kinh a di ĐÀ qua pháp số viễn lưu -...
TRANSCRIPT
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
1
Kinh A Di Đà Qua Pháp Số
Viễn Lưu Version 1.0
Email: [email protected]
Website: bachyhuynhde.org
(Tài Liệu Tu Hành Nội Bộ của BYHĐ)
Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày mật nghĩa
của Kinh A Di Đà qua cách luận giải pháp số.
Mở Đầu:
Theo lịch sử Phật Giáo, ba tông phái sau cùng gồm có
Thiền Tông, Mật Tông (Chân Ngôn Tông) và Tịnh Độ
Tông được thành lập trong khoảng thời gian từ năm
600s tới 900s thuộc triều đại nhà Tần và Đường. Bản
kinh A Di Đà (Tịnh Độ Tông) thông dụng ở Việt Nam
là bản kinh được Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-Thập
dịch ra tiếng Hán vào đời Tần. Đỗ Tổ Sư cũng dùng
bản kinh này trong cuốn sách “Kinh A Di Đà”.
Kinh A Di Đà là kinh đại thừa nên ý nghĩa thâm sâu
cả hai mặt Hiển và Mật. Xưa nay các sách in ra chỉ
thấy được giảng nghĩa theo mặt Hiển. Gần đây thì có
cuốn “Kinh A Di Đà của Tổ Sư Đỗ Thuần Hậu đã
dùng bản kinh A Di Đà để giới thiệu Pháp Lý Vô Vi
Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp, và nói về Mật nghĩa
của kinh. Cuốn sách rất hay, rất thâm thúy, rất lạ
nhưng cũng khó đọc cho những người sơ căn hoặc ít
quen thuộc với lối viết bằng điển quang. Đỗ Tổ Sư
viết cuốn sách này bằng điển quang, tức là bằng huệ,
bằng trực giác, bằng trí chứ không phải bằng lý luận
hay tư duy trên mặt chữ nghĩa để giải kinh.
Trong bài viết này chúng tôi xin trình bày Mật nghĩa
của kinh A Di Đà qua sự phân tách những ẩn số trong
Kinh. Hiểu được mật nghĩa của kinh A Di Đà sẽ giúp
cho chúng ta nắm vững thêm phần lý trong bước
đường tu hành.
Tóm tắt Tâm Thức 13 Tầng:
Trước khi vào phần chú thích kinh, chúng tôi xin
được ôn lại một chút về những con số trong tâm thức
13 tầng:
Tiên gia có chữ Khí nên nói mọi sự đều là khí hóa.
Phật gia có chữ Tâm nên nói mọi sự đều chẳng ngoài
tâm! 13 tầng tâm thức dùng để mô tả tâm có định
nghĩa như sau:
D13 Đạo, Phật, Khí Hỗn Độn LX7
D12-D11 Bồ Tát LX6 Vô Sắc
D10-D9 A-La-Hán, Kim Tiên LX5 Vô Sắc
D8-D7 Thiên Tiên LX4 Sắc
D6-D5 Địa Tiên (Thần, Thánh) LX3 Sắc
D4-D3 Người, Động Vật LX2 Dục
D2-D1 Thảo Mộc, Kim Loại LX1 Dục
Từ D9 lên tới D13, các tầng tâm thức thông với nhau.
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
2
Từ D8 xuống tới D5, tầng trên có thể thấu suốt tầng
dưới, nhưng ngược lại thì không được. Từ D4 tới D1
thì tầng nào thông với tầng đó. Ví dụ, người có tâm
thức là D4 nên người chỉ thông được với người chứ
không nói chuyện được với thú vật, cỏ cây.
Con người là một sinh vật có đủ bộ 13 tầng tâm thức
và 7 luân xa trong thân thể.
Phật/Bồ Tát/La Hán là người có tâm thức D9-D13 nên
có lục thông.
Chúng sanh là người có tâm thức D3/D4 nên không
có lục thông. Vì không thông được với những tầng
tâm thức còn lại nên giống như một tội hồn bị giam
hãm trong nhà tù thể xác tứ đại! Một cách nói khác là
lúc xưa ở trên Thiên Đàng, Cực Lạc sung sướng, vì
phạm tội nên bị đày xuống ngục tù thể xác D3/D4.
Muốn mãn hạn tù thì chỉ có cách tu hành giải thoát
khỏi cõi luân hồi.
Tám cõi luân hồi trong lục đạo nằm trong khoảng tâm
thức D8 và D1. Sáu luân xa là những tâm điểm để
điều chỉnh những cặp tâm thức từ nhị nguyên qua nhất
nguyên. Xin đọc thêm bài “Số 13 trong đạo học,
phần 3”.
http://www.bachyhuynhde.org/BaiViet/So13TrongDa
oHoc-p123.pdf
Việc tu hành giải thoát là việc làm thăng hoa hay nâng
cao tâm thức từ D4 lên tới D9.
Trong duy thức học Phật Giáo gọi là chuyển tám thức
thành bốn trí (thành sở tác trí, diệu quan sát trí, bình
đẳng tánh trí, đại viên cảnh trí).
Trong kinh Kim Cang là lìa tứ tướng (ngã, nhân,
chúng sinh, thọ giả).
Trong thiền thì đạt cửu thứ đệ định (Như Lai), hoặc
vô niệm kiến tánh thành Phật (Tổ Sư).
Chú Thích Kinh:
Chúng tôi dùng bản hán dịch của Tam Tạng Pháp Sư
Cưu-ma-la-thập và bản việt dịch của ông Đoàn Trung
Còn. Để dễ đọc, mỗi đoạn kinh có 3 phần: phần hán,
việt văn được in đậm (bold) và phần chú thích thì in
thường.
---oOo---
KINH A-DI-ĐÀ Dao Tần,Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập dịch
Việt Dịch: Đoàn Trung Còn
Chú Thích: Viễn Lưu
Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Xá-Vệ quốc,
Kỳ-thọ Cấp-Cô-Độc viên, dữ đại Tỳ Kheo tăng,
thiên nhị bá ngũ thập nhân câu, giai thị đại A-
La-Hán, chúng sở tri thức: Trưởng lão Xá-Lợi-
Phất, Ma-ha Mục-Kiền-Liên, Ma-ha Ca-Diếp,
Maha Ca-Chiên-Diên, Ma-ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
3
Đa, Châu-Lợi Bàn-ĐàDà, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-
Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân-Đầu-LôPhả-La-
Đọa, Ca-Lưu Đà-Di, Ma-ha Kiếp-Tân-Na, Bạc-
Câu-La, A-NậuLâu-Đà, như thị đẳng chư đại đệ
tử. Tinh chư Bồ-tát Ma-ha-tát: Văn-Thù Sư-Lợi
Pháp Vương Tử, A-Dật Đa Bồ-tát, Kiền-Đà-Ha-Đề
Bồ-tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-tát, dữ như thị
đẳng chư đại Bồ-tát, cập Thích-Đề-Hoàn-nhơn
đẳng vô lượng chư Thiên, đại chúng câu.
Tôi nghe như thế này: Có một lúc, đức Phật ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, gần thành Xá-vệ, cùng với các vị đại tỳ-kheo tăng, tất cả là một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc đại A-la-hán mà ai ai cũng biết, như: Trưởng lão Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền liên, Đại Ca-diếp, Đại Ca-chiên-diên, Đại Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lỵ-bàn-đà-già, Nan-đà, A-nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà- di, Đại Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà... các vị đệ tử lớn như thế. Lại có các vị đại Bồ Tát như: Pháp Vương Tử Văn-thù-sư-lỵ, Bồ Tát A-dật-đa, Bồ Tát Càn-đà-ha-đề, Bồ Tát Thường Tinh Tấn... các vị đại Bồ Tát như thế, cùng với vua cõi trời là Đế-thích và vô số chư thiên, đại chúng cùng quy tụ.
Chúng ta thường thấy trong kinh viết đức Phật lúc thì
đi với 500 vị La Hán hoặc lúc thì đi với 1250 vị đại tỳ
kheo tăng tại vườn này hoặc đô thị kia v.v. Thiển nghĩ
thời xa xưa 2500 năm trước, thành phố đô thị thì nhỏ,
người thì thưa thớt, khó mà có thể có nơi nào thường
xuyên cung cấp thức ăn hằng ngày cho một tăng đoàn
đông đảo như vậy. Vì thế đọc kinh không nên hiểu là
thật có 500 hay 1250 vị tỳ kheo lúc nào cũng tháp
tùng đức Phật tại mọi nơi giảng kinh như được tả
trong kinh … mà nên hiểu là con số 500 hay 1250 này
có thể có ẩn ý khác!
Ví dụ, trong Kinh Tiểu Thừa Mi Tiên Vấn Đáp thì
thấy dùng con số 500 như 500 voi, 500 La Hán v.v.
Còn Kinh Đại Thừa như kinh A-Di-Đà ở đây lại dùng
1250 Đại-A-La-Hán. Cần để ý điểm này.
Theo thiển ý, con số 1250 bỏ đi 0 còn 125. Kế tới 125
= 5x5x5 hay 3 lần của 5 tượng trưng cho 3 cấp hạ,
trung, thượng. Kinh này vì thế là kinh thượng thừa.
Đã là kinh thượng thừa thì ý nghĩa phải thâm sâu cả
về hiển lẫn mật. Hiển nghĩa trong kinh này là những
lời rất trừu tượng, khó tin, khó hiểu, và khó tưởng
tượng. Ví dụ như, “…qua mười vạn ức cõi Phật về
phương Tây …” …bạn sẽ hiểu hay tưởng tượng thế
nào cho đúng? Vì thế muốn hiểu kinh A Di Đà thì
không nên hiểu bằng hiển nghĩa của chữ mà cần truy
cho ra mật nghĩa. Để hiểu ý kinh thì cần xoay những
lời kinh vào bên trong bản thể thì mới mong bắt được
ý kinh. Chứ còn đọc tụng xuông như tụng kinh hằng
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
4
ngày thì chỉ có công dụng an tâm như tụng mọi kinh
khác mà thôi!
Kinh có nhiều nghĩa: kinh sách, kinh kệ, kinh điển,
kinh mạch.
Kinh điển là những dòng điện, sự sống chạy trong
máu nóng theo những đường kinh mạch, những sợi
gân trong người để duy trì sự hoạt động của tâm thức
và sự sống của cơ thể.
Đoạn văn trên kể tên của 16 vị Đại La Hán bắt đầu là
Trưởng Lão Xá Lợi Phất và cuối cùng là 4 vị Đại Bồ
Tát, tổng cộng là 20 vị. Nhìn qua thấy 16 vị Đại La
Hán chia làm 4 nhóm, 4x4 = 16, bởi Ấn Độ dùng số 4
tượng trưng cho tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Nên ngoài
4 hướng đông tây nam bắc còn lập thêm hạ và thượng
phương đại diện cho trung cung. Vì vậy nhóm thứ 5
được thành lập với tên của 4 vị Đại Bồ Tát bắt đầu là
Văn Thù Sư Lợi và cuối là Bồ Tát Thường Tinh Tấn,
tổng cộng là 20 vị. Trong lúc số 5 là số ưa thích của
Trung Quốc, tượng trưng cho ngũ hành gồm có kim,
mộc, thủy, hỏa đại diện cho 4 hướng đông tây nam
bắc và cùng qui vào trung ương là mồ kỷ thổ. Xét kỹ
thì cả hai bên đều giống nhau và đồng nhất ở trị số 20
với 5 nhóm (kim mộc thủy hỏa thổ hay đông tây nam
bắc và trung cung).
Thành Xá Vệ hay Xá Vệ Quốc là thân tứ đại của con
người. Bên trong có ngũ tạng, trong mỗi tạng có 250
vị La Hán làm việc ngày đêm để duy trì sự sống của
cơ thể, tổng cộng là 1250 vị La Hán.
Ngoài ra con số 20 trong đạo học còn ứng với bộ kỳ
kinh bát mạch trong người: 12 kinh + 8 mạch = 20, để
dẫn khí điển và máu luân lưu khắp đầu mình và tứ chi.
Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá-Lợi-Phất: "Tùng
thị Tây-phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế-
giới danh viết Cực-lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-
Đà, kim hiện tại thuyết pháp.
Lúc ấy, Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi phất rằng: “Về
phương tây, cách đây mười vạn ức cõi Phật, có một
thế giới tên là Cực Lạc. Ở cõi ấy có đức Phật hiệu A-
di-đà hiện nay đang thuyết pháp.
Ở đây không nên hiểu là từ Trung Quốc hay Việt Nam
mà đi về hướng tây qua bên Ấn Độ là đi về Tây
Phương hay về xứ Phật. Đó là cách giải thích theo lối
hướng ngoại. Ngược lại, hướng nội là chúng ta đi bên
trong bản thể. Từ dưới lên, thận thủy là bắc phương
nằm ở dưới bụng. Nam lửa bính đinh ở đệ tam nhãn
nên nằm trên đầu. Phía lưng là hướng Tây và trước
ngực là hướng Đông.
Tu hành giải thoát là hành trình thăng hoa tâm thức
của cá nhân bằng cách đi nghịch chuyển theo cột
xương sống từ Vĩ Lư quan lên huyệt Bách Hội. Dưới
huyệt Bách Hội, ngay giữa óc, là Nê Hoàn Cung, là
cõi Cực Lạc Di Đà. Đây là đường đi Tây Phương xứ
phật, là đường đi thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
5
trong chuyện Tây Du Ký theo biểu đồ phương hướng
dưới đây.
Bắc
Na
m
Tây
Biểu Đồ Phương Hướng
Đông
Bắc
Nam
TâyĐông
13
Vĩ Lư
Long Hổ
Mệnh Môn
Giáp Tích
Huyền Xu
Thần Đạo
Đào Đạo
Thiên Trụ
Ngọc Chẩm
Bách Hội
10
1
9
Chín Phương Trời
Mười Phương Phật
Bảy LX, Cửu Khiếu
Nê Hoàn
Qua mười vạn cõi ức Phật, tức là vượt được tam quan
cửu khiếu tới được ải thứ 10, Nê Hoàn Cung, là xứ
Phật, D10.Tâm thức của loài người hiện nay đang ở
khoảng D3/D4. Muốn thành bậc bất thối chuyển thì
phải vượt ải thứ 9, Ngọc Chẩm Quan, D9.
Chín phương Trời là Tiên, Mười phương trời là Phật.
Xá-Lợi-Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc? Kỳ
quốc chúng-sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ
chư lạc, cố danh Cực lạc
“Xá-lợi-phất! Tại sao cõi ấy gọi là Cực Lạc? Nơi
ấy chúng sanh không có những sự khổ não, chỉ
hưởng các điều vui sướng, nên gọi là Cực Lạc.
Tâm thức của chúng sanh ở nơi đây là từ D9 trở lên
nên không còn những dục lạc khổ não của dục và sắc
giới nữa. D9 trở lên là tâm thức của Tiên/Phật.
Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực-lạc. “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới bao phủ và bảy hàng cây, thảy đều có bốn món báu vây quanh. Cho nên cõi ấy gọi là Cực Lạc.
Tới đây rõ ràng là cõi Cực Lạc nằm sâu trong phần
tủy não nối liền với tủy sống trong xương sống. Trên
đầu phần não bộ, từ ngoài vào có lông tóc da (lan
thuẫn), kế tới là thịt mỡ (la võng), rồi tới lớp gân
xương sọ (hàng thọ). Tương tự thân thể từ ngoài vào
là da lông (lan thuẫn), kế tới thịt mỡ (la võng), rồi tới
gân xương (hàng thọ). Mỗi lớp dày 7 tầng tượng trưng
7 luân xa hay 13 tầng tâm thức phải vượt. Bốn món
báu vây quanh là thường, lạc, ngã, tịnh, cũng là tánh
chất của Niết Bàn. Nghĩa là nếu tâm thức của hành giả
an trú (24/24) được ở tầng 10 này thì hành giả đang ở
Niết Bàn.
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
6
Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ kim sa bố địa. Tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi. Trì trung liên hoa đại như xa luân: thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết. “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc có ao xây bằng bảy báu, trong chứa nước tám công đức, đáy ao tồn bằng cát vàng. Bốn phía có những bậc thang bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp lại. Bên trên có những lầu, gác cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não trang hồng. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe. Hoa xanh tỏa ánh sáng xanh, hoa vàng tỏa ánh sáng vàng, hoa đỏ tỏa ánh sáng đỏ, hoa trắng tỏa ánh sáng trắng, hương thơm lạ lùng.
Tức là phía bên trong não bộ, ao là vành chứa óc não
được làm bằng chất liệu của 7 báu là: huyết tương,
huyết, thịt, mỡ, xương, tủy, tinh (Ấn Độ). Còn nói
theo kiểu Trung Quốc thì 7 báu là tinh túy của ngũ
tạng là ngũ khí của ngũ hành cùng với hai luồng điển
cái nóng, lạnh tạo nên. Bên trong chứa đầy nước của 8
công đức. Nước này là tinh túy của khí nóng ngũ tạng,
nhất là tạng thận (tinh) đi lên theo cột xương sống tới
đầu gặp lạnh hóa nước. Một khi bộ đầu khai mở, thần
khí sung mãn, sẽ cảm thấy trong đầu đầy nước, mắt
sáng, nhắm mắt thấy ánh sáng hào quang, đầu mát mẻ,
tứ chi ấm áp, thân thể khỏe mạnh. Bậc thang bốn phía
là 4 đường gân chánh trên đầu: nhâm đốc trước sau và
hai bên thái dương phải trái. Vành óc trên của sọ cũng
làm bằng vật liệu 7 báu kể trên. Bên trong óc não là
những hoa sen tỏa ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng …
là những hào quang chớp hiện khi nhắm mắt. Ngày
nay ta thường thấy khoa học diễn tả sự hoạt động của
tế bào não bằng những tia ánh sáng chớp tắt đủ màu.
Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. “Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc có đầy đủ công đức trang nghiêm như thế.
Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc độ, thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên Mạn-đà-la hoa. Kỳ độ chúng-sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thạnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành. “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Cõi Phật ấy thường trỗi nhạc trời. Mặt đất tồn bằng vàng ròng. Ngày đêm sáu thời từ trên trời mưa xuống hoa mạn-đà-la. Chúng sanh cõi ấy vào sáng sớm thường
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
7
trải áo hứng lấy hoa quý, mang đi cúng dường mười vạn đức Phật ở các phương khác. Đến giờ ăn trong ngày liền trở về dùng cơm rồi đi kinh hành.
Cõi Phật ấy, Cực Lạc ở não bộ. Tủy Óc là phần quí
nhất của con người nên ví như mặt đất tồn bằng vàng
ròng. Ngày đêm sáu thời là 24/24 không lúc nào
ngừng nghỉ. Nhạc điển trời với hoa trời rơi xuống tức
là nhắm mắt thấy hào quang chớp nháng, tai nghe
nhạc điển trời như chim hót, tâm cảm được khí điển
trời vào tới nê hoàn cung mát lạnh nên thâu lấy đem
bồi bổ khắp cơ thể. Mười vạn đức Phật là mọi chư
Phật ở mọi chỗ khác trong xá vệ quốc. Số mười là số
lớn nhất trong mười con số từ 0 tới 9 nên hàm nghĩa
tất cả.
Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Nơi cõi Cực Lạc có đầy đủ những công đức trang nghiêm như thế. Cách hồi phục sức khỏe mau nhất sau những lúc lao
tâm lao lực hằng ngày bằng trí óc hay cơ bắp là nạp
thanh khí điển từ trời vào nê hoàn cung rồi đem cất
dưới hạ đan điền. Chỉ cần 6 hơi pháp luân thường
chuyển là hành giả sẽ hồi phục lại sức khỏe mất đi
trong ngày một cách dễ dàng.
Phục thứ Xá-Lợi-Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu: Bạch-hạc,
Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng- tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn xướng: Ngũ-căn, Ngũ-lực, Thất-Bồ-đề-phần, BátThánh-đạo-phần, như thị đẳng pháp. Kỳ độ chúng-sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Cõi ấy thường có nhiều loài chim xinh đẹp đủ các màu sắc, như bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng ... Ngày đêm sáu thời, những loài chim ấy hòa tiếng kêu thanh nhã. Tiếng chim ấy lại thuyết giảng về Năm căn, Năm lực, Bảy phần Bồ-đề, Tám phần Thánh đạo. Chúng sanh ở cõi ấy nghe rồi đều nhớ nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng. Theo Đỗ Tổ Sư thì chữ Ca Lăng Tần Già là hai chữ
cho 2 loại chim khác nhau Ca Lăng và Tần Già. Nên
tổng cộng có 7 loại chim với 7 mầu sắc khác nhau
tương ứng với 7 luân xa trong bản thể. 7 màu này là
hào quang thấy được trong lúc thiền định. Những màu
sắc này là do điển từ ngũ tạng tạo thành theo table
dưới đây
Bạch Hạc Trắng (nước màng óc). LX 7
Khổng Tước Đủ màu rực rỡ. Đệ tam nhãn. LX6
Anh Võ Vàng/Xanh. LX5
Xá Lợi Xanh lá cây. LX4
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
8
Ca Lăng Đỏ/đen hóa vàng từ Cật phải. LX3
Tần Già Phổi xanh + Gan đỏ + Bao Tử đen.
Công mạng Cật xanh + Gan đỏ. LX1
Màu sắc của 7 luân xa:
Một khi khí lực sung mãn và kinh mạch thông thì
hành giả sẽ thấy hào quang bay lượn trước mắt trong
lúc thiền định, đồng thời sẽ nghe được âm thanh của
điển như tiếng chim hót.
Năm căn (tín, tấn (tinh tấn), niệm, định, huệ) sinh năm
lực (tín, tấn, niệm, định, huệ).
Thất giác chi (7 yếu tố để thành tựu quả Bồ Đề) =
trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
Bát chánh đạo chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định.
7 loài chim luôn ca hát nhắc nhở hành giả về năm căn,
năm lực, thất giác chi và bát chánh đạo … đây là cách
tu hành dưới thời đức Thích Ca. Ở đây ý nói là khi về
tới cõi Cực Lạc, sẽ được 7 loại chim (điển) ngày đêm
nhắc nhở tu hành 24/24.
Trong Pháp Lý Vô Vi thì chúng ta niệm phật sáu điểm
24/24: Nam Mô A Di Đà Phật, tức là:
Nam Mô: Soi Hồn
A Di: Pháp Luân
Đà Phật: Thiền Định.
Xá-Lợi-Phất! Nhữ vật vị thử điểu, thiệt thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ, vô tam ác đạo. “Xá-lợi-phất! Ông chớ tưởng rằng những loại chim ấy là do tội báo sanh ra. Vì sao vậy? Cõi Phật ấy không có ba đường ác. Ba đường ác: Tham, Sân, Si.
Cõi Cực Lạc nằm ở tầng D10 nên ba ác không có mặt
ở đây.
Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc độ, thường vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt, thị chư chúng điểu, giai thị A-Di-Đà Phật, dục linh pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở tác. “Xá-lợi-phất! Cõi Phật ấy, đến tên gọi ba đường ác còn không có, huống chi là có thật? Các loài chim ấy đều là do đức Phật A-di-đà vì muốn cho tiếng thuyết pháp được truyền ra khắp nơi nên mới biến hóa tạo thành.
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
9
Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác. Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm.
“Xá-lợi-phất! Nơi cõi Phật ấy, gió nhẹ lay động những hàng cây báu và lưới báu, vang lên tiếng êm dịu vô cùng, như trăm ngàn tiếng nhạc cùng hòa nhau trỗi lên. Ai nghe được tiếng ấy tự nhiên sanh lòng tưởng niệm đến Phật, Pháp, Tăng.
Khi an trú trong tâm thức D10, tức là điển trụ trên đầu
thì nhắm mắt sẽ thấy đầu sáng, tai sẽ nghe tiếng điển
như chim hát bên tai nên lòng luôn tưởng niệm đến
Phật, Pháp, Tăng. Kinh Phật còn gọi đây là tiếng “Hải
Triều Âm”.
Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. “Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc có đầy đủ công đức trang nghiêm như thế.
Xá-Lợi-Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A-Di-Đà? “Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ sao? Tại sao đức Phật ấy có hiệu là A-di-đà?
Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A-Di-Đà. “Xá-lợi-phất! Hào quang của đức Phật ấy chiếu sáng vô cùng, soi khắp các cõi nước mười phương, không hề ngăn ngại. Vì thế nên có hiệu là A-di-đà. An trú trong D10, lúc này Mô Ni Châu rất sáng. Nên
khi nhắm mắt nhìn chỗ nào thì hào quang chiếu sáng
rực chỗ ấy, nên được hiệu là A Di Đà. Kinh có câu:
Duy Tâm Tịnh Độ, Tự Tánh Di Đà
Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, cố danh A-Di-Đà. “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đời sống của đức Phật và nhân dân cõi ấy kéo dài vô số a-tăng-kỳ kiếp nên gọi là A-di-đà.
Tới tầng tâm thức D9/D10 là đã thoát vòng sanh tử
luân hồi nên đời sống ở đây là vô tận, nên gọi là A-
Di-Đà.
Xá-Lợi-Phất! A-Di-Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp. “Xá-lợi-phất! Đức A-di-đà thành Phật đến nay đã được mười kiếp.
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
10
Mười kiếp ở đây không có nghĩa về thời gian mà hàm
ý về không gian tức là vị trí đỉnh đầu của thân thể, con
số 10. Chín phương Trời, Mười phương Phật.
Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A-la-hán, phi thị toán số, chi sở năng tri, chư Bồ-tát chúng diệc phục như thị. “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đức Phật ấy có vô số các vị đệ tử Thanh văn, thảy đều là bậc A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được số lượng. Các vị Bồ Tát cũng nhiều như vậy. Cõi Cực Lạc có vô số các vị La Hán và Bồ Tát có tâm
thức từ D9 tới D12.
Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. “Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật ấy có đầy đủ những công đức trang nghiêm như thế.
Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ chúng-sanh sanh giả, giai thị a bệ bạt trí. Kỳ trung đa hữu, nhất sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ thuyết. “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Chúng sanh được sanh về cõi Cực Lạc đều là những bậc không còn thối chuyển, trong đó có nhiều vị chỉ còn một lần sanh nữa là sẽ thành Phật. Số ấy rất nhiều,
không thể lấy sự tính đếm mà biết được, chỉ có thể gọi chung là vô số. Đây là những chúng sanh có tâm thức từ D5 tới D8,
chỉ còn thêm một lần sanh nữa là đắc đạo.
Xá-Lợi-Phất! Chúng-sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân, câu hội nhất xứ. “Xá-lợi-phất! Chúng sanh nghe biết rồi, nên phát nguyện sanh về cõi ấy. Tại sao vậy? Để được chung sống với các bậc hiền thiện cao thượng. Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc. “Xá-lợi-phất! Người có ít nhân duyên phước đức căn lành không thể sanh về cõi ấy. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A-Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu: nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn. Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A-Di-Đà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền. Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Đà Phật Cực-lạc quốc độ. “Xá-lợi-phất! Như những kẻ nam, người nữ có lòng lành, nghe giảng nói về Phật A-di-đà, bèn
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
11
chuyên tâm niệm danh hiệu ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm không tán loạn. Người ấy khi lâm chung liền thấy đức Phật A-di-đà cùng các vị thánh chúng hiện ra trước mắt. Khi mạng chung tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A-di-đà. Một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu
ngày, bảy ngày nhất tâm bất loạn không chỉ mang ý
nghĩa về thời gian mà còn có ẩn ý khác. Nếu chỉ cần
niệm phật nhất tâm bất loạn liên tục trong 1 ngày thì
không cần phải nói 2, 3, 4, 5, 6 hay 7 ngày. Ngược lại
nếu cần niệm phật nhất tâm bất loạn liên tục trong 7
ngày thì không nói 1, 2, 3, 4, 5, hoặc 6 ngày! Cho nên
chúng ta cần phải tìm cho ra ẩn ý của đoạn văn trên.
Quan trọng nhất là chữ: Nhất Tâm Bất Loạn. Hàm
nghĩa không có tương đối, không còn nhị nguyên nên
là nhất nguyên.Theo thiển ý, những số 1, 2, 3, 4, 5, 6
và 7 là tương ứng với 7 luân xa trong người. 6 luân xa
đầu là chỗ để chỉnh sửa 6 cặp tâm thức nhị nguyên
(D1-D12) trở thành nhất nguyên.
Nhất nguyên là chỗ nhất tâm bất loạn. Để đạt quả bất
thối chuyển, A-la-hán, hành giả phải lìa tứ tướng đối
đãi giữa 8 tầng tâm thức (D1-D8). Nếu dùng cách nói
trong kinh này thì đó là trình độ của 5 ngày niệm phật
nhất tâm bất loạn. Xin xem thêm bài viết “con số 13
trong đạo học, p3”.
7 ngày D13 Thượng
6 ngày D11-D12 Thượng
5 ngày D9-D10 Thượng
4 ngày D7-D8 Trung Thọ Giả
3 ngày D5-D6 Trung Chúng Sinh
2 ngày D3-D4 Hạ Nhân
1 ngày D1-D2 Hạ Ngã
Cõi Cực Lạc chia làm 9 phẩm cho chúng sanh có trình
độ khác nhau theo table sau đây:
Thượng Phẩm Thượng Sanh Phật
Thượng Phẩm Trung Sanh Bồ Tát
Thượng Phẩm Hạ Sanh Kim Tiên, A-La-Hán
Trung Phẩm Thượng Sanh Thiên Tiên
Trung Phẩm Trung Sanh Địa Tiên
Trung Phẩm Hạ Sanh Thần, Thánh
Hạ Phẩm Thượng Sanh Thường Nhân
Hạ Phẩm Trung Sanh Thường Nhân
Hạ Phẩm Hạ Sanh Thường Nhân
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử
ngôn. Nhược hữu chúngsanh, văn thị thuyết giả,
ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
“Xá-lợi-phất! Ta thấy sự lợi ích đó, nên mới
giảng nói như vậy. Nếu có chúng sanh nào được
nghe, nên phát nguyện sanh về cõi ấy.
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
12
"Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, tán thán A-Di-Đà
Phật bất khả tư nghì công đức chi lợi. Đông
phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng
Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm
Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các
ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến
phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành
thiệt ngôn: "Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín
thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh".
“Xá-lợi-phất! Cũng như ta nay xưng tán lợi ích
công đức không thể nghĩ bàn của Phật A-di-đà,
phương đông lại có chư Phật như: Phật A-súc-
bệ, Phật Tu-di Tướng, Phật Đại Tu-di, Phật Tu-di
Quang, Phật Diệu Âm..., vô số chư Phật như vậy,
mỗi vị đều từ cõi nước của mình, hiện tướng
lưỡi rộng dài bao trùm ba ngàn đại thiên thế
giới, nói ra lời chân thật này: Hết thảy chúng
sanh nên tin vào lời xưng tán công đức chẳng
thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả chư Phật đều hộ
niệm.
Bên ngoài có bao nhiêu vị phật thì bên trong cơ thể
cũng có bấy nhiêu vị. Điều này hàm ý là khi hành giả
tu hành thăng hoa tâm thức của mình về tới cõi Cực
Lạc, D10, thì sẽ hiểu sự làm việc của các chư phật
trên xá vệ quốc của mình.
Ba ngàn đại thiên thế giới bao trùm 3 cõi dục, sắc, vô
sắc nên là xá vệ quốc của hành giả.
Đông phương có 5 vị Phật chính hay 5 luồng điển, khí
chính trong người. Đông phương là Mộc thuộc tạng
gan, tượng cây núi (Tu Di).
A-Súc-Bệ: luồng điển sắc xanh/vàng từ nơi gan.
Tu-Di-Tướng: luồng điển tập hợp tinh khí thần.
Đại-Tu-Di: luồng điển tại Hà Đào Thành.
Tu-Di-Quang, Diệu Âm Phật: ánh sáng và âm thanh
của những luồng điển của tạng gan.
Xá-Lợi-Phất! Nam phương thế-giới hữu Nhật
Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại
Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng
Tinh Tấn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư
Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt
tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế-giới,
thuyết thành thiệt ngôn: "Nhữ đẳng chúng-sanh
đương tín thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công
Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh".
“Xá-lợi-phất! Các thế giới về phương nam có
chư Phật như: Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
13
Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu-
di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn..., vô số chư
Phật như vậy, mỗi vị đều từ cõi nước của mình,
hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm ba ngàn đại
thiên thế giới, nói ra lời chân thật này: Hết thảy
chúng sanh nên tin vào lời xưng tán công đức
chẳng thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả chư Phật
đều hộ niệm.
Nam phương có 5 vị Phật hay 5 luồng điển chánh.
Nam phương tượng là lửa. Mắt và trán là nơi điển lửa
tụ tập và hào quang phát xuất.
Nhật Nguyệt Đăng: Lửa của hai mắt là do lửa của ngũ
tạng họp lại tạo thành Danh Văn Quang và Đại Diệm
Kiên hai bên, và Tu Di Đăng là ngọn đèn ở giữa hai
mắt.
Vô Lượng Tinh Tấn: lửa từ bao tử, tam muội hỏa tặc
do hô hấp và đồ ăn tạo nên.
Xá-Lợi-Phất! Tây-phương thế-giới hữu Vô
Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô
Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh
Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, như thị
đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất
quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên
đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: "Nhữ
đẳng chúng-sanh đương tín thị: Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghì Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Kinh".
“Xá-lợi-phất! Các thế giới về phương tây có chư
Phật như: Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng
Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang,
Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh
Quang..., vô số chư Phật như vậy, mỗi vị đều từ
cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài
bao trùm ba ngàn đại thiên thế giới, nói ra lời
chân thật này: Hết thảy chúng sanh nên tin vào
lời xưng tán công đức chẳng thể nghĩ bàn của
kinh mà tất cả chư Phật đều hộ niệm.
Phương Tây có 7 phật hay 7 luồng điển chánh. Tây thì
thuộc tay trái nên chủ về sức sống/hô hấp của con
người. Các luồng điển ở đây mang tên hàm nghĩa sức
sống lâu dài mang tính chất của tạng phế (kim) và
thận Thủy (thủy).
Vô Lượng Thọ: sống lâu liên hệ với hệ hô hấp từ mũi.
Vô Lượng Tướng, Vô Lượng Tràng: hình tướng của
thân thể, tức là tướng của vía.
Đại Quang, Đại Minh: Thận, phế tốt thì mắt sáng, tai
thính, trí sáng.
Bảo Tướng: Hình ảnh bóng tướng của bản thể. Thận
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
14
phế tốt thì xương cốt rắn chắt, khỏe mạnh.
Tịnh Quang: Tất cả cử động đi đứng nằm ngồi đều do
thận, phế chi phối.
Xá-Lợi-Phất! Bắc phương thế-giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: "Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh". “Xá-lợi-phất! Các thế giới về phương bắc có chư Phật như: Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh..., vô số chư Phật như vậy, mỗi vị đều từ cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm ba ngàn đại thiên thế giới, nói ra lời chân thật này: Hết thảy chúng sanh nên tin vào lời xưng tán công đức chẳng thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả chư Phật đều hộ niệm. Bắc phương có 5 vị Phật hay 5 luồng điển chánh
thuộc tạng thận. Bắc phương thuộc tay mặt nên ở đây
thiên về Thận phải.
Diệm Kiên: luồng điển lửa thận hỏa.
Tối Thắng Âm: luồng điển lạnh chánh thuộc thủy trợ
giúp cho Nan Trở và Nhật Sanh làm việc.
Nan Trở: luồng điển từ gan.
Nhật Sanh, Võng Minh: luồng điển tam muội hỏa tặc
tham sân si.
Xá-Lợi-Phất! Hạ phương thế-giới hữu Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: "Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh". “Xá-lợi-phất! Các thế giới về phương dưới có chư Phật như: Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp..., vô số chư Phật như vậy, mỗi vị đều từ cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm ba ngàn đại thiên thế giới, nói ra lời chân thật này: Hết thảy chúng sanh nên tin vào lời xưng tán công đức chẳng thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả chư Phật đều hộ niệm.
Hạ phương có 6 vị Phật hay 6 luồng điển chánh. Hạ
phương ở bụng (thổ), hạ thừa, thuộc lục phủ, có đầy
đủ ngũ hành nhưng thuộc loại trược đục. Những luồng
điển ở đây thuộc vía cai trị, dữ nhiều hiền ít.
Sư Tử: lửa hung tợn của tam muội.
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
15
Danh Văn: tánh nước, để điều hòa Sư Tử.
Danh Quang, Đạt Ma: điển màu sáng đỏ bầm. Tánh
chất ngưng trệ, đầm đầm để giúp vía phách làm chủ.
Pháp Tràng, Trì Pháp: là chỗ điển trược ở hạ phương
xông lên tận đầu (niết bàn). Nên mọi hành động, tội
lỗi của phần hạ thừa đều được ghi chép đầy đủ.
Xá-Lợi-Phất! Thượng phương thế-giới hữu
Phạm-Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng
Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật,
Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ
Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết
Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng
hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất
quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên
đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: "Nhữ
đẳng chúng-sanh đương tín thị: Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghì Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Kinh".
“Xá-lợi-phất! Các thế giới về phương trên có chư
Phật như: Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật
Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại
Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân,
Phật Ta-la Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật
Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu-di Sơn..., vô
số chư Phật như vậy, mỗi vị đều từ cõi nước của
mình, hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm ba
ngàn đại thiên thế giới, nói ra lời chân thật này:
Hết thảy chúng sanh nên tin vào lời xưng tán
công đức chẳng thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả
chư Phật đều hộ niệm.
Thượng phương có 10 phật hay 10 luồng điển chánh:
Phạm-Âm: thuộc Nhựt Dương Quang Phật (Hỏa).
Đại Diệm: Điển lửa đỏ từ tạng can (Hỏa).
Tú Vương: thuộc Nguyệt Âm Phật (Thủy).
Kiến Nhất Thiết Nghĩa: Luồng điển về trí tuệ nên
thuộc thận (Thủy).
Hương Quang, Hương Thượng: Mùi hương thơm
trong lúc thiền định, để tiếp xúc với điển trên Thiên
Không. Là điển từ tạng phế (Kim)
Tu-Di-Sơn,Ta La Thọ Vương: Luồng điển thuộc về
tạng can (Mộc)
Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm, , Bửu Hoa Đức: Điển từ
bao tử (Thổ) có công đức huyền diệu để hóa sanh vật
chất.
Thượng phương có đủ bộ ngũ khí triều nguyên (Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
16
Mật nghĩa trong những ẩn số Đông, Tây, Nam, Bắc,
Thượng và Hạ phương:
Đông = Nam = Bắc = 5 vị Phật.
Tây = 7 vị Phật
Hạ = 6 vị Phật.
Thượng = 10 vị Phật.
Thượng là phần trên hay đầu, hàm ý cõi Cực Lạc,
D10, nên có số 10. Số 10 Thượng này có đủ bộ ngũ
khí triều nguyên (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Mỗi khí
có 2 vị Phật (âm dương đầy đủ).
Ngoài đầu là cơ thể, tức vũ trụ, là bốn phương tám
hướng. Nên số của vũ trụ là tổng số của Đông, Tây,
Nam, Bắc và Hạ phương, bằng 5+5+5+7+6 = 28 = 7 x
4.
7 = 7 cõi, 7 luân xa tương ứng với 13 tâm thức, v.v.
4 = tứ đại, bốn tầng thiền, v.v.
Vì thế vũ trụ quan của Phật Giáo chia thế giới hiện
tượng thành 28 tầng trời (4 tầng thiền x 7 cõi/tầng =
28 cõi trời)!
Quả thật những con số này chứa nhiều mật nghĩa kỳ
diệu, lạ lùng và lý thú!
Xá-Lợi-Phất! Ư nhữ ý vân hà, hà cố danh vi
"Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh"?
“Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao kinh này
được gọi là: Tất cả chư Phật đều hộ niệm?
Tầng tâm thức D10 là Phật giới. Ở đây một Phật cũng
là vạn Phật vì đã về tới bổn tâm. Nên nói được tất cả
chư Phật hộ niệm.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ
nhân, văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật
danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân,
giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai
đắc bất thối chuyển, ư anậu-đa-la tam-miệu
tam-Bồ-Đề. Thị cố, Xá-Lợi-Phất! Nhữ đẳng giai
đương, tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết.
“Xá-lợi-phất! Nếu những kẻ nam, người nữ có
lòng lành, nghe được kinh này mà thọ trì, cũng
như nghe danh hiệu chư Phật, thì những kẻ
nam, người nữ có lòng lành ấy liền được tất cả
chư Phật hộ niệm, thảy đều được địa vị không
còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Xá-lợi-phất! Vì vậy mọi người
nên tin theo lời ta và chư Phật đã nói.
Một khi hành giả thọ trì tụng niệm danh hiệu Phật thì
phần bổn tâm của mình, D10, nơi các chư Phật ngự,
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
17
sẽ chứng giám nên nói là được tất cả chư Phật hộ
niệm. Lúc này vì tưởng nhớ tới đức Di Đà trên đầu ở
nê hoàn cung nên luồng điển trong người hướng
thượng, nên nói là thảy đều được địa vị không còn
thối chuyển đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu nhân, dĩ phát nguyện,
kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh
A-Di-Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai
đắc bất thối chuyển, ư a-nậu-đa-la tam-miệu
tam-Bồ-Đề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược
kim sanh, nhược đương sanh. Thị cố, Xá-Lợi-
Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược
hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ
quốc độ.
“Xá-lợi-phất! Như có người nào trước đã phát
nguyện, hoặc nay mới phát nguyện, hoặc sau
này sẽ phát nguyện sanh về cõi Phật A-di-đà, thì
những người ấy đều được địa vị không còn thối
chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Những người ấy hoặc đã được sanh,
hoặc nay được sanh, hoặc sau này sẽ được sanh
về cõi ấy. Xá-lợi-phất! Vậy nên những kẻ nam,
người nữ có lòng lành, nếu có đức tin, nên phát
nguyện sanh về cõi ấy.
Tương tự như trên, một khi người nào phát nguyện thì
lời nguyện sẽ được ghi khắc vào tâm, tức là ở tầng
phật giới của mình, nên sẽ không bao giờ bị mất hay
quên lãng. Vì thế Phật khuyên kẻ nam người nữ nếu
có được tin nên nguyện phát sanh về cõi ấy. Vì trong
muôn kiếp luân hồi, sẽ có kiếp mà nhân duyên này trổ
quả, và lúc đó sẽ được sanh về cõi Cực Lạc.
Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư
Phật bất khả tư nghì công đức, bỉ chư Phật
đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghì công
đức, nhi tác thị ngôn: "Thích-ca Mâu-ni Phật
năng vi thậm nan, hy hữu chi sự, năng ư Ta-bà
quốc độ, ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến
trược, phiền não trược, chúng-sanh trược,
mạng trược trung, đắc a-nậu-đa-la tam miệu
tam-Bồ-Đề, vị chư chúng-sanh thuyết thị, nhất
thiết thế-giới nan tín chi pháp".
“Xá-lợi-phất! Như nay ta xưng tán công đức
không thể nghĩ bàn của chư Phật. Tất cả chư
Phật cũng đều xưng tán công đức không thể
nghĩ bàn của ta, nói ra lời này: Phật Thích-ca
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
18
Mâu-ni làm được việc rất khó khăn ít có. Từ
trong cõi Ta-bà là cõi ác có năm thứ uế trược
như: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược,
chúng sanh trược, mạng trược, mà thành đạo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì chúng
sanh mà thuyết dạy pháp môn khó tin nhận nhất
trong thế gian này.
Như đã nói ở trên, khi một vị Phật nói thì cũng tức là
muôn Phật nói.
Ta bà có ngũ trược: (kiếp, kiến, phiền não, chúng
sanh, mạng) trược.
Kiếp trược: còn gọi là kỳ kiếp trược vào thời giảm
kiếp, con người ta tuổi thọ giảm dần. Trong thời kỳ
này có đủ 4 uế trược (kiến, phiền não, chúng sinh,
mạng).
Kiến trược: Cái thấy biết điên đảo, tà vạy, thiên lệch.
Phiền não trược: Các mối phiền muộn của tham sân si
do nơi kiến trược.
Chúng sanh trược: Chúng sanh mê chấp, bám víu lấy
thân này.
Mạng trược: Cách sống tội lỗi do (kiến, phiền não,
chúng sanh) trược tạo ra. Không tu hành giải thoát mà
chỉ tìm hưởng các điều thỏa thích về sắc, dục, sắc nên
gây tạo vô số nghiệp chướng.
Xá-Lợi-Phất! Đương tri ngã, ư ngũ trược ác thế,
hành thử nan sự, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu
tam-Bồ-Đề, vi nhất thiết thế-giới thuyết thử, nan
tín chi pháp, thị vi thậm nan." Phật thuyết thử
Kinh dĩ, Xá-Lợi-Phất cập chư Tỳ-kheo, nhất thiết
thế gian: Thiên, Nhân, A-tu-la đẳng, văn Phật sở
thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.
“Xá-lợi-phất! Nên biết rằng, ta ở trong cõi đời
xấu ác có năm thứ uế trược, làm nên việc khó
khăn, đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, vì tất cả thế gian thuyết dạy pháp
môn khó tin nhận này, thật là một điều rất khó
lắm thay!” Phật thuyết kinh này xong, Xá-lợi-
phất cùng với chư tỳ-kheo, hết thảy thế gian,
trời, người, a-tu-la... nghe Phật thuyết dạy đều
vui mừng tin nhận, lễ bái lui về.
PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ
---oOo---
Tổng Kết:
Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà tuy xa mà gần, tuy gần
mà xa. Ai cũng có trong mình cõi Cực Lạc của Đức
Di Đà cả, nhưng có tới được cõi đó không mới là vấn
đề!
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
19
Nội dung bài viết cho thấy cõi Cực Lạc nằm ở tầng
tâm thức D10, chiếm vị trí não bộ trong cơ thể con
người. Cho nên nếu hướng ngoại mà kiếm cõi Cực
Lạc của Phật A Di Đà trong không gian D3/D4 thì dĩ
nhiên sẽ chẳng bao giờ tới được. Ngược lại nếu biết đi
xuyên qua những tầng tâm thức nội tâm thì cõi Cực
Lạc ở ngay trong phần não bộ của bộ đầu. Do đó
chuyện những vị tu hành đắc đạo hiện đời D9/D10 có
thể xuất hồn/xuất thần đi thăm cõi Cực Lạc một cách
tự tại là chuyện có thật. Ngoài ra còn có nhiều trường
hợp những chúng sanh hữu duyên trong giấc ngủ
được Tiên/Phật đến dắt hồn/thần thức đi thăm cõi Cực
Lạc rồi về kể lại, cũng đã/đang xảy ra rất nhiều.
Hiện tại với tâm thức D3/D4, loài người mới chỉ sử
dụng khoảng 10-15% khả năng của khối óc.
Kinh A Di Đà là cuốn kinh đặc biệt đã có từ hơn ngàn
năm trước. Kinh tả cấu trúc và sự vận hành của cõi
Cực Lạc qua các đường kinh mạch trong cơ thể tượng
trưng bằng những vị La Hán, Bồ Tát và Chư Phật
mười phương trong cơ thể. Ở tầng tâm thức D3/D4,
hồn trong tim ngăn cách với cõi Cực Lạc ở đầu bởi 3
lớp lan thuẫn (da lông), la võng (thịt mỡ), và hàng thọ
(xương tủy). Mỗi lớp dày 7 tầng tương ứng với 13
tầng tâm thức. Nói theo tung độ là từ Vĩ Lư tới Nê
Hoàn là 10 vạn cõi ức Phật phải qua. Nói theo hoành
độ là 3 lớp hàng rào tâm thức phải vượt để đến được
cõi Cực Lạc. Sự thành lập và duy trì hoạt động của
ngục tù bản thể cho một kiếp người là việc làm trong
điển giới của vô số các vị La Hán, Bồ Tát và Chư Phật
10 phương trong bản thể và khắp vũ trụ, được tượng
trưng trong kinh bằng 1250 vị đại tỳ kheo chia đều
cho ngũ tạng, mỗi tạng là 250 vị.
Vì thế nếu muốn về cõi Cực Lạc D10 từ tâm thức D4
thì chỉ có độc nhất một đường là tu hành thăng hoa
tâm thức của mình. Đây là Lý Tu Hành.
Tu hành hiện nay lại chia làm hai phái: Tánh và
Mệnh. Một bên thích dùng Tánh đoạt Mệnh (Phật
Gia). Hoặc ngược lại là dùng Mệnh đoạt Tánh (Tiên
Gia). Đó là tùy căn cơ của hành giả. Đức Diêu Trì
Kim Mẫu có cho thơ khuyên hàng cư sĩ đời đạo song
tu ở hạ ngươn kỳ ba dùng Tánh Mệnh Song Tu (Pháp
Thiền Vô Vi của Thầy Tám và Bát Chánh Đạo của
Đức Thích Ca) là hữu hiệu và nhanh chóng nhất.
Bài viết này chỉ mới là bài giới thiệu sơ đẳng về mật
nghĩa của kinh A Di Đà. Nếu các bạn còn thắc mắc và
muốn tìm hiểu thêm về mật nghĩa của kinh A Di Đà
Kinh A DI ĐÀ Qua Pháp Số Viễn Lưu
20
thì xin mời các bạn đọc thêm cuốn “Kinh A Di Đà”
của Tổ Sư Đỗ Thuần Hậu.
http://www.bachyhuynhde.org/KinhSach/adida_book
_vovi.pdf
Chúng tôi hy vọng bài viết này mang lại lợi ích cho
các bạn.
Trước khi dứt lời, xin tặng các bạn bài thơ sau đây:
Cõi Cực Lạc
Cực Lạc Di Đà có đâu xa?
Mười phương cõi Phật tại đầu ta
Lan thuần la võng cùng hàng thọ
Bảy lớp luân xa chận kẻ phàm
Đổi Thánh bỏ phàm nào có khó
Vô Vi Pháp Lý giải nghiệp tâm
Di Đà lục tự niệm sáu điểm
Cửu khiếu tam quan hướng về nhà.
KB: Viễn Lưu, Dec/24/2016
Kính bút,
Viễn Lưu, Dec/24/2016
Email: [email protected]
Website: bachyhuynhde.org
---oOo---