issn 1859-0144 1-2/2014 · 2 bẢn tin khoa hỌc vÀ cÔng nghỆ tỈnh thỪa thiÊn huẾ,...
TRANSCRIPT
Trong số này:
Khoa học và công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2013
và nhiệm vụ trọng tâm năm 2014
Những nỗ lực trong hoạt động khoa học và công nghệ
năm 2013 của tỉnh Thừa Thiên Huế
10 sự kiện khoa học và công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế
10 sự kiện nổi bật của tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2013
10 sự kiện khoa học và công nghệ nổi bật 2013
Một số hoạt động nổi bật trong năm 2013 và yêu cầu về
tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng của tỉnh nhà trong
tình hình mới
Hoạt động sở hữu trí tuệ năm 2013: Những nét nổi bật
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế: Đẩy
mạnh hoạt động tuyên truyền, truyền thông khoa học và
công nghệ
Hoạt động quản lý công nghệ năm 2013
Bảo tàng Thiên nhiên duyên hải miền Trung tổng kết
công tác thực hiện nhiệm vụ năm 2013 và kế hoạch
hoạt động năm 2014
Từng bước phát triển Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng tỉnh Thừa Thiên Huế
Hợp tác khoa học và công nghệ giai đoạn 2008-2013:
Ghi nhận những thành quả từ Đại học Huế
Các đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh do
Đại học Huế chủ trì thực hiện giai đoạn 2009-2013
Hồi sinh gạo đỏ mang thương hiệu “Quảng Điền”
Khai thác tri thức bản địa trong phát triển thuốc từ
dược liệu
Ngựa trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ
Năm ngọ nói chuyện ngựa
Những năm ngọ trong lịch sử đất nước
Thuốc từ con ngựa tăng cường sức khỏe
Thảo dược mang tên ngựa
2
6
10
15
18
21
24
28
33
34
36
39
44
46
49
52
55
59
62
63
Chịu trách nhiệm xuất bản:
PGS.TS TRẦN NGỌC NAM
Ban biên tập:
TRẦN NGỌC NAM
NGUYỄN ĐỨC PHÚ
NGUYỄN KHOA DIỆU HÀ
Trình bày:
PHAN NỮ ANH THƯ
Địa chỉ tòa soạn:
24 Lê Lợi, thành phố Huế
Điện thoại:
054.3825453-3849266
Fax: 054.3838038
Email: [email protected]
Website: http://skhcn.hue.gov.vn
ISSN 1859-0144
1-2/2014
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Giấy phép xuất bản số: 01-10/GP-XBBT
ngày 01/12/2010 do Sở Thông tin và
Truyền thông tỉnh Thừa Thiên Huế
cấp. In tại Công ty Cổ phần In và
Dịch vụ Thừa Thiên Huế, nộp lưu
chiểu tháng 1 năm 2014.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 2
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ NĂM 2013
VÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM 2014
Nhân dịp đón năm mới, xuân Giáp Ngọ, chúng tôi đã có buổi nói chuyện với PGS, TS
Trần Ngọc Nam, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế về những
thành công trong hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) của tỉnh nhà năm 2013 và
những định hướng cho năm 2014.
PV: Trước hết, xin cám ơn ông đã nhận
lời mời nói chuyện với chúng tôi. Thưa ông,
năm 2013 được đánh giá là một năm khá
thành công trong hoạt động KH&CN. Với
cương vị là người đứng đầu ngành, ông có
thể cho biết những nỗ lực đạt được của hoạt
động KH&CN trong năm qua là gì?
PGS, TS Trần Ngọc Nam: Năm 2013 là
năm toàn tỉnh tiếp tục phấn đấu để thực hiện
thắng lợi Kết luận 48-KL/TW và Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, sớm đưa
cả tỉnh thành thành phố trực thuộc trung
ương, là trung tâm lớn và đặc sắc của cả
nước về văn hóa-du lịch, KH&CN, y tế
chuyên sâu và giáo dục-đào tạo đa ngành, đa
lĩnh vực cất lượng cao. Trong năm qua,
ngành KH&CN đã nỗ lực hoàn thành các kế
hoạch công tác và đạt được những kết quả rất
đáng ghi nhận dưới đây.
Về công tác tham mưu, Sở KH&CN đã
trình UBND tỉnh phê duyệt Đề án “Xây dựng
Thừa Thiên Huế thành một trong những
trung tâm KH&CN của cả nước” tại Quyết
định số 898/QĐ-UBND ngày 13/5/2013. Như
vậy, chúng ta đã hoàn thành các văn bản cần
thiết cho mục tiêu “xây dựng Thừa Thiên
Huế thành một trung tâm KH&CN”, bao
gồm Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy
(Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 15/11/2011),
Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số
07-NQ/TU của UBND tỉnh (Quyết định số
1104/QĐ-UBND ngày 20/6/2012) và Đề án
“Xây dựng Thừa Thiên Huế thành một
trong những trung tâm KH&CN của cả
nước” vừa dẫn. Bên cạnh đó, ngành đã
tham mưu cho UBND tỉnh ban hành nhiều
văn bản quan trọng khác, như Quyết định số
19/2013/QĐ-UBND ngày 20/5/2013 “Quy
định quản lý nhà nước về Công nghệ trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”; Quyết định số
1746/QĐ-UBND ngày 6/9/2013 “Phê duyệt
Chiến lược phát triển thương hiệu các đặc
sản tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020”,
Quyết định số 43/2013/QĐ-UBND ngày
1/11/2013 “Ban hành Quy định việc tổ chức
xét, công nhận sáng kiến và các biện pháp
thúc đẩy hoạt động sáng kiến trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế”… Các quyết định này
đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về
KH&CN trên địa bàn tỉnh nhà.
Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ được tiếp tục quan tâm, đặc
biệt chú trọng các nhiệm vụ có tiềm năng
ứng dụng. Trong năm 2013 tỉnh đưa vào kế
hoạch triển khai thực hiện 63 nhiệm vụ
nghiên cứu thử nghiệm các cấp, trong đó có
08 nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước (04
nhiệm vụ mới), 48 nhiệm vụ cấp tỉnh (16
nhiệm vụ mới) và 07 nhiệm vụ cấp cơ sở (02
nhiệm vụ mới). Nhiều nhiệm vụ mới được
nghiệm thu đã được đưa vào triển khai ứng
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 3
dụng, ví dụ như đề tài “Ứng dụng các
phương pháp nổ mìn vi sai cho các đơn vị có
sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế” đã áp dụng thành công
nổ mìn vi sai phi điện với lượng thuốc nổ
3.000kg/lần nổ. Đây là phương pháp nổ mìn
mang lại hiệu quả cao, an toàn, phù hợp với
địa phương, giảm thiểu tác động môi trường,
kết quả đề tài đã được chuyển giao cho 05
đơn vị ứng dụng.
Hoạt động quản lý Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng nổi bật trong năm là triển khai việc
xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008
tại các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh;
kết quả là UBND tỉnh Thừa Thiên Huế trở
thành một trong những UBND tỉnh đầu tiên
trên toàn quốc được cấp giấy chứng nhận hệ
thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn
TCVN ISO 9001:2008 (Tổng cục Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng-Bộ KH&CN cấp Giấy
Chứng nhận ngày 17/5/2013).
Hoạt động an toàn bức xạ hạt nhân ngày
càng đi vào nền nếp, đặc biệt là việc đăng ký
hoạt động và cấp giấy phép sử dụng các thiết
bị bức xạ y tế (thiết bị X-quang) đã được các
bệnh viện và các cơ sở y tế trên địa bàn quan
tâm và chấp hành nghiêm túc. Hoạt động
quản lý công nghệ đã được các ban ngành
quan tâm, đặc biệt là hoạt động thẩm tra công
nghệ cho các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh
vốn trước đây bị bỏ lỏng.
Hoạt động sở hữu trí tuệ, phong trào lao
động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật cũng được đẩy mạnh, tiêu biểu là Cuộc
thi “Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng” thu
hút 248 “tác phẩm” dự thi, và Hội thi “Sáng
tạo kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế” lần thứ
sáu-năm 2013 với 36 mô hình, sản phẩm
tham gia dự thi, đánh dấu sự thành công của
phong trào lao động sáng tạo. Ban tổ chức đã
chọn và trao giải cho 47 đề tài và nhóm giải
pháp của các cá nhân và tập thể tham gia.
Bên cạnh đó, “Triển lãm sản phẩm sáng tạo
của sinh viên và cán bộ trẻ” (11-12/5/2013)
do Đại học Huế và Cục Phát triển thị trường
và doanh nghiệp KH&CN đã thu hút gần 160
sản phẩm sáng tạo thuộc các lĩnh vực khoa
học kỹ thuật, khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội và nhân văn, khoa học nông-lâm-ngư
nghiệp và khoa học y dược tham dự. Triễn
lãm đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của
người xem vì “sức sáng tạo dồi dào và đầy
tiềm năng” của sinh viên và cán bộ trẻ đang
học tập và nghiên cứu tại Đại học Huế.
Hoạt động hợp tác KH&CN trong năm
2013 được đánh dấu bằng việc ký kết hợp tác
về KH&CN giai đoạn 2014-2020 giữa
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế với Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam (ngày 20/11/2013)
và với Đại học Huế (ngày 20/12/2013). Việc
ký kết hợp tác này là một tiền đề quan trọng
trong việc huy động các nguồn lực của Đại
học Huế và Viện Hàn lâm KH&CN Việt
Nam nhằm sớm xây dựng Thừa Thiên Huế
trở thành một trong những trung tâm
KH&CN của vùng Kinh tế trọng điểm miền
Trung cũng như của cả nước.
Trong năm qua, Trường Đại học Y Dược
Huế đã khánh thành Trung tâm Nội soi Tiêu
hóa với các trang thiết bị hiện đại do Nhật
Bản tài trợ. Đây là một trong các hệ thống
nội soi mới lần đầu tiên được triển khai ở
Việt Nam, được đánh giá là trung tâm tầm cỡ
đứng đầu quốc gia. Sự ra đời của Trung tâm
Nội soi Tiêu hóa góp phần tăng cường cơ sở
hạ tầng y tế chuyên sâu và hình thành thêm
một thiết chế KH&CN mạnh cho tỉnh nhà.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 4
Hoạt động KH&CN ở cơ sở (cấp huyện/
cấp sở) cũng rất sôi động, với nhiều dự án
ứng dụng có hiệu quả vào đời sống thực
tiễn sản xuất của địa phương, của ngành/
lĩnh vực…
Mặc dù năm 2013 được xác định là “Năm
đô thị”-ưu tiên tập trung các nguồn lực cho
hạ tầng đô thị, nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn dành
những quan tâm cho KH&CN, từ việc chỉ
đạo sâu sát và thường xuyên đến việc cân đối
bố trí các nguồn lực cho ngành KH&CN hoạt
động có hiệu quả. Cùng với việc học tập,
nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết của
Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW
ngày 01/11/2012 (Hội nghị Trung ương VI-
Khóa XI) về “Phát triển KH&CN phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trong điều kiện thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, các
kết quả hoạt động KH&CN của tỉnh nhà
trong năm qua góp phần nâng cao nhận thức
của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vị
trí “là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then
chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã
hội” của KH&CN, như Hiến pháp 2013 đã
khẳng định (Điều 62-Hiến pháp 2013).
PV: Ngày 13/5/2013 vừa qua, UBND tỉnh
Thừa Thiên Huế đã phê duyệt đề án “Xây
dựng Thừa Thiên Huế trở thành Trung tâm
KH&CN”. Vậy, mục tiêu của đề án là gì và
ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ chuẩn bị những
gì để thực hiện thành công đề án, thưa ông?
PGS, TS Trần Ngọc Nam: Mục tiêu tổng
quát của đề án là “xây dựng Thừa Thiên Huế
trở thành một trong những trung tâm
KH&CN của vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung và cả nước, có hệ thống thiết chế và cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại,
đồng bộ; có đội ngũ cán bộ KH&CN đủ khả
năng tiếp thu, làm chủ, phát triển các công
nghệ tiên tiến và hiện đại hoá công nghệ
truyền thống; có nhiều công trình nghiên cứu
giá trị trên các lĩnh vực KH&CN; đưa
KH&CN thực sự trở thành động lực then chốt,
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hoá; đến năm 2020 có một số lĩnh vực
KH&CN đạt trình độ tiên tiến, hiện đại của cả
nước”. Đề án đã đề ra 9 mục tiêu cụ thể cho
từng giai đoạn đến năm 2015 và 2020.
Để đạt được các mục tiêu trên, đề án đã
xác định 05 nhóm giải pháp chủ yếu gồm:
Giải pháp về nguồn nhân lực; Giải pháp về
hoàn thiện hệ thống thiết chế; Giải pháp về
xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển
KH&CN; Giải pháp về mở rộng liên kết và
tăng cường hợp tác về KH&CN; và Giải
pháp về kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về KH&CN.
Như vậy, để Thừa Thiên Huế tiến đến trở
thành một trong những trung tâm KH&CN của
cả nước, hai nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung
giải quyết là xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực KH&CN và đầu tư phát triển hoàn thiện hệ
thống thiết chế KH&CN (thuộc nhóm “giải
pháp nguồn nhân lực” và nhóm “giải pháp về
hoàn thiện hệ thống thiết chế” trong đề án đã
phê duyệt). Trung tâm KH&CN phải là nơi thu
hút và lan tỏa các hoạt động KH&CN. Cốt lõi
của hoạt động KH&CN là chủ thể của hoạt
động này (đội ngũ nhân lực KH&CN) và môi
trường để họ hoạt động. Môi trường hoạt động
hay môi trường làm việc bao gồm cơ sở hạ
tầng kỹ thuật (phòng thí nghiệm, trang thiết bị
nghiên cứu…) và cơ chế, chính sách, đãi
ngộ…, trong đó yếu tố cơ sở hạ tầng kỹ thuật
có ý nghĩa rất quan trọng, chi phối trực tiếp đến
kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 5
Cần phải nhận thức rằng, nhiệm vụ “xây
dựng và phát triển đội ngũ nhân lực
KH&CN” và nhiệm vụ “đầu tư phát triển
hoàn thiện hệ thống thiết chế KH&CN”
phải tiến hành đồng thời và phải đảm bảo
nguyên tắc “tương thích”. Nếu có đội ngũ
nhân lực KH&CN mạnh (đông về số
lượng, trình độ cao về chất lượng), nhưng
thiếu điều kiện để làm việc (thiếu trang
thiết bị hoặc trang thiết bị, phòng thí
nghiệm nghèo nàn lạc hậu…) sẽ gây ra
lãng phí và không tránh khỏi hiện tượng
“chảy chất xám” (không phải là lan tỏa).
Ngược lại, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
hiện đại vượt quá khả năng hay trình độ sử
dụng của đội ngũ nhân lực cũng gây ra sự
lãng phí lớn; đặc biệt trong thời đại
KH&CN phát triển như hiện nay, tuổi thọ
của các công nghệ ngày càng ngắn thì việc
đầu tư mua sắm các trang thiết bị phục vụ
cho hoạt động nghiên cứu cần phải được
xem xét một cách cẩn trọng hơn.
Để đạt được mục tiêu của đề án, ngay từ
bây giờ chúng ta phải chuẩn bị mọi điều
kiện để đầu tư cho KH&CN của tỉnh nhà;
phải tuyên truyền, vận động để các cấp các
ngành quán triệt đúng quan điểm “phát
triển và ứng dụng KH&CN là quốc sánh
hàng đầu, là một trong những động lực
quan trọng nhất để phát triển kinh tế-xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung
cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước
một bước trong hoạt động của các ngành,
các cấp” (Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban
chấp hành Trung ương khóa XI). Nếu
không có sự đầu tư (đầu tư cả nhân lực, vật
lực, tài lực) thì nghị quyết, kế hoạch hay
đề án cũng chỉ tồn tại bằng những câu chữ
trên giấy.
PV: Ông có thể cho biết thêm việc triển
khai các nhiệm vụ ưu tiên trong chương trình
đã đăng ký với UBND tỉnh trong năm 2014
là gì?
PGS, TS Trần Ngọc Nam: Những nhiệm
vụ ưu tiên năm 2014 của ngành KH&CN bao
gồm: Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành
các quy định về “quản lý đo lường, chất
lượng vàng”, “quản lý nhà nước về công tác
an toàn bức xạ” trên địa bàn tỉnh; xây dựng
và triển khai đề án “xây dựng và áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
TCVN ISO 9001:2008” cho 15% xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh; xây dựng
dự án khả thi hạng mục “Rừng mưa nhiệt
đới” trong Quy hoạch Bảo tàng thiên nhiên
duyên hải miền Trung (Quy hoạch đã được
UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số
2234/QĐ-UBND ngày 29/10/2013).
Tích cực triển khai các dự án và các
nhiệm vụ trong Đề án “Xây dựng Thừa Thiên
Huế thành trung tâm KH&CN của cả
nước” (Quyết định 898), trong đó trọng tâm
là triển khai thành công hai dự án đầu tư cho
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN và
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng; phối hợp chặt chẽ với Bộ
KH&CN trong việc đề xuất đưa khu công
nghệ cao tỉnh Thừa Thiên Huế vào quy hoạch
các khu công nghệ cao của quốc gia; phối
hợp với Đại học Huế, với Viện Hàn lâm
KH&CN Việt Nam trong việc xây dựng các
dự án đầu tư phòng thí nghiệm trọng điểm
quốc gia và đầu tư xây dựng Viện Khoa học
miền Trung tại Huế…
PV: Xin cám ơn ông đã có cuộc trao đổi
này, kính chúc ông và gia đình một năm mới
sức khỏe và hạnh phúc.
Vỹ Khang
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 6
NHỮNG NỖ LỰC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ NĂM 2013 CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
09 văn bản về khoa học và công nghệ (KH&CN) được ban hành; 11 nhiệm vụ KH&CN
cấp nhà nước có kinh phí trung ương hỗ trợ, 06 kết quả nghiên cứu triển khai nổi bật… là
những con số đáng ghi nhận trong hoạt động KH&CN của tỉnh Thừa Thiên Huế trong
năm 2013, tạo điều kiện thuận lợi cho việc “Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một
trong những trung tâm KH&CN của cả nước”. Hãy cùng chúng tôi điểm lại những thành
quả quan trọng này trong thời gian vừa qua.
Từ những nỗ lực
Thực hiện Quyết định 2496/QĐ-UBND
ngày 28/12/2012 của UBND tỉnh về việc
triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế-xã hội năm 2013 và Quyết định số
1104/QĐ-UBND ngày 20/06/2012 về Kế
hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Tỉnh ủy lần thứ V về xây dựng Thừa
Thiên Huế trở thành một trong những trung
tâm KH&CN của cả nước (giai đoạn từ nay
đến 2020), thời gian vừa qua, bằng sự cố
gắng không ngừng, hoạt động ngành
KH&CN của tỉnh đã tiếp tục tăng cường
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
KH&CN. Ngoài ra, trong năm 2013, ngành
KH&CN đã tham mưu
UBND tỉnh ban hành
09 văn bản quan trọng,
đặc biệt đã xây dựng
nhiều đề án trình
UBND tỉnh ban hành,
như Quyết định phê
duyệt Đề án “Xây dựng
Thừa Thiên Huế trở
thành một trong những
trung tâm KHCN của
cả nước”; Quyết định
“Quy định quản lý nhà
nước về Công nghệ trên
địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”; Quyết định
“Phê duyệt Chiến lược phát triển thương
hiệu các đặc sản tỉnh Thừa Thiên Huế đến
năm 2020”...
Ngoài ra, trong năm ngành đã tổng kết các
hoạt động hợp tác nhằm thúc đẩy phát triển
KH&CN giữa tỉnh Thừa Thiên Huế với Đại
học Huế và Viện Hàn lâm KH&CN Việt
Nam. Theo đó, đã tham mưu UBND ký kết
02 văn bản thỏa thuận hợp tác mới, đó là văn
bản thỏa thuận hợp tác về KH&CN giữa
UBND tỉnh và Viện Hàn lâm KH&CN Việt
Nam giai đoạn 2014-2020 và văn bản thỏa
thuận hợp tác về KH&CN giữa UBND tỉnh
và Đại học Huế giai đoạn 2014-2020.
Hội nghị tổng kết ngành KH&CN năm 2013
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 7
Đối với nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, trong năm 2013 đã triển khai thực
hiện 63 nhiệm vụ nghiên cứu thử nghiệm các
cấp (22 nhiệm vụ mới và 41 nhiệm vụ tiếp
tục), trong đó có 08 nhiệm vụ KH&CN cấp
nhà nước (04 nhiệm vụ mới), 48 nhiệm vụ
cấp tỉnh (16 nhiệm vụ mới) và 07 nhiệm vụ
cấp cơ sở (02 nhiệm vụ mới). Theo đó, 11
nhiệm vụ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, 12
nhiệm vụ thuộc lĩnh vực khoa học nông
nghiệp, 06 nhiệm vụ thuộc lĩnh vực khoa học
tự nhiên, 11 nhiệm vụ thuộc lĩnh vực
KH&CN, 08 nhiệm vụ thuộc lĩnh vực khoa
học y dược.
Về hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất
lượng, trong năm 2013, hoạt động này tiếp tục
tổ chức kiểm tra đo lường, chất lượng sản
phẩm, hàng hóa trên địa bàn, đặc biệt mặt hàng
nhạy cảm là xăng dầu thường xuyên được kiểm
tra. Qua các đợt kiểm tra, phần lớn các hàng
hóa lưu thông trên thị trường như ở siêu thị, các
chợ, các cửa hàng đều đảm bảo yêu cầu về kỹ
thuật đo lường. Phương tiện đo ổn định, nhận
thức trong việc quản lý của các cá nhân, tổ chức
đang sử dụng phương tiện đo ngày một nâng
cao. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực
tế vẫn còn gặp một số khó khăn như nhận thức
của người kinh doanh về vấn đề an toàn, chất
lượng hàng hóa, sản phẩm còn hạn chế, việc
đóng gói các mặt hàng chưa đủ khối lượng tịnh
ghi trên nhãn, hoặc hàng hóa không có nhãn
phụ, ghi hạn sử dụng, nguồn gốc. Ngoài ra,
trong năm đã triển khai tốt xây dựng và áp dụng
hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
TCVN ISO 9001:2008 tại các cơ quan hành
chính trên địa bàn tỉnh, cụ thể đã hướng dẫn 20
đơn vị là các sở, ban, ngành, UBND thị xã và
thành phố xây dựng đề án triển khai ISO hành
chính mở rộng...
Về hoạt động an toàn bức xạ hạt nhân,
quản lý công nghệ, sau khi UBND tỉnh ban
hành Quy định quản lý nhà nước về công
nghệ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, bước
đầu đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, giúp cho
hoạt động quản lý nhà nước về công nghệ
ngày càng được chặt chẽ, trong năm Sở đã tổ
chức thẩm tra công nghệ cho 12 dự án đầu tư
(cả năm 2012 chỉ thẩm tra 05 dự án; cấp giấy
phép sử dụng thiết bị bức xạ y tế cho 12 đơn
vị (24 thiết bị), trong đó cấp giấy phép cho
Bệnh viện Trung ương Huế 10/10 thiết bị.
Hoạt động sở hữu trí tuệ đã có được
những kết quả nhất định, công tác tuyên
truyền phổ biến, hỗ trợ phát triển tài sản trí
tuệ, hỗ trợ xác lập quyền sở hữu trí tuệ ngày
càng được quan tâm, trong đó đặc biệt là
việc tư vấn chuyên môn thực hiện hỗ trợ
đăng ký xác lập quyền nhãn hiệu cho một
số tổ chức, cá nhân; hoạt động hướng dẫn
doanh nghiệp và cá nhân trong việc làm đơn
đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công
nghiệp cũng đã được triển khai thường
xuyên. Năm 2013, trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp 36
văn bằng bảo hộ (35 kiểu dáng; 01 sáng
chế/giải pháp hữu ích). Tính đến thời điểm
này, trên địa bàn tỉnh đã có 578 văn bằng
bảo hộ được cấp (523 nhãn hiệu; 49 kiểu
dáng; 06 sáng chế/giải pháp hữu ích)...
Đối với hoạt động KH&CN cấp huyện,
trong năm, Hội đồng KH&CN tại các huyện,
thị xã, thành phố đang dần hoạt động hiệu quả
hơn, tư vấn cho địa phương những nhiệm vụ
KH&CN thiết thực, giải quyết được nhiều
vấn đề của địa phương, thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội của địa phương. Năm 2013, 09
huyện, thị xã, thành phố đã phê duyệt và triển
khai 39 nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở, với
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 8
tổng kinh phí gần 3,2 tỷ đồng. Theo PGS, TS
Trần Ngọc Nam, Giám đốc Sở KH&CN, so
với thời gian trước đây (trước năm 2012) thì
đây là một thành công đáng khích lệ của hoạt
động KH&CN cấp huyện, các địa phương bắt
đầu quan tâm hơn trong việc ứng dụng kết
quả các đề tài dự án đã nghiên cứu thành
công để xây dựng các mô hình ứng dụng tại
địa phương mình, tổ chức tập huấn chuyển
giao công nghệ... góp phần tích cực cho sự
phát triển kinh tế-xã hội.
Năm 2013, hoạt động KH&CN tại các sở,
ban ngành tiếp tục được đẩy mạnh công tác
cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả trong
công tác quản lý nhà nước. Các sở, ban,
ngành cấp tỉnh đều tập trung vào triển khai
áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo
TCVN ISO 9001:2008, đồng thời đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ thông tin để điều
hành xử lý công việc, triển khai cung cấp các
dịch vụ hành chính công, tạo đà cho một năm
triển khai thành công và đạt hiệu quả cao kế
hoạch 2013 của đơn vị mình.
Điều đáng ghi nhận hơn hết là các hoạt
động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, trong năm đã có những thành công
đáng kể. Có thể kể đến các đề tài mang lại
hiệu quả kinh tế-xã hội trên địa bàn như
“Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phát
triển bền vững loại hình du lịch văn hóa tâm
linh trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”,
“Đánh giá thực trạng các hợp tác xã trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế và đề xuất giải
pháp phát triển bền vững trong thời kỳ hội
nhập”, “Đánh giá sức tải môi trường vùng
đầm phá Tam Giang-Cầu Hai và đề xuất các
giải pháp phát triển bền vững”, “Nghiên cứu
sản xuất enzyme β-glucanase tái tổ hợp từ
Trichoderma asperellum trong nấm men”,
“Nghiên cứu thành phần loài và tác dụng dược
lý của Polysaccharide và Triterpenoide trong
nấm Linh chi (Ganoderma lucidum) nuôi
trồng tại Thừa Thiên Huế”, “Nghiên cứu
xây dựng và vận hành hệ thống Sổ tay công
tác nghiệp vụ hành chính trên môi trường
mạng”, “Nghiên cứu áp lực nội sọ trong hồi
sức cấp cứu và đề xuất giải pháp giảm tỷ lệ
tử vong ở bệnh nhân chấn thương sọ não
nặng điều trị tại Bệnh viện Trung ương
Huế”, “Nghiên cứu tình hình nhiễm Human
Papilloma Virus (HPV) sinh dục và tổn
thương cổ tử cung của phụ nữ tỉnh Thừa
Thiên Huế và đề xuất giải pháp phòng
chống”, “Nghiên cứu nguyên nhân gây dịch
bệnh trên tôm sú nuôi bán thâm canh trong
đầm phá, đề xuất giải pháp phòng ngừa và
triển khai thí điểm một số giải pháp làm
giảm hậu quả dịch bệnh”, “Thử nghiệm
ứng dụng chất điều hòa sinh trưởng để tăng
năng suất và chất lượng mủ cao su khai
thác trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”…
Có thể nhìn nhận rằng, năm 2013, tuy còn
nhiều khó khăn như chưa xây dựng và thực
hiện lộ trình đổi mới công nghệ các doanh
nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm,
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường; các nguồn lực KH&CN của
tỉnh còn hạn chế, sử dụng phân tán, chưa đạt
hiệu quả cao nhất, chưa có các tổ chức
KH&CN thực sự mạnh; đội ngũ cán bộ
chuyên trách tại các sở ban ngành và cấp
huyện còn mỏng, thiếu và chưa ổn định do
thường xuyên thay đổi và luân chuyển...
Song được sự quan tâm, chỉ đạo của UBND
tỉnh nên hoạt động KH&CN đã triển khai
hoàn thành theo đúng kế hoạch, chương trình
công tác của UBND tỉnh; nhiều đề tài, dự án
đã nghiên cứu thành công trong năm 2013
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 9
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội
của địa phương.
Đến định hướng cho thời gian tiếp theo
Ngày 13/01/2014, ngành KH&CN tổ
chức tổng kết năm 2013, theo đó, trong thời
gian đến, ngành KH&CN của tỉnh sẽ tiếp
tục huy động mọi nguồn lực, từng bước đầu
tư cơ sở vật chất của ngành, tạo tiền đề để
sớm đưa tỉnh Thừa Thiên Huế thành trung
tâm KH&CN của vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn sự nghiệp khoa học, hướng các nhiệm
vụ KH&CN ngày càng giải quyết tốt hơn yêu
cầu thực tiễn cuộc sống, phục vụ thiết thực
cho kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
của tỉnh.
Để đạt được những mục tiêu đó, việc làm
quan trọng của ngành KH&CN của tỉnh là
Cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và
bền vững, tham gia tích cực trong quá trình lập
đề án đưa tỉnh Thừa Thiên Huế lên đô thị loại I
trực thuộc trung ương.
Trao đổi với chúng tôi về những định
hướng và kế hoạch trong năm tới, PGS, TS
Trần Ngọc Nam cho rằng: “Ngoài các nhiệm
vụ được thực hiện, trong năm 2014, ngành
KH&CN của tỉnh nhà cần hoàn thiện hồ sơ đề
nghị thành lập Khu công nghệ cao quốc gia tại
Thừa Thiên Huế, tìm tài trợ cho dự án “Đầu tư
xây dựng Bảo tàng Thiên nhiên Duyên hải
miền Trung tại Huế” bằng nguồn vốn ODA;
tiếp tục triển khai thực hiện 02 dự án “Nâng
cao năng lực của Trung tâm Ứng dựng tiến bộ
KH&CN Thừa Thiên Huế”; “Đầu tư, tăng
cường khả năng kiểm định, thử nghiệm chất
lượng sản phẩm, hàng hóa cho Trung tâm Kỹ
thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Thừa
Thiên Huế, giai đoạn 2013-2015”.
PGS, TS Trần Ngọc Nam cho biết thêm,
để có nguồn vốn cho phát triển ngành, bên
cạnh vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân
sách tập trung, nguồn vốn đầu tư cho
KH&CN cần phải được xã hội hóa, hướng
dẫn các doanh nghiệp thành lập và sử dụng
Quỹ Phát triển KH&CN của doanh nghiệp;
hỗ trợ nhiều hơn nữa cho
các tổ chức KH&CN
trung ương đang hoạt
động tại địa phương...
nhằm định hướng và xây
dựng một trung tâm
KH&CN trong thời gian
sớm nhất.
Vỹ Khang
Tổng kết Chương trình hợp tác về KH&CN giữa UBND tỉnh với Đại học Huế giai đoạn 2008-2013
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 10
1. Đề án “Xây dựng Thừa Thiên Huế thành trung
tâm KH&CN của miền Trung và cả nước”
Ngày 13/5/2013, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban
hành Quyết định số 898/QĐ-UBND phê duyệt đề án “Xây
dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm
khoa học và công nghệ của miền Trung và cả nước” (gọi tắt
là đề án). Mục tiêu tổng quát của đề án là xây dựng Thừa
Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm khoa học và
công nghệ (KH&CN) của vùng kinh tế trọng điểm của miền
Trung và cả nước, có hệ thống thiết chế và cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, trang thiết bị hiện đại, đồng bộ; có đội ngũ cán bộ
KH&CN đủ khả năng tiếp thu, làm chủ, phát triển các công
nghệ tiên tiến và hiện đại hoá công nghệ truyền thống; có
nhiều công trình nghiên cứu giá trị trên các lĩnh vực
KH&CN; đưa KH&CN thực sự trở thành động lực then
chốt, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá; đến
năm 2020 có một số lĩnh vực KH&CN đạt trình độ tiên tiến,
hiện đại của cả nước. Theo đề án, sẽ có 36 chương trình, dự
án ưu tiên xây dựng và phát triển KH&CN từ nay đến năm
2020. Trong đó đáng chú ý là Đề án thành lập Khu Công
nghệ cao Thừa Thiên Huế; Viện Nghiên cứu Bảo tồn Di sản
Huế, Viện Nghiên cứu Hán-Nôm, Viện Nghiên cứu Văn hóa
Huế, Thư viện Hoàng gia, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát
triển; Bảo tàng Thiên nhiên Duyên hải miền Trung và các
trung tâm ứng dụng khoa học kỹ thuật.
2. Nhân rộng phương pháp nổ mìn vi sai cho 5 đơn vị
ứng dụng
Tiếp theo thành công của đề tài “Ứng dụng các phương
pháp nổ mìn vi sai cho các đơn vị có sử dụng vật liệu nổ
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” được thực
hiện trong năm 2013, Sở Công Thương đã triển khai ứng
dụng đại trà cho các đơn vị khai thác mỏ có sử dụng vật liệu
nổ công nghiệp trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao năng suất
lao động, hiệu quả kinh tế và đặc biệt đảm bảo an toàn trong
quá trình sản xuất, hạn chế tối đa của ảnh hưởng nổ mìn đối
với các công trình lân cận và các khu dân cư. Hiện nay đã có
5 đơn vị ứng dụng thành công đề tài, bao gồm: Công ty
TNHH Luks-Trường Sơn, Công ty Cổ phần Trường Sơn,
10
SỰ
KIỆN
KHOA
HỌC
VÀ
CÔNG
NGHỆ
TỈNH
THỪA
THIÊN
HUẾ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 11
Công ty TNHH Coxano-Hương Thọ, Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng thương mại và công
nghệ Hà Nội (khai thác mỏ đá vôi xi măng Đồng Lâm), Công ty Cổ phần khai thác đá Thừa
Thiên Huế. Sở Công Thương cũng đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Quyết định số
42/2013/QĐ-UBND ngày 31/10/2013 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản
lý, hoạt động vật liệu nổ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đề tài thực hiện có
một ý nghĩa thiết thực đối với công tác quản lý nhà nước về VLNCN, đồng thời giúp cho
doanh nghiệp tiếp cận với các phương pháp nổ mìn mới trong khai thác đá để đảm bảo an
toàn cho người và thiết bị, giảm thiểu được các ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường xung
quanh và nâng cao hiệu quả kinh tế.
3. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, một trong những UBND tỉnh đầu tiên trên toàn
quốc được cấp Giấy chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn
TCVN ISO 9001:2008
Theo Quyết định số 1372/
QĐ-TĐC ngày 17/5/2013 của
Tổng cục Tiêu chuẩn Đo
lường Chất lượng, Hệ thống
quản lý chất lượng
(HTQLCL) của UBND tỉnh
Thừa Thiên Huế được chứng
nhận bao gồm các quy trình
hệ thống và 72 quy trình tác
nghiệp nhằm giải quyết toàn
bộ hoạt động chỉ đạo điều
hành của UBND tỉnh.
Quá trình áp dụng, duy
trì và cải tiến HTQLCL theo
tiêu chuẩn ISO đã giúp UBND tỉnh phát hiện được những khiếm khuyết, hạn chế, bất cập
trong thực hiện nhiệm vụ của các cá nhân, đơn vị. Từ đó, lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo Văn
phòng UBND tỉnh có các biện pháp chấn chỉnh kịp thời nhằm nâng cao năng lực hoạt động
cũng như việc tổ chức hoạt động của các đơn vị trực thuộc. Việc giải quyết hồ sơ của tổ chức,
cá nhân được thực hiện một cách khoa học, theo đúng trình tự. Đặc biệt, đã có sự chuyển
biến trong việc giải quyết công việc hàng ngày, như: quy trình và thủ tục giải quyết được
công khai; trách nhiệm của mỗi đơn vị, cá nhân trong từng công việc được rõ ràng hơn; thời
gian giải quyết công việc nhanh hơn…
Từ các kết quả thu được, lãnh đạo UBND tỉnh luôn xem HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO là
một công cụ hỗ trợ đắc lực trong quản lý, điều hành và tác nghiệp, được kiểm tra kiểm soát
chặt chẽ, khoa học; cùng với ứng dụng tin học, HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO có tác dụng
thúc đẩy mạnh mẽ công tác cải cách hành chính, nâng cao tính chuyên nghiệp của cán bộ
công chức viên chức, xây dựng văn hóa công sở.
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế nhận Giấy chứng nhận HTQLCL phù hợp TCVN ISO 9001:2008
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 12
4. Quyết định số 19/2013/QĐ-UBND về việc ban hành Quy định quản lý công nghệ
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
Ngày 20/5/2013, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quyết định số 19/2013/QĐ-UBND
về việc ban hành Quy định quản lý công nghệ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đối tượng
thẩm tra công nghệ là các dự án đầu tư thuộc Danh mục lĩnh vực các dự án đầu tư cần thẩm
tra công nghệ trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế được quy định tại Quyết định số 1514/QĐ-
UBND ngày 21 tháng 8 năm 2012 của UBND tỉnh; Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì, tùy
theo mức độ phức tạp công nghệ của dự án, phối hợp các ngành liên quan tổ chức thẩm tra
công nghệ các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư .
Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh, Ban Quản lý Khu Kinh tế Chân Mây - Lăng Cô
chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan tổ chức thẩm tra công nghệ các dự án đầu tư
thuộc thẩm quyền của Ban cấp giấy chứng nhận đầu tư. Quy định này được ban hành nhằm
tạo điều kiện tốt hơn trong việc thẩm tra công nghệ các dự án đầu tư, đăng ký hợp đồng
chuyển giao công nghệ, giám định công nghệ và dịch vụ chuyển giao công nghệ trên địa bàn.
5. Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật lần
thứ VI
Ngày 22/11/2013, Ban tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi
Sáng tạo Kỹ thuật lần thứ VI đã tổ chức lễ trao giải thưởng cho 19 đề tài của Cuộc thi Sáng
tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và 28 giải pháp đạt giải của Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật. Bên
cạnh đó, Ban tổ chức cũng khen thưởng 18 tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác
tuyên truyền, phổ biến và tổ chức Cuộc thi, Hội thi năm 2013. Trong năm nay, Cuộc thi Sáng
tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng thu hút 248 mô hình, sản phẩm đăng ký tham gia tại cơ sở
(tăng gần 26% so với năm 2012) và có 36 mô hình, sản phẩm được gửi tham gia Cuộc thi cấp
tỉnh, Ban tổ chức đã chọn được 19 sản phẩm, mô hình để trao giải cấp tỉnh. Đối với Hội thi
Sáng tạo Kỹ thuật, đã có 42 công trình, giải pháp đăng ký tham gia trên 7 lĩnh vực dự thi
(tăng 24% so với Hội thi lần thứ V), trong đó có 28 giải pháp được Hội đồng chấm thi và Ban
tổ chức chọn trao giải. Cuộc thi sáng tạo Thanh thiếu niên, Nhi đồng và Hội thi sáng tạo Kỹ
thuật tỉnh Thừa Thiên Huế được tổ chức nhằm khơi dậy tiềm năng và phát huy tư duy sáng
tạo của thanh thiếu niên nhi đồng, đồng thời ghi nhận và tôn vinh các tập thể, cá nhân có
những công trình khoa học có giá trị, các giải pháp kỹ thuật hữu ích đã được áp dụng trên địa
bàn tỉnh và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao; tuyển chọn các đề tài, giải pháp tham gia
các cuộc thi và hội thi toàn quốc.
6. Triển lãm sáng tạo của sinh viên và cán bộ trẻ Đại học Huế
Ngày 11/5, Triển lãm sáng tạo của sinh viên và cán bộ trẻ năm 2013 do Đại học Huế phối
hợp với Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Bộ Khoa học và
Công nghệ), Chương trình đối tác mới sáng tạo Việt Nam-Phần Lan tổ chức đã diễn ra tại
Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế. Tham gia triển lãm có 158 sản phẩm
sáng tạo của sinh viên và cán bộ trẻ được chia thành 5 lĩnh vực: khoa học kỹ thuật, khoa học
y dược, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn và khoa học nông - lâm - ngư nghiệp.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 13
Triển lãm là dịp để các sinh viên, giảng viên giới thiệu các sản phẩm sáng tạo của mình với
các nhà đầu tư, doanh nghiệp và nhà quản lý. Đây cũng là cơ hội để khích lệ hoạt động sáng
tạo của cán bộ và sinh viên trong nghiên cứu khoa học và đào tạo; hình thành mối liên kết
giữa trường đại học với cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư, kết nối cung-cầu và thúc
đẩy phát triển thị trường công nghệ để từng bước xây dựng Đại học Huế trở thành trung tâm
đào tạo và chuyển giao khoa học công nghệ của khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Các sản
phẩm tham gia triển lãm đã thể hiện sức sáng tạo dồi dào đầy tiềm năng của sinh viên, giảng
viên trẻ của Huế, những sản phẩm này không chỉ có giá trị trong địa bàn tỉnh mà sẽ có sức
lan tỏa sang những khu vực khác. Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục có sự hỗ trợ
các nhà khoa học, giảng viên sinh viên trẻ ở Huế trong hoạt động nghiên cứu khoa học để
ngày càng có nhiều hơn các sản phẩm, giải pháp, kết quả nghiên cứu có khả năng hoàn thiện
và đưa vào ứng dụng, thương mại hóa, đáp ứng nhu cầu phát triển khoa học của đất nước.
7. Ký thỏa thuận hợp tác về KH&CN
Trong năm 2013, tỉnh
Thừa Thiên Huế đã ký kết
02 văn bản thỏa thuận hợp
tác về KH&CN giai đoạn
2014-2020 với các đối tác
quan trọng, đó là Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam (ký
ngày 20/11/2013) và Đại
học Huế (ký ngày
20/12/2013). Theo thỏa
thuận hợp tác, hai bên thống
nhất hợp tác toàn diện về
KH&CN, tập trung vào một
số nội dung gồm: tư vấn và
xây dựng tiềm lực KH&CN cho tỉnh Thừa Thiên Huế; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao
công nghệ, trao đổi thông tin về KH&CN; huy động vốn hoạt động KH&CN; khuyến khích
và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học tham gia nghiên cứu giải quyết các nhiệm vụ
KH&CN cho tỉnh nhà…
8. Thành lập Trung tâm Nội soi Tiêu hóa hiện đại nhất Việt Nam
Ngày 12/9, Trường đại học Y Dược-Đại học Huế tổ chức Lễ khánh thành Trung tâm Nội
soi Tiêu hóa thuộc Bệnh viện Trường đại học Y Dược Huế. Đây là trung tâm nội soi tiêu hóa
hiện đại nhất Việt Nam do Đại học Nagoya, Nhật Bản tài trợ cho Bệnh viện Trường đại học
Y Dược Huế với trị giá trên 21 tỷ đồng. Trung tâm Nội soi Tiêu hóa có hệ thống máy siêu
âm - nội soi, hệ thống máy nội soi ruột non, hệ thống chẩn đoán ung thư sớm và hệ thống nội
soi dạ dày qua đường mũi. Trung tâm đi vào hoạt động sẽ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh
ngày càng tăng của người dân cũng như phục vụ công tác đào tạo, chuyển giao công nghệ và
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 14
nghiên cứu khoa học tại Trường và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Cùng với sự hỗ
trợ về trang thiết bị hiện đại cho trung tâm, Đại học Nagoya sẽ cử chuyên gia chuyển giao kỹ
thuật, đồng thời tổ chức các khóa đào tạo tại chỗ và tại Nhật Bản cho đội ngũ y bác sĩ thuộc
Trung tâm Nội soi tiêu hóa của Bệnh viện Trường. Trung tâm có khả năng tiếp nhận trên 150
bệnh nhân/ngày và chính thức đón tiếp bệnh nhân từ ngày 12/9/2013.
9. Quy hoạch chi tiết xây dựng Bảo tàng Thiên nhiên duyên hải miền Trung
Ngày 19/12/2013, Sở KH&CN
tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức lễ
công bố Quy hoạch chi tiết xây dựng
Bảo tàng Thiên nhiên duyên hải miền
Trung với tỷ lệ 1/2.000 (theo Quyết
định số 2234/QĐ-UBND ngày
29/10/2013). Theo Quyết định, Bảo
tàng sẽ được xây dựng trên 99,36ha
thuộc Phường An Tây, thành phố
Huế, bao gồm: khu trung tâm, khu
rừng mưa nhiệt đới, khu nghiên cứu
và đào tạo nguồn nhân lực, bãi đổ
xe, vườn sở thú… Bảo tàng có chức
năng nghiên cứu khoa học, sưu tầm, lưu giữ bảo quản và tổ chức trưng bày, giới thiệu các
bộ sưu tập, mẫu vật và tư liệu về thiên nhiên vùng duyên hải miền Trung Việt Nam nhằm
phục vụ phổ biến kiến thức, giáo dục, nghiên cứu khoa học, tham quan du lịch.
10. Đại hội Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành công tốt đẹp
Vào những ngày đầu tiên của năm 2014, Đại hội Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
(Liên hiệp hội) lần thứ IV, nhiệm kỳ 2013-2018 đã thành công tốt đẹp. Hiện nay, Liên hiệp
hội có 38 tổ chức thành viên, 07 trung tâm trực thuộc, đội ngũ trí thức phát triển nhanh, số
lượng, chất lượng ngày càng được tăng cao và có mặt hầu hết trong các lĩnh vực, đảm trách
những vị trí quan trọng trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, doanh
nghiệp. Nhiệm kỳ vừa qua, Liên hiệp hội đã đạt được kết quả khá toàn diện, đồng đều trên
các mặt công tác, triển khai nghiên cứu, thực hiện thành công nhiều chương trình, đề tài, dự
án phát triển Kinh tế-xã hội, tham gia tư vấn, phản biện nhiều đề án của tỉnh, triển kha nhiều
cuộc thi sáng tạo kỹ thuật; Làm tốt chức năng thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa
học kỹ thuật, đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết đại hội và bầu Ban chấp hành Liên hiệp hội tỉnh Thừa
Thiên Huế nhiệm kỳ 2013-2018 gồm 47 đồng chí. GS,TS Trần Hữu Dàng được bầu làm chủ
tịch; ThS Trần Giải và TS Bùi Thắng làm Phó chủ tịch và ThS Hồ Đức Hưng làm Tổng
Thư ký.
BBT
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 15
1. THỪA THIÊN HUẾ HỘI ĐỦ
TIÊU CHUẨN ĐÔ THỊ LOẠI I TRỰC
THUỘC TRUNG ƯƠNG
Với tổng số 79,1/100 điểm, Thừa Thiên
Huế đã đủ các tiêu chuẩn đô thị đề nghị Bộ
Xây dựng thẩm định trình Chính phủ công
nhận là đô thị loại I trực thuộc Trung ương,
phù hợp với lộ trình nâng cấp đô thị tại Quyết
định số 1659/QĐ-TTg ngày 07/11/2012 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo tờ trình
của UBND tỉnh, Thừa Thiên Huế đã cơ bản
hội tụ các điều kiện đạt tiêu chuẩn đô thị loại I
trực thuộc Trung ương theo quy định của Nghị
định 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ về phân
loại đô thị với tính chất đặc thù đô thị Thừa
Thiên Huế là thành phố sinh thái, cảnh quan, di
sản, văn hóa và thân thiện với môi trường.
2. TRÊN 90% DÂN SỐ TỪ 18 TUỔI
TRỞ LÊN THAM GIA GÓP Ý VÀO DỰ
THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
Từ 1/4 đến 30/9/2013, trên địa bàn tỉnh
có 466.898 lượt ý kiến tham gia vào Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Theo số liệu
tổng hợp của HĐND tỉnh, từ khi triển khai tổ
chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 đến khi kết thúc, trên
địa bàn tỉnh đã tổ chức 4.913 hội nghị lấy ý
kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp,
với 655.818 lượt người tham dự (đạt tỷ lệ
90,49% dân số từ 18 tuổi trở lên). Qua đó,
góp phần xây dựng một bản Hiến pháp có
chất lượng cao, có tính dự báo và ổn định lâu
dài, thực sự là kết tinh ý chí, nguyện vọng và
trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
3. TĂNG CƯỜNG KỶ CƯƠNG, KỶ
LUẬT HÀNH CHÍNH
Thực hiện Chỉ thị số 51/2012/CT-UBND,
ngày 28/12/2012 của UBND tỉnh về tăng
cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, chấn
chỉnh lề lối làm việc, nâng cao ý thức trách
nhiệm trong thi hành công vụ của cán bộ,
công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh, ngày
09/5/2013, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch
số 55 về kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Chỉ thị số 51. Đoàn kiểm tra liên ngành của
tỉnh đã tiến hành kiểm tra tại một số cơ quan,
đơn vị, địa phương theo chương trình; đồng
thời, đã phối hợp với Trung tâm Truyền hình
Việt Nam tại thành phố Huế, Báo Thừa
Thiên Huế kiểm tra đột xuất (có ghi hình) tại
một số đơn vị và hơn 30 quán cà phê, nhà
hàng tại địa bàn thành phố Huế và thị xã
Hương Thủy.
Hoạt động của đoàn kiểm tra góp phần
nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự
chuyển biến về nhận thức và hành động của
cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi
nhiệm vụ; vận hành hiệu quả hơn hoạt động
của các cơ quan nhà nước và đơn vị sự
nghiệp trên địa bàn tỉnh.
4. KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH
ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH
(1/1/1914-1/1/2014)
Lễ kỷ niệm được tổ chức trang trọng, với
nhiều hoạt động thật sự ý nghĩa. Các hoạt
động kỷ niệm diễn ra trọng tâm từ ngày
22/12/2013 đến ngày 09/1/2014, với nhiều
hoạt động, như: phát sóng trên truyền hình
SỰ KIỆN NỔI BẬT
CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ NĂM 2013 10
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 16
các bộ phim tài liệu lịch sử về cuộc đời và sự
nghiệp Đại tướng Nguyễn Chí Thanh; xuất
bản cuốn sách Đại tướng Nguyễn Chí Thanh;
Triển lãm, trưng bày với chủ đề “Nguyễn
Chí Thanh, người học trò xuất sắc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh” tại Bảo tàng Hồ Chí
Minh tỉnh; biểu diễn vở kịch “Sáng trong
như ngọc một con người”; tổ chức các hoạt
động tưởng niệm, dâng hương, dâng hoa tại
Khu di tích lưu niệm và Tượng đài Đại
tướng tại huyện Quảng Điền-quê hương của
Đại tướng, cùng nhiều hoạt động có ý nghĩa
của các địa phương trên địa bàn tỉnh...
Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh được tổ chức vào
sáng 31/12/2013, tại Trung tâm Văn hóa
Thông tin tỉnh và phát hành Bộ tem đặc biệt
kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Đại tướng.
Cũng trong ngày này, tỉnh Thừa Thiên Huế
và thân nhân gia đình Đại tướng tổ chức lễ
dựng 3 tượng đài Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh tại Khu di tích lưu niệm Đại tướng ở
xã Quảng Thọ, Trường THPT Nguyễn Chí
Thanh, huyện Quảng Điền và Trường Chính
trị Nguyễn Chí Thanh.
5. HAI MƯƠI NĂM CỐ ĐÔ HUẾ-DI
SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
Năm 2013 đánh dấu tròn 20 năm Quần
thể di tích Cố đô Huế được công nhận là di
sản văn hóa thế giới và 10 năm Nhã nhạc
cung đình Việt Nam được vinh danh là di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Lễ kỷ niệm sự kiện đặc biệt ý nghĩa này
đã được trang trọng tổ chức sáng 22/9, tại
Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh với sự
hiện diện của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.
Thống kê từ năm 1996 đến nay đã có gần
100 công trình được phục hồi, trùng tu tôn
tạo. Quần thể di tích Cố đô Huế từ chỗ chỉ
đón hơn 200.000 lượt khách năm 1993 với
doanh thu 4 tỷ đồng, đến nay số lượng khách
đã tăng lên hơn 2 triệu lượt người, với doanh
thu hơn 100 tỷ đồng. Nguồn thu này đã góp
phần rất quan trọng trong việc tái đầu tư cho
hoạt động bảo tồn di sản.
6. “TINH HOA NGHỀ VIỆT”-
FESTIVAL NGHỀ TRUYỀN THỐNG
HUẾ LẦN THỨ 5
Diễn ra từ 27/4 đến hết 01/5/2013, Festival
nghề truyền thống Huế lần thứ 5 với chủ đề
“Tinh hoa nghề Việt” nhằm tiếp tục khẳng
định và tôn vinh những giá trị của nhiều
ngành nghề thủ công truyền thống Việt Nam,
tạo sự thúc đẩy cho việc phát triển làng nghề
cổ truyền gắn với du lịch và quảng bá hình
ảnh văn hóa Huế. Festival nghề truyền thống
Huế 2013 có sự tham gia của 40 làng nghề
và cơ sở sản xuất, hàng trăm nghệ nhân,
nghệ sĩ, nhà sưu tập cổ vật và nhà khoa học
đến từ nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước.
Đặc biệt, có sự tham gia của 2 đoàn quốc tế
lần đầu tiên đến Festival nghề Huế là Pháp
và Nhật. Trong 5 ngày diễn ra festival, đã có
gần 70 nghìn lượt khách du lịch lưu trú tại
các khách sạn, nhà nghỉ, tăng gần 21 nghìn
lượt so với festival nghề năm 2011. Không
gian tôn vinh nghệ nhân và làng nghề, các
cuộc triển lãm, trưng bày, ẩm thực Huế và
các hoạt động cộng đồng thu hút trên 10 vạn
lượt người tham dự. Doanh số bán hàng đạt
gần 20 tỉ đồng.
7. SÂN BAY PHÚ BÀI HOẠT ĐỘNG
TRỞ LẠI
Sau gần bảy tháng đóng cửa để nâng cấp,
sân bay Phú Bài chính thức hoạt động trở lại
từ 20/9, sớm hơn dự kiến hai tháng. Sau khi
nâng cấp, sân bay có thể tiếp nhận các loại
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 17
máy bay lớn như Boeing 737, A321 với hàng
chục chuyến bay mỗi ngày. Ngay trong ngày
20/9, sân bay đã đón 7 chuyến bay từ thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đến Huế.
Dự án sửa chữa đường hạ cất cánh và
nhà ga hành khách Cảng Hàng không quốc tế
Phú Bài có tổng mức đầu tư gần 700 tỷ đồng.
Đường băng sau nâng cấp có kích thước
2700x45m. Nhà ga đạt tổng diện tích
6.500m2, công suất phục vụ 1,5 triệu hành
khách/năm. Sân đỗ ô tô đáp ứng 160 vị trí đỗ
xe các loại với diện tích 21.000m2.
8. BÚN BÒ HUẾ XÁC LẬP GIÁ TRỊ
ẨM THỰC CHÂU Á
Sau khi đã xác lập 10 món ăn nổi tiếng
đầu tiên chỉ có ở Việt Nam, được công nhận
đạt giá trị ẩm thực châu Á (Kỷ lục châu Á)
vào tháng 7/2012, ngày 30/8/2013, tại Ấn
Độ, Tổ chức Kỷ lục châu Á đã chính thức
công nhận và xác lập thêm hai món ăn ngon
nổi tiếng nữa của Việt Nam đạt giá trị ẩm
thực châu Á là món bún bò Huế. Cùng với
bún bò Huế là món mì Quảng (tỉnh Quảng
Nam). Theo Tổ chức Kỷ Lục Việt Nam-
Vietkings, bún bò Huế là một trong những
món ăn mang hương vị đặc trưng của xứ
Huế. Một tô bún bò không chỉ đậm đà vị béo
của thịt, chả, mùi thơm của sả, vị cay của ớt,
mà còn đẹp mắt bởi màu đỏ đặc trưng của
dầu ăn và hạt điều. Đây là món ăn Huế rất
cầu kỳ trong cách chế biến.
9. ĐỊA ĐIỂM ĐÀN ÂM HỒN ĐƯỢC
XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN
HÓA CẤP TỈNH
Đàn Âm Hồn tọa lạc tại số 73 đường
Ông Ích Khiêm, phường Thuận Hòa, thành
phố Huế là công trình đàn tế được triều đình
nhà Nguyễn lập nên để làm nơi tưởng niệm
những đồng bào, binh sĩ yêu nước đã anh
dũng hy sinh trong biến cố ngày 23 tháng 5
năm Ất Dậu (5/7/1885) được nhắc đến với
sự kiện “Thất thủ Kinh đô”. Qua các tư
liệu lịch sử, có thể khẳng định Đàn Âm
hồn vừa mang tính “Quốc Đàn” vừa mang
tính “Dân Đàn” và là đài tưởng niệm chống
thực dân Pháp đầu tiên ở Việt Nam; là
minh chứng hùng hồn về tinh thần yêu
nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và
thể hiện đạo lý cao đẹp của dân tộc. Ngày
26/11/2013, UBND tỉnh ban hành Quyết
định số 2568/QĐ-UBND xếp hạng di tích
lịch sử văn hóa cấp tỉnh đối với Địa điểm
Đàn Âm hồn.
10. DU KHÁCH TÀU BIỂN LẦN
ĐẦU LƯU TRÚ TẠI KHÁCH SẠN HUẾ
Hơn 400 du khách tàu biển được Công
ty TNHH Saigon Tourist khai thác đã đến
Huế trong hai ngày 20 và 21/11. Đây là lần
đầu tiên du lịch Huế đón đoàn khách tàu
biển lớn đến lưu trú, tham quan và sử dụng
các dịch vụ tại Huế. Saigon Tourist đã phối
hợp với các khách sạn Morin, Hương
Giang, Century và Tân Hoàng Cung chuẩn
bị chu đáo về phòng lưu trú, các dịch vụ
ẩm thực… để đón và phục vụ đoàn khách
du lịch tàu biển lớn này. Saigon Tourist
cam kết sẽ tiếp tục phối hợp với các doanh
nghiệp du lịch ở Huế khai thác lượng
khách du lịch tiềm năng này trong thời
gian tới. Lâu nay khách du lịch tàu biển
thường chỉ lưu lại bến cảng để lên bờ tham
quan, mua sắm và sử dụng các dịch vụ tại
địa phương.
PV
(Nguồn: Báo Thừa Thiên Huế)
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 18
1. Luật KH&CN (sửa đổi) được Quốc
hội thông qua
Ngày 18/6, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã
thông qua Luật KH&CN 2013. Nhiều vấn đề
mới trong Luật thể hiện quan điểm đổi mới
toàn diện cơ chế quản lý hoạt động khoa học
và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Nhóm sự kiện về vệ tinh
- Chế tạo thành công vệ tinh siêu nhỏ:
Các nhà khoa học trẻ của Trung tâm Vệ tinh
quốc gia đã nghiên cứu, chế tạo thành công
vệ tinh siêu nhỏ và đưa vào không gian nhờ
tàu vận chuyển HYV của Nhật Bản. Ngày
19/11, vệ tinh siêu nhỏ này được đưa vào
quỹ đạo và chỉ vài giờ sau, trạm mặt đất tại
Trung tâm Vệ tinh quốc gia Việt Nam đã
nhận được tín hiệu.
- Vệ tinh quan sát trái đất đầu tiên của
Việt Nam bay vào quỹ đạo: Ngày 7/5, vệ tinh
quan sát trái đất đầu tiên của Việt Nam
VNREDSat-1 đã được phóng thành công vào
vũ trụ. Đây là vệ tinh quang học quan sát trái
đất, có khả năng chụp ảnh toàn bộ các khu
vực trên bề mặt trái đất.
Tính đến ngày 4/9, vệ tinh quan sát trái
đất của Việt Nam đã chụp hơn 9.200 ảnh.
3. Nhóm sự kiện về gene
- Lần đầu tiên giải mã thành công hệ
gene của 36 giống lúa bản địa Việt Nam:
Đây là kết quả của đề tài “Nghiên cứu giải
mã genome một số giống lúa bản địa của
Việt Nam” được thực hiện từ tháng 1/2011
đến tháng 6/2013, trong khuôn khổ Chương
trình hợp tác quốc tế giữa Bộ KH&CN với
Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Sự sống và
Công nghệ sinh học (Vương quốc Anh).
- Tổng kết quỹ gene: Ngày 3/12 tại Hà
Nội, Bộ KH&CN tổ chức hội nghị “Đánh giá
hoạt động khoa học công nghệ về quỹ gien
giai đoạn 2001-2013.” Hội nghị này đã tổng
kết những kết quả trong hơn 10 năm qua
cũng như đưa ra những định hướng quan
trọng về quỹ gene trong thời gian tới.
4. Viettel làm chủ công nghệ cao, góp
phần hiện đại hóa quân đội
Năm 2013, Viettel đã cung cấp nhiều
thiết bị quân sự công nghệ cao góp phần hiện
đại hóa quân đội. Tính đến hết năm, tập đoàn
này đã cung cấp cho Bộ Quốc phòng gần ba
nghìn bộ máy thông tin vô tuyến điện sóng
10 sự kiện khoa học và công nghệ nổi bật 2013
Ngày 26/12, Câu lạc bộ Nhà báo khoa học và công nghệ (KH&CN) phối hợp với
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông (Bộ KH&CN) công bố kết quả cuộc
bình chọn những sự kiện nổi bật trong năm 2013. Các sự kiện, nhóm sự kiện được bình
chọn thuộc các lĩnh vực: cơ chế chính sách; khoa học tự nhiên; nghiên cứu ứng dụng;
hội nhập quốc tế về KH&CN; tôn vinh nhà khoa học; khoa học xã hội và nhân văn.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 19
ngắn, sóng cực ngắn. Ngoài ra, Viettel còn
nghiên cứu chế tạo thành công hàng
loạt thiết bị hiện đại như hệ thống quản lý
vùng trời (VQ), ra-đa, hệ thống báo bia tự
động, máy bay không người lái…
5. “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ 9
“Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ 9 năm 2013
tại Bình Định với một chuỗi sự kiện gồm
bốn hội nghị khoa học quốc tế lớn, được coi
là cơ hội “vàng” cho các nhà khoa học trẻ
Việt Nam gặp gỡ, giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm nghiên cứu khoa học.
6. Đưa 16 kg uranium rời khỏi Việt
Nam an toàn
Ngày 3/7, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà
Lạt đã hoàn thành việc vận chuyển và trao
trả 16kg uranium có độ giàu cao ra khỏi Việt
Nam cho Nga. Đây là đợt hai của dự án trao
trả 141 bó uranium cho Nga mà Việt Nam
khởi động từ năm 2004. Như vậy Việt Nam
đã thực hiện đúng cam kết với Tổ chức Năng
lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Hàng chục
nhà khoa học của Nga, Mỹ và Việt Nam đã
tham gia công việc nói trên.
7. Nhóm sự kiện hợp tác quốc tế lĩnh
vực hạt nhân
- Ký hiệp định và bản ghi nhớ về năng
lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình: Ngày
10/10, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình
Minh và Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry
đã thay mặt Chính phủ hai nước ký tắt bản
Hiệp định hợp tác sử dụng năng lượng hạt
nhân vì mục đích hòa bình giữa hai quốc gia.
Việc ký tắt Hiệp định này đánh dấu bước
tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác tin cậy
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về sử dụng năng
lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình từ
nhiều năm qua, mở ra triển vọng trong việc
thúc đẩy những dự án hợp tác cụ thể về
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng năng
lượng nguyên tử.
- Việt Nam và Vương quốc Anh ký hợp
tác sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích
hòa bình: Ngày 28/11, Bản Ghi nhớ giữa Bộ
KH&CN Việt Nam và Bộ Ngoại giao Liên
hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len về Hợp
tác sử dụng Năng lượng nguyên tử vì mục
đích hòa bình đã được ký kết.
Bản ghi nhớ này là một thỏa thuận mang
tính nguyên tắc để tạo cơ sở quan trọng cho
việc mở rộng và tăng cường hợp tác trong
việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục
đích hòa bình.
8. Nhóm sự kiện đầu tư cho đổi mới
sáng tạo KH&CN
- Chương trình Đối tác Đổi mới Sáng tạo
Việt Nam-Phần Lan (IPP): Chương trình IPP
được hai Chính phủ Việt Nam và Phần Lan
xây dựng nhằm mục đích đưa Việt Nam trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020 với nền kinh tế tri thức và hệ
thống đổi mới quốc gia hỗ trợ tích cực cho
phát triển kinh tế xã hội. Giai đoạn I của IPP
được thực hiện từ năm 2009-2013 đã và
đang hỗ trợ hơn 60 dự án (tổng kinh phí 7
triệu Euro). Giai đoạn hai của Chương trình
sẽ được triển khai từ năm 2014-2018 với
kinh phí khoảng 10 triệu Euro.
Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, nơi để các bó uranium
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 20
- Đầu tư 110 triệu USD đổi mới sáng tạo
trong KH&CN: Năm 2013, dự án “Đẩy
mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu
khoa học và công nghệ - FIRST” được thực
hiện bằng khoản tài trợ IDA của Ngân hàng
thế giới đã chính thức khởi động. FIRST
được thực hiện trong 5 năm với tổng đầu tư
là 110 triệu USD.
Mục tiêu dài hạn của Dự án FIRST là
góp phần hỗ trợ nâng cao năng suất, khả
năng cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng
của nền kinh tế Việt Nam thông qua việc
tăng cường hiệu quả hoạt động nghiên cứu
khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ,
thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động đổi mới
sáng tạo, tạo thêm giá trị gia tăng cho nền
kinh tế.
9. Công bố kết quả nghiên cứu trên
tạp chí số 1 thế giới-Nature
Tạp chí khoa học hàng đầu thế giới
Nature đã công bố kết quả nghiên cứu xuất
sắc của các nhà khoa học thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội (hợp tác với Trường đại
học Columbia, Hoa Kỳ) về lĩnh vực nghiên
cứu ô nhiễm asen trong nước ngầm.
Mỗi năm, Nature nhận được hơn 10.000
bài gửi đến, nhưng chỉ có 8% trong số đó lọt
qua được vòng bình duyệt và được công bố.
Các công trình khoa học công bố trên Tạp
chí này đạt trình độ nghiên cứu cơ bản xuất
sắc, có tính đột phá, có ảnh hưởng lớn không
chỉ đối với cộng đồng khoa học và mà còn cả
xã hội. Trong 10 năm qua, các cơ sở đào tạo
và nghiên cứu của Việt Nam mới chỉ có
khoảng năm công trình (thực hiện tại Việt
Nam) được đăng trên Nature.
10. Khánh thành Bảo tàng Đông Nam
Á đầu tiên trong khu vực
Ngày 30/11, Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam đã chính thức khánh thành Bảo tàng
Đông Nam Á. Đây là điểm đến hấp dẫn để
người dân và du khách tìm hiểu về đời sống
văn hóa của các dân tộc Đông Nam Á qua
năm chủ đề chính bao gồm: Đồ vải; đời sống
hàng ngày; đời sống xã hội; nghệ thuật biểu
diễn và tôn giáo. Bảo tàng Đông Nam Á là
công trình kiến trúc hiện đại, được các
chuyên gia Việt Nam và chuyên gia Pháp
cùng góp sức tạo nên. Đây là bảo tàng đầu
tiên về văn hóa dân tộc các nước Đông Nam
Á trong khu vực.
BT
Đổi mới sáng tạo KH&CN
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 21
PV: Trước hết xin chúc ông và cán bộ
công chức, viên chức, người lao động một năm
mới sức khỏe và thành công. Ông có thể đánh
giá một số kết quả nổi bật trong năm qua của
Chi cục TĐC?
Ông Trần Quốc Thắng: Trong năm
2013, toàn thể cán bộ, công chức, viên chức
của Chi cục đã không ngừng nỗ lực, bám sát
kế hoạch, nhiệm vụ được UBND tỉnh, lãnh
đạo Sở giao, tổ chức tốt các hoạt động quản
lý nhà nước trong lĩnh vực được phân công,
phân cấp. Chúng tôi đã tăng cường tổ chức,
phối hợp thanh, kiểm tra với các cơ quan
chức năng như Chi cục Quản lý thị trường
tỉnh, Thanh tra Sở Khoa học và Công
nghệ, phòng Công thương các huyện,
phòng Kinh tế các thị xã và thành phố
Huế, tổ chức các đợt kiểm tra chuyên đề
như kiểm tra về đo lường và chất lượng hàng
hóa phục vụ Tết Nguyên đán; mũ bảo hiểm,
đồ chơi trẻ em; xăng dầu và khí dầu mỏ hóa
lỏng; kiểm tra đo lường hàng đóng gói sẵn;
các phương tiện đo (PTĐ) trong lĩnh vực
kinh doanh vật liệu xây dựng, thực phẩm;
các PTĐ được các hợp tác xã kinh doanh
điện sử dụng bán điện cho dân; các PTĐ
taximét của các hãng tắc xi. Qua kiểm tra,
chúng tôi đã nghiêm túc nhắc nhở, xử lý các
trường hợp thực hiện không đúng quy định
của nhà nước, đồng thời tăng cường phổ
biến, tuyên truyền các văn bản quy phạm
pháp luật, các quy định của nhà nước cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh được kiểm tra.
Qua đó, góp phần ổn định về hoạt động đo
lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ trên địa bàn tỉnh.
Một nhiệm vụ khác mà chúng tôi rất
quan tâm và làm tốt, đó là công tác phổ biến,
tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật
cho đối tượng là các chủ hộ kinh doanh ở các
trung tâm thương mại, các chợ của các
huyện, thành phố Huế; hướng dẫn, đào tạo,
tập huấn cho các doanh nghiệp về các công
cụ cải tiến, hệ thống quản lý tiên tiến; qua đó
góp phần hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất kinh doanh nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm, hàng hóa.
Về các nhiệm vụ trọng tâm được UBND
tỉnh, lãnh đạo Sở giao, chúng tôi đã làm tốt
vai trò tham mưu cho Sở và Ban chỉ đạo 144
của tỉnh về việc xây dựng và áp dụng Hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
TCVN ISO 9001:2008 tại các cơ quan hành
chính trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế;
triển khai Đề án xây dựng và áp dụng Hệ
thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn
Một số hoạt động nổi bật trong năm 2013
và yêu cầu về tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng
của tỉnh nhà trong tình hình mới
LTS: Tháng 12 vừa qua, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TĐC) tỉnh
Thừa Thiên Huế tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2013 và triển khai kế hoạch
hoạt động năm 2014, nhân dịp này, phóng viên Bản tin Khoa học và Công nghệ đã có
cuộc trao đổi với ông Trần Quốc Thắng, Chi cục trưởng Chi cục TĐC về kết quả của
một năm hoạt động cũng như những định hướng công tác này trong thời gian tới.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 22
TCVN ISO 9001:2008 tại UBND 07 huyện.
Triển khai đúng tiến độ và có hiệu quả dự án
“Nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm, hàng hóa của các doanh nghiệp tỉnh
Thừa Thiên Huế giai đoạn 2012-2015 và
định hướng đến năm 2020”. Cụ thể là phối
hợp với Trung tâm Năng suất Việt Nam
(VPC), Vụ đánh giá, thẩm định và giám định
công nghệ tổ chức lớp tập huấn về nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa
cho trên 70 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh;
Phối hợp với Tổng cục TĐC triển khai khóa
đào tạo cán bộ, chuyên gia về tiêu chuẩn
hóa; Phối hợp với Trung tâm Thông tin Khoa
học và Công nghệ, Trung tâm Truyền hình
Việt Nam tại thành phố Huế triển khai Đề án
“Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về năng
suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
doanh nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế” với 06
chuyên đề về “Năng suất, chất lượng và phát
triển” được phát sóng trên VTVHUE; Phối
hợp với Trung tâm Kỹ thuật TĐC 2 (thuộc
Tổng cục TĐC) hướng dẫn các doanh nghiệp
xây dựng dự án thành phần về Năng suất và
Chất lượng của doanh nghiệp…
PV: Trong quá trình triển khai các
nhiệm vụ chuyên môn, ông có thể đưa ra
những vấn đề nào mà tỉnh Thừa Thiên Huế
cần quan tâm hiện nay trong lĩnh vực này.
Ông Trần Quốc Thắng: Hiện tại, năng
lực thử nghiệm, kiểm định chất lượng sản
phẩm hàng hóa, đánh giá chứng nhận sản
phẩm, hàng hóa phù hợp Tiêu chuẩn quốc
gia, Tiêu chuẩn quốc tế của các tổ chức thử
nghiệm, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn
hạn chế. Ví dụ: các sản phẩm hàng hóa nhóm
2 nhạy cảm như: xăng dầu, đồ chơi trẻ em,
mũ bảo hiểm, một số chất xúc tác, chất phụ
gia thực phẩm... thì ở trên địa bàn tỉnh các cơ
quan chức năng chưa thử nghiệm được một
số chỉ tiêu bắt buộc; chưa có nhiều doanh
nghiệp xây dựng phòng thử nghiệm đạt tiêu
chuẩn TCVN ISO 17025 (tiêu chuẩn quốc tế
quy định các yêu cầu nhằm đảm bảo năng
lực của phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn) để
hỗ trợ cho việc kiểm soát, nâng cao chất
lượng sản phẩm, hàng hóa; một số phương
tiện đo trong lĩnh vực y tế như: máy siêu âm,
máy sinh hóa, tủ vi sinh, phương tiện đo điện
tim, điện não, máy X-Quang... thì Trung tâm
Chi cục TĐC tổ chức tập huấn nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 23
Kỹ thuật TĐC (trực thuộc Chi cục) tỉnh vẫn
chưa kiểm định/hiệu chuẩn được. Quan tâm
tới vấn đề cấp thiết này, năm 2012, UBND
tỉnh đã phê duyệt dự án “Đầu tư, tăng cường
khả năng kiểm định, thử nghiệm chất lượng
sản phẩm, hàng hóa cho Trung tâm Kỹ thuật
TĐC tỉnh Thừa Thiên Huế”; khi dự án đi vào
hoạt động thì hoạt động quản lý nhà nước về
TĐC ở địa phương được nâng cao, góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển sản phẩm chủ
lực, sản phẩm ưu tiên của tỉnh; thực hiện
quản lý nhà nước về đo lường và chất lượng
đối với mặt hàng nhạy cảm và thiết yếu; góp
phần hoàn thành mục tiêu xây dựng Thừa
Thiên Huế là một trong những trung tâm
khoa học và công nghệ của cả nước. Vì vậy,
việc sớm triển khai dự án này là rất bức thiết,
nó không những phục vụ đắc lực cho công
tác quản lý nhà nước về lĩnh vực TĐC mà
còn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
tỉnh nhà trong tình hình mới.
PV: Tết Nguyên đán đã cận kề, ông có thể
cho biết kế hoạch thanh, kiểm tra chất lượng
sản phẩm, hàng hóa trong dịp này?
Ông Trần Quốc Thắng: Trong đợt
thanh, kiểm tra hàng hóa phục vụ Tết
Nguyên đán Giáp Ngọ này, chúng tôi sẽ phối
hợp với các cơ quan chức năng có liên quan
tiến hành kiểm tra đo lường và chất lượng
các sản phẩm, hàng hóa phục vụ tết như: khí
dầu mỏ hóa lỏng LPG, xăng dầu, vàng trang
sức, các hàng hóa phục vụ Tết... chủ yếu tại
các chợ, siêu thị, các cửa hàng kinh doanh
lớn tại 06 huyện, 02 thị xã và thành phố Huế
và tập trung vào các nội dung: kiểm tra nhãn
hàng hóa, định lượng hàng đóng gói sẵn so
với mức công bố trên nhãn hàng hóa; kiểm
tra việc thể hiện tiêu chuẩn công bố áp dụng,
dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và việc thể hiện
thông tin cảnh báo về khả năng gây mất an
toàn của hàng hóa; kiểm tra hồ sơ chất lượng
đối với sản phẩm hàng hóa nhóm 2 thuộc
trách nhiệm quản lý của Bộ Khoa học và
Công nghệ; kiểm tra kỹ thuật đo lường đối
với các phương tiện đo pháp định hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, kinh
doanh vàng và khí dầu mỏ hóa lỏng.
PV: Xin cám ơn ông về cuộc trao đổi này.
Đức Thiện
Nói về hệ thống văn bản pháp luật về
hoạt động TĐC hiện nay, ông Thắng cho
biết: Hệ thống cơ sở pháp lý về TCĐLCL
ngày càng được hoàn thiện, chúng ta đã
có Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật, Luật Chất lượng sản phẩm hàng
hóa, Luật Đo lường và theo đó là các
Nghị định 127, Nghị định 132, Nghị định
86 hướng dẫn thi hành một số điều Luật,
Nghị định 80 quy định về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực TCĐLCL. Bộ Khoa
học và Công nghệ cũng đã xây dựng, ban
hành một hệ thống các văn bản quy phạm
Pháp luật và văn bản kỹ thuật đo lường
Việt Nam như về tổ chức kiểm tra, thử
nghiệm, kiểm định, hiệu chuẩn chất lượng
sản phẩm, hàng hóa, phương tiện đo và
chuẩn đo lường, góp phần đảm bảo công
bằng xã hội trong tình hình mới, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ
chức, cá nhân; nâng cao chất lượng sản
phẩm hàng hóa và hiệu quả quản lý nhà
nước; từng bước đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tạo
điều kiện thuận lợi trong giao thương
quốc tế.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 24
1. Tham mưu ban hành, cụ thể hóa các
chính sách pháp luật về SHTT và sáng kiến
trên địa bàn
Để đẩy mạnh hoạt động xác lập, khai
thác, quản lý, bảo vệ và phát triển quyền
SHTT đối với các đặc sản địa phương, hình
thành các thương hiệu đặc sản của tỉnh có
khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm chất lượng
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của thị
trường trong và ngoài nước phục vụ phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh, Sở Khoa học và
Công nghệ (KH&CN) đã tham mưu UBND
tỉnh ban hành “Chiến lược xây dựng phát
triển thương hiệu cho các đặc sản tỉnh Thừa
Thiên Huế đến năm 2020” theo Quyết định
số 1746/QĐ-UBND ngày 6/9/2013 của
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Chiến lược sẽ
là đòn bẩy để duy trì và phát huy danh tiếng,
giá trị văn hóa của đặc sản Huế, nâng cao
đời sống của người dân vùng sản xuất kinh
doanh đặc sản góp phần xây dựng văn hóa
Huế. Ngoài ra, trong hoạt động hỗ trợ các
địa phương đăng ký nhãn hiệu tập thể cho
các tổ chức sản xuất kinh doanh các sản
phẩm làng nghề và đặc sản địa phương, Sở
đã tham mưu UBND tỉnh cho phép sử dụng
các địa danh trong đăng ký nhãn hiệu tập thể
của các địa phương trong tỉnh.
Bên cạnh đó, công tác tham mưu trong
hoạt động sáng kiến, Sở đã trình UBND tỉnh
ban hành “Quy định về việc xét công nhận
sáng kiến và các biện pháp thúc đẩy hoạt động
sáng kiến trên địa bàn Thừa Thiên Huế” theo
Quyết định số 43/2013/QĐ-UBND ngày
01/11/2013. Quy định này sẽ giúp cho các tổ
chức, cá nhân hoạt động sáng kiến trên địa
bàn Thừa Thiên Huế thuận tiện trong việc
đăng ký, công nhận sáng kiến, hỗ trợ phổ
biến sáng kiến và các biện pháp thúc đẩy
hoạt động sáng kiến, đồng thời qua đó sẽ đẩy
mạnh hơn nữa hoạt động sáng kiến.
2. Công tác tuyên truyền phổ biến chính
sách pháp luật về SHTT và sáng kiến được
tiếp tục đẩy mạnh
Năm 2013, Sở KH&CN đã tổ chức nhiều
hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật
nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết về
SHTT và sáng kiến cho cộng đồng, thông qua
việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Hoạt
động tuyên truyền về SHTT còn được thực
hiện định kỳ trên sóng Trung tâm Truyền hình
Việt Nam tại Huế thông qua Chương trình
SHTT và cuộc sống do Trung tâm Thông tin
KH&CN chủ trì thực hiện. Cùng với việc
tuyên truyền phổ biến trên các phương tiện
thông tin đại chúng, Sở cũng đã phối hợp với
Cục SHTT tổ chức lớp tập huấn về “Xác lập,
quản lý và phát triển nhãn hiệu cho đặc sản địa
phương” và chủ trì tổ chức lớp tập huấn về
“Các quy định pháp luật về sáng kiến” vừa
được UBND tỉnh ban hành.
HOẠT ĐỘNG SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2013:
NHỮNG NÉT NỔI BẬT Với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động một cách toàn diện trên tất cả các mặt, năm 2013
hoạt động sở hữu trí tuệ (SHTT) đã triển khai và đạt được những kết quả nổi bật đáng
ghi nhận.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 25
3. Về xây dựng và phát
triển thương hiệu
Tiếp tục triển khai
Chương trình hỗ trợ phát
triển tài sản trí tuệ, năm
2013, Sở đã đề xuất danh
mục dự án tham gia
Chương trình với 2 dự án
trung ương quản lý và 6 dự
án trung ương ủy quyền.
Bộ KH&CN đã phê duyệt
danh mục tuyển chọn các
dự án thực hiện năm 2014
-2015 của tỉnh Thừa Thiên
Huế với 2 dự án: “Tạo lập,
quản lý và phát triển nhãn
hiệu chứng nhận “Huế” cho sản phẩm bún
bò của tỉnh Thừa Thiên Huế” và “Tuyên
truyền, phổ biến kiến thức về SHTT trên đài
truyền hình địa phương” (dự án trung ương
ủy quyền). Các dự án nêu trên đang chờ
quyết định của Bộ KH&CN. Sở cũng đã tổ
chức hướng dẫn cho các đơn vị chủ trì xây
dựng các dự án nêu trên tham gia tuyển chọn
để thực hiện năm 2014-2015. Bên cạnh đó,
Sở cũng đã chủ trì triển khai thực hiện dự án
“Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý “Huế”
cho sản phẩm nón lá của tỉnh Thừa Thiên
Huế”.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các
sản phẩm đặc trưng và sản phẩm làng nghề,
Sở đã phối hợp với UBND các huyện, thị xã
trong việc hỗ trợ, hướng dẫn đăng ký nhãn
hiệu tập thể các tổ chức sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm làng nghề tại các địa phương
như: Bún Ô Sa, Gạo đỏ Quảng Điền, Chả da
Quảng Thành, Rau Quảng Thọ; hướng dẫn
chuyển đổi đơn nhãn hiệu Làng Chuồn từ
nhãn hiệu thông thường sang nhãn hiệu tập
thể do Hiệp hội Rượu truyền thống Làng
Chuồn đứng tên chủ nhãn hiệu tập thể;
chuyển giao đơn nhãn hiệu tập thể dầu tràm
Lộc Thủy từ Hội Nông dân Lộc Thủy sang
HTX sản xuất chế biến dầu tràm Lộc Thủy.
Năm qua, có 4 nhãn hiệu tập thể đã được
Cục SHTT cấp giấy chứng nhận là: nhãn
hiệu tập thể Nước mắm Làng Dừa, Mây tre
đan Thủy Lập, Mây tre đan Bao La, Bún
Vân Cù… và một số nhãn hiệu tập thể khác
đang trong thời gian xem xét đơn. Bên cạnh
hoạt động hỗ trợ cấp huyện, Sở cũng đã tổ
chức tốt hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ cho các
tổ chức và cá nhân trên địa bàn trong việc tra
cứu khả năng bảo hộ, làm đơn đăng ký bảo
hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Trong 8 tháng năm 2013, các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh đã nộp 40 đơn đăng
ký bảo hộ. Năm 2013, Cục SHTT đã cấp 35
văn bằng bảo hộ cho các đối tượng sở hữu
công nghiệp trên địa bàn. Đến nay, toàn tỉnh
đã nộp 774 đơn đăng ký và đã được Cục
SHTT cấp 587 văn bằng bảo hộ.
Hoạt động tuyên truyền về SHTT được thực hiện trên sóng VTVHUE thông qua Chương trình SHTT và cuộc sống
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 26
Đánh giá chung
Hoạt động SHTT trong năm qua đã triển
khai khá toàn diện và đã được những kết quả
tốt. Trong đó đáng chú ý là đã tham mưu
UBND tỉnh ban hành “Chiến lược phát triển
sản phẩm mang thương hiệu Huế giai đoạn
2013-2020” và “Quy định về việc xét công
nhận sáng kiến và các biện pháp thúc đẩy
hoạt động sáng kiến trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế”. Đây là cơ sở để thúc đẩy việc
phát triển thương hiệu đặc sản địa phương
cũng như việc tổ chức hoạt động sáng kiến
trên địa bàn; đã tham mưu và được Bộ
KH&CN đưa vào danh mục tuyển chọn 3 dự
án thuộc Chương trình hỗ trợ phát triển tài
sản trí tuệ thực hiện năm 2014-2015; năm
2013, Sở cũng đã đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ
các địa phương phát triển tài sản trí tuệ, đặc
biệt là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể của
các tổ chức trên địa bàn.
Tuy vậy, hoạt động đăng ký quyền sở
hữu công nghiệp vẫn chưa được nâng cao
đáng kể, đặc biệt là đăng ký bảo hộ sáng chế.
Ngoài ra, Sở vẫn chưa có giải pháp phù hợp
nhằm hỗ trợ để hình thành các tổ chức hoạt
động đại diện sở hữu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh.
Nhiệm vụ trọng tâm năm 2014
Tiếp tục thực hiện mục tiêu đẩy mạnh
hoạt động SHTT một cách toàn diện trên tất
cả các mặt, năm 2014, Sở KH&CN dự kiến
một số nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động
SHTT như sau: (i) Về công tác tham mưu:
Tiếp tục thực hiện tốt công tác tham mưu
trong việc triển khai thực hiện Kế hoạch
1104/KH-UBND của UBND tỉnh về Kế
hoạch thực hiện Nghị quyết số 07/NQ-TU
của BCH Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần
thứ XIV về xây dựng Thừa Thiên Huế trở
thành một trong những trung tâm KH&CN
của cả nước giai đoạn 2011-2015 và tầm
nhìn đến năm 2020, trong đó trọng tâm là
việc tham mưu kế hoạch triển khai thực hiện
chiến lược phát triển thương hiệu cho các
Tập huấn về “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với đặc sản địa phương”
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 27
đặc sản Thừa Thiên Huế (về các nội dung do
Sở KH&CN đảm nhận); đề xuất và xây dựng
quy trình ISO về trình tự, thủ tục xét chấp
thuận sáng kiến cho các đối tượng theo thẩm
quyền của Sở KH&CN theo quy định của
pháp luật; (ii) Hoạt động tuyên truyền, phổ
biến: Thực hiện tuyên truyền pháp luật về
SHTT qua các phương tiện thông tin đại
chúng, trong đó đặc biệt đẩy mạnh việc
tuyên truyền thông qua Chương trình SHTT
và cuộc sống...; tổ chức các lớp tập huấn về
các quy định pháp luật về hoạt động sáng
kiến và tập huấn về bảo vệ quyền SHTT đối
với nhãn hiệu và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
ra nước ngoài; (iii) Hỗ trợ hoạt động SHTT
cấp huyện: Hỗ trợ tổ chức tập huấn SHTT
cho cán bộ phục trách hoạt động KH&CN
của các huyện, thị xã; hỗ trợ chuyên môn
trong việc xác lập quyền cho các đối tượng
SHTT trên địa bàn cấp huyện, trong đó đặc
biệt chú ý đến việc hỗ trợ xây dựng, quản lý
và phát triển nhãn hiệu tập thể; hỗ trợ chuyên
môn trong việc xây dựng các dự án về SHTT
hoặc tham gia hoạt động nghiên cứu triển
khai cấp tỉnh; (iv) Thực hiện công tác kiểm
tra và phối hợp thanh tra SHTT : Tổ chức
kiểm tra và phối hợp thực hiện
thanh tra về SHTT trên địa bàn;
cung cấp ý kiến chuyên môn để hỗ
trợ hoạt động thực thi quyền SHTT;
(v) Hướng dẫn, hỗ trợ xác lập
quyền sở hữu công nghiệp: Hướng
dẫn, hỗ trợ cho doanh nghiệp và cá
nhân trên địa bàn trong việc tra cứu,
làm đơn đăng ký xác lập quyền sở
hữu công nghiệp và hướng dẫn hỗ
trợ đăng ký nhãn hiệu ra nước
ngoài; (vi) Phối hợp triển khai các
dự án, đề tài KH&CN: Phối hợp
triển khai và tham gia một số nội dung của
các dự án thuộc Chương trình hỗ trợ phát
triển tài sản trí tuệ triển khai năm 2013-2014
và 2014-2015 như: dự án tổ chức hoạt động
SHTT tại Đại học Huế, dự án Quản lý và
phát triển chỉ dẫn địa lý nón lá Huế; dự án
tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu công
nghiệp bún Huế; dự án tuyên truyền SHTT
trên đài truyền hình, dự án cấp tỉnh về quản
lý và phát triển nhãn hiệu tập thể tôm chua
Huế; (vii) Tổ chức hoạt động sáng kiến,
phong trào lao động sáng tạo: Phối hợp tổ
chức hội nghị tổng kết sáng kiến điển hình
cấp ngành/địa phương trong tỉnh và hội nghị
tổng kết hoạt động sáng kiến toàn tỉnh; phổ
biến thông tin về sáng kiến nhằm xúc tiến
hoạt động áp dụng, chuyển giao sáng kiến; tổ
chức các hội đồng xem xét chấp nhận sáng
kiến của các cơ sở theo quy định của pháp
luật; Phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật tỉnh, Liên đoàn Lao động
tỉnh và các cơ quan liên quan trong việc đẩy
mạnh phong trào lao động sáng tạo, tổ chức
các hội thi trên địa bàn.
Nguyễn Hùng
(Phòng Sở hữu trí tuệ)
Đại học Huế triển khai dự án “Xây dựng, vận hành tổ chức quản lý và hoạt động sở hữu trí tuệ trong trường đại học”
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 28
Những cột mốc phát triển trong quá
trình hoạt động truyền thông KH&CN
1. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển
- Số báo đầu tiên xuất bản vào tháng 7
năm 1991, mang tên Tạp chí Thông tin
KH&CN Thừa Thiên Huế. Từ năm 1991-
1993, tạp chí ra mỗi năm 2 số. Năm 1994,
tạp chí bị gián đoạn 1 năm do khó khăn về
nhân sự.
- Từ năm 1995, tạp chí tăng kỳ xuất bản
lên 4 số/năm, và tiếp tục mang tên Tạp chí
Thông tin KH&CN cho đến số 4 năm 2001.
- Từ số 1 năm 2002 (số báo thứ 35), tạp
chí được đổi tên thành Nghiên cứu và Phát
triển theo Giấy phép xuất bản số 691/GP-
BVHTT, ngày 28/12/2001 do Bộ Văn hóa-
Thông tin cấp. Năm 2003, tạp chí tăng kỳ
xuất bản lên 5 số/năm, và từ năm 2006, tăng
lên 6 số/năm đúng theo giấy phép xuất bản
và bắt đầu từ năm 2012, Tạp chí tăng lên 9
số/năm.
- Từ số 2 năm 2006 (số báo thứ 55), Tạp
chí Nghiên cứu và Phát triển được Văn
phòng Quốc gia về ISSN cấp chỉ số tùng thư
(ISSN 1859-0152), đánh dấu sự kiện Tạp chí
Nghiên cứu và Phát triển chính thức gia nhập
vào mạng lưới xuất bản phẩm nhiều kỳ của
thế giới.
- Từ tháng 7/2011, Tạp chí Nghiên cứu
và Phát triển đã trở thành thành viên của
mạng VJOL (Vietnam Journals Online-
Tạp chí Việt Nam trực tuyến). Việc tham
gia vào mạng VJOL đã tạo điều kiện cho
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển phổ biến
nội dung của tạp chí một cách nhanh
chóng và rộng rãi trên toàn cầu thông qua
mạng internet.
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ:
Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền,
truyền thông KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, công tác truyền thông khoa học và công nghệ
(KH&CN) ở Sở KH&CN tỉnh Thừa Thiên Huế đã được hình thành phát triển. Bài viết
này xin điểm lại những nét cơ bản của chặng đường 20 năm phát triển công tác truyền
thông KH&CN.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 29
- Về tổ chức tòa soạn, tạp chí đã hình
thành được bộ khung nhân sự ổn định để phụ
trách công việc chuyên môn của một cơ quan
báo chí. Chi hội Nhà báo Tạp chí Nghiên
cứu và Phát triển được thành lập theo Quyết
định số 321/QĐ-HNBVN ngày 29/5/2002
của Hội Nhà báo Việt Nam. Đến nay, Chi
hội có 6 hội viên và đã qua hơn 2 nhiệm kỳ
hoạt động ổn định.
Về chất lượng nội dung của tờ báo: Tòa
soạn đã có nhiều biện pháp để tổ chức và huy
động bài vở phong phú, có giá trị khoa học lẫn
thực tiễn, duy trì ổn định chất lượng nội dung
qua từng số báo theo phương hướng phấn đấu
để tạp chí trở thành một chiếc cầu nối chuyển
tải những thành tựu nghiên cứu KH&CN góp
phần phục vụ sự phát triển của địa phương và
đất nước. Như việc liên kết cùng Trung tâm
Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản cuốn
“Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều
Nguyễn”, nhân dịp kỷ niệm 200 năm thành lập
vương triều Nguyễn (1802-2002). Ấn phẩm
này được giới nghiên cứu đánh giá cao, có
nhiều cơ quan (đặc biệt là các thư viện, bảo
tàng trong nước) và bạn đọc tìm mua. Đó là
việc xuất bản số chuyên đề “Tuyển dịch văn
bia chùa Huế”, ấn phẩm đầu tiên trong cả
nước giới thiệu mảng văn bia Phật giáo ở xứ
sở “Thiền kinh”, dẫu chưa thật hoàn hảo
nhưng vẫn được đông đảo bạn đọc đón nhận,
bằng chứng sinh động là báo đã phát hành hết
trong thời gian ngắn, và Nhà xuất bản Lao
động đã ký hợp đồng tái bản 2.000 cuốn; là
một trong những tạp chí đầu tiên ở Việt Nam
xuất bản Chuyên đề Biển, đảo Việt Nam.
Đây là chuyên đề được công chúng đánh giá
cao về sự nhanh nhạy, kịp thời trong công
tác thông tin cũng như chất lượng nội dung
của chuyên đề…
Trong từng số báo, Ban biên tập chủ
trương kết cấu nội dung theo các chuyên đề
nhỏ, bám sát tình hình thực tiễn của đất
nước. Trong đó, các chuyên đề nghiên cứu
về học giả Phạm Quỳnh, về quốc phục Việt
Nam nhân Hội nghị APEC lần thứ 14 được
tổ chức tại Việt Nam, về thời Tây Sơn qua tư
liệu nước ngoài... được bạn đọc khen ngợi,
được một số tạp chí chuyên ngành trong
nước tiếp tục phát triển mở rộng, thu hút sự
quan tâm rộng rãi của công chúng. Trên các
lĩnh vực khoa học khác, Tạp chí Nghiên cứu
và Phát triển được xem là một trong những
địa chỉ tin cậy để đăng tải những công trình
khảo cứu khoa học có giá trị.
Nhờ những thành quả ấy mà uy tín của
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển đã bước
đầu vươn khỏi phạm vi quốc gia. Một số thư
viện nước ngoài đã tìm mua trọn bộ tạp chí,
như Thư viện Trường Đại học Waseda (Nhật
Bản), Thư viện Trường Đại học Washington
(Hoa Kỳ); nhiều cá nhân ở trong và ngoài
nước ký nhận phát hành tạp chí.
Ngoài ra, tòa soạn đã mở rộng phạm vi
phổ biến của tạp chí bằng các biện pháp cụ
thể, hiệu quả, như sử dụng công nghệ thông
tin (qua bộ đĩa CD giới thiệu toàn văn bộ tạp
chí, và qua trang web của Trung tâm Thông
tin KH&CN); liên kết với các nhà xuất bản
để in các tuyển tập theo dạng chuyên đề; Tổ
chức các điểm phát hành tạp chí ổn định ở
trong nước và lựa chọn đối tác để phát hành
tạp chí ra nước ngoài.
2. Thông tin khoa học và công nghệ
Từ năm 1995, cùng với việc xuất bản
Tạp chí Thông tin KH&CN, Sở KH&CN
đồng thời xuất bản và phát hành ấn phẩm
Thông tin KH&CN. Từ khi mới ra đời, bản
tin chủ yếu phổ biến các thông tin về các giải
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 30
pháp kỹ thuật như chăn nuôi, trồng trọt, các
vấn đề về môi trường… Gần 10 năm trở lại
đây, bản tin đã định hình là một tờ báo
chuyên ngành KH&CN, theo đó, bản tin đã
xây dựng bố cục rõ ràng, chặt chẽ, nội
dung tuyên truyền phù hợp với nhu cầu
thực tiễn xã hội, kết cấu của bản tin gồm
các chuyên mục: Chủ trương-Chính sách;
Nghiên cứu-Triển khai; Khoa học và đời
sống; Nông nghiệp-Nông thôn; Văn hóa-
Xã hội; Tin hoạt động.
Hiện nay, với lực lượng hiện có, các
phóng viên của Bản tin KH&CN chủ động
đưa tin, viết bài về hoạt động KH&CN trên
địa bàn. Ngoài ra, ban biên tập đã xây
dựng mạng lưới cộng tác viên rộng khắp,
đó là phóng viên của các cơ quan truyền
thông đóng trên địa bàn, là các nhà nghiên
cứu, nhà khoa học, các chuyên gia thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau… Vì vậy, hầu hết
các hoạt động KH&CN đã, đang diễn ra trên
địa bàn đều được thông tin kịp thời, chuyên
sâu. Bên cạnh đó phải kể đến các bài viết,
công bố kết quả của các đề tài, dự án (sử
dụng ngân sách nhà nước) thực hiện trên
địa bàn tỉnh bắt buộc đăng trên ấn phẩm
này; cùng với chức năng là cơ quan thực
hiện chức năng lưu giữ, sử dụng kết quả đề
tài, dự án trên địa bàn tỉnh, lãnh đạo Sở đã
yêu cầu ban biên tập bản tin chọn lọc, công
bố những kết quả của các đề tài, dự án đến
đăng ký, cấp giấy chứng nhận. Đây thật sự
là một kênh thông tin phổ biến phong phú,
đầy đủ các kết quả nghiên cứu-triển khai
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến nay,
bản tin phát hành rộng rãi đến tất cả các
điểm bưu điện văn hóa xã, phường; UBND
các xã, phường, huyện, thị và thành phố
Huế; các sở ban ngành trong tỉnh; Bộ
KH&CN và các cơ quan trực thuộc Bộ; các
Sở KH&CN trên toàn quốc…
3. Trang thông tin điện tử Sở KH&CN
Trang web của Sở (skhcn.hue.gov.vn) là
một kênh thông tin phản ảnh phong phú, đa
dạng hoạt động KH&CN trên địa bàn. Từ
cuối năm 2009, ngoài chức năng là một trang
thông tin điện tử của một cơ quan quản lý
nhà nước về lĩnh vực KH&CN, lãnh đạo Sở
đã chỉ đạo Trung tâm Thông tin KH&CN
xây dựng và phát triển trang web thành một
kênh thông tin (như một tờ báo điện tử)
nhằm phổ biến, thông tin các hoạt động của
ngành KH&CN tỉnh nhà. Theo đó, năm
2010, Sở đã xây dựng và ban hành Quy chế
Quản lý, biên soạn và phổ biến thông tin trên
trang điện tử của Sở KH&CN. Từ đó đến
nay, trang thông tin điện tử của Sở đã đi vào
hoạt động ổn định, tin bài được cập nhật
thường xuyên, liên tục. Theo thống kê, thì
trong vài năm trở lại đây, website của Sở
KH&CN là một trong những trang web có
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 31
lượng truy cập nhiều nhất (thuộc khối các sở,
ban, ngành) tỉnh: năm 2012 đã cập nhật gần
750 tin, bài với hơn 4.688.474 lượt người truy
cập; năm 2013 đã cập nhật gần 780 tin, bài với
hơn 7 triệu lượt người truy cập. Ngoài những
chuyên mục cố định chuyên ngành như mục
quản lý khoa học, tiêu chuẩn-đo lường-chất
lượng, sở hữu trí tuệ…, Ban biên tập trang
web đã xây dựng thêm nhiều chuyên mục
khác để giới thiệu kết quả các nhiệm vụ
KH&CN; chuyên đề KH&CN (giới thiệu các
phim chuyên đề KH&CN đã thực hiện);
chuyên đề Sở hữu trí tuệ và cuộc sống; liên kết
với một số trang web khác như Báo Thừa
Thiên Huế, Đài TRT.
Một kênh thông tin nữa mà hiện nay Sở
KH&CN đã và đang phối hợp với Trung tâm
Truyền hình Việt Nam tại Huế thực hiện đó là
Chuyên đề KH&CN. Đây là chương trình
truyền hình phản ánh rõ nét hoạt động nghiên
cứu-ứng dụng trong lĩnh vực KH&CN trên địa
bàn, đặc biệt là giới thiệu, phổ biến các ứng
dụng mới về khoa học, kỹ thuật vào đời sống
sản xuất. Theo đó, cố định ngày giờ trong
tháng, mục “Mở cửa tri thức” của Trung tâm
Truyền hình Việt Nam tại Huế sẽ phát chuyên
đề KH&CN do Trung tâm Thông tin KH&CN
phối hợp với VTVHUE sản xuất.
Ngoài ra, từ năm 2010 đến nay, Trung tâm
thông tin KH&CN đã xây dựng và phát trên
sóng truyền hình chương trình “Sở hữu trí tuệ
và cuộc sống”. Mục tiêu của chương trình “Sở
hữu trí tuệ và cuộc sống” là tuyên truyền một
cách có hệ thống và dễ hiểu các thông tin về
sở hữu trí tuệ nhằm nâng cao nhận thức của
các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các nhà
khoa học, nhà quản lý và cộng đồng về sở hữu
trí tuệ hướng đến mục tiêu am hiểu, chấp hành
và thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ; Hỗ trợ
phát triển các giá trị tài sản trí tuệ của doanh
nghiệp thông qua các hình thức quảng bá trên
các phương tiện truyền thông đại chúng; Đây
là một kênh thông tin rất hữu ích thuộc lĩnh
vực sở hữu trí tuệ được công chúng rất quan
tâm và đánh giá cao.
Thay lời kết
Trong xu thế hiện nay, KH&CN góp phần
quan trọng vào việc phát triển kinh tế-xã hội.
Việc đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận
thức xã hội về vai trò của KH&CN cũng được
Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Cụ thể,
trong các giải pháp của Chiến lược phát triển
KH&CN giai đoạn 2011-2020 đã khẳng định:
Đẩy mạnh hoạt động truyền thông và tuyên
truyền sâu rộng trong xã hội, đặc biệt là trong
các doanh nghiệp về chủ trương, chính sách,
pháp luật về KH&CN, về vai trò, động lực
then chốt của KH&CN đối với sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước nhằm nâng cao
tinh thần tự lực, tự cường, sự đồng thuận và
ủng hộ mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị đối
với hoạt động KH&CN…
Để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và
Nhà nước về lĩnh vực KH&CN, đồng thời
từng bước đưa KH&CN đi vào cuộc sống,
trong thời gian qua, Sở KH&CN tỉnh Thừa
Thiên Huế đã chú trọng tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, năng lực cho hoạt động thông tin,
tuyên truyền. Vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng
hy vọng với sự quan tâm đầu tư đó, công tác
tuyên truyền, truyền thông KH&CN của Sở
KH&CN ngày càng phát triển, góp phần thúc
đẩy việc xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành
một trong những trung tâm KH&CN của cả
nước, sớm đưa tỉnh nhà trở thành thành phố
trực thuộc trung ương theo kế hoạch.
Đức Thiện
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 32
Tại các cuộc hội thảo bàn về công tác truyền thông KH&CN mà chúng tôi được tham
gia, thì hầu hết các Sở KH&CN trên toàn quốc đều cho rằng hoạt động tuyên truyền,
truyền thông KH&CN gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc từ vấn đề nhân sự cho đến kinh
phí hoạt động, bàn về vấn đề này ông Nguyễn Đức Phú, Giám đốc Trung tâm Thông tin
KH&CN, Sở KH&CN tỉnh Thừa Thiên Huế cho rằng:
1. Phổ biến thông tin KH&CN
Từ thực trạng: Làm công tác truyền thông KH&CN đã khó, nhưng việc phổ biến thông
tin này đến với công chúng lại càng khó hơn. Nguyên nhân là do “văn hóa đọc”, thị hiếu
của công chúng…, mặt khác thông tin KH&CN không dồi dào cộng với tính phức tạp của
nó càng khiến thông tin không hấp dẫn như những thông tin khác trong đời sống xã hội.
Trong khi đó, hầu hết các thông tin này lại được biên soạn ở dạng các báo cáo khoa học nên
phần lớn công chúng khó tiếp nhận. Hơn nữa, do áp lực của đơn vị quản lý, bán sản phẩm (ấn
phẩm, tạp chí…) để bù chi phí xuất bản.
Đến giải pháp: Xem việc phổ biến thông tin KH&CN là nhiệm vụ chính trị của ngành
KH&CN; chú trọng đầu tư như những lĩnh vực khác (ví dụ như công tác nghiên cứu khoa
học); không đặt nặng việc bán các sản phẩm thông tin KH&CN là nguồn kinh phí phải bắt
buộc thu hồi (vì thông tin KH&CN đến với công chúng là đã thành công). Tóm lại là phải “bao
cấp” cho việc phổ biến thông tin KH&CN.
2. Xây dựng lực lượng và chế độ đãi ngộ cho người làm công tác truyền thông KH&CN
Từ thực trạng: Hiện nay, lực lượng làm công tác truyền thông KH&CN tại các Sở
KH&CN rất mỏng, hoặc nếu có thì phần nhiều không phải là các đối tượng đã qua đào tạo
chuyên ngành (báo chí) vì vậy hạn chế trong việc tác nghiệp; Về chế độ nhuận bút: chế độ
nhuận bút rất thấp so với mặt bằng chung của báo chí. 01 bài viết ở Bản tin KH&CN mức cao
nhất là 220 ngàn đồng.
Đến giải pháp: Những đơn vị có nhiệm vụ làm truyền thông KH&CN (Sở KH&CN)
nên tổ chức toà soạn, có bộ máy hoạt động ổn định; chú ý tuyển dụng đầu vào (ưu tiên cho
những người được đào tạo làm công tác truyền thông); Về chế độ nhuận bút: Nên xây dựng
cụ thể, chi tiết khung nhuận bút tin bài, ảnh… trên các ấn phẩm KH&CN (tạp chí, bản tin)
như các loại hình báo chí khác.
3. Định hình cơ chế hoạt động cho các đơn vị làm công tác truyền thông về KH&CN
Từ thực trạng: Hiện nay bộ phận làm công tác truyền thông KH&CN ở các Sở KH&CN
có nơi thì thuộc phòng (Phòng Thông tin tư liệu), có nơi thì thuộc trung tâm (Trung tâm Thông
tin KH&CN). Ở Thừa Thiên Huế, bộ phận làm truyền thông KH&CN tập trung ở hai đơn vị,
mà theo quy định thì các đơn vị này lại bắt buộc phải chuyển đổi theo Nghị định số 115/2005/
NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ
chức KH&CN công lập. Tuy nhiên nếu chuyển đổi theo Nghị định 115, thì Trung tâm khó mà
tồn tại được.
Đến giải pháp: Nên đưa bộ phận làm công tác truyền thông KH&CN là đơn vị quản lý nhà
nước hoặc theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 33
Năm 2013, hoạt động quản lý công nghệ,
Sở Khoa học và Công nghệ đã đạt được những
kết quả nhất định. Trong năm đã tổ chức thẩm
tra công nghệ của 11 dự án đầu tư, trong đó 08
dự án liên quan đến công nghệ khai thác mỏ đá
làm vật liệu xây dựng thông thường và cát sạn
sỏi lòng sông, 01 dự án liên quan đến công
nghệ sản xuất dầu đốt For từ cao su phế thải,
01 dự án đầu tư công nghệ sản xuất viên nén
năng lượng theo tiêu chuẩn Din 51731/Din
Plus và 01 dự án liên quan đến công nghệ xử
lý nước thải sinh hoạt của Cảng Chân Mây,
đồng thời phòng cũng đã tham gia hỗ trợ thẩm
tra công nghệ 02 dự án đầu tư thuộc thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư của Ban
Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh và Ban
Quản lý Khu Kinh tế Chân Mây-Lăng Cô lần
lượt là dự án xây dựng nhà máy sản xuất frit,
công suất 30.000 tấn/năm tại Khu công nghiệp
La Sơn và dự án đầu tư sản xuất đá xây dựng
thông thường mỏ đá Thừa Lưu, xã Lộc Tiến,
huyện Phú Lộc.
Ngoài ra, theo sự phân công của lãnh đạo
Sở, Phòng Quản lý Công nghệ đã tham gia
41 hội đồng đánh giá chất lượng tài sản thiết
bị phục vụ công tác điều tra xét xử, thanh lý
với các cơ quan liên quan; tham gia 02 hội
đồng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về nghiệm thu thiết bị khoa học và công
nghệ năm 2012 và lựa chọn thiết bị khoa học
và công nghệ đầu tư năm 2013 thuộc dự án
tăng cường trang thiết bị khoa học và công
nghệ cho xưởng chế tạo mẫu, Trung tâm
Chuyển giao Công nghệ Cơ điện Nông
nghiệp miền Trung, Viện Cơ điện Nông
nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch.
Đối với công tác quản lý nhà nước về an
toàn bức xạ, năm 2013 đã cấp và gia hạn giấy
phép sử dụng thiết bị bức xạ y tế cho 22 đơn vị
(33 thiết bị), đạt 100% kế hoạch. Trong đó cấp
giấy phép sử dụng thiết bị X-quang cho Bệnh
viện Trung ương Huế đối với 10/10 thiết bị,
đưa số thiết bị X-quang của Bệnh viện Trung
ương Huế được cấp giấy phép sử dụng lên
24/24 thiết bị đạt 100%; cấp chứng chỉ nhân
viên bức xạ cho 05 cá nhân phụ trách an toàn
bức xạ. Đã tiến hành kiểm tra an toàn bức xạ
tại 07 đơn vị, cơ sở khám chữa bệnh có sử
dụng thiết bị bức xạ y tế và 02 cơ sở bức xạ
ngoài y tế. Kết quả kiểm tra tại 07 cơ sở y tế
(16 thiết bị X-quang) cho thấy có 04 đơn vị (05
thiết bị) chưa khai báo kịp thời, có 02 đơn vị
(02 thiết bị) chưa kiểm định lại thiết bị sau
02 năm, có 01 đơn vị chưa báo cáo khi xây
mới lại phòng đặt thiết bị X-quang. Riêng
đối với 02 cơ sở bức xạ ngoài y tế là Công ty
TNHH Bia Huế và Công ty Hữu hạn Lusk Xi
măng (Việt Nam), kết quả kiểm tra cho thấy
vẫn còn một số tồn tại trong việc chấp hành
các quy định về công tác an toàn bức xạ…
Dương Quốc Tuấn
(Phòng Quản lý Công nghệ)
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ NĂM 2013
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 34
Bảo tàng Thiên nhiên duyên hải miền
Trung là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Khoa
học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, được
thành lập theo Quyết định số 2824/QĐ-UBND
ngày 23/12/2009 của UBND tỉnh Thừa Thiên
Huế. Trong thời gian mới thành lập, công tác
xây dựng đội ngũ và bồi dưỡng nghiệp vụ là
vấn đề được quan tâm hàng đầu, đã có 2
chuyên viên bảo vệ thành công luận văn thạc
sỹ chuyên ngành Sinh học, tính đến nay biên
chế của Bảo tàng gồm có 3 thạc sỹ và 2 cử
nhân trong đó có 1 cử nhân đang học cao học
chuyên ngành Địa chất học.
Là một đơn vị mới thành lập, Bảo tàng
gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian đầu
mới thành lập, tuy nhiên sau 1 năm triển khai
thực hiện Quyết định số 75/QĐ-SKHCN của
Sở Khoa học và Công nghệ về việc giao triển
khai thực hiện nhiệm vụ kế hoạch khoa học
và công nghệ năm 2013, Bảo tàng đã hoàn
thành một số nhiệm vụ nhất định.
Về công tác nội vụ, đã thành lập phòng
Hành chính-Tổng hợp, tập trung, hoàn thiện
bộ máy tổ chức cũng như điều chỉnh một số
quy định làm việc phù hợp; luôn quan tâm
đến công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ; chú trọng
công tác cải cách hành chính, khởi động việc
chuẩn bị đưa hình thức lưu trữ và tra cứu hồ
sơ văn bản bằng file điện tử nhằm tránh thất
lạc văn băn gốc, giúp cho việc tra cứu văn
bản dễ dàng, thuận lợi.
Công tác tìm kiếm, sưu tập và chia sẻ
hình ảnh, mẫu vật về lịch sử tự nhiên, thiên
nhiên và môi trường là nhiệm vụ trọng tâm
hàng đầu của Bảo tàng, đã hợp tác với Bảo
tàng Địa chất Việt Nam trong đề tài khoa
học “Sưu tầm tài liệu, mẫu vật về tài nguyên
khoáng sản tiêu biểu của Việt Nam và các
loại khoáng sản thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế”,
đã sưu tập được 67 mẫu vật và tiếp tục triển
khai đề tài đến năm 2014.
Tháng 5/2013, nhân kỷ niệm ngày
“Quốc tế về đa dạng sinh học 22/5”,
Bảo tàng đã tiến hành tổ chức triển
lãm lưu động về các hình ảnh thiên
nhiên và sự đa dạng sinh học tại 5
trường trung học cơ sở ở huyện Phong
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế-là những
trường nằm trong vùng đệm của Khu
bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền nhằm
nâng cao sự hiểu biết cho các em học
sinh về giá trị đa dạng sinh học, về tình
yêu thiên nhiên, sự tác động của con
người đến môi trường.
BẢO TÀNG THIÊN NHIÊN DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG
TỔNG KẾT CÔNG TÁC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2013
VÀ KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG NĂM 2014
Triển lãm, trưng bày lưu động hình ảnh về đa dạng sinh học nhân ngày Quốc tế về đa dạng sinh học 22/5
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 35
Ngày 19/12/2013, Sở Khoa học và Công
nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế đã công bố Quy
hoạch chi tiết xây dựng Bảo tàng Thiên
nhiên duyên hải miền Trung. Theo đó, Bảo
tàng Thiên nhiên duyên hải miền Trung được
xây dựng tại phường An Tây, thành phố
Huế, có diện tích trên 99ha, được phân chia
nhiều khu vực như khu trung tâm, khu rừng
mưa nhiệt đới, khu nghiên cứu và đào tạo
nguồn nhân lực, bãi đổ xe, vườn sở thú... với
đầy đủ hệ thống hạ tầng kỹ thuật gắn kết các
cụm di tích lịch sử văn hóa hiện có, đảm bảo
yếu tố cảnh quang, môi trường...
Trên cơ sở những kết quả đạt được của
năm 2013, Bảo tàng cũng đã đề ra những
nhiệm vụ năm 2014 như tiếp tục hợp tác chặt
chẽ với Bảo tàng Địa chất Việt Nam trong đề
tài khoa học “Sưu tầm tài liệu, mẫu vật về tài
nguyên thiên khoáng sản tiêu biểu của Việt
Nam và các loại khoáng sản thuộc tỉnh Thừa
Thiên Huế”; tiếp tục đẩy mạnh công tác tổ
chức triển lãm lưu động, tham mưu chọn nội
dung và hình thức triển khai phù hợp, đúng
đối tượng, lên kế hoạch và thời gian dự kiến
để chủ động trong công tác triển khai thực
hiện, nghiên cứu mở rộng phạm vi triển lãm
cũng như đối tượng phục vụ, kế hoạch dự
kiến tổ chức triển lãm tại 10 trường học vào
năm 2014. Đối với nhiệm vụ không thường
xuyên, tập trung đẩy mạnh hoàn thiện khâu
chỉnh sửa, bổ sung nội dung để xuất bản
cuốn “Thống kê thành phần loài động-thực
vật bậc cao ở tỉnh Thừa Thiên Huế” nhằm
ra mắt độc giả vào đầu năm 2014. Nhiệm
vụ lớn nhất của Bảo tàng năm 2014 đó là
lập dự án “Rừng mưa nhiệt đới”, phối hợp
với các phòng chuyên môn của Sở và các
đơn vị liên quan nhằm hoàn thiện dự án vào
quý II năm 2014.
Anh Thư
Khu quy hoạch Bảo tàng Thiên nhiên duyên hải miền Trung tại Huế
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 36
PV: Trung tâm Kỹ thuật TĐC đã được
thành lập và đi vào hoạt động hơn 3 năm,
một khoảng thời gian tuy không dài nhưng
bước đầu Trung tâm đã khẳng định được
vai trò, vị thế của một đơn vị sự nghiệp
phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước
về TĐC cũng như cung cấp dịch vụ kỹ
thuật trên địa bàn, vậy bà có thể cho biết
một số kết quả nổi bật của đơn vị trong
thời gian qua.
Bà Nguyễn Thị Kiều: Trung tâm Kỹ
thuật TĐC được thành lập theo Quyết định
số 1322/QĐ-UBND ngày 02/7/2010 của
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, là đơn vị sự
nghiệp thuộc Chi cục TĐC trực thuộc Sở
Khoa học và Công nghệ có chức năng thực
hiện các dịch vụ kỹ thuật thuộc lĩnh vực tiêu
chuẩn đo lường chất lượng (kiểm định, hiệu
chuẩn các phương tiện đo; kiểm nghiệm,
phân tích chất lượng các sản phẩm, hàng
hóa…) phục vụ công tác quản lý nhà nước
và nhu cầu của xã hội.
Khi mới thành lập Trung tâm được “biệt
phái” 3 công chức từ Chi cục TĐC sang, 1
cán bộ hợp đồng và được giao 3 chỉ tiêu biên
chế viên chức. Tổng giá trị tài sản điều
chuyển hơn 1 tỷ đồng, phần lớn tài sản đã lạc
hậu và không đồng bộ. Đối với Trung tâm
Kỹ thuật TĐC, chúng tôi luôn khẳng định
rằng: trang thiết bị và con người là những
nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển
của đơn vị mà trong đó con người là nhân tố
hàng đầu. Đến nay, tổng số cán bộ viên chức
của Trung tâm là 10 người, trong đó có 7
biên chế và 3 hợp đồng lao động, chất lượng
cán bộ ngày càng được nâng cao, công tác
đào tạo cán bộ được quan tâm và đặt lên
hàng đầu. Nguồn nhân lực ngày càng đáp
ứng hơn nhu cầu công tác; bên cạnh đó,
Trung tâm cũng từng bước đầu tư trang thiết
bị, mở rộng phạm vi được công nhận. Hiện
nay, Trung tâm đã tổ chức kiểm định phương
tiện đo thuộc lĩnh vực y tế, đây là một lĩnh
vực mà từ trước đến nay trên địa bàn tỉnh
còn bỏ trống. Hoạt động kiểm định phương
tiện đo điện tim, huyết áp kế nhằm nâng cao
chất lượng khám chữa bệnh, góp phần bảo
vệ sức khỏe người dân.
PV: Trong việc triển khai các hoạt động,
đơn vị có gặp những vướng mắc, khó khăn gì
không? Chẳng hạn như về mặt “quản lý nhà
nước”, thưa bà?
TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN
TRUNG TÂM KỸ THUẬT TIÊU CHUẨN ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Xây dựng, phát triển một trung tâm để thực hiện các hoạt động thử nghiệm, kiểm định,
phân tích chất lượng sản phẩm hàng hóa là một việc làm bức thiết nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn; là một trong những định hướng quan trọng của lãnh
đạo tỉnh Thừa Thiên Huế về hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TĐC) của tỉnh
nhà trong thời gian tới. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi
với bà Nguyễn Thị Kiều, Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật TĐC tỉnh Thừa Thiên Huế.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 37
Bà Nguyễn Thị Kiều: Trung tâm Kỹ
thuật TĐC là một đơn vị mới thành lập, được
kế thừa những hoạt động của Chi cục TĐC,
đây là một thuận lợi và Trung tâm đã tiếp tục
triển khai rất hiệu quả những lĩnh vực được
kế thừa. Tuy nhiên, khó khăn cũng rất nhiều,
so với các Trung tâm bạn trong khu vực như
Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Trị thì Trung
tâm Kỹ thuật TĐC Thừa Thiên Huế có thể
nói là “tụt hậu”, chẳng hạn rất nhiều lĩnh vực
kiểm định phương tiện đo pháp định các đơn
vị bạn đã triển khai từ trước thì đến nay mình
vẫn chưa được công nhận, hiệu chuẩn
phương tiện đo và thiết bị, kiểm định trong
công nghiệp… cũng vậy. Đặc biệt trong thử
nghiệm thì các đơn vị bạn có đủ phòng thử
nghiệm cơ, lý, hóa, vi sinh nhưng mình thì
chưa có gì.
Còn nói về những vướng mắc, khó khăn
về mặt quản lý nhà nước thì không có đâu.
Trung tâm Kỹ thuật TĐC là đơn vị phục vụ
quản lý nhà nước, hoạt động kỹ thuật chính
xác, kịp thời, khách quan thì hoạt động quản
lý nhà nước mới hiệu quả và ngược lại hoạt
động quản lý nhà nước nghiêm minh, việc
tuyên truyền, quán triệt, phổ biến các văn
bản quy phạm pháp luật kịp thời thì các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sẽ tự giác
chấp hành. Thời gian qua, được sự chỉ đạo
của lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ,
Chi cục TĐC, Trung tâm đã từng bước
phát triển và có nền tảng bền vững. Sự
phối hợp giữa Thanh tra Sở Khoa học và
Công nghệ, Chi cục TĐC và Trung tâm Kỹ
thuật TĐC rất chặt chẽ, Trung tâm đã phục
vụ tốt các yêu cầu của công tác quản lý nhà
nước trong phạm vi được công nhận như
cử cán bộ kỹ thuật tham gia các đoàn thanh
tra/kiểm tra; kiểm định phục vụ công tác
kiểm tra…
PV: Nhằm phát triển, nâng tầm Trung tâm
thành một đơn vị đủ mạnh (về mặt pháp lý, về
tổ chức nhân sự, về cơ sở hạ tầng…) đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa
phương, tại buổi làm việc với Sở Khoa học và
Công nghệ trong quý 4 vừa qua, Chủ tịch
UBND tỉnh đã yêu cầu Sở xây dựng đề án phát
triển Trung tâm thành một đơn vị sự nghiệp
trực thuộc Sở, vậy chị có thể cho biết hiện nay
đơn vị đã chuẩn bị như thế nào?
Nghiệm thu đề tài “Điều tra, khảo sát hiện trạng phương tiện đo pháp định tại các doanh nghiệp và tổ chức y tế trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” do Trung tâm Kỹ thuật TĐC chủ trì
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 38
Bà Nguyễn Thị Kiều: UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế đã ban hành Quyết định số 1104/
QĐ-UBND ngày 20 tháng 6 năm 2012 về
việc kế hoạch triển khai thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ V về xây
dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trong
những trung tâm khoa học và công nghệ
của cả nước (giai đoạn từ nay đến 2020),
trong đó có nêu rõ: Xây dựng Trung tâm
Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
tỉnh Thừa Thiên Huế có đội ngũ nhân lực
mạnh về chuyên môn, có trang thiết bị hiện
đại và đồng bộ để thực hiện các dịch vụ kỹ
thuật thuộc lĩnh vực TĐC (kiểm định, hiệu
chuẩn các phương tiện đo; kiểm nghiệm,
phân tích chất lượng sản phẩm, hàng hóa;
kiểm định hàng hóa xuất nhập khẩu...) đáp
ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Cụ
thể hóa Quyết định, UBND tỉnh đã phê duyệt
dự án “Đầu tư năng lực kiểm định, thử
nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho
Trung tâm Kỹ thuật TĐC, giai đoạn 2013-
2015”, dự án sẽ bắt đầu triển khai vào năm
2014. Sau khi dự án hoàn thành và đưa vào
sử dụng, chúng tôi tin chắc rằng sẽ có những
trang thiết bị hiện đại, đồng bộ và đội ngũ
cán bộ được đào tạo chuyên sâu đủ năng lực
để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội
nhập khu vực và quốc tế.
Thực ra, bây giờ không phải Trung tâm
Kỹ thuật TĐC đã chuẩn bị được gì cho việc
xây dựng đề án nâng cấp Trung tâm trực
thuộc Sở Khoa học và Công nghệ mà chúng
tôi xác định rằng Trung tâm phải làm gì để
xứng tầm là đơn vị trực thuộc Sở, đáp ứng
được sự kỳ vọng của lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo
Sở cũng như của cán bộ, công chức, viên
chức trong Sở để góp phần xây dựng Thừa
Thiên Huế trở thành một trong những trung
tâm khoa học và công nghệ của cả nước.
PV: Hy vọng, với sự nỗ lực của cán bộ
nhân viên Trung tâm, sự quan tâm của lãnh
đạo tỉnh thì trong một thời gian không xa,
Trung tâm Kỹ thuật TĐC sớm được đầu tư
xây dựng để đi vào hoạt động ổn định, phục
vụ công tác quản lý nhà nước về TĐC cũng
như đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã
hội cho tỉnh nhà. Nhân dịp năm mới, xin
chúc bà cùng Trung tâm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ năm 2014.
Đức Thịnh
Kiểm định chuẩn dung tích hạng 2
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 39
Đại học Huế là một đại học đa ngành lớn
của khu vực miền Trung và Tây Nguyên bao
gồm 7 trường đại học thành viên, 3 khoa trực
thuộc và 1 phân hiệu: Trường Đại học Sư
phạm, Trường Đại học Khoa học, Trường Đại
học Y Dược, Trường Đại học Nông Lâm,
Trường Đại học Nghệ thuật, Trường Đại học
Kinh tế, Trường Đại học Ngoại ngữ, Khoa
Giáo dục Thể chất, Khoa Du lịch, Khoa Luật,
Phân hiệu Đại học Huế tại Quảng Trị. Ngoài ra
còn có các trung tâm đào tạo và nghiên cứu
khoa học: Trung tâm Đào tạo từ xa, Viện Tài
nguyên và Môi trường, Trung tâm Ươm tạo và
chuyển giao công nghệ, Trung tâm Giáo dục
Quốc phòng, Trung tâm Học liệu, Trung tâm
Công nghệ Thông tin, Trung tâm Đào tạo
Quốc tế, Trung tâm Phục vụ Sinh viên và Nhà
Xuất bản.
Hiện nay Đại học Huế có 102 ngành đào
tạo trình độ đại học cấp văn bằng cử nhân,
kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ, dược sĩ; 66
chuyên ngành đào tạo thạc sĩ; 27 chuyên
ngành đào tạo tiến sĩ. Về đội ngũ, tính cho
đến quý II/2013, Đại học Huế có 3.315 cán
bộ công chức; số lượng giảng viên là 2.529,
trong đó có 1.861 giảng viên cơ hữu, 359
bán cơ hữu, 309 giảng viên thỉnh giảng trong
và ngoài nước. Đội ngũ cán bộ khoa học của
Đại học Huế có chất lượng cao: tính riêng
cán bộ cơ hữu hiện có 454 giảng viên chính
và giảng viên cao cấp; có 9 giáo sư, 157 phó
giáo sư; 404 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 1.144
thạc sĩ. Nguồn nhân lực mạnh và có trình độ
cao là nhân tố quan trọng thực hiện có kết
quả kế hoạch hoạt động KH&CN.
Có thể nói giai đoạn 2008-2013, Đại học
Huế triển khai rất nhiều đề tài, dự án, chủ
yếu trên các bình diện: Triển khai thực hiện
các chương trình, đề tài, dự án các cấp: Cấp
nhà nước, cấp bộ, cấp cơ sở được tuyển chọn
theo phương thức cạnh tranh; Các hoạt động
nghiên cứu khoa học tự thân gắn liền với
công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ; Các
nhiệm vụ khác: hội nghị, hội thảo khoa học ở
các cấp độ quốc tế, quốc gia, vùng và cấp cơ
sở; hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh;
sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường, chất
lượng, thông tin khoa học…
Trong giai đoạn 2008-2013 cán bộ, giảng
viên Đại học Huế đã chủ trì thực hiện: 54
nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước với tổng
kinh phí 26 tỷ 145 triệu đồng; 12 nhiệm vụ
giáo dục bảo vệ môi trường với tổng kinh phí
1 tỷ 420 triệu đồng; 460 nhiệm vụ KH&CN
cấp bộ với tổng kinh phí 55 tỷ 645 triệu đồng;
HỢP TÁC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2008-2013:
GHI NHẬN NHỮNG THÀNH QUẢ TỪ ĐẠI HỌC HUẾ
LTS: Vừa qua, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Đại học Huế đã tổ chức Hội nghị
tổng kết chương trình hợp tác khoa học và công nghệ (KH&CN) giai đoạn 2008-2013.
Tại hội nghị, chúng tôi ghi nhận nhiều ý kiến của các nhà khoa học về hoạt động này.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 40
2.750 nhiệm vụ cấp cơ sở với tổng kinh phí
18 tỷ 462 triệu đồng. Những kết quả trên đây
cho thấy hoạt động KH&CN của Đại học
Huế trong thời gian qua đã theo đúng định
hướng lớn của nhà nước và Bộ Giáo dục và
Đào tạo, đó là đẩy mạnh hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực KH&CN thông qua các nhiệm
vụ nghiên cứu theo Nghị định thư để tiếp nhận
các công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, trao đổi
kinh nghiệm nghiên cứu giữa các nhà khoa học
của Đại học Huế và các nước có nền khoa học
phát triển. Các dự án sản xuất thử nghiệm cấp
nhà nước và đề tài cấp bộ đã góp phần ứng
dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn và
đó là những bước đi đầu tiên thúc đẩy quá
trình thương mại hóa các sản phẩm KH&CN
của Đại học Huế.
Hoạt động KH&CN của đại học Huế đã
góp phần tạo ra những sản phẩm khoa học có
khả năng thương mại và ứng dụng vào thực
tiễn sản xuất, ngày càng thể hiện rõ là một
trung tâm đào tạo đa ngành và nghiên cứu
khoa học có uy tín ở khu vực miền Trung,
Tây Nguyên. Có thể kể đến các sản phẩm
như Glucosamin đạt tiêu chuẩn dược dụng;
các giống nấm Linh Chi và
quy trình nuôi trồng; gạch
men thông minh; khẩu trang
diệt khuẩn, dung dịch khử
mùi diệt khuẩn; chế phẩm anti
VBF diệt khuẩn chuồng trại
các cơ sở chăn nuôi; chế
phẩm Bokashi trầu; quy trình
sinh sản nhân tạo tôm Rằn;
quy trình nuôi thương phẩm
tôm Rằn; quy trình nuôi
thương phẩm cá Vược; các
giống lúa kháng rầy nâu (HP
01, HP 05, HP 07, HP 10, HP
19, HP 28, HP 29); quy trình sản xuất lợn lai
3/4 máu ngoại (Duroc x (Pietrain x Móng
Cái) và Pietrain x (Yorshire x Móng Cái);
các quy trình sàng lọc, chẩn đoán trước sinh/
sơ sinh… Cùng với đó, các đề tài, dự án phối
hợp triển khai với các tổ chức KH&CN, các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã được địa
phương đánh giá có tính hiệu quả cao, góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội
của tỉnh.
Cũng trong giai đoạn này, các đề tài, dự
án của Đại học Huế đã bám sát văn bản thỏa
thuận về hợp tác KH&CN đã được ký kết
giữa UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Đại học
Huế với nội dung chính là hợp tác, liên kết
trong hoạt động KH&CN, đưa tiến bộ kỹ
thuật vào phục vụ sản xuất, đời sống; khả
năng tham gia các nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ giữa các nhà
khoa học với các đơn vị liên quan ngày càng
gắn kết hơn. Các đề tài, dự án được đánh giá
cao trong giai đoạn này đã thể hiện rõ trên
các lĩnh vực đó.
Có thể kể đến một số kết quả điển hình
như sau:
Nghiên cứu chế phẩm Bokashi trầu của Trường Đại học Nông lâm
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 41
Lĩnh vực khoa học cơ bản: Đề tài
“Nghiên cứu phát triển phương pháp siêu âm
-vi sóng chế tạo vật liệu sắt điện, áp điện trên
cơ sở PZT có cấu trúc nanô”, do TS Trương
Văn Chương làm chủ nhiệm nhóm nghiên
cứu đã thu được những kết quả khả quan
trong nghiên cứu chế tạo, cấu trúc, vi cấu
trúc và tính chất của vật liệu TiO2, ZrO2,
ZnO… có cấu trúc nanô; nhóm đề tài đã chế
tạo và nghiên cứu các tính chất sắt điện, áp
điện của các
vật liệu trên
cơ sở PZT;
đồng thời
nghiên cứu
các thông số
tối ưu của
qui trình
công nghệ
chế tạo vật
liệu. Đề tài
“Nghiên cứu
nấm dược
liệu ở Thừa
Thiên Huế”
do TS Ngô Anh chủ nhiệm đã nghiên cứu đa
dạng thành phần loài nấm dược liệu ở tỉnh
Thừa Thiên Huế, xác định và lập danh lục 71
loài nấm dược liệu với 39 loài nấm dược liệu
thuộc họ nấm Linh Chi, trong đó có 7 loài
mới được công bố và bổ sung cho khu hệ
nấm Việt Nam; đã xây dựng quy trình công
nghệ nhân giống và nuôi trồng 7 loài nấm
dược liệu thuộc họ nấm Linh Chi; đã thuần
hóa và tuyển chọn được 17 chủng giống của
9 loài có năng suất cao và ổn định có thể ứng
dụng trong sản xuất nấm dược liệu ở Việt
Nam; xác định năng suất, mùa vụ nuôi trồng
9 loài nấm Linh Chi ở tỉnh Thừa Thiên Huế;
xác định thành phần các hợp chất của 3 loài
nấm dược liệu đã được nuôi trồng: Hoàng
Chi, Cổ Linh Chi và Thanh Chi, góp phần
chứng minh cho hoạt tính dược lý của các
loài Linh Chi đã được nuôi trồng; chứng
minh nấm Hoàng Chi là một loài nấm dược
liệu quý. Đề tài “Nghiên cứu tách chiết Fu-
coidan đạt tiêu chuẩn thương mại từ một số
loài rong nâu ở Thừa Thiên Huế” do PGS,
TS. Trần Thị Văn Thi, Trường Đại học
Khoa học
làm chủ
nhiệm tách
chiết poly-
saccarit sul-
fat tổng, tinh
chế, phân
tích định tính
và đinh
lượng poly-
saccarit sul-
fat, định tính,
định lượng
để đánh giá
chất lượng
fucoidan, bước đầu hoàn thiện quy trình tách
chiết. Hiện đề tài đã hoàn thành 80% nội
dung đăng ký và tạo ra sản phẩm: 0,5kg
fucoidan, quy trình tách chiết fucoidan
thương mại cho sản phẩm đạt tiêu chuẩn
thương mại.
Lĩnh vực Y Dược: Đề tài “Nghiên cứu
hiệu quả của bài thuốc Tiền liệt thanh giải
trong điều trị phì đại lành tính tuyết tiền liệt
do PGS, TS Hoàng Văn Tùng, Trường Đại
học Y Dược làm chủ nhiệm đã bào chế thuốc
tiền liệt thanh giải dưới dạng cốm, đóng gói
với hàm lượng 60g/gói, khảo sát độc tính bán
trường diễn trên thỏ thí nghiệm; đã áp dụng
Tập huấn kỹ thuật sản xuất rau an toàn cho nông dân
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 42
điều trị trên bệnh nhân phì đại lành tính tuyến
tiền liệt (có so sánh với nhóm đối chứng), đánh
giá kết quả điều trị bệnh cho thấy có tác dụng
bước đầu, không có tác dụng phụ. Hiện nay, đề
tài tiếp tục được triển khai phối hợp với nước
ngoài theo hình thức nhiệm vụ hợp tác nghiên
cứu theo Nghị định thư giữa Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Trung Quốc. Đề tài “Hoàn
thiện quy trình kỹ thuật trong nội soi một số
bệnh lý ống tiêu hóa trên ở bệnh viện trường
Đại học Y Dược, Đại học Huế” do PGS,TS
Trần Văn Huy, Trường Đại học Y Dược làm
chủ nhiệm đã xây dựng quy trình thắt tĩnh
mạch trướng thực quản qua nội soi, quy trình
cắt polyp đại trực tràng, quy trình cầm máu
qua nội soi, và quy trình mở thông dạ dày qua
nội soi đạt kết quả khả quan.
Lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư: Đề tài
“Nghiên cứu tuyển chọn và nhân giống một
số giống cây có củ (khoai môn sọ, khoai mỡ)
có khả năng chịu hạn phục vụ sản xuất ở
vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên”
do Khoa Nông học, Trường Đại học Nông
Lâm chủ trì, với tổng kinh phí: 3.500 triệu
đồng thực hiện trong 2 năm 2008-2009. Đề
tài đã tập hợp được nhiều nhà khoa học trong
lĩnh vực nông học của trường Đại học Nông
Lâm, Đại học Huế và có sự phối hợp triển
khai với một số Trung tâm nghiên cứu, cơ sở
sản xuất trong khu vực như Trung tâm Khảo
nghiệm các giống lúa khu vực miền Trung,
Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thừa Thiên
Huế, Hợp tác xã Kim Long, Huế... trong việc
khảo nghiệm các giống lúa, lạc và trồng thử
nghiệm để nghiên cứu tuyển chọn. Đề tài
“Thu nhập và tạo nguồn vật liệu khởi đầu để
chọn, tạo một số dòng (giống) mới (lúa, lạc),
có năng suất chất lượng tốt, thích ứng với
điều kiện sinh thái tỉnh Thừa Thiên Huế và
một số tỉnh miền Trung” do TS Lê Tiến
Dũng, Trường Đại học Nông Lâm làm chủ
nhiệm đã thu thập và tuyển chọn được 6
giống lúa, 3 giống lạc có năng suất chất
lượng tốt, đáp ứng với điều kiện sinh thái
của các địa phương khu vực miền Trung,
một số đặc tính nông học của các giống lúa
Đại học Huế tham gia triển lãm sản phẩm Khoa học và Công nghệ do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 43
đã được đưa ra sản xuất thử nghiệm và khảo
nghiệm. Các kết quả nghiên cứu của đề tài
khẳng định được vai trò và đóng góp của đề
tài trong việc khảo nghiệm và tuyển chọn các
giống lúa, lạc có năng suất cao, phù hợp với
điều kiện thiên nhiên và sinh thái của khu
vực miền Trung, phục vụ cho sự phát triển
kinh tế-xã hội của khu vực...
Có thể nói rằng, hoạt động KH&CN của
Đại học Huế trong thời gian qua đã đạt được
rất nhiều thành tựu, xứng đáng đóng vai trò
quyết định đến vị thế KH&CN của tỉnh Thừa
Thiên Huế. Tuy nhiên, với những thành công
nhất định đó, Đại học Huế vẫn chưa đáp ứng
với sự kỳ vọng của tỉnh nhà mà như trong hội
nghị tổng kết chương trình hợp tác giữa
UBND tỉnh và Đại học Huế vừa qua, các giáo
sư, nhà khoa học đầu ngành của tỉnh cũng đã
có những nhìn nhận chung như vậy. Theo
PGS, TS Trần Ngọc Nam, Giám đốc Sở
KH&CN, trong lĩnh vực đề xuất nhiệm vụ,
tham gia đăng ký tuyển chọn chủ trì thực hiện
các nhiệm vụ KH&CN, Đại học Huế chưa
thực sự chủ động, còn mang dấu ấn tự phát của
các cá nhân/tập thể-nhóm nghiên cứu, mà chưa
thể hiện vai trò tích cực của “chủ thể”, vai trò
“trung tâm” như mong muốn của tỉnh nhà.
Theo PGS, TS Trần Thị Văn Thi (Trường
Đại học Khoa học) để định hướng chiến lược
đối với KH&CN của tỉnh cần được cụ thể hóa
hơn, từ đó có thể đón đầu và thực hiện tốt
nhiệm vụ. Ngoài ra những yêu cầu đặt ra về
mặt khoa học đối với các sản phẩm ứng dụng
thực tiễn không quá cao đến nỗi vượt quá năng
lực người nghiên cứu, nhưng kết quả thường
không đến được nơi áp dụng hoặc chỉ sử dụng
ngắn ngày, bởi thương mại hóa sản sản phẩm
hay làm kinh tế không phải là sở trường của
nhiều nhà khoa học.
Còn theo một số giảng viên đến từ
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế là
một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học
lớn của miền Trung và cả nước; đã có nhiều
công trình nghiên cứu phục vụ phát triển
kinh tế-xã hội được thực hiện trên địa bàn
tỉnh. Tuy nhiên, hiệu quả do các nghiên cứu
khoa học ứng dụng chưa được lượng hóa rõ
ràng, từ đó dẫn đến các sản phẩm nghiên cứu
và chủ thể sử dụng kết quả chưa được xác
định rõ. Vì vậy, vấn đề là phải xác định được
các chỉ tiêu lượng hóa sản phẩm nghiên cứu
và nhu cầu thực sự của đối tượng sử dụng
sản phẩm nghiên cứu, khi đó mới có cơ sở
kiểm soát việc thực hiện đề tài và đảm bảo
tính khả thi của đề tài.
Có thể nhìn nhận rằng, nghiên cứu khoa
học là một trong những hoạt động bổ ích, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường
đại học. Những thành quả trong hoạt động
KH&CN của Đại học Huế đã được ông
Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch UBND tỉnh ghi
nhận tại hội nghị tổng kết 5 năm hợp tác
KH&CN. Vì vậy, để “Phát triển KH&CN
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
theo Nghị quyết số 20 của BCH Trung ương
Đảng khóa XI, tỉnh Thừa Thiên Huế cần
thành công hơn nữa trong hoạt động
KH&CN mà lực lượng chủ lực vẫn là Đại
học Huế để KH&CN phát huy vai trò là quốc
sách hang đầu, là động lực có tính quyết định
trong thực hiện kế hoạch hàng năm và dài
hạn, sớm xây dựng Thừa Thiên Huế trở
thành thành phố trực thuộc trung ương.
Ý An
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 44
1. Hỗ trợ nhân rộng mô hình nuôi cá vược vùng nước lợ tỉnh Thừa Thiên Huế. Đơn
vị chủ trì: Trường Đại học Nông lâm Huế. Chủ nhiệm: TS Tôn Thất Chất.
2. Hỗ trợ phát triển sản xuất rau an toàn. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Nông lâm
Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Trần Đăng Hòa.
3. Nghiên cứu, phát triển một số mẫu mã sản phẩm gốm truyền thống đặc trưng của
làng gốm Phước Tích. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Nghệ thuật Huế. Chủ nhiệm: CN
Võ Xuân Huy.
4. Nghiên cứu, thử nghiệm một số tua du lịch đầm phá dựa vào cộng đồng. Đơn vị chủ trì:
Khoa Du lịch, Đại học Huế. Chủ nhiệm: TS Bùi Thị Tám.
5. Nghiên cứu sản xuất enzyme protease tái tổ hợp trong hệ thống lên men quy mô pilot và
thử nghiệm ứng dụng sản xuất nước chấm. Đơn vị chủ trì: Viện Tài nguyên, Môi trường và
Công nghệ Sinh học, Đại học Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Nguyễn Hoàng Lộc.
6. Xác định một số gen chủ yếu kháng bệnh đạo ôn ở các giống lúa chủ lực tại Thừa Thiên
Huế. Đơn vị chủ trì: Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ Sinh học, Đại học Huế. Chủ
nhiệm: PGS, TS Trương Thị Bích Phượng.
7. Nghiên cứu thành phần và tác dụng dược lý của polysaccharide và triterpenoide trong
nấm Linh Chi (Ganoderma lucium) nuôi trồng tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Đơn vị chủ trì:
Trường Đại học Khoa học Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Trần Thị Văn Thi.
8. Thử nghiệm chế tạo thiết bị siêu âm và vật liệu TiO2 nanô trong xử lý nước. Đơn
vị chủ trì: Trường Đại học Khoa học Huế. Chủ nhiệm: TS Trương Văn Chương.
9. Thử nghiệm mô hình nuôi thủy sản nước ngọt có hiệu quả kinh tế ở hồ Hòa Mỹ, huyện
Phong Điền. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Nông lâm Huế. Chủ nhiệm: ThS Nguyễn Phi Nam.
10. Nghiên cứu tình hình nhiễm Human Papilloma Virus (HPV) sinh dục và tổn thương
cổ tử cung của phụ nữ tỉnh Thừa Thiên Huế và đề xuất giải pháp phòng chống. Đơn vị chủ
trì: Trường Đại học Y Dược Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Nguyễn Vũ Quốc Huy.
11. Nghiên cứu chế tạo chitosan oligosaccharide (COS) phục vụ chăn nuôi gà ở
tỉnh Thừa Thiên Huế. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Khoa học Huế. Chủ nhiệm:
PGS, TS Trần Thái Hòa.
CÁC ĐỀ TÀI, DỰ ÁN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TỈNH
DO ĐẠI HỌC HUẾ CHỦ TRÌ THỰC HIỆN GIAI ĐOẠN 2009-2013
2009
2010
2011
Giai đoạn 2008-2013, Đại học Huế đã chủ trì thực hiện 54 nhiệm vụ khoa học và
công nghệ (KH&CN) cấp nhà nước, 12 nhiệm vụ giáo dục bảo vệ môi trường; 460
nhiệm vụ KH&CN cấp bộ và 2.750 nhiệm vụ cấp cơ sở. Trong đó, kể từ khi ký kết
chương trình hợp tác giữa UBND tỉnh và Đại học Huế về KH&CN thì đã có 23 đề tài,
dự án KH&CN của tỉnh do các đơn vị thành viên của Đại học Huế thực hiện. Bản tin
KH&CN xin giới thiệu danh mục 23 đề tài, dự án do Đại học Huế chủ trì thực hiện từ
năm 2009-2013 để bạn đọc cùng tham khảo.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 45
12. Nghiên cứu ứng dụng và phát triển kỹ thuật chẩn đoán và điều trị hội chứng ngưng
thở khi ngủ bằng máy SASD-07 đối chứng với máy STAR DUST II. Đơn vị chủ trì: Bệnh viện
Trường Đại học Y Dược Huế. Chủ nhiệm: TS Hoàng Anh Tiến.
13. Nghiên cứu hàm lượng, chất lượng, tác dụng dược lý và xây dựng quy trình sản xuất
glucomannan trong củ Nưa-Amorphophallus sp. (họ Ráy-Araceae) trồng tại tỉnh Thừa Thiên
Huế. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Y Dược Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Nguyễn Thị Hoài.
14. Nghiên cứu ứng dụng bộ mô hình MIKE dự báo theo thời gian thực biến đổi của chế
độ thủy văn và môi trường nước phục vụ cho phát triển bền vững kinh tế-xã hội vùng đầm
phá Tam Giang-Cầu Hai. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Khoa học Huế. Chủ nhiệm: TS
Trần Hữu Tuyên.
15. Xây dựng mô hình thí điểm giúp nông dân thích ứng với biến đổi khí hậu (lũ lụt) tại
tỉnh Thừa Thiên Huế. Đơn vị chủ trì: Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ sinh học,
Đại học Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Lê Văn Thăng.
16. Thử nghiệm mô hình sản xuất một số giống lúa kháng rầy lưng trắng
(Sogatella furcifera Harvath) ở Thừa Thiên Huế. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học
Nông lâm Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Trần Đăng Hòa.
17. Xây dựng quy trình sản xuất vật liệu zeolite 4A từ tro trấu và ứng dụng để xử lý nước
ao hồ nuôi trồng thủy sản. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Khoa học Huế. Chủ nhiệm:
TS Trần Ngọc Tuyền.
18. Nghiên cứu sản xuất enzyme β-glucanase tái tổ hợp từ Trichoderma asperellum trong
nấm men. Đơn vị chủ trì: Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ sinh học, Đại học Huế.
Chủ nhiệm: PGS.TS. Nguyễn Hoàng Lộc.
19. Nghiên cứu xây dựng mô hình làng nghề truyền thống xã Phú Mậu phục vụ du lịch.
Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Nghệ thuật Huế. Chủ nhiệm: TS Phan Thanh Bình.
20. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm sinh học để
phòng và trị bệnh cầu trùng ở gà. Đơn vị chủ trì: Trung tâm Ươm tạo và Chuyển
giao công nghệ, Đại học Huế. Chủ nhiệm: PGS, TS Đinh Thị Bích Lân
21. Nghiên cứu tình hình mang tự kháng thể và mắc bệnh tự miễn của người dân ở tỉnh
Thừa Thiên Huế. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Y Dược Huế.
22. Đề tài: Nghiên cứu các đột biến gene 23S rRNA gây kháng thuốc clarithromycine của
vi khuẩn Helicobacter pylori ở các bệnh nhân viêm dạ dày mạn. Đơn vị chủ trì: Trường Đại
học Y Dược Huế. Chủ nhiệm: TS Hà Thị Minh Thi.
23. Xây dựng mô hình sản xuất giống lạc TK10 kháng bệnh héo xanh vi khuẩn, năng suất
cao tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Nông lâm Huế. Chủ nhiệm:
TS Lê Như Cương.
Minh Đức
2012
2013
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 46
Chuyện nhà nông muốn phát triển
thương hiệu
Quảng Điền-vùng đất nằm ở phía bắc của
tỉnh Thừa Thiên Huế, có thị trấn Sịa và 7 xã
vùng ven sông Bồ gồm Quảng An, Quảng
Thành, Quảng Phước, Quảng Thọ, Quảng
Vinh; các xã còn lại là Quảng Thái, Quảng
Lợi, Quảng Ngạn, Quảng Công, Quảng
Phú. Phá Tam Giang chạy dọc phía đông
huyện, còn sông Bồ chảy dọc phía tây nam của
huyện. Người dân Quảng Điền chủ yếu sống
dựa vào nông nghiệp và trồng lúa đã trở thành
công việc quen thuộc của nhà nông huyện
Quảng Điền.
Tìm về với vùng đất Quảng Điền vào
một ngày cuối năm dưới tiết trời se lạnh,
chúng tôi được ông Chủ tịch Hội Nông dân
Quảng Điền dẫn đi thăm những đồng lúa mà
khi thu hoạch sẽ cho gạo đỏ. Chuyện hồi
sinh gạo đỏ là một câu chuyện dài, xuất phát
từ việc mong muốn tăng giá trị sản phẩm cho
người nông dân. Gạo đỏ ở huyện Quảng
Điền vốn là sản phẩm quen thuộc với người
dân địa phương và của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nếu vào mỗi buổi sáng có một bát cháo gạo
đỏ ăn với cá bống kho khô trong tiết trời mùa
đông lạnh giá thì sẽ ấm áp biết dường nào.
Nhưng có lẽ người tiêu dùng trong nước ít
biết đến loại gạo mang nhiều giá trị dinh
dưỡng này.
Huyện Quảng Điền là địa phương thấp
trũng, vì vậy sẽ rất thích hợp cho việc trồng
giống lúa đặc biệt này. Tuy nhiên, có một
thời gian dài người dân ở đây không còn
mặn mà với việc trồng lúa đỏ, phần vì năng
suất thấp, phần vì thời gian thu hoạch lâu
hơn lúa bình thường. Và rồi, từ khi có
Chương trình xây dựng Nông thôn mới, với
sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, người
dân ở đây quyết vực dậy lại việc trồng lúa đỏ
ngay trên quê hương mình.
Ông trời đã không phụ lòng người, mặc
dù bước đầu năng suất không cao, nhưng chi
phí đầu tư thấp, ít sâu bệnh, không sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật nên có thể coi đây là
sản phẩm gạo an toàn phù hợp với nhu cầu
thị trường. Gạo đỏ thường trồng trong
khoảng thời gian hơn 5 tháng, năng suất đạt
khoảng 20 tấn/ha và đặc biệt không dùng
thuốc trừ sâu bởi giống lúa này không hề có
sâu bệnh.
Theo tìm hiểu của người dân địa phương,
gạo đỏ hiện nay rất được người dân ưa
chuộng, mặt khác nhu cầu thực phẩm sạch
ngày càng lớn thì việc sản xuất và mở rộng
diện tích trồng giống lúa địa phương càng có
ý nghĩa thiết thực, hạn chế tình trạng hoang
hóa gây lãng phí, góp phần giải quyết việc
làm tăng thu nhập cho bà con nông dân.
Ngoài ra, năm 2010, được sự hỗ trợ của
Trường Đại học Nông lâm Huế đã giúp một
số hộ nông dân xã Quảng Lợi về giống, kỹ
thuật, phân bón để phục tráng thử nghiệm lại
giống lúa gạo đỏ trên diện tích 1ha. Đây là
HỒI SINH GẠO ĐỎ MANG THƯƠNG HIỆU “QUẢNG ĐIỀN”
Dân gian thường có câu: “Cơm với cá như mạ với con”, mà hôm nay, món ăn thô
sơ và thanh đạm đó vẫn còn được tồn tại trong mỗi bữa ăn gia đình. Sở dĩ chúng tôi
muốn nhắc lại câu ca dao ấy bởi lẽ gạo-cơm, món ăn không thể thiếu trong cuộc sống
con người. Và giờ đây, huyện Quảng Điền đã có niềm vui hơn trước khi phục hồi thành
công giống lúa đỏ để trở thành một sản phẩm mang thương hiệu “Quảng Điền”.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 47
lần đầu tiên sau khoảng 20 năm, giống lúa
gạo đỏ trồng ở vùng nước nhiễm mặn Quảng
Lợi được phục tráng. Qua khảo nghiệm cho
thấy, giống lúa gạo đỏ vẫn giữ nguyên được
các đặc tính, như thân cao và cứng, phù hợp
với điều kiện tự nhiên vùng đất ngập nước
nhiễm mặn ở ven cửa sông, đầm phá. Xuất
phát từ thực tiễn cũng như nắm bắt tâm lý
tiêu dùng, huyện Quảng Điền đã làm thủ tục
xin đăng ký thương hiệu riêng theo chỉ dẫn
địa lý với tên gọi “Gạo đỏ Quảng Điền”.
Việc xây dựng thương hiệu gạo đỏ
Quảng Điền tuy mới chỉ bước đầu, song đã
mở ra được một hướng đi mới cho bà con
nông dân nơi đây. Nếu thương hiệu được
làm tốt, người dân sẽ có thể nâng cao giá trị
sản phẩm, còn người tiêu dùng sẽ được yên
tâm sử dụng sản phẩm đúng chất lượng.
Không chỉ riêng gạo đỏ, mà nhiều ngành
nghề, sản phẩm khác, đặc biệt là trong nông
nghiệp, nếu có một định hướng chiến lược
thương hiệu tốt cũng sẽ mở ra cơ hội mới
cho người nông dân, đặc biệt là trong vấn đề
xuất khẩu, cải thiện cuộc sống ở vùng nông
thôn theo những tiêu chí đề ra của Chương
trình xây dựng Nông thôn mới.
Lúa đỏ hồi sinh
Vào cuối năm 2012, Phòng Công thương
huyện Quảng Điền đã thực hiện dự án “Phục
tráng và mở rộng diện tích sản xuất giống lúa
địa phương (gạo đỏ) tại vùng ô trũng nằm
ven phá Tam Giang xã Quảng Thái”, với
mục tiêu thử nghiệm và mở rộng diện tích
sản xuất giống lúa địa phương nhằm tạo ra
một mô hình có hiệu quả, hạn chế đất hoang
hóa gây lãng phí ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái. Vấn đề quan trọng ở đây là phục
tráng thành công giống lúa gạo đỏ trên vùng
ô trũng thuộc đầm phá Tam Giang tạo ra sản
phẩm gạo ngon ít sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật, giảm chi phí đầu vào, đồng thời khai
thác tiềm năng đất đai, tăng hiệu quả sản
xuất và giá trị sản lượng trên diện tích canh
tác. Đây được xem bước khởi đầu cho việc
xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu gạo an toàn
của Quảng Lợi, Quảng Thái tiến tới sản xuất
theo hướng hàng hóa như chủ trương của
huyện đề ra.
Lúa đỏ-Gạo đỏ mở ra hướng đi mới cho người dân Quảng Điền
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 48
Vụ đông xuân năm 2013, HTX Thắng
Lợi (xã Quảng Lợi) đã đưa vào sản xuất
7ha lúa đỏ với 20 hộ dân tham gia trồng chủ
yếu ở thôn Cổ Tháp. Dự kiến, trong năm
2014 sẽ đưa vào trồng thêm 7ha nữa và năm
2015 sẽ phát triển lên 30ha. Đặc biệt, Quảng
Lợi đã đưa vào trồng thử nghiệm với diện
tích 4 sào lúa đỏ ở vùng rú cát, qua đó cho
thấy cây sinh trưởng phát triển tốt, thích ứng
với đặc tính vùng đất này.
Theo cán bộ Trạm Khuyến Nông-Lâm-
Ngư huyện Quảng Điền, gạo đỏ đang được
thị trường rất ưa chuộng, giá bán cao gấp 2-3
lần so với các loại gạo khác. Hiện nay, địa
phương đang nhân rộng mô hình sản xuất
giống lúa đỏ truyền thống tập trung 2 xã
Quảng Thái và Quảng Lợi, lồng ghép vào
mô hình cá-lúa đỏ-vịt theo Chương trình xây
dựng Nông thôn mới. Mặt khác, gạo đỏ sản
xuất theo quy trình an toàn, chi phí sản xuất
rất thấp nên hiệu quả kinh tế cao hơn các
giống lúa hiện tại.
Qua hơn một năm thực hiện dự án, mô
hình phục tráng giống lúa đỏ đã cho kết quả
khả quan. Là giống lúa được gieo cấy lâu đời
tại địa phương nên lúa đỏ thích nghi với điều
kiện thời tiết, đất đai ở đây, do đó có khả
năng chống chịu ngoại cảnh rất tốt. Giống
lúa gạo đỏ thuộc giống có loại hình cao cây,
phiến lá rộng, khả năng chống đỗ kém, trong
quá trình chăm sóc cần tăng cường bón ka li
và thời kỳ trổ phải đưa nước ngập sâu hơn.
Sau gần một năm nộp đơn đăng ký nhãn
hiệu tập thể, hiện nay, thương hiệu “Gạo đỏ
Quảng Điền” đã được Cục Sở hữu trí tuệ tiếp
nhận hồ sơ. Đây là bước ngoặt và là đòn bẩy
giúp cho sản phẩm lúa truyền thống của
huyện Quảng Điền vươn ra trên thị trường,
tạo thu nhập ổn định cho nông dân.
Theo Phòng Công thương huyện Quảng
Điền, từ những kết quả trong việc phục tráng
giống lúa đỏ, để mở rộng diện tích trong
những năm tới, các xã Quảng Thái, Quảng
Lợi và các HTX nông nghiệp trồng giống lúa
địa phương này cần tìm thị trường tiêu thụ
cho đầu ra của sản phẩm, xây dựng các điểm
thu mua, nếu đủ điều kiện có thể chủ động
mở đại lý tại các vùng và các tỉnh như Thừa
Thiên Huế, Đà Nẵng, Tây Nguyên… tạo
thuận lợi hơn trong khâu tiêu thụ, đồng thời
khẳng định thương hiệu “Gạo đỏ Quảng
Điền”. Khi đã có thị trường tiêu thụ ổn định,
địa phương cần có kế hoạch quy hoạch vùng
sản xuất, khuyến khích bà con mở rộng diện
tích gieo trồng giống lúa đỏ trong vụ đông
xuân trên những nơi có điều kiện, nhằm từng
bước xây dựng thương hiệu gạo an toàn của
xã Quảng Lợi, Quảng Thái, tiến tới sản xuất
theo hướng hàng hoá bền vững.
Võ Minh
Không chỉ có giá thành cao, gạo đỏ
Quảng Điền còn có tác dụng tích cực về
mặt y học, người tiêu dùng thường nấu
cháo gạo đỏ để bồi bổ cho người bệnh
khi đau ốm. Vì vậy, việc đăng ký nhãn
hiệu tập thể “Gạo đỏ Quảng Điền” là
việc làm cần thiết, tạo tiền đề cho việc
khôi phục và mở rộng diện tích sản xuất
giống lúa gạo đỏ, từng bước xây dựng
thương hiệu trong tương lai.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 49
Trong quá trình nghiên cứu thảo dược
làm thuốc và nghiên cứu thuốc mới từ tự
nhiên, kiến thức Y học dân tộc bản địa có vai
trò cực kỳ quan trọng. Hiện nay trên thế giới
có khoảng 124 nước hoạt động trong lĩnh
vực nghiên cứu và phát triển ứng dụng tri
thức bản địa. Trong đó có nhiều nước chú
trọng khai thác nguồn tài nguyên tri thức này
cho các mục đích thương mại có giá trị cao,
đặc biệt trong lĩnh vực dược học và mỹ
phẩm. Thời gian để nghiên cứu một thuốc
mới, nếu thành công, thường kéo dài hơn 10
năm với kinh phí khoảng từ vài trăm triệu
cho đến gần 1 tỷ đôla Mỹ. Nhiều công ty
Dược đa quốc gia ở các nước lớn đã nhận
thấy rằng con đường nghiên cứu tìm thuốc
mới đôi lúc đã không thu hồi được những
khoản đầu tư. Điều đó cho thấy tại sao giá
thuốc mới cực kỳ đắt và gần 80% nhân loại
khó tiếp cận với thuốc. Cũng theo các số liệu
thống kê, trong số 122 hoạt chất tự nhiên
được sử dụng làm thuốc trong thế kỷ 20 thì
có đến 85% có nguồn gốc từ 94 loài thực vật
đã được các dân tộc bản địa sử dụng với mục
đích điều trị tương tự. Như vậy có thể thấy
rằng việc tìm hiểu, nghiên cứu các tri thức
bản địa luôn là hướng đi cần được ưu tiên vì
nó mang lại nhiều triển vọng trong công
cuộc tìm kiếm thuốc mới của nhân loại.
Nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa,
khí hậu có nhiều nét độc đáo, Việt Nam đứng
thứ 16 trên thế giới về đa dạng sinh học nhưng
đứng thứ 2 trên thế giới về tài nguyên cây
thuốc với một hệ thực vật vô cùng phong phú
trong hệ rừng núi chiếm 3/4 diện tích toàn lãnh
thổ. Nằm trong khu vực giao lưu giữa các
nước Đông Nam Á, Việt Nam còn là quốc gia
đa dạng về các nền văn hóa với 54 dân tộc anh
em sinh sống. Mỗi một dân tộc đều có bản
sắc văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết riêng và
kinh nghiệm sử dụng cây thuốc đặc sắc.
Chính sự đa dạng về tộc người cùng với sự
khác biệt về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu,
phong tục tập quán, văn hóa mà dẫn đến sự đa
dạng trong kinh nghiệm gia truyền sử dụng cây
cỏ làm thuốc của đồng bào các dân tộc. Thực
tế cho thấy hầu hết các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam từ lâu đời đã hình thành tập quán sử dụng
cây cỏ làm thuốc, áp dụng những phương thức
trị bệnh quý báu mà khoa học hiện đại chưa
từng biết đến. Những tri thức này tồn tại và lưu
truyền từ đời này qua đời khác trong từng gia
đình, dòng họ, cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Theo kết quả thống kê của Bộ Y tế năm 2012,
đã có hơn 1.000 bài thuốc gia truyền được thu
thập trong dân gian.
Với sàng lọc tự nhiên, các nghiên cứu
thường là khoanh vùng thực vật, lấy mẫu
cây, tạo dịch chiết, sàng lọc hoạt tính để tìm
ra loài có tác dụng. Thì với tri thức bản địa là
quá trình tìm hiểu, tiếp cận để tìm ra loài có
tác dụng. Việc khai thác, vận dụng được các
tri thức này sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời
gian, công sức của các nhà khoa học và tiền
của đầu tư của nhà nước.
Từ kinh nghiệm chữa bệnh của đồng bào
dân tộc, chúng ta có thể nghiên cứu sâu hơn
về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học
để tìm ra các hoạt chất làm thuốc hiệu quả.
Đồng thời các nghiên cứu đó cũng sẽ góp
KHAI THÁC TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG PHÁT TRIỂN THUỐC TỪ DƯỢC LIỆU
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 50
phần chứng minh những tri thức bản địa
đang được sử dụng là có cơ sở khoa học, từ
đó có thể đề xuất biện pháp bảo tồn và phát
triển những bài thuốc và cây thuốc quý. Hiện
nay, Việt Nam đã có một số công trình
nghiên cứu về tri thức sử dụng cây thuốc của
đồng bào dân tộc thiểu số. Điển hình như
công trình nghiên cứu, điều tra, nhằm đánh
giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc
của cộng đồng các dân tộc thiểu số do Bộ Y
tế cùng Viện Dược liệu kết hợp thực
hiện. Trong đó, tập trung đánh giá, nghiên
cứu các cây thuốc của dân tộc Dao, Mường
và cộng đồng các dân tộc thiểu số khu vực
Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu thu được
đã chứng minh tác dụng của các cây thuốc và
mở ra triển vọng trong việc tìm kiếm thuốc
mới có tác dụng quý giá như kìm hãm sự
phát triển của khối u, chống oxy hóa. Có rất
nhiều cây thuốc quý đã được phát hiện như:
mạng mùi đông, hau dần, kói lởng, nam cằng
mùi, tàu làu, thoong lá lềnh, cờ xông,
thapapon, nhứ mán pạ, thượng váng, đìa sản,
củ dòm, dào xị, xạ đen… trong đó có một số
cây đã được xếp vào sách đỏ Việt Nam như
vạ mùi, cây hoa tiên.
Tuy nhiên, so với nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú và tri thức bản địa quý báu thì
số lượng các công trình nghiên cứu vẫn còn ít,
và hiện chỉ tập trung chủ yếu vào đồng bào dân
tộc ít người ở miền Bắc và Tây Nguyên.
Như chúng ta biết miền Trung có dãy núi
Trường Sơn kéo dài với khoảng 45% diện
tích rừng bao phủ. Thừa Thiên Huế là một
trong 5 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, có diện tích tự nhiên
5.033,2km2, dân số trung bình năm 2012 là
1.115.523 người. Nằm ở trung độ của đất
nước, là nơi giao thoa của hai miền khí hậu á
nhiệt đới ở phía Bắc và khí hậu nhiệt đới ở
phía Nam, có địa hình đa dạng (núi, đồi,
đồng bằng duyên hải, đầm, biển) nên Thừa
Thiên Huế sở hữu nguồn tài nguyên sinh vật
đa dạng, được đánh giá là thuộc loại cao của
Việt Nam và khu vực, ở cả 3 mức: đa dạng
hệ sinh thái, đa dạng loài và đa dạng nguồn
gien. Thừa Thiên Huế là một trong những
tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, trong đó dân
tộc thiểu số như Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Tà
Ôi và Pa Cô với khoảng hơn 40.000 người,
sống tập trung ở các xã miền núi.
Trải qua quá trình sinh sống lâu dài, các
dân tộc này đã tạo cho mình nét văn hóa đặc
trưng, trong đó có kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc để điều trị bệnh cho người dân trong
thôn bản. Ví dụ kết quả của đề tài “Nghiên
cứu các cây thuốc của đồng bào dân tộc Pa
Cô-Vân Kiều ở Miền Trung có tác dụng
chống oxy hóa và diệt tế bào ung thư” mà
chúng tôi thực hiện trong năm 2012-2013 đã
thu thập được nhiều cây thuốc quý. Các
nghiên cứu về dược lý đã chứng minh đó
thực sự là những loài có tác dụng. Một số
cây thuốc chưa từng được khoa học biết đến
trước đó. Tuy nhiên, hiện nay đã có nhiều
biến động về nguồn tài nguyên cây thuốc
như hiện tượng phá rừng làm nương rẫy, làm
thủy điện, thay đổi cơ cấu cây trồng… đã
làm cho số lượng cây thuốc ngày một giảm
đi. Thời kỳ mở cửa, phát triển kinh tế hàng
hóa, trước sự xâm nhập ồ ạt của “thuốc tây”
đã làm nhiều người xem nhẹ giá trị chữa
bệnh bằng những loại thuốc từ cây cỏ. Mặt
khác, vì nhiều lý do, các ông lang, bà mế,
những người biết cây thuốc và phương thức
sử dụng cây thuốc trị bệnh trong các cộng
đồng dân tộc thiểu số cũng chưa được chú ý
và quan tâm đúng mức. Đôi khi bản thân họ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 51
và các tổ chức xã hội nơi họ sinh sống cũng
chưa nhận thức được tầm quan trọng của
việc khai thác, bảo tồn cây thuốc cũng như
các tri thức làm thuốc. Ở một số ông lang bà
mế có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc nhưng
con cháu không đi theo con đường làm
thuốc. Một vài dân tộc chỉ có tiếng nói mà
không có chữ viết. Do đó các tri thức bản địa
đang đứng trước nguy cơ bị mai một và thất
truyền. Trong Hội thảo tổng kết 12 năm thực
hiện dự án Bảo tồn nguồn cây thuốc cổ
truyền tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên
Huế do Viện Dược liệu tổ chức tổng kết
(10/04/2010) nhiều loài cây thuốc và bài
thuốc quý của cộng đồng dân tộc
ở nhiều vùng trên cả nước cũng như trên địa
bàn Thừa Thiên Huế đang dần bị mất đi.
Chúng ta có thể hiểu nôm na cây thuốc
gồm hai yếu tố cấu thành: cây cỏ đơn thuần là
một nguồn gen (vật thể) và cách làm thuốc là
tri thức (phi vật thể). Vì lẽ đó, nếu yếu tố tri
thức mất đi thì cây thuốc trở thành cây hoang
dại, vô tác dụng. Việc bảo tồn cây thuốc dân
tộc khác với việc bảo tồn các loại cây khác, vì
nó gắn liền với tri thức sử dụng của dân tộc
thiểu số. Thực tế, cho đến nay, chưa có nhiều
công trình nghiên cứu, tổng hợp về tri thức làm
thuốc của đồng bào dân tộc ít người tại tỉnh
Thừa Thiên Huế. Các tri thức này đang nằm rải
rác trong các bản làng, vùng sâu vùng xa, mà
chưa được điều tra thống kê và tập hợp lại.
Với những lý do trên, để đóng góp cho quá
trình nghiên cứu và sự phát triển các cây thuốc
dựa trên tài nguyên tri thức bản địa, chúng tôi
xin đề xuất những ý kiến sau:
Về phía Đại học Huế: Đẩy mạnh quan hệ
hợp tác quốc tế về lĩnh vực hợp chất tự nhiên.
Chúng ta không sẵn có các thiết bị, phương
pháp nghiên cứu hiện đại nhưng chúng ta có
lợi thế với nguồn tài nguyên phong phú và tri
thức bản địa cực kỳ đặc sắc. Đây là thế mạnh
mà không phải quốc gia nào cũng có được. Sự
kết hợp đó sẽ rút ngắn được thời gian nghiên
cứu, tạo ra được các sản phẩm có chất lượng
khoa học cao phục vụ con người. Kết hợp
được các nhà khoa học trong Đại học Huế
cùng tham gia một chuỗi hoạt động liên
quan. Để có thể khai thác nghiên cứu được
sản phẩm thuốc dựa trên tri thức bản địa cần
có sự kết hợp của nhiều ngành, ví dụ như Xã
hội học, Nông học, Sinh học, Hoá học và
Dược học.
Về phía Sở Khoa học và Công nghệ: Xây
dựng các nhiệm vụ điều tra về thực vật học dân
tộc (bao gồm tri thức sử dụng và nguồn gen
cây thuốc) của các đồng bào dân tộc thiểu số ở
Thừa Thiên Huế. Từ đó có định hướng bảo tồn
khai thác, phát triển hợp lý. Hình thành được ý
thức về tài nguyên cây thuốc tại cộng đồng dân
cư; Có văn bản hướng dẫn các cơ quan, tổ
chức, chính quyền ở các xã, huyện nơi có đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống về: mục tiêu,
nội dung, cách thức thực hiện để có thể lưu giữ
và phát huy tài nguyên cây thuốc hiện có tại
địa phương.
Như vậy, tri thức bản địa là nguồn tài
nguyên quốc gia giúp ích rất nhiều cho quá
trình phát triển tạo nguồn nguyên liệu làm
thuốc mới theo những phương sách ít tốn
kém. Kết quả thu được sẽ góp phần định
hướng cho chiến lược phát triển nguồn
nguyên liệu làm thuốc tại tỉnh nhà, từ đó có
thể nghiên cứu tạo ra các sản phẩm thuốc từ
dược liệu địa phương góp phần nâng cao vị
thế của tỉnh ta trong lĩnh vực y dược học.
Nguyễn Thị Hoài
(Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược Huế)
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 52
Từ lâu hình ảnh con ngựa đã là nguồn cảm hứng sáng tác của các nhà thơ, nhà văn, họa
sĩ, nhạc sĩ, điêu khắc... Trong kho tàng văn học dân gian của Việt Nam và thế giới có rất
nhiều câu nói hay nói về ngựa, nhưng thực ra là nói về con người và cuộc sống.
Tục ngữ Nga có câu: “Ngựa bốn vó vẫn cứ bị vấp ngã” để chỉ rằng ở đời không có sự
việc nào, con người nào là hoàn chỉnh tuyệt đối. Hoặc một câu tục ngữ của Nhật Bản: “Biết
ngựa qua bước đi, biết người qua giao thiệp”. Tương tự như vậy ở Việt Nam có câu ca dao:
“Ngựa hay chẳng quản đường dài
Nước kiệu mới biết tài trai anh hùng”
Qua các kiểu đi của ngựa: “nước kiệu” (đi chậm), “nước trung” (đi vừa), “nước đại” (phi
nhanh)... nó sẽ bộc lộ những mặt mạnh hay yếu của con ngựa. Người ta cũng vậy, qua giao
thiệp những mặt ưu và khuyết sẽ hiện ra rõ hơn. Dân ca quan họ Bắc Ninh có câu: “Bây giờ
kẻ Bắc người Nam/Ngựa Hồ chim Việt biết làm sao đây”, là một lời than thân trách phận
trong sự xa cách, ở đây người bình dân đã mượn điển tích “ngựa Hồ chim Việt” của Trung
Quốc để biểu đạt sự nhớ nhau. Khi người con gái có chồng rồi, đã yên bề gia thất được ví
như “ngựa có cương”, các chàng trai đừng dòm ngó nữa:
“Em có chồng rồi như ngựa có cương
Ngựa em em đứng, đường trường anh đi”
Và khi người con trai phụ tình, người con gái vẫn dõng dạc tuyên bố, không chịu lép vế:
“Sông sâu ngựa lội ngập kiều (kiều là cầu)
Dẫu anh có phụ còn nhiều người thương”
Nhưng khi tình yêu đôi lứa không cân xứng, “đứa con gái khôn lấy thằng chồng dại” thì
người bình dân lại so sánh:
“Tiếc thay con ngựa cao bành
Để cho chú ấy tập tành sao nên?”
Ngựa trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 53
Đây là lời trách của cô gái đối với chàng trai, khi chàng cứ “kén cá chọn canh” để cuối
cùng gặp phải người chẳng ra gì:
“Ngựa ô chẳng cưỡi, cưỡi bò
Đường ngang không chạy, chạy dò đường quanh”
Khi tình yêu chung thủy thì dù:
“Đường dài ngựa chạy biệt tăm
Người thương có nghĩa trăm năm cũng chờ”
rồi họ ao ước có một ngôi nhà năm gian, chan hòa ánh sáng:
“Năm con ngựa bạch sang sông
Năm gian nhà ngói, đèn trong đèn ngoài”
Để rồi một ngày kia đẹp trời, anh sẽ đón nàng lên “xe hoa” bằng ngựa quý:
“Ngựa ô anh thắng kiệu vàng
Anh tra khớp bạc đưa nàng về dinh”
Trong chiến đấu, ngựa góp phần lập nên nhiều chiến tích oai hùng. Ta đã từng nghe nói
về con ngựa “xích thố” (lông đỏ) của Quan Công, “ngựa truy” của Hạng Vũ, “ngựa sắt”
của Thánh Gióng, “ngựa ô” của Ôđixê ở thành Tơ roa, “long mã" của Đường Tam Tạng...
Khi quan quân của Lê Lợi đóng trại ở Bồ Đề, mọi người đã thi nhau cắt cỏ về cho ngựa để tỏ
lòng yêu mến đức Ông:
“Nhong nhong ngựa ông đã về
Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn”
Và chẳng may khi người tướng chết, ngựa cũng buồn rầu và có khi chết theo. Người ta
cũng đã từng mổ ngựa để lấy “da bọc thây” các chiến tướng. Trong “Chinh phụ ngâm”,
Đặng Trần Côn đã viết:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 54
Những con ngựa hay, ngựa quý cũng rất kén chủ. Nếu người không đủ tài trí điều khiển,
thì nó bất phục, người ta thường bảo “ngựa hay lắm tật” (còn gọi là ngựa chứng). Để chỉ sự
nguy hiểm, tục ngữ dạy ta: “Hàm chó vó ngựa”, ngựa cũng rất có tình với chủ, với bầy: “một
con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, hoặc “ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”. Để phê phán những
hiện tượng xấu, trong dân gian có các thành ngữ như “ngựa non háu đá”, “như ngựa bất
kham”, “ngựa quen đường cũ”... chỉ sự ghen đua lố bịch thì có “ngựa lồng, tóc cũng
lồng”… ám chỉ kẻ xấu thì dùng “đầu trâu mặt ngựa”, chỉ sự may rủi (họa-phúc) có câu
“ngựa Tái Ông” (Tái Ông thất mã), sự thẳng thắn thái quá được ví “thẳng như ruột ngựa”,
sự thăng tiến hay hạ bệ có câu “lên voi xuống ngựa”. Công việc chóng vánh, sớm hoàn thành
thì có câu “nhanh như ngựa”. Phải bất đắc dĩ dùng một vật nào đấy không tương xứng với
việc lớn thì có câu: “thiếu voi phải dùng ngựa”, chỉ sự thay đổi trắng đen của lòng người khó
dò, ta thường nói “ngựa hươu thay đổi”. Nhà thơ Cao Bá Nhạ có câu:
“Ngựa hươu thay đổi như chơi
Giấu gươm đầu lưỡi, thọc dùi trong tay”
Khi người ta khuyên nhau không nên vội vàng trong công việc, thì hãy nghĩ đến câu
“ngựa le te cũng đến bến Giang/Voi đủng đỉnh cũng sang qua đò”. Và dù ngựa có bay đến
đâu cũng không thể gác được hai yên. Câu tục ngữ “ngựa nào gác được hai yên” luôn nhắc
nhở ta không nên ép người khác làm việc quá giới hạn.
Xuân đã gõ cửa mọi nhà, chúng ta cùng ôn lại một số câu ca dao, dân ca, tục ngữ nói về
ngựa để cầu chúc cho đất nước và con người tiến nhanh, tiến mạnh trên cỗ xe “thiên lý mã”
bước tới “đài vinh quang” như Bác Hồ hằng mong ước.
Hương Thủy (tổng hợp)
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 55
Nguồn gốc và lịch sử phát triển.
Theo phân loại động vật, họ Ngựa
(Eqdae) thuộc bộ Ngón lẻ (perrisodactyla),
xuất hiện cách đây chừng 55-60 triệu năm.
Thủy tổ sớm nhất của chúng là loài động vật
được gọi là Eohippus, hoặc tên khoa học là
Hyracotherium. Ngựa thuở sơ khai có tầm
vóc chỉ nhỏ bằng con cáo, sống trong các
vùng rừng Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á, ăn lá
cây bụi, chân trước có bốn ngón và ba ngón
ở chân sau.
Qua nhiều triệu năm, các thế hệ của loài
động vật nhỏ bé này mới tiến hóa thành
giống ăn cỏ lớn hơn, có ba ngón và sau đó
chỉ còn một ngón duy nhất ở tất cả các chân.
Trước tiên, giống ngựa ăn lá cây, mang tên
Meso-hippus rồi đến Parahippus có răng nhai
với thân răng thấp. Cách đây khoảng 23-25
triệu năm, đồng cỏ bắt đầu thay thế các vùng
rừng ở Bắc Mỹ. Để thích nghi với môi
trường mới, chân ngựa tiến hóa dài hơn nên
có thể di chuyển nhanh khắp các vùng rộng
lớn kiếm tìm cỏ và chạy trốn khi bị mãnh thú
săn đuổi, đồng thời thân răng nhai cao hơn
để phù hợp với thức ăn là loại cỏ thô ráp.
Giống ngựa ăn cỏ sớm nhất là Merychippus,
Là động vật xuất hiện rất sớm trên trái đất, qua những giai đoạn lịch sử thăng trầm,
cấu tạo, đời sống, đặc điểm của loài ngựa dần dần ổn định. Từ xưa, ngựa đã có vai trò
quan trọng, gần gũi với cuộc sống con người. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nhìn nhận hay
đánh giá toàn diện về ngựa trở thành một vấn đề hấp dẫn mà nhiều người quan tâm...
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 56
rồi dần dần được thay thế bởi giống
Plio-hippus là loại ngựa một ngón đầu tiên.
Giống ngựa này sinh ra Equus từ cách đây
khoảng hai triệu năm.
Giống ngựa Equus bao gồm nhiều loài,
nhưng chỉ có hai loài Przewalski và Tarpan
là sống sót được qua thời kỳ trái đất bị băng
phủ (thời kỳ băng hà, cách đây chừng 11.000
-15.000 năm). Ngựa Plzewalski có nguồn gốc
ở các vùng thảo nguyên Mông Cổ, hiện tại chỉ
còn vài chục con sống hoang dã tại vùng núi
Tachin Shara Nuru và được gây nuôi, bảo tồn
ở một số vườn thú lớn. Còn ngựa Tarpan
nguồn gốc ở miền Nam nước Nga, những thế
kỷ trước chúng sống khá nhiều ở Đông Âu
nhưng hiện tại không còn nữa do bị săn bắt
và con cuối cùng bị giết chết năm 1851 tại
một vùng núi của Ucraina. Hai loài ngựa đó
được coi là thủy tổ gần nhất của các loài
ngựa trên thế giới ngày nay.
Đặc điểm sinh học và đời sống
Tất cả các loài ngựa hiện nay đều là thú
ngón lẻ vì chỉ có một ngón (móng guốc) rất
phát triển ở mỗi chân. Mặt ngựa dài đặc
trưng, các giác quan nhạy cảm và mồm hơi
hẹp, răng to, mắt tinh, tầm nhìn xa rộng
nhưng lại kém về xác định màu nên chỉ phân
biệt được bốn màu là: đỏ, vàng, xanh lá cây
và xanh da trời. Tai ngựa khá to, có thể cử
động dễ dàng và rất thính. Mũi ngựa đánh
hơi và phân biệt mùi giỏi, có thể nhận biết
hơi lạ-quen ở cách xa hàng trăm mét. Ngựa
là động vật thông minh, có khả năng ghi
nhận, phán đoán và trí nhớ tốt. Cả cổ, mình
lẫn chân ngựa đều khá dài, khỏe và linh hoạt.
Toàn thân ngựa được phủ một lớp lông ngắn,
mịn nhưng lông phía trên cổ (bờm), sau gót
chân và đuôi thì rất dài, hơi xù. Phần lớn các
loài ngựa chỉ mang một màu lông, dù gam
sắc đa dạng: trắng, hồng, vàng, xám, nâu,
đen... Một số ít loài có 2-4 màu lông (ngựa
khoang). Ngựa vằn châu Phi lại mang sắc
lông ngộ nghĩnh, độc đáo: nền trắng hoặc
vàng trắng làm nổi bật những sọc đen hoặc
nâu đen xen kẽ.
Ngựa ăn cỏ và lá các loại cây thân bụi.
Chúng sống ở vùng quang đãng, mang tính
quần thể gia đình. Hành vi của chúng rất đa
dạng, thể hiện sinh động các cảm xúc: ngựa
sửng sốt thì ngẩng cao đầu, hai tai vểnh sang
hai bên; phân vân thì một tai hướng về phía
trước, tai kia hướng về phía sau; quá đói thì
liên tục dùng chân gõ đất; sợ hoặc cáu thì đá
hậu; tức giận thì dướn miệng, nhe răng, tai
cụp về phía sau; gọi bạn hoặc báo động nguy
hiểm thì hí dài... Chúng chạy nhanh, đi xa để
kiếm thức ăn, tìm nước tránh ruồi muỗi khi
thời tiết nóng bức và trốn sự săn đuổi. Ngựa
có thể chạy với tốc độ 25-40km/giờ trong
nhiều giờ: ở cự ly ngắn tốc độ chạy của
chúng đạt tới 65-70 km/giờ.
Ngựa giao phối vào mùa xuân và thường
đẻ một con (hiếm khi sinh đôi) sau khi mang
thai khoảng 335-340 ngày (riêng ngựa vằn
khoảng 370-375 ngày). Sau khi đẻ chừng
một giờ, ngựa con có thể đi lại được và nó ăn
thêm cỏ chỉ sau vài tuần dù ngựa mẹ thường
cho con bú tới một năm. Được 2,5-4,5 tuổi,
ngựa con hoàn toàn trưởng thành, có khả
năng rời đàn, lập ra nhóm mới và đạt tầm
vóc tối đa. Trong họ hàng nhà ngựa, tầm vóc
các loại rất khác nhau: lớn nhất là loài Shire
ở Anh, trung bình cao (tính tới đỉnh vai) 170-
190cm, nặng 700-1.100kg; còn nhỏ nhất là
loài Falabella ở Achentina chỉ cao 45-80cm.
Tuổi thọ của các loài ngựa cũng rất khác
nhau, nói chung khoảng 18-40 năm, con
sống lâu nhất được 60 năm.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 57
Giá trị của ngựa đối với con người
Ngựa mang những giá trị tâm linh đặc
biệt, được nhiều dân tộc quý trọng và sùng
bái. Ở nhiều nơi, ngựa là hiện thân của may
mắn, hạnh phúc. Tại Tây Âu và Nam Á, mơ
thấy ngựa hoặc ra đường gặp ngựa là điềm
may. Bộ tộc Bouriate có tập tục buộc ngựa
của người mắc bệnh vào gần chỗ nằm để
bệnh nhân gần ngựa mà chóng khỏi. Người
La Mã thường cúng thần Mars (Sao Hỏa-
Thần Chiến tranh) một con ngựa trước cuộc
xuất binh hoặc mùa thu hoạch để hy vọng
thắng lợi. Ở Aiien, trong ngày lễ thánh Jean,
những người nông dân thường hân hoan rước
và chào đón một chú ngựa to làm bằng gỗ,
mà theo họ, là biểu tượng cho tất cả gia súc.
Ngựa được coi là linh vật liên quan mật
thiết với nước. Tại Nam Âu người ta quan
niệm con ngựa nào đi qua vùng hạn hán mà
đột nhiên dừng lại, đập mạnh móng xuống
đất thì trời sắp mưa hoặc có mạch nước
ngầm ở đó. Bộ tộc Bambara ở Mali trong các
lễ cầu mưa thường cưỡi những con ngựa gỗ
có cánh tượng trưng cho các thần linh mà họ
cầu khẩn đem mưa tới. Ngư dân một số vùng
ở Ấn Độ, Hy Lạp, Nga... nếu muốn đánh bắt
được nhiều cá thì thường cúng dâng ngựa
cho thần biển, thần sông.
Ngựa còn được tôn vinh là biểu tượng
của sức mạnh, của năng lực sáng tạo, của
tuổi trẻ. Đạo Veda của Ấn Độ khẳng định
điều này và vị thần Ashvin hiện thân cho tri
thức mang dáng đầu người mình ngựa (nhân
mã). Dân Mông Cổ coi ngựa là điển hình của
sự thông tuệ và hùng hậu. Các bộ tộc Ural-
Altai (Bắc Á) coi ngựa là biểu tượng tươi trẻ,
là chủ thể sung mãn của sự sinh sản.
Ngựa từng là đối tượng phổ biến được
dùng sức cho công việc kéo, chở, thồ hàng và
cày ruộng. Ngày nay, những nhu cầu đó vẫn
rất thịnh hành tại các nước đang phát triển ở
châu Á, Bắc Phi và Mỹ Latinh. Còn tại những
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 58
nước phát triển, việc sử dụng sức ngựa hạn chế
hơn do có nhiều máy móc hiện đại thay thế,
nhưng ngựa vẫn được dùng trong một số lĩnh
vực truyền thống. Ở Scotland, Hà Lan, Mỹ,
Canada, ngựa lùn được dùng dưới hầm mỏ đế
kéo than từ vỉa quặng và để kéo thuyền dọc
kênh đào... Thuật ngữ chỉ công suất của động
cơ vẫn mang danh “sức ngựa”-mã lực (ký
hiệu CV): 1 mã lực hệ Anh, Mỹ tương đương
công suất 745,5 oát (W) và 1 mã lực hệ Pháp
tương đương 735,5W. Ngựa cũng được sử
dụng trong các hoạt động thể thao và nghệ
thuật. Ngay từ khoảng năm 1.500 trước
Công nguyên, cuộc đua xe ngựa sớm nhất đã
diễn ra tại Hy Lạp. Tiếp đó, phong trào đua
xe ngựa và đua cưỡi ngựa lan khắp thế giới.
Đua xe bốn ngựa còn trở thành một môn
tham gia Đại hội thể thao Olympic thời xưa
(lần đầu diễn ra năm 776 trước Công
nguyên). Tới cuối thế kỷ XI, những cuộc đua
ngựa trên đất bằng phẳng đầu tiên được tổ
chức tại Anh. Vào thời Phục Hưng ở châu
Âu, một số trường học bắt đầu dạy thuật
cưỡi ngựa cổ điển. Năm 1750, câu lạc bộ đua
ngựa chuyên nghiệp được thành lập tại Anh
và đến năm 1775 thì đua ngựa bắt đầu ở
Nga... Ngày nay, ngoài đua ngựa, còn
nhiều môn khác như ngựa việt dã vượt rào,
nhảy qua chướng ngại vật, lội nước... và
đặc biệt là môn polo (cưỡi ngựa đánh
bóng). Những môn thể thao ngựa mang
tính nghệ thuật làm nảy sinh hình thức xiếc
ngựa. Đến thế kỷ XVIII, biểu diễn xiếc
ngựa đã có ở nhiều nơi nhưng tại châu Âu
là rầm rộ nhất với loại sân khấu xiếc độc
đáo hình tròn, đường kính 13m. Người ta
huấn luyện cho ngựa làm được nhiều trò xiếc
phức tạp và hấp dẫn như: tìm đồ vật, làm
toán, nhảy múa theo nhạc, đi và nhảy bằng
hai chân sau, nhảy dây, di chuyển đội hình,
lao qua vòng lửa, đi trên bán cầu trơn mà
không ngã, tung hứng trên lưng ngựa...
Do ưu điểm nhanh, khỏe, thông minh, dễ
dạy bảo, giỏi chịu đựng, ngựa hiện nay vẫn
được sử dụng ở nhiều lĩnh vực. Tại các nước
có địa hình hiểm trở, ngựa là phương tiện đi
lại, tuần tra hữu hiệu của lính biên phòng ở
Mỹ, Braxin, Anh, Bồ Đào Nha người ta còn
dùng ngựa trong ngành cảnh sát, ở các nước
phát triển, người ta hay dùng ngựa cho thí
nghiệm khoa học, dịch vụ du lịch hoặc trong
các lễ nghi trọng đại… Nhiều bộ phận từ cơ
thể ngựa đều có thể dùng làm thực phẩm và
làm đồ dùng hoặc làm thuốc (như cao xương
ngựa, huyết thanh ngựa chửa...).
Trên thế giới hiện nay có hơn 100 loài
ngựa, tổng số khoảng 74 triệu con. Nhiều
nhất là châu Mỹ: 36,8 triệu con, tiếp theo là
châu Á-19,2 triệu con (riêng Việt Nam-138
ngàn con), châu Âu-10,3 triệu con, châu Phi
-6,9 triệu con, châu Đại Dương-0,8 triệu con.
Nhìn chung, ngựa là con vật có nhiều công
dụng nhất, được dùng vào nhiều việc nhất và
cùng với chó, mèo, nó gắn bó rất gần gũi với
người. Chính vì vậy, người ta rất quan tâm
và trọng dụng ngựa. Các trại nuôi ngựa
chương trình nghiên cứu ngựa, dự án lai tạo
ngựa, hội bảo vệ ngựa, quỹ cứu trợ ngựa
hoang... có ở nhiều nơi. Một số nước (Hà
Lan, Hunggari...) còn long trọng dành riêng
cho ngựa một ngày Tết đặc biệt hàng năm.
Ngày Quốc tế Ngựa được người ta quy định
4 năm một lần vào chủ nhật tuần thứ hai của
tháng 10 (gần đây nhất là năm 1998). Trong
tương lai, con người chắc chắn sẽ tiếp tục
củng cố, phát triển loài động vật rất phổ
biến, gần gũi và hữu ích này.
Đức Thiện
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 59
Năm Canh Ngọ (550): Thu lại đất Long
Biên khỏi tay nhà Lương. Nghĩa quân Triệu
Quang Phục đánh thắng quân xâm lược
nhà Lương.
Năm Nhâm Ngọ (622): Nhà Đường đổi
gọi nước ta là Giao Châu đô hộ phủ.
Năm Bính Ngọ (776): Bắt đầu cuộc khởi
nghĩa đánh quân xâm lược nhà Đường do
Phùng Hưng lãnh đạo.
Năm Nhâm Ngọ (982): Lập Đinh Thái
Hậu Dương Vân Nga làm Đại Thắng Minh
hoàng hậu cùng với bốn hoàng hậu khác. Lê
Hoàn lên ngôi Vua từ năm Canh Thìn (980).
Sai sứ sang nhà Tống nói thác là sứ của
Đinh Toàn.
Lê Hoàn cất binh đánh Chiêm Thành tiến
vào Kinh đô Indrapura (Đông Dương) đánh
bại lực lượng quân sự của Chiêm Thành.
Năm Giáp Ngọ (1054): Nhà Lý đổi tên
nước ta là Đại Việt tỏ rõ niềm tự hào dân tộc
và sự ngang hàng với các nước khác.
Năm Mậu Ngọ (1078): Lý Thường Kiệt
đại thắng quân Tống trên sông Như Nguyệt.
Bài thơ “Nam quốc Sơn Hà” của Lý Thường
Kiệt-Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của
nước ta ra đời.
Năm Nhâm Ngọ (1102): Tháng 2 (Âm
lịch) vua Lý Nhân Tông (1072-1127) đi xem
cày ruộng ở Ứng Phong.
Tháng Chạp (đầu năm 1103) xây ba
Quán: Khai Nguyên, Thái Dương và Bắc Đế
(Quán Bắc Đế tức là đền Quan Thánh
ngày nay)
Năm Bính Ngọ (1126): Vua Lý Nhân
Tông nghiêm cấm mùa Xuân không được
chặt cây.
Năm Nhâm Ngọ (1162): Tháng 5 (Âm
lịch) động đất.
Năm Nhâm Ngọ (1282): Chiêm Thành
cử Sứ bộ Bố Bà La gồm 100 người sang Đại
Việt cống vói trắng.
Tháng 10 (Âm lịch) Nhà Trần mở Hội
nghị Bình Than, bàn kế hoạch chống quân
xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai. Trần
Quốc Toản không được dự bàn (vì còn ít
tuổi), đã tức giận bóp nát quả cam, tự lập
một đạo quân hơn nghìn người thân thuộc,
trương cờ đề sáu chữ: “Phá cường địch, báo
hoàng ân”
Năm Mậu Ngọ (1258): Quân dân Đại
Việt chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ
nhất, quét sạch 30 vạn quân xâm lược ra khỏi
đất nước.
Năm Nhâm Ngọ (1402): Hồ Hán
Thương đại xá thiên hạ. Đặt ra nhã nhạc. Lấy
con quan văn làm Kinh Vĩ Lang, lấy con
quan võ làm chỉnh đốn Lang.
- Tháng 7 (Âm lịch) Đô tướng Đỗ Mân
đem quân đi đánh thắng Chiêm Thành, ở Cổ
Lũy, nhà Hồ đem vùng đất Chiên động và Cổ
lũy chia làm bốn Châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
Năm Bính Ngọ (1426): Chiến thắng Tốt
Động-Chúc Động, một chiến thắng vang dội
của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc khởi
nghĩa chống quân Minh (1418-1428) do Lê
Lợi lãnh đạo.
Năm Nhâm Ngọ (1462): Tháng 9 (Âm
lịch) Sư nhà Minh phong vua Lê Thánh
Tông làm An Nam quốc vương.
Năm Nhâm Ngọ (1522): Tháng 7 (Âm
lịch) Mạc Đăng Dung và vua Lê Chiêu Tông
(1516-1526) cầm quân chống nhau.
NHỮNG NĂM NGỌ TRONG LỊCH SỬ ĐẤT NƯỚC
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 60
Tháng 8 (Âm lịch) Mạc Đăng Dung đưa
hoàng tử Xuân lên làm vua tức Lê Cung
Hoàng, niên hiệu Thống Nguyên năm thứ
nhất (1527).
Năm Nhâm Ngọ (1702): Tháng Giêng
(Âm lịch) vỡ đê ở Thanh Hóa, dân bị đói.
- Tháng Năm (Âm lịch) Nguyễn Phúc
Chu sai hai người Trung Quốc là Hoàng
Thần và Hưng Triệt mang “quốc thư” cống
phẩm cho nhà Thanh cầu phong xin làm
phục thần Trung Quốc như vua Lê ở Đàng
Ngoài nhưng không có kết quả.
Tháng Tám (Âm lịch) Công ty Đông Ấn
của Anh trắng trợn đem 200 lính xâm chiếm
đảo Côn Lôn (Côn Đảo).
Năm Nhâm Ngọ (1762): Tháng Tư (Âm
lịch) Đàng Trong, trời nắng, nóng bệnh dịch
phát sinh và hoàng thành.
Tháng Năm (Âm lịch): Đàng Ngoài mở
khoa thi viết chữ và thi toán, có 978 người
thi đỗ môn viết chữ và 120 người đỗ môn
toán. Từ đây, nhà Trịnh quy định 12 năm thi
một lần.
Tháng 9 (Âm lịch): Sửa chữa Quốc
Tử Giám.
Tháng 10 (Âm lịch): nghề Khảm và đồ
gỗ sơn xuất hiện do Nguyễn Kim nghĩ ra.
Sau này kỹ thuật khảm thu được kết quả tốt,
khi đem ra áp dụng trên đồ bằng ngà, đồi
mồi và kim loại.
Năm Bính Ngọ (1786): Nguyễn Huệ-
dẫn quân chiếm Phú Xuân khỏi tay chúa
Trịnh. Ngày 25/6/1786 tiến ra Thăng Long
với khẩu hiệu “Phù Lê diệt trịnh”. Anh hùng
áo vải đất Tây Sơn đã đập tan các chế độ
phong kiến, thống nhất toàn bộ đất nước.
Năm Nhâm Ngọ (1822): Vua Minh
Mạng đổi tên Quảng Đức thành phủ Thừa
Thiên, Thanh Bình thành Ninh Bình, Sơn
Nam Thượng thành Sơn Nam, Sơn Nam Hạ
thành Nam Định, Kinh bắc thành Bắc Ninh,
Yên Quảng thành Quảng Yên.
Nhà nước quyết định cho các dân tộc
thiểu số ở các Trấn Bắc Thành được miễn
5/10 tiền thuế thân trong năm.
Tháng 10 (Âm lịch): Lê Văn Duyệt Tổng
trấn Gia Định thành nộp lên triều đình bản
kế hoạch đào kênh Vĩnh Tế.
Năm Canh Ngọ (1870): Vua Tự Đức
(1847-1883) đặt nha Doanh điền ở An Khê
(huyện Tuy Viễn), tỉnh Bình Định để mộ
người khắp nơi đến khai hoang lập ấp và lập
được 8 thôn ấp.
Năm Giáp Ngọ (1894): Thực dân Pháp
thiết lập Tòa thượng thẩm Hà Nội và thành
lập tiểu quân khu Cai Kinh, địa bàn gồm 13
tổng dân tộc Thổ cư trú chung quanh vùng
núi Cai Kinh.
Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập
Hội đồng Bảo hộ Trung-Bắc kỳ, một tổ chức
thống trị cao cấp, tương đương với Hội đồng
Tư mật ở Nam kỳ.
Năm Bính Ngọ (1906): Toàn quyền
Đông Dương ra nghị định thành lập các tỉnh
Kiến An, Hải Ninh và thị xã Quảng Trị.
Năm Canh Ngọ (1930): Nguyễn Ái
Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản, tổ chức
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Đảng ở Việt
Nam (Đông Dương-Cộng Sản Đảng, An
Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn) thành một Đảng duy nhất, lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặc
lịch sử trọng đại đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Năm Nhâm Ngọ (1942): Ngày mồng hai
tháng bảy Nhâm Ngọ (13/8/1942) với tên
mới Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc lên
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 61
đường đi Trung Quốc để liên lạc với các lực
lượng cách mạng của người Việt Nam và lực
lượng Đồng minh (liên minh các nước chống
chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới
lần thứ II: 1939-1945). Bác Hồ bị bọn phản
động Tưởng Giới Thạch bắt giam, đày ải qua
14 nhà tù ở Trung Quốc. Chính trong thời
gian này, Bác đã viết tập thơ “Nhật ký trong
tù”-một áng văn chương bất hủ.
Ngày 17/7/1942 (mồng sáu tháng 6,
Nhâm Ngọ) toàn quyền Pháp ký kết hiệp
định Pháp-Nhật về việc Đông Dương cung
cấp gạo cho Nhật (ký tại Sài Gòn), trong đó
quy định Đông Dương phải xuất sang Nhật
1.050.000 tấn gạo và tấm trước ngày 31/10
và 45.000 tấn bột trước ngày 31/12/1942 (24
tháng 11 Âm lịch).
Năm Giáp Ngọ (1954): Chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ, một quả bom giáng vào
đầu bọn hiếu chiến Pháp-Mỹ, buộc chúng
phải ký hiệp định Genève, lập lại hòa bình ở
Việt Nam.
Năm Bính Ngọ (1966): Quân dân hai
miền Nam-Bắc lập nhiều chiến công lớn,
đánh thắng bước đầu chiến lược chiến tranh
cục bộ của đế quốc Mỹ.
Năm Mậu Ngọ (1978): Quốc Hội
nước ta phê chuẩn mở rộng diện tích Thủ
đô Hà Nội.
Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam
thắng lợi. Quân tình nguyện Việt Nam giúp
lực lượng cách mạng Campuchia đập tan tập
đoàn diệt chủng Pôn Pốt-lengxary.
Năm Canh Ngọ (1990): Hội đồng Bộ
trưởng ra quyết định đầu tiên về “Đấu tranh
chống tham nhũng” (26-6).
Năm Nhâm Ngọ (2002): Tốc độ tăng
trưởng GDP năm 2002 của Việt Nam đạt
7%, đứng thứ 2 châu Á.
Gần 98,85% cử tri cả nước đã tham gia
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI.
Nguyễn Văn Thanh
Bộ đội xung phong đánh đồi Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ-1954 (ảnh minh họa)
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 62
Thịt ngựa chứa 21,5% protid, 5- 7% lipid,
có các muối khoáng và vitamin. Sữa ngựa
chứa 2,1% protid, cao hơn sữa người; 1,1%
lipid và các vitamin C, A; muối khoáng và các
nguyên tố vi lượng. Xương ngựa chứa calci
phosphat, keratin, oscein.
Theo Đông y, thịt ngựa (mã nhục), xương
ngựa (mã cốt), sữa ngựa (mã nhũ), phân ngựa
(mã phẩn), răng ngựa (mã xỉ), sỏi trong dạ dày
hay túi mật ngựa (mã bảo). Ngoài ra, dương
vật (bạch mã âm kinh), gan, phổi và máu ngựa
cũng được sử dụng làm thuốc.
Mã nhục (thịt ngựa): vị ngọt đắng, tính
nóng, có độc; có tác dụng lớn gân, mạnh
xương. Chữa gân xương yếu, chứng xương cốt
yếu liệt, tê bại và nhiệt khí, tiêu hóa kém, chốc
lở và rụng tóc.
Ăn thịt ngựa, trẻ em cứng cáp, nhanh
nhẹn; thanh niên vạm vỡ cường tráng; người
già không bị đau nhức xương và sống lâu. Có
thể chế biến thành những món ăn hợp khẩu vị
theo lứa tuổi. Không dùng thịt ngựa cho người
bị hạ lỵ; không nấu thịt ngựa với ké đầu ngựa
(thương nhĩ tử), hoặc với gừng.
Mã nhũ (sữa ngựa): vị ngọt, tính bình, có
tác dụng bổ huyết, nhuận táo, thanh nhiệt, chỉ
khát. Chữa huyết hư, phiền nhiệt, cốt chưng,
chỉ khát.
Sữa ngựa được dùng theo nhiều cách: sữa
tươi, sữa chua, rượu sữa. Sữa tươi thêm ít
đường cho đủ ngọt, đun sôi, uống trong ngày,
là thuốc bổ sinh huyết, dễ tiêu, chữa ho, phổi
ráo dùng cho người bị lao phổi hoặc mắc bệnh
mạn tính.
Sữa ngựa chua là nước giải khát tăng lực,
giúp ăn ngon, tiêu hóa tốt, góp phần làm hưng
phấn thần kinh khi mệt mỏi, chữa các bệnh về
hô hấp, tiêu hóa, sinh dục và nhiều loại bệnh
ngoài da.
Ở Mông Cổ, có một tập quán lâu đời về
chế rượu sữa ngựa như người Việt Nam chế
rượu nếp cái bằng men thuốc.
Rượu sữa ngựa có nồng độ cồn thấp, dùng
để bồi dưỡng, làm giảm béo, chữa thiếu máu
và phục hồi sức khỏe với người bị lao phổi.
Mã cốt (xương ngựa): vị ngọt, tính lương,
có tác dụng bổ dưỡng, ích khí, mạnh gân
xương. Thường dùng dưới dạng cao - cao ngựa
bạch: phục hồi sức khỏe với người mới ốm
dậy, phụ nữ sau sinh, đau nhức gân xương,
kinh nguyệt không đều, trẻ em còi xương xanh
xao biếng ăn.
Không dùng rượu cao ngựa cho trẻ em; khi
dùng kiêng các chất tanh: tôm, cua, cá, chất
cay: tỏi, ớt, hạt tiêu, nước chè đặc, đậu xanh,
rau muống.
Bạch mã âm kinh (dương vật ngựa): vị
ngọt mặn, tính ôn; tác dụng bổ thận ích khí.
Dùng cho người suy nhược gầy gò, ốm yếu,
liệt dương, tinh suy.
Kết hợp với nhục thung dung, liều lượng
bằng nhau, tán bột mịn, trộn với mật ong làm
hoàn; ngày uống 6g trước bữa ăn để trị liệt
dương. Không dùng cho những người âm hư
hỏa vượng.
Mã bảo (sỏi trong dạ dày hay túi mật
ngựa): vị mặn, tính lạnh; có tác dụng trấn kinh
hóa đờm, thanh nhiệt giải độc. Trị các chứng
kinh giản điên cuồng, đàm nhiệt nội thịnh, thần
trí hôn mê, nôn ra máu, chảy máu cam, mất
ngủ do thần kinh, ho do co thắt.
BT
Thuốc từ con ngựa tăng cường sức khỏe
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 63
Mã tiên thảo hay còn gọi là cỏ roi ngựa
(Verbena officinalis L.), họ cỏ roi ngựa
(Verbenaceae), trông hình dáng giống như
cái roi ngựa. Vị thuốc là bộ phận trên mặt
đất, thu hái lúc cây sắp ra hoa, phơi khô hoặc
sấy khô, với liều 6 - 12g dùng trị các bệnh
sốt rét, lỵ, ngứa lở hạ bộ, sưng đau tuyến vú,
mụn nhọt, bế kinh, khí hư bạch đới.
Mã kế còn gọi là đại kế (Circus japonicus
(DC.) Maxim), họ Cúc (Asteraceae), dùng
toàn cây. Vị thuốc có vị ngọt, đắng, tính
mát. Trị thổ huyết, máu cam, trĩ ra máu,
tiểu tiện ra máu, băng huyết, chấn thương
chảy máu. Khi dùng để cầm máu thường
được sao đen. Trị băng huyết và kinh
nguyệt quá nhiều: mã kế 20g, bồ hoàng 8g,
cả hai vị này đều sao đen, táo 10 quả. Dùng
dưới dạng nước sắc, ngày 1 thang. uống
liền 5-7 thang.
Mã xỉ hiện còn gọi là rau sam (Portulaca
oleracea L.), họ Rau sam (Portulacaceae),
mọc hoang hoặc được trồng để làm thuốc
hoặc làm rau ăn. Có thể dùng tươi hoặc khô
để trị lỵ trực khuẩn, giun kim, dưới dạng
Năm Giáp Ngọ đã đến, theo cách lý giải về 12 con giáp của người phương Đông, là
năm thuộc về sự ngự trị của con ngựa, có dịp bàn về “Những vị thuốc cổ truyền mang
tên ngựa/mã”. Trong các dược liệu cổ truyền, hai khái niệm ngựa và mã thường được
sử dụng để chỉ tên nhiều vị thuốc có giá trị, thậm chí là tên của nhiều họ cây thuốc. Xin
giới thiệu một số cây thuốc, vị thuốc chính có liên quan đến hai khái niệm này.
BẢN TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ, 1-2/2014 64
nước sắc 15-20g ngày. Dùng ngoài, trị ngứa
lở, nước ăn chân, lấy cây tươi rửa sạch, giã
nát, chấm vào chỗ bị bệnh, ngày 1-2 lần sau
khi đã rửa sạch chỗ bị bệnh và lau khô.
Mã đề còn gọi là Xa tiền thảo
(Plantago major L.), họ Mã đề
(Plantaginaceae). Hai chữ mã đề là ám chỉ
“móng chân của con ngựa”.
Mã đề cho nhiều vị thuốc hay, toàn cây
có tác dụng lợi tiểu, lợi mật, chống viêm
loét, trừ đờm, chống ho, chống lỵ... Dùng trị
bí tiểu, tiểu vàng, đỏ, tiểu ra máu, sỏi đường
tiết niệu, viêm gan, mật. Từ mã đề có thể thu
được các vị thuốc: bông mã đề, cụm hoa, hạt
mã đề (xa tiền tử) có cùng tác dụng: lợi tiểu,
lợi mật... Mặt khác, xa tiền tử còn chứa
nhiều chất nhầy, có khả năng bao phủ các vết
loét, nhất là ở dạ dày, tá tràng. Do vậy, vị
thuốc này cũng như tịch chiết của lá tươi của
nó được dùng để trị viêm loét dạ dày, tá
tràng rất
tốt. Các vị
thuốc của
mã đề có
thể dùng
dưới dạng
nước sắc,
ngày 10-
16g. Trị sỏi
tiết niệu,
viêm nhiễm
đường tiết
niệu: mã
đề, tỳ giải
mỗi vị 20g,
kim tiền
thảo 40g,
trạch tả uất
kim, ngưu
tất mỗi vị 12g, kê nội kim 8g. Sắc uống ngày
1 thang trước bữa ăn 1,5-2 giờ.
Mã đề nước còn gọi là Trạch tả (Plantago
plantago-aquatica L. tên đồng danh Alisma
orientalis Sam. Juzep.), họ Trạch tả
(Alismataceae). Gọi là mã đề nước vì lá của
cây trạch tả trông rất giống với lá của cây mã
đề, song cây này lại mọc ở dưới ruộng nước. Y
học cổ truyền dùng thân rễ của trạch tả được
thu hái vào khoảng tháng 4-5 hàng năm để
làm thuốc chữa các bệnh phù thũng, viêm
thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó khăn, đái ra
máu với liều 6-9g/ngày, dạng thuốc sắc hoặc
thuốc tán. Trị âm hư hỏa vượng, nóng bốc
từng cơn, đau đầu hoa mắt, chóng mặt: trạch
tả, mẫu đơn bì, bạch phục linh, hoài sơn mỗi
vị 6g, sơn thù du 8g, thục địa 16g. Dùng dưới
dạng thuốc sắc, ngày 1 thang ngày uống 2-3
lần, mỗi lần 12-16g.
BT
Cây mã tiên thảo