ĐẠi hỌc quỐc gia hÀ nỘi - tài nguyên sốdl.ueb.edu.vn/bitstream/1247/15491/1/moi quan...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ
Hà Nội, 05/2016
BÁO CÁO
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
Đề tài:
Mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán
của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
Page 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
Đề tài nghiên cứu:
Mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán của các công ty
niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
Hà Nội, 05/ 2016
Page 3
Chúng tôi xin cam đoan nghiên cứu “Mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi nhuận
và ý kiến kiểm toán của các công ty niêm yết ở Việt Nam trong năm 2014” là công
trình nghiên cứu độc lập của chúng tôi.
Các trích dẫn, tài liệu tham khảo, các số liệu thống kê được sử dụng trong bài
nghiên cứu là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Nhóm tác giả nghiên cứu
Page 5
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………………. 2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................... 7
DANH MỤC BẢNG ..................................................................................................... 8
DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... 9
I. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................................................. 10
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ........................................................... 10
1.3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ............................................... 12
1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ................................................................ 12
1.5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 13
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ................................. 14
2.1. Cơ sở lý thuyết .................................................................................................. 14
2.1.1. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận ................................................................... 14
2.1.2. Ý kiến kiểm toán ........................................................................................ 18
2.1.3 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận .................. 21
2.2 Tổng quan nghiên cứu ...................................................................................... 25
2.3 Tóm tắt chương II: ............................................................................................ 31
III. XÁC ĐỊNH GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 33
3.1. Xây dựng giả thiết nghiên cứu ........................................................................ 33
3.2. Chọn mẫu .......................................................................................................... 34
3.3 Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................ 34
3.4 Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 34
3.4.1 Mô hình dùng để tính toán biến dồn tích có thể điều chỉnh (Dicretionary
Accruals) ............................................................................................................... 35
3.4.2. Mô hình hồi quy tổng thể nhằm đánh giá mối quan hệ giữa điều chỉnh
lợi nhuận và ý kiến kiểm toán ............................................................................. 36
3.5 Quy trình nghiên cứu ........................................................................................ 38
3.6.1 Kiểm định giả thiết ..................................................................................... 39
Page 6
3.6.2 Kiểm định về ý nghĩa của các hệ số hồi quy: ............................................ 40
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................................. 41
4.1. Phân tích thống kê số liệu nghiên cứu ............................................................ 41
4.2 Phân tích tương quan ........................................................................................ 45
4.3. Kiểm định đa cộng tuyến ................................................................................. 46
4.4 Kết quả phân tích hồi quy ................................................................................ 47
4.4.1 Đánh giá sự phù hợp của mô hình ............................................................ 47
4.4.2 Kiểm định về độ tin cậy của mô hình ........................................................ 47
4.4.3 Kiểm định giả thuyết về các hệ số của mô hình hồi quy mẫu ................. 47
4.4.4 Kiểm định giả thuyết nghiên cứu .............................................................. 48
V. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 52
5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu ......................................................................... 52
5.2. Hạn chế của bài nghiên cứu ............................................................................ 55
5.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................................ 55
PHỤ LỤC: Danh sách các công ty niêm yết có ý kiến kiểm toán không chấp nhận
toàn phần năm 2014 ................................................................................................... 59
Page 7
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Giải thích
BCTC Báo cáo tài chính
BCKQHĐKD Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
BCLCTT Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
CTCP Công ty cổ phần
DN Doanh nghiệp
DNNY Doanh nghiệp niêm yết
EM Earning management – (hành vi) điều chỉnh lợi nhuận
GAAP Genneral accepted accounting principles
Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung
HĐKD Hoạt động kinh doanh
KTV Kiểm toán viên
SPSS Phần mềm thống kê kinh tế
TSCĐ Tài sản cố định
VAS Vietnam accounting standard – Chuẩn mực kế toán Việt Nam
VSA Vietnam standards of auditing – Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Page 8
DANH MỤC BẢNG
Bảng Tên bảng
Bảng 2.1 Tóm tắt các công trình tổng quan nghiên cứu
Bảng 3.1 Các biến độc lập của mô hình và cách tính
Bảng 4.1 Bảng thống kê mô tả giá trị các biến độc lập
Bảng 4.2 Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Bảng 4.3 Kết quả phân tích quan hệ tương quan giữa các biến
Bảng 4.4 Đánh giá sự phù hợp của mô hình
Bảng 4.5 Kiểm định độ tin cậy của mô hình
Bảng 4.6 Kết quả hồi quy
Page 9
DANH MỤC HÌNH
Hình Tên hình
Hình 2.1 Sơ đồ tác động của REM và AEM lên lợi nhuận
Hình 3.1 Quy trình nghiên cứu
Hình 4.1 Biểu đồ cơ cấu ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần
Hình 4.2 Biểu đồ cơ cấu kết quả kinh doanh năm 2013 của mẫu nghiên cứu
Hình 4.3 Cơ cấu công ty kiểm toán phát hành ý kiến kiểm toán không chấp
nhận toàn phần
Hình 4.4 Biểu đồ cơ cấu ý kiến kiểm toan năm 2013 của mẫu nghiên cứu
Hình 4.5 Kết quả đánh giá hồi quy
Page 10
CHƯƠNG I:
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trên thực tế, ban giám đốc thường được trả lương thưởng theo lợi nhuận của công
ty, do đó họ thường có xu hướng dùng các thủ thuật để điều chỉnh lợi nhuận đạt mức
mong muốn. Bên cạnh đó, một trong những yếu tố mà thu hút sự chú ý của các nhà
đầu tư đó là chỉ tiêu lợi nhuận. Từ chỉ tiêu lợi này, nhà đầu tư có thể đánh giá được
tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, triển vọng tăng trưởng của công ty trong
tương lai. Nhà đầu tư thường có xu hướng đầu tư vào công ty lợi nhuận cao hơn là
những công ty có lợi nhuận thấp (Ambrose Jagongo, 2014).
Theo Thomas P. Houck (2003) các công ty niêm yết thường có xu hướng điều
chỉnh lợi nhuận để tạo ra kết quả kinh doanh hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và
các thông tin trên BCTC có thể tác động tới giá cổ phiếu của công ty. Bên cạnh đó
một công ty tư nhân cũng có thể “xào nấu” sổ sách (cooking the book) với mục đích
cổ phần hóa trong tương lai. Những công ty tư nhân này cũng có thể sẽ che giấu thu
nhập hoặc “thổi phồng” thu nhập phụ thuộc vào tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty.
Do sự xuất hiện tình trạng xung đột lợi ích (conflict of interest) trên giữa chủ sở
hữu và ban giám đốc và sự tồn tại thông tin bất đối xứng (information asymmetry)
giữa ban giám đốc và người sử dụng BCTC nên cần một bên thứ ba độc lập để đánh
giá sự trung thực và minh bạch của các thông tin được trình bày trên BCTC thể hiện
tình hình tài chính của công ty (DeAngelo, 1981). Bên thứ ba này được biết đến như
là các Kiểm toán viên, thực hiện công việc kiểm tra tính trung thực, minh bạch và hợp
lý, hợp pháp của các thông tin trên BCTC của các công ty. Trách nhiệm của KTV đối
với các bản BCTC là cung cấp cuối cùng được thể hiện thông qua ý kiến của KTV về
bản BCTC đó.
Cho đến nay đã có rất nhiều vụ bê bối kế toán kiểm toán xảy ra, điển hình như
vụ bê bối kế toán của Enron. Cổ phiếu Enron từ đỉnh cao 90$ từ giữa năm 2000 đã
giảm xuống chỉ còn chưa tới 1$ vào cuối tháng 11/2001, khiến nhà đầu tư mất hàng
nghìn tỷ đô và khoảng 20 nghìn nhân viên Enron mất việc làm, nhiều người trong số
họ mất luôn cả khoản tiết kiệm vì đã góp vốn vào công ty. Nguyên nhân của sự việc
này là do Enron đã tìm cách thổi phồng lợi nhuận của mình, che dấu hàng tỷ USD bị
thua lỗ, đồng thời tạo áp lực để Công ty Kiểm toán Arthur Andersan (một trong năm
công ty kiểm toán lớn nhất thế giời) bỏ qua các vấn đề kế toán có rủi ro quan trọng.
Trong khi đó, những người quan tâm lại hoàn toàn tin tưởng vào BCTC đã kiểm toán.
Ngay khi bị phát hiện, Enron đã trở thành vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ tính
Page 11
tới thời điểm đó. Rất nhiều các vụ bê bối khác như là Worldcom, Olympus, Tyco
International, hay Parmalat và gần đây nhất là Toshiba… cũng đã khiến cho nhiều nhà
đầu tư bị thua lỗ vì những quyết định đầu tư dựa trên các con số được điều chỉnh trên
các bản BCTC đã được kiểm toán.
Tại Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đã bị “đánh lừa” bởi những con số đẹp được
trình bày trên các bản BCTC đã được kiểm toán. Ví dụ như trường hợp công ty Dược
Viễn Đông (DVD – sàn HSX) đã kinh doanh thua lỗ song BCTC vẫn thể hiện kết quả
ấn tượng, nhưng cả hai công ty kiểm toán lớn là ACC và Ernst & Young đều không
phát hiện ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận của công ty này, khiến cho hàng nghìn nhà
đầu tư thua lỗ vì đã tin tưởng vào BCTC đã được kiểm toán bởi công ty kiểm toán.
Hay trong trường hợp ngược lại, các công ty như Tribeco (TRI), công ty Petrolimex,
CTCP Quốc Cường Gia Lai (QCG), CTCP Vận tải biển và bất động sản Việt Hải
(VSP), Tổng CTCP Phân bón và Hóa chất dầu khí (DPM) đã thực hiện hành vi điều
chỉnh giảm lợi nhuận trên BCTC so với thực tế, tuy nhiên đã được phát hiện bởi các
Kiểm toán viên cho thấy vai trò của KTV trong việc thực hiện chức năng kiểm tra của
mình. Và gần đây nhất là vụ việc của Ngân hàng Thương mại Xuất nhập khẩu Việt
Nam (Eximbank), đã làm nhu cầu của nhà đầu tư về việc nhận diện hành vi điều chỉnh
lợi nhuận của ban giám đốc ngày càng tăng. Vấn đề được đặt ra là những công ty có
hành vi điều chỉnh lợi nhuận có khả năng nhận được ý kiến kiểm toán không chấp
nhận toàn phần cao hơn các công ty khác hay không?
Đã có một số công trình nghiên cứu trên thế giới về mối quan hệ giữa ý kiến
của KTV về BCTC và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Charalambos Spathis và Maria
Tsipouridou (2013) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi
điều chỉnh lợi nhuận đối với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Athens ở Hy
Lạp (Athens Stock Exchange – ASE), trong giai đoạn từ 2005 – 2011 và đưa ra kết
luận ý kiến kiểm toán phụ thuộc vào khả năng hoạt động liên tục của công ty chứ
không phụ thuộc vào hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kathleen Herbohn, Vanitha
Ragunathan (2008) đã nghiên cứu tất cả các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán
Australia giai đoạn từ 1999-2003, cho rằng điều chỉnh lợi nhuận không phải là nguyên
nhân của ý kiểm kiểm toán không chấp nhận toàn phần. Arnedo Ajona cùng cộng sự
(2008) cũng nghiên cứu về mối quan hệ này đối với những công ty có mức độ rủi ro
cao tại thị trường Tây Ban Nha, cho thấy điều chỉnh lợi nhuận có mối quan hệ cùng
chiều với việc phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần…Tuy nhiên,
trên thị trường Việt Nam có tồn tại mối quan hệ này hay không thì vẫn chưa có một
bài nghiên cứu nào cho vấn đề này. Do đó, đây sẽ là bài nghiên cứu đầu tiên về mối
quan hệ đã được nêu ra.
Vậy trên tổng thể, KTV có phát hiện ra những hành vi điều chỉnh lợi nhuận của
các công ty niêm yết trên thị trường hay không? Để trả lời cho câu hỏi này dựa trên cơ
sở khoa học thì thật cần thiết để có một bài nghiên cứu cho mối quan hệ này.
Page 12
Dựa trên các bài nghiên cứu trước đây trên thế giới và tình hình thực tế tại Việt
Nam về hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Ban giám đốc và việc phát hành các ý kiến
kiểm toán của KTV đối với các bản BCTC của các công ty niêm yết, nhóm nghiên
cứu nhận ra thực sự cần thiết của nghiên cứu về mối quan hệ này.
1.2. Đóng góp dự kiến của đề tài
Về mặt khoa học, nghiên cứu được thực hiện để tìm hiểu mối quan hệ giữa ý
kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường Việt
Nam.
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu này sẽ giúp những người quan tâm tới BCTC có
cái nhìn khách quan hơn tới tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Cụ
thể nếu kết quả của bài nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và
hành vi điều chỉnh lợi nhuận cùng chiều thì các báo cáo đã kiểm toán càng có độ tin
cậy cao và ngược lại nếu không tồn tại mối quan hệ này thì các đối tượng bên ngoài
cần tham khảo thêm từ các nguồn thông tin khác để có quyết định phù hợp hơn.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm định mối quan hệ giữa ý kiến kiểm
toán chấp nhận không toàn phần và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong công ty niêm
yết tại Việt Nam. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đặt ra mục tiêu tìm hiểu về hành vi
điều chỉnh lợi nhuận và phân tích một số nhân tố ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần.
Để trả lời cho mục tiêu nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đặt ra những câu hỏi
nghiên cứu chi tiết cho vấn đề này như sau:
Thứ nhất, ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và hành vi điều chỉnh
lợi nhuận có mối quan hệ như thế nào?
Thứ hai, ngoài điều chỉnh lợi nhuận, trong mô hình được xây dựng có những
nhân tố nào ảnh hưởng tới việc phát hành ý kiến không chấp nhận toàn phần của
KTV?
1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Để đánh giá mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi
điều chỉnh lợi nhuận trong DN, nhóm nghiên cứu đã tham khảo các nghiên cứu trước
đây và đã tiến hành nghiên cứu tất cả các DN đang niêm yết (khoảng gần 900 DN)
trên sàn chứng khoán HNX và HOSE và đã chọn ra được 92 DN nhận được ý kiến
kiểm toán không chấp nhận toàn phần đối với BCTC năm 2014.
Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh
lợi nhuận trong các công ty là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Page 13
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu dùng phương pháp định lượng. Mẫu số liệu sử dụng trong
BCTC đã kiểm toán của các công ty niêm yết ở Việt Nam. Phần mềm nhóm nghiên
cứu sử dụng để kiểm định mô hình là phần mềm SPSS.
Page 14
CHƯƠNG II:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận
Khái niệm điều chỉnh lợi nhuận
Cho đến nay vẫn chưa có một câu trả lời thống nhất cho câu hỏi điều chỉnh lợi
nhuận (earning management) là gì. Thuật ngữ điều chỉnh lợi nhuận xuất hiện từ khá
sớm. Trong bài nghiên cứu của Schipper (1989): “Điều chỉnh lợi nhuận là một sự can
thiệp có tính toán trong quá trình cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt được những
mục đích cá nhân”. Điều chỉnh lợi nhuận phản ánh hành động của ban giám đốc trong
việc lựa chọn các phương pháp kế toán để mang lại lợi ích cho họ hoặc làm gia tăng
giá trị thị trường của công ty (Scott 1997). Trong khi đó, Healy and Whalen (1999)
cho rằng, điều chỉnh lợi nhuận xảy ra khi ban giám đốc sử dụng các ước tính kế toán
hoặc giao dịch nội bộ để nhằm thay đổi BCTC, đánh lạc hướng người sử dụng thông
tin trên BCTC về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty hoặc làm ảnh
hưởng đến kết quả của các hợp đồng mà phụ thuộc vào số liệu kế toán trên BCTC (ví
dụ: hợp đồng tín dụng với ngân hàng, hợp đồng thù lao giữa ban giám đốc và công
ty…). Ronen và Yaari (2008) đã tổng hợp lại các nghiên cứu trước đó và đưa ra một
định nghĩa và phân loại điều chỉnh lợi nhuận như sau: “điều chỉnh lợi nhuận là hành vi
của ban giám đốc sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở dồn tích thông qua một số tài
khoản để làm thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục tiêu công bố thông tin của họ”.
Trong nghiên cứu của Ronen và Yaari, tùy thuộc vào động cơ mà điều chỉnh lợi nhuận
có thể được phân làm 3 nhóm:
- Điều chỉnh lợi nhuận trắng (White Earnings Management): Ban giám đốc dựa
trên lợi thế về quyền lực để lựa chọn các chính sách kế toán một cách linh hoạt nhằm
thông báo tín hiệu cá nhân của họ về dòng tiền của DN trong tương lai (Ronen và
Sadan, 1981; Demski, Patell, và Wolfson, 1984; Suh, 1990; Demski, 1998; Beneish,
2001, Sankar và Subramanyam, 2001). Loại này được xem là có lợi và làm gia tăng
chất lượng BCTC. Mục đích của ban giám đốc là muốn công bố nhiều thông tin với
chất lượng tốt hơn đến người sử dụng, giúp các các nhà đầu tư khám phá ra các mong
đợi của họ về các dòng tiền mà DN sẽ mang lại trong tương lai (Beneish, 2011).
- Điều chỉnh lợi nhuận xám (Grey Earnings Management): Các ban giám đốc lựa
chọn các chính sách kế toán trong hoặc ngoài các giới hạn cho phép nhằm làm gia
tăng giá trị của DN hoặc vì vụ lợi của họ (Watts và Zimmerman, 1990; Fields, Lys, và
Vincent 2001).
Page 15
- Điều chỉnh lợi nhuận đen (Black Earnings Management): Là hành vi sử dụng
các thủ thuật của ban giám đốc để làm sai lệch hoặc giảm sự minh bạch của các BCTC
(Schipper, 1989; Levitt, 1998; Healy và Wahlen 1999; Tzur và Yaari, 1999; Chtourou,
Bédard, và Courteau, 2001; Miller và Bahnson, 2002).
Theo Carmen Joosten (2012), lợi nhuận bao gồm dòng tiền từ hoạt động và dòng tiền
tích lũy, ban giám đốc công ty có 2 phương thức để điều chỉnh lợi nhuận:
- Điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực (Real earning management):
Công ty có thể điều chỉnh lợi nhuận thông qua những chỉnh sửa từ hoạt động kinh
doanh bình thường, vì vậy dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có thể bị ảnh hưởng.
Những chỉnh sửa từ hoạt động kinh doanh bình thường để điều chỉnh BCKQHĐKD
này được gọi là điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực (REM)
(Rowchowdhury, 2006).
- Điều chỉnh lợi nhuận bằng các ước tính kế toán (Accrual-based earning
management): Công ty có thể thay đổi mức độ dồn tích để có được lợi nhuận như
mong muốn. Việc ban giám đốc sử dụng các ước tính để lập BCTC được gọi là điều
chỉnh lợi nhuận trên cơ sở ước tính (AEM) (Healy and Wahlen, 1999).
Phát sinh các giao dịch được ghi nhận
Hoặc thay đổi giá trị hệ thống kế toán
Hình 2.1 Sơ đồ tác động của REM và AEM lên lợi nhuận
Ở Việt Nam, thuật ngữ Earning Management (EM) được dịch ra với nhiều cách
khác nhau như: điều chỉnh lợi nhuận, quản trị thu nhập, điều chỉnh lợi nhuận… Tuy
nhiên, điều đáng nói ở đây là những nghiên cứu của Việt Nam về EM thường đi theo
hướng tiêu cực như những phương pháp để “làm đẹp” BCTC hay “những thủ thuật
phù phép BCTC”. Nhóm nghiên cứu đã thống nhất trong bài nghiên cứu này thuật ngữ
EM được dùng với nghĩa điều chỉnh lợi nhuận.
Ban giám đốc quyết định
các quyết định kinh doanh Ban giám đốc lựa chọn
các ước tính kế toán
Những hoạt
động kinh
doanh thực
phát sinh
Những
nguyên tắc
kế toán
chung được
thừa nhận
Lợi nhuận thuần
trên kết quả hoạt
động kinh doanh
Page 16
Đã có một số bài nghiên cứu và bài báo trong nước bàn về vấn đề điều chỉnh
lợi nhuận như bài viết của tác giả Lê Minh Thủy, công ty tư vấn tài chính Capstone
đăng trên tạp chí “Nhịp cầu đầu tư” ngày 26/04/2010 với tựa đề “Nỗi niềm mùa
BCTC” đã đưa ra các phương pháp kế toán mà chủ sở hữu hay ban giám đốc sử dụng
đề làm sai lệch về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của DN nhưng các
phương pháp này lại là các phương pháp gian lận như: dùng nghiệp vụ ảo, che giấu
giao dịch, phù phép về thời gian ghi nhận giao dịch. Bài viết với tiêu đề “Hoạt động
quản trị kết quả kinh doanh trên thế giới và khuyến nghị cho các DN Việt Nam”
(11/2011) của Ts. Trần Thị Kim Anh, với nội dung chính là các khái niệm, cách phân
loại, các phương pháp điều chỉnh lợi nhuận và kiến nghị cho DN Việt Nam. Ngoài ra,
Ths. Phạm Thị Bích Vân (2013), đã cung cấp cho các nhà đầu tư ở Việt Nam một số
cách để đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận trên BCTC. Trong nghiên cứu
này, tác giả cũng nhắc đến 5 thủ thuật mà ban giám đốc sử dụng để điều chỉnh lợi
nhuận như: lựa chọn các phương pháp kế toán, lựa chọn thời điểm vận dụng các
phương pháp kế toán và các ước tính các khoản chi phí doanh thu, lựa chọn thời điểm
đầu tư hay thanh lý tài sản cố định, dàn xếp thông qua các giao dịch thực.
Phương pháp đo lường điều chỉnh lợi nhuận
Theo Renick van Oosterbosch (2009), để đo lường điều chỉnh lợi nhuận có 3
phương pháp tiếp cận:
- Phương pháp thứ 1 là đo lường biến dồn tích không thể điều chỉnh được (non
discretionary accruals) dựa vào mối quan hệ giữa tổng dồn tích và giả thuyết giải thích
các yếu tố. Mô hình sử dụng cách tiếp cận được gọi là mô hình tổng dồn tích, ví dụ
như mô hình của Healy (1985) và Jones (1991); Dechow (1995); Deangelo (1986)
- Phương pháp thứ 2 là sử dụng một mô hình dồn tích cụ thể. Trong nghiên cứu
thực nhiệm sử dụng mô hình dồn tích cụ thể, trọng tâm thường là một ngành công
nghiệp cụ thể nơi có mức dồn tích lớn hoặc các biến dồn tích đơn lẻ. Wilson (1988),
Petroni (1992), Beaver và Engel (1996)
- Phương pháp thứ 3: quan sát mức dồn tích trong một khoảng cụ thể. Cách tiếp
cận này xem xét tính chất thống kê của thu nhập để xác định hành vi đó ảnh hưởng
đến thu nhập. Burgstahler và Dichev (1997), Degeorge (1999).
Có khá nhiều nghiên cứu nổi tiếng dựa trên phương pháp thứ nhất như mô hình
của Jones (1991); Dechow (1995); Kaszmik (1999); Kothari (2005). Trong những bài
nghiên cứu này, công thức tính tổng dồn tích được được xác định dựa trên 2 phương
thức hạch toán cơ bản của kế toán: cơ sở dồn tích và cơ sở tiền.
- Kế toán theo cơ sở dồn tích là phương pháp hạch toán dựa trên cơ sở dự thu –
dự chi. Theo VAS 01, “mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của công ty liên quan đến tài
sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí phải được ghi sổ kế toán
Page 17
vào thời điểm phát sinh giao dịch, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế
chi tiền hoặc tương đương tiền”.
- Kế toán theo cơ sở tiền: là phương pháp hạch toán dựa theo cơ sở thực thu –
thực chi tiền. Kế toán theo cơ sở tiền chỉ cho phép ghi nhận các giao dịch khi các giao
dịch này phát sinh bằng tiền.
Nguyễn Thị Minh Trang (2012), BCKQHĐKD phải được ghi nhận theo cơ sở
dồn tích. Điều này mang lại cơ hội cho ban giám đốc thực hiện hành động điều chỉnh
lợi nhuận thông qua các giao dịch không bằng tiền nhằm đạt được một mục tiêu nào
đó. Trong khi đó, kế toán theo cơ sở tiền được sử dụng để lập báo cáo lưu chuyển tiền
tệ (theo phương pháp trực tiếp) dựa trên cơ sở thực thu, thực chi tiền nên ban giám
đốc không thể điều chỉnh các giao dịch. Từ đó chênh lệch giữa lợi nhuận trên
BCKQHĐKD và dòng tiền trên BCLCTT (theo phương pháp trực tiếp) tạo ra biến kế
toán gọi là Accruals. Vì vậy, công thức tính tổng dồn tích (total accrual) được xác
định như sau:
Biến kế toán dồn tích (Accruals) = Lợi nhuận sau thuế - Dòng tiền thuần từ
hoạt động kinh doanh (Phạm Thị Bích Vân, 2013).
Dòng tiền từ HĐKD trên BCLCTT được lập theo cơ sở tiền nên không thể điều
chỉnh được, nên muốn điều chỉnh lợi nhuận các ban giám đốc phải điều chỉnh các biến
kế toán dồn tích. Theo các nhà nghiên cứu, các biến kế toán dồn tích (Accruals) gồm
hai phần: phần không thể điều chỉnh (NDA) và phần có thể điều chỉnh từ ban giám
đốc (DA). Ví dụ như giảm khoản nợ phải thu do phải tăng dự phòng phải thu khó đòi
vì mức dự phòng cần trích lập lớn hơn so với năm trước, lự a chọn mức lập dự phòng
nào trong giới hạn cho phép của chế độ kế toán đều là ý muốn chủ quan của ban giám
đốc. Như vậy biến kế toán này có thể điều chỉnh được. Nhưng giảm khoản nợ phải thu
do thắt chặt chính sách tín dụng của DN thì không thể thay đổi theo ý muốn của ban
giám đốc được (Ths. Nguyễn Thị Minh Trang, 2012). Vì vậy, đo lường phần biến kế
toán dồn tích có thể điều chỉnh được là đo lường hành vi điều chỉnh lợi nhuận của DN.
Các nhà nghiên cứu trước đây đã sử dụng nhiều cách khác nhau để đo lường biến kế
toán dồn tích có thể điều chỉnh.
Mô hình của Healy (1985): Healy là người đầu tiên phát triển mô hình tổng dồn
tích. Mô hình này sử dụng giá trị trung bình của tổng dồn tích trong suốt kỳ đo lường
như một đại diện cho biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh, vì thế biến kế toán
dồn tích có thể điều chỉnh được đo lường bằng chênh lệch giữa biến kế toán dồn tích
không thể điều chỉnh và tổng dồn tích.
Mô hình của Deangelo (1986), sử dụng tổng dồn tích năm trước để để đo lường
biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh của năm nay. Biến kế toán dồn tích có thể
điều chỉnh bằng tổng dồn tích trừ đi biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh.
Page 18
Mô hình của Jones (1991), một cách tiếp cận hồi quy để kiểm soát các nhân tố
không thể điều chỉnh đến tổng dồn tích, như là ảnh hưởng của việc thay đổi lĩnh vực
kinh tế của công ty – có mối quan hệ tuyến tính rõ ràng giữa tổng dồn tích và thay đổi
trong doanh thu, tài sản, nhà máy và thiết bị.
Mô hình của Dechow (1995) dựa trên mô hình của Jones (1991) nhưng sự thay
đổi doanh thu được điều chỉnh bằng sự thay đổi của khoản phải thu trong năm.
Tính linh hoạt của các chuẩn mực và chế độ kế toán hay sự khác biệt về chế độ
kế toán giữa các quốc gia đã cho phép ban giám đốc có thể thực hiện một số phương
thức để điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận trong BCTC để mang lại lợi ích cho công ty
trong việc phát hành cổ phiếu, thu hút đầu tư, san bằng lợi nhuận giữa các kỳ kế toán,
hoặc mang lại lợi ích cho chính ban giám đốc thông qua hợp đồng thù lao, tiền lương.
Ths. Phạm Thị Bích Vân (2013) đã đưa ra một số ví dụ về các thủ thuật mà ban giám
đốc có thể thực hiện để điều chỉnh lợi nhuận. Đối với phương thức điều chỉnh lợi
nhuận thông qua các ước tính kế toán và chính sách kế toán, ban giám đốc có thể điều
chỉnh chi phí khấu hao thông qua ước tính thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ, hoặc
thời điểm trích lập khấu hao. Ban giám đốc còn có thể lựa chọn chính sách hàng tồn
kho nào có lợi nhất đối với DN của mình. Đối với phương thức điều chỉnh lợi nhuận
thông qua các giao dịch thực, ban giám đốc có thể tăng doanh thu thông qua các chính
sách giá và tính dụng. Cụ thể, biện pháp mà ban giám đốc thường sử dụng để tăng lợi
nhuận khi thấy có nguy cơ không đạt kế hoạch đề ra là giảm giá hàng bán hoặc nới
lỏng các điều kiện tín dụng, tăng khuyến mãi nhằm tăng lượng hàng bán ra, từ đó tăng
doanh thu. Ban giám đốc cũng có thể ký các hợp đồng bán hàng đối với khách hàng
mà trong đó, hàng được bán và ghi nhận doanh thu vào cuối năm tài chính năm nay,
nhưng sẽ được trả lại vào đầu năm tài chính năm sau.
2.1.2. Ý kiến kiểm toán
Nội dung quan trọng nhất trong báo cáo kiểm toán là ý kiến nhận xét của KTV
về thông tin được kiểm toán. Trong báo cáo về kiểm toán Báo cáo kiểm toán, ý kiến
nhận xét của kiểm toán viên thường có sự phân định rõ, đặc biệt là ý kiến nhận xét của
kiểm toán viên độc lập về BCTC đã được kiểm toán. Do vậy đã hình thành nên các
loại báo cáo kiểm toán khác nhau, trong đó có ý kiến nhận xét khác nhau.
Để hình thành nên ý kiến nhận xét về BCTC, KTV phải căn cứ vào kết quả
kiểm toán về đánh giá, soát xét để đưa ra các kết luận về các khía cạnh sau đây:
- Các BCTC lập ra có phù hợp với các thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực kế
toán hiện hành hoặc chấp nhận hay không
- Các thông tin tài chính có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên
các mặt trọng yếu hay không.
- Các thông tin tài chính có phù hợp với các quy định pháp lý hiện hành không.
Page 19
- Toàn cảnh các thông tin tài chính của doanh nghiệp có nhất quán với hiểu biết
của KTV về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay không.
Tùy theo kết quả của từng cuộc kiểm toán BCTC, KTV có thể đưa ra ý kiến
thuộc một trong các loại ý kiến sau đây:
- Ý kiến chấp nhận toàn phần
- Ý kiến chấp nhận từng phần
- Ý kiến từ chối (từ chối đưa ra ý kiến)
- Ý kiến không chấp nhận ý kiến trái ngược)
Tương ứng với mỗi loại ý kiến nhận xét là một loại báo cáo kiểm toán.
Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng chấp nhận toàn phần
Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra khi KTV cho rằng BCTC phản ánh
trung thực, hợp lý trên tất cả các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của đơn vị
là phù hợp với các chuẩn mực kế toán xác định. Đồng thời mọi thay đổi về nguyên tắc
kế toán và ảnh hưởng của chúng đã được đánh giá đúng và được nên ra trong thuyết
minh BCTC.
Trong một số trường hợp KTV có thể đưa ra báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn
phần với một đoạn nhận xét thêm (đoạn ghi thêm ý kiến) để làm sáng tỏ thêm một vài
yếu tố ảnh hưởng đến BCTC và là đối tượng của một đoạn thuyết minh chi tiết hơn.
Đoạn nhận xét này không ảnh hương gì đến ý kiến của KTV. Ví dụ như đoạn nhấn
mạnh về một vấn đề trọng yếu liên quan đến tính liên tục cảu hoạt động kinh doanh
hoặc một tình huống không chắc chắn nghiêm trọng vì vấn đề đặt ra còn phụ thuộc
vào một sự kiện trong tương lai nằm ngoài khả năng khả năng kiểm soát của đơn vị và
KTV và có thể ảnh hưởng đến BCTC (như một vụ kiện đang có sự điều tra, thẩm
định; một khoản doanh thu có thể không được chấp nhận). Đoạn nhận xét thường
được đặt sau đoạn nêu ý kiếnvà nói rõ rằng đoạn nhận xét thêm này không phủ nhận
(không trái ngược) với ý kiến đã nêu. KTV có thể đưa vào đoạn nhận xét thêm những
vấn đề cần lưu ý thêm cho người đọc về BCTC của đơn vị mà KTV cho là cần thiết
nhưng không liên quan trực tiếp đến BCTC (ví dụ những thông tin khác đi kèm BCTC
đã được kiểm toán) và không ảnh hưởng đến ý kiến nhận xét cả KTV.
Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng chấp nhận từng phần
KTV đưa ra ý kiến nhận xét dạng chấp nhận từng phần khi KTV cho rằng
không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần do còn có những yếu tố chưa xác nhận
được hoặc không đồng ý với đơn vị. Những yếu tố này là quan trọng nhưng không
liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến ý kiến “từ chối”
hoặc ý kiến “không chấp nhận”. Ý kiến chấp nhận từng phần được thể hiện bởi thuật
ngữ “ngoại trừ” và nêu rõ ảnh hưởng của những vấn đề ngoại trừ. Vấn đề ngoại trừ có
thể do phạm vi kiểm toán bị giới hạn hay không đồng ý với đơn vị.
Page 20
Phạm vi kiểm toán bị giới hạn là khi KTV không thể thực hiện được các thủ tục
kiểm toán mà họ cho là cần thiết. Nguyên nhân giới hạn phạm vi kiểm toán có thể là
do bản thân đơn vị hoặc do hoàn cảnh khách quan. Nếu phạm vi kiểm toán bị giới hạn
mà KTV không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán cần thiết thì KTV không thể
thực hiện được các thủ tục kiểm toán cần thiết thì KTV không thể thực hiện được các
thủ tục kiểm toán cần thiết thì KTV không có đủ bằng chứng để đưa ra ý kiến chấp
nhận toàn phần. Phạm vi kiểm toán bị hạn chế ở mức độ không lớn thì KTV đưa ra ý
kiến chấp nhận từng phần, có yếu tố ngoại trừ.
KTV có thể không đồng ý với đơn vị về việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực,
chế độ kế toán hay tính thích hợp của các thông tin đưa ra trong thuyết minh BCTC ở
mức độ không lớn thì KTV cũng đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, có yếu tố ngoại
trừ.
Khi đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần có yếu tố ngoại trừ, KTV phải mô tả rõ
ràng trong báo cáo kiểm toán những lý do chủ yếu dẫn đến loại ý kiến này do phạm vi
bị giới hạn hay bởi bất đồng với đơn vị. Những lý do đó phải được ghi trong một đoạn
riêng, đặt trước đoạn nêu ý kiến và có thể được tham chiếu đến một đoạn thuyết minh
chi tiết hơn trong BCTC (nếu có).
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến
chấp nhận từng phần còn được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty
kiểm toán cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng
yếu.
Yếu tố tùy thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn, như các vấn đề
liên quan đến tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc một khoản
doanh thu có thể không được công nhận làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
công ty.
Yếu tố tùy thuộc do kiểm toán viên nêu ra thường liên quan đến các sự kiện có
thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán
viên. Việc đưa ra yếu tố tùy thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm
kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc BCTC phải lưu ý và tiếp tục theo
dõi khi sự kiện có thể xảy ra.
Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng từ chối (không thể đưa ra ý kiến)
KTV đưa ra ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng từ chối trong trường
hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc liên quan đến
một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà KTV không thể thu thập đầy đủ và thích
hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về BCTC. Các phạm vi kiểm toán
bị giới hạn trong trường hợp này là không thể vượt qua được. KTV phải mô tả đầy đủ
và rõ ràng những giới hạn trong báo cáo kiểm toán và chỉ ra rằng nếu không tồn tại
Page 21
giới hạn trong báo cáo kiểm toán và chỉ ra rằng nếu không tồn tại giới hạn này thì rất
có thể phải có những điều chỉnh trên BCTC. Đoạn mô tả đó phải được đặt trước đoạn
nêu ý kiến của KTV.
Ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng không chấp nhận (ý kiến trái ngược)
KTV đưa ra ý kiến nhận xét và báo cáo kiểm toán dạng không chấp nhận trong
trường hợp việc KTV không đồng ý với đơn vị là quan trọng hoặc liên quan đến một
số lượng các khoản mục khiến KTV không thể đưa ý kiến dạng “ngoại trừ”. KTV có
thể không đồng ý với các nhà quản lý đơn vị về:
- Việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực, chế độ kế toán.
- Sự thể hiện trung thực và hợp lý của các thông tin trong thuyết minh BCTC
- Việc tuân thủ các quy định, hoặc luật lệ hiện hành.
KTV phải mô tả đầy đủ và rõ ràng những điểm không đồng ý với đơn vị và
định lượng (nếu được) những ảnh hưởng tới BCTC của những sự kiện đó. Đoạn mô tả
đó phải được đặt trước đoạn nêu ý kiến của KTV. Trong trường hợp này KTV không
được đưa ra ý kiến nhận xét dạng từ chối để né tránh việc đưa ra ý kiến dạng không
chấp nhận.
Trong trường hợp cần thiết, KTV có thể nêu dẫn chứng về những điểm không
đồng ý với đơn vị trong phần phụ lục đính kèm báo cáo kiểm toán.
Theo Nguyễn Viết Lợi và Đặng Ngọc Châu (2013) Giáo trình Lý thuyết Kiểm
toán, NXB Tài chính, Hà Nội.
2.1.3 Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận
Mục đích của kiểm toán là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo
cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài
chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và
trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không. Để kiểm toán viên có cơ sở để
đưa ra ý kiến kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán quốc tế yêu cầu kiểm toán viên đạt
được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể,
có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn hay không. Sự đảm bảo hợp lý
là sự đảm bảo ở mức độ cao và chỉ đạt được khi kiểm toán viên đã thu thập được đầy
đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán (là rủi ro do kiểm
toán viên đưa ra ý kiến không phù hợp khi báo cáo tài chính còn chứa đựng sai sót
trọng yếu) tới một mức độ thấp có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, sự đảm bảo hợp lý
không phải là đảm bảo tuyệt đối, do luôn tồn tại những hạn chế vốn có của cuộc kiểm
toán làm cho hầu hết bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên dựa vào để đưa ra kết
luận và ý kiến kiểm toán đều mang tính thuyết phục hơn là khẳng định.
Page 22
Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên khi thực hiện một cuộc kiểm toán báo cáo
tài chính đó là được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu báo cáo tài chính, xét trên phương
diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó
giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các
khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính
được áp dụng hay không. (Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 200)
Trong khi đó theo cơ sở lý thuyết bên trên về điều chỉnh lợi nhuận thì đây là
những hành vi có thể gây ra ảnh hưởng cho việc đảm bảo hợp lý cho các thông tin trên
BCTC tức là những thông tin này được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không. Khi đó ý
kiến của kiểm toán viên đối với những khoản điều chỉnh này có thể là chấp nhận toàn
phần, chấp nhận từng phần, không đưa ra ý kiến hay trái ngược còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác. Do vậy việc xem xét mối quan hệ này cần được đặt trong mô hình
mà ý kiến kiểm toán sẽ được tác động bởi nhiều giá trị khác nhau không chỉ điều
chỉnh lợi nhuận mà còn những thông tin khác có thể liên quan.
Trên thế giới mối liên quan giữa ý kiến kiểm toán viên và hành vi điều chỉnh
lợi nhuận luôn nhận được quan tâm qua các bài nghiên cứu. Ở những bài nghiên cứu
của Beckt và cộng sự, 1998; Francis, Maydew & Sparks 1999; Francis & Krishnan,
1999; Chang, 2001; Vander Bauwhede và cộng sự, 2003 cho rằng khi công ty thực
hiện điều chỉnh lợi nhuận thì công ty có khuynh hướng nhận ý kiến kiểm toán không
chấp nhận toàn phần. Những bài nghiên cứu này cũng đưa ra những mô hình mà trong
đó ý kiến kiểm toán được tác động bởi các trước hết là hành vi điều chỉnh lợi nhuận
theo đó là các tỷ số tài chính, tình hình hoạt động của công ty.
Nhóm nghiên cứu sử dụng các biến độc lập được phát hiện bởi các nghiên cứu
trước đó mà dường như chúng có tác động tới quyết định của ý kiến kiểm toán.
Những biến này miêu tả cả những nhân tố kiểm toán và cả nhân tố về tình hình tài
chính, ví dụ như khả năng sinh lợi, khả năng thanh khoản, khả năng thanh toán nợ và
rủi ro hoạt động cùng với yếu tố kiểm toán được xuất hiện trong mô hình của chúng
tôi.
Trong bài nghiên cứu Carcello & Neal (2000) cho kết quả rằng chi phí kiểm
toán và loại công ty kiểm toán (Big 5 hoặc non Big 5) không ảnh hưởng tới việc kiểm
toán viên cung cấp ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần. Thay vào đó, khả
năng nhận được ý kiến kiểm toán có mối quan hệ với những nhân tố tài chính ví dụ
như tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và các chỉ số thanh khoản. Mô hình trong nghiên
cứu này dựa trên 90% công ty trong số tổng quan sát.
Jeff P. Boone, Inder K. Khuranab, K.K. Raman (2010) đã tìm thấy bằng chứng
cho rằng khuynh hướng Big 4 có khả năng phát hành ý kiến toán về vấn đề hoạt động
liên tục cao hơn so với non Big -4. Tuy nhiên mức độ sử dụng điều chỉnh lợi nhuận tại
Page 23
các công ty khách hàng này là giống nhau đối với cả hai. Trên phương diện đối với
nhà đầu tư, những nhà nghiên cứu này tìm ra rằng những khách hàng của các công ty
Big 4 thì sự kỳ vọng, phần bù rủi ro cổ phần của họ thấp hơn những công ty được big
4 kiểm toán.
Ngoài những nghiên cứu trên chúng tôi còn dựa vào những bài nghiên cứu sau
để đưa ra những nhân tố này Choi, Doogar, & Ganguly,2004; Craswell, Stokes, &
Laughton, 2002; DeFond et al., 2002; DeFond, Wong, & Li, 2000; Ettredge et al.,
2011; Francis & Yu, 2009; Gaeremynck, Van Der Meulen, & Willekens, 2008; Geiger
& Rama, 2006; Kothari, Leone, & Wasley, 2005; 1997; Reichelt & Wang, 2010.
Charalambos T. Spathis (2003) đã xem xét những thông tin tài chính và phi tài
chính có thể sử dụng để nâng cao khả năng lựa chọn báo cáo kiểm toán không chấp
nhận hay chấp nhận toàn phần. Họ đi vào kiểm tra những báo cáo kiểm toán, ý kiến
của kiểm toán viên và cả lưu ý trên báo cáo tài chính với những công ty nhận được ý
kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và cả những công ty nhận ý kiến chấp
nhận toàn phần. Quyết định đến báo cáo kiểm toán có liên quan tới thông tin tài chính
như suy giảm tài chính hay thông tin phi tài chính như thông tin kiện tụng của công ty.
Mô hình này phát triển với độ chính xác 78%.
Và cụ thể những nhân tố có thể ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không chấp
nhận toàn phần mà nhóm nghiên cứu đã tổng hợp được gồm có khoản dồn tích có thể
điều chỉnh, loại công ty kiểm toán công ty khách hàng, hệ số lợi nhuận trên tổng tài
sản, doanh thu trên tổng tài sản, tổng hàng tồn kho và khoản phải thu trên tổng tài sản,
tổng nợ trên vốn chủ sở hữu, liệu năm trước có tồn tại khoản lỗ hay nhận được ý kiến
kiểm toán không chấp nhận toàn phần hay không và cuối cùng là số ngày giữa ngày
kết thúc năm tài chính và ngày công bố báo cáo tài chính kiểm toán.
Nhóm nghiên cứu lấy vấn đề về trích lập dự phòng là vấn đề liên quan tới việc
phân chia ý kiến kiểm toán trong mô hình nghiên cứu. Chuẩn mực kế toán quốc tế
(IAS 37) định nghĩa một khoản dự phòng là một khoản nợ phải trả có giá trị và thời
gian không chắc chắn trong đó một khoản nợ phảI trả là một nghĩa vụ hiện tại của
doanh nghiệp phát sinh từ những sự kiện trong quá khứ, viêc thanh toán các nghĩa vụ
này được dự tính là sẽ làm giảm các nguồn lợi kinh tế cử doanh nghiệp gắn liền với
các lợi ích kinh tế. Dự phòng mang tính tương đối vì nó được lập dựa trên các ước
tính kế toán. Cụ thể dự phòng phải thu khó đòi là dự phòng phần giả trị tổn thất của
các khoản nợ phải thu, có thể không đòi được do đơn vị hoặc người nợ không co khả
năng thanh toán trong năm kế hoạch. Mục đích của việc lập dự phòng phải thu khó đòi
là để đề phòng nợ phải thu thất thu khi khách hàng không co khả năng trả nợ và xác
định giả trị thực của khoản tiền phải thu tồn trong thanh toán khi lập các báo cáo tài
chính.
Page 24
Trong khi đó dự phòng giảm giá hàng tồn kho là dự phòng phần gía trị bị tổn
thất do giảm giá vật tư, thành phẩm, hàng hoá tồn kho có thể xây ra trong năm kế
hoạch. Mục đích của nó là để đề phòng hàng tồn kho giảm giá so với giá gốc trên sổ
đặc biệt khi chuyển nhượng, cho vay, xử ly, thanh lý đồng thời để xác định giá trị thực
tế của hàng tồn kho trên hệ thống báo cáo kế toán. Ngoài ra, trường hợp nguyên vật
liệu và cộng cụ dụng cụ dùng cho mục đích sản xuất sản phẩm có giá trị bị giảm
nhưng giá bán sản phẩm dịch vụ được sản xuất từ nó không bị giảm giá thì không
được trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Đặt ra giả thuyết cho rằng dự phòng là một công cụ để điều chỉnh lợi nhuận.
Trích lập dự phòng không xảy ra giao dịch thực nhưng chúng được xem như là sự
điều chỉnh với mục đích quản trị. Những điều chỉnh này dựa vào hệ thống đo lường và
cách xác định thu nhập, những con số có thể được chọn và thay đổi. Thêm vào đó
những đánh giá này là cần thiết để tạo ra kết quả. Điều hiển nhiên rằng một công ty có
nhiều tự do đối với trích lập dự phòng này hơn là trong những giao dịch thực, bởi
những nghiệp vụ trích lập liên quan bởi nhiều nguyên nhân chủ quan hơn là khách
quan (Nadine Lybaert, Mieke Jans *, Raf Orens,2005). Bài nghiên cứu của Maureen
McNichols and G. Peter Wilson 2014 cho thấy với những công ty không thường
xuyên có lợi nhuận thấp sẽ có xu hướg điều chỉnh làm giảm thu nhập, những khoản
dồn tích có thể điều chỉnh không liên quan với “giả thuyết thổi phồng” lợi nhuận.
Bên cạnh đó Theo số liệu thống kê của Vietstock, trong hơn 96% doanh nghiệp
niêm yết đã ra BCTC bán niên soát xét 2014 (tính đến ngày 08/09 và không tính đến
doanh nghiệp bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng) có khoảng 60% đơn vị phải điều
chỉnh khoản mục lợi nhuận sau thuế so với trước soát xét. Trong đó phải kể đến các
doanh nghiệp phải điều chỉnh mà nguyên nhân chủ yếu là không trích lập đầy đủ các
khoản dự phòng. Khi trích lập dự phòng, đôi khi phải đòi hỏi người lập báo cáo phải
sử dụng các “xét đoán nghề nghiệp”, vì thế mà mang nặng tính chủ quan, khó có thể
đánh giá tính hợp lý của khoản mục này trên BCTC. Do đó mà, trong các bản báo cáo
kiểm toán, ý kiến ngoại trừ về việc doanh nghiệp không trích lập dự phòng đầy đủ là
tương đối phổ biến. Theo đó nhiều công ty không trích lập dự phòng để thấy các
khoản lãi lớn vẫn nằm trên báo cáo, nhưng nếu trích lập đúng thì chẳng những không
có lãi mà còn có thể lỗ. Theo số liệu thu thập từ nhóm nghiên cứu, trong năm 2014,
trong số các BCTC không được nhận ý kiến chấp nhận toàn phần từ kiểm toán viên
của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, chiếm trên 45,6 %
(42/92) nhận ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần liên quan đến trích lập dự
phòng
Bài nghiên cứu sử dụng số liệu từ các báo cáo kiểm toán với ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần và để đánh giá mối liên quan giữa hệ giữa ý kiến kiểm
toán và điều chỉnh lợi nhuận trên phạm vi các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán
Việt Nam.
Page 25
2.2 Tổng quan nghiên cứu
Có hai luồng kết quả nghiên cứu đó là tồn tại và không tồn tại mối quan hệ
giữa ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Dựa vào tổng quan tài liệu, kết
quả nghiên cứu về mối quan hệ này có thể thay đổi theo phạm vi và đặc điểm môi
trường của từng bài nghiên cứu khác nhau.
Bài nghiên cứu của Sompong Pornupatham (2006) xem xét liệu kiểm toán viên
có phản ánh điều chỉnh lợi nhuận hay không. Mẫu nghiên cứu được chọn lọc từ những
công ty niêm yết tại Thái Lan từ 1999 tới 2004 và những kiểm định này được thực
hiện trong mỗi loại ý kiến kiểm toán thông qua sự so sánh giữa giá trị trung bình và
trung vị của khoản dồn tích có thể điều chỉnh được- một cách đo lường cho hành vi
điều chỉnh lợi nhuận. Sự phân tích của ý kiến kiểm toán và các khoản dồn tích có thể
điều chỉnh cũng như sự phân chia bằng quy mô của công ty kiểm toán cho thấy rằng
những công ty có kiểm toán viên big 4 đưa ra hai loại ý kiến, không chấp nhận toàn
phần và chấp nhận toàn phần cùng điểm cần lưu ý, thể hiện mức độ sử dụng dồn tích
có thể điều chỉnh thấp hơn hơn với những công ty được kiểm toán không thuộc big 4.
Kết quả này chứng tỏ rằng những kiểm toán viên Big 4 dường như tốt hơn các kiểm
toán viên không thuộc Big 4 trong việc phát hiện điều chỉnh lợi nhuận và chất lượng
của họ được thể hiện thông qua ý kiến kiểm toán. Tuy nhiên, phát hiện này không có
nghĩa rằng kiểm toán viên sử dụng ý kiến của họ để cảnh báo cho người sử dụng
BCTC về điều chỉnh lợi nhuận, bởi họ thể hiện ý kiến của họ dựa trên nhiều nhân tố,
như khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, sự giới hạn phạm vi kiểm toán hơn
là mỗi việc sử dụng các khoản dồn tích có thể điều chỉnh. Bài nghiên cứu này dường
như vẫn tồn tại hai giới hạn lớn. Đầu tiên, kết quả kiểm định dựa trên những số liệu
phân tích thứ cấp đã sử dụng mô hình các khoản dồn tích có thể điều chỉnh nên được
xử lý thận trọng bởi mô hình đo lường các khoản dồn tích này chỉ mang tính đo lường
tương đối trong việc phát hiện điều chỉnh lợi nhuận. Những phát hiện trong bài này
không có nghĩa những công ty được tính toán đã thật sự điều chỉnh lợi nhuận của họ.
Một điều đáng lưu ý rằng mô hình điều chỉnh lợi nhuận có thể tồn tại những sai sót đo
lường. Thứ hai, sự chuyên biệt của một số công ty điển hình và không niêm yết có thể
khiến những phát hiện trong nghiên cứu này giảm đi tính đại diện về ngành kiểm toán
tại Thái Lan, bởi sự thiếu sót một cái nhìn tổng quát về điều chỉnh lợi nhuận trong
phạm vi Thái Lan.
Arnedo Ajona cùng cộng sự (2008) cũng nghiên cứu về mối quan hệ này đối
với những công ty có mức độ rủi ro cao, đặc biệt là các công ty sắp phá sản tại thị
trường Tây Ban Nha. Trong các trường hợp này, những kiểm toán viên của Big N tìm
thấy mức độ sử dụng dồn tích có thể điều chỉnh thấp hơn thì có khuynh hướng phát
hành ý kiến kiểm toán liên quan tới vấn đề hoạt động liên tục lớn hơn. Đối lập với
nước Mỹ, ngoài ý kiến về vấn đề hoạt động liên tục, báo cáo kiểm toán tại Tây Ban
Nha thường bao gồm ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần (modified
Page 26
opinion). Điều này cho phép họ nghiên cứu kĩ càng và chi tiết về mối quan hệ này hơn
so với dữ liệu của nước Mỹ. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy điều chỉnh lợi
nhuận có mối quan hệ ngược chiều với vấn đề hoạt động liên tục nhưng có mối quan
hệ cùng chiều với việc phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do
khác hơn là vấn đề hoạt động liên tục. Mối quan hệ ngược chiều này được giải thích
bởi sự thận trọng của kiểm toán viên. Trong những trường hợp vi phạm GAAP, sự tác
động của những điều chỉnh qua các năm tới thu nhập rõ ràng và liên quan chặt chẽ
hơn là những điều chỉnh mới được vận dụng vào năm trước. Kết quả của họ cho rằng
nhận diện của các Big N trong một nước mà áp dụng luật pháp theo văn bản là cụ thể
cho từng trường hợp và dựa vào tham số rủi ro kinh doanh của mô hình rủi ro kiểm
toán.
Bài nghiên cứu của Andra Gajevszky (2014) cho thấy khi công ty thực hiện
điều chỉnh lợi nhuận và được kiểm toán bởi Big 4 và các chuyên gia trong kiểm toán
khác có xu hướng nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần. Bài nghiên cứu còn
tồn tại một số hạn chế. Hạn chế đầu tiên là về số lượng của bài khá nhỏ, chỉ có 60
công ty được điều tra. Tuy nhiên những mẫu này lại khá đồng đều (những nhân tố hạn
chế đã được xây dựng trong quá trình chọn lựa mẫu do đó những mẫu này sẽ không
tồn tại các thành phần hỗn tạp). Thứ hai là con số của các công ty thể hiện ý kiến kiểm
toán không chấp nhận toàn phần là khá nhỏ, chỉ có 21 công ty (35%) trong số các
công ty được điều tra. Về phương diện này, kết quả có thể không mang tính đại diện.
Hơn nữa, vì số lượng hạn chế các ý kiến không chấp nhận toàn phần mà sự khác biệt
giữa các loại ý kiến kiểm toán từng phần đã không được xuất hiện trong bài.
Đối lập với những kết quả trên Bradshaw, Richardson, và Sloan (2001) không
tìm thấy bằng chứng giữa khả năng nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn
phần cao hơn cho những công ty có các khoản dồn tích đáng kể. Họ kết luận rằng
kiểm toán viên không thể cảnh báo cho các nhà đầu tư về nguy cơ lợi nhuận có thể
giảm trong tương lai và việc vi phạm GAAP liên quan tới giá trị các khoản dồn tích
trong một thời điểm xác định. Điều cốt yếu là những vấn đề lợi nhuận thường nằm
ngoài khả năng của kiểm toán viên. Hay nói cách khác, kiểm toán viên có thể hiểu
được rằng các khoản dồn tích tăng lên thường tạo ra sự liên quan chặt chẽ hơn về việc
lợi nhuận tương lai bị giảm và vi phạm GAAP. Nhưng họ không bắt buộc phải cung
cấp những thông tin này cho các nhà đầu tư thông qua ý kiểm toán của họ. Butler,
Leone và Willenborg (2004) ủng hộ quan điểm này và kết luận rằng kiểm toán viên
dường như không phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do
điều chỉnh lợi nhuận.
Theo Shireenjit Johl, Christine A. Jubb, Keith Houghton (2007) đã mở rộng
những nghiên cứu tại thời điểm đó về sự khác biệt của những ý kiến kiểm toán và đặc
biệt là tác động của nó tới việc thể hiện sự thiếu sót giữa ý kiến kiểm toán đối với sự
hiện hữu của điều chỉnh lợi nhuận. Bài nghiên cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng
Page 27
về sự khác biệt trong chất lượng cuả những chuyên gia hàng đầu Big 5 trong một nền
kinh tế đầy rủi ro, Malaysia được biết đến với sự thiếu minh bạch và có cơ cấu nhà
nước yếu hơn các nền kinh tế khác như Mỹ, châu Âu hay Úc. Các kiểm toán viên
thuộc Big 5 ở Malaysia đưa ra ý kiến không chấp nhận toàn phần nhiều hơn các công
ty kiểm toán không thuộc Big 5, trong khi sự tồn tại cuả các khoản dồn tích bất
thường ngày càng cao. Tuy nhiên mối quan hệ giữa sự chuyên nghiệp ngành kiểm
toán và dồn tích bất thường là không đáng kể trong việc dự đoán các khả năng của ý
kiến kiểm toán. Tuy nhiên hạn chế của bài báo này đã được chỉ ra rằng kích cỡ mẫu
không đầy đủ cho việc đánh giá bởi mỗi loại ý kiến kiểm toán không có số lượng đủ
lớn. Cùng với đó với những mẫu phù hợp, mặc dù xây dựng sự tính toán cẩn trọng về
khoản dồn tích có thể điều chỉnh, chúng vẫn có thể nhỏ hơn số lượng trung bình bởi
quy mô của các tổ chức kiểm toán không thuộc Big so với các công ty thuộc Big là
nhỏ hơn.
Theo bài nghiên cứu Kathleen Herbohn, Vanitha Ragunathan (2008) sử dụng s
liệu của tất cả các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Australia từ 1999-2003, cho
rằng điều chỉnh lợi nhuận không phải là nguyên nhân của ý kiểm kiểm toán không
chấp nhận toàn phần. Bài nghiên cứu cho rằng các công ty có ý kiến kiểm toán liên
quan tới vấn đề không đủ bằng chứng có liên quan chặt chẽ hơn tới tỷ lệ điều chỉnh lợi
nhuận hơn với những công ty còn lại. Đứng trên góc độ khác của bài nghiên cứu một
sự giải thích khác cho rằng nhà quản trị điều chỉnh các khoản dồn tích tới báo cáo lợi
nhuận giúp dự đoán về khả năng kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp, điều
này sẽ xảy ra tác dụng phụ là việc xảy ra tranh cãi với kiểm toán viên của họ.
Cho đến thời gian gần đây vấn đề điều chỉnh lợi nhuận lại được quan tâm trở
lại khi có rất nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới. Trong nghiên cứu của
Tsipouridoua và Charalambos Spathis (2014) đã đưa ra kết luận ý kiến kiểm toán phụ
thuộc vào khả năng hoạt động liên tục chứ không phụ thuộc vào điều chỉnh lợi nhuận.
Đáng chú ý bối cảnh mà bài nghiên cứu thực hiện là khi Hy Lạp khắc phục hậu quả
khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ 2009 khiến tỷ lệ thất nghiêp, phá sản và lạm phát ở
mức cao theo đó số lượng công ty phá sản gia tăng. Chính vì thế bài nghiên cứu này
đã cho khả năng hoạt động liên tục là nhân tố để xây dựng giả thuyết để so sánh với
khả năng điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp. Theo đó cả ý kiến kiểm toán và
quy mô của tổ chức đều liên quan ngược chiều tới giá trị các khoản dồn tích có thể
điều chỉnh của các công ty niêm yết trên sàn.
Toto Rusmanto, Ari Barkah Djamil, Yashinta Salim (2014) đã có bài nghiên
cứu về mối quan hệ ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận. Với mục tiêu đầu tiên,
tác giả tìm thấy câu trả lời đáng ngạc nhiên bởi chỉ có 4.76% (37 công ty trong tổng số
672 mẫu) nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần từ phía kiểm toán viên. Và
trong đó chỉ có 0,24% tức 9 công ty nhận được ý kiến này bởi công ty kiểm toán thuộc
Big 4 khi mà phần còn lại 28 công ty được kiểm toán bởi các công ty không thuộc Big
Page 28
4. Điều này cho thấy tại Indonesia không có nhiều kiểm toán viên cả các công ty thuộc
Big-4 và không thuộc Big-4 phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần
cho khách hàng. Vấn đề thứ 2, tác giả không tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa
điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong bối cảnh
của Indonesia. Ý kiến này là minh chứng mạnh mẽ cho một ví dụ thực tế về Lehman
Brothers, WorldCom và những trường hợp khác mà điều chỉnh lợi nhuận có quan hệ
trái ngược với ý kiến kiểm toán không chấp nhận to phần. Vì vậy câu trả lời cho
nghiên cứu là liệu sự tồn tại của điều chỉnh lợi nhuận tác động tới khả năng phát hành
ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần là sự hiện diện của điều chỉnh lợi nhuận
không nhất thiết phải tác động tới ý kiến kiểm toán ở Indonesia. Tuy nhiên kết quả
cho cả 2 giả thuyết là không mang tính đại diện bởi số lượng bằng chứng khá thấp với
chỉ 4,76% công ty với ý kiến không chấp nhận toàn phần trên tổng số 672 công ty qua
các năm từ 2008-2010. Do đó mà không thể biết được liệu phần còn lại 95,24% (100-
4,76%) có thực sự xứng đáng là một báo cáo kiểm toán trong sạch hoặc liệu các kiểm
toán viên có bị sai sót trong việc nhận diện ra quản trị lợi nhuận hay không.
Bài nghiên cứu của Akhgar M. Omid (2015) nghiên cứu mối quan hệ giữa ý
kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và điều chỉnh lợi nhuận được đo lường bởi
các khoản điều chỉnh được. Bài nghiên cứu về quản trị lợi nhuận kế toán và chi phí
sản xuất bất bình thường cho những công ty đang niêm yết trên sàn. Vì lý do này bốn
giả thiết được phát triển và kiểm tra bởi phương pháp hồi quy đa tuyến cho 2818 công
ty qua các năm (2003-2013). Kết quả cho thấy không có mối quan hệ có ý nghĩa giữa
chi phí sản xuất bất thường và ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong tất
cả các giả thuyết. Vì vậy chi phí sản xuất bất thường không giải thích việc phát hành ý
kiến kiểm toán không toàn phần vì lý do sai sót trọng yếu hay không có khả năng tiếp
cận tài liệu kiểm toán thích hợp. Đặc điểm tài chính của khách hàng, như khả năng
sinh lời và quy mô hoạt động là những nhân tố ảnh hưởng đến ý kiến kiểm toán khi
đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của công ty.
Bảng 2.1. Tóm tắt tổng quan các công trình nghiên cứu
Tên đề tài Tác giả Kết luận chính Hạn chế nghiên cứu
Qualified audit opinion, accounting earnings
management and real earnings management:
evidence from Iran (2015)
Akhgar M.
Omid
Kết quả cho thấy ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần liên quan tới
điều chỉnh lợi nhuận bằng các ước tính
kế toán nhưng không liên quan tới điều
chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực.
Đặc điểm tài chính của khách hàng: khả
năng sinh lợi, quy mô, lịch sử, ý kiến
kiểm toán và tình hình kinh doanh năm
trước ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần.
Bài chỉ sử dụng ý kiến kiểm toán chấp
nhận từng phần chưa mở rộng để xét cho
tất cả các loại ý kiến kiểm toán còn lại.
Audit opinion and earnings management
Evidence from Greece (2014)
Maria
Tsipouridou
và
Charalambos
Spathis
Ý kiến kiểm toán phụ thuộc vào hoạt
động liên tục nhưng không phụ thuộc
vào hành vi điều chỉnh lợi nhuận
Những biến số được sử dụng trong bài
nghiên cứu tính dựa trên báo cáo kiểm toán
và các điều chỉnh lợi nhuận. Những biến số
này không hoàn hảo vì chúng đã được
chỉnh sửa trong việc sử dụng thông tin đã
được công bố rộng rãi, thay vì được sử
dụng thông tin riêng tư giữa các kiểm toán
viên độc lập và các nhà quản trị.
Page 30
The impact of auditor’s opinion on earnings
management: Evidence from Romania (2014)
Andra
Gajevszky
Việc phát hành ý kiến kiểm toán không
chấp nhận toàn phần và sự hiện diện của
Big 4 liên quan tới việc thực hiện điều
chỉnh lợi nhuận của công ty giảm đi.
Theo đó cả ý kiến kiểm toán và quy mô
kiểm toán có tác động ngược chiều tới
các khoản dồn tích có thể điều chỉnh
được.
Cỡ mẫu của mô hình khá nhỏ, chỉ 60 công
ty trên sàn được khảo sát trong đó chỉ có
35% (21 công ty) có ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần.
Bên cạnh đó vì số lượng hạn chế nên các ý
kiến kiểm toán chưa được phân chia riêng
biệt.
The effect of earnings management to
issuance of the audit qualification: Evidence
from Indonesia (2014)
Toto
Rusmanto,
Ari Barkah
Djamil,
Yashinta
Salim
Biến dồn tích bất thường có mối quan
hệ ngược chiều với ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần.
Bên cạnh đó, tồn tại mối quan hệ thuận
chiều giữa biến dồn tích bất thường và
công ty kiểm toán Big4 và ý kiến kiểm
toán không chấp nhận toàn phần (khi
công ty thực hiện điều chỉnh lợi nhuận
và được kiểm toán bởi Big 4 thì khả
năng nhận được ý kiến không chấp nhận
toàn phần từ kiểm toán viên cao hơn).
Tuy nhiên kết quả cho cả 2 giả thuyết là
không đáng kể bởi số lượng bằng chứng
khá thấp chỉ 4,76% trong tổng số 672 công
ty nhận ý kiến không chấp nhận toàn phần
qua các năm từ 2008-2010. Liệu phần còn
lại 95,24% các bản BCTC có thực sự là
trung thực và hợp lý hay các kiểm toán
viên có bị sai sót trong việc nhận diện hành
vi điều chỉnh lợi nhuận hay không.
Discretionary accruals and auditor behaviour
in code-law contexts: An application to
failing Spanish firms (2008)
Arnedo
Ajona cùng
cộng sự
Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy
điều chỉnh lợi nhuận có mối quan hệ
ngược chiều với vấn đề hoạt động liên
tục nhưng có mối quan hệ cùng chiều
với việc phát hành ý kiến kiểm toán
Thiếu những số liệu quan sát của những
năm sớm nhất khi Tây ban Nha trải qua
cuộc khủng hoảng lớn nhất. Đó là một
trong những số liệu quan trọng do số lượng
công ty phá sản trong thời kỳ đó rất cao.
Page 31
không chấp nhận toàn phần vì lý do
khác hơn là vấn đề hoạt động liên tục
Một giới hạn khác của bài nghiên cứu là
cách tác giả kết hợp các biến GV/SL/UN
vào một nhóm mà không tính đến ảnh
hưởng riêng biệt của nó tới thu nhập hoặc
các con số khác.
Auditor reporting and earnings management:
some additional evidence (2007)
Kathleen
Herbohn,
Vanitha
Ragunathan
Mối quan hệ ngược chiều giữa các
khoản dồn tích và ý kiến kiểm toán về
vấn đề hoạt động liên tục. Bên cạnh bài
nghiên cứu cho thấy mối quan hệ ngược
chiều này chịu tác động bởi tình hình
hoạt động của công ty và rủi ro ra toà có
ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán về vấn
đề hoạt động liên tục.
Họ cho rằng các công ty có ý kiến kiểm
toán không có đủ bằng chứng có liên quan
tới tỷ lệ điều chỉnh lợi nhuận cuả công ty.
Earnings Management and the Audit Opinion:
Evidence from Malaysia (2007)
Shireenjit
Johl
Christine A.
Jubb
Keith
Houghton
Mức độ dồn tích bất thường cao có mối
quan hệ với ý kiến kiểm toán không
chấp nhận toàn phần.
Kích cỡ mẫu không đầy đủ cho việc đánh
giá bởi mỗi loại ý kiến kiểm toán không có
số lượng đủ lớn.
Thứ 2, với những mẫu phù hợp, mặc dù
xây dựng sự tính toán cẩn trọng về khoản
dồn tích có thể điều chỉnh, chúng vẫn có
thể nhỏ hơn số lượng trung bình bởi quy
mô của các công ty kiểm toán không thuộc
Big so với các công ty kiểm toán thuộc Big
là nhỏ hơn.
2.3 Tóm tắt chương 2
Vì hạn chế trong thu thập số liệu và đặc điểm trong môi trường kinh tế ở Việt
Nam nên nhóm nghiên cứu chọn phương pháp của hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong
nghiên cứu là bằng các ước tính kế toán (accrual-based earnings management).
Theo những phân tích của nhóm và tình hình tại Việt Nam, nhóm quyết định
dùng thuật ngữ earning management với nghĩa điều chỉnh lợi nhuận. Do cỡ mẫu lớn,
không thuộc một ngành cụ thể và không thể xác định được khoảng dồn tích trung bình
ở Việt Nam nên nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận thứ nhất: điều chỉnh
lợi nhuận được đo lường theo cách tiếp cận đo lường biến dồn tích không thể điều
chỉnh được (non discretionary accruals) dựa vào mối quan hệ giữa tổng dồn tích và
giả thuyết giải thích các yếu tố. Mô hình sử dụng cách tiếp cận được gọi là mô hình
tổng dồn tích, ví dụ như mô hình của Healy (1985) và Jones (1991); Dechow (1995);
Deangelo (1986).
Theo cách phân chia của chuẩn mực kiểm toán quốc tế ý kiến kiểm toán gồm
có hai loại ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần và không chấp nhận toàn phần nhóm
nghiên cứu chỉ kiểm tra các báo cáo tài chính của các công ty nhận được ý kiến kiểm
toán không chấp nhận toàn phần
Nhóm đã tổng hợp và đưa ra nhận xét rằng mối liên quan giữa ý kiến kiểm toán
viên và hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhận được quan tâm trong thời gian dài qua các
bài nghiên cứu trên nhiều nước. Ở những bài nghiên cứu của Beckt và cộng sự, 1998;
Francis, Maydew & Sparks 1999; Francis & Krishnan, 1999; Chang, 2001; Vander
Bauwhede và cộng sự, 2003 cho rằng khi công ty thực hiện điều chỉnh lợi nhuận thì
công ty có khuynh hướng nhận ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần. Những
bài nghiên cứu này cũng đưa ra những mô hình mà trong đó ý kiến kiểm toán được tác
động bởi các trước hết là hành vi điều chỉnh lợi nhuận theo đó là các tỷ số tài chính,
tình hình hoạt động của công ty.
Nhóm nghiên cứu lấy vấn đề về trích lập dự phòng là vấn đề liên quan tới việc
phân chia ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong mô hình nghiên cứu. Đặt
ra giả thuyết cho rằng dự phòng là một công cụ để điều chỉnh lợi nhuận. Trích lập dự
phòng không xảy ra giao dịch thực nhưng chúng được xem như là sự điều chỉnh với
mục đích quản trị. Từ đây nhóm phân chia ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn
phần làm hai loại không chấp nhận vì lý do trích lập dự phòng và không chấp nhận vì
lý do khác.
Page 33
CHƯƠNG III:
XÁC ĐỊNH GIẢ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Xây dựng giả thiết nghiên cứu
Nghiên cứu của Tsipouridou và Spathis (2014) kiểm tra mối quan hệ giữa ý
kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận được đo lường bởi biến kế toán dồn tích có thể
điều chỉnh. Mẫu số liệu được lấy từ danh sách các công ty niêm yết trên sàn chứng
khoán Athens (ASE). Họ chia ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần thành 2
loại: không chấp nhận vì có vấn đề trọng yếu trong hoạt động liên tục, và không chấp
nhận vì các lý do khác. Kết quả của bài nghiên cứu đưa ra là ý kiến kiểm toán không
liên quan đến điều chỉnh lợi nhuận.
Nghiên cứu Toto Rusmanto, Ari Barkah Djamil, Yashinta Salim tìm câu trả lời
cho câu hỏi liệu rằng sự hiện diện của điều chỉnh lợi nhuận có tác động đến mức độ ý
kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần hay chấp nhận từng phần được phát hành.
Nghiên cứu này đã tìm ra rằng, một công ty có hành vi điều chỉnh lợi nhuận không có
nghĩa là công ty đó sẽ nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần từ kiểm toán viên.
Một nghiên cứu tại Iran (Akhgar M. Omid) kiểm tra mối liên hệ giữa ý kiến
không chấp nhận toàn phần và điều chỉnh lợi nhuận được đo lường bởi biến kế toán
dồn tích (điều chỉnh lợi nhuận bằng ước tính kế toán) và chi phí sản xuất bất thường
(điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao dịch thực). Mẫu số liệu được lấy trong danh sách
các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Tehran (TSE). Trong nghiên cứu này, tác
giả chia ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần thành 2 loại: không chấp nhận
toàn phần vì sai sót trọng yếu, không chấp nhận toàn phần vì không thể thu thập đủ
bằng chứng kiểm toán. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, có mối liên hệ giữa ý kiến
kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận bằng các chính sách và ước tính kế toán nhưng
không có mối liên hệ giữa ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận bằng các giao
dịch thực.
Có khá nhiều cách khác nhau để xây dựng giả thiết cho mô hình nghiên cứu
mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn
phần. Trong bài nghiên cứu của nhóm, ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần
được chia thành hai loại là ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì vấn đề dự
phòng và ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do khác. Chính vì vậy,
nhóm nghiên cứu đặt ra giả thuyết sau:
GT 1: Điều chỉnh lợi nhuận có ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không chấp
nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng.
Page 34
GT 1*: Điều chỉnh lợi nhuận không có ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không
chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng
3.2. Chọn mẫu
Tính đến thời điểm thu thập số liệu, các doanh nghiệp niêm yết chưa công bố
BCTC đã kiểm toán năm 2015, trong khi đặc thù của bài nghiên cứu cần có số liệu và
ý kiến của kiểm toán từ các BCTC đã kiểm toán, do vậy mà nhóm nghiên cứu đã sử
dụng số liệu nghiên cứu từ các bản BCTC đã kiểm toán năm 2014. Trong năm 2014,
có 899 DNNY trên HNX và HOSE. Trong đó, 104 DN thuộc ngành vật liệu cơ bản,
370 DN thuộc ngành công nghiệp, 130 DN thuộc ngành hàng tiêu dùng, 23 DN thuộc
ngành y tế, 64 DN thuộc ngành dịch vụ tiêu dùng, 46 DN thuộc ngành các dịch vụ hạ
tầng, 127 DN thuộc ngành tài chính, 29 DN thuộc ngành công nghệ, 5 DN thuộc
ngành dầu khí, và 1 DN thuộc ngành viễn thông.
Trong số tất cả các doanh nghiệp được điều tra, nhóm nghiên cứu đã chọn lọc
ra được 92 doanh nghiệp có ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong BCTC
và trong 92 doanh nghiệp này, đã có 42 doanh nghiệp nhận được ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần liên quan tới khoản trích lập dự phòng: trích lập không
đúng, không đủ hay kiểm toán không thu thập đủ bằng chứng để đưa ra kết luận cho
khoản dự phòng. Bài nghiên cứu của nhóm đã đảm bảo số lượng để mô hình đảm bảo
tin cậy. Bài nghiên cứu của Andra Gajevszky (2014) với số mẫu quan sát là 21 công
ty (35%) trong số các công ty được điều tra có ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn
phần đã không đảm bảo được tính đại diện của mô hình. Hay như bài của Toto
Rusmanto, Ari Barkah Djamil, Yashinta Salim (2014) đã có bài nghiên cứu về mối
quan hệ ý kiến kiểm toán và điều chỉnh lợi nhuận. Với mục tiêu đầu tiên, tác giả tìm
thấy câu trả lời đáng ngạc nhiên bởi chỉ có 4.76% (37 công ty trong tổng số 672 mẫu)
nhận được ý kiến không chấp nhận toàn phần từ phía kiểm toán viên. Mô hình nghiên
cứu cũng đã được thử nghiệm để xem xét tính tin cậy thông qua kiểm định về độ tin
cậy.
3.3 Dữ liệu nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp để chạy và kiểm định mô hình
nghiên cứu. Được chọn lọc từ mẫu nghiên cứu, số liệu thu thập trong bài đều được lấy
ra từ BCTC đã kiểm toán năm 2014 của các công ty trong mẫu nghiên cứu. Từ các số
liệu này chúng tôi đã tính toán các tỷ số và tìm các thông tin xuất hiện trong mô hình
nghiên cứu dưới đây. Các nguồn dữ liệu thứ cấp đều mang tính trung thực cao, được
công bố rộng rãi.
3.4 Mô hình nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu và phương pháp nghiên cứu trên nhóm đã dùng 2 mô
hình nghiên cứu để tìm hiểu đề tài nghiên cứu.
Page 35
Bởi đặc điểm của bài nghiên cứu chỉ sử dụng và phân tích số liệu của năm
2014 nên nhóm nghiên cứu đã sử dụng mô hình Logistics để kiểm định, kiểm tra mối
quan hệ của các biến trong bài.
3.4.1 Mô hình dùng để tính toán biến dồn tích có thể điều chỉnh (Dicretionary
Accruals)
Mặc dù các khoản dồn tích có thể nhận diện được nhưng nó rất khó để tìm ra
nó được điều chỉnh nhiều nhất từ bộ phận nào. Một số khoản dồn tích là cần thiết và
các nhà đầu tư có thể hiểu được, được biết đến là các khoản điều chỉnh không thể điều
chỉnh được, phần dồn tích còn lại không được thể hiện trong điều khoản công ty
nhưng được xử lý trong các khoản mục có thể thay thế được (Charitou et al., 2007).
Chúng tôi đã đánh giá biến dồn tích có thể điều chỉnh ứng dụng bởi mô hình
mở rộng của Jones (1991). Cụ thể hơn mô hình này chính là mô hình phân tích dữ liệu
chéo chỉnh sửa từ mô hình Jones bởi Dechow et al. (1995). Mô hình Dechow phát
triển nhằm tăng sự chính xác của mô hình gốc và đánh giá lại những giả định có thể
khiến việc đo lường biến dồn tích có thể điều chỉnh gặp sai sót. Bởi theo Dechow et
al. (1995) lợi nhuận có thể bị thay đổi qua những khoản lợi nhuận ghi nhận theo ý
muốn vào thời điểm cuối năm trong khi tiền mặt chưa hề được nhận. Tổng dồn tích sẽ
tác động qua khoản phải thu. Theo đó nhóm nghiên cứu này cho rằng khi đánh giá
khoản dồn tích không thể điều chỉnh, chúng ta phải giảm bớt những thay đổi trong
khoản phải thu, được biết đến như những khoản có thể điều chỉnh, từ những thay đổi
trong doanh thu. Dưới đây là mô hình đo lường các khoản dồn tích có thể điều chỉnh
được:
(1)
Trong đó:
- TAit: là tổng giá trị dồn tích của năm 2014. Được tính toán bằng cách lấy
- Ait−1: là tổng giá trị tài sản của năm t
- REV: là thay đổi trong doanh thu của năm t-1 đến năm t
- REC: là thay đổi trong tài khoản phải thu năm t-1 đến năm t
- PPEit: là tổng tài sản cố định
- it: là biến sai sót ngẫu nhiên.
Giá trị của biến dồn tích (DA) chính là khoảng giá trị khác biệt giữa tổng dồn
tích tính toán từ BCTC và giá trị thu được từ mô hình (1) trên. Mức độ sử dụng biến
dồn tích có thể điều chỉnh đều phản ánh cùng chiều hay ngược chiều việc điều chỉnh
lợi nhuận của doanh nghiệp.
Page 36
3.4.2. Mô hình hồi quy tổng thể nhằm đánh giá mối quan hệ giữa điều chỉnh lợi
nhuận và ý kiến kiểm toán
Nhóm nghiên cứu kiểm tra các giả thuyết rằng liệu ý kiến kiểm toán có liên
quan tới điều chỉnh lợi nhuận hay không bằng cách sử dụng mô hình mà ý kiến kiểm
toán (AO) là biến phụ thuộc trong khi biến dồn tích có thể điều chỉnh là biến kiểm
tra. Chúng ta chia ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần làm hai nhóm:
(i) Không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng để kiểm tra cho giả
thuyết thứ 1
(ii) Không chấp nhận toàn phần vì lý do khác để kiểm tra cho giả thuyết thứ 2
Theo phần tổng quan đề tài nghiên cứu, ngoài biến kế toán dồn tích có thể điều
chỉnh, ý kiến kiểm toán còn bị tác động bởi yếu tố khác như đặc điểm tài chính của
khách hàng, chất lượng của báo cáo kiểm toán, … Dựa trên các yếu tố đó, Krishnan
(1994) đã xây dựng và kiểm nghiệm mô hình của ông bằng dữ liệu năm 1986-1987,
sau đó dùng mô hình để dự đoán trên mẫu kiểm tra trong dữ liệu năm 1988. Trong
mô hình của Krishnan, ông sử dụng tỷ số giữa tổng hàng tồn kho và các khoản phải
thu trên tổng tài sản (INVREC) đo lường cơ cấu tài sản của khách hàng dựa trên 2 tài
khoản có rủi ro cao, tỷ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu (TLE) đo lường rủi ro tài
chính tiềm ẩn liên quan đến nghĩa vụ trả nợ, thời gian công ty niêm yết trên sàn
chứng khoán (AGE) đo lường sự trưởng thành của công ty. Hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty cũng ảnh hưởng đển ý kiến kiểm toán (Butler 2004),
được đo lường bởi tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) và thu nhập năm trước của
công ty (LLOSS). Trong bài nghiên cứu Carcello & Neal (2000) cho kết quả rằng chi
phí kiểm toán và loại công ty kiểm toán (BIG) không ảnh hưởng tới việc kiểm toán
viên cung cấp ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần. Thay vào đó, khả năng
nhận được ý kiến kiểm toán có mối quan hệ với những nhân tố tài chính ví dụ như tỷ
lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và các chỉ số thanh khoản. Mô hình của Jeff P.
Boone, Inder K. Khuranab, K.K. Raman (2010) đã tìm kết quả biến loại công ty kiểm
toán (BIG) có tác động tới loại ý kiến kiểm toán mà công ty khách hàng nhận được.
Ngoài ra chúng tôi còn dựa vào những bài nghiên cứu sau để đưa ra các biến
phù hợp với mô hình: Choi, Doogar, và Ganguly,2004; Craswell, Stokes, và
Laughton, 2002; DeFond, Wong, và Li, 2000; Dopuch, Holthausen, và Leftwich,
1987; Ettredge và cộng sự, 2011; Francis, 2004; Francis và Yu, 2009; Gaeremynck,
Van Der Meulen, và Willekens, 2008; Geiger và Rama, 2006; Kothari, Leone, và
Wasley, 2005; Louwers, 1998; Mutchler, 1985; Mutchler và cộng sự, 1997; Reichelt
và Wang, 2010.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng được mô hình nghiên cứu dưới đây để kiểm tra
tác động của các yếu tố lên ý kiến kiểm toán:
Page 37
AOit = βo + β1*DAit + β2*BIGit + β3*ROAit + β4*TURNit + β5*INVRECit +
β6*TLEit + β7*ARLAGit + β8*AGEit + β9*LAOit – 1 + β10*LLOSSit – 1 + εit (2)
Trong đó các chỉ số tính toán từ các công ty niêm yết năm 2014
Biến phụ thuộc AO:
AOit: biến phụ thuộc = ý kiến kiểm toán nhận được biến giả: bằng 1 nếu ý kiến
kiểm toán không toàn phần vì lý do trích lập dự phòng , 0 nếu ngược lại.
Biến độc lập được liệt kê trong bảng sau:
Bảng 3.1: Các biến độc lập của mô hình và cách tính
Biến độc lập Giải thích cách tính
DAit
Biến dồn tích có thể điều chỉnh của mỗi công ty năm 2014. Đây là
biến đo lường sự điều chỉnh lợi nhuận. Biến này đã được tính toán
từ phần mô hình (1)
BIGNit Biến giả nhận giá trị 1nếu đơn vị kiểm toán cho công ty này là
BIG4, bằng 0 nếu không phải.
ROAit Hệ số lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân năm 2014
TURNit Doanh thu trên tổng tài sản bình quân năm 2014
INVRECit Tổng hàng tồn kho và khoản phải thu trên tổng tài sản bình quân
năm 2014
TLEit Tổng nợ trên tổng vốn chủ sở hữu bq năm 2014
ARLAGit Số ngày giữa ngày kết thúc năm tài chính và ngày công bố báo
cáo kiểm toán.
AGEit Số năm công ty bắt đầu giao dịch trên sàn chứng khoán
LAOit−1 Biến giả nhận giá trị 1 nếu ý kiến kiểm toán là không chấp nhận
toàn phần năm 2013, 0 nếu ngược lại.
LLOSSit−1 Biến giả nhận giá trị 1 nếu công ty có khoản lỗ vào năm trước, 0
nếu ngược lại.
Page 38
3.5 Quy trình nghiên cứu
(1) (2) (3)
(4)
(7) (6) (5)
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu
Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu
Đây là bước đầu tiên của nghiên cứu, xác định những vấn đề cơ bản cần giải
đáp từ nghiên cứu. Cụ thể trong bài nghiên cứu này, vấn đề nghiên cứu được xác định
là mối quan hệ của ý kiến kiểm toán và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các bản
BCTC đã được kiểm toán của các DNNY.
Bước 2: Tham khảo các bài nghiên cứu trước
Căn cứ trên vấn đề nghiên cứu được xác định, nhóm nghiên cứu thực hiện khảo
sát các mô hình nghiên cứu trước đây để tìm hiểu rõ vấn đề nghiên cứu. Từ đó xác
định những lỗ hỏng về mặt lý thuyết để hình thành nên giả thiết nghiên cứu, mô hình
nghiên cứu giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Đồng thời, đây là bước nhóm nghiên cứu thực hiện xem xét các khái niệm, lý
thuyết có liên quan đến ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và điều chỉnh lợi
nhuận. Bước này sẽ giúp tác giả định hình các giả thuyết nghiên cứu, các mối quan hệ
giữa các khái niệm cần được kiểm nghiệm lại trong môi trường nghiên cứu cụ thể.
Thiết kế
nghiên
cứu
Xác định vấn đề
nghiên cứu
Đưa ra các giả
thiết nghiên cứu
Tham khảo các
nghiên cứu trước
Thu thập dữ
liệu
Phân tích dữ
liệu
Hoàn thiện báo cáo
đề tài nghiên cứu
Page 39
Bước 3: Thiết lập mô hình nghiên cứu và các giả thiết nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra, căn cứ trên khảo sát các mô hình lý
thuyết trước của các tác giả khác, những lý thuyết có liên quan, nhóm nghiên cứu thực
hiện theo mô hình nghiên cứu được áp dụng trong bài nghiên cứu.
Bước 4: Thiết kế nghiên cứu
Sau khi xác định mô hình nghiên cứu, nghiên cứu được thiết kế phù hợp với
các mục tiêu nghiên cứu đặt ra cho mô hình nghiên cứu bao gồm việc: Thiết lập mô
hình nghiên cứu, xác định tổng thể và mẫu nghiên cứu, cách thức thu thập và phân
tích dữ liệu phù hợp với mục tiêu và loại dữ liệu thu thập được.
Bước 5: Thu thập dữ liệu nghiên cứu
Bước tiếp theo của thiết kế nghiên cứu là thu thập dữ liệu nghiên cứu. Tại bước
này, nhóm tác giả xác định các loại dữ liệu cần thu thập, các phương pháp thu thập dữ
liệu khả thi và đảm bảo tính tin cậy cho dữ liệu phân tích.
Bước 6: Phân tích dữ liệu
Dữ liệu được thu thập sau đó được tính toán, mã hóa và được xử lý trên phần
mềm SPSS 20.0.34. Từ dữ liệu thu thập được sẽ được tiến hành phân tích bằng các kỹ
thuật phân tích thống kê như: thống kê mô tả, phân tích tương quan, phân tích hồi
quy…
Bước 7: Hoàn thiện báo cáo nghiên cứu
Sau khi tiến hành phân tích dữ liệu, nhóm tác giả sẽ đưa ra các kết luận và viết
báo cáo nghiên cứu để trả lời các vấn đề nghiên cứu dặt ra. Ngoài ra cũng xác định
những đóng góp, ý nghĩa, những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương
lai với các nghiên cứu tương tự.
3.6. Kiểm định dữ liệu nghiên cứu
3.6.1 Kiểm định giả thiết
Kiểm định giả thiết về độ phù hợp của mô hình
Để đánh giá độ phù hợp của mô hình xem mô hình đã xây dựng dựa trên dữ
liệu mẫu phù hợp đến mức độ nào với dữ liệu thì ta dùng hệ số xác định R-2
Kiểm định giả thiết về độ phù hợp của mô hình
Để đánh giá độ phù hợp của mô hình xem mô hình đã xây dựng dựa trên dữ
liệu mẫu phù hợp đến mức độ nào với dữ liệu thì ta dùng hệ số xác định R2
Đặt giả thuyết:
H0: R2 =0 không có độ phù hợp của mô hình đã chọn
H1: R2 # 0 có độ phù hợp với mô hình đã chọn
Page 40
3.6.2 Kiểm định về ý nghĩa của các hệ số hồi quy:
Dùng kiểm định t cho hệ số hồi quy mà cần kiểm định.
Đặt giả thuyết:
H0: βk = 0
H1: βk # 0
Dựa vào giá trị p-value và sig. để chấp nhận hay bác bỏ H0.
- (sig.) ≤ α (mức ý nghĩa) → bác bỏ giả thiết H0. Có nghĩa là có mối quan hệ có ý
nghĩa giữa các biến cần kiểm định.
- (sig.) ≥ α (mức ý nghĩa) → chấp nhận giả thiết H0 . Không có mối quan hệ giữa các
biến cần kiểm định.
Page 41
CHƯƠNG IV:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Phân tích thống kê số liệu nghiên cứu
Đối với các dữ liệu thu thập được từ 92 công ty niêm yết nhận được ý kiến
kiểm toán không chấp nhận toàn phần đối với BCTC năm 2014, nhóm nghiên cứu
thực hiện phân tích giá trị thống kê của các biến độc lập trong mô hình bằng phần
mềm SPSS, nhóm nghiên cứu có được kết quả được thể hiện trong bảng 4.1.
Bảng 4.1. Bảng thống kê mô tả giá trị các biến độc lập
Descriptive Statistics
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
DA 92 353772393.78 935240710868.7 93848434907.82 169761344585.01
ROAit 92 -1.00 .20877 -.01638 .14842
TURNit 92 0.00 12.7388 .87912 1.43908
INVRECit 92 0.00 6.00 .5589 .71076
TLEit 92 -59.00 40.00 1.99346 9.33545
ARGALit 92 14.0 265.0 90.891 37.3326
AGEit 92 .50 14.2 5.5 2.85267
Valid N
(listwise)
92
Nguồn: Kết quả từ phần mềm SPSS
Bảng 4.1 thể hiện các giá trị nhỏ nhất (minimum), giá trị lớn nhất (maximum),
giá trị trung bình (mean) và độ lệch chuẩn (Std. Deviation) của các biến độc lập trong
mô hình nghiên cứu.
Như đã được đề cập trong phần xây dựng giả thuyết nghiên cứu, biến phụ
thuộc ý kiến kiểm toán chấp nhận không toàn phần AO được chia thành hai loại: ý
kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do liên quan tới trích lập dự phòng và
ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do liên quan tới vấn đề khác. Một
trong những nguyên nhân mà nhóm nghiên cứu dùng để làm cơ sở để chia ra như vậy
là vì ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần liên quan tới vấn đề trích lập dự
phòng là khá lớn so với tổng thể các lý do khác. Theo thống kê, có 42/92 (chiếm
45.7%) công ty nhận ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần liên quan tới vấn đề
trích lập dự phòng.
Page 42
Hình 4.1. Biểu đồ cơ cấu ý kiến kiểm toán chấp nhận không toàn phần
Cơ cấu ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do liên quan đến
trích lập dự phòng chiếm gần 46% trong tổng số ý kiến kiểm toán không chấp nhận
toàn phần, có thể thể hiện một xu hướng xảy ra sai sót và gian lận trong các khoản
trích lập dự phòng của các công ty niêm yết. Điều này phù hợp với tình trạng các công
ty sử dụng khoản trích lập dự phòng như là một công cụ để đạt được những mục tiêu
lợi nhuận mong muốn (Nadine Lybaert, Mieke Jan, Raf Orens, 2005).
Các công ty có kết quả hoạt động kinh doanh năm trước bị thua lỗ có xu hướng
nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong năm nay, được thể hiện
qua 43/92 công ty năm trước có lợi nhuận trước thuế nhỏ hơn 0. Cho thấy một xu
hướng sử dụng các công cụ, kỹ thuật để tác động đến lợi nhuận trong năm nay để đạt
được lợi nhuận như mong muốn.
Hình 4.2 Cơ cấu kết quả kinh doanh năm 2013 của mẫu nghiên cứu
Page 43
Trong số các công ty nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần,
chỉ có 15/92 công ty nhận được loại ý kiến kiểm toán này từ các công ty kiểm toán
thuộc Big4 (Deloitte, KPMG, PwC, Ernst & Young), số còn lại là đến từ các công ty
không thuộc Big4 (non-Big). Mặc dù, thị phần của các công ty kiểm toán thuộc Big 4
rất lớn so với các công ty kiểm toán khác. Theo số liệu thống kê của VACPA, năm
2013, big 4 chiếm 58% doanh thu toàn ngành, trong khi bình quân doanh thu mỗi
công ty kiểm toán tại Việt Nam là 31 tỷ đồng thì của Big4 lên tới 599 tỷ, còn 130
công ty “nội” chỉ đạt 14 tỷ đồng. Điều này cho thấy, các công ty kiểm toán thuộc Big
4 có xu hướng ít đưa ra ý kiến kiểm toán chấp nhận không toàn phần đối với khách
hàng hơn các công ty kiểm toán khác, có thể lý giải được một trong số các lý do đó là
việc thực hiện kế toán của các công ty khách hàng của Big 4 có chất lượng hơn hoặc
có thể đặt vấn đề về chất lượng của các công ty kiểm toán thuộc Big 4 so với các công
ty kiểm toán không thuộc Big 4.
Hình 4.3
Cơ cấu công ty kiểm toán phát hành ý kiến kiểm toán chấp nhận không toàn phần
Trong số 92 công ty nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần
năm 2014, có tới 67/92 công ty (chiếm 72.83%) cũng nhận được ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần đối với BCTC năm 2013, thể hiện một xu hướng sai sót và
gian lận trong BCTC của các công ty.
72.83%
27.17%
Ý kiến không chấp nhận toàn phần năm 2013
Hình 4.4 Cơ cấu ý kiến kiểm toán năm 2013
Page 44
Ngoài ra, theo khảo sát của nhóm nghiên cứu, 100% các công ty thuộc lĩnh vực
tài chính nhận được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần cho năm tài chính 2014.
Cho thấy, các bản BCTC của các công ty thuộc lĩnh vực này có chất lượng hơn so với
các bản BCTC của các công ty thuộc lĩnh vực phi tài chính. Lý do, đây là lĩnh vực chủ
chốt của nền kinh tế, có thể sẽ được xã hội quan tâm hơn các lĩnh vực khác do đó mà
sẽ có các quy định chặt chẽ hơ, nghiêm ngặt hơn nên đảm bảo được chất lượng các
bản BCTC hơn các công ty lĩnh vực phi tài chính. Bên cạnh đó, qua số liệu nghiên
cứu, có 92/899 công ty niêm yết nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn
phần, chiếm 10.23%.
Bảng 4.2 dưới đây tóm tắt khái quát một số chỉ tiêu trong thống kê mô tả của
mẫu nghiên cứu
Bảng 4.2 Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Tần suất Tỷ lệ %
Ý kiến không chấp nhận
toàn phần
Trích lập dự phòng 42 45.7
Vấn đề khác 50 54.3
Kết quả kinh doanh năm
2013 của các công ty
nhận ý kiến không chấp
nhận toàn phần
Lãi 49 53.3
Lỗ 43 46.7
Công ty kiểm toán đưa ý
kiến không chấp nhận
toàn phần
Big 4 15 16.3
Non-Big 4 77 83.7
Loại hình công ty nhận ý
kiến không chấp nhận
phần
Phi tài chính 92 100
Tài chính 0 0.00
Ý kiến kiểm toán năm
2013
Chấp nhận toàn phần 25 26.83
Không chấp nhận toàn phần 67 73.17
Ý kiến kiểm toán năm
2014
Chấp nhận toàn phần 807 89.77
Không chấp nhận toàn phần 92 10.23
Nguồn: Kết quả từ phần mềm SPSS
4.2 Phân tích tương quan Phân tích tương quan là thước đo độ lớn của các mối liên hệ giữa các biến định lượng trong nghiên cứu. Thông qua thước đo
này người nghiên cứu có thể xác định mối liên hệ tuyến tính giữa các biến độc lập, biến phụ thuộc với nhau trong nghiên cứu. Nếu hệ
số tương quan khác 0 chứng tỏ các khái niệm nghiên cứu có mối liên hệ thực sự, hệ số tương quan dương phản ánh mối quan hệ cùng
chiều và tương quan âm phản ánh mối quan hệ ngược chiều.
Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy Biến phụ thuộc Ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần liên quan tới vấn đề trích lập
dự phòng (AOit) có mối quan hệ tương quan cùng chiều với biến độc lập TLEit - Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của năm 2014 và biến
LAOit-1 - biến giả Ý kiến kiểm toán năm 2013 của công ty với hệ số tương quan lần lượt là 0.265 và 0.241 tại mức ý nghĩa 5%.
Bảng 4.3 Kết quả phân tích quan hệ tương quan giữa các biến nghiên cứu
Correlations
AOit DA BIGit ROAit TURNit INVRECit TLEit ARGALit AGEit LAOit-1 LLOSSit-1
Aoit 1
DA -.187 1
BIGit .186 .123 1
ROAit -.017 -.100 -.067 1
TURNit -.184 -.113 -.142 .198 1
INVRECit .073 -.068 -.001 -.585** -.118 1
TLEit .265* -.081 .082 .434** -.029 -.434** 1
ARGALit .007 .296** .197 -.464** -.305** .403** -.290** 1
AGEit -.135 -.074 .062 .084 .219* .065 -.134 -.075 1
LAOit-1 .241* .019 -.137 -.061 -.028 .151 -.034 -.095 -.056 1
LLOSSit-1 .205 .094 .054 -.313** -.222* .195 .042 -.003 -.323** .267* 1
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
Nguồn: Kết quả từ phần mềm SPSS
Bên cạnh mối tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập còn có sự
tương quan giữa các biến độc lập với nhau.
Tại mức ý nghĩa 1%: DA và ARGAL có tương quan cùng chiều; ROA và
INVREC, ARGAL, LLOSS có tương quan ngược chiều; TURN có tương quan ngược
chiều với ARGAL; INVREC có tương quan ngược chiều với TLE và tương quan cùng
chiều với ARGAL; TLE có tương quan ngược chiều với ARGAL; AGE có tương
quan ngược chiều với LLOSS.
Tại mức ý nghĩa 5%: TURN có quan hệ cùng chiều với AGE và ngược chiều
với LLOSS; LAO có quan hệ tương quan cùng chiều với LLOSS.
4.3 Kiểm định đa cộng tuyến
Trong mô hình được xây dựng, một số biến có tương quan với nhau, do đó để
chắc chắn mô hình được xây dựng không có hiện tượng đa cộng tuyến, nhóm tác giả
tiến hành kiểm định đa cộng tuyến của mô hình
Model Collinearity Statistics
Tolerance VIF
DA 0.837 1.195
LAOit-1 0.873 1.145
LLOSSit-1 0.678 1.475
ROAit 0.488 2.05
BIGit 0.895 1.117
TURNit 0.828 1.208
INVRECit 0.519 1.928
TLEit 0.69 1.449
ARGALit 0.568 1.762
AGEit 0.817 1.224
Nguồn: Kết quả từ phần mềm SPSS
Các giá trị VIF đều nhỏ hơn 10 cho thấy không tồn tại đa cộng tuyến giữa các biến
độc lập với nhau (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008)
Page 47
4.4 Kết quả phân tích hồi quy
4.4.1 Đánh giá sự phù hợp của mô hình
Bảng 4.4 Đánh giá sự phù hợp của mô hình
Model Summary
Step -2 Log likelihood Cox & Snell R
Square
Nagelkerke R Square
1 90.791a .163 .236
Với Rsqurare bằng 0.236 cho thấy mô hình giải thích được 23.6% sự thay đổi
của AO qua các biến nghiên cứu như biến dồn tích có thể điều chỉnh, công ty kiểm
toán, hệ số tài chính và các thông tin quá khứ xuất hiện trong mô hình. Phần còn lại
76,4% sự thay đổi ý kiến kiểm toán liên quan được là do các yếu tố bên ngoài khác tác
động mà trong mô hình chưa đề cập tới.
4.4.2 Kiểm định về độ tin cậy của mô hình
Bảng 4.5 Kiểm định độ tin cậy của mô hình
Classification Tablea
Observed Predicted
Aoit Percentage Correct
0 1
Step 1
AOit 0 60 6 90.9
1 19 6 24.0
Overall Percentage
72.5
a. The cut value is .500
Nguồn Kết quả từ phần mềm SPSS
Với tỉ lệ dự báo chính xác là 72.5% cho thấy mô hình có độ tin cậy cho việc đánh giá
các yếu tố tác động lên AO
4.4.3 Kiểm định giả thuyết về các hệ số của mô hình hồi quy mẫu
Phân tích tương quan chỉ cho biết giữa các biến có thể có mối quan hệ với nhau
mà không cho biết mối quan hệ nhân quả giữa chúng. Về mặt lý thuyết ta biết rằng
các biến độc lập trong mô hình như là những biến nguyên nhân và biến phụ thuộc AO
như là biến kết quả. Kết quả phân tích từ dữ liệu nghiên cứu như sau:
Với kết quả của bảng dưới đây, để kiểm định giả thuyết về các hệ số của mô
hình hồi quy mẫu ta dùng kiểm định t
Page 48
Bảng 4.6 Kết quả hồi quy
Variables in the Equation
B S.E. Wald df Sig. Exp(B)
Step 1a
DA -3.544 2.636 1.808 1 .179 .029
LAOit1 1.121 .698 2.580 1 .108 3.067
LLOSSit1 -.290 .630 .212 1 .645 .748
ROAit -.777 2.608 .089 1 .766 .460
BIGit 1.203 .674 3.186 1 .074 3.329
TURNit -.012 .261 .002 1 .963 .988
INVRECit .199 .547 .133 1 .715 1.221
TLEit .078 .039 4.055 1 .044 1.081
ARGALit .012 .010 1.367 1 .242 1.012
AGEit -.052 .099 .279 1 .598 .949
Constant -2.763 1.375 4.036 1 .045 .063
Nguồn Kết quả từ phần mềm SPSS
Kết quả phân tích cho thấy p-value của kiểm định F bằng 0.074 nhỏ hơn 0.1,
điều đó cho thấy có tối thiểu một biến nghiên cứu trong mô hình có ảnh hưởng đến
biến phụ thuộc (AOit). Hệ số xác định R2 hiệu chỉnh bằng 0.236 cho thấy các biến độc
lập giải thích được 23,6% sự thay đổi của biến phụ thuộc, 76,4% sự thay đổi của biến
phụ thuộc chịu sự tác động của các nhân tố khác không đưa vào mô hình. Phương
trình hồi quy biểu diễn quan hệ giữa các biến có thể được viết lại như sau:
AOit = -3.544*DA + 1.121*LAOit - 0.290* LLOSS(it-1) - 0.777*ROAit
+1.203*BIGit - 0.012* TURNit + 0.199* INVRECit + 0.078* TLEit + 0.012*
ARGALit -0.052* AGEit -2.763
Các hệ số Beta chưa chuẩn hóa (cột Beta) được xem như tác động biên của các
biến độc lập lên biến phụ thuộc. Nghĩa là trong điều kiện các yếu tố khác không đổi
khi tác động thay đổi của một nhân tố trong mô hình tăng thêm (hoặc giảm đi) một
đơn vị đánh giá thì biến mục tiêu sẽ tăng hoặc giảm Beta đơn vị.
4.4.4 Kiểm định giả thuyết nghiên cứu
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu đặt ra trong mô hình nghiên cứu ta sử
dụng thống kê t và giá trị p-value tương ứng so sánh trực tiếp với giá trị 0.1 (mức ý
nghĩa 10% hay mức tin cậy 90%)
Kiểm định giả thuyết H: Biến dồn tích có thể điều chỉnh có ảnh hưởng tới khả
năng nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần.
Từ kết quả ước lượng hồi quy, thống kê t có p –value bằng 0.179 lớn hơn 0.1).
Hệ số beta dương và p-value lớn hơn 0.1 biến dồn tích có thể điều chỉnh không có sự
Page 49
liên quan hay tác động lên biến AOit, ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì
lý do trích lập dự phòng. Điều đó cho thấy đối với dữ liệu nghiên cứu này việc công ty
có điều chỉnh lợi nhuận không liên quan tới việc công ty nhận được ý kiến không chấp
nhận toàn phần vì vấn đề trích lập dự phòng với độ tin cậy 90%. Hay nói cách khác ta
bác bỏ giả thuyết H.
Ngoài ra qua mô hình này chúng ta cũng rút ra được các kết luận sau:
BIGit có tác động cùng chiều lên AOit cho thấy các công ty nhận được ý kiến
kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng có mối liên quan tới
việc công ty này được kiểm toán bởi Big 4. Cụ thể hơn đây là mối quan hệ cùng chiều
bởi p- value bằng 0,074 < 0,1 hệ số Beta bằng 1,203 >0.
TLEit đại diện cho biến hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu có tác động cùng chiều lên
AOit bởi p- value =0,044 < 0,05 cùng với hệ số Beta bằng 0,078 thì cho thấy mối
quan hệ cùng chiều dương tác động lên khả năng nhận được ý kiến kiểm toán không
chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng.
Page 50
4.4.5 Phân tích kết quả nghiên cứu
Ghi chú: : Có ý nghĩa thống kê
: Không có ý nghĩa thống kê
Hình 4.5 Kết quả đánh giá hồi quy
Trong phần này nhóm nghiên cứu trả lời câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu:
GT 1: Điều chỉnh lợi nhuận có ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không chấp
nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự thay đổi của các khoản dồn tích có thể điều
chỉnh không có ý nghĩa đối với sự thay đổi của việc nhận được ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập sự phòng với p-value = 0,179> 0,1. Có
nghĩa rằng ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự phòng
không có mối quan hệ với nhau. Nhóm nghiên cứu bác bỏ giả thiết đã đưa ra.
Mặc dù mô hình nghiên cứu có tất cả mười biến nhưng số biến có ý nghĩa với
sự thay đổi đối với biến phụ thuôc AO - ý kiến kiểm toán có liên quan tới trích lập dự
Biến kế toán dồn tích
có thể điều chỉnh
Tỷ số lợi nhuận thuần
trên tổng tài sản BQ
Tỷ số doanh thu trên
tổng tài sản BQ
Tỷ số tổng hàng tồn
kho và khoản phải thu
trên tổng tài sản BQ
Tỷ số tổng nợ trên vốn
chủ sở hữu
Khoảng chênh lệch
giữa thời điểm báo cáo
kiểm toán được phát
hành và thời điểm kết
thúc năm tài chính
Ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn
phần
R2 hiệu chỉnh = 0,236 *
Số năm niêm yết tính
tới thời điểm nghiên
cứu
Ý kiến kiểm toán năm
trước là không chấp
nhận toàn phần hay
không
Kết quả kinh doanh
của công ty năm
trước năm nghiên
cứu
Công ty kiểm toán có
phải Big 4 hay không
Page 51
phòng. Những biến có mối quan hệ là biến BIGit, biến định danh công ty kiểm toán có
phải là Big 4 hay không với hệ số Beta=1.203 và p-value=0.074 Tiếp đến là ảnh
hưởng của biến TLEit tính toán được từ hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu có hệ số Beta
=0.078 <0.01 và p- value=0.078.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình Logistics là một công cụ
phù hợp và tin cậy để đánh giá ảnh hưởng giữa mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán
không chấp nhận toàn phần và khả năng điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả một lần nữa
kiểm chứng tính tin cậy và phù hợp của mô hình nghiên cứu trong trường hợp của các
công ty niêm yết trên sàn chứng khoán 2014. Bởi quy mô nghiên cứu chỉ giới hạn tại
một năm nên việc phân tích bằng mô hình Logistics là phù hợp với đặc điểm và mục
tiêu nghiên. Mặc dù là một công cụ nghiên cứu tin cậy và phù hợp nhưng bài nghiên
cứu cũng cho thấy cần điều chỉnh, bổ sung.
Mô hình hồi quy Logistic mà nghiên cứu này sử dụng cho thấy chỉ số 2-log
likelihood đạt tới giá trị 90.791, và đây là chỉ số thích hợp khẳng định tính chắc chắn
của mô hình. Hệ số tương quan Cox& Snell R Square đạt tới 0.163, trong khi đó hệ số
tương quan Nagelkerde R Square đạt giá trị 0.236 (23,6%). Các kết quả kiểm định
thống kê này cho thấy tính chắc chắn của mô hình hồi quy tương quan logistic được
sử dụng trong phân tích. Bảng 2 cho thấy tỷ lệ dự đoán của mô hình là khá cao, lên tới
72,5%, có thể giúp kết luận mô hình hồi quy tương quan logistic sử dụng trong nghiên
cứu là hoàn toàn hợp lý. Mô hình này có khả năng đưa thêm các nhân tố khác vào mô
hình để cải thiện khả năng giải thích.
Page 52
CHƯƠNG V:
THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu trả lời hai câu hỏi nghiên cứu đưa ra ở chương I
Thứ nhất, ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và hành vi điều chỉnh lợi
nhuận có mối quan hệ với nhau hay không?
Dựa vào giá trị p- value nhóm nghiên cứu kết luận rằng sự thay đổi của các
khoản dồn tích có thể điều chỉnh – giá trị đo lường mức độ điều chỉnh lợi nhuận
không làm ảnh hưởng sự thay đổi biến ý kiến kiểm toán vì lý do trích lập dự phòng.
Có nghĩa rằng ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự
phòng không có mối quan hệ với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Đây cũng là kết quả nhận được từ những bài nghiên cứu của một số nước trên
thế giới như dưới đây:
Herbohn and Ragunathan (2008) sử dụng mẫu của danh sách các công ty trên
sở giao dịch chứng khoán Australia trong giai đoạn 1999-2003 đã chứng minh bằng
tài liệu mối quan hệ ngược chiều giữa ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần
mà xuất phát từ vấn đề hoạt động liên tục của các công ty rủi ro vì khủng hoảng tài
chính và pháp lý kiểm toán.
Tsipouridou và Spathis (2014) tìm ra rằng ý kiến kiểm toán không liên quan
đến điều chỉnh lợi nhuận và đặc điểm tài chính của khách hàng, như lợi nhuận và quy
mô là yếu tố quyết định cho quyết định ra ý kiến kiểm toán liên quan tới. Ngoài ra,
quyết định của kiểm toán viên về việc phát hành ý kiến không chấp nhận toàn phần vì
lý do khác được giải thích bởi loại ý kiến kiểm toán phát hành trong năm trước.
Theo đó kết quả bài nghiên cứu của Bradshaw, Richardson, và Sloan (2001)
cũng nhận được kết quả như vậy khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán
và hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong các công ty trên sàn giao dịch chứng khoán Mỹ.
Họ kết luận rằng kiểm toán viên có thể hiểu được rằng các khoản dồn tích tăng lên
thường tạo ra sự liên quan chặt chẽ hơn về việc lợi nhuận tương lai bị giảm và vi
phạm GAAP. Nhưng họ không bắt buộc phải cung cấp những thông tin này cho các
nhà đầu tư thông qua ý kiểm toán của họ.
Tuy nhiên cũng có một vài bài nghiên cứu cho kết quả nghiên cứu khác hẳn với
kết quả bài nghiên cứu của nhóm nghiên cứu:
Bartoz cùng cộng sự (2001), mối quan hệ cùng chiều đáng kể tồn tại giữa giá
trị tuyệt đối của các khoản dồn tích có thể điều chỉnh và khả năng nhận được ý kiến
Page 53
kiểm toán không chấp nhận toàn phần. Bên cạnh đó họ còn kết luận rằng tần suất của
ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần không cao ở các công ty có các khoản
dồn tích lớn. Nhóm tác giả tìm ra rằng kiểm toán không thông báo với nhà đầu tư về
sự gia tăng tác động của việc suy giảm thu nhập tương lai và việc vi phạm GAAP
thường liên quan đến mức dồn tích cao. Nguyên nhân chính là khả năng sinh lợi
không nằm trong phạm vi của kiểm toán viên. Nói cách khác, kiểm toán viên có thể
hiểu sự gia tăng dồn tích trong một kỳ đưa đến một khả năng cao hơn cho sự suy giảm
lợi nhuận tương lai và vi phạm GAAP trong kỳ khác, nhưng họ không bắt buộc phải
chia sẻ thông tin này cho nhà đầu tư thông qua ý kiến kiểm toán.
Arnedo cùng cộng sự (2008) tìm ra một mối quan hệ ngược chiều giữa ý kiến
kiểm toán liên quan tới vấn đề hoạt động liên tục và điều chỉnh lợi nhuận, bắt nguồn
từ các báo cáo bao gồm sự không chắc chắn về khả năng công ty tiếp tục hoạt động
liên tục. Với nhóm công ty có ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do
ngoài hoạt động liên tục thì mối quan hệ này lại cùng chiều.
Butler cùng cộng sự (2004) kết luận rằng kiểm toán viên ít khả năng phát hành
ý kiến không chấp nhận toàn phần vì lý do điều chỉnh lợi nhuận. Dựa vào hơn 7000 ý
kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần của các công ty ở Mỹ từ năm 1994-1999,
họ khám phá ra mối quan hệ giữa các khoản dự phòng bất thường và loại ý kiến kiểm
toán. Họ tìm ra mối quan hệ cùng chiều giữa ý kiến không chấp nhận toàn phần và
dồn tích bất thường, trong trường hợp các khoản dồn tích được đo lường trong thời
hạn nhất định. Bằng việc thay đổi biến phụ thuộc từ mức độ xác thực của các khoản
dồn tích bất thường thực tế, họ tìm hiểu được là có mối quan hệ ngược chiều giữa ý
kiến không chấp nhận toàn phần và các khoản dồn tích. Nói chung, họ kết luận rằng
không có bằng chứng về việc kiểm toán viên sử dụng báo cáo kiểm toán để thông báo
cho người dùng báo cáo tài chính về việc điều chỉnh lợi nhuận quá mức hay hệ quả
của mức độ dồn tích cao.
Điều này có thể được giải thích bởi IAS 240 Khi thực hiện kiểm toán theo các
chuẩn mực kiểm toán quốc tế, kiểm toán viên chịu trách nhiệm đạt được sự đảm bảo
hợp lý rằng báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, không còn sai sót trọng
yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn Do những hạn chế vốn có của kiểm toán, nên có rủi ro
không thể tránh khỏi là một số sai sót làm ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính
sẽ không được phát hiện, kể cả khi cuộc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện
theo các chuẩn mực kiểm toán quốc tế.
Maureen McNichols và G. Peter Wilson (2014) cho rằng trích lập dự phòng là
một công cụ để điều chỉnh lợi nhuận giảm, bên cạnh đó là việc trích lập dự phòng trở
thành vấn đề được đề cập khá lớn trong các báo cáo kiểm toán cũng như tình hình sử
dụng trích lập dự phòng tại Việt Nam đã khiến nhóm nghiên cứu hình thành giả thiết
Page 54
để phân chia ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần thành hai loại là liên quan
tới trích lập dự phòng và không liên quan tới trích lập dự phòng.
Nhóm nghiên cứu đã giả thiết cho rằng có mối quan hệ giữa việc điều chỉnh lợi
nhuận và việc ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự
phòng. Tuy nhiên kết quả đã bác bỏ giả thuyết này. Như vậy tại Việt Nam các công ty
sử dụng các khoản dồn tích có thể điều chỉnh cao sẽ không thể chắc chắn rằng những
báo cáo kiểm toán sẽ liên quan đến vấn đề trích lập dự phòng.
Tuy nhiên kết quả của nhóm nghiên cứu lại chứng minh rằng biến độc lập DA-
Biến dồn tích có thể điều chỉnh không có mối quan hệ trong việc tác động lên khả
năng nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần vì lý do trích lập dự
phòng. Theo nhóm nghiên cứu điều này có thể giải thích rằng bởi điều kiện nghiên
cứu của nhóm tác giả trên là ở Mỹ, nơi có hệ thống kế toán khá khác biệt so với Việt
Nam nên những kết quả nghiên cứu của họ chỉ mang tính tham khảo và căn cứ lý
thuyết mà thôi. Bên cạnh đó thời điểm nghiên cứu của nhóm là năm 2014 thời gian
tồn tại nhiều biến động kinh tế thế giới và các chính sách của Chính phủ Việt Nam tác
động không nhỏ lên tình hình hoạt động của các công ty trên sàn chứng khoán Việt
Nam. Ban giám đốc dường như sử dụng những phương thức điều chỉnh khác để đạt
được mức lợi nhuận mong muốn chứ không sử dụng các khoản trích lập dự phòng nữa
bởi các chuẩn mực, quy định đã chặt chẽ hơn và có ảnh hưởng hơn tới tình hình trích
lập của các doanh nghiệp.
Cũng bởi vậy kết quả này cũng chứng minh rằng hiện tại Việt Nam các khoản
dồn tích có thể điều chỉnh cũng như trích lập dự phòng chưa chắc là công cụ nhận
diện điều chỉnh lợi nhuận để đưa ra ý kiến kiểm toán không châp nhận toàn phần.
Thứ hai, mối quan hệ của ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần và các
biến có ý nghĩa thống kê trong mô hình
Từ kết quả kiểm định, những công ty được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán
thuộc Big 4 sẽ có khả năng nhận được ý kiến kiểm toán về vấn đề trích lập dự phòng
cao hơn so với các công ty khác. Điều này có thể kết luận rằng các KTV thuộc Big 4
dường như khá quan tâm tới khoản trích lập dự phòng của công ty khách hàng. Họ đã
đưa ra ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần sau khi trải qua quy trình kiểm
toán để nhận diện ra các vấn đề có thể vi phạm các chuẩn mực chung. Họ cũng phải
thảo luận với khách hàng về những vấn đề này trước khi cho phát hành ý kiến kiểm
toán. Như vậy các khoản trích lập dự phòng là khoản mục mà cho ban giám đốc và
KTV đáng quan tâm.
Mô hình nghiên cứu cho kết quả rằng biến TLE - hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu có mối
quan hệ tương quan cùng chiều với sự phát hành ý kiến kiểm toán không chấp nhận
toàn phần vì lý do trích lập dự phòng. Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu chính là bằng
Page 55
chứng của việc sử dụng đòn bẩy của ban giám đốc. Việc sử dụng đòn bẩy sẽ làm lợi
nhuận sau thuế được cao hơn so với thực tế khi công ty đã vượt qua mức hòa vốn.
Việc sử dụng đòn bẩy sẽ khiến công ty được lợi từ lá chắn thuế. Công ty có xu hướng
nhận được ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần khi cơ cấu nợ quá cao. Việc
này được giải thích bởi công ty có cơ cấu nợ cao thì sẽ gia tăng rủi ro vỡ nợ nên các
KTV sẽ chú ý để xem xét về khả năng thanh khoản đặc biệt là các khoản phải thu. Các
khoản trích lập dự phòng đã cho thấy khả năng thu hồi nợ của công ty cao hay thấp.
Khả năng thu hồi nợ sẽ ảnh hưởng tới tài sản và hiệu quả kinh doanh của công ty. Số
vốn hoạt động sẽ chủ yếu thu được từ nợ vay và huy động vốn phổ thông và nguồn
vốn giữ lại. Như vậy việc nhận ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần bị ảnh
hưởng một phần bởi việc sử dụng đòn bẩy tài chính của công ty. Mặc dù ảnh hưởng
này không lớn nhưng đây là dấu hiệu để KTV lưu ý khi đánh giá rủi ro của công ty.
5.2. Hạn chế của bài nghiên cứu
Mặc dù bài nghiên cứu của nhóm tác giả đã có những đóng góp về mặt khoa
học cũng như đóng góp về mặt thực tế, bài nghiên cứu vẫn còn tồn tại một số hạn chế
sau:
Thứ nhất, việc phân chia ý kiến kiểm toán dựa vào trích lập dự phòng có thể
gây nhầm lẫn bởi trong khoản trích lập dự phòng vì sẽ bao gồm nhiều loại trích lập
như dự phòng giảm giá hàng tồn kho, khoản phải thu, đầu tư tài chính, tổn thất tài sản
nên việc đánh giá chỉ mang tính khái quát mà chưa có tính cụ thể.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu chưa mở rộng mẫu để đo lường cho toàn bộ công ty
trên sàn chứng khoán Việt Nam. Bởi sự tác động của hành vi điều chỉnh lợi nhuận tới
việc nhận được kiểm toán chấp nhận toàn phần cũng đang là vấn đề đáng quan tâm
bởi một công ty nhận được ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần thì chưa chắc ban
giám đốc của công ty đó không có hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Thứ ba, sự đánh giá điều chỉnh lợi nhuận dựa vào chỉ số biến dồn tích có thể
điều chỉnh chỉ mang tính ước tính số lượng và những thông số có thể tạo ra sai số
nhưng những sai số này không ảnh hưởng quá nhiều đến kết quả nghiên cứu.
5.3. Hướng nghiên cứu tiếp theo
Qua các hạn chế của nghiên cứu được nêu ở trên, nhóm nghiên cứu đề xuất các
nghiên cứu tiếp theo về mối quan hệ giữa hành vi điều chỉnh lợi nhuận và ý kiến kiểm
toán có thể mở rộng thời gian nghiên cứu, phân chia nhỏ hơn các loại trích lập dự
phòng và bổ sung thêm các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định phát hành ý kiến kiểm
toán của KTV để làm rõ hơn các yếu tố có thể ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán không
chấp nhận toàn phần.
Page 56
Tài liệu tham khảo
1. Akhgar M. Omid (2015), Qualified audit opinion, accounting earnings
management and real earnings management: Evidence from Iran.
2. Ambrose Jagongo (2014), A Survey of the Factors Influencing Investment
Decisions: The Case of Individual Investors at the NSE.
3. Andra Gajevszky (2012), The impact of auditor’s opinion on earnings
management: Evidence from Romania.
4. Anis Ben Amar (2014), The effect of independence Audit Committee on
earnings management: The case in French.
5. Ari Barkah Djamil, Toto Rusmanto, Yashinta Salim (2014), The effect of
earnings management to issuance of audit qualification: Evidence from
Indonesia.
6. Bùi Thị Mai Hoài, Nguyễn Thị Tuyết Hoa (2015), Các nhân tố quyết định hành
vi điều chỉnh thu nhập làm giảm thuế thu nhập DN phải nộp: trường hợp Việt
Nam.
7. Carmen Joosten (2012), Real earnings management and accrual-based earnings
management as substitutes.
8. Connie L. Becker, Mark L. Defond, James Jiambalvo, K. R. Subramanyam
(1998), The effect of audit quality on earning management.
9. Đàm Thị Kim Oanh, 2015, Kế hoạch trích lập dự phòng ảnh hưởng tới thông
tin trình bày trên BCTC của các CTCP niêm yết trên thị trường chứng khoán
VN, http://www.khoahockiemtoan.vn/Category.aspx?newsID=636, truy cập
ngày 3/1/2016.
10. Eli Bartov, Ferdinand A. Gul and Judy S.L. Tsui, (2000), Discretionary –
accruals models and audit qualifications.
11. Huỳnh Thị Vân (2012), Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các CTCP
trong năm đầu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
12. Jenifer J. Jones (1991), Earnings Management during import relief
investigations.
13. Jere R. Francis, Jagan Krishnan (1999), Accounting Accruals and Auditor
Reporting Conservatism.
14. Jong – Hag Choi, Kyu – An Jeon, Jong – II Park (2004), The role of Audit
Committees in decreasing earning management: Korean evidence.
Page 57
15. Joshue Ronen, Varda Yaari (2008), Earnings management: Emerging insights
in theory, practice and research.
16. Katherine Schipper (1989), Commentary on Earnings Management.
17. Kathleen Herbohn, Vanitha Ragunathan (2008), Auditors reporting and
earnings management: Some additional evidence.
18. Laura Arnedo, Santiago Sanchez, Fermin Lizarraga (2008), Discretionary
accruals and auditor behaviour in code-law contexts: an application to failing
Spanish firms.
19. Linda DeAngelo (1988), Discussion of evidence of earnings management from
the Provision for bad debts.
20. Maria Tsipouridou, Charalambos Spathis (2014), Audit opinion and earnings
management: Evidence from Greece.
21. Masahiro Enomoto, Fumihiko Kimura, Tomoyasu Yamaguchi, (2005),
Accrual-based and Real Earning Management: An International Comparison
for Investor Protection.
22. Maureen MeNichols, G. Peter Wilson (1988), Evidence of earnings
management from the provision for bad debts.
23. Meng Yanqiong, Earnings management incentives and techniques in China’s
listed companies.
24. Nadine Lybaert, Mieke Jan, Raf Orens (2005), Provisions: a tool for earnings
management.
25. Nguyễn Thị Minh Trang (2011), Kỹ thuật điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản
trị.
26. Nguyễn Thị Minh Trang (2012), Vận dụng mô hình của DeAngelo và Friedlan
để nhận dạng hành động điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị.
27. Paul M. Healy, James M. Wahlen (1998), A review of the earnings
management literature and its implications for standard setting.
28. Phạm Thị Bích Vân (2013), Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi
nhuận.
29. Renick van Oosterbosch (2009), Earnings management in the Banking
industry.
30. Shireenjit Johl, Keith Houghton (2007), Earnings management and audit
opinion: Evidence from Malaysia.
Page 58
31. S. Verbruggen, J. Christaens, K. Milis (2008), Earnings management: a
literature review.
32. Thanh Thương, 2012, Nhiều DN "quên" trích lập dự phòng, http://cafef.vn/thi-
truong-chung-khoan/nhieu-doanh-nghiep-quen-trich-lap-du-phong-
2012082010382932.chn, truy cập ngày 15/1/2016.
33. Vũ Điển, 2012, Chất lượng kiểm toán chưa đạt chuẩn,
http://www.tinmoi.vn/chat-luong-kiem-toan-chua-dat-chuan-01802654.html,
truy cập ngày 11/1/2016.
34. Marty Butler, Andrew J. Leone, Michael Willenborg 2004, An empirical
analysis of auditor reporting and its association with abnormal accruals
Page 59
PHỤ LỤC: Danh sách các công ty niêm yết có ý kiến kiểm toán không chấp nhận
toàn phần năm 2014
STT Tên Mã CK
1 CTCP đầu tư xây dựng Thanh Niên TNY
2 CTCP tư vấn đầu tư và xây dựng giao thông vận thải TVG
3 CTCP xây dựng số 15 V15
4 CTCP VINACONEX 21 V21
5 CTCP xây dựng số 5 VC5
6 Tổng CTCP xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam VCG
7 CTCP VIMECO VMC
8 CTCP hàng hải Đông Đô DDM
9 CTCP vận tải Biển Bắc NOS
10 CTCP que hàn điện Việt Đức QHD
11 CTCP chế tạo máy điện Việt Nam – Hungari DVH
12 CTCP công nghiệp Thủy Sản SCO
13 CTCP điện tử Bình Hòa VBH
14 CTCP Mai Linh Miền Trung MNC
15 CTCP cảng rau quả VGP
16 CTCP SIMCO Sông Đà SDA
17 CTCP Bia Sài Gòn - Miền Tây WSB
18 CTCP Vang Thăng Long VTL
19 CTCP chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Cadovimex CAD
20 CTCP chế biến thủy sản và xuất nhập khẩu Cà Mau CMX
21 CTCP sản xuất - xuất nhập khẩu Thanh Hà HFX
22 CTCP lương thực Đà Nẵng DNF
23 CTCP lương thực thực phẩm Vĩnh Long VLF
24 CTCP tập đoàn Đại Châu DCS
25 CTCP Bóng đèn Điện Quang DQC
26 CTCP Diêm Thống Nhất DTN
27 CTCP hợp tác kinh tế và xuất nhập khẩu Savimex SAV
28 CTCP kỹ thuật điện toàn cầu GLT
29 CTCP may xuất khẩu Phan Thiết PTG
30 CTCP sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh GIL
31 CTCP Cao su Bến Thành BRC
32 CTCP Đầu tư Phát triển thương mại Viễn Đông VID
33 CTCP Nông dược H.A.I HAI
34 CTCP Vật tư Tổng hợp và Phân bón Hóa sinh HSI
35 CTCP Thép Bắc Việt BVG
Page 60
36 CTCP Thép Đà Nẵng DNS
37 CTCP Khoáng sản Luyện kim màu KSK
38 CTCP Khoáng sản Vinas A Lưới ALV
39 CTCP Khoáng sản Bắc Kạn BKC
40 CTCP Khoáng sản Hoà Bình KHB
41 CTCP Tập Đoàn Khoáng sản Hamico KSH
42 CTCP Khoáng sản Quang Anh KSQ
43 CTCP Kỹ nghệ Khoáng sản Quảng Nam MIC
44 CTCP Bê tông Biên Hoà BHC
45 CTCP Nhựa Bình Minh BMP
46 CTCP Viglacera Đông Triều DTC
47 CTCP Vicem Vật liệu Xây dựng Đà Nẵng DXV
48 CTCP Khoáng sản và Vật liệu Xây dựng Hưng Long KHL
49 CTCP Xi măng Sông Đà Yaly SDY
50 CTCP Viglacera Thăng Long TLT
51 CTCP Xây dựng và Kinh doanh Vật tư CNT
52 CTCP Công trình giao thông Đồng Nai DGT
53 CTCP DIC - Đồng Tiến DID
54 CTCP Hacisco HAS
55 CTCP Đầu tư – Xây dựng Hà Nội HCI
56 CTCP Đầu tư và Xây dựng Cầu đường Hà Nội JSC
57 CTCP Lilama 3 LM3
58 CTCP Hồng Hà Việt Nam PHH
59 CTCP Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ An PVA
60 CTCP xây dựng công nghiệp và Dân dụng dầu khí PXI
61 CTCP Xây lắp Dầu khí Miền Trung PXM
62 CTCP Tập đoàn Hoàng Long HLG
63 CTCP Nam Dược NDC
64 CTCP Thuận Thảo GTT
65 CTCP Khách sạn và Dịch vụ Đại Dương OCH
66 CTCP Du lịch Golf Việt Nam VNG
67 CTCP Vật Tư - Xăng Dầu COM
68 CTCP Mỹ thuật và Truyền Thông ADC
69 CTCP Đầu tư và Phát triển giáo dục Hà Nội EID
70 CTCP Sách - Thiết bị trường học Hà Tĩnh HBE
71 CTCP Thủy điện Quế Phong QPH
72 CTCP Tập đoàn Dầu khí An Pha ASP
73 CTCP MT Gas MTG
74 CTCP Địa ốc Đà Lạt DLR
Page 61
75 CTCP Tư vấn-Thương mại-Dịch vụ Địa ốc Hoàng Quân HQC
76 CTCP Đầu tư Xây dựng và Khai thác công trình giao thông 584 NTB
77 CTCP Đầu tư Hạ tầng và Đô thị Dầu khí PTL
78 CTCP Địa ốc Dầu khí PVL
79 CTCP Đầu tư xây dựng Thương mại Dầu khí - IDICO PXL
80 CTCP Sông Đà - Thăng Long STL
81
CTCP Sản xuất Kinh doanh Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư
Tân Bình (TANIMEX) TIX
82 CTCP Xây dựng số 11 V11
83 CTCP Tập đoàn Đại Dương OGC
84 CTCP Tập đoàn HIPT HIG
85 CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Viễn thông TST
86 CTCP Dịch vụ Viễn thông và In Bưu Điện PTP
87 CTCP Xây lắp Đường ống Bể chứa Dầu khí PXT
88 CTCP Xây lắp và Phát triển Dịch vụ Bưu điện Quảng Nam QCC
89 CTCP Sông Đà 27 S27
90 CTCP Sông Đà 9.06 S96
91 CTCP Xây dựng Hạ tầng Sông Đà SDH
92 CTCP Đầu tư Tổng hợp Hà Nội SHN