng giao lưu quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về XLV L trong TH DS. háp
127
luật về XLV L trong TH DS gắn với Nhà nước pháp quyền phải được xây dựng
với chất lượng cao, thể hiện đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp
với thực tế khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phản ánh được nhu cầu phát triển
kinh tế, trình độ xã hội cũng như các yếu tố văn hóa, văn minh, truyền thống lịch
sử... háp luật về XLV L trong TH DS phải trở thành công cụ sắc bén trong việc
bảo đảm các quyền và tự do của con người, của công dân, là những giá trị cao nhất
trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
4.1.1.2. t u t v v u t tr g t
dâ sự ả uất t từ đ u k t tr ể k tế t ị trườ g đị
ướ g ã ộ c ủ g ĩa
Nền kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm qua đã và đang có những
chuyển biến quan trọng theo chiều hướng ngày càng phát triển năng động, phong
phú và đa dạng, đời sống vật chất, tinh thần cũng như trình độ dân trí của người dân
ngày càng được nâng cao. Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật được coi là công
cụ hữu hiệu nhất để thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển, bảo đảm quyền lực của
Nhà nước đối với xã hội cũng như sự ổn định, tăng trưởng của nền kinh tế. Trong
đó, vấn đề thi hành chất lượng, hiệu quả các phán quyết của Tòa án và Trọng tài
cũng như vấn đề xử lý nghiêm đối với những trường hợp V L xâm hại những
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành những phán quyết đó có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Vì vậy, cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về nội
dung nhằm tạo cơ sở pháp lý an toàn cho các quan hệ kinh tế, dân sự, lao động thì
cần xây dựng và hoàn thiện các thiết chế đảm bảo thi hành và bảo vệ pháp luật,
trong đó có pháp luật về XLV L trong TH DS.
4.1.1.3. t u t v v u t tr g t
dâ sự ả uất t từ yêu cầu tă g cườ g ợ t c quốc tế v u t, tư
v ộ k tế quốc tế
Hợp tác quốc tế là nhu cầu và xu thế tất yếu trong sự tồn tại và phát triển
của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay. Vì vậy, từ Đại hội Đảng lần thứ VI
đến nay, Đảng ta đều khẳng định chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hóa và đa dạng
hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng
luôn đặt ra những thách thức lớn, đòi hỏi hệ thống pháp luật nước ta cần được hoàn
thiện và toàn diện. Trong lĩnh vực TH DS, quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh
tế quốc tế cũng làm gia tăng các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động có yếu tố nước
128
ngoài. Việc xử lý nghiêm, công bằng, nhân đạo, công khai, minh bạch các trường
hợp V L trong TH DS, đặc biệt là những trường hợp có yếu tố nước ngoài là một
đòi hỏi thích đáng của thực ti n. Chính bởi vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của nước ta hiện
nay là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng.
4.1.2. Những nguyên tắc đặc thù
1 2 1 án
dâ sự trê cơ sở t ể c ế óa kị t ờ , đầy đủ, đú g đắ đườ g ố của Đả g t ể
N ị q yế số 8-NQ/TW y 2 /5/2005 c ế ược ây dự
t u t V t Na đế ă 2010, đị ướ g đế ă 2020 v Ng ị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 v c ế ược cả c c tư đế ă 2020
của Bộ C í trị; cụ t ể óa c c quy đị của ế v guyê tắc
g ê đố vớ c c trườ g ợ VPPL, v tô trọ g v t g ê c ỉ c c
bả , quyết đị của tòa , v bả đả quy c gườ , quy cô g dâ ...
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS trên cơ sở thể chế hóa các
quan điểm tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị để xây dựng hệ thống pháp luật về
XLVPPL trong TH DS đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân, góp phần xây dựng nền tư
pháp Việt Nam trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo đó,
pháp luật về XLV L trong TH DS phải đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí về tính
toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khoa học, thực ti n, công khai, minh bạch và dân chủ
về cả nội dung và hình thức thể hiện. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện pháp luật
XLV L trong TH DS cũng phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc về xử lý
nghiêm đối với các trường hợp V L, tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh các bản
án, quyết định của tòa án, bảo đảm quyền con người, quyền công dân... đã được
xác định trong Hiến pháp, trong đó, pháp luật về XLV L trong TH DS phải
được hoàn thiện theo hướng có đầy đủ các chế định và Q L về XLV L trong
THADS, có các chế tài đủ mạnh để phòng ngừa, răn đe và ngăn chặn các hành vi
V L trong TH DS, đặc biệt là các hành vi cản trở, chống đối việc thi hành các
bản án, quyết định dân sự, các hành vi xâm hại quyền con người, quyền công dân
trong hoạt động TH DS...
129
4.1.2.2. t u t v v u t tr g t
dâ sự ục đíc tă g u quả cô g t c t dâ sự, duy trì
tr t tự u t t dâ sự v bả đả c c c ố qua tr g t
dâ sự tồ t , t tr ể bì t ườ g tr g k uô k u t
TH DS là hoạt động nhằm đưa ra thi hành những bản án, quyết định dân sự mà
theo quy định của pháp luật phải được thi hành trên thực tế. Một nguyên tắc mang tính
hiến định, đó là " Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành" Điều 106 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013 . Do vậy,
mọi hành vi V L xâm hại tới trật tự TH DS, chống đối, cản trở quá trình TH DS cần
phải xử lý nghiêm theo quy định pháp luật. Theo đó, pháp luật về XLV L trong
TH DS phải được hoàn thiện, là cơ sở pháp lý để duy trì trật tự pháp luật TH DS, đấu
tranh ngăn chặn và phòng ngừa mọi V L trong TH DS, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác TH DS, đồng thời, đáp ứng được các yêu cầu đang đặt ra hiện nay trong
thực ti n TH DS.
4.1.2.3. V c t u t v v u t tr g t
dâ sự cầ ả đ t tr g t g t ể t t ố g u t V t
Na , đả bả sự t ố g ất v đồ g bộ
háp luật về XLV L trong TH DS là một bộ phận của hệ thống pháp luật
Việt Nam, do đó, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS luôn phải đặt
trong tổng thể hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Có như vậy, pháp
luật về XLV L trong TH DS mới có sự phù hợp cần thiết với hệ thống pháp luật
trong nước, đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ, không có sự mâu thuẫn và chồng
chéo về nội dung và hình thức. Để thực hiện được nguyên tắc này thì trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, các cơ quan nhà nước phải
thường xuyên rà soát, kiểm tra, đối chiếu, so sánh và hệ thống hóa pháp luật để kịp
thời phát hiện những điểm không phù hợp trong nội dung, hình thức của pháp luật
về XLV L trong TH DS, từ đó có sự điều chỉnh kịp thời, bảo đảm tính thống
nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
4.1.2.4. V c t u t v v u t tr g t
dâ sự ả gắ vớ vấ đ â g ca u quả t độ g v
u t tr g t dâ sự bả đả tí g ê , u
ực, u quả của u t
Nâng cao hiệu quả về XLV L trong TH DS là một vấn đề có ý nghĩa rất
quan trọng, là cơ sở để đảm bảo tính nghiêm minh, hiệu lực và hiệu quả của pháp
130
luật về XLV L trong TH DS. Để việc XLV L trong TH DS hiệu quả thì trước
tiên, pháp luật về XLV L trong TH DS phải được hoàn thiện theo hướng tính
toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khoa học, thực ti n, công khai, minh bạch và dân chủ.
Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải nhằm mục
đích nâng cao hiệu quả XLV L trong TH DS. Việc XLV L trong TH DS
được thực hiện có hiệu quả trên thực tế chính là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn
thiện của pháp luật về XLV L trong TH DS.
4.1.2.5. V c t u t v v u t tr g t
dâ sự ả t được cơ c ế tă g cườ g ố kết ợ g ữa c c cơ qua
ữu qua tr g v c v u t tr g t dâ sự
háp luật về XLV L trong TH DS cần được hoàn thiện theo hướng quy
định đầy đủ, cụ thể và xác định r ràng trách nhiệm của các cơ quan hữu quan về
việc XLV L trong TH DS, đồng thời, quy định r về cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan này trong hoạt động XLV L trong TH DS. Sự phối kết hợp chặt chẽ và
thống nhất trong quá trình XLV L trong TH DS của các cơ quan chức năng,
trong đó, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan đó được xác định r ràng bằng
các quy định pháp luật là cơ sở đảm bảo cho việc XLV L trong TH DS chất
lượng và hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của thực ti n. Do đó, việc hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS cần đặt ra yêu cầu xây dựng được cơ chế tăng
cường phối kết hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc XLV L về TH DS.
4.1.2.6. V c t u t v v u t tr g t
dâ sự ả đ đô vớ v c tuyê truy , b ế , g dục u t,
gắ v c t c ức t ực u t vớ tă g cườ g độ g c bộ, cô g c ức
c uyê tr c v ĩ vực y
Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải luôn
đặt ra yêu cầu tổ chức thực hiện pháp luật hiệu quả trong thực ti n, trong đó, cần tập
trung ở công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để pháp luật về
XLV L trong TH DS được đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả trong thực
ti n. Qua việc tổ chức thực hiện pháp luật này có thể đánh giá được mức độ hoàn
thiện của pháp luật, để từ đó, đề ra những giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS. Để thực hiện nhiệm vụ đó thì một trong những vấn đề
quan trọng là cần tăng cường đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách về tổ chức
thực hiện pháp luật và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cả số lượng và
chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thực ti n đối với hoạt động này.
131
4.1.2.7. P t uy dâ c ủ, tă g cườ g sự t a g a của â dâ v c c
t c ức ã ộ v t độ g ây dự g u t c u t v
v u t tr g t dâ sự t ể đầy đủ, đú g đắ c í v
guy vọ g của â dâ ; tă g cườ g c ế tr g qu trì ây dự g,
t v t c ức t u t v v u t tr g t
dâ sự
háp luật về XLV L trong TH DS được hoàn thiện phải thể hiện đầy đủ,
đúng đắn ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Theo đó, trong công tác xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS cần tổ chức lấy ý kiến sâu rộng của nhân
dân, đồng thời, tiếp thu và cụ thể hóa sâu sắc ý chí và nguyện vọng đó trong pháp
luật về XLV L trong TH DS. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và
tổ chức thi hành pháp luật về XLV L trong TH DS cần chú trọng tăng cường pháp
chế XHCN để bảo đảm cho các hoạt động này được thực hiện trên cơ sở pháp luật, thể
hiện được đầy đủ các quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước ta.
4.2. GIẢI PHÁP VỀ THỰC HIỆN, XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và
pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng đã được xác định rất cụ thể trong các
văn kiện của Đảng cũng như trong chính sách pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu là
tạo được một hệ thống pháp luật có sự đổi mới căn bản, có hệ thống Q L với
những nguyên tắc, định hướng và mục đích pháp lý đầy đủ, r ràng, đồng bộ, thống
nhất và có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thực hiện thành công chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh [10]. Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội X của Đảng
đã nêu r : "Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định
trong văn bản pháp luật"; "Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh
việc ban hành pháp lệnh" [3]. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS phải được thực hiện theo các nội dung, quan điểm xuyên suốt như sau:
Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đồng
nghĩa với việc xây dựng các văn bản Q L dưới hình thức luật do Quốc hội ban
hành, trong đó, phải cơ bản giải quyết được những bất cập, hạn chế hiện nay của hệ
132
thống Q L về XLV L trong TH DS, đồng thời, phải tạo cơ sở pháp lý để giải
quyết những vấn đề cơ bản nhất, mang tính nguyên tắc về XLV L trong THADS
trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm xây dựng pháp luật những năm qua, bảo đảm đáp ứng
yêu cầu cải cách pháp luật về tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm quý báu của quốc tế.
Tăng cường bảo đảm quyền tự do của công dân, bảo đảm quyền con người,
đề cao tính dân chủ, công bằng, công khai và minh bạch trong việc xây dựng, ban
hành và áp dụng pháp luật về XLV L trong TH DS, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
của quản lý nhà nước, xử lý nghiêm minh, nhanh chóng, đúng pháp luật các V L
trong TH DS, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS, tạo
môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế, xã hội.
Thể hiện r tinh thần cải cách hành chính trong việc quy định về thủ tục sao
cho đơn giản, r ràng, tạo thuận lợi cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhân
dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật về XLV L trong TH DS
điều chỉnh; bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Có cơ chế
giám sát chặt chẽ nhằm ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm từ phía các cơ quan,
công chức nhà nước trong việc XLV L trong TH DS.
Qua nghiên cứu thực trạng pháp luật về XLV L trong TH DS cho thấy,
cần phải hoàn thiện theo hướng xây dựng hệ thống pháp luật về XLV L trong
TH DS toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khoa học, có tính thực ti n, công khai, minh
bạch và dân chủ cao. Việc hoàn thiện pháp luật XLV L về TH DS trong giai đoạn
hiện nay có ý nghĩa quan trọng và là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan.
4.2.1. Phƣơng án hoàn thiện pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong
thi hành án dân sự
Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở nước ta hiện
nay, có thể xem xét các phương án sau:
P ươ g 1: Hệ thống hóa đầy đủ các quy định pháp luật về XLV L
trong TH DS và pháp điển hóa chúng thành một đạo luật về XLV L trong
TH DS. Đề xuất này có thể được triển khai thực hiện bằng hai cách:
Một là, xây dựng một đạo luật riêng về XLVPPL trong THADS.
Việc xây dựng một văn bản luật có tính hiệu lực cao quy định toàn bộ các
nội dung về việc XLV L trong lĩnh vực TH DS là khá cần thiết. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền
133
XHCN của dân, do dân, vì dân thì việc cụ thể hóa các nội dung pháp luật liên quan
đến nhau trong một lĩnh vực bằng một đạo luật chung là phù hợp. Điều đó cũng có
ý nghĩa quan trọng trong thực ti n thực thi pháp luật, là cơ sở để quá trình thực hiện,
áp dụng pháp luật được thuận lợi và hiệu quả hơn, giúp cho việc tiếp cận, tìm hiểu
cũng như quá trình pháp điển hóa pháp luật được d dàng và thuận lợi hơn, đồng
thời, nó sẽ giúp cho quá trình phát hiện những điểm không phù hợp trong nội dung
pháp luật để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện kịp thời, nhanh chóng và đáp ứng được
yêu cầu của thực ti n.
Như đã trình bày ở các phần trên, pháp luật về XLV L trong TH DS
được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau với cấp độ giá trị pháp lý
khác nhau, chưa được điều chỉnh trong một đạo luật chung. Sự tập hợp của nhiều
Q L về từng loại V L để lập nên chế định pháp luật về XLV L trong TH DS
đang gây nhiều khó khăn cho việc tiếp cận và áp dụng trong thực tế. Chính điều này
dẫn đến nguy cơ thiếu toàn diện, hoàn chỉnh và không đầy đủ về nội dung pháp luật.
Do đó có thể xem xét việc xây dựng một văn bản Q L điều chỉnh toàn bộ nội
dung pháp luật về XLV L trong TH DS một cách tập trung và thống nhất, trong
đó, quy định đầy đủ và cụ thể về các loại V L vi phạm hành chính, tội phạm, vi
phạm quy định pháp luật dân sự, vi phạm kỷ luật, V L gây thiệt hại trong khi thi
hành công vụ của công chức TH DS, V L gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan
TH DS ; TN L; đối tượng chịu TN L; thời hiệu truy cứu TN L; các hình thức và
biện pháp XLV L; thẩm quyền XLV L; trình tự, thủ tục XLV L và giải quyết
khiếu nại, tố cáo về XLV L trong TH DS.
Để thực hiện theo cách thức này, chúng ta phải xây dựng được chương
trình, kế hoạch tổng thể, toàn diện về hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung, pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng, cần xác định cụ thể từng giai
đoạn, lộ trình trong quá trình hoàn thiện pháp luật. Trong đó, nội dung chủ yếu,
mang tính xuyên suốt là xây dựng các đạo luật điều chỉnh những vấn đề chung, bao
quát toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội chỉ cần quy định những nội dung
chính, những vấn đề mang tính nguyên tắc, định hướng, còn những vấn đề cụ thể,
đặc trưng được cụ thể hóa trong hệ thống luật chuyên ngành. Theo đó, chúng ta sẽ
xây dựng được một hệ thống pháp luật có sự phân định thứ bậc rất r ràng, đồng
thời, có sự phân định cụ thể về nội dung các chế định và các Q L , trong đó xác
định được r nét các luật chung các luật bao quát những vấn đề rộng, bao hàm
nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội và luật riêng các luật cụ thể về từng lĩnh vực
134
và các luật điều chỉnh những vấn đề cụ thể trong mỗi lĩnh vực đó .
Hai là, quy định toàn bộ nội dung XLVPPL về THADS thành một phần
riêng trong Luật THADS.
Theo cách thức này, Luật TH DS sẽ có hai phần chính, trong đó, một phần
quy định toàn bộ các nội dung về tổ chức, hoạt động TH DS và một phần quy định
toàn bộ các nội dung về XLV L trong lĩnh vực TH DS. Ưu điểm nổi bật của cách
thức này là chúng ta sẽ xây dựng được một đạo luật chung về toàn bộ các vấn đề
trong lĩnh vực TH DS, từ tổ chức, hoạt động đến quá trình XLVPPL trong
TH DS. Theo đó, quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật cũng rất thuận lợi, d
dàng, đồng thời, việc tiếp cận, tìm hiểu của người dân cũng đơn giản hơn. Chúng ta
sẽ có được cách nhìn tổng thể và toàn diện về toàn bộ quá trình TH DS. Điều này
cũng rất phù hợp với định hướng xây dựng pháp luật hiện nay ở nước ta nói riêng
và các nước trên thế giới nói chung.
Tuy vậy, phương án này với cả hai cách thức nêu trên có tính khả thi
không cao, khó phù hợp với thực ti n xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay cũng
như thực ti n xây dựng pháp luật ở các nước tiên tiến trên thế giới. Bởi lẽ, theo
phương án này, chúng ta phải tiến hành xây dựng một đạo luật về XLV L trong
TH DS riêng, đồng thời, sửa đổi toàn bộ các Bộ luật và luật chuyên ngành liên
quan. Chẳng hạn, Bộ luật hình sự chỉ quy định những nguyên tắc chung, phần tội
phạm sẽ được quy định ở các luật chuyên ngành, tội phạm về TH DS sẽ được quy
định tại Luật XLV L trong TH DS hoặc Luật TH DS. Các luật nội dung khác
cũng vậy, Luật xử lý vi phạm hành chính chỉ quy định những nguyên tắc, những
vấn đề chung, còn các vi phạm hành chính được quy định trong các luật chuyên
ngành, riêng các vi phạm hành chính trong lĩnh vực TH DS được quy định tại Luật
XLV L trong TH DS hoặc Luật TH DS; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước quy định những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, còn
những nội dung cụ thể quy định trong các luật chuyên ngành, riêng vấn đề bồi
thường nhà nước trong lĩnh vực TH DS được quy định tại Luật XLV L trong
THADS hoặc Luật TH DS; Luật cán bộ, công chức quy định những vấn đề chung
mang tính nguyên tắc về xử lý kỷ luật, còn vấn đề xử lý kỷ luật cụ thể trên thực tế
quy định ở các luật chuyên ngành, riêng vấn đề xử lý kỷ luật trong TH DS được
quy định tại Luật XLV L trong TH DS hoặc Luật TH DS.... Do vậy, để thực
hiện được điều này cần phải có những thay đổi lớn về chính sách pháp luật và cần
phải có sự huy động cả về công sức và kinh phí thực hiện. Điều này chưa phù hợp
135
trong điều kiện xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay.
P ươ g 2: Giữ nguyên cách thức quy định pháp luật XLV L trong
TH DS về hình thức và nội dung như hiện nay nhưng có sự sửa đổi, bổ sung các
quy định pháp luật cho phù hợp, đồng thời, thực hiện hệ thống hóa và pháp điển hóa
về mặt kỹ thuật Q L về XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Theo đó, pháp luật về XLV L trong TH DS vừa được quy định trong
pháp luật TH DS, vừa được quy định trong pháp luật nội dung về mỗi loại V L
nói chung. Luật TH DS quy định những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc về
XLVPPL trong lĩnh vực TH DS, còn pháp luật nội dung quy định cụ thể về các
hành vi V L, trình tự, thủ tục XLV L... trong đó có những nội dung về XLV L
trong TH DS. Quá trình sửa đổi, bổ sung hay hoàn thiện pháp luật nói chung sẽ
được thực hiện theo từng luật nội dung, mang tính độc lập cao.
Theo phương án này, quá trình hoàn thiện pháp luật được thực hiện thường
xuyên, vừa thực hiện, áp dụng pháp luật, vừa kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
các Q L không phù hợp hoặc có sự mâu thuẫn, chồng chéo nhằm đáp ứng yêu cầu
của thực ti n trong từng giai đoạn. Đặc biệt, việc thực hiện pháp điển hệ thống
Q L về XLV L trong TH DS sẽ giúp chúng ta tập hợp được toàn bộ nội dung
pháp luật mang tính hệ thống cao, được sắp xếp khoa học, hợp lý, giúp cho việc tra
cứu, tìm hiểu hoặc tiếp cận cũng như việc thực hiện được thuận lợi, d dàng. Bên
cạnh đó, việc hoàn thiện pháp luật cũng không mang lại những biến động, thay đổi
lớn trong hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay.
Mặc dù các phương án nêu trên đều có những ưu, nhược điểm nhất định
nhưng xét một cách toàn diện, chúng ta có thể nhận thấy việc lựa chọn phương án 2
là hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, theo xu hướng và quan điểm tiến bộ về xây dựng, hoàn
thiện pháp luật hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng thì cách
thức quy định pháp luật về XLV L trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội
như lĩnh vực TH DS hiện nay là hoàn toàn phù hợp với thực ti n, đồng thời, vẫn
đáp ứng được đầy đủ tính khoa học, tính khả thi và tính hiện đại. Bên cạnh đó, có
thể nói, việc xây dựng những bộ pháp điển hệ thống Q L theo các chủ đề là một
sự sáng tạo trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
không chỉ đối với việc tìm hiểu, tiếp cận pháp luật mà còn đối với cả quá trình thực
hiện, áp dụng pháp luật nói chung.
háp luật hoàn chỉnh chính là có đủ các Q L để điều chỉnh tất cả các vấn
đề trong đời sống xã hội hoặc có một cơ chế để nó tự điều chỉnh và khi nó có vấn đề
136
gì thì cơ chế đó sẽ tự điều chỉnh để hoàn chỉnh, hoàn thiện, đồng thời, cũng cần phải
có cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật bao hàm trong các Q L. hương án này sẽ
giải quyết được cơ bản nhiều vấn đề bất cập hiện nay, góp phần đáng kể để gỡ bỏ sự
chồng chéo không đáng có về nội dung pháp luật, góp phần hội nhập cho hệ thống
pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, việc xây
dựng, hoàn thiện pháp luật theo phương án này còn có ý nghĩa quan trọng như sau:
Tập hợp, hệ thống hóa được tất cả các Q L về XLV L trong lĩnh vực
TH DS đang nằm phân tán, rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau theo một trật
tự lôgíc. Theo đó, pháp luật được sắp xếp khoa học, hài hòa, hợp lý, thuận lợi cho quá
trình nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp cận nội dung các quy định pháp luật, góp phần nâng
cao hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Việc thực hiện pháp điển hệ thống Q L về XLV L trong TH DS sẽ tạo
được sự minh bạch hóa và bảo đảm tính cập nhật của các Q L thông qua việc bãi
bỏ các nội dung không r ràng, mâu thuẫn, không phù hợp với Hiến pháp, luật và
cam kết quốc tế; chỉ ra được sự mâu thuẫn, chồng chéo, không đầy đủ trong nội
dung pháp luật để kịp thời đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung cần thiết từ đó
nâng cao được tính thống nhất của các quy định pháp luật.
Việc thực hiện pháp điển hệ thống Q L về XLV L trong TH DS sẽ góp
phần bảo đảm duy trì tính hệ thống của pháp luật, các Q L được sắp xếp khoa học,
hợp lý với phạm vi, nội dung được xác định r ràng, ổn định, có tính thống nhất cao.
Bộ pháp điển sẽ được sử dụng như một phương tiện để thực hiện việc hệ thống các quy
định pháp luật về XLV L trong TH DS một cách liên tục và tất cả các quy định mới
được ban hành hoặc việc thay thế các quy định cũ đều được thực hiện ngay trong đó.
Việc thực hiện pháp điển hệ thống Q L về XLV L trong TH DS sẽ
giúp cho công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật cũng như các hoạt động
theo d i thi hành pháp luật được thuận lợi, d dàng hơn do nội dung pháp luật có sự
quy tụ một cách tập trung, thống nhất nhưng bên cạnh đó vẫn có sự phân tách rõ
ràng, mạch lạc, cụ thể về từng loại V L trong lĩnh vực TH DS. Công tác quản lý
nhà nước về XLV L trong TH DS cũng sẽ được thực hiện thuận lợi hơn. Công
tác theo d i, kiểm tra, giám sát quá trình XLV L trong TH DS cũng được thực
hiện sát thực và hiệu quả hơn.
Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, việc xây dựng các bộ pháp điển theo từng
chủ đề luôn được chú trọng, là một trong những cách thức hữu hiệu nhất cho quá trình
xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Ở Hoa Kỳ, hệ thống các Q L do Nghị viện ban hành
137
được sắp xếp một cách tổng thể vào 50 đề mục của các bộ pháp điển và được tiến hành
ngay từ đầu, do đó, đã tạo thuận lợi cho quá trình tập hợp, sắp xếp cũng như sửa đổi, bổ
sung nội dung pháp luật [6]. Ở háp, pháp điển được coi là một công việc mang tính kỹ
thuật làm cho nội dung các quy định và chính sách pháp luật được thể hiện lôgíc hơn,
có hệ thống và d tiếp cận dưới hình thức các bộ luật. Ở Liên minh Châu Âu, pháp điển
được coi như hoạt động tương ứng với việc thông qua một văn bản pháp lý mới, trong
đó, sáp nhập và bãi bỏ các văn bản là đối tượng được pháp điển hóa, bao gồm cả các
văn bản gốc quy định về nội dung và các văn bản dùng để sửa đổi, bổ sung các văn bản
đó mà không làm thay đổi nội dung của nó. Ở Canada, việc pháp điển được coi là việc
chỉnh lý và thống nhất pháp luật quốc gia, về bản chất, đó là quá trình để thống nhất,
hợp nhất các quy định trong nhiều văn bản khác nhau thuộc cùng một lĩnh vực điều
chỉnh vẫn còn hiệu lực qua tất cả các lần sửa đổi luật cho đến lần chỉnh lý cuối cùng
và để hoàn thiện pháp luật thông qua những thay đổi không mang tính nội dung như
từ ngữ, văn phong hay bố cục. Ở nh, pháp điển có nghĩa là giảm số văn bản quy
phạm hiện hành về một lĩnh vực cụ thể và bãi bỏ các quy phạm trước đó... [6].
Ở nước ta, ngày 16/4/2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành háp lệnh
háp điển hệ thống Q L và Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 63/2013/NĐ-CP
ngày 27/6/2013 quy định chi tiết thi hành háp lệnh háp điển hệ thống Q L. Đây
chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tiến hành pháp điển hệ thống pháp luật
Việt Nam nói chung và hệ thống Q L về XLV L trong TH DS nói riêng.
4.2.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong
thi hành án dân sự
Theo phương án hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS được lựa
chọn nêu trên thì việc hoàn thiện pháp luật gồm hai nội dung cơ bản, đó là thực hiện
pháp điển hệ thống Q L về XLV L trong TH DS và sửa đổi, bổ sung, ban hành
mới các quy định pháp luật về XLV L trong TH DS, cụ thể như sau:
Thực hiện pháp điển hệ thống Q L về XLV L trong TH DS được hiểu
là việc cơ quan nhà nước rà soát, tập hợp, sắp xếp hệ thống Q L về XLV L
trong TH DS đang còn hiệu lực trong các văn bản Q L do cơ quan nhà nước ở
trung ương ban hành. Hiện nay, theo quy định tại Điều 7 háp lệnh pháp điển hệ
thống Q L ngày 16/4/2012 và Điều 1 Nghị định số 63/2013/NĐ-CP ngày
27/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành háp lệnh háp điển hệ thống
Q L thì Bộ pháp điển được xây dựng ở nước ta gồm 45 chủ đề, trong đó có chủ đề
TH . Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tiến hành pháp điển hệ thống
138
Q L về XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Việc thực hiện pháp điển hệ thống Q L về XLV L trong lĩnh vực
TH DS có thể được tiến hành bằng cách rà soát, tập hợp, sắp xếp toàn bộ hệ thống
Q L về XLV L trong TH DS đang còn hiệu lực thành một phần trong Bộ pháp
điển hệ thống Q L về TH DS. Theo đó, bộ pháp điển này phải chứa đựng được
toàn bộ nội dung pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS, được sắp xếp theo
từng chế định pháp luật như đã trình bày trong phần nội dung pháp luật, bao gồm
các chế định: Xử lý vi phạm hành chính trong TH DS, xử lý tội phạm hình sự
trong TH DS, xử lý V L dân sự trong TH DS, xử lý kỷ luật trong TH DS, xử
lý V L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ về TH DS, xử lý V L gây thiệt
hại về vật chất trong TH DS. Như vậy, chúng ta có thể xây dựng được một bộ pháp
điển chung với chủ đề TH DS bao gồm hai phần chính, trong đó, một phần là toàn
bộ các Q L về tổ chức, hoạt động TH DS và một phần là toàn bộ các Q L về
XLV L trong lĩnh vực TH DS.
Bên cạnh việc thực hiện pháp điển hệ thống Q L về XLV L trong
TH DS, việc hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS cũng đặt ra yêu cầu cần
có sự sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các Q L cho phù hợp:
Trước hết, pháp luật về XLV L trong TH DS cần đưa ra khái niệm
V L trong TH DS quy định trong Luật TH DS , trong đó, quy định r V L
trong TH DS là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực TN L thực
hiện, xâm hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS, được pháp luật về
TH DS xác lập và bảo vệ. Đồng thời, pháp luật về XLV L trong TH DS cũng
cần nêu r khái niệm TN L trong TH DS, đó là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể
V L phải chịu do có hành vi V L trong TH DS, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt
giữa Nhà nước và chủ thể V L, được các Q L xác lập và điều chỉnh. Trên cơ sở
đó, pháp luật về XLV L trong TH DS quy định đầy đủ các nội dung pháp luật cụ
thể theo từng loại V L trong TH DS, cụ thể:
XLVPPL hành chính trong THADS:
Hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành, việc xử lý vi phạm hành
chính trong TH DS được thực hiện theo các quy định của Luật TH DS năm 2008,
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày
19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
139
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, TH DS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thực ti n xử lý vi phạm hành chính trong TH DS hiện nay đang đặt ra yêu cầu cần
phải sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời, cần thiết ban
hành một văn bản Q L dưới hình thức Nghị định của Chính phủ quy định về vi
phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực TH DS. Theo đó,
từng nội dung pháp luật cần có sự điều chỉnh và quy định cho phù hợp.
Vi phạm hành chính trong THADS: háp luật cần quy định r vi phạm hành
chính trong THADS là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động
TH DS mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
vi phạm hành chính. Đồng thời, cần xác định r trách nhiệm hành chính trong
THADS là loại TN L do các cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền áp
dụng đối với các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính vi phạm quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động TH DS. Bên cạnh
đó, như đã trình bày ở trên, hiện nay, một số quy định tại Chương VII từ Điều 162
đến Điều 165 Luật TH DS năm 2008 không còn phù hợp với những quy định về
xử lý vi phạm hành chính trong TH DS được quy định tại Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ và
Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ, do vậy, vấn đề đặt
ra là cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định tại Chương VII Luật TH DS năm
2008, đặc biệt là cần bổ sung tại Điều 162 Luật TH DS năm 2008 một số hành vi
vi phạm hành chính trong TH DS như: Không thực hiện đúng cam kết đã thỏa
thuận theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; Cung cấp
chứng cứ giả cho cơ quan TH DS; Không chấp hành quyết định của người có thẩm
quyền TH về việc thu tiền của người phải TH đang do người thứ ba giữ; Không
chấp hành quyết định của người có thẩm quyền TH về việc thu tiền từ hoạt động
kinh doanh của người phải TH , về việc thu tiền của người phải TH đang giữ...
để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ.
Đối tượng chịu trách nhiệm hành chính trong THADS: Hiện nay, pháp luật
không quy định cụ thể về đối tượng chịu trách nhiệm hành chính trong TH DS. Việc
xác định đối tượng chịu trách nhiệm hành chính trong TH DS phải căn cứ vào quy
định tại Điều 165 Luật TH DS, Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính, Điều 2 và
Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ. Do đó, pháp
luật TH DS cần có quy định cụ thể về đối tượng chịu trách nhiệm hành chính, đó là
140
cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính và đạt độ tuổi nhất định theo quy định
chung của Luật xử lý vi phạm hành chính , cơ quan hoặc tổ chức có hành vi trái pháp
luật xâm phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực TH DS.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong THADS: Hiện nay, pháp luật
cũng không quy định cụ thể về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong TH DS
mà áp dụng quy định chung tại Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Do đó, pháp luật TH DS cần quy định cụ thể thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
trong TH DS 01 năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện .
Hình thức và biện pháp XLVPPL hành chính trong THADS: háp luật cần
quy định r XLV L hành chính trong TH DS là hoạt động buộc chủ thể có hành
vi vi phạm hành chính trong TH DS phải chịu trách nhiệm hành chính theo quy
định của pháp luật. Các hình thức và biện pháp XLV L hành chính đã được quy
định cụ thể trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, do đó, pháp luật
TH DS chỉ quy định nội dung này đồng thời theo mỗi hành vi vi phạm hành chính
áp dụng hình thức và biện pháp nào đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành
chính cụ thể trong TH DS , trong đó cần xem xét tăng các chế tài về XLV L
hành chính để răn đe, phòng ngừa các vi phạm hành chính trong lĩnh vực TH DS
vì các chế tài này hiện nay chưa đủ mạnh.
Thẩm quyền XLVPPL hành chính trong THADS: Hiện nay, Điều 163 Luật
TH DS năm 2008, Điều 49 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Điều 68
Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định về vấn đề
thẩm quyền XLV L hành chính trong TH DS. Tuy nhiên, quy định về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong TH DS tại Điều 163 Luật TH DS năm
2008 hiện không còn phù hợp với quy định tại Điều 49 Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 và Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-C ngày 24/9/2013 của
Chính phủ. Do đó, cần phải sửa đổi, bổ sung Điều 163 Luật TH DS năm 2008, đặc
biệt là cần bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Tổng
cục trưởng Tổng cục TH DS để đảm bảo tính phù hợp, thống nhất với các quy định
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nêu trên.
Trình tự, thủ tục XLVPPL hành chính trong THADS: Hiện nay, việc XLV L
hành chính trong TH DS được thực hiện theo trình tự, thủ tục chung về XLV L
hành chính được quy định tại Chương III từ Điều 55 đến Điều 88 Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 81/2013/NĐ-C ngày 19/7/2013 của
Chính phủ, không có quy định riêng về trình tự, thủ tục XLV L hành chính trong
141
TH DS. Trên cơ sở các quy định chung về trình tự, thủ tục XLV L hành chính,
pháp luật TH DS cần có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục XLV L hành
chính trong TH DS để việc XLV L hành chính trong TH DS được thực hiện
thuận lợi và thống nhất có thể quy định trong Luật TH DS hoặc Nghị định của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp - THADS).
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLVPPL hành chính trong THADS: Hiện
nay, pháp luật không quy định riêng vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L
hành chính trong TH DS. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L hành chính
nói chung được thực hiện theo quy định tại Điều 15 Luật xử lý vi phạm hành chính
năm 2012, Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Tố cáo năm 2011. Xuất phát từ đặc
thù của việc XLV L hành chính trong TH DS bao gồm những vấn đề như: Hành
vi V L, thẩm quyền xử lý, đối tượng V L... pháp luật TH DS cần quy định cụ
thể về vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L hành chính trong TH DS:
Quyền khiếu nại, tố cáo, đối tượng bị khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền giải quyết, trình
tự và thủ tục giải quyết....
X tộ ì sự tr g T ADS:
Việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định pháp luật về xử lý tội
phạm trong TH DS gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật
hình sự và Luật TH DS. Theo đó, Bộ luật hình sự cần bổ sung quy định xác định
r tội phạm trong TH DS là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự
quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý xâm phạm các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực THADS.
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng cần bổ sung
quy định về các tội phạm trong lĩnh vực TH DS Nhóm tội phạm về TH DS cho
phù hợp với đặc thù của lĩnh vực này, bao gồm: các tội xâm phạm hoạt động
TH DS do những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động TH DS thực hiện:
Tội ra quyết định trái pháp luật trên cơ sở quy định về Tội ra quyết định trái pháp
luật theo Điều 296 : là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động TH DS ra
quyết định mà mình biết r là trái pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; Tội ép buộc nhân viên TH DS làm
trái pháp luật trên cơ sở quy định về Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp
luật theo Điều 297 : là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc nhân viên
TH DS làm trái pháp luật trong hoạt động TH DS gây hậu quả nghiêm trọng; Tội
không TH trên cơ sở quy định về Tội không TH theo Điều 305 : là hành vi của
142
người có thẩm quyền mà cố ý không ra quyết định TH hoặc không thi hành quyết
định thi hành bản án, quyết định của Tòa án gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý
kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. Các tội xâm phạm hoạt động TH DS do
những người liên quan đến việc TH thực hiện: Tội chống người thi hành công vụ
trong TH DS trên cơ sở quy định về Tội chống người thi hành công vụ theo Điều
257 : là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở
người thi hành công vụ thực hiện công vụ về TH DS của họ hoặc ép buộc họ thực
hiện hành vi trái pháp luật; Tội không chấp hành án trên cơ sở quy định về Tội
không chấp hành án theo Điều 304 : là hành vi cố ý không chấp hành bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế
cần thiết; Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản trên cơ sở quy định về Tội vi
phạm việc niêm phong, kê biên tài sản theo Điều 310 : là hành vi của người được giao
giữ tài sản bị kê biên, bị niêm phong hoặc vật chứng bị niêm phong mà có một trong
các hành vi phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc
hủy hoại tài sản bị kê biên, gây hậu quả nghiêm trọng. Cùng với đó, cũng cần xem
xét tăng các chế tài về xử lý tội phạm để răn đe, phòng ngừa các tội xâm phạm tổ chức
và hoạt động TH DS vì các chế tài này hiện nay cũng chưa đủ mạnh.
Cũng cần lưu ý rằng, hiện nay, quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa
đổi, bổ sung năm 2009 về các tội phạm nêu trên còn có những điểm chưa phù hợp
như đã trình bày ở Chương 3: Điều 304 quy định về Tội không chấp hành án trong
đó điều kiện bắt buộc k m theo hành vi phạm tội là "đã bị áp dụng biện pháp cưỡng
chế cần thiết". Điều này là không khả thi và cũng rất khó để xác định thế nào là đã
bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết. Thông thường, khi người phải TH đã bị
áp dụng cưỡng chế để TH thì không còn đặt ra vấn đề truy cứu trách nhiệm hình
sự về Tội không chấp hành án nữa, trừ một số hành vi như: không thực hiện công
việc hoặc không chấm dứt công việc nhất định, giao con vị thành niên…. Do đó,
cần sửa đổi quy định này theo hướng không quy định điều kiện "đã bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế cần thiết" là điều kiện bắt buộc, có thể thay bằng điều kiện khác
như đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi không chấp hành án… Điều 305
quy định: "Người nào có thẩm quyền mà cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc
không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý về hành vi này mà còn vi phạm...". Ở đây, hành vi
"không thi hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án gây hậu quả
nghiêm trọng" là không r ràng, cụ thể vì có thể dẫn đến cách hiểu quyết định TH
143
quyết định thi hành bản án, quyết định ở đây là của Tòa án.… Do đó, cần sửa đổi
quy định này theo hướng quy định hành vi không thi hành quyết định TH của Thủ
trưởng cơ quan TH DS thay hành vi không thi hành quyết định thi hành bản án,
quyết định của Tòa án để tránh những cách hiểu khác nhau trong việc xác định về
hành vi này. Điều 306 quy định về hành vi cố ý cản trở việc TH nhưng không mô
tả r thế nào là cố ý cản trở việc TH nên rất khó khăn trong quá trình xác định đối
với loại hành vi này, cho nên, cần có sự mô tả r ràng về hành vi "cố ý cản trở việc
thi hành án" nhằm thể hiện r bản chất cũng như các mặt cấu thành đối với tội phạm
này, tạo cho việc xác định hành vi phạm tội trong thực ti n được d dàng hơn, đảm
bảo truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng hành vi vi phạm. Điều 310 quy
định về Tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, trong đó, đã đề cập đến hành
vi phá hủy niêm phong; hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc
hủy hoại tài sản bị kê biên nhưng không quy định về các hành vi khác như: đánh
tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản, vật chứng niêm phong hoặc làm mất mát, hư hỏng
tài sản, vật chứng niêm phong, do đó, cần bổ sung quy định này theo hướng quy
định các hành vi đánh tráo, cất giấu, hủy hoại hoặc làm mất mát, hư hỏng tài sản,
vật chứng bị niêm phong là một trong những hành vi cấu thành tội vi phạm việc
niêm phong, kê biên tài sản...
Bên cạnh đó, pháp luật TH DS cũng cần quy định cụ thể cơ chế phối hợp
giữa cơ quan TH DS với các cơ quan tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
nhân dân, Tòa án nhân dân, cơ quan TH của Bộ Công an trong quá trình xử lý tội
phạm hình sự, từ việc phát hiện tội phạm đến vấn đề đề nghị khởi tố, xét xử và TH .
Đối với các nội dung khác liên quan đến vấn đề xử lý tội phạm hình sự
trong TH DS như: Đối tượng chịu trách nhiệm hình sự, thẩm quyền xử lý tội phạm
hình sự, hình thức và biện pháp xử lý, trình tự và thủ tục xử lý, giải quyết khiếu nại,
tố cáo... vẫn được quy định chung trong Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung
năm 2009 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
XLVPPL dâ sự tr g T ADS:
háp luật TH DS cần bổ sung quy định về V L dân sự trong TH DS,
xác định r đó là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại những quan hệ tài sản,
quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản, quan hệ phi tài sản trong lĩnh vực
TH DS. Đồng thời, xác định r trách nhiệm dân sự trong TH DS là loại TN L do
Tòa án hoặc chủ thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể có hành vi trái
pháp luật xâm hại những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan đến tài
144
sản, quan hệ phi tài sản trong lĩnh vực TH DS, được pháp luật dân sự quy định.
Bên cạnh đó, pháp luật TH DS cần bổ sung các quy định mang tính nguyên
tắc như: Khái niệm V L dân sự trong TH DS, trách nhiệm dân sự, cơ chế trong việc
phối hợp XLV L dân sự trong TH DS... Quá trình giải quyết, XLV L dân sự từ
giai đoạn có hành vi V L cho đến khi Tòa án ra một quyết định, bản án, thậm chí
là giai đoạn TH được tuân theo trình tự, thủ tục chung được quy định trong các luật
nội dung như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật TH DS... Theo đó, việc
xác định các loại hành vi V L dân sự phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật
dân sự, cụ thể: Hành vi không thực hiện nghĩa vụ giao vật Điều 303 ; hành vi không
thực hiện nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc
Điều 304 ; hành vi chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự Điều 305 ; hành vi chậm tiếp
nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự Điều 306 và chủ thể thực hiện hành vi V L dân
sự trong lĩnh vực TH DS có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần ;
thực hiện một công việc nhất định hoặc không được thực hiện một công việc nhất định.
X v kỷ u t tr g T ADS:
Vi phạm kỷ luật trong THADS: háp luật TH DS cần bổ sung quy định về
vi phạm kỷ luật và trách nhiệm kỷ luật trong TH DS, theo đó, vi phạm kỷ luật trong
TH DS được xác định r là những hành vi trái với những quy chế, quy tắc xác lập
trật tự trong tổ chức và hoạt động TH DS. Trách nhiệm kỷ luật trong THADS là
loại TN L do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với cán bộ, công chức
hoặc nhân viên TH DS khác có hành vi vi phạm kỷ luật trong lĩnh vực TH DS.
Bên cạnh đó, Luật cán bộ, công chức cũng như các văn bản pháp luật về xử
lý vi phạm kỷ luật nhà nước chỉ cần quy định chung về vấn đề xử lý kỷ luật đối với
cán bộ, công chức nhà nước, còn việc xử lý kỷ luật cụ thể đối với công chức theo
ngành, lĩnh vực do luật nội dung quy định. Vấn đề xử lý kỷ luật đối với công chức
và lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS cần được quy định riêng trong Luật
TH DS hoặc một văn bản Q L như Nghị định của Chính phủ hoặc Thông tư của
Bộ Tư pháp. Theo đó, các hành vi vi phạm kỷ luật trong TH DS cần được quy định
theo hướng phản ánh r nét đặc trưng của Ngành TH DS chứ không phải là những
hành vi được mô tả chung như pháp luật hiện hành. háp luật TH DS cần có những
quy định riêng về các hành vi vi phạm kỷ luật của công chức và lao động hợp đồng
trong cơ quan TH DS như: Hành vi không thực hiện các quyết định về TH ; lợi
dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc TH hoặc ép buộc Chấp hành viên TH
145
trái pháp luật; phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu,
hủy hoại vật chứng, tài sản tạm giữ, tài sản bị kê biên; Thủ trưởng cơ quan TH DS
cố ý không ra quyết định TH hoặc ra quyết định về TH trái pháp luật; Chấp hành
viên không thi hành đúng bản án, quyết định, trì hoãn việc TH , áp dụng biện pháp
cưỡng chế TH trái pháp luật; vi phạm quy chế đạo đức của Chấp hành viên...
Đối tượng chịu trách nhiệm kỷ luật trong THADS: háp luật TH DS cần
quy định r đối tượng chịu trách nhiệm kỷ luật là cá nhân trong cơ quan TH DS,
bao gồm Thủ trưởng cơ quan TH DS, Chấp hành viên, Thẩm tra viên, Thư ký,
chuyên viên, lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS.
Thời hiệu xử lý kỷ luật trong THADS: háp luật TH DS cần bổ sung quy
định thời hiệu xử lý kỷ luật trong TH DS theo quy định chung về thời hiệu xử lý
kỷ luật 24 tháng, kể từ thời điểm công chức có hành vi V L cho đến thời điểm
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra thông báo bằng văn bản
về việc xem xét xử lý kỷ luật. Thời hạn để xử lý kỷ luật tối đa là 02 tháng, kể từ
ngày phát hiện công chức có hành vi V L cho đến ngày cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật; trường hợp vụ việc có liên quan đến nhiều
người, có tang vật, phương tiện cần giám định hoặc những tình tiết phức tạp khác
thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết
định kéo dài thời hạn xử lý kỷ luật tối đa không quá 04 tháng theo quy định tại
khoản 2 Điều 80 Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Thời hiệu để xử lý kỷ luật lao
động tối đa là ba tháng, kể từ ngày xảy ra vi phạm, trường hợp đặc biệt cũng không
được quá sáu tháng .
Hình thức và biện pháp xử lý kỷ luật trong THADS: Trên cơ sở các hình
thức và biện pháp xử lý kỷ luật chung đối với công chức như: khiển trách, cảnh cáo,
hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc và đối với lao động hợp đồng
như: cảnh cáo, phạt tiền, đình chỉ hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật, pháp luật TH DS cần quy định cụ thể hình thức xử lý đối với
mỗi hành vi vi phạm kỷ luật cụ thể trong TH DS, đặc biệt là những hành vi mang
tính đặc thù như: Không ra quyết định TH , ra quyết định TH trái pháp luật, lạm
dụng chức vụ, quyền hạn để xâm, tiêu tiền TH ...
Thẩm quyền xử lý vi phạm kỷ luật trong THADS: háp luật TH DS cần
quy định cụ thể về thẩm quyền xử lý kỷ luật trong lĩnh vực TH DS những người
có thẩm quyền ra quyết định kỷ luật trong TH DS gồm có: Bộ trưởng Bộ Tư
pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục TH DS, Cục trưởng Cục TH DS tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và Cục trưởng Cục TH thuộc Bộ Quốc phòng, Trưởng
146
phòng TH cấp quân khu.
Trình tự, thủ tục xử lý vi phạm kỷ luật trong THADS: Trên cơ sở các quy
định về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật chung, pháp luật TH DS cần quy định cụ thể
về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật trong TH DS, chẳng hạn, thành phần Hội đồng kỷ
luật, quy trình tổ chức họp Hội đồng kỷ luật... cho phù hợp với đặc thù của lĩnh vực
THADS.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về xử lý vi phạm kỷ luật trong THADS: háp luật
TH DS cần quy định cụ thể về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về xử lý kỷ luật trong
TH DS, trong đó, cần xác định r những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố
cáo là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục TH DS, Cục trưởng Cục
TH DS cấp tỉnh, Chi cục trưởng Chi cục TH DS cấp huyện và Trưởng phòng THA
cấp quân khu.
XLVPPL gây t t tr g t cô g vụ v T ADS:
VPPL gây thiệt hại trong thi hành công vụ về THADS: háp luật TH DS
cần quy định r V L gây thiệt hại trong thi hành công vụ về TH DS là hành vi trái
pháp luật của cán bộ, công chức của cơ quan TH DS trong thi hành công vụ, không
thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của pháp luật gây
thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đồng thời, quy định r trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trong thi hành công vụ về TH DS là
loại TN L của cơ quan TH DS thực hiện bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại
do cán bộ, công chức TH DS gây ra trong thi hành công vụ và trách nhiệm hoàn trả
của người gây thiệt hại trong thi hành công vụ là loại TN L do cơ quan TH DS áp
dụng đối với cán bộ, công chức gây ra thiệt hại trong khi thi hành công vụ phải hoàn
trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà cơ quan TH DS đã bồi thường cho
người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Đối tượng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật
của cán bộ, công chức THADS gây ra trong thi hành công vụ: háp luật TH DS cần
quy định cụ thể về đối tượng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cơ quan TH DS
có công chức gây ra thiệt hại và đối tượng chịu trách nhiệm hoàn trả trong lĩnh vực
TH DS công chức TH DS có V L gây ra thiệt hại trong thi hành công vụ .
Thời hiệu yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi
thường do hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức THADS gây ra trong thi
hành công vụ: háp luật TH DS cũng cần quy định cụ thể về thời hiệu yêu cầu cơ
quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường do hành vi trái pháp luật
147
của cán bộ, công chức TH DS gây ra trong khi thi hành công vụ trên cơ sở quy
định chung của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 về thời hiệu
yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường 02 năm kể
từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản xác định hành vi của
người thi hành công vụ về TH DS là trái pháp luật hoặc kể từ ngày bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định người bị
thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định .
Hình thức và biện pháp xử lý đối với hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
trong thi hành công vụ về THADS: Trên cơ sở quy định chung về hình thức và biện
pháp xử lý đối với hành vi gây thiệt hại trong thi hành công vụ tại Bộ luật dân sự, Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, pháp luật TH DS cần quy định cụ thể về hình
thức và biện pháp xử lý đối với hành vi V L gây thiệt hại trong thi hành công vụ
trong lĩnh vực TH DS trách nhiệm bồi thường của cơ quan TH DS có công chức
V L gây thiệt hại và trách nhiệm hoàn trả của công chức đó cho cơ quan TH DS .
Thẩm quyền xử lý đối với hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trong thi hành
công vụ về THADS: háp luật TH DS cần quy định cụ thể về thẩm quyền xử lý đối
với hành vi V L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ về TH DS, bao gồm:
Thẩm quyền xử lý của Tổng cục TH DS, Cục TH DS cấp tỉnh, Cục TH thuộc
Bộ Quốc phòng và Chi cục TH DS cấp huyện, hòng TH cấp quân khu.
Trình tự, thủ tục bồi thường thiệt hại đối với hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại trong thi hành công vụ và trình tự, thủ tục hoàn trả của người gây thiệt hại
trong thi hành công vụ về THADS: háp luật TH DS cần quy định cụ thể hơn về
trình tự, thủ tục bồi thường thiệt hại đối với hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trong
thi hành công vụ và trình tự, thủ tục hoàn trả của người gây thiệt hại trong thi hành
công vụ về TH DS, đặc biệt là cần bổ sung các quy định về việc trả lại hồ sơ yêu cầu
bồi thường thiệt hại hoặc từ chối thụ lý yêu cầu bồi thường thiệt hại trong các trường
hợp như: Đơn yêu cầu bồi thường không đúng; Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại
đã hết; Hồ sơ yêu cầu bồi thường không đầy đủ.... để giúp các cơ quan có trách nhiệm
bồi thường có cơ sở xử lý đối với những trường hợp người yêu cầu bồi thường không
thực hiện đúng quy định của pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLVPPL gây thiệt hại trong thi hành công
vụ về THADS: Trên cơ sở quy định chung về giải quyết khiếu nại, tố cáo về
XLV L gây thiệt hại trong thi hành công vụ tại Luật khiếu nại, Luật tố cáo và
Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, pháp luật TH DS cần quy
148
định cụ thể về giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L gây thiệt hại trong khi thi
hành công vụ đối với lĩnh vực TH DS khiếu nại, khởi kiện quyết định hoàn trả... .
XLVPPL gây t t v v t c ất c cơ qua T ADS:
VPPL gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan THADS: háp luật TH DS cần
quy định r V L gây thiệt hại về vật chất trong cơ quan TH DS là hành vi V L,
làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc gây ra thiệt hại về tài sản của cơ quan
TH DS nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, quy
định r trách nhiệm vật chất trong TH DS là trách nhiệm bồi thường bằng tiền của
cán bộ, công chức hoặc nhân viên TH DS khác cho cơ quan TH DS bị thiệt hại về
tài sản do có hành vi trái pháp luật, làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc gây
ra thiệt hại về tài sản của cơ quan TH DS đó.
Đối tượng chịu trách nhiệm vật chất trong THADS: háp luật TH DS cần
quy định cụ thể về đối tượng chịu trách nhiệm vật chất trong TH DS bao gồm công
chức TH DS và lao động hợp đồng trong cơ quan TH DS.
Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất trong THADS: Hiện nay, pháp
luật không quy định cụ thể về thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất đối với
cán bộ, công chức hoặc lao động hợp đồng gây ra thiệt hại nói chung và trong lĩnh
vực TH DS nói riêng. Do đó, pháp luật TH DS cần quy định cụ thể về vấn đề này.
Hình thức và biện pháp xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại về vật chất
cho cơ quan THADS: Trên cơ sở quy định chung của pháp luật hiện hành về hình thức
và biện pháp xử lý đối với hành vi V L gây thiệt hại về vật chất, pháp luật TH DS
cần quy định cụ thể vấn đề xử lý đối với hành vi V L gây thiệt hại về vật chất trong
cơ quan TH DS là việc buộc cán bộ, công chức hoặc nhân viên TH DS khác bồi
thường bằng tiền đối với giá trị tài sản bị thiệt hại do có hành vi trái với những quy chế,
quy tắc trong tổ chức và hoạt động TH DS gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan TH DS.
Thẩm quyền xử lý đối với hành vi VPPL gây thiệt hại về vật chất trong cơ
quan THADS: Trên cơ sở quy định chung của pháp luật hiện hành về thẩm quyền
xử lý đối với hành vi V L gây thiệt hại về vật chất, pháp luật TH DS cần quy định
cụ thể về thẩm quyền xử lý đối với hành vi gây thiệt hại về vật chất trong cơ quan
TH DS, cụ thể: Thẩm quyền xử lý của Tổng cục TH DS, Cục TH DS cấp tỉnh,
Chi cục TH DS cấp huyện, Cục TH Bộ Quốc phòng và hòng TH cấp quân khu.
Trình tự, thủ tục bồi thường vật chất trong THADS: Trên cơ sở quy định
chung của pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường vật chất, pháp luật TH DS cần
quy định cụ thể về trình tự, thủ tục bồi thường vật chất trong lĩnh vực TH DS như
149
quy định về quy trình xử lý, hồ sơ xử lý, thành phần hội đồng, họp hội đồng, ra
quyết định xử lý đối với hành vi gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan TH DS....
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLVPPL gây thiệt hại vật chất trong cơ
quan THADS: Trên cơ sở quy định chung của pháp luật hiện hành về giải quyết
khiếu nại, tố cáo đối với việc XLV L gây thiệt hại vật chất, pháp luật TH DS cần
quy định cụ thể về giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc XLV L gây thiệt hại
vật chất trong lĩnh vực TH DS: quyền khiếu nại, tố cáo, đối tượng bị khiếu nại, tố
cáo, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo.... trong TH DS.
Trong những năm gần đây, có thể nhận thấy, lĩnh vực TH DS đang dần
được đổi mới về tổ chức và hoạt động, ngày càng đáp ứng tốt hơn những yêu cầu
của thực ti n. hạm vi công tác TH DS lúc đầu chỉ giới hạn ở việc tổ chức thi hành
các bản án dân sự, hôn nhân và gia đình, phần dân sự trong bản án hình sự thì đến
nay đã mở rộng đối với các loại việc mới như thi hành các bản án, quyết định tuyên
bố phá sản doanh nghiệp, lao động, hành chính, các bản án, quyết định của Tòa án
và Trọng tài nước ngoài... Trong xu hướng phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập
quốc tế hiện nay thì phạm vi hoạt động của lĩnh vực TH DS có thể tiếp tục được
mở rộng. Thực ti n đó đang đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục đổi mới về tổ chức cũng
như hoạt động TH DS. Trong chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật của nước
ta năm 2014 cũng đang đặt ra vấn đề sửa đổi, bổ sung Luật TH DS năm 2008. Do
vậy, có thể nói, lĩnh vực TH DS sẽ tiếp tục có những thay đổi về tổ chức và hoạt
động. Đặc biệt, theo xu hướng phát triển hiện nay, công tác TH DS đang được xã
hội hóa ngày càng mạnh mẽ. Sau quá trình thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại
thành phố Hồ Chí Minh theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của
Quốc hội về thi hành Luật TH DS, vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa
phát lại và Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 510/QĐ-TTG
ngày 25/3/2013 về việc phê duyệt Đề án "Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa
phát lại", trong đó quy định việc thí điểm chế định Thừa phát lại tiếp tục được thực
hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời, mở rộng ra từ 12 đến 15 địa phương khác
trong cả nước. Xu hướng phát triển này trong lĩnh vực TH DS cũng đặt ra yêu cầu
cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS những
giai đoạn tiếp theo. Theo đó, ngay sau khi Luật TH DS năm 2008 được sửa đổi, bổ
sung thì cần phải có sự sửa đổi, bổ sung nội dung những quy định pháp luật về
XLV L trong TH DS liên quan cho phù hợp. Đặc biệt, trong xu hướng xã hội
150
hóa TH DS như hiện nay, với sự mở rộng quy mô trong hoạt động Thừa phát lại
đang đặt ra vấn đề bổ sung những Q L để điều chỉnh việc XLV L trong hoạt
động của những tổ chức Thừa phát lại. háp luật cần có những quy định cụ thể về
các loại hành vi V L trong hoạt động Thừa phát lại, TN L, đối tượng chịu TN L,
thẩm quyền và trình tự, thủ tục XLV L...
Xét ở khía cạnh này cho thấy, việc xây dựng bộ pháp điển hệ thống Q L
về XLV L trong lĩnh vực TH DS hiện nay càng có ý nghĩa quan trọng trong thực
ti n, thể hiện được đầy đủ tính phù hợp, khoa học cũng như tính thời sự và hiện đại.
Với sự ra đời của bộ pháp điển này sẽ tạo điều kiện cho việc sửa đổi, bổ sung những
quy định pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS và Thừa phát lại trong
những giai đoạn tiếp theo được thuận lợi và d dàng hơn. Đây cũng chính là cơ sở
quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong lĩnh vực này được chất
lượng và hiệu quả, đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của xã hội, xu hướng phát triển và
hội nhập của lĩnh vực TH DS cũng như hoạt động Thừa phát lại ở nước ta.
4.3. GIẢI PHÁP VỀ NHẬN THỨC TƢ TƢỞNG
Có thể nói, nhận thức tư tưởng chính là vấn đề then chốt để hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về XLV L trong TH DS nói
riêng. hải làm gì và làm như thế nào để xây dựng được một hệ thống quan điểm
khoa học về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS chính là nội dung có ý
nghĩa quyết định đối với việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở
nước ta hiện nay.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng hơn trong
công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm phục vụ việc phát triển
đất nước theo hướng bền vững trong điều kiện đổi mới, hội nhập quốc tế. Điều này
được thể hiện r nét trong các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về
xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ ba, Nghị quyết
Trung ương Đảng lần thứ bảy, khóa VIII, Báo cáo chính trị tại các Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng đều khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng ta là tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Đặc biệt, Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị ra
đời có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là định hướng và cơ sở quan trọng để xây dựng,
hoàn thiện pháp luật nước ta, đáp ứng yêu cầu của thực ti n trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế. Các quan điểm của Đảng về xây dựng và hoàn thiện pháp luật ngày
càng có tính cụ thể hơn, sát với thực tế hơn. Có thể nói, cho đến nay, Đảng ta đã xây
151
dựng được một hệ thống quan điểm lý luận cơ bản, đặt nền móng bền vững về xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta và hệ thống quan điểm đó tiếp tục được
bổ sung, phát triển, hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của thực ti n đất nước trong
điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế. Đây là những thành tựu đáng được ghi nhận
trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Đặc biệt, với định
hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trật tự, an toàn xã hội chính là nền tảng
để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vấn đề nhận thực tư tưởng ở nước ta về pháp luật
và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS chưa được đầy đủ và toàn diện.
Thực tế đã chứng minh, pháp luật về XLV L trong TH DS chưa được nhận thức
đầy đủ về ý nghĩa, vai trò cũng như tầm quan trọng của nó đối với hoạt động
TH DS nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Đồng thời, việc xây dựng các quan
điểm khoa học về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS chưa được đầy đủ
và còn rất mờ nhạt. Thực tế đó cho thấy vấn đề nâng cao nhận thức tư tưởng để
hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
là một vấn đề mang tính cấp thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Để có thể xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đáp
ứng yêu cầu mới, cần thực hiện các việc sau đây:
4.3.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về tầm quan trọng của
việc hoàn thiện pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
háp luật về XLV L trong TH DS cần được nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ
và toàn diện về vị trí, vai trò và ý nghĩa của nó trong đời sống xã hội, đồng thời,
việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS cần được xác định là một nội
dung quan trọng trong hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Thực ti n những
năm qua đã cho thấy, nội dung pháp luật cũng như việc hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS chưa được các cơ quan, tổ chức, nhân dân và toàn xã hội
nhìn nhận một cách đúng đắn, đầy đủ và toàn diện về vị trí, vai trò và ý nghĩa của
nó trong đời sống xã hội. Các V L trong TH DS xảy ra ngày càng nhiều, đa dạng
và phong phú về các loại hành vi vi phạm. Tình trạng người dân không tôn trọng,
thậm chí thờ ơ, coi thường các quy định pháp luật về XLV L trong TH DS là khá
phổ biến. Bên cạnh đó, thực trạng pháp luật về XLV L trong TH DS đã cho thấy
nhiều bất cập, hạn chế về cả nội dung và hình thức pháp luật. Trong khi đó, trên
thực tế, chưa có công trình khoa học nào đánh giá, tổng kết một cách toàn diện về
pháp luật XLV L trong TH DS, để từ đó, đề ra các quan điểm, giải pháp hoàn
152
thiện pháp luật. Như vậy, r ràng pháp luật về XLV L trong TH DS chưa được
nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện và tương thích với vai trò, ý nghĩa của nó,
đồng thời, việc xây dựng các quan điểm khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về
XLV L hiện nay là rất mờ nhạt, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực ti n.
Trong một lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể, vấn đề XLV L chính là cơ sở
quan trọng mang tính quyết định để duy trì trật tự an toàn, bảo đảm cho các quan hệ
xã hội trong lĩnh vực đó được ổn định và trong khuôn khổ pháp luật. Do đó, việc tổ
chức quán triệt, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã
hội về các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về hoàn thiện pháp luật XLV L
trong TH DS là rất quan trọng và có ý nghĩa thiết thực trong đời sống xã hội. Theo đó,
chúng ta cần phải nghiên cứu, quán triệt một cách sâu sắc các quan điểm, chủ trương
của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung, xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng. Cần nghiên cứu, quán triệt, cụ
thể hóa các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ, biện pháp về xây dựng, hoàn thiện pháp
luật, từ đó, xây dựng các chương trình, kế hoạch triển khai, thực hiện cho phù hợp.
Có thể nói, việc nâng cao nhận thức về hoàn thiện pháp luật XLV L trong
TH DS có ý nghĩa quyết định cho quá trình thực hiện trong thực ti n. Do đó, việc
tổ chức, quán triệt phổ biến các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và
hoàn thiện pháp luật cần được thực hiện nghiêm túc, toàn diện và có chiều sâu,
tránh hình thức. Vấn đề quan trọng là cần nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành và nhân dân về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của pháp luật cũng như yêu
cầu cần phải hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS giai đoạn hiện nay, từ
đó, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ trong quá trình triển khai, thực hiện, xây dựng được
hệ thống quan điểm, luận cứ khoa học phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của thực
ti n trong quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
4.3.2. Tổ chức tổng kết, đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện thực trạng
pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự, đặt trong bối
cảnh hiện nay trƣớc những yêu cầu của thực tiễn nhằm xây dựng các quan
điểm và đề ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử l vi phạm
pháp luật trong thi hành án dân sự
Một vấn đề rất quan trọng là cần phải tổng kết, đánh giá một cách sâu sắc,
toàn diện thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS,
đặt trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Quá trình đánh
153
giá, tổng kết chủ yếu tập trung làm r những ưu điểm, thành tựu đã đạt được của
pháp luật về XLV L trong TH DS cũng như quá trình hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS những năm qua, đồng thời, làm sáng tỏ những nhược điểm,
hạn chế của nó và chỉ ra các nguyên nhân, trên cơ sở đó, tiếp tục phát huy những ưu
điểm, thành tựu đã đạt được, khắc phục và rút kinh nghiệm từ những nhược điểm và
hạn chế, xây dựng các quan điểm, luận cứ khoa học để tiếp tục thực hiện việc hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, đáp ứng yêu cầu của thực ti n. Theo đó,
việc đánh giá, tổng kết này cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
Cần tổng kết, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc thực trạng pháp luật về
XLV L trong TH DS cũng như thực trạng hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS ở nước ta.
Việc tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS phải được đặt trong mối quan hệ tương quan với hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung, trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc tổng kết, đánh giá về thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS phải trên cơ sở thực ti n xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật, gắn với thực ti n XLV L trong lĩnh vực TH DS trên thực ti n.
Việc tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS phải được thực hiện đồng thời trên cả mặt nội dung và hình
thức pháp luật, trong đó, chú trọng đánh giá tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khoa
học, thực ti n, công khai, minh bạch và dân chủ cũng như tính hiệu lực, hiệu quả
của pháp luật.
Việc tổng kết, đánh giá thực trạng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS phải nhằm mục đích đề ra các quan điểm, giải pháp và các
luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS những
giai đoạn tiếp theo.
4.3.3. Xây dựng hệ thống quan điểm, luận cứ khoa học về hoàn thiện
pháp luật xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về XLV L trong
TH DS nói riêng, cần hình thành và xây dựng hệ thống quan điểm và những luận
cứ khoa học phù hợp với yêu cầu của lĩnh vực TH DS cũng như thực ti n kinh tế
xã hội của đất nước để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở nước ta
154
trong giai đoạn hiện nay, trong đó, cần tập trung ở một số nội dung cụ thể sau:
Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng thể hiện tại Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị, trong đó, nhấn mạnh cần xây dựng hệ thống pháp luật về XLV L
trong TH DS theo hướng toàn diện, đồng bộ, phù hợp, khoa học, thực ti n, dân
chủ, công khai và minh bạch; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xử lý
nghiêm đối với các trường hợp V L, nguyên tắc tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh
các bản án, quyết định của Tòa án, về bảo đảm quyền con người, quyền công dân...
Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải xuất phát từ thực
ti n pháp luật Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm và chuẩn mực
quốc tế, bảo đảm kết hợp hài hòa tính truyền thống và tính hiện đại.
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS nhằm mục tiêu phát triển bền
vững và cơ bản, bảo đảm cho pháp luật tương đối ổn định, kế thừa và phát triển liên tục.
Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải bảo đảm tính khả thi,
hiệu lực và hiệu quả trong thực ti n đời sống xã hội.
Tổng kết một cách toàn diện, sâu sắc thực ti n VPPL và XLVPPL trong
TH DS ở nước ta trong từng giai đoạn; tập trung đánh giá thực trạng công tác xây
dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS; chú trọng việc giải
quyết bất cập về pháp luật qua thực ti n XLV L trong TH DS; kế thừa, phát triển
và pháp điển hóa các quy định còn phù hợp, tiến bộ.
Thể hiện r quan điểm cải cách hành chính, cải cách tư pháp, bảo đảm sự
quản lý tập trung, thống nhất về công tác XLV L trong lĩnh vực TH DS; tăng
cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật
về XLV L trong TH DS.
4.3.4. Đổi mới quy trình, thủ tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Quy trình, thủ tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS cần được đổi mới một cách căn bản trên tất cả các mặt, từ sáng kiến pháp
luật đến thông qua pháp luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, thông qua và ban
hành luật. Vấn đề thiết yếu là phải bảo đảm nâng cao được chất lượng của pháp luật
về XLV L trong TH DS. Trong đó, cần phải có quy chế r ràng rằng, luật chỉ
được xem xét thông qua khi có giải trình thỏa đáng về cơ chế, biện pháp, các nguồn
tài lực bảo đảm tổ chức thực hiện, đồng thời, cũng cần xác định r là thực hiện ban
hành một luật để sửa đổi nhiều đạo luật có liên quan.
155
Việc đổi mới quy trình, thủ tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS cần được đặt trong mối tương quan với việc đổi mới quy trình, thủ
tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung. Theo đó, việc đổi mới cần
bám sát và cụ thể hóa các quan điểm, định hướng của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước về đổi mới quy trình xây dựng luật, đồng thời, cần bám sát yêu cầu
của thực ti n xây dựng, hoàn thiện pháp luật.
Việc đổi mới quy trình, thủ tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS phải nhằm mục đích hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS,
trong đó, cần xây dựng được hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS theo
hướng toàn diện, đồng bộ, khoa học và thực ti n về cả nội dung và hình thức pháp luật.
Bên cạnh đó, việc đổi mới quy trình, thủ tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS phải đảm bảo cho quy trình đó được thực hiện theo
hướng khoa học và hiện đại, các thủ tục được tiến hành nhanh gọn, kịp thời, xuyên
suốt, luôn đáp ứng được yêu cầu về tiến độ nhưng đồng thời phải bảo đảm nâng cao
được chất lượng, hiệu quả trong mỗi bước thực hiện.
Nói chung, việc đổi mới quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật về XLV L
trong TH DS cần đáp ứng được đầy đủ yêu cầu trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, cần xây dựng được chương trình cụ thể về hoàn thiện pháp luật
XLVPPL trong THADS.
Đây là một nội dung đặc biệt quan trọng, là cơ sở và nền tảng cho quá trình
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Chương trình hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS cần xác định được đầy đủ, toàn diện các
nội dung pháp luật cần hoàn thiện, tiến độ thực hiện cũng như trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức trong việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Chương
trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải bám sát yêu cầu của thực
tế, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn
thiện pháp luật XLV L trong TH DS, phải trên cơ sở chương trình, kế hoạch
tổng thể hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, chương
trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải bảo đảm được tính khoa
học và thực ti n, có tính khả thi cao, thuận lợi cho quá trình triển khai và thực hiện.
Thứ hai, việc soạn thảo văn bản Q L về XLV L trong TH DS phải đảm
bảo xây dựng được văn bản Q L về XLV L trong TH DS thực sự chất lượng
và hoàn chỉnh.
Trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng, chính sách pháp luật của
156
Nhà nước và chương trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đã được
thông qua, cơ quan soạn thảo cần xác định r trách nhiệm để xây dựng được văn
bản Q L về XLV L trong TH DS đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của việc
hoàn thiện pháp luật. Đây chính là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong quy trình xây
dựng, hoàn thiện pháp luật nói chung. Văn bản Q L về XLV L trong TH DS
chính là sự cụ thể hóa đầy đủ các quan điểm, chương trình hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS. Do đó, văn bản Q L về XLV L trong TH DS cần thể
hiện được đầy đủ tính toàn diện, đồng bộ, khoa học và thực ti n của pháp luật về cả
nội dung và hình thức. Việc soạn thảo và xây dựng được văn bản Q L về
XLV L trong TH DS thực sự chất lượng và hoàn chỉnh chính là cơ sở quan trọng
cho việc đẩy nhanh quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Thứ ba, việc thẩm định, thẩm tra văn bản Q L về XLV L trong TH DS
phải mang tính toàn diện và sâu sắc về toàn bộ các mặt của văn bản.
Đây chính là giai đoạn xem xét, đánh giá tính thực ti n, sự phù hợp của văn
bản Q L về XLV L trong TH DS với các quan điểm, định hướng của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước cũng như thực ti n kinh tế xã hội của đất nước,
thực ti n TH DS và sự phù hợp với Hiến pháp, pháp luật hiện hành. Quá trình
thẩm định, thẩm tra văn bản Q L về XLV L trong TH DS phải được thực hiện
một cách nghiêm túc, trong đó, cần đánh giá được đầy đủ về tính toàn diện, đồng
bộ, khoa học và thực ti n của văn bản, làm r được sự cần thiết của việc ban hành
văn bản cũng như sự tác động, ảnh hưởng và vai trò, ý nghĩa của nó đối với thực
ti n đời sống xã hội nói chung, thực ti n TH DS nói riêng. Việc thẩm định, thẩm
tra văn bản Q L về XLV L trong TH DS được tiến hành một cách toàn diện và
sâu sắc sẽ là cơ sở quan trọng cho việc thông qua và ban hành văn bản, đồng thời, là
cơ sở cho quy trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS được thực hiện
nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn bảo đảm được chất lượng và hiệu quả.
Thứ tư, việc thảo luận, thông qua và ban hành văn bản Q L về XLV L
trong TH DS cần được tiến hành một cách khách quan, trung thực, dân chủ, công
khai, minh bạch.
Đây chính là giai đoạn hoàn chỉnh và là cơ sở để văn bản Q L về XLV L
trong TH DS đi vào đời sống xã hội, trở thành những quy tắc ứng xử của người
dân. Do đó, việc thảo luận, thông qua và ban hành văn bản Q L về XLV L trong
TH DS cần phải thận trọng, cần xác định được tính thỏa đáng cần thiết. Văn bản Q L
về XLV L trong TH DS chỉ được thông qua, ban hành khi đã có sự thống nhất ý
kiến cao, trong đó, mọi thắc mắc đều được giải trình một cách hợp lý. Để giai đoạn này
157
được tiến hành thông suốt, đảm bảo tiến độ và chất lượng thì cần phải thực hiện tốt
ngay từ giai đoạn xây dựng chương trình hoàn thiện pháp luật, đến giai đoạn soạn thảo
văn bản Q L và thẩm định, thẩm tra văn bản Q L về XLV L trong TH DS.
4.4. GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong thực ti n, đó chính là cơ sở để đánh giá chất lượng, hiệu lực
và hiệu quả cũng như mức độ hoàn thiện của pháp luật. Qua việc tổ chức thực hiện
pháp luật trong thực ti n để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật, từ đó, kịp thời
điều chỉnh những bất cập, hạn chế để pháp luật tiếp tục được hoàn thiện đáp ứng tốt
hơn các yêu cầu của thực ti n ở từng giai đoạn khác nhau.
Ở mức độ khái quát, có thể nói, tổ chức thực hiện pháp luật là một trong
những nội dung không thể thiếu để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật và là
cơ sở để xây dựng những quan điểm, luận cứ khoa học về nhận thức tư tưởng để
hoàn thiện pháp luật. Việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong THADS
cần bảo đảm được những yêu cầu sau:
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải bảo đảm
được hiệu quả thiết thực trong thực ti n.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải bảo đảm
nâng cao nhận thức tư tưởng của các cấp, các ngành về pháp luật và việc hoàn thiện
pháp luật XLV L trong TH DS.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải bảo đảm
thiết lập được trật tự pháp luật ổn định, bình đẳng trong lĩnh vực TH DS, trong đó,
phải bảo đảm được ở mức độ cao nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan,
tổ chức và nhân dân.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải nhằm
mục đích phát hiện kịp thời những nhược điểm, hạn chế của pháp luật để từ đó,
khẩn trương xây dựng những quan điểm, giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS đáp ứng đầy đủ và toàn diện yêu cầu của thực ti n.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải bảo đảm
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về XLV L trong TH DS của các cơ quan, tổ
chức và nhân dân, trong đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
XLV L trong TH DS cần được đặc biệt chú trọng nhằm đưa pháp luật về
XLV L trong TH DS đi vào đời sống xã hội một cách tự nhiên và phát huy được
đầy đủ, toàn diện vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó trong đời sống xã hội.
158
Để quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS đạt
hiệu quả cao, cần thực hiện một số việc sau đây:
4.4.1. Tăng cường vai trò, năng lực của cơ quan thi hành án dân sự trong
tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Có thể nói, trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong
TH DS không thể thiếu vai trò của cơ quan TH DS. Việc nâng cao vai trò, trách
nhiệm của cơ quan TH DS chính là cơ sở góp phần quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Các cơ quan TH DS chính là những đơn vị trực tiếp thực thi pháp luật về
XLV L trong TH DS, bảo vệ pháp luật về XLV L trong TH DS, đồng thời, có
vai trò chủ yếu trong việc tham mưu tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong
TH DS. Để tiếp tục tăng cường vai trò, năng lực của cơ quan TH DS trong tổ
chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS cần phải tập trung thực hiện tốt
một số nội dung sau:
Cần phát huy vai trò chủ yếu của cơ quan TH DS trong việc tổng kết, đánh
giá toàn diện về pháp luật XLV L trong TH DS, về hoạt động xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, để từ đó, xây dựng và đề xuất các quan
điểm, nội dung và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật về XLV L trong TH DS.
Cần phát huy vai trò chủ yếu của cơ quan TH DS trong việc tham mưu, đề
xuất xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể về tổ chức thực hiện pháp luật
XLVPPL trong THADS.
Cần phát huy vai trò chủ yếu của cơ quan TH DS trong việc tổ chức và
thực hiện các hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
bao gồm cả việc xây dựng dự án, dự thảo, tham gia soạn thảo, đề xuất sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện luật... .
Cơ quan TH DS cần thường xuyên tổ chức tổng kết, đánh giá toàn diện và
sâu sắc về tình trạng V L và thực trạng XLV L trong lĩnh vực TH DS cũng như
xem xét nhu cầu cần điều chỉnh luật trong thực ti n XLV L trong TH DS hiện nay.
Cơ quan TH DS cũng cần tăng cường công tác nghiên cứu khoa học pháp
lý nhằm phục vụ tốt hơn và đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của việc hoàn thiện pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
Cần phát huy vai trò chủ yếu của cơ quan TH DS trong việc tổ chức thực
hiện và bảo vệ pháp luật về XLV L trong TH DS trên thực tế.
159
4.4.2. Tăng cƣờng năng lực của đội ngũ cán bộ pháp l trong tổ chức
thực hiện pháp luật về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Việc tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ pháp lý trong tổ chức thực
hiện pháp luật về XLV L trong TH DS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở
để việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS được nghiêm túc,
chất lượng, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu của thực ti n. Việc tăng cường, nâng
cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ pháp lý mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ
TH DS, cán bộ làm công tác tư pháp, pháp chế và tố tụng phải gắn liền với việc
bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ này. Mục tiêu chung là xây
dựng được đội ngũ cán bộ pháp lý làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
XLV L trong TH DS có sự toàn diện về cả năng lực chuyên môn và phẩm chất
chính trị, nghề nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này thì vấn đề then chốt là cần
phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ này những kiến thức pháp luật
mới và những kiến thức về kỹ năng, kỹ thuật xây dựng và hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hơn nữa tinh thần và trách nhiệm của họ trong xây dựng và hoàn thiện
pháp luật, đồng thời, tăng cường hơn nữa việc cập nhật, nghiên cứu, tìm hiểu, học
tập, vận dụng những kinh nghiệm của nước ngoài trong việc tổ chức xây dựng và
hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng. Nhà
nước cũng cần thường xuyên tổ chức cho đội ngũ cán bộ pháp lý này được bồi
dưỡng, học tập, tu dưỡng, r n luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, tinh
thần, ý thức công vụ làm nền tảng cho quá trình thực hiện pháp luật về XLV L
trong TH DS được khách quan, toàn diện và đáp ứng được đòi hỏi của thời đại.
Nói chung, để xây dựng được đội ngũ cán bộ pháp lý làm công tác thực
hiện pháp luật về XLV L trong TH DS có sự phát triển toàn diện về cả năng lực,
trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức như vậy thì bên cạnh việc tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng thì Nhà nước cần có những chính sách thỏa đáng về cơ
chế, chế độ ưu tiên, thu hút đối với những người làm công tác này, đồng thời, cần
có sự đầu tư đầy đủ, toàn diện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, tạo ra môi
trường thuận lợi nhất để đội ngũ này phát huy được hết khả năng trong thực ti n.
4.4.3. Tăng cƣờng hoạt động giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật
về xử l vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Việc tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát công tác tổ chức thực
hiện pháp luật về XLV L trong TH DS có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở góp
phần nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức và cá nhân
160
trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Qua đó, hoạt
động này sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS nói chung.
Việc tăng cường kiểm tra, giám sát phải được thực hiện thường xuyên và toàn
diện trên tất cả các mặt cũng như toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về
XLVPPL trong TH DS. Bên cạnh đó, việc kiểm tra, giám sát phải đảm bảo được thực
hiện một cách khách quan, trung thực, nghiêm túc, đồng thời, phải bảo đảm được sự
chặt chẽ, sâu sát trong toàn bộ quá trình thực hiện. Mục tiêu quan trọng là làm cho
việc tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS được triển khai, thực
hiện đúng mục đích, yêu cầu, bảo đảm chất lượng và hiệu quả, qua đó, kịp thời phát
hiện những lỗ hổng, những hạn chế, bất cập hay những biểu hiện tiêu cực, vi phạm
để có biện pháp tháo gỡ, xử lý và khắc phục, đảm bảo cho công tác này được thực
hiện nghiêm túc, đảm bảo khách quan, công khai và dân chủ trong thực ti n.
Nói chung, để hoạt động kiểm tra, giám sát được tăng cường, đáp ứng được
yêu cầu, đòi hỏi khách quan của thực ti n thì vấn đề cốt yếu là cần phải xác định r
trách nhiệm, nâng cao vai trò, ý thức công vụ của cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền trong quá trình triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, cần có cơ chế hoạt động hiệu
quả và bảo đảm thực thi trên thực tế đối với việc kiểm tra, giám sát để hoạt động này
phát huy hiệu quả thiết thực trong thực ti n. Đồng thời, Nhà nước cũng cần phải có cơ
chế xử lý đối với các hành vi vi phạm trong hoạt động kiểm tra, giám sát này nhằm nâng
cao ý thức và tinh thần trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc kiểm
tra, giám sát đối với công tác tổ chức thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
1. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi phải
không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về XLV L trong
TH DS. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải đảm bảo các
nguyên tắc cơ bản, trong đó, cần phải chú trọng nâng cao tính hiệu lực của các văn bản
Q L, đảm bảo các quyền, lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân, đánh giá được
hiệu quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về XLV L trong TH DS cũng
như hoạt động XLV L trong TH DS, nâng cao ý thức pháp luật về XLV L trong
TH DS. Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải xuất phát từ điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Đồng thời,
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS phải tiếp thu được những nội dung pháp luật phù hợp của các nước trên
161
thế giới. Bên cạnh đó, quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS cũng
phải đáp ứng được những yêu cầu mang tính đặc thù trong lĩnh vực TH DS ở nước ta.
2. Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng hiện nay. Việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS phải được đặt trong bối cảnh Nhà nước Việt Nam đang nỗ
lực tiến hành xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước và xã hội theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, cải cách tư pháp, cải
cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS đồng nghĩa với
việc phải cơ bản giải quyết được những bất cập, hạn chế hiện nay của hệ thống
Q L về XLV L trong TH DS, đồng thời, phải thể hiện r tinh thần cải cách
hành chính trong việc quy định về thủ tục, tạo thuận lợi cho cơ quan nhà nước và
nhân dân khi tham gia vào quan hệ pháp luật XLV L trong TH DS; bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong việc XLV L trong TH DS.
4. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải được thực
hiện một cách toàn diện về cả nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật, trong
đó, phải đề cập được toàn bộ các nội dung của pháp luật về V L; TN L; đối
tượng chịu TN L; thời hiệu truy cứu TN L; các hình thức và biện pháp XLV L;
thẩm quyền XLV L; trình tự, thủ tục XLV L và giải quyết khiếu nại, tố cáo về
XLV L trong TH DS, đồng thời, phải tập trung đề xuất xây dựng, ban hành hoặc
sửa đổi, bổ sung, loại bỏ các văn bản pháp luật về XLV L trong TH DS và xây
dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan. Mục tiêu quan trọng là xây
dựng được hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS toàn diện, đồng bộ, phù
hợp, khoa học, thực ti n, dân chủ, công khai và minh bạch.
5. Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS hiện
nay, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và phù hợp với thực ti n cũng như xu
hướng phát triển kinh tế, xã hội của đất nước là cần thực hiện hệ thống hóa và pháp
điển hóa hệ thống Q L về XLV L trong TH DS, đồng thời, phải kịp thời sửa đổi,
bổ sung, ban hành mới những Q L về XLV L trong TH DS. Đây chính là cách
thức cơ bản để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở nước ta hiện nay.
6. Để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS thì vấn đề quan trọng
trước tiên là cần nâng cao nhận thức tư tưởng về hoàn thiện pháp luật XLV L trong
TH DS mà nội dung chủ yếu và có ý nghĩa quyết định là cần tập trung xây dựng được
một hệ thống quan điểm khoa học về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS.
162
7. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, trong đó, cần tập trung ở
một số nội dung như: Tăng cường vai trò, năng lực của cơ quan TH DS trong tổ
chức hoàn thiện pháp luật; tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ pháp lý trong tổ
chức hoàn thiện pháp luật; tăng cường hoạt động giám sát việc tổ chức hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS.
163
KẾT LUẬN
1. háp luật về XLV L trong TH DS là tổng thể các Q L điều chỉnh
hoạt động xử lý đối với những hành vi V L xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh
trong tổ chức và hoạt động TH DS, trong đó, XLV L trong TH DS được xác
định là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm
quyền, mang tính chất cưỡng chế và thể hiện quyền lực nhà nước, nhằm phát hiện,
ngăn chặn, xử lý các hành vi V L trong TH DS bằng những hình thức, biện pháp
khác nhau và tổ chức thi hành đối với việc XLV L đó theo trình tự, thủ tục được
pháp luật quy định. XLV L trong TH DS gồm có: XLV L hành chính, xử lý tội
phạm hình sự, XLV L dân sự, xử lý vi phạm kỷ luật, XLV L gây thiệt hại trong
khi thi hành công vụ về TH DS và XLV L gây thiệt hại cho cơ quan TH DS.
Nội dung pháp luật về XLV L trong TH DS bao gồm toàn bộ các quy định về
V L; TN L; đối tượng chịu TN L; thời hiệu truy cứu TN L; các hình thức và
biện pháp XLV L; thẩm quyền XLV L; trình tự, thủ tục XLV L và giải quyết
khiếu nại, tố cáo về XLV L trong TH DS. Hình thức thể hiện của pháp luật về
XLV L trong TH DS rất đa dạng và phong phú, bao gồm nhiều văn bản Q L
với các thứ bậc khác nhau, liên quan đến nhiều luật chuyên ngành khác nhau.
2. Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi phải
không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về XLV L
trong TH DS. Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là quá trình hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, dựa trên những nguyên tắc nhất
định và bằng các hình thức, biện pháp khác nhau làm cho pháp luật về XLV L
trong TH DS ngày càng được hoàn chỉnh, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
XHCN, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực ti n xã hội trên cơ sở cụ
thể hóa ý chí của nhà nước và nguyện vọng của nhân dân. Việc hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS hiện nay là rất cần thiết và là một đòi hỏi mang tính
khách quan của thực ti n. Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS có ý
nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực TH DS nói riêng và trong đời sống xã hội nói
chung. Để xác định được mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L trong
TH DS cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó có các tiêu chí cơ
bản, đó là: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, tính khoa học, tính thực ti n,
tính công khai, minh bạch và tính dân chủ. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L
164
trong TH DS phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản, phải xuất phát từ điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, phải đáp
ứng được những yêu cầu đặc thù trong lĩnh vực TH DS, gắn với điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay, đồng thời, quá trình hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS phải tiếp thu được những nội dung pháp luật phù hợp của các nước trên
thế giới.
3. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về XLV L trong TH DS cả
phương diện nội dung, hình thức thể hiện và tổ chức thực hiện pháp luật cho thấy,
pháp luật về XLV L trong TH DS đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, là
cơ sở pháp lý để xử lý đối với mọi hành vi V L trong lĩnh vực TH DS cũng như
đáp ứng được những yêu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động XLV L
trong lĩnh vực TH DS, góp phần cơ bản trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, xã hội và công dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, pháp luật về
XLV L trong TH DS cũng bộc lộ những nhược điểm và hạn chế nhất định trên
cả phương diện nội dung, hình thức thể hiện và tổ chức thực hiện pháp luật.
4. Thực ti n xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS
những năm qua ở nước ta cũng cho thấy, việc hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS đã đạt được những kết quả và thành tựu đáng ghi nhận, trong đó,
chúng ta đã xây dựng được hệ thống Q L về XLV L trong TH DS tương đối
đầy đủ, toàn diện, đồng bộ cũng như đã đáp ứng được phần nào những yêu cầu về
tính khoa học, phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước và thực ti n
TH DS hiện nay. Song, bên cạnh đó, công tác hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS cũng còn những nhược điểm và hạn chế, chưa đáp ứng được những
yêu cầu và đòi hỏi của thực ti n. Chính những nhược điểm và hạn chế này là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những nhược điểm, hạn chế của pháp luật XLV L
trong THADS.
5. Thực trạng pháp luật và thực trạng hoàn thiện pháp luật về XLV L
trong TH DS đang đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và xã hội theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN, cải cách tư pháp, cải cách hành chính và cải cách
bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân,
từng bước đưa đất nước hội nhập quốc tế, đồng thời, tạo ra cơ sở pháp lý hữu hiệu
cũng như nền tảng vững chắc cho hoạt động XLV L trong lĩnh vực TH DS ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
165
6. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải được thực
hiện một cách toàn diện về cả nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật, trong
đó, phải đề cập được toàn bộ các nội dung của pháp luật về V L; TN L; đối
tượng chịu TN L; thời hiệu truy cứu TN L; các hình thức và biện pháp XLV L;
thẩm quyền XLV L; trình tự, thủ tục XLV L và giải quyết khiếu nại, tố cáo về
XLV L trong TH DS, đồng thời, phải tập trung đề xuất việc xây dựng, ban hành,
sửa đổi, bổ sung, loại bỏ các văn bản pháp luật về XLV L trong TH DS và sửa
đổi, bổ sung, loại bỏ, xây dựng các văn bản pháp luật liên quan. Mục tiêu quan
trọng là xây dựng được hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS toàn diện,
đồng bộ, khoa học và có tính thực ti n cao.
7. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS thì vấn đề
quan trọng trước tiên là cần thực hiện hệ thống hóa và pháp điển hóa hệ thống
Q L về XLV L trong TH DS, đồng thời, phải kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới những Q L về XLV L trong TH DS. Bên cạnh đó, cần nâng cao
nhận thức tư tưởng về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS mà nội dung
chủ yếu và có ý nghĩa quyết định là cần tập trung xây dựng được một hệ thống quan
điểm khoa học về hoàn thiện pháp luật XLV L trong TH DS. Cùng với đó, công
tác tổ chức thực hiện pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS, trong đó, việc tổ chức thực hiện hoàn thiện pháp
luật về XLV L trong TH DS cần tập trung ở một số nội dung như: Tăng cường
vai trò, năng lực của cơ quan TH DS trong tổ chức hoàn thiện pháp luật; tăng
cường năng lực của đội ngũ cán bộ pháp lý trong tổ chức hoàn thiện pháp luật; tăng
cường hoạt động giám sát việc tổ chức hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS. Đó chính là những nội dung và giải pháp cơ bản có ý nghĩa quan trọng để
tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS ở nước ta hiện nay./.
166
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguy n Tuấn n 2008 , “Vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác thi hành án dân sự hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 9 , tr. 30 - 32.
2. Nguy n Tuấn n 2008 , “Khắc phục những bất cập trong việc trả lại đơn
yêu cầu thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 12 , tr. 2 - 5.
3. Nguy n Tuấn n 2009 , “Tội không chấp hành án trong thực tiễn thi hành
án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 3 , tr. 23 - 25.
4. Nguy n Tuấn n 2010 , “Khắc phục bất cập về xử lý vi phạm hành chính
trong thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 11/ , tr. 39 - 41.
5. Nguy n Tuấn n 2011 , “Vấn đề nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm pháp
luật trong thi hành án dân sự hiện nay”, Tạp chí háp lý, 3 , tr. 12 - 13.
6. Nguy n Tuấn n 2012 , “Bàn về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động
thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 1 , tr. 22 - 25.
167
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII 1995 , Báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII 2000 , Báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX 2006 , Báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX 2006 , Về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X 2007 , Nghị quyết số 17/NQ-
TW Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ
máy nhà nước.
6. Ban soạn thảo Dự án háp lệnh háp điển hệ thống quy phạm pháp luật
(2010), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu pháp luật về pháp điển của nước
ngoài, Hà Nội.
7. Nguy n Công Bình 1998 , “Vấn đề thi hành án dân sự trong việc soạn
thảo Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học, (5).
8. Nguy n Công Bình 1999 , “Vài nét về thi hành án dân sự ở Singapore”,
Tạp chí Luật học, (5).
9. Nguy n Thanh Bình 2006 , “Đổi mới trình tự tố tụng hành chính theo
tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghề luật, (2).
10. Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX 2005 , Nghị
quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
11. Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX 2005 , Nghị
quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020.
12. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý 1993 , Nghiên cứu tư tưởng Hồ chí
Minh về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị, Hà Nội.
13. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý 1996 , Về mô hình quản lý thống
nhất công tác thi hành án, Đề tài khoa học cấp bộ số 96-98-027/ĐT .
14. Bộ Tư pháp 1997 , Báo cáo của Cục quản lý Thi hành án dân sự - Bộ
Tư pháp về kết quả tọa đàm Luật Thi hành án dân sự của Thụy Điển từ ngày 28-
29/10/1997, Hà Nội.
168
15. Bộ Tư pháp 1998 , Báo cáo của Đoàn nghiên cứu, khảo sát - Bộ Tư
pháp về kinh nghiệm Thi hành án dân sự tại Cộng hòa Liên bang Đức từ ngày
15/4/1998 đến ngày 25/4/1998, Hà Nội.
16. Bộ Tư pháp, Dự án VIE 1998 , “Thi hành án dân sự - thực trạng và
hướng hoàn thiện” Đề tài của Dự án VIE/98/01 do Bộ Tư pháp phối hợp với Dự án
VIE thực hiện , Hà Nội.
17. Bộ Tư pháp 2000 , Báo cáo của Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư
pháp về kết quả tọa đàm pháp luật Thi hành án dân sự Nhật Bản từ ngày 2-
3/10/2000 và ngày 6-7/10/2000, Hà Nội.
18. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý 2001 , Số chuyên đề: “Xã hội hoá
hoạt động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý luận và thực ti n”, Thông tin khoa
học pháp lý, (6).
19. Bộ Tư pháp 2002 , Báo cáo của Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư
pháp về kết quả tọa đàm pháp luật Thi hành án dân sự Thụy Điển từ ngày 11-
13/12/2002, Hà Nội.
20. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý 2002 , Số chuyên đề: “Một số vấn
đề về tổ chức và hoạt động thi hành án hiện nay”, Thông tin khoa học pháp lý, (6).
21. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý 2003 , Báo cáo phúc trình “Luận
cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt
Nam trong giai đoạn mới” Đề tài khoa học cấp nhà nước , Hà Nội.
22. Bộ Tư pháp 2005 , Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đề tài KX.04.06 .
23. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý 2005 , Bình luận Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004, Đề tài khoa học cấp bộ .
24. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý 2005 , Bình luận khoa học Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25. Bộ Tư pháp 2005 , Báo cáo của Đoàn khảo sát liên ngành về kết quả
khảo sát, tìm hiểu Luật Thi hành án tại Hoa Kỳ từ ngày 27/9/2005 đến ngày
06/10/2005, Hà Nội.
26. Bộ Tư pháp 2011 , Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư
pháp một số nước trên thế giới, Hà Nội.
27. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2006 , Số chuyên đề về thi
hành án dân sự, Hà Nội.
28. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2007 , Số chuyên đề về thi
hành án dân sự, Hà Nội.
29. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2008 , Số chuyên đề về thi
hành án dân sự, Hà Nội.
30. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2009 , Số chuyên đề về thi
hành án dân sự, Hà Nội.
169
31. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2010 , Số chuyên đề về thi
hành án dân sự, Hà Nội.
32. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2011 , Số chuyên đề về thi
hành án dân sự, Hà Nội.
33. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2011 , Số chuyên đề về xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.
34. Bộ Tư pháp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật 2012 , Số chuyên đề về thi
hành án dân sự, Hà Nội.
35. Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự 2010 , Báo cáo kết quả công
tác thi hành án dân sự năm 2010, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, Hà Nội.
36. Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự 2011 , Báo cáo kết quả công
tác thi hành án dân sự năm 2011, nhiệm vụ vụ trọng tâm, giải pháp cơ bản năm
2012, Hà Nội.
37. Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự 2012 , Báo cáo kết quả công
tác thi hành án dân sự năm 2012, phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, Hà Nội.
38. Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự 2012 , Báo cáo tổng kết
Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.
39. Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự 2012 , Báo cáo sơ kết hai
năm thực hiện Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Hà Nội.
40. Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự 2012 , Báo cáo tổng kết Bộ
luật hình sự, Hà Nội.
41. Lê Cảm 2006 , “Cải cách cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan thi hành
án dân sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền”, Tạp chí nghề luật, 2 .
42. Lê Thị Kim Chung 2007 , “Về các dấu hiệu của vi phạm pháp luật”, Tạp
chí Luật học, 2 .
43. Ngô Huy Cương 2008 , Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam 1987 , Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam 1991 , Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam 1996 , Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam 2001 , Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam 2005 , Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
170
49. Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 , Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 , Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển 2011), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Bùi Thị Đào 2010 , “Một số vấn đề về kỷ luật cán bộ, công chức”, Tạp
chí Luật học, (6).
52. Nguy n Minh Đoan 2009 , Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguy n Minh Đoan 2011 , Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Nguy n Văn Động 2010 , Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo
đảm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
55. Nguy n Văn Động 2010 , “Hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cầu
phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học, (3).
56. Nguy n Văn Động 2010 , “Cách thức xác định các yếu tố phát triển bền
vững của pháp luật và lồng ghép chúng vào quá trình xây dựng pháp luật”, Tạp chí
Luật học, (5).
57. Bùi Xuân Đức 2009 , “Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính:
những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, (1).
58. Trần Thị Hiển 2006 , “Bàn về khái niệm trách nhiệm vật chất của công
chức”, Tạp chí Luật học, (10).
59. Nguy n Ngọc Hoà 2006 , “Kỹ thuật xây dựng cấu thành tội phạm và
việc hoàn thiện Bộ luật hình sự”, Tạp chí Luật học, (4).
60. Học viện tư pháp 2006 , “Đổi mới công tác thi hành án dân sự theo tinh
thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghề luật, (4).
61. Học viện tư pháp 2007 , “Mô hình tổ chức thi hành án một số nước trên
thế giới”, Tạp chí Nghề luật, (1).
62. Học viện Tư pháp - Tạp chí Nghề luật 2009 , Số chuyên đề về Luật thi
hành án dân sự, Hà Nội.
63. Trần Minh Hương 2008 , “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính -
thực trạng quy định, thực ti n áp dụng và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Luật học, (8).
64. Jame F. Harigan (2005), “Bình luận của STAR Việt Nam về dự thảo Bộ
luật thi hành án của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Hà Nội.
65. John Bently (2006), “Các yêu cầu của Hiệp định thương mại WTO và
khuyến nghị của Dự án STAR - Việt Nam về dự án Bộ luật thi hành án” Báo cáo tại
Hội thảo góp ý dự thảo Bộ luật thi hành án tại Cát Bà tháng 6/2006 .
171
66. Trần Thúy Lâm 2005 , “Sự khác nhau cơ bản giữa kỷ luật lao động và
kỷ luật công chức”, Tạp chí Luật học, (3).
67. Trần Thúy Lâm 2006 , “Khái niệm và bản chất pháp lý của kỷ luật lao
động”, Tạp chí Luật học, (9).
68. Hoàng Thế Liên 2013 , “Luật xử lý vi phạm hành chính với nhiệm vụ
bảo đảm trật tự, kỷ cương quản lý hành chính, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 8 năm
2013.
69. Mai Kim Liên 2006 , “Nâng cao tính độc lập trong hoạt động của các cơ
quan thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về thi hành án.
70. Nguy n Công Long 2005 , “Vấn đề đổi mới các quy định về thi hành án
dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Bộ luật TH dự thảo .
71. Nguy n Đình Lộc 1998 , Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Cao Vũ Minh, Nguy n Thị Thiện Trí 2012 , “Một số bất cập của pháp
luật về xử lý kỷ luật công chức”, Tạp chí Luật học, (11).
73. Hồ Chí Minh toàn tập tập 5 2000 , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh 1995 , Nhà nước - pháp luật, Nxb háp lý, Hà Nội.
75. Nhà pháp luật Việt - Pháp (1997), “Tài liệu tham khảo về thừa phát lại
và thi hành án” dịch từ “L’Hussier de la justice” do Hội đồng thừa phát lại háp ấn
hành tháng 2/1994).
76. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), “Các mô hình tổ chức thi hành án trên
thế giới”, Kỷ yếu Hội thảo ngày 17-18/4/2006, Hà Nội.
77. Nguy n Văn Nghĩa 2006 , “Đổi mới công tác thi hành án dân sự theo
tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Nghề luật, (4)
78. Nguy n Văn Nghĩa 2007 , “Mô hình tổ chức thi hành án một số nước
trên thế giới”, Tạp chí Nghề luật, (1).
79. Nguy n Văn Nghĩa 2009 , “Những điểm mới cơ bản của Luật thi hành
án dân sự”, Tạp chí Luật học, (5).
80. Trần Văn Quảng 1996 , Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học.
81. Hoàng Quốc 2011 , “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thi
hành án dân sự”, Số chuyên đề về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (8).
82. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
83. Nguy n Quang Thái 2007 , “Một số ý kiến về cơ chế và xử lý vi phạm
pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số
chuyên đề về thi hành án dân sự.
172
84. Nguy n Thanh Thủy, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 2008 ,
Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ
luật học.
85. hạm Văn Tình 2006 , Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Lê nh Tuấn 2005 , Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học.
87. hạm Văn Tuyết 2006 , “Về sự tương đồng và khác biệt giữa nghĩa vụ
dân sự và trách nhiệm dân sự”, Tạp chí Luật học, (10).
88. Đoàn Trọng Truyến 2006 , Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
89. Nông Xuân Trường 2004 , “Quy định về tội phạm học của một số
trường phái tội phạm học”, Tạp chí Nghề luật, (8).
90. Trường Đại học Luật Hà Nội 2003 , Đặc san về xử lý vi phạm hành
chính, Tạp chí Luật học.
91. Tập thể tác giả 2008), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Trường Đại học Luật Hà Nội 2004 , Tổng thuật kết quả nghiên cứu đề
tài “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự”, Hà Nội.
93. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
94. Trường Đại học Luật Hà Nội 2006 , Giáo trình Luật Hành chính Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
95. Trường Đại học Luật Hà Nội 2007 , Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
96. Trường Đại học Luật Hà Nội 2008 , Giáo trình Luật Tố tụng dân sự,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
97. Trường Đại học Luật Hà Nội 2011 , Giáo trình Luật Thi hành án dân
sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
98. Hồ Sỹ Sơn 2010 , “Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định
tội phạm trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009”,
Tạp chí Luật học, (1).
99. Lê Thị Sơn 2011 , “Tội phạm học - khái niệm và đối tượng nghiên cứu”,
Tạp chí Luật học, (2).
100. Đào Trí Úc 2001 , “Những nội dung cơ bản của khái niệm hệ thống
pháp luật nước ta và các nguyên tắc lập pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10).
101. Nguy n Thị Ánh Vân 2007 , “Cải cách tư pháp ở nh và những ý kiến
về cải cách tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (8).
102. Viện ngôn ngữ học 1992 , Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội.
173
103. http://caicachhanhchinh.gov.vn/
104. http://www.gdla.gov.vn/
105. http://www.hanoi.gov.vn/
106. http://www.gdt.gov.vn 189
107. http://www.monre.gov.vn/
108. http://www.moj.gov.vn/
109. http://www.mpi.gov.vn/
110. http://www.customs.gov.vn
174
PHỤ LỤC
P ụ ục 1
Kết quả xử l trách nhiệm bồi thƣờng trong lĩnh vực thi hành án dân sự
(từ năm 2010 đến năm 2012)
STT Tỉnh Số việc yêu
cầu bồi thƣờng Giải quyết xong Đang giải quyết
1 An Giang 2 2
2 Cần Thơ 1 1
3 Hà Nội 1 1
4 Thành phố Hồ Chí Minh 1 1
5 Khánh Hòa 1 1
6 Lạng Sơn 3 2 1
7 Lâm Đồng 1 1
8 Ninh Thuận 2 1 1
9 Quảng Nam 1 1
10 Quảng Ngãi 2 1 1
11 Thanh Hóa 3 3
12 Tiền Giang 2 2
13 Tây Ninh 3 1 2
14 Nghệ n 1 1
15 Đắc Lắc 1 1
Tổng cộng 24 6 18
Nguồn: Theo Báo cáo số 2023/BC-TCTHADS ngày 21/9/2012 của Tổng cục Thi hành
án dân sự - Bộ Tư pháp.
175
P ụ ục 2
Kết quả xử l trách nhiệm kỷ luật nhà nƣớc trong thi hành án dân sự
(từ năm 2010 đến năm 2012)
Xử l kỷ luật Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Tổng số 31 54 69
Khiển trách 13 20 32
Cảnh cáo 8 17 15
Hạ bậc lương 3 2
Giáng chức 1 1
Cách chức, mi n nhiệm 5 4 2
Buộc thôi việc 3 5 4
Tạm đình chỉ 2 4 13
Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2010, 2011, 2012
của Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp.
P ụ ục 3
Kết quả truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cán bộ thi hành án dân sự
(từ năm 2010 đến năm 2012)
Xử l hình sự Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
Tổng số 2 6 13
Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
trong quá trình tổ chức TH
1 2 3
Ra quyết định trái pháp luật 1 1
Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài
sản và giả mạo trong công tác
1 1
Nhận hối lộ 1 1 2
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản 1
Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ
1 1
Môi giới hối lộ 1
Đánh bạc 3
Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2010, 2011, 2012
của Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp.
176
P ụ ục 4
Kết quả xử l vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự
(từ năm 2010 đến năm 2012)
Năm Số vụ xử l Số tiền (nghìn đồng)
2010 5 600
2011 5 500
2012 3 500
Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết Nghị định số 60/2009/NĐ-CP của Tổng cục Thi
hành án dân sự năm 2012.
P ụ ục 5
Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ngành Thi hành án dân sự
(từ năm 2010 đến năm 2012)
Năm Tổng số đơn khiếu nại
tố cáo phải giải quyết Số đơn đã giải quyết Số đơn đang giải quyết
2010 7.110 6.787 323
2011 7.342 6.981 361
2012 7.513 7.217 296
Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2010, 2011, 2012
của Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp.
P ụ ục 6
Kết quả thi hành án dân sự trong những năm gần đây
(từ năm 2010 đến năm 2012)
Năm Tổng số việc
phải thi hành
Số việc
thi hành xong
Tổng số tiền
phải thu
(triệu đồng)
Số tiền
đã thu đƣợc
(triệu đồng)
2010 615.411 351.373 30.698.100 8.301.320
2011 632.545 379.990 35.416. 341 10.167. 712
2012 642.885 395.284 43.219.633 10.344.567
Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2010, 2011, 2012
của Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp.