kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2017: những điểm nổi...
TRANSCRIPT
1
Kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2017: Những điểm nổi bật
Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế
- Kinh tế thế giới đầu năm 2017 đã có nhiều tín hiệu cải thiện, một số nền kinh tế phát triển đã lấy
lại đà tăng trưởng trong khi các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đang tiến những bước vững
chắc;
- Chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu đã không còn giữ được đà tăng, nhiều nhóm hàng chủ chốt như
năng lượng, nông nghiệp thô, kim loại,… đã giảm giá;
- Nợ quốc gia đang tăng nhanh trên toàn cầu, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển và mới
nổi; Dự trữ ngoại hối ròng trên toàn cầu đã suy giảm;
- Thị trường ngoại hối 6 tháng đầu năm 2017 nhìn chung không có biến động mạnh: đồng USD có
xu hướng giảm là chủ đạo và các đồng tiền mạnh tại khu vực Châu Âu, Châu Á đều tăng giá so với
đồng bạc xanh;
- Giá vàng tiếp tục tăng nhưng xu hướng đi xuống đã xuất hiện vào Quý II;
- TTCK toàn cầu diễn biến tích cực;
- 37 NHTW đã thay đổi lãi suất điều hành trong nửa đầu năm 2017.
Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước
- Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm chưa được như kỳ vọng, đáng chú ý là tăng trưởng khu vực
công nghiệp – xây dựng đã đạt mức thấp nhất trong 3 năm gần đây;
- Chỉ số Nhà quản trị mua hàng - PMI mặc dù luôn nằm ở vùng mở rộng nhưng diễn biến không
ổn định qua các tháng;
- Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng là động lực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế về phía
cầu;
- Vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục gia tăng trong đó nổi bật là vốn đầu tư từ khu vực tư nhân;
- Tốc độ tăng vốn FDI thu hút có xu hướng giảm sút trong 5 tháng đầu năm và mới tăng mạnh trở
lại trong tháng 6;
- Kim ngạch xuất nhập khẩu đều đạt mức tăng trưởng tốt, cán cân thương mại quay trở lại nhập
siêu;
- Lạm phát bình quân đã có chiều hướng giảm dần qua từng tháng;
- Lãi suất huy động đã tăng phù hợp ở các kỳ hạn dài, lãi suất cho vay tiếp tục duy trì xu hướng ổn
định, lãi suất liên ngân hàng diễn biến thuận lợi;
- Diễn biến tỷ giá VND/USD ổn định, phù hợp với diễn biến trong nước và quốc tế;
- Giá vàng biến động thấp hơn nhiều so với giá vàng quốc tế;
- TTCK Việt Nam nằm trong top 3 các thị trường tăng trưởng mạnh nhất trong khu vực.
2
I. KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Kinh tế thế giới
Một số nền kinh
tế phát triển đã
lấy lại đà tăng
trưởng
Các nền kinh tế
đang phát triển
và mới nổi vẫn
đang tiến những
bước vững chắc
Kinh tế thế giới nửa đầu năm 2017 đã có nhiều tín hiệu cải thiện. Một số nền
kinh tế đầu tàu tiếp tục ghi nhận sự chuyển biến đáng chú ý, hoạt động sản
xuất và thương mại toàn cầu đã lấy lại đà tăng trưởng, niềm tin thị trường
được nâng cao trong khi các điều kiện tài chính cũng diễn biến tương đối
thuận lợi. Mặc dù vậy, nhiều rủi ro vẫn đe dọa đà phục hồi của kinh tế toàn
cầu, trong đó nổi lên là tình hình căng thẳng địa chính trị và những vấn đề
phát sinh xoay quanh sự thay đổi trong định hướng điều hành chính sách của
các quốc gia.
Sự chuyển biến rõ nét trong hoạt
động kinh tế được ghi nhận tại
nhiều quốc gia phát triển, trong đó
nổi bật nhất là tại Nhật Bản và khu
vực EU1 nhờ sự hồi phục của cầu
nội địa và những diễn biến tích
cực của khu vực xuất khẩu. Mặc
dù vậy, nhiều quốc gia không đạt
được mức tăng trưởng như kỳ
vọng. Kinh tế Mỹ mặc dù vẫn duy
trì đà tăng trưởng2 nhưng tốc độ đã
chậm lại đáng kể so với năm 2016
do sự giảm tốc của hoạt động tiêu
dùng trong nước và chi tiêu vốn
trong lĩnh vực năng lượng sụt
giảm. Kinh tế Anh mặc dù vẫn duy trì được mức tăng trưởng dương nhưng
những tác động tiêu cực phát sinh từ sự kiện Brexit đã bắt đầu bộc lộ, đẩy tăng
trưởng kinh tế rơi xuống mức
thấp nhất trong vòng 1 năm qua3.
Bức tranh kinh tế tại nhóm các
nước đang phát triển và mới nổi
ghi nhận những gam màu tươi
sáng. Mức tăng trưởng của nhóm
nước này hiện dao động quanh
ngưỡng 4%, cao hơn mức tăng
trưởng trung bình 3,5% vào cuối
năm ngoái. Sự cải thiện rõ nét
được nhìn thấy tại nhóm các nền
kinh tế chuyên xuất khẩu như
Trung Quốc, Ấn Độ, Nga,
Brazil,…
Với những tín hiệu tích cực đến từ các nền kinh tế, niềm tin của nhà đầu tư
1 Tăng trưởng kinh tế khu vực EU trong quý I ước đạt mức tăng 0,6% so với quý liền trước, cao hơn mức tăng 0,5% của quý trước đó. Trong
khi đó Nhật Bản có quý thứ 5 liên tiếp đạt mức tăng trưởng dương với mức tăng 0,3% so với quý trước. 2 Kinh tế Mỹ quý I năm 2017 chỉ đạt mức tăng trưởng 1,2% so với quý liền trước, thấp hơn mức tăng trưởng 2,1% của quý trước đó. 3 Tăng trưởng kinh tế của Anh trong quý I chỉ ước đạt 0,2% so với quý trước đó, thấp hơn mức tăng trưởng 0,7% của quý cuối năm ngoái.
Diễn biến tăng trưởng kinh tế tại một số nền
kinh tế phát triển
Nguồn: World Bank
Diễn biến tăng trưởng kinh tế tại nhóm các
nền kinh tế đang phát triển và mới nổi
Nguồn: World Bank
3
trong những tháng vừa qua tiếp tục được củng cố, thể hiện qua chỉ số niềm tin
toàn cầu đã liên tục gia tăng từ đầu năm và hiện đang ở mức cao nhất kể từ
Quý II năm 2015 trở lại đây.
Chỉ số niềm tin toàn cầu
Nguồn: IMA report
Hoạt động thương
mại tiếp tục đà
phục hồi từ nửa
cuối năm 2016
Hoạt động thương mại toàn cầu vẫn duy trì được đà tăng trưởng tiếp nối từ
giữa năm 2016. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Ủy ban phân tích chính sách
kinh tế Hà Lan (CBP), tăng trưởng thương mại toàn cầu tính đến tháng 4/2017
đã đạt được mức tăng trưởng 3,4% so với cùng kỳ, mức tăng trưởng tốt nhất
trong vòng 2 năm trở lại đây, góp phần thúc đẩy tăng trưởng giữa các khối
nước.
Tăng trưởng thương mại toàn cầu giai đoạn từ 03/2011 đến 3/2017
Nguồn: CBP Neitherlands Bureau for Economic policy analysis
Chỉ số giá cả hàng
hóa toàn cầu đã
không giữ được đà
tăng
Chỉ số giá cả hàng hóa chung theo thống kê của IMF chỉ duy trì được đà tăng
trong 2 tháng đầu năm và giảm liên tục kể từ tháng 3 trở lại đây. Với diễn biến
như vậy, chỉ số giá cả hàng hóa chung đã giảm nhẹ 0,92% trong quý I và giảm
mạnh gần 6% trong quý II. Tính chung 6 tháng, chỉ số này đã lao dốc 6,58%
và hiện đang ở mức thấp nhất kể từ tháng 9/2016 trở lại đây.
Diễn biến của các nhóm hàng chính cũng bám sát theo diễn biến của chỉ số giá
hàng hóa chung với hầu hết các nhóm hàng như năng lượng, nông nghiệp thô,
kim loại,… đều giảm giá so với cuối năm ngoái, trong đó sự sụt giảm mạnh
mẽ được ghi nhận trong các tháng của quý II. Cụ thể, giá các mặt hàng năng
lượng ghi nhận mức giảm mạnh nhất lên đến 11,86% so với cuối năm trước;
giá các mặt hàng nông nghiệp thô cũng giảm hơn 3% và nhóm hàng kim loại
đã không còn giữ được đà tăng liên tục kể từ cuối năm 2015 khi giảm gần 6%
trong nửa đầu năm.
4
Trên thị trường dầu thô, giá dầu ghi nhận nhiều biến động với những tháng
tăng giá xen kẽ giảm giá, trái ngược với kỳ vọng về sự đi lên ổn định của giá
dầu hồi cuối năm trước. Trong nửa đầu năm, thị trường vẫn chịu áp lực chủ
yếu bởi các yếu tố nguồn cung, trong đó đáng chú ý là sự thất vọng bởi thỏa
thuận cắt giảm sản lượng của OPEC chưa được thực hiện nghiêm túc và sản
lượng dầu tại Mỹ cũng như một số quốc gia ngoài OPEC vẫn tiếp tục gia tăng.
Điều đó đã đẩy giá dầu có những phiên lao dốc mạnh vào giữa tháng 3, đầu
tháng 5 và cuối tháng 6, trong đó có thời điểm giá dầu đã giảm mạnh xuống
dưỡi ngưỡng 43 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 8 năm ngoái trở lại
đây. Như vậy, kết thúc 6 tháng, giá dầu WTI và giá dầu Brent đều giảm khá
mạnh trên 13% so với cuối năm ngoái.
Diễn biến chỉ số giá hàng hóa chung và một số nhóm
hàng cơ bản T1/2016 – T6/2017
Diễn biến giá dầu WTI và giá dầu Brent
T1/2016 – T6/2017
Nguồn: IMF Commodity Price Index
Lạm phát đã gia tăng
trở lại trên toàn cầu
Trong nửa đầu năm 2017, nhiều nền kinh tế đã chứng kiến sự gia tăng trở lại
của lạm phát. Tại Mỹ, lạm phát cơ bản và lạm phát toàn phần đều đã tăng trên
mức mục tiêu 2%. Thậm chí nước Anh đang phải đối mặt với thách thức lạm
phát do dưới tác động của Brexit, lạm phát đã tăng mạnh, liên tục vượt ngưỡng
mục tiêu 2% và nhiều khả năng sẽ tăng lên 3% hoặc cao hơn vào cuối năm
2017. Trong khi đó, tại nhiều nền kinh tế phát triển khác như Nhật Bản và khu
vực EU, lạm phát đã quay trở lại, đẩy lùi nguy cơ giảm phát kéo dài dai dẳng
trong suốt nhiều năm qua.
Tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, lạm phát cũng có chiều hướng
đi lên sau một giai đoạn dài được giữ ổn định. Sự đi lên của lạm phát được ghi
nhận ở cả hai nhóm nước xuất khẩu và nhập khẩu. Đối với các nền kinh tế
định hướng xuất khẩu, sự gia tăng lạm phát là kết quả của những chính sách
kích thích kinh tế trong khi đó đối với các nền kinh tế nhập khẩu, sự gia tăng
lạm phát chủ yếu do tác động muộn từ chuỗi tăng giá cả hàng hóa toàn cầu kéo
dài từ năm ngoái.
Diễn biến lạm phát toàn phần tại một số nền kinh tế
phát triển chủ chốt
Nguồn: Delloite Report
Diễn biến lạm phát toàn phần tại các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi
Nguồn: WB
5
Nợ quốc gia đang có
xu hướng tăng mạnh
tại các nền kinh tế
đang phát triển và
mới nổi, đặc biệt là
nợ của các hộ gia
đình
Tổng số nợ của toàn thế giới đã đạt mức kỷ lục trong quý 1 năm nay, trong đó
đáng chú ý là tốc độ tăng tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi
(EMDEs). Cụ thể, theo số liệu thống kê của Viện tài chính quốc tế IIF, tổng nợ
toàn cầu đã đạt mức 217 nghìn tỷ USD vào cuối tháng 3/2017, tương đương
327% GDP toàn cầu. Mặc dù vậy, sự gia tăng nợ diễn ra không đồng đều giữa
các nhóm nước, tại các nền kinh tế phát triển quy mô nợ có chiều hướng giảm
thì ngược lại nợ tăng nhanh ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi.
Tại các nền kinh tế phát triển, tổng nợ quốc gia tại nhóm nước này trong quý I
đã giảm khoảng 2 nghìn tỷ so với cùng kỳ năm trước, hiện chỉ còn ở mức
khoảng 160 nghìn tỷ USD
Tại các nền kinh tế EMDEs, tổng nợ của nhóm nước này, trừ Trung Quốc, đã
tăng thêm khoảng 5% so với cùng kỳ năm ngoái, tương đương 0,9 nghìn tỷ
USD, lên mức 23,6 nghìn tỷ USD trong quý 1, chủ yếu do nợ tăng ở Brazil
(thêm 0,6 nghìn tỷ USD lên 3,6 nghìn tỷ USD) và ở Ấn Độ (thêm 0,2 nghìn tỷ
USD lên 2,9 nghìn tỷ USD). Trong khi đó, tại Trung Quốc tổng nợ quốc gia đã
vượt 304% GDP tính đến tháng 5/2017. Tính chung cả nhóm các nền kinh tế
EMDEs, tổng nợ của khối này hiện đang ở mức 56 nghìn tỷ USD trong quý I,
tương đương 218% GDP, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2016.
Trong sự gia tăng tổng nợ tại các nền kinh tế EMDEs, nhóm nợ đang gây
nhiều quan ngại nhất là nợ hộ gia đình. Tại nhiều nền kinh tế chủ chốt thuộc
khu vực châu Á, nợ hộ gia đình đã có sự bùng nổ kể từ năm 2008, với tỷ lệ
nợ/thu nhập khả dụng tại nhiều quốc gia như Thái Lan, Malaysia hiện còn cao
hơn mức nợ tại Mỹ trước khi khủng hoảng xảy ra. Trong khi đó tại Trung
Quốc, tỷ lệ nợ hộ gia đình so với GDP của quốc gia này đã đạt mức kỷ lục trên
45% trong quý I/2017, vượt qua tỷ lệ trung bình của thị trường mới nổi là
khoảng 35%.
Thống kê nợ hộ gia đình tại một số quốc gia
Nguồn: Delloite report
2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia
37 NHTW đã
thay đổi lãi suất
điều hành trong
nửa đầu năm
2017
Trong nửa đầu năm 2017, có 37 NHTW các quốc gia điều chỉnh lãi suất chính
sách, trong đó 20 NHTW đã tiến hành cắt giảm lãi suất và 17 nước tăng lãi suất.
Tại các nền kinh tế phát triển, ngoại trừ Mỹ đã có động thái thắt chặt CSTT rõ
rệt thì hầu như các nền kinh tế chủ chốt khác vẫn chưa có nhiều thay đổi đáng
chú ý. Trong khi đó, tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, xu hướng
điều hành chính sách phân theo 2 chiều hướng khác nhau. Trong khi nhiều quốc
gia như Brazil, Nga, Colombia, Chi lê,... đã nới lỏng chính sách khá mạnh mẽ
với nhiều đợt cắt giảm lãi suất liên tiếp từ đầu năm thì một số quốc gia khác
thuộc châu Phi như Công gô, Ai Cập, Siri Lanka,... vẫn phải tăng lãi suất do áp
lực lạm phát gia tăng và đồng nội tệ mất giá.
6
NHTW Mỹ Fed đã điều chỉnh tăng lãi suất 2 lần chỉ trong vòng 6 tháng đầu
năm 2017, mỗi lần tăng 0,25%, hiện lãi suất chính sách của Fed đang ở mức 1 –
1,25%. Theo kế hoạch thì Fed sẽ tiếp tục có thêm một lần điều chỉnh lãi suất
nữa trong năm 2017. Định hướng thắt chặt chính sách của Fed cũng ngày càng
trở nên rõ ràng hơn khi tổ chức này trong cuộc họp tháng 6 vừa qua đã đưa ra lộ
trình bán 6 tỷ USD trái phiếu kho bạc và 4 tỷ USD trái phiếu có đảm bảo bằng
tài sản thế chấp (MBS) mỗi tháng để thu hẹp dần quy mô bảng cân đối tài sản.
NHTW Anh mặc dù vẫn chưa có động thái điều chỉnh CSTT nhưng trước áp
lực lạm phát gia tăng đang phát đi các tín hiệu về khả năng thắt chặt CSTT
trong những tháng tới.
NHTW châu Âu ECB vẫn duy trì chính sách lãi suất âm với lãi suất tái cấp
vốn ở mức 0%, lãi suất cho vay là 0,25% và lãi suất tiền gửi là -0,4%, đồng thời
duy trì kế hoạch thu mua 60 tỷ Euro/tháng trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp
tới tháng 12/2017 theo chương trình nới lỏng định lượng được triển khai từ
tháng 3/2015. Mặc dù vậy, trong cuộc họp gần đây nhất vào tháng 6, ECB cũng
đã phát đi tín hiệu sẽ ngừng giảm lãi suất và có thể có các động thái thắt chặt
CSTT trong thời gian tới khi các điều kiện kinh tế vĩ mô được đảm bảo.
NHTW Nhật Bản vẫn duy trì quan điểm điều hành chính sách tiền tệ theo
hướng nới lỏng thông qua việc tiếp tục các chương trình nới lỏng định lượng và
định tính để đạt được và duy trì mục tiêu lạm phát 2%. Lãi suất áp dụng đối với
các khoản dư nợ ở các tổ chức tài chính hiện tại ở mức - 0,1%, lãi suất trái
phiếu kỳ hạn 10 năm bị giới hạn ở mức 0%, trong khi tốc độ mua sắm tài sản
vẫn ở mức 80 nghìn JPY (727 tỷ đô la Mỹ) một năm.
NHTW Trung Quốc đưa ra tuyên bố duy trì CSTT thận trọng và trung hòa
trong năm 2017, thể hiện qua 2 đợt điều chỉnh tăng các mức lãi suất cho vay
ngắn hạn và lãi suất cho vay trung dài hạn trên thị trường mở trong 3 tháng đầu
năm 2017. Ngoài ra, PboC còn tiến hành can thiệp vào thị trường thông qua các
đợt bơm hút tiền qua thị trường mở, đặc biệt vào những giai đoạn khi thị trường
cần nhiều thanh khoản như Tết nguyên đán.
3. Diễn biến thị trường ngoại hối, chứng khoán
Thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối 6 tháng đầu năm 2017 nhìn chung không có biến động
mạnh, diễn biến của các đồng tiền chủ chốt, bên cạnh những tác động từ diễn
biến kinh tế trong nước, tiếp tục bị ảnh hưởng mạnh bởi diễn biến chính trị quan
trọng diễn ra trên toàn cầu. Trải qua 6 tháng đầu năm, đồng USD có xu hướng
giảm là chủ đạo, các đồng tiền mạnh tại khu vực Châu Âu, Châu Á đều tăng giá
so với đồng bạc xanh và vàng đã ghi nhận những diễn biến tốt nhất trong quý I.
Chỉ số USD
index chỉ có 01
tháng tăng điểm
kể từ đầu năm
Bước sang năm 2017, đồng bạc xanh đã không giữ được đà tăng thiết lập sau
kết quả bầu cử của nước Mỹ vào tháng 11 năm ngoái, chỉ số USD đã giảm ngay
từ đầu năm bất chấp những tín hiệu lạc quan của nền kinh tế, phục hồi tăng
trong tháng 2 và giảm liên tiếp trong 4 tháng sau đó. So sánh với cùng kỳ của
năm trước, diễn biến của đồng USD trong 6 tháng đầu năm nay không còn bị
chi phối mạnh bởi những quyết định của Fed về việc cắt giảm lãi suất, mà thay
vào đó là sự tác động của tình hình căng thẳng địa chính trị, những diễn biến
chính trị quan trọng trên thế giới và những quan ngại về tính khả thi của các
chính sách của Chính phủ mới cũng như những lùm xùm cá nhân của ông chủ
nhà trắng – Donald Trump. Những bất ổn đó đã tác động ngay lên diễn biến của
7
đồng USD trên thị trường, trong đó rõ nét nhất là xu hướng giảm liên tiếp của
USD index kể từ tháng 3 cho đến hết tháng 54. Ngoài ra, kỳ vọng về lộ trình
điều chỉnh chính sách của Fed cũng đã có ảnh hưởng đi trước trong diễn biến
của USD index nên xu hướng tăng của đồng bạc xanh thường không kéo dài
hoặc thậm chí không xuất hiện khi chính sách được công bố. Kết thúc 6 tháng
đầu năm, đồng USD đã quay trở lại ngưỡng giá của thời điểm trước khi bầu cử,
giảm 6,72%; hiện giao dịch ở mức 95.42.
Diễn biến chỉ số USD
Nguồn: investing.com
4 Tháng 3 giảm 0,9%; Tháng 4 giảm 1,32%; Tháng 5 giảm 2,07%.
5 Đồng EUR: Tháng 1 tăng 2,68%; Tháng 2 giảm 2,05%; Tháng 3 tăng 0,71%; Tháng 4 tăng 2,3%; Tháng 5 tăng 3,18%; Tháng 6 tăng 1,63%.
Đồng GBP: Tháng 1 tăng 1,95%; Tháng 2 giảm 1,57%; Tháng 3 tăng 1,36%; Tháng 4 tăng 3,2%; Tháng 5 giảm 0,47%; Tháng 6 tăng 1,06%.
EUR và GBP đã
có diễn biến
thuận lợi hơn
thời điểm của
năm ngoái
Ngay từ đầu năm 2017, đồng EUR và GBP đã ghi nhận xu hướng tăng điểm và
gần như duy trì được đà tăng trong phần lớn thời gian 6 tháng đầu năm5. Thực tế
này đã diễn ra trái ngược với những quan ngại về khu vực Châu Âu vào thời
điểm cuối năm 2016. Xu hướng tăng điểm của 2 đồng tiền này thể hiện mạnh
nhất trong quý II.
Những diễn biến chính trị trong khu vực và xung quanh chiến dịch bầu cử tại các
nước lớn như Pháp, Đức, Hà Lan hay những tín hiệu xấu từ khu vực ngân hàng
của Ý, Hy Lạp,…. cũng có ảnh hưởng bất lợi lên diễn biến của hai đồng tiền này
vào một số thời điểm nhất định. Tuy nhiên, xu hướng giảm thường không kéo dài
trước những tín hiệu kinh tế lạc quan chưa từng có trong những năm gần đây và
đà giảm của đồng USD trên thị trường ngoại hối.
Trong quý II, cả đồng EUR và đồng GBP đều ghi nhận những tháng tăng mạnh.
Trước đề nghị tiến hành chiến dịch tổng bầu cử sớm của thủ tướng Theresa May,
đồng GBP đã bỏ qua sự hoài nghi về số phận của nước Anh và những quan ngại
xoay quanh mối quan hệ giữa Anh và EU, ghi nhận tháng tăng điểm tốt vào tháng
4/2017 khoảng hơn 3%, trong đó có ngày đồng GBP/USD đạt 1.2951 – mức cao
nhất kể từ tháng 10 năm ngoái. Bên cạnh đó, kết quả cầu cử của nước Pháp vào
đầu tháng 5/2017 với chiến thắng thuộc về ông Macron – đã làm dịu đi nỗi lo sợ
về chủ nghĩa dân túy sẽ gia tăng tại khu vực Châu Âu đã mang lại một tháng tăng
điểm tốt nhất của đồng EUR kể từ đầu năm, ở mức hơn 3%.
Kết thúc 6 tháng đầu năm, đồng EUR và đồng GBP đã tăng lần lượt là 8,65% và
5,58% so với cuối năm ngoái.
8
6 Quyết định tăng lãi suất tiền gửi trung hạn và lãi suất repo đảo ngược của PBOC vào tháng 2; Bơm vốn qua OMO; Bán USD ra thị trường;
Thay đổi cách tính tỷ giá tham chiếu,….
7 Thắt chặt quản lý đối với hoạt động đầu tư và chuyển tiền ra nước ngoài. Theo đó, các công ty phải xin giấy phép cho các khoản thanh toán
ngoại tệ ra nước ngoài trị giá trên 5 triệu USD, bao gồm cả trả nợ và thanh toán cổ tức; Yêu cầu những người muốn mua lượng lớn ngoại tệ
phải nêu rõ mục đích và cung cấp thông tin bổ sung.
JPY tiếp tục tăng
giá so với đồng
USD, CNY biến
động ổn định,
tăng nhẹ so với
USD
Trong nửa đầu năm 2017, nhìn chung 02 đồng tiền mạnh của khu vực Châu Á
cũng có diễn biến thuận lợi. Theo đó, đồng JPY đã lấy lại xu hướng tăng giá sau
chuỗi giảm kéo dài trong quý IV/2016, xu hướng này duy trì liên tục trong quý I
với tổng mức tăng hơn 4% và duy trì đan xen trong Quý II. Diễn biến tăng của
đồng tiền này tiếp tục được hỗ trợ bởi nhu cầu đầu tư an toàn trước các dấu hiệu
bất ổn của kinh tế, chính trị vào thời điểm đầu năm bên cạnh xu hướng giảm của
đồng bạc xanh. Ngoài ra, những tín hiệu khởi sắc hơn của nền kinh tế cũng đã
chặn được đà giảm của đồng tiền này vào một số thời điểm. Kết thúc 6 tháng,
đồng JPY tăng 3,86%.
Trong khi đó, đồng CNY cũng khởi đầu một năm với xu hướng trái ngược với
diễn biến của đồng tiền này vào cuối năm 2016. Mặc dù đồng CNY cũng ghi
nhận xu hướng tăng giảm đan xen giữa các tháng, tuy nhiên mức độ biến động
tăng đã quyết định xu hướng của đồng tiền này trong 6 tháng đầu năm. Trong số
các đồng tiền mạnh quan sát, đồng CNY là đồng tiền có mức biến động tương đối
thấp và ổn định. Diễn biến này được hỗ trợ bởi công tác điều hành CSTT của
PBOC6 và chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn để kiểm soát các dòng vốn
chảy ra khỏi biên giới Đại Lục7. Đây cũng là những nỗ lực của Chính phủ Trung
Quốc trong lộ trình thực hiện chiến lược quốc tế hóa đồng CNY cũng như khẳng
định cam kết của mình tại hội nghị thượng đỉnh G20 - đó là thực hiện chính sách
đồng tiền định giá thấp tương đối không phải là mục tiêu của Trung Quốc. Sau
khi ổn định đầu năm nay, đồng NDT đột ngột tăng lên cao trong vài tuần giao
dịch cuối quý II sau khi PBOC công bố điều chỉnh, bổ sung yếu tố “phản chu kỳ”
trong cách tính tỷ giá tham chiếu hàng ngày để giảm bớt kỳ vọng về việc CNY sẽ
giảm thêm và dòng vốn chảy ra khi Mỹ tăng lãi suất. Kết thúc 6 tháng đầu năm
2017, đồng CNY đã tăng 2,36% so với đồng USD, giao dịch ở mức 6.6480.
Từ năm 2016 đến nay, Trung Quốc đối mặt với áp lực dòng vốn rút khỏi thị
trường nội địa lớn chưa từng có. Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã phải bán
USD từ nguồn dự trữ ngoại tệ nhằm kiềm chế đà mất giá của đồng NDT. Theo
Cơ quan quản lý ngoại hối quốc gia Trung Quốc, dự trữ ngoại tệ của nước này
giảm xuống dưới ngưỡng 3.000 tỷ USD, còn 2.990 tỷ USD trong tháng 1/2017 -
tháng giảm thứ bảy liên tiếp. Tình trạng này gây lo ngại về sự ổn định về tài
chính của Trung Quốc bởi kho dự trữ ngoại tệ được xem là "bia đỡ" cho nền kinh
tế trước biến động thương mại và tiền tệ. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, nhờ
các biện pháp kiểm soát vốn của Chính phủ nước này và sự suy yếu của đồng
USD đã hãm lại dòng chảy vốn, quy mô dự trữ ngoại hối đã tăng trở lại. Theo số
liệu của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC), dự trữ ngoại hối của nền
kinh tế lớn thứ 2 thế giới đã tăng thêm 24 tỷ USD trong tháng 5 lên mức cao nhất
7 tháng là 3,054 nghìn tỷ USD, sau khi đã tăng 21 tỷ USD vào tháng 4. Đây là
lần đầu tiên kể từ tháng 6/2014, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng 4 tháng liên
tiếp.
9
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh
Nguồn: investing.com
0.95
1
1.05
1.1
1.15
1.22
-Jan
-17
12
-Jan
-17
22
-Jan
-17
1-F
eb-1
7
11
-Feb
-17
21
-Feb
-17
3-M
ar-1
7
13
-Mar
-17
23
-Mar
-17
2-A
pr-
17
12
-Ap
r-1
7
22
-Ap
r-1
7
2-M
ay-1
7
12
-May
-17
22
-May
-17
1-J
un
-17
11
-Ju
n-1
7
21
-Ju
n-1
7
EUR/USD
1.15
1.2
1.25
1.3
1.35
2-J
an-1
71
2-J
an-1
72
2-J
an-1
71
-Feb
-17
11
-Feb
-17
21
-Feb
-17
3-M
ar-1
71
3-M
ar-1
72
3-M
ar-1
72
-Ap
r-1
71
2-A
pr-
17
22
-Ap
r-1
72
-May
-17
12
-May
-17
22
-May
-17
1-J
un
-17
11
-Ju
n-1
72
1-J
un
-17
GBP/USD
100
105
110
115
120
2-J
an-1
7
12
-Jan
-17
22
-Jan
-17
1-F
eb-1
7
11
-Feb
-17
21
-Feb
-17
3-M
ar-1
7
13
-Mar
-17
23
-Mar
-17
2-A
pr-
17
12
-Ap
r-1
7
22
-Ap
r-1
7
2-M
ay-1
7
12
-May
-17
22
-May
-17
1-J
un
-17
11
-Ju
n-1
7
21
-Ju
n-1
7
USD/JPY
6.656.7
6.756.8
6.856.9
6.957
2-J
an-1
7
12
-Jan
-17
22
-Jan
-17
1-F
eb-1
7
11
-Feb
-17
21
-Feb
-17
3-M
ar-1
7
13
-Mar
-17
23
-Mar
-17
2-A
pr-
17
12
-Ap
r-1
7
22
-Ap
r-1
7
2-M
ay-1
7
12
-May
-17
22
-May
-17
1-J
un
-17
11
-Ju
n-1
7
21
-Ju
n-1
7
USD/CNY
Dự trữ ngoại hối
ròng trên toàn
cầu đã suy giảm
Tính đến cuối năm 2016, dự trữ ngoại hối toàn cầu ròng tiếp tục suy giảm
khoảng 105 tỷ USD, mặc dù đã có diễn biến tăng trong nửa đầu năm 2016.
Nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng trên không có nhiều điểm khác so với năm
2015, đó là việc nhiều quốc gia có chính sách tỷ giá neo với đồng USD đã cố
gắng làm chậm lại đà giảm giá của đồng bản tệ. Trong đó, riêng Trung Quốc đã
chiếm gần như toàn bộ mức suy giảm của dự trữ toàn cầu trong năm 2016 (hơn
300 tỷ USD). Mặc dù vậy, tỷ lệ dữ trữ ngoại hối của nhiều nước so với tổng nợ
ngắn hạn hay với GDP hiện vẫn ở mức khá cao như Ấn Độ, Trung Quốc, Đài
Loan, Hàn Quốc,….
Dự trữ ngoại hối tính
trên % của nợ ngắn
hạn
Dự trữ ngoại hối tính
theo % GDP
Ấn Độ 427% 15%
Trung Quốc 399% 27%
Mexico 334% 16%
Hàn Quốc 330% 26%
Đài Loan 277% 82%
Thụy Sĩ 63% 96%
Nhật Bản 45% 23%
Canada 13% 5%
Ý 5% 2%
Anh Quốc 2% 4%
Đức 2% 1%
Pháp 2% 2% Nguồn: IMF, WB
10
Diễn biến thị trường vàng
Diễn biến giá vàng thế giới
Nguồn: usagold.com
Mặc dù từ đầu năm đến nay, đà tăng của giá vàng vẫn đang được hỗ trợ mạnh
mẽ bởi lực cầu, nhưng theo báo cáo của WGC (Hội đồng vàng thế giới) thì nhu
cầu vàng hiện đã giảm so với cùng thời điểm năm ngoái. Trong đó, nhu cầu đầu
tư vàng qua các Quỹ ETFs đã có sự thu hẹp, nhu cầu dự trữ của NHTW các
nước cũng đã chậm lại, tín hiệu tích cực chỉ xuất hiện từ hai cấu phần chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng cầu như nhu cầu đầu tư vàng miếng, vàng trang sức và
vàng sử dụng trong khu vực sản xuất.
Diễn biến nhu cầu nắm giữ vàng toàn cầu
Nguồn: gold.org
8 Tháng 4 tăng 1,51%; Tháng 5 tăng 0,14%; Tháng 6 giảm 2,14%.
0
100
200
300
400
500
600
700
Tấn
Nhu cầu vàng trang sức
Nhu cầu đầu tư vàng
Nhu cầu nắm giữ vàng của
NHTW
Giá vàng tiếp tục
tăng nhưng xu
hướng đi xuống
đã xuất hiện vào
Quý II
Bước sang năm 2017, giá vàng mặc dù không đạt thêm những mức đỉnh mới
nhưng nhìn chung vẫn giữ được đà tăng. Giá vàng đã tăng mạnh trong Quý I và
bắt đầu có xu hướng chậm lại vào Quý II8. Kết thúc 6 tháng, giá vàng giao ngay
tăng 7,92%, chốt ở mức 1.241,42 $/oz.
Trong suốt thời gian giao dịch nửa đầu năm 2017, những yếu tố bất ổn về kinh
tế và chính trị của thế giới tiếp tục là lực đẩy cho đà tăng của giá vàng, bên cạnh
đó, những vấn đề của nước Mỹ, từ diễn biến kinh tế đến các quyết sách kinh tế
lớn vẫn có ảnh hưởng quyết định tới xu hướng tăng, giảm ngắn hạn của giá
vàng. Qua 6 tháng đầu năm, vàng cũng chỉ có duy nhất một tháng giảm giá –
một diễn biến ngược với diễn biến của USD index.
11
Thị trường chứng khoán toàn cầu
TTCK toàn cầu
diễn biến tích
cực
Thị trường chứng khoán toàn cầu trong nửa đầu năm 2017 diễn biến tích cực.
Các thị trường chủ chốt tại khắp các châu lục đều ghi nhận đà tăng điểm qua 6
tháng, điều này là sự khởi sắc mạnh mẽ so với diễn biến ảm đạm của cùng kỳ
năm 2016.
Diễn biến các thị trường chứng khoán chủ chốt 6T/2017 so với 6T/2016
Nguồn: Bloomberg
Thị trường chứng khoán Mỹ duy trì đà tăng điểm liên tục qua hầu hết các tháng
nhờ được tiếp sức bởi nhiều thông tin hỗ trợ, trước hết là kỳ vọng mạnh mẽ của
giới đầu tư về các gói nới lỏng tài khóa của chính quyền tổng thống Donald
Trump, sau đó là những diễn biến tích cực của môi trường kinh tế vĩ mô và kết
quả lợi nhuận khả quan của các doanh nghiệp niêm yết. Nhờ đó, kết thúc 6 tháng
cả 3 chỉ số chứng khoán chính đều đạt được mức tăng điểm kỷ lục trong vòng
nhiều năm qua, trong đó Dow Jones tăng 6,96%, S&P 500 tăng 7,18% và
Nasdaq tăng 12,83% so với cuối năm ngoái.
Diễn biến thị trường chứng khoán Mỹ T1/2016 – T6/2017
Nguồn: Bloomberg
Chứng khoán châu Âu chứng kiến nhiều biến động trong nửa đầu năm do chịu
tác động của những thông tin trái chiều. Có những thời điểm thị trường thăng
hoa khi đón nhận hiệu ứng tích cực từ các cuộc bầu cử tổng thống tại Pháp, Ý và
những tín hiệu hồi phục đến từ các nền kinh tế đầu tàu trong khu vực. Tuy
nhiên, cũng có những thời điểm, đặc biệt như vào tháng 6 vừa qua, thị trường
giảm điểm khá mạnh khi phát sinh các lo ngại về cuộc khủng hoảng di cư, tác
động bất lợi của Brexit hay tình trạng yếu kém của hệ thống ngân hàng trong
khu vực. Mặc dù vậy, kết thúc nửa đầu năm 2017, chỉ số EuroStoxx toàn khu
vực vẫn đạt được mức tăng 1,98%, các thị trường chủ chốt đều đạt được mức
tăng điểm tốt so với cuối năm ngoái như CAC 40 của Pháp tăng 5,3%; DAX của
Đức tăng 4,75%,... Chỉ số FTSE 100 của Anh cũng vẫn duy trì được mức tăng
điểm 0,63% so với cuối năm 2016, tuy nhiên mức tăng này đã thấp hơn đáng kể
so với mức tăng hơn 6% của 6 tháng đầu năm ngoái.
12
Triển vọng kinh tế thế giới 6 tháng cuối năm 2017
Kinh tế toàn cầu
sẽ tiếp tục đà
phục hồi nhưng
sẽ đối mặt với
nhiều rủi ro,
thách thức
Với những chuyển biến tích cực trong 6 tháng đầu năm, kinh tế toàn cầu 6
tháng cuối năm 2017 dự báo sẽ tiếp tục đạt được những kết quả khả quan. Hầu
hết các tổ chức kinh tế đều thống nhất trong dự báo cho rằng tăng trưởng kinh tế
toàn cầu năm 2017 sẽ cao hơn so với năm 2016 với mức tăng trưởng giao động
trong khoảng 3,5% - 3,7%, mức cao nhất kể từ năm 2011 trở lại đây. Tăng
trưởng tích cực sẽ được ghi nhận ở hầu hết các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ,
khu vực EU, Nhật Bản cho đến các quốc gia mới nổi như Trung Quốc, khu vực
Mỹ La Tinh, Ấn Độ và Đông Nam Á.
Thương mại toàn cầu cũng được dự báo sẽ tiếp tục cải thiện với mức tăng
trưởng cả năm 2017 ước đạt 4%, cao hơn mức tăng trưởng 2,6% của năm 2016
và cũng cao hơn mức dự báo 3% được đưa ra trước đó. Sự phục hồi của hoạt
động thương mại càng được củng cố nhờ cầu nhập khẩu có xu hướng gia tăng
tại các nền kinh tế phát triển và dòng chảy thương mại ra vào Trung Quốc đang
tăng tốc.
Bên cạnh đó, thị trường ngoại hối trong 6 tháng còn lại của năm được đánh giá
sẽ không có nhiều biến động mạnh, thị trường sẽ khó có thể đón nhận thêm các
nhân tố tác động mạnh tới xu thế của các đồng tiền. Khuynh hướng vận động
Diễn biến một số chỉ số chứng khoán chủ chốt tại thị trường châu Âu T1/2016 – T6/2017
Nguồn: Bloomberg
Chứng khoán châu Á diễn biến tích cực sau 6 tháng với chỉ số MSCI khu vực
châu Á Thái Bình Dương đạt mức tăng mạnh 14,07% so với cuối năm trước.
Mặc dù vậy, xu hướng biến động có sự khác nhau giữa các thị trường. Chứng
khoán Nhật Bản khởi đầu chậm chạp trong những tháng đầu năm nhưng tăng tốc
mạnh mẽ hơn trong quý II nhờ được hỗ trợ bởi những chuyển biến tốt từ tình
hình kinh tế vĩ mô trong nước. Chứng khoán Trung Quốc duy trì đà tăng điểm
khá ổn định và chỉ suy giảm trong tháng 4 và 5 khi Trung Quốc thực hiện thắt
chặt kiểm soát đòn bẩy tài chính. Đáng chú ý là thị trường chứng Hồng Kông
với mức tăng trên 17% và Hàn Quốc với mức tăng trên 19% thuộc nhóm tăng
trưởng tốt nhất khu vực.
Diễn biến một số chỉ số chứng khoán chủ chốt tại thị trường châu Á T1/2016 – T6/2017
Nguồn: Bloomberg
13
của thị trường cũng khá rõ, đồng USD sẽ giữ được đà tăng khi các thông tin
kinh tế Mỹ tiếp tục được củng cố. Đồng EUR, đồng GBP có thể sẽ có các diễn
biến trái chiều, trong đó chiều hướng thuận lợi trong ngắn hạn sẽ nghiêng về
đồng EUR. Đồng tiền chung diễn biến phụ thuộc khá nhiều vào các kết quả
kinh tế của khu vực và sự phục hồi của hệ thống ngân hàng cũng như việc giải
quyết ổn thỏa các vấn đề về nợ công, trong khi đó đồng GBP nhiều khả năng sẽ
trải qua những đợt biến động tiềm năng trước những rủi ro của các kịch bản
Brexit cũng như kết quả cuộc bầu cử Quốc hội hay quyết định điều chỉnh lãi
suất của NHTW.
Tại khu vực Châu Á, đồng JPY và đồng CNY được kỳ vọng sẽ duy trì xu
hướng trong nửa đầu năm nhưng các mức thay đổi sẽ không quá lớn. Nhu cầu
nắm giữ tài sản đầu tư an toàn và sự phục hồi của nền kinh tế sẽ tiếp tục hỗ trợ
cho đà tăng của JPY. Sự lên giá của đồng CNY trong hai tháng gần đây đã làm
suy giảm quan điểm về sự suy yếu của đồng CNY trong năm nay. Mặc dù hiện
đang có nhiều quan ngại về sự gia tăng trở lại của dòng vốn rút ra khỏi Trung
Quốc từ nay đến cuối năm nhưng những diễn biến thuận lợi của kinh tế Trung
Quốc và tham vọng quốc tế hóa đồng nhân dân tệ sẽ cản lại đà giảm sâu của
đồng tiền này.
Cuối cùng, giá vàng sẽ tiếp tục biến động nhưng các xu hướng tăng giảm khó
kéo dài và mức biến động cũng sẽ không mạnh. Xu hướng vận động vẫn phụ
thuộc rất lớn vào kinh tế nước Mỹ, các bất ổn chính trị trên toàn cầu. Ngoài ra,
mặc dù nhu cầu vàng đã suy giảm nhưng từ nay đến cuối năm giá vàng cũng sẽ
bị chi phối mạnh hơn bởi yếu tố mùa vụ tại Ấn Độ và Trung Quốc.
Mặc dù tiếp tục đón nhận thêm các dự báo lạc quan nhưng tăng trưởng kinh tế
toàn cầu có thể tiếp tục phải đối mặt với những thách thức chính sau:
+ Tình hình chính trị thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp như việc cải
tổ thể chế tại các quốc gia châu Âu, các cuộc đàm phán về Brexit và làn sóng
bảo hộ dấy lên ở một số nước có thể tạo ra những rào cản cho hoạt động kinh tế,
làm chậm lại đà phục hồi thương mại và tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
+ Căng thẳng địa chính trị leo thang, chủ nghĩa khủng bố gia tăng đe dọa an
ninh nhiều nước, thúc đẩy chủ nghĩa dân túy, từ đó cũng gây ra nhiều trở ngại
đối với hoạt động thương mại, đầu tư trên phạm vi toàn cầu.
+ Triển vọng tăng trưởng tại các quốc gia, đặc biệt tại các nền kinh tế phát triển
như Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu mặc dù đã được cải thiện đáng kể,
song vẫn chưa hoàn toàn giải quyết được những hậu quả sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Trong khi đó tại các thị trường mới nổi, việc tiến hành một loạt
điều chỉnh mang tính trung hạn sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị kìm
hãm và không thể tăng tốc trong thời gian tới.
+ Tình trạng nợ tiếp tục gia tăng tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi,
trong đó đáng chú ý là cấu phần nợ của khu vực ngoài nhà nước cũng tạo ra
những trở ngại nhất định đối với tăng trưởng trong dài hạn và có thể làm phát
sinh những rủi ro đối với ổn định tài chính.
+ Thị trường tiền tệ, ngoại hối tiếp tục bị chi phối bởi môi trường chính sách và
tình hình địa chính trị còn khó đoán định và bất ổn, thực tế đó sẽ làm gia tăng
các quan ngại về sự ổn định của hệ thống tài chính, tiền tệ. Thực tế đó có thể
làm nhu cầu đầu tư an toàn sẽ gia tăng và nếu tăng quá mạnh nó có thể làm sai
lệch giá trị thực của các tài sản đầu tư cũng như của các đồng tiền giao dịch
trên thị trường,..…
14
KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
6 tháng đầu năm
chưa được như kỳ
vọng
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2017 ước tăng 5,73% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó GDP quý 1 tăng 5,15%, quý 2 tăng
6,17%. Diễn biến của GDP nửa đầu năm 2017 về cơ bản đang giống với xu
hướng cùng kỳ năm 2016, mặc dù tốc độ tăng trưởng đã được cải thiện qua
các quý song vẫn ở mức thấp. Trong đó, đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng của
nhóm ngành công nghiệp và xây dựng sụt giảm mạnh – động lực chính của
nền kinh tế trong những năm qua.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 6 tháng các năm 2015, 2016 và 2017
Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (%) Đóng góp của các khu vực
vào tăng trưởng 6 tháng
đầu năm 2017
(Điểm phần trăm)
6 tháng/2015 6 tháng/ 2016 6 tháng/2017
Tổng số 6,32 5,65 5,73 5,73
Nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản 2,22 -0,18 2,65 0,43
Công nghiệp và xây dựng 9,36 7,86 5,81 2,00
Dịch vụ 5,86 6,47 6,85 2,59
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp
sản phẩm 5,5 6,61 6,11 0,71
Nguồn: TCTK
Trong mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực dịch vụ tiếp tục duy
trì được đà tăng tốt, đạt 6,85%, đóng góp 2,59 điểm phần trăm vào mức tăng
trưởng chung. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là nhóm ngành duy
nhất đã có sự cải thiện tốt so với cùng kỳ năm ngoái, nhóm ngành này đã lấy
lại được mốc tăng trưởng với mức tăng 2,65%, đóng góp 0,43 điểm phần
trăm. Cuối cùng, mặc dù khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,81%, đóng
góp 2,0 điểm phần trăm nhưng đây lại là mức tăng thấp nhất trong 03 năm
vừa qua.
Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu
vực dịch vụ
-2
-1
0
1
2
3
4
5
6
7
Ngành thủy sản
Ngành lâm nghiệp
Ngành nông nghiệp
%
2016
2017
15
Xét về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2017
Xét về góc độ sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2017
Nguồn: TCTK
Vai trò dẫn dắt của
sản xuất công nghiệp
đã suy giảm mặc dù
đã xuất hiện dấu
hiệu tích cực hơn
trong quý II
Diễn biến của chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp - IIP trong 6 tháng đầu
năm nay tiếp tục có được xu hướng tăng qua các tháng, tốc độ tăng có cải thiện
qua các quý (quý I tăng 4,3%, quý II tăng 7,8%), tuy nhiên nếu so với cùng kỳ
đà tăng đã giảm – xu hướng này diễn ra khá liên tục từ trong 04 tháng đầu năm
và mới có tín hiệu cải thiện trong 2 tháng gần đây. Trong diễn biến tăng của chỉ
số chung, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là chỉ số trụ cột nhưng
ngành khai khoáng duy trì đà giảm, thậm chí nhiều tháng còn có mức giảm
mạnh hơn so với cùng kỳ năm ngoái.
Diễn biến IIP so với tháng trước
Diễn biến IIP so với cùng kỳ
Nguồn: TCTK
Tính chung 6 tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,2% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 10,5%; ngành sản
xuất và phân phối điện tăng 8%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước
thải tăng 7,8%; Và riêng ngành khai khoáng giảm 8,2% (chủ yếu do khai thác
dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,6%).
Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu vực công nghiệp và xây dựng
Nguồn: TCTK
-10
-5
0
5
10
15
Ngành công nghiệp Ngành khai khoáng Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
%
2016
2017
16
Diễn biến chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Diễn biến chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Nguồn: TCTK
9 Tháng 1: 51,9 điểm; Tháng 2: 54,2 điểm; Tháng 3: 54,6 điểm.
Bên cạnh đó, dữ liệu tồn kho và tiêu thụ hàng hóa của ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo cũng có diễn biến khác so với năm ngoái, chỉ số tiêu thụ toàn
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 5 tháng đầu năm tăng 8,2%, thấp hơn mức
tăng 8,8% theo số so sánh cùng kỳ của 6 tháng đầu năm 2016. Chỉ số tồn kho
toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 1/6/2017 tăng 10,2% so
với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn mức tăng 9% của cùng thời điểm năm 2016.
Chỉ số Nhà quản
trị mua hàng tiếp tục ở
ngưỡng mở rộng
Diễn biến khu vực sản xuất cũng khá trùng hợp với những gì mà khu vực
doanh nghiệp đã dự báo. Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các
doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2017 của Tổng
cục thống kê cho thấy: Có 43% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất
kinh doanh quý II năm nay tốt hơn quý trước; 19,2% doanh nghiệp đánh giá
gặp khó khăn và 37,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh
doanh ổn định.
Chỉ số PMI trong 6 tháng đầu năm luôn nằm ở trong vùng mở rộng nhưng
diễn biến không ổn định qua các tháng. Từ đầu năm đến nay, chỉ số PMI có
diễn biến tốt nhất trong Quý I9, giảm liên tục trong tháng 4, tháng 5 và mới có
dấu hiện tăng trở lại vào tháng 6, từ mức 51,6 điểm của tháng trước lên mức
52,5 điểm. Mặc dù vậy, PMI của Việt Nam đã có được vị trí tốt so với các
nước trong khu vực Asean, giữ vị trí đứng đầu trong Quý I, giảm về vị trí thứ
3 trong tháng 5 và hiện đang ở vị trí thứ hai sau Philippine (53,9 điểm).
Xu hướng tăng của PMI qua các tháng chủ yếu do sức tăng của đơn hàng mới
ở trong nước và đơn hàng xuất khẩu. Nhờ đó sản lượng đã tăng liên tục trong
8 tháng, tốc độ tạo việc làm mới cũng tăng và lượng hàng tồn kho cũng được
cải thiện. Bên cạnh đó, cả chi phí đầu vào và đầu ra đang có xu hướng giảm.
Đồ thị diễn biến Chỉ số PMI trong 6 tháng đầu năm 2017
Nguồn: Nikkei
49
50
51
52
53
54
55
17
Hoạt động bán lẻ
hàng hóa và dịch
vụ tiêu dùng là
động lực dẫn dắt
tăng trưởng về
phía cầu
Trong nửa đầu năm 2017, hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
đang thể hiện xu hướng tích cực hơn so với cùng thời điểm so sánh của năm
trước. Ngoại trừ tháng 2 doanh thu hoạt động bán lẻ có sự sụt giảm so với
tháng trước do tác động của yếu tố mùa vụ, những tháng còn lại đều đạt được
tốc độ tăng trưởng tốt so với tháng trước cũng như so với cùng kỳ. Tính chung
6 tháng đầu năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng đạt 1.924,1 nghìn tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, nếu
loại trừ yếu tố giá tăng 8,4% (cao hơn mức tăng 8,1% của cùng kỳ năm 2016).
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu DV TD so với tháng trước và cùng kỳ (%)
Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố giá (% yoy)
Nguồn: TCTK
Với diễn biến như vậy, hoạt động bán lẻ đã đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế xét theo ngành kinh tế cũng như trên góc độ sử dụng GDP. Cụ
thể, ngành bán lẻ cùng với bán buôn đã đóng góp lớn nhất vào mức tăng
trưởng GDP chung của khu vực dịch vụ10, góp phần đưa khu vực dịch vụ duy
trì được tốc độ tăng trưởng cao nhất trong vòng 5 năm vừa qua. Bên cạnh đó,
xét trên góc độ sử dụng GDP, với sự khởi sắc của hoạt động bán lẻ, tiêu dùng
cuối cùng tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng 7,04% so với cùng kỳ năm
2016, cao hơn mức tăng trưởng 6,98% của 6 tháng đầu năm 2016 và tiếp tục
là khu vực đóng góp cao nhất vào tăng trưởng GDP11.
Vốn đầu tư toàn
xã hội tiếp tục
gia tăng
Vốn đầu tư toàn xã hội
thực hiện 6 tháng đầu
năm 2017 theo giá hiện
hành ước tính đạt 674,8
nghìn tỷ đồng, tăng
10,5% so với cùng kỳ
năm trước và bằng 32,8%
GDP, cao hơn so với tốc
độ tăng trưởng của cùng
kỳ 2 năm liền trước12.
Trong đó, vốn đầu tư từ
khu vực tư nhân vẫn là
động lực dẫn dắt tăng
trưởng tổng vốn đầu tư
toàn xã hội khi chiếm
38,7% tổng vốn và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất là 14,9%. Vốn khu vực
Nhà nước chiếm 35,9% tổng vốn và đạt tốc độ tăng 6,8%, mặc dù cao hơn so
với cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2015. Vốn đầu tư từ
10 6 tháng đầu năm 2017, bán buôn bán lẻ đóng góp 0,65 điểm phần % vào mức tăng trưởng chung. 11 Tiêu dùng cuối cùng đóng góp 8,48 điểm % vào mức tăng GDP chung, cao hơn tích lũy tài sản chỉ đóng góp 4,26 điểm %. 12 6 tháng đầu năm 2015 tốc độ tăng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 9,3%, 6 tháng đầu năm 2016 tốc độ tăng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 10,3%.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6
tháng các năm 2015 - 2017 (% yoy)
Nguồn: TCTK
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
Khu vực Nhà
nước
Khu vực
ngoài Nhà
nước
Khu vực có
đầu tư FDI
Vốn đầu tư
toàn xã hội
6T 2015 6T 2016 6T 2017
18
khu vực nước ngoài đã không còn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như
cùng kỳ năm trước, hiện chiếm 25,4% tổng vốn và chỉ tăng 9,6%.
Diễn biến các cấu phần vốn đầu tư toàn xã hội được thể hiện rõ nét hơn khi
quan sát hoạt động giải ngân vốn đầu tư trên các mảng NSNN cũng như vốn
đầu tư nước ngoài:
Tình hình giải
ngân nguồn vốn
đầu tư từ NSNN
vẫn còn gặp
nhiều khó khăn
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn đầu tư từ NSNN vẫn diễn biến
theo đúng quy luật hàng năm khi giải ngân ở mức thấp trong quý I và bắt đầu
tăng tốc trở lại khi bước vào quý II. Tính chung 6 tháng đầu năm 2017, vốn từ
ngân sách Nhà nước thực hiện ước tính đạt 115 nghìn tỷ đồng, bằng 38,7% kế
hoạch năm và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, mặc dù tình
hình thực hiện vốn đầu tư từ NSNN đã có chuyển biến tích cực trong những
tháng gần đây nhưng mức giải ngân vẫn còn thấp so với kế hoạch năm và
mức tăng trưởng cũng thấp hơn so với cùng kỳ năm trước13. Sự khó khăn
trong việc giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN cũng thể hiện qua sự chững
lại qua hoạt động chi đầu tư phát triển khi qua 6 tháng đầu năm chi đầu tư
phát triển mới chỉ bằng 23,3% dự toán, thấp hơn đáng kể so với mức dự toán
của các năm trước14.
Diễn biến vốn đầu tư từ NSNN giai đoạn T1/2016 – T6/2017
Nguồn: TCTK
Giải ngân vốn
đầu tư trực tiếp
nước ngoài mặc
dù vẫn tăng về số
tuyệt đối nhưng
tốc độ tăng
trưởng đã chậm
lại
Sau quý I giải ngân ở mức
thấp với mức tăng trưởng chỉ
đạt 3,4% so với cùng kỳ,
diễn biến vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài thực hiện trong
quý II đã có sự cải thiện khi
đạt mức tăng trưởng 7,36%.
Tính hết 6 tháng, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài thực
hiện ước tính đạt 7,7 tỷ USD,
tăng 6,5% so với cùng kỳ
năm 2016, là mức tăng thấp
nhất trong 3 năm gần đây15.
Điều này là lý do giải thích
cho tình trạng tăng trưởng
chậm lại của nguồn vốn đầu
tư từ khu vực nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
13 Vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng đầu năm 2016 ước tính đạt 107,0 nghìn tỷ đồng, bằng 42,5% kế hoạch năm và tăng 11,9%
so với cùng kỳ năm trước 14 6 tháng đầu năm 2016 giải ngân vốn đầu tư phát triển bằng 29,2% dự toán, 6 tháng đầu năm 2015 giải ngân vốn đầu tư phát triển bằng
41,4% dự toán 15 6 tháng đầu năm 2015 và 2016, tăng trưởng vốn FDI thực hiện so với cùng kỳ đạt mức tăng lần lượt là 9,6% và 11,5%.
So sánh diễn biến vốn FDI thực hiện qua 2 quý
đầu năm 2015, 2016 và 2017
(triệu USD)
Nguồn: TCTK
19
Tốc độ tăng FDI
thu hút đã giảm
xuống
Trong vòng 5 tháng đầu năm, hoạt động thu hút vốn FDI diễn ra khá trầm
lắng, đặc biệt đối với cấu phần vốn FDI thu hút mới16. Tuy nhiên chỉ trong
tháng 6, lượng vốn FDI vào Việt Nam bao gồm cả vốn thu hút mới và vốn
tăng thêm đã gia tăng đột biến thêm 7 tỷ USD, tức là chiếm hơn 1/3 lượng
vốn FDI thu hút được từ đầu năm đến nay. Trong đó, chủ yếu là lượng vốn
FDI thu hút mới đã đạt con số 6,24 tỷ USD, cao hơn tổng lượng vốn FDI thu
hút mới trong cả 5 tháng đầu năm nhờ một số dự án đầu tư trọng điểm mới
được cấp phép trong tháng vừa qua17.
Như vậy, tính đến hết 20/6/2017, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới,
cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần đạt 19,23 tỷ
USD, tăng 54,8% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù đã có sự tăng tốc mạnh
mẽ trong tháng 6 nhưng do diễn biến kém thuận lợi trong hoạt động thu hút
FDI của những tháng trước nên mức tăng này chỉ bằng một nửa so với mức
tăng của 6 tháng đầu năm 2016.
Diễn biến các cấu phần vốn FDI thu hút qua các tháng trong năm 2017
(triệu USD)
Nguồn: TCTK
Qua 6 tháng, ngành sản xuất và
phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hòa không khí đã
vươn lên là ngành thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số
vốn đăng ký của các dự án được cấp
phép mới đạt 5.255,8 triệu USD,
chiếm 44,4% tổng vốn đăng ký cấp
mới nhờ một loạt các dự án đầu tư
quan trọng được phê duyệt trong
lĩnh vực sản xuất điện; ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo đã tụt
xuống vị trí thứ 2 khi chỉ đạt 3.838,5
triệu USD, chiếm 32,4%; các ngành
còn lại đạt 2.743,9 triệu USD, chiếm 23,2%.
16 Tính hết 5 tháng đầu năm 2017, lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 12,13 tỷ USD, trong đó vốn thu hút mới chỉ đạt 5,6 tỷ USD,
giảm 26,1% so với cùng kỳ năm trước. 17 Dự án Nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 trị giá 2,8 tỷ USD, dự án Aeon MALL Hà Đông trị giá 250 triệu USD, dự án sân golf Sakura ở Hải
Phòng, dự án Nhiệt điện BOT Nam Định 1 trị giá 2,07 tỷ USD,…
Cơ cấu đầu tư FDI vào các ngành trong
nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2017
Nguồn: Cục xúc tiến đầu tư
SX phân
phối điện,
khi đốt,
nước nóng,
hơi nước và
ĐHKK
44.40%
Khai
khoáng,
32.40%
Lĩnh vực
khác,
23.20%
20
Trong số 56 quốc gia và vùng lãnh
thổ có dự án đầu tư được cấp phép
mới tại Việt Nam trong 6 tháng năm
nay, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn
nhất với 4.568,1 triệu USD, chiếm
38,6% tổng vốn đăng ký cấp mới;
tiếp đến là Singapore 2.731,7 triệu
USD, chiếm 23,1%; Hàn Quốc
1.625 triệu USD, chiếm 13,7%;
Trung Quốc 1.100,6 triệu USD,
chiếm 9,3%; Hồng Kông 550,2 triệu
USD, chiếm 4,6%; Đức 321,9 triệu
USD, chiếm 2,7%.
Xuất khẩu tăng
trưởng tốt trong 6
tháng đầu năm
2017
Trong 6 tháng đầu năm 2017, hoạt động xuất khẩu diễn biến thuận lợi với kim
ngạch xuất khẩu qua các quý đều tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm 201618.
Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 97,8 tỷ USD, tăng 18,9% so với
cùng kỳ năm 2016, cao gấp 3 lần so với mức tăng trưởng 5,9% của 6 tháng
năm ngoái. Trong đó hoạt động xuất khẩu đều có mức tăng trưởng cao trong
cả hai khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước với mức
tăng trưởng 6 tháng của 2 khu vực lần lượt đạt 21% và 13,8% so với cùng kỳ,
cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng lần lượt chỉ đạt 6,9% và 3,3% trong 6 tháng
đầu năm 2016.
Sự phục hồi của xuất khẩu là nhờ các mặt hàng chế biến chế tạo vẫn duy trì
tốc độ tăng trưởng khả quan19, cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt
hàng này trong cùng kỳ năm 2016 và nhiều mặt hàng còn đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu chung. Trong khi đó, xuất khẩu dầu thô,
các mặt hàng nông thủy sản và khai khoáng cũng đã có sự phục hồi trở lại,
nhiều mặt hàng đạt mức tăng trưởng khá cao, trái ngược hoàn toàn với xu
hướng sụt giảm của cùng kỳ năm ngoái20.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch XK một số mặt hàng chủ lực 6T/2017 so với 6T/2016
Nguồn: TCTK
18 Kim ngạch xuất khẩu quý I năm 2017 đạt 44,7 tỷ USD tăng 15,85% so với quý I năm 2016, kim ngạch xuất khẩu quý II năm 2017 đạt
53,81 tỷ USD, tăng 22,6% so với quý II năm 2016 19 Qua 6 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt 20,1 tỷ USD, tăng 18,3%; hàng dệt may đạt 11,6 tỷ USD, tăng 7%; điện
tử, máy tính và linh kiện đạt 11,3 tỷ USD, tăng 42,3%; giày dép đạt 7 tỷ USD, tăng 11,6%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 6,1
tỷ USD, tăng 36,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,3 tỷ USD, tăng 15%,... 20 Qua 6 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,6 tỷ USD, tăng 13,5%; thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, tăng 15,6%; cà phê đạt 1,9
tỷ USD, tăng 9,9% (lượng giảm 15,5%); rau quả đạt 1,7 tỷ USD, tăng 50,4%; dầu thô đạt 1,6 tỷ USD, tăng 39,2% (lượng tăng 10,1%); hạt
điều đạt 1,4 tỷ USD, tăng 20,3% (lượng giảm 4,7%)
Cơ cấu đầu tư FDI phân theo đối tác
Nguồn: Cục xúc tiến đầu tư
Nhật Bản, 38.60%
Singapore, 23.10%
Hàn Quốc, 13.70%
Trung Quốc, 9.30%
Hồng Kông, 4.60%
Đức, 2.70% Quốc gia khác, 8.00%
21
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường lớn đều đạt tốc độ tăng
trưởng cao và cơ cấu xuất khẩu sang các thị trường không có nhiều thay đổi
với Mỹ và EU vẫn là 2 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam21. 6 tháng
đầu năm cũng đang cho thấy sự chuyển dịch về kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường các nước trong khu vực.
Tỷ trọng XK vào các thị trường 6T/2016 Tỷ trọng XK vào các thị trường 6T/2017
Nguồn: TCTK
Nhập khẩu hồi
phục mạnh mẽ so
với cùng kỳ năm
2016
Tương tự xuất khẩu, nhập khẩu cũng tăng liên tục qua hai quý với tốc độ
cao22. Tính chung 6 tháng, nhập khẩu ước đạt 100,5 tỷ USD, tăng 24,1% so
với cùng kỳ năm 2016 (6 tháng đầu 2016 nhập khẩu giảm 0,5%). Trong đó,
tốc độ tăng nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt 18,2% và của
khối doanh nghiệp FDI đạt 28,3%, đều cao hơn rất nhiều tốc độ tăng trưởng
của cùng kỳ năm trước23.
Sự gia tăng của nhập khẩu trong 6 tháng qua chủ yếu là do nhập khẩu tư liệu
sản xuất tăng rất mạnh 24,6% so với cùng kỳ năm 2016 trong khi 6 tháng đầu
năm 2016 nhập khẩu nhóm hàng này giảm 0,6%. Đáng chú ý, nhiều mặt hàng
có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2016 và tốc độ tăng của
kim ngạch nhập khẩu chung, ví dụ như điện thoại và linh kiện tăng 29,5%,
điện tử, máy tính và linh kiện tăng 28,2%, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ
tùng khác tăng 37,8%, nguyên nhiên vật liệu tăng 22,7%, sắt thép tăng 24,3%,
chất dẻo tăng 24,6%, xăng dầu tăng 31,4%... Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng
tiêu dùng cũng tăng mạnh ở mức 18,6% so với cùng kỳ năm 2016, cao hơn
mức tăng 0,7% của cùng kỳ năm trước.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch NK một số mặt hàng tư liệu SX 6T/2017 so với 6T/2016
Nguồn: TCTK
21 Trung Quốc tăng 42,5%, Nhật Bản tăng 19,5%, Asean tăng 26,7% và Hàn Quốc tăng 29,1%, Mỹ tăng trưởng 9,5% và EU tăng 12,6% so
với cùng kỳ năm trước. 22 Kim ngạch nhập khẩu quý I/2017 đạt 46,7 tỷ USD, tăng 24,9% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu quý II/2017 đạt 53,8 tỷ USD, tăng
24,09% so với cùng kỳ. 23 6 tháng đầu năm 2016, nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước tăng 1,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,8%.
22
Nhập khẩu từ tất cả các thị trường đều có sự phục hồi mạnh mẽ. Cụ thể, nhập
khẩu từ Trung Quốc, Asean, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ đều gia tăng mạnh
ở mức hai con số so với cùng kỳ năm 2016, trái ngược với xu hướng sụt giảm
hoặc tăng trưởng thấp tại các thị trường trong 6 tháng đầu năm ngoái24. Cơ
cấu thị trường nhập khẩu không có nhiều thay đổi so với cùng kỳ năm ngoái,
với Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, theo sau là
Hàn Quốc, Asean, Nhật Bản.
Tỷ trọng NK từ các thị trường QI/2016 Tỷ trọng NK vào các thị trường QI/2017
Nguồn: TCTK
Cán cân thương
mại nhập siêu 2,7
tỷ USD
Cán cân thương mại 6 tháng đầu năm 2017 ước nhập siêu 2,7 tỷ USD, trong
đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,92 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,22 tỷ USD. Như vậy, cùng với sự gia
tăng mạnh mẽ của nhập khẩu hơn so với xuất khẩu, nền kinh tế đã quay trở lại
tình trạng nhập siêu, trái ngược với tình trạng xuất siêu của 6 tháng đầu năm
ngoái.
Diễn biến XK, NK và nhập siêu giai đoạn 1/2016 – 6/2017
Nguồn: TCTK
Một số chính sách quan trọng trong công tác quản lý, điều tiết kinh tế được ban hành trong tháng 6
1/ Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 2/6/2017 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng các ngành,
lĩnh vực nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2017.
2/ Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số
35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp.
…
24 6 tháng đầu năm 2017, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2016, Hàn Quốc tăng 51,2%, ASEAN tăng 17,6%, Nhật
Bản tăng 10,7%, EU tăng 16,3%, Hoa Kỳ tăng 27,2%.
23
2. Lạm phát
Nguồn: Tổng cục thống kê
5.22 5.12 4.96 4.84.47
4.15
0.46 0.690.9 0.9
0.370.02
-1
0
1
2
3
4
5
6
Jan-17 Feb-17 Mar-17 Apr-17 May-17 Jun-17
DIỄN BIẾN CPI NĂM 2017
CPI bình quân
CPI so với tháng trước
CPI so với cuối năm trước
-0.67
-0.51
0.95
0.99
1.12
1.62
1.99
4.11
8.77
9.99
47.93
4.15
-10 0 10 20 30 40 50 60
Bưu chính viễn thông
Hàng ăn và dịch vụ ăn …
Văn hóa, giải trí và du lịch
Thiết bị và đồ dùng gia …
May mặc, mũ nón, giày dép
Đồ uống và thuốc lá
Hàng hóa và dịch vụ khác
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Giao thông
Giáo dục
Thuốc và dịch vụ y tế
CPI tổng thể
%
CPI BÌNH QUÂN 6 THÁNG NĂM 2017
SO VỚI CÙNG KỲ
Lạm phát đã
giảm dần qua
các tháng
Lạm phát sau khi tăng cao ở thời điểm cuối năm 2016 đã có chiều hướng giảm
dần qua từng tháng trong năm nay, điều này trái ngược với xu hướng tăng của
lạm phát so với cùng kỳ. Kết thúc tháng 6/2017, CPI bình quân 6 tháng đầu
năm nay tăng ở mức 4,15% so với cùng kỳ năm 2016. CPI cơ bản bình quân
tiếp tục diễn biến ổn định ở mức 1,52% qua 6 tháng.
Trong 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng CPI tiếp tục bị chi phối mạnh bởi nhóm
Thuốc và dịch vụ Y tế, Giao thông và Giáo dục, cụ thể như sau:
+ Nhóm Thuốc và dịch vụ Y tế có CPI bình quân 6 tháng tăng mạnh nhất ở mức
47,93% so với cùng kỳ, trong đó riêng dịch vụ y tế tăng tới 66,09%.
+ Nhóm Giáo dục có CPI bình quân 6 tháng tăng 9,99%, trong đó dịch vụ giáo
dục tăng 11,56%.
+ Nhóm Giao thông có CPI bình quân tăng 8,77% so với cùng kỳ, diễn biến
tăng của nhóm hàng này chịu tác động từ việc điều chỉnh giá xăng dầu qua các
tháng (12 lần điều chỉnh kể từ đầu năm) theo diễn biến của giá dầu trên thế giới.
Ngoài ra, giá một số nhiên liệu khác như gas và khí đốt trong những tháng đầu
năm cũng tăng lên làm CPI bình quân nhóm Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng
4,11% so với cùng kỳ.
24
Nguồn: Tổng cục thống kê
0
10
20
30
40
50
60
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
CPI THUỐC & DỊCH VỤ Y TẾ
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)
Thuốc và dịch vụ Y tế
CPI toàn phần
0
10
20
30
40
50
60
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
CPI GIÁO DỤC
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)
Giáo dục
CPI toàn phần
-20
-15
-10
-5
0
5
10
15
20
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
CPI GIAO THÔNG VÀ NHÀ Ở VLXD
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)
Giao thông
Nhà ở và VLXD
-6
-4
-2
0
2
4
6
01
/20
15
03
/20
15
05
/20
15
07
/20
15
09
/20
15
11
/20
15
01
/20
16
03
/20
16
05
/20
16
07
/20
16
09
/20
16
11
/20
16
01
/20
17
03
/20
17
05
/20
17
CPI LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
Lương thực
Thực phẩm
Ăn uống ngoài gia đình
Bên cạnh đó, diễn biến của CPI tổng thể cũng bị chi phối bởi đà giảm giá của
nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống - nhóm chiếm tỷ trọng cao nhất trong rổ
hàng hoá tính CPI. Quan sát dữ liệu thống kê cho thấy tất cả các nhóm ngành
nhỏ trong nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống đều có xu hướng giảm hoặc tăng
chậm lại. Trong đó đáng chú ý là giá Thực phẩm giảm rất mạnh do dư thừa
nguồn cung và không thể tiêu thụ qua xuất khẩu nhiều như những năm trước.
Ngoài ra, giá nhiều sản phẩm nông nghiệp khác như rau củ quả, hàng nông sản,
trứng, … cũng ở mức thấp. Qua 6 tháng đầu năm, CPI bình quân Hàng ăn và
dịch vụ ăn uống giảm 0,51% (trong đó: Lương thực tăng 1,39%; Ăn uống ngoài
gia đình tăng 1,65%; riêng Thực phẩm có giảm 1,74% so với cùng kỳ năm
trước).
Mặc dù có dấu hiệu chững lại trong 6 tháng đầu năm, nhưng trong 6 tháng cuối
năm khả năng lạm phát tăng cao trở lại vẫn luôn tiềm ẩn.
25
Nguồn: IMF
Một số chính sách quan trọng về điều tiết giá cả được ban hành trong tháng 6 năm 2017
1/ Nghị quyết 51/NQ-CP ngày 19/6/2017 Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 07-NQ/TW ngày 18/112016 của Bộ Chính trị về Chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước,
quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.
2/ Công văn số 4881/BCT-TTTN ngày 05/6/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: tăng 303 đồng/lít; Xăng E5: tăng 283 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: tăng
225 đồng/lít; Dầu hỏa: tăng 326 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: tăng 139 đồng/kg.
3/ Công văn số 5430/BCT-TTTN ngày 20/6/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: giảm 862 đồng/lít; Xăng E5: giảm 805 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S:
giảm 650 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 738 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 369 đồng/kg.
3. Thu chi ngân sách Nhà nước
0
20
40
60
80
100
120
140
160
GIÁ HÀNG HÓA THẾ GIỚI
GIAI ĐOẠN 2015 - 2017
Chỉ số giá hàng hóa chung
Chỉ số giá hàng hóa phi năng lượng
020406080
100120140160180
CHỈ SỐ GIÁ CẢ MỘT SỐ
HÀNG HÓA THẾ GIỚI
Dầu thôNăng lượng
Lương thực, thực phẩm (không bao gồm đồ uống)
Nguyên liệu thô (nông nghiệp)
Thu NSNN đã có
nhiều cải thiện trong
khi chi đầu tư phát
triển đang gặp nhiều
khó khăn
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2017 ước
tính đạt 500,9 nghìn tỷ đồng, bằng 41,3% dự toán năm, trong đó thu nội
địa 399,1 nghìn tỷ đồng, bằng 40,3%; thu từ dầu thô 21,1 nghìn tỷ đồng,
bằng 55,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 80,6
nghìn tỷ đồng, bằng 44,8%. Như vậy, thu ngân sách 6 tháng đầu năm nay
đã tăng hơn 17% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó thu nội địa đạt mức
tăng 14,42%, thu từ dầu thô tăng 19,2% và thu cân đối ngân sách hoạt
động xuất nhập khẩu tăng 27,9%. Sự gia tăng của kim ngạch xuất nhập
khẩu và việc giá dầu tăng giá trong những tháng trước đó đã góp phần giúp
cải thiện hai nguồn thu quan trọng từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2017 ước
tính đạt 533,4 nghìn tỷ đồng, bằng 38,4% dự toán năm, trong đó chi
thường xuyên đạt 398,9 nghìn tỷ đồng, bằng 44,5%; chi trả nợ lãi 50 nghìn
tỷ đồng, bằng 50,5%; chi trả nợ gốc ước tính đạt 88,1 nghìn tỷ đồng, bằng
53,8% dự toán năm. Riêng chi đầu tư phát triển mới đạt 83,3 nghìn tỷ
đồng, bằng 23,3% dự toán năm.
Như vậy, từ đầu năm đến nay bội chi ngân sách mức bội chi là gần 20
nghìn tỷ đồng, tương đương 43,5% dự toán năm.
26
4. Tình hình doanh nghiệp
So sánh thu NSNN 6 tháng đầu năm 2016 với 6 tháng
đầu năm 2017
So sánh chi NSNN 6 tháng đầu năm 2016 với 6
tháng đầu năm 2017
Nguồn: TCTK
Trong 6 tháng đầu năm, KBNN tổ chức gọi thầu TPCP với các kỳ hạn từ 5
năm cho đến 30 năm. Trong đó, hầu hết các TPCP kỳ hạn dài đã vượt kế
hoạch đề ra. Lãi suất TPCP kỳ hạn 5-7 năm nằm trong khoảng từ 4,9% -
5,55%/năm; lãi suất TPCP kỳ hạn từ 10-15 năm nằm trong khoảng từ
5,65% - 7,25%/năm và lãi suất TPCP kỳ hạn từ 20-30 năm nằm trong
khoảng từ 6,67% - 7,97%/năm.
Kết quả huy động trong 6 tháng đầu năm cho thấy tỷ lệ TPCP trúng thầu
đạt tỷ lệ cao với kỳ hạn 15 năm và 20 năm. Kết thúc 6 tháng đầu năm,
KBNN huy động thành công 125.744,66 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ qua
đấu thầu với tổng giá trị gọi thầu là 154.500 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 81,39% - cao
hơn so với tỷ lệ 80,02% của 6 tháng đầu năm 2016, hoàn thành 68,6% kế
hoạch cả năm 2017.
Giá trị trúng thầu qua các kỳ hạn trong tháng 6 năm 2017
Nguồn: hnx.vn
Khu vực doanh
nghiệp tiếp tục
diễn biến tốt
Cả nước có 61.276 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký đạt
596,2 nghìn tỷ đồng - tăng 12,4% về số doanh nghiệp và tăng 39,4% về vốn so
với 6 tháng cùng kỳ năm trước.
Số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng mạnh ở những ngành đang có kết
quả kinh doanh khởi sắc như: Kinh doanh bất động sản có 2.279 doanh nghiệp,
tăng 68,3%; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 679 doanh nghiệp, tăng
37,2%; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 318 doanh nghiệp, tăng 30,9%;
Giáo dục và đào tạo có 1.597 doanh nghiệp, tăng 30,4%. Trong khi đó, xét về
lượng vốn đăng ký kinh doanh hầu hết các ngành còn lại đều có tỷ lệ vốn đăng
ký tăng so với cùng kỳ. Chỉ có có một số ngành giảm bao gồm: Khai khoáng
giảm 68,5%; Thông tin và truyền thông giảm 19,3% và Nông lâm nghiệp, thủy
sản giảm 9,1%.
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
100.00%
120.00%
-
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
5 7 10 15 20 30
Tỷ
đồ
ng
Kỳ hạn
Giá trị trúng thầu Tỷ lệ giá trị trúng thầu/giá trị gọi thầu
27
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
40,000
Quý
I/2016
Quý
II/2016
Quý
III/2016
Quý
IV/2016
Quý
I/2017
Quý
II/2017
SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
Số doanh nghiệp thành lập mớiSố doanh nghiệp hoạt động trở lại
0
50,000
100,000
150,000
200,000
250,000
300,000
350,000
Quý
I/2016
Quý
II/2016
Quý
III/2016
Quý
IV/2016
Quý
I/2017
Quý
II/2017
nghìn tỷ
đồng
VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
7.4%
3.2%
10.0%
4.1%
7.4%
10.7%
10.5%
21.9%
23.1%
15.1%
37.2%
9.7%
10.7%
30.4%
15.1%
30.9%
68.3%
0% 50% 100%
Nghệ thuật, giải trí
Vận tải, kho bãi
Nông, lâm thủy sản
Khai khoáng
Thông tin và truyền thông
Xây dựng
Buôn bán, sửa ô tô xe máy
Dịch vụ việc làm, du lịch
Sản xuất điện, nước, gas
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
Tài chính ngân hàng
CN chế biến chế tạo
Khoa học công nghệ
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động dịch vụ khác
Y tế và trợ giúp xã hội
Kinh doanh BĐS
TỶ LỆ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP MỚI
6 THÁNG ĐẦU NĂM
163.9%
-5.5%
-9.1%
-68.5%
-19.3%
45.3%
58.2%
111.0%
37.1%
100.4%
50.3%
57.1%
19.2%
101.9%
0.7%
81.9%
42.2%
-100% 0% 100% 200%
Nghệ thuật, giải trí
Vận tải, kho bãi
Nông, lâm thủy sản
Khai khoáng
Thông tin và truyền thông
Xây dựng
Buôn bán, sửa ô tô xe máy
Dịch vụ việc làm, du lịch
Sản xuất điện, nước, gas
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
Tài chính ngân hàng
CN chế biến chế tạo
Khoa học công nghệ
Giáo dục và đào tạo
Hoạt động dịch vụ khác
Y tế và trợ giúp xã hội
Kinh doanh BĐS
TỶ LỆ VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
6 THÁNG ĐẦU NĂM
56.324
17
2.7
TỶ LỆ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP
MỚI 6 THÁNG ĐẦU NĂM (%)
Công ty TNHH 1 TV Công ty TNHH 2 TV
Công ty cổ phần Doanh nghiệp tư nhân
35
19.7
45
0.3
TỶ LỆ VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
MỚI 6 THÁNG ĐẦU NĂM (%)
Công ty TNHH 1 TV Công ty TNHH 2 TV
Công ty cổ phần Doanh nghiệp tư nhân
Số lượng doanh nghiệp mới và số vốn gia tăng mạnh nhất vào Quý II/2017,
trong đó đáng chú ý là quy mô của doanh nghiệp đã mở rộng, lượng vốn đăng
ký bình quân đạt 9,7 tỷ đồng trên một doanh nghiệp - tăng 24,3% so với cùng
kỳ năm trước.
28
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
5. Tình hình lao động việc làm
Nguồn: TCTK
Về tình hình giải thể và tạm ngừng kinh doanh, trong 6 tháng đầu năm nay số
doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trên cả nước là 5.443 doanh nghiệp -
giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 17%) trong đó
chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 92,2%.
Ngược lại, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động có thời hạn và tạm ngừng
đăng ký kinh doanh trong 6 tháng đầu năm nay tăng so với cùng kỳ, cho thấy
khi thị trường kinh doanh càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng cao và mức
độ sàng lọc của thị trường cũng mạnh mẽ hơn.
Lực lượng lao
động trên 15 tuổi
gia tăng
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trên cả nước tính đến thời điểm 1/7/2017
là khoảng 54,5 triệu người - tăng 0,16 triệu người so với cùng kỳ năm 2016.
Trong đó khu vực khu vực nông thôn chiếm 67,9% với 37 triệu lao động, khu
vực thành thị chiếm 32,1% tương đương 17,5 triệu người.
Trong số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, số lao động có việc làm là 53,4
triệu người (chiếm 97,98%) - bao gồm 21,6 triệu người đang làm việc ở khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (40,4%); khu vực công nghiệp và xây dựng
13,6 triệu người (25,6%) và khu vực dịch vụ 18,2 triệu người (34%). Phân bổ
lao động trong các khu vực của nền kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng
giảm dần lao động trong khu vực nông lâm nghiệp thủy sản và tăng số lượng
lao động ở khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ.
29
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nguồn: TCTK
III. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN
Một số chính sách quan trọng trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng trong tháng 6 năm 2017
1/ Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
2/ Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg ngày 12/6/2017 quy định về hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi
mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ.
3/ Quyết định 23/2017/QĐ-TTg ngày 22/6/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 246/2006/QĐ-
TTg ngày 27/10/2006 về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã (HTX) và ban hành Quy chế hoạt động
bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.
4/ Thông tư 03/2017/TT-NHNN ngày 06/6/2017 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 16/2012/TT-
NHNN ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số điều của
Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
5/ Thông tư 05/2017/TT-NHNN ngày 30/6/2017 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2016/TT-
NHNN ngày 26 tháng 02 năm 2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội dung
về quản lý ngoại hối đối với việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp.
42.2
24.4
33.4
LAO ĐỘNG TRÊN 15 TUỔI
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016 (%)
Nông lâm nghiệp thủy sảnCông nghiệp và xây dựngDịch vụ
40.4
25.6
34
LAO ĐỘNG TRÊN 15 TUỔI
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017 (%)
Nông lâm nghiệp thủy sảnCông nghiệp và xây dựngDịch vụ
Tỷ lệ thất nghiệp
và thiếu việc làm
tăng nhẹ
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động 6 tháng đầu năm nay
tăng nhẹ với cùng kỳ năm trước, ở mức 2,28% so với mức 2,27 % của cùng
thời điểm so sánh vào năm ngoái. Tuy nhiên xu hướng thất nghiệp và thiếu việc
làm đã giảm nhẹ qua các quý.
Điểm chú ý là tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi thanh niên (từ 15-24 tuổi) đã tăng
ở mức cao trong Quý II – tăng cao nhất trong 5 quý gần đây. Trong đó tỷ lệ này
ở khu vực thành thị là 11,98% - cao gấp đôi so với khu vực nông thôn chỉ là
5,79%.
30
Diễn biến lãi suất huy động bình quân của Khối
NHTM Nhà nước
Diễn biến lãi suất huy động bình quân Khối
NHTM Cổ phần
Nguồn: Tổng hợp
25 BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Argribank
Lãi suất huy
động đã tăng phù
hợp ở các kỳ hạn
dài
Trong 6 tháng đầu năm, xu hướng tăng của lãi suất huy động cũng đã hình
thành ngay trong quý I. Tuy nhiên xu hướng tăng của các kỳ hạn ngắn gần như
chỉ xuất hiện trong 3 tháng đầu năm, trong khi đó lãi suất huy động kỳ hạn dài
trên 12 tháng diễn ra khá liên tục. Diễn biến tăng của lãi suất huy động không ồ
ạt, diễn ra rải rác trong khối các NHTM qua các tháng, bắt đầu từ các NHTM
CP nhỏ và gần đây mới xuất hiện tại các NHTM CP lớn. Thực tế này nếu xét
trên tổng thể của thị trường tiền tệ không phản ánh hình thành áp lực tăng chí
phí lãi suất trong tương lai. Xu hướng này là một sự điều chỉnh cần thiết theo
nhu cầu của thị trường, đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM, tránh rủi ro kỳ hạn. Kết thúc tháng 6 mặt bằng lãi suất
huy động VND ngắn hạn so với thời điểm đầu năm đã tăng nhẹ khoảng 0,01%
đối với khối NHTM Nhà nước25, tăng từ 0,02% - 0,07%/năm đối với khối
NHTM Cổ phần. Và lãi suất huy động kỳ hạn dài trên 12 tháng đã tăng trong
khoảng từ 0,02% - 0,05%/năm đối với khối NHTM Nhà nước và trong khoảng
từ 0,09% - 0,12%/năm đối với khối NHTM Cổ phần. Hiện tại, lãi suất không kỳ
hạn phổ biến trong khoảng từ 0,2% - 1%/năm ở cả hai khối NHTM Nhà nước
và NHTM Cổ phần, lãi suất huy động VND có kỳ hạn phổ biến trong khoảng từ
4,8% - 7,5%/năm đối với khối NHTM Nhà nước và trong khoảng từ 5% -
8%/năm đối với khối NHTM Cổ phần.
Lãi suất cho vay
vẫn tiếp tục duy
trì xu hướng ổn
định
Lãi suất cho vay VND đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-7%/năm đối với
ngắn hạn, các NHTM nhà nước áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ
biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn;
9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình
tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.
Tuy nhiên, lãi suất cho vay USD đã giảm 0,1%/năm đối với tất cả các kỳ hạn.
Theo đó, lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 2,8-6,0%/năm; trong đó lãi suất
cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8-4,7%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn
ở mức 4,7-6,0%/năm.
Lãi suất liên
ngân hàng diễn
biến thuận lợi
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2017 có xu hướng
giống với nửa đầu năm 2016, lãi suất tất cả các kỳ hạn đều có xu hướng tăng
trong quý I và giảm liên tục trong quý II. Diễn biến tăng, giảm diễn ra rõ nét
31
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng qua 6 tháng đầu
năm (%)
Doanh số giao dịch liên ngân hàng 6 tháng đầu
năm (tỷ đồng)
Nguồn: NHNN
26 Ngày 09/01/2017 nâng giá mua USD từ 22.300 lên 22.575 VND/USD; Ngày 11/4/2017 nâng giá mua USD từ 22.575 lên 22.675
VND/USD; Ngày 19/6/2017 nâng giá mua USD từ 22.675 lên 22.725 VND/USD.
nhất ở các kỳ hạn ngắn (qua đêm, 01 tuần) và gần như không có sự thay đổi ở
kỳ hạn dài. Xu hướng này cũng phản ánh tình trạng thanh khoản khá ổn định
trong hệ thống và hỗ trợ cho các ngân hàng trong việc nỗ lực giảm lãi suất tín
dụng trong tình hình hiện nay. Hiện lãi suất qua đêm giao dịch ở mức
1,47%/năm; 1 tuần ở mức 1,84%/năm; 1 tháng ở mức 3,37%/năm; 3 tháng ở
mức 4,36%/năm và 6 tháng là 5,5%/năm.
Diễn biến cặp tỷ
giá VND/USD ổn
định, phù hợp
với diễn biến
trong nước và
quốc tế
Trong 6 tháng đầu năm, diễn biến của tỷ giá trung tâm, tỷ giá giao dịch trong
nền kinh tế không phản ánh áp lực đầu cơ như giai đoạn trước, đặc biệt vào
những thời điểm có sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn, cụ thể như vào
thời điểm Fed công bố tăng lãi suất trong tháng 6, giá USD bán ra của các ngân
hàng ổn định quanh mức 22.720 VND/USD; trên thị trường tự do thậm chí còn
giao dịch ở mức giá thấp hơn, khoảng 22.705 VND/USD.
Bên cạnh những yếu tố khách quan thuận lợi (cung cầu thị trường ổn định,
nguồn cung dồi dào,…), kết quả đó tiếp tục phản ánh những nỗ lực của NHNN
trong công tác quản lý ngoại hối hướng tới sự ổn định của thị trường, trong đó
đặc biệt phải kể đến cơ chế tỷ giá trung tâm đã giúp giảm dần sự phụ thuộc vào
một đồng tiền mạnh, hạn chế các cú sốc từ bên ngoài.
Sau 6 tháng đầu năm, tỷ giá trung tâm đã được điều chỉnh tăng liên tục qua các
tháng với tổng mức tăng là 1,23% so với đầu năm 2017, tăng hơn 500 VND so
với mức tỷ giá trung tâm lần đầu tiên được NHNN công bố vào tháng 1/2016.
Diễn biến tỷ giá trung tâm có phần hơi khác với xu hướng của đồng USD trên
thị trường quốc tế, tuy nhiên đây được xem là động thái chủ động đón đầu
những tác động điều chỉnh chính sách của các nước lớn. Ngoài ra, để hạn chế
những ảnh hưởng về tâm lý đến diễn biến của thị trường, từ đầu năm đến nay,
sở giao dịch của NHNN cũng đã 03 lần điều chỉnh nâng giá mua đô la (tháng 1,
4, 6 tăng từ 22.300 VND/USD hồi đầu năm lên 22.725 VND/USD)26 nhằm hỗ
trợ ngăn đà giảm mạnh của tỷ giá, có ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động thương
mại, đồng thời áp dụng giá bán thấp hơn trần biên độ với mục đích phát tín hiệu
sẵn sàng cung ứng nguồn cho thị trường. Tính đến cuối tháng 6, tỷ giá trung
tâm ở mức 22.431 VND/USD.
Trước sự chủ động của NHNN, diễn biến của tỷ giá giao dịch tại các NHTM và
32
trên thị trường tự do khá thuận lợi, không có diễn biến căng thẳng kể cả những
thời điểm mang tính quy luật hoặc những thay đổi khách quan trên thị trường
tiền tệ thế giới, diễn biến cùng xu hướng với đồng USD trên thị trường quốc tế,
giảm lần lượt là 0,07 và 1,32 so với đầu năm. Trong đó, tỷ giá giao dịch của các
NHTM tăng 02 tháng vào tháng 2, tháng 6 và tỷ giá giao dịch trên thị trường tự
do mới tăng trở lại trong tháng 6. Nhìn chung trong nửa đầu năm, tỷ giá có biến
động trong một số thời điểm, nhưng không kéo dài và không lớn. Trong 3 tháng
gần đây, tỷ giao dịch chiều bán của các NHTM diễn biến ổn định quanh mức
22.700 – 22.770 VND/USD và trên thị trường tự do là 22.690 – 22.800
VND/USD, chênh lệch tỷ giá bán trên hai thị trường đã đảo chiều mạnh từ mức
hơn 300 đồng hồi đầu năm xuống mức -10 đồng vào thời điểm cuối tháng 6.
Diễn biến tỷ giá VND/USD trong 6 tháng đầu năm 2017
Nguồn: NHNN
Giá vàng biến
động thấp hơn
rất nhiều so với
giá vàng quốc tế
Diễn biến của giá vàng trong nửa đầu năm nay đã hạ nhiệt rất nhiều so với
cùng thời điểm năm 2016. Mặc dù về cơ bản xu hướng của giá vàng trong nước
khá trùng hợp với giá vàng trên thị trường quốc tế qua các tháng, tuy nhiên do
tốc độ thay đổi ở mức thấp, thậm chí có thời điểm giá vàng trong nước không
biến động ngay cả khi giá vàng thế giới tăng khá mạnh nên hết 6 tháng giá vàng
trong nước theo chiều bán ra đã giảm nhẹ ở mức 0,59%. Khác với năm ngoái,
diễn biến của giá vàng trong nước không có được sự hỗ trợ từ lực cầu đầu tư
của thị trường, nhu cầu vàng cho mục đích kinh doanh ở mức thấp, chủ yếu là
các giao dịch nhỏ lẻ của người dân. Tính từ đầu năm, thị trường vàng trong
nước chỉ có một đợt tăng giá kéo dài 2-3 ngày trong quý I (vào thời điểm ngày
vía Thần tài hồi đầu năm và những bất ổn chính trị trên thế giới), vào thời điểm
này, vàng đã có lúc giao dịch ở mức 38 triệu đồng/lượng, nhưng sau đó nhanh
chóng xuống ngưỡng 36 – 37 triệu đồng/lượng. Kết thúc tháng 6, giá vàng trong
nước chốt giao dịch ở mức 36,16 – 36,38 triệu đồng/lượng, chênh lệch giữa giá
vàng trong nước và giá vàng thế giới giảm khoảng một nửa so với thời điểm
đầu năm, hiện là 2,228 triệu đồng/lượng.
33
Diễn biến giá vàng trong nước trong 6 tháng đầu
năm 2017
Diễn biến giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế
quy đổi ra VNĐ
Nguồn: sjc.com.vn
Nguồn: UBCKNN
276 tháng đầu năm 2016: VN-Index tăng 9,19% và HNX-Index tăng 5,95% so với cuối năm 2015.
0
2000
4000
6000
8000
600
640
680
720
760
800
3/1
/201
7
12
/1/2
…
23
/1/2
…
8/2
/201
7
17
/2/2
…
28
/2/2
…
9/3
/201
7
20
/3/2
…
29
/3/2
…
10
/4/2
…
19
/4/2
…
28
/4/2
…
11
/5/2
…
22
/5/2
…
31
/5/2
…
9/6
/201
7
20
/6/2
…
29
/6/2
…
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017 Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HOSE
0
200
400
600
800
1000
1200
75
80
85
90
95
3/1
/201
711
/1/2
…19
/1/2
…3/2
/201
713
/2/2
…21
/2/2
…1/3
/201
79/3
/201
717
/3/2
…27
/3/2
…4/4
/201
713
/4/2
…21
/4/2
…3/5
/201
711
/5/2
…19
/5/2
…29
/5/2
…6/6
/201
714
/6/2
…22
/6/2
…30
/6/2
…
tỷ đồng
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017Giá trị giao dịch (tỷ đồng)
Chỉ số HNX
0
200
400
600
800
1000
01
/2016
01
/2016
03
/2016
03
/2016
04
/2016
05
/2016
06
/2016
07
/2016
08
/2016
09
/2016
10
/2016
11
/2016
12
/2016
12
/2016
02
/2017
03
/2017
03
/2017
04
/2017
05
/2017
06
/2017
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE 2016 - 2017
Chỉ số HOSE
0
20
40
60
80
100
120
01
/2016
01
/2016
03
/2016
03
/2016
04
/2016
05
/2016
06
/2016
07
/2016
08
/2016
08
/2016
09
/2016
10
/2016
11
/2016
12
/2016
01
/2017
02
/2017
03
/2017
03
/2017
04
/2017
05
/2017
06
/2017
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX 2016 - 2017
Chỉ số HNX
TTCK Việt Nam
diễn biến khởi
sắc trong 6 tháng
đầu năm
Chỉ số VN-Index và chỉ số HNX-Index đều có sự tăng trưởng vượt bậc trong
nửa đầu năm. Cụ thể, chỉ số VN-Index kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của
tháng 6/2017 ở mức 776,47 điểm - tăng 16,8% so với đầu năm 2017. Trong khi
đó, HNX-Index tăng 23,7% lên mức 99,14 điểm. Mặc dù có thời điểm thị
trường sụt giảm nhẹ trong tháng 4 nhưng xu hướng tăng điểm được duy trì qua
cả hai Quý. So với thời điểm 6 tháng cùng kỳ năm trước27, mức tăng trưởng này
là rất ấn tượng và cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.
34
Nguồn: Bloomberg
Nguồn: UBCK
Với kết quả này, Việt Nam đã vượt qua nhiều quốc gia và vươn lên trở thành thị
trường chứng khoán có mức tăng trưởng tốt nhất Đông Nam Á và là một trong
số những thị trường tăng trưởng cao trong khu vực châu Á.
Trong 6 tháng đầu năm, lượng thanh khoản tăng rất mạnh trên thị trường, tổng
khối lượng giao dịch trên thị trường trong 6 tháng đầu năm là khoảng 28.640
triệu cổ phiếu, với tổng giá trị giao dịch đạt 531,8 nghìn tỷ đồng – tăng 32,4%
về khối lượng và 57% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Nếu như trong năm
2016 giá trị giao dịch bình quân đạt khoảng 2.400 tỷ đồng mỗi phiên thì riêng
trong nửa đầu năm 2017, giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đã đạt gần gần
4.000 tỷ đồng.
Trong đà tăng của thị trường, nhóm các cổ phiếu có vốn hoá lớn và Bluechips
vẫn giữ vai trò chủ yếu. Trong đó có thể kể đến nhiều cổ phiếu lớn ngành Ngân
hàng như: MBB, ACB, BID, CTG, STB đã tăng mạnh trong 6 tháng qua nhờ
kết quả kinh doanh khởi sắc và tác động tích cực của các chính sách liên quan
đến công tác xử lý nợ xấu. Song song với sự khởi sắc của nhóm Ngân hàng là
nhóm cổ phiếu dịch vụ Tài chính nói chung như Chứng khoán (SSI, VCSC) và
Bảo hiểm (BVH). Bên cạnh đó, những cổ phiếu thuộc các ngành Tiêu dùng &
35
Nguồn: UBCK
IV. TRIỂN VỌNG KINH TẾ VĨ MÔ CUỐI NĂM 2017
-150
-100
-50
0
50
100
150
200
250
300
350
tỷ đồng
KHỐI NGOẠI MUA - BÁN RÒNG
TRÊN HNX GIAI ĐOẠN 2016 - 2017
bán lẻ (VNM, MSN, …); Xây dựng & Bất động sản (VIC, NVL, HBC,
HPG,…) tiếp tục tăng trưởng tốt. Đà tăng của thị trường còn có đóng góp của
nhóm cổ phiếu vốn hoá nhỏ và trung bình trong Quý I, tuy nhiên lực đẩy của
nhóm cổ phiếu này đã chững lại trong Quý II.
Diễn biến khởi sắc của thị trường phải kể đến đóng góp từ hoạt động của các
nhà đầu tư nước ngoài. Sau trạng thái rút ròng rất mạnh vào cuối năm ngoái,
khối ngoại đã mua ròng trở lại với giá trị rất lớn, tổng giá trị mua ròng 6 tháng
đầu năm 2017 trên cả 2 sàn đạt trên 9.000 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay.
Trong đó nhà đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành Tiêu dùng bán
lẻ, Xây dựng và vật liệu xây dựng và các nhóm ngành liên quan khác.
Trên sàn HOSE, khối ngoại mua ròng liên tục qua cả 6 tháng, trong đó lượng
mua ròng bắt đầu tăng vọt kể từ tháng 3. Tổng giá trị mua ròng trên HOSE đạt
8.800 tỷ đồng, tập trung ở các cổ phiếu VNM (mua ròng 4.345 tỷ đồng), sau đó
là các cổ phiếu thuộc nhóm Xây dựng & VLXD: HPG (1.023 tỷ đồng), ROS
(1.007 tỷ đồng). Bên cạnh đó, nhiều cổ phiếu mới niêm yết cũng thu hút được
lượng mua ròng lớn từ khối ngoại như: PLX (987,7 tỷ đồng); SAB (416,6 tỷ
đồng); VJC (407,6 tỷ đồng).
Trên sàn HNX, mặc dù khối ngoại mua ròng trong 4 tháng và bán ròng trong 2
tháng nhưng tổng giá trị giao dịch vẫn đạt trạng thái mua ròng với giá trị 218 tỷ
đồng. Trong đó tập tập trung ở các cổ phiếu: VGC (158,4 tỷ đồng); HUT (85 tỷ
đồng) và DBC (53,3 tỷ đồng).
Xuất phát từ các diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến tài chính, tiền tệ trong 6
tháng đầu năm có thể nhận thấy, mặc dù đã có được những vùng sáng nhất định
nhưng chưa đủ để có thể làm dịu đi những áp lực. Diễn biến của kinh tế trong
nước từ nay đến cuối năm, để có thể đạt được mục tiêu GDP mà Quốc hội đặt ra
cho năm 2017 ở mức 6,7% sẽ là một nhiệm vụ đầy thử thách, đặc biệt là trong
bối cảnh sự phục hồi đang diễn ra trên diện rộng với những tín hiệu ngày càng
rõ rệt của các nền kinh tế trên thế giới.
36
28 Tính đến 20/6/2017, tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đạt 7,54%.
Quan sát từ đầu năm đến nay, có thể nhận thấy Việt Nam đã khá chủ động trong
việc đón nhận và phòng vệ những tác động của kinh tế thế giới. Tuy nhiên các
giải pháp để vượt qua vẫn còn nhiều vấn đề cần thảo luận, ví dụ như động lực
cho tăng trưởng kinh tế cán đích là nhóm ngành nào; môi trường kinh doanh đã
được cải thiện nhưng làm thế nào để khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng,
đầu tư, sản xuất kinh doanh; làm thế nào để kích cầu mạnh hơn nữa, đặc biệt
trong điều kiện giá giảm, khu vực nước ngoài có nhiều dấu hiệu thu hẹp,….
Điều đó cũng có nghĩa là tăng trưởng kinh tế trong thời gian còn lại sẽ phụ
thuộc mạnh mẽ vào nội lực của nền kinh tế, cụ thể là khu vực sản xuất. Vì vậy,
từ nay đến hết năm, nền kinh tế vẫn phải cẩn trọng với những áp lực cả từ bên
trong và bên ngoài với những tâm điểm đáng chú ý như sau:
1/ Những quyết định còn bỏ ngỏ trong chính sách thương mại toàn cầu, trong đó
vai trò then chốt vẫn thuộc về nước Mỹ. Nếu các chính sách bảo trợ thương mại
của Chính quyền tổng thống Trump có đủ hiệu lực thực thi và có sức lan tỏa
trên toàn cầu sẽ tác động mạnh mẽ lên các đối tác có quan hệ thương mại với
Mỹ. Và không chỉ dừng ở vấn đề giá trị cán cân thương mại của Mỹ với các đối
tác mà nó còn có thể dẫn đến một cuộc chiến ngầm về tỷ giá để bảo vệ lợi ích
thương mại của các bên, vấn đề này sẽ đặc biệt ảnh hưởng tới công tác điều
hành CSTT bảo vệ ổn định giá trị đồng tiền của những nước có gắn kết chặt chẽ
với đồng USD như Việt Nam.
2/ Tốc độ tăng trưởng GDP mặc dù đã có cải thiện giữa quý I và quý II nhưng
vẫn ở mức thấp, một trong những lĩnh vực giữ vai trò trọng yếu là Công nghiệp,
xây dựng đang có đà tăng trưởng thấp so với những năm gần đây, khó khăn
không chỉ diễn ra trong một nhóm ngành mà đã diễn ra trên tất cả các ngành
thuộc khu vực này. Trong đó đáng chú ý là xu hướng diễn biến xấu của nhóm
ngành khai thác mặc dù giá cả hàng hóa năng lượng đã có sự phục hồi nhất định
so với cùng thời điểm những năm trước.
Bên cạnh đó, mặc dù lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã lấy lại đà
tăng trưởng trong thời gian trước, tuy nhiên đà tăng này có thể sẽ chững lại khi
mà nguy cơ bất ổn thời tiết, bệnh dịch vẫn đang rình rập; giá nông sản, thực
phẩm cả trong nước và thế giới đều giảm, đặc biệt là giá thịt lợn tác động tiêu
cực tới chăn nuôi, cơ cấu nông nghiệp theo định hướng hiệu quả cao vẫn còn
hạn chế, chưa có giải pháp cụ thể đối với các khu vực chịu tác động bất lợi của
môi trường biển, thị trường tiêu thụ gắn với ngành hàng trong nước chưa phát
triển… sẽ tạo ra thách thức tới mục tiêu tăng trưởng năm 2017.
3/ Diễn biến tiền tệ, ngân hàng hiện tại vẫn ổn định, diễn biến của thị trường
khá chủ động trước những tác động từ bên ngoài và phù hợp với nhu cầu của
nền kinh tế. Theo đó, tỷ giá điều hành chủ động, không tạo áp lực và rủi ro bất
ổn, lãi suất, tín dụng28 diễn biến thuận lợi, bám sát các mục tiêu đặt ra. Mặc dù
vậy, từ nay đến cuối năm không thể chủ quan đối với những thách thức từ bên
trong và bên ngoài có thể làm gia tăng áp lực trong công tác điều hành tỷ giá
cũng như những diễn biến bất ổn có thể xảy ra. Cụ thể đó là những quyết sách
lớn về điều hành CSTT của Mỹ, EU, Trung Quốc, trong đó đặc biệt là các quyết
sách ECB trước tín hiệu phục hồi mạnh mẽ của Châu Âu có thể có nhiều yếu tố
37
Dự báo của một số tổ chức về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2017
Các chỉ tiêu Trung tâm Thông tin và dự
báo kinh tế xã hội quốc gia
Ủy ban giám sát tài chính
quốc gia
Tăng trưởng kinh tế 6,5% 6,5 – 6,7%
Lạm phát 4% 2,4%
Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội 34% -
Tăng trưởng tín dụng 18% -
Nguồn: Tổng hợp từ các tổ chức
bất ngờ sẽ xảy ra; Tiếp đến là những bất lợi từ tình trạng thâm hụt cán cân
thương mại gia tăng từ đầu năm và khả năng có thể tăng ở mức cao; Lạm phát
đang có xu hướng giảm nhưng xét theo số bình quân hiện đã cao và có thể sẽ
gia tăng mạnh trong 6 tháng tới. Ngoài ra, tín dụng đã gia tăng mạnh trong 6
tháng đầu năm và sẽ còn gia tăng theo xu hướng này trong 6 tháng cuối năm.
Mặc dù room tín dụng của năm là 18% nhưng vẫn cần kiểm soát chặt chẽ dòng
tín dụng để hướng vào khu vực sản xuất, dịch vụ, kiểm soát mạnh mẽ dòng tín
dụng vào bất động sản, nhất là chứng khoán khi mà thị trường này đang bùng
nổ trở lại.