kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2017: những điểm nổi...

37
1 Kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2017: Những điểm nổi bật Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế - Kinh tế thế giới đầu năm 2017 đã có nhiều tín hiệu cải thiện, một số nền kinh tế phát triển đã lấy lại đà tăng trưởng trong khi các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đang tiến những bước vững chắc; - Chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu đã không còn giữ được đà tăng, nhiều nhóm hàng chủ chốt như năng lượng, nông nghiệp thô, kim loại,… đã giảm giá; - Nợ quốc gia đang tăng nhanh trên toàn cầu, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi; Dự trữ ngoại hối ròng trên toàn cầu đã suy giảm; - Thị trường ngoại hối 6 tháng đầu năm 2017 nhìn chung không có biến động mạnh: đồng USD có xu hướng giảm là chủ đạo và các đồng tiền mạnh tại khu vực Châu Âu, Châu Á đều tăng giá so với đồng bạc xanh; - Giá vàng tiếp tục tăng nhưng xu hướng đi xuống đã xuất hiện vào Quý II; - TTCK toàn cầu diễn biến tích cực; - 37 NHTW đã thay đổi lãi suất điều hành trong nửa đầu năm 2017. Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước - Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm chưa được như kỳ vọng, đáng chú ý là tăng trưởng khu vực công nghiệp – xây dựng đã đạt mức thấp nhất trong 3 năm gần đây; - Chỉ số Nhà quản trị mua hàng - PMI mặc dù luôn nằm ở vùng mở rộng nhưng diễn biến không ổn định qua các tháng; - Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng là động lực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế về phía cầu; - Vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục gia tăng trong đó nổi bật là vốn đầu tư từ khu vực tư nhân; - Tốc độ tăng vốn FDI thu hút có xu hướng giảm sút trong 5 tháng đầu năm và mới tăng mạnh trở lại trong tháng 6; - Kim ngạch xuất nhập khẩu đều đạt mức tăng trưởng tốt, cán cân thương mại quay trở lại nhập siêu; - Lạm phát bình quân đã có chiều hướng giảm dần qua từng tháng; - Lãi suất huy động đã tăng phù hợp ở các kỳ hạn dài, lãi suất cho vay tiếp tục duy trì xu hướng ổn định, lãi suất liên ngân hàng diễn biến thuận lợi; - Diễn biến tỷ giá VND/USD ổn định, phù hợp với diễn biến trong nước và quốc tế; - Giá vàng biến động thấp hơn nhiều so với giá vàng quốc tế; - TTCK Việt Nam nằm trong top 3 các thị trường tăng trưởng mạnh nhất trong khu vực.

Upload: others

Post on 08-Sep-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

Kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2017: Những điểm nổi bật

Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế

- Kinh tế thế giới đầu năm 2017 đã có nhiều tín hiệu cải thiện, một số nền kinh tế phát triển đã lấy

lại đà tăng trưởng trong khi các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đang tiến những bước vững

chắc;

- Chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu đã không còn giữ được đà tăng, nhiều nhóm hàng chủ chốt như

năng lượng, nông nghiệp thô, kim loại,… đã giảm giá;

- Nợ quốc gia đang tăng nhanh trên toàn cầu, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển và mới

nổi; Dự trữ ngoại hối ròng trên toàn cầu đã suy giảm;

- Thị trường ngoại hối 6 tháng đầu năm 2017 nhìn chung không có biến động mạnh: đồng USD có

xu hướng giảm là chủ đạo và các đồng tiền mạnh tại khu vực Châu Âu, Châu Á đều tăng giá so với

đồng bạc xanh;

- Giá vàng tiếp tục tăng nhưng xu hướng đi xuống đã xuất hiện vào Quý II;

- TTCK toàn cầu diễn biến tích cực;

- 37 NHTW đã thay đổi lãi suất điều hành trong nửa đầu năm 2017.

Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước

- Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm chưa được như kỳ vọng, đáng chú ý là tăng trưởng khu vực

công nghiệp – xây dựng đã đạt mức thấp nhất trong 3 năm gần đây;

- Chỉ số Nhà quản trị mua hàng - PMI mặc dù luôn nằm ở vùng mở rộng nhưng diễn biến không

ổn định qua các tháng;

- Hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng là động lực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế về phía

cầu;

- Vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục gia tăng trong đó nổi bật là vốn đầu tư từ khu vực tư nhân;

- Tốc độ tăng vốn FDI thu hút có xu hướng giảm sút trong 5 tháng đầu năm và mới tăng mạnh trở

lại trong tháng 6;

- Kim ngạch xuất nhập khẩu đều đạt mức tăng trưởng tốt, cán cân thương mại quay trở lại nhập

siêu;

- Lạm phát bình quân đã có chiều hướng giảm dần qua từng tháng;

- Lãi suất huy động đã tăng phù hợp ở các kỳ hạn dài, lãi suất cho vay tiếp tục duy trì xu hướng ổn

định, lãi suất liên ngân hàng diễn biến thuận lợi;

- Diễn biến tỷ giá VND/USD ổn định, phù hợp với diễn biến trong nước và quốc tế;

- Giá vàng biến động thấp hơn nhiều so với giá vàng quốc tế;

- TTCK Việt Nam nằm trong top 3 các thị trường tăng trưởng mạnh nhất trong khu vực.

2

I. KINH TẾ THẾ GIỚI

1. Kinh tế thế giới

Một số nền kinh

tế phát triển đã

lấy lại đà tăng

trưởng

Các nền kinh tế

đang phát triển

và mới nổi vẫn

đang tiến những

bước vững chắc

Kinh tế thế giới nửa đầu năm 2017 đã có nhiều tín hiệu cải thiện. Một số nền

kinh tế đầu tàu tiếp tục ghi nhận sự chuyển biến đáng chú ý, hoạt động sản

xuất và thương mại toàn cầu đã lấy lại đà tăng trưởng, niềm tin thị trường

được nâng cao trong khi các điều kiện tài chính cũng diễn biến tương đối

thuận lợi. Mặc dù vậy, nhiều rủi ro vẫn đe dọa đà phục hồi của kinh tế toàn

cầu, trong đó nổi lên là tình hình căng thẳng địa chính trị và những vấn đề

phát sinh xoay quanh sự thay đổi trong định hướng điều hành chính sách của

các quốc gia.

Sự chuyển biến rõ nét trong hoạt

động kinh tế được ghi nhận tại

nhiều quốc gia phát triển, trong đó

nổi bật nhất là tại Nhật Bản và khu

vực EU1 nhờ sự hồi phục của cầu

nội địa và những diễn biến tích

cực của khu vực xuất khẩu. Mặc

dù vậy, nhiều quốc gia không đạt

được mức tăng trưởng như kỳ

vọng. Kinh tế Mỹ mặc dù vẫn duy

trì đà tăng trưởng2 nhưng tốc độ đã

chậm lại đáng kể so với năm 2016

do sự giảm tốc của hoạt động tiêu

dùng trong nước và chi tiêu vốn

trong lĩnh vực năng lượng sụt

giảm. Kinh tế Anh mặc dù vẫn duy trì được mức tăng trưởng dương nhưng

những tác động tiêu cực phát sinh từ sự kiện Brexit đã bắt đầu bộc lộ, đẩy tăng

trưởng kinh tế rơi xuống mức

thấp nhất trong vòng 1 năm qua3.

Bức tranh kinh tế tại nhóm các

nước đang phát triển và mới nổi

ghi nhận những gam màu tươi

sáng. Mức tăng trưởng của nhóm

nước này hiện dao động quanh

ngưỡng 4%, cao hơn mức tăng

trưởng trung bình 3,5% vào cuối

năm ngoái. Sự cải thiện rõ nét

được nhìn thấy tại nhóm các nền

kinh tế chuyên xuất khẩu như

Trung Quốc, Ấn Độ, Nga,

Brazil,…

Với những tín hiệu tích cực đến từ các nền kinh tế, niềm tin của nhà đầu tư

1 Tăng trưởng kinh tế khu vực EU trong quý I ước đạt mức tăng 0,6% so với quý liền trước, cao hơn mức tăng 0,5% của quý trước đó. Trong

khi đó Nhật Bản có quý thứ 5 liên tiếp đạt mức tăng trưởng dương với mức tăng 0,3% so với quý trước. 2 Kinh tế Mỹ quý I năm 2017 chỉ đạt mức tăng trưởng 1,2% so với quý liền trước, thấp hơn mức tăng trưởng 2,1% của quý trước đó. 3 Tăng trưởng kinh tế của Anh trong quý I chỉ ước đạt 0,2% so với quý trước đó, thấp hơn mức tăng trưởng 0,7% của quý cuối năm ngoái.

Diễn biến tăng trưởng kinh tế tại một số nền

kinh tế phát triển

Nguồn: World Bank

Diễn biến tăng trưởng kinh tế tại nhóm các

nền kinh tế đang phát triển và mới nổi

Nguồn: World Bank

3

trong những tháng vừa qua tiếp tục được củng cố, thể hiện qua chỉ số niềm tin

toàn cầu đã liên tục gia tăng từ đầu năm và hiện đang ở mức cao nhất kể từ

Quý II năm 2015 trở lại đây.

Chỉ số niềm tin toàn cầu

Nguồn: IMA report

Hoạt động thương

mại tiếp tục đà

phục hồi từ nửa

cuối năm 2016

Hoạt động thương mại toàn cầu vẫn duy trì được đà tăng trưởng tiếp nối từ

giữa năm 2016. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Ủy ban phân tích chính sách

kinh tế Hà Lan (CBP), tăng trưởng thương mại toàn cầu tính đến tháng 4/2017

đã đạt được mức tăng trưởng 3,4% so với cùng kỳ, mức tăng trưởng tốt nhất

trong vòng 2 năm trở lại đây, góp phần thúc đẩy tăng trưởng giữa các khối

nước.

Tăng trưởng thương mại toàn cầu giai đoạn từ 03/2011 đến 3/2017

Nguồn: CBP Neitherlands Bureau for Economic policy analysis

Chỉ số giá cả hàng

hóa toàn cầu đã

không giữ được đà

tăng

Chỉ số giá cả hàng hóa chung theo thống kê của IMF chỉ duy trì được đà tăng

trong 2 tháng đầu năm và giảm liên tục kể từ tháng 3 trở lại đây. Với diễn biến

như vậy, chỉ số giá cả hàng hóa chung đã giảm nhẹ 0,92% trong quý I và giảm

mạnh gần 6% trong quý II. Tính chung 6 tháng, chỉ số này đã lao dốc 6,58%

và hiện đang ở mức thấp nhất kể từ tháng 9/2016 trở lại đây.

Diễn biến của các nhóm hàng chính cũng bám sát theo diễn biến của chỉ số giá

hàng hóa chung với hầu hết các nhóm hàng như năng lượng, nông nghiệp thô,

kim loại,… đều giảm giá so với cuối năm ngoái, trong đó sự sụt giảm mạnh

mẽ được ghi nhận trong các tháng của quý II. Cụ thể, giá các mặt hàng năng

lượng ghi nhận mức giảm mạnh nhất lên đến 11,86% so với cuối năm trước;

giá các mặt hàng nông nghiệp thô cũng giảm hơn 3% và nhóm hàng kim loại

đã không còn giữ được đà tăng liên tục kể từ cuối năm 2015 khi giảm gần 6%

trong nửa đầu năm.

4

Trên thị trường dầu thô, giá dầu ghi nhận nhiều biến động với những tháng

tăng giá xen kẽ giảm giá, trái ngược với kỳ vọng về sự đi lên ổn định của giá

dầu hồi cuối năm trước. Trong nửa đầu năm, thị trường vẫn chịu áp lực chủ

yếu bởi các yếu tố nguồn cung, trong đó đáng chú ý là sự thất vọng bởi thỏa

thuận cắt giảm sản lượng của OPEC chưa được thực hiện nghiêm túc và sản

lượng dầu tại Mỹ cũng như một số quốc gia ngoài OPEC vẫn tiếp tục gia tăng.

Điều đó đã đẩy giá dầu có những phiên lao dốc mạnh vào giữa tháng 3, đầu

tháng 5 và cuối tháng 6, trong đó có thời điểm giá dầu đã giảm mạnh xuống

dưỡi ngưỡng 43 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 8 năm ngoái trở lại

đây. Như vậy, kết thúc 6 tháng, giá dầu WTI và giá dầu Brent đều giảm khá

mạnh trên 13% so với cuối năm ngoái.

Diễn biến chỉ số giá hàng hóa chung và một số nhóm

hàng cơ bản T1/2016 – T6/2017

Diễn biến giá dầu WTI và giá dầu Brent

T1/2016 – T6/2017

Nguồn: IMF Commodity Price Index

Lạm phát đã gia tăng

trở lại trên toàn cầu

Trong nửa đầu năm 2017, nhiều nền kinh tế đã chứng kiến sự gia tăng trở lại

của lạm phát. Tại Mỹ, lạm phát cơ bản và lạm phát toàn phần đều đã tăng trên

mức mục tiêu 2%. Thậm chí nước Anh đang phải đối mặt với thách thức lạm

phát do dưới tác động của Brexit, lạm phát đã tăng mạnh, liên tục vượt ngưỡng

mục tiêu 2% và nhiều khả năng sẽ tăng lên 3% hoặc cao hơn vào cuối năm

2017. Trong khi đó, tại nhiều nền kinh tế phát triển khác như Nhật Bản và khu

vực EU, lạm phát đã quay trở lại, đẩy lùi nguy cơ giảm phát kéo dài dai dẳng

trong suốt nhiều năm qua.

Tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, lạm phát cũng có chiều hướng

đi lên sau một giai đoạn dài được giữ ổn định. Sự đi lên của lạm phát được ghi

nhận ở cả hai nhóm nước xuất khẩu và nhập khẩu. Đối với các nền kinh tế

định hướng xuất khẩu, sự gia tăng lạm phát là kết quả của những chính sách

kích thích kinh tế trong khi đó đối với các nền kinh tế nhập khẩu, sự gia tăng

lạm phát chủ yếu do tác động muộn từ chuỗi tăng giá cả hàng hóa toàn cầu kéo

dài từ năm ngoái.

Diễn biến lạm phát toàn phần tại một số nền kinh tế

phát triển chủ chốt

Nguồn: Delloite Report

Diễn biến lạm phát toàn phần tại các nền kinh tế đang

phát triển và mới nổi

Nguồn: WB

5

Nợ quốc gia đang có

xu hướng tăng mạnh

tại các nền kinh tế

đang phát triển và

mới nổi, đặc biệt là

nợ của các hộ gia

đình

Tổng số nợ của toàn thế giới đã đạt mức kỷ lục trong quý 1 năm nay, trong đó

đáng chú ý là tốc độ tăng tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi

(EMDEs). Cụ thể, theo số liệu thống kê của Viện tài chính quốc tế IIF, tổng nợ

toàn cầu đã đạt mức 217 nghìn tỷ USD vào cuối tháng 3/2017, tương đương

327% GDP toàn cầu. Mặc dù vậy, sự gia tăng nợ diễn ra không đồng đều giữa

các nhóm nước, tại các nền kinh tế phát triển quy mô nợ có chiều hướng giảm

thì ngược lại nợ tăng nhanh ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi.

Tại các nền kinh tế phát triển, tổng nợ quốc gia tại nhóm nước này trong quý I

đã giảm khoảng 2 nghìn tỷ so với cùng kỳ năm trước, hiện chỉ còn ở mức

khoảng 160 nghìn tỷ USD

Tại các nền kinh tế EMDEs, tổng nợ của nhóm nước này, trừ Trung Quốc, đã

tăng thêm khoảng 5% so với cùng kỳ năm ngoái, tương đương 0,9 nghìn tỷ

USD, lên mức 23,6 nghìn tỷ USD trong quý 1, chủ yếu do nợ tăng ở Brazil

(thêm 0,6 nghìn tỷ USD lên 3,6 nghìn tỷ USD) và ở Ấn Độ (thêm 0,2 nghìn tỷ

USD lên 2,9 nghìn tỷ USD). Trong khi đó, tại Trung Quốc tổng nợ quốc gia đã

vượt 304% GDP tính đến tháng 5/2017. Tính chung cả nhóm các nền kinh tế

EMDEs, tổng nợ của khối này hiện đang ở mức 56 nghìn tỷ USD trong quý I,

tương đương 218% GDP, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong sự gia tăng tổng nợ tại các nền kinh tế EMDEs, nhóm nợ đang gây

nhiều quan ngại nhất là nợ hộ gia đình. Tại nhiều nền kinh tế chủ chốt thuộc

khu vực châu Á, nợ hộ gia đình đã có sự bùng nổ kể từ năm 2008, với tỷ lệ

nợ/thu nhập khả dụng tại nhiều quốc gia như Thái Lan, Malaysia hiện còn cao

hơn mức nợ tại Mỹ trước khi khủng hoảng xảy ra. Trong khi đó tại Trung

Quốc, tỷ lệ nợ hộ gia đình so với GDP của quốc gia này đã đạt mức kỷ lục trên

45% trong quý I/2017, vượt qua tỷ lệ trung bình của thị trường mới nổi là

khoảng 35%.

Thống kê nợ hộ gia đình tại một số quốc gia

Nguồn: Delloite report

2. Điều hành chính sách của NHTW các quốc gia

37 NHTW đã

thay đổi lãi suất

điều hành trong

nửa đầu năm

2017

Trong nửa đầu năm 2017, có 37 NHTW các quốc gia điều chỉnh lãi suất chính

sách, trong đó 20 NHTW đã tiến hành cắt giảm lãi suất và 17 nước tăng lãi suất.

Tại các nền kinh tế phát triển, ngoại trừ Mỹ đã có động thái thắt chặt CSTT rõ

rệt thì hầu như các nền kinh tế chủ chốt khác vẫn chưa có nhiều thay đổi đáng

chú ý. Trong khi đó, tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, xu hướng

điều hành chính sách phân theo 2 chiều hướng khác nhau. Trong khi nhiều quốc

gia như Brazil, Nga, Colombia, Chi lê,... đã nới lỏng chính sách khá mạnh mẽ

với nhiều đợt cắt giảm lãi suất liên tiếp từ đầu năm thì một số quốc gia khác

thuộc châu Phi như Công gô, Ai Cập, Siri Lanka,... vẫn phải tăng lãi suất do áp

lực lạm phát gia tăng và đồng nội tệ mất giá.

6

NHTW Mỹ Fed đã điều chỉnh tăng lãi suất 2 lần chỉ trong vòng 6 tháng đầu

năm 2017, mỗi lần tăng 0,25%, hiện lãi suất chính sách của Fed đang ở mức 1 –

1,25%. Theo kế hoạch thì Fed sẽ tiếp tục có thêm một lần điều chỉnh lãi suất

nữa trong năm 2017. Định hướng thắt chặt chính sách của Fed cũng ngày càng

trở nên rõ ràng hơn khi tổ chức này trong cuộc họp tháng 6 vừa qua đã đưa ra lộ

trình bán 6 tỷ USD trái phiếu kho bạc và 4 tỷ USD trái phiếu có đảm bảo bằng

tài sản thế chấp (MBS) mỗi tháng để thu hẹp dần quy mô bảng cân đối tài sản.

NHTW Anh mặc dù vẫn chưa có động thái điều chỉnh CSTT nhưng trước áp

lực lạm phát gia tăng đang phát đi các tín hiệu về khả năng thắt chặt CSTT

trong những tháng tới.

NHTW châu Âu ECB vẫn duy trì chính sách lãi suất âm với lãi suất tái cấp

vốn ở mức 0%, lãi suất cho vay là 0,25% và lãi suất tiền gửi là -0,4%, đồng thời

duy trì kế hoạch thu mua 60 tỷ Euro/tháng trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp

tới tháng 12/2017 theo chương trình nới lỏng định lượng được triển khai từ

tháng 3/2015. Mặc dù vậy, trong cuộc họp gần đây nhất vào tháng 6, ECB cũng

đã phát đi tín hiệu sẽ ngừng giảm lãi suất và có thể có các động thái thắt chặt

CSTT trong thời gian tới khi các điều kiện kinh tế vĩ mô được đảm bảo.

NHTW Nhật Bản vẫn duy trì quan điểm điều hành chính sách tiền tệ theo

hướng nới lỏng thông qua việc tiếp tục các chương trình nới lỏng định lượng và

định tính để đạt được và duy trì mục tiêu lạm phát 2%. Lãi suất áp dụng đối với

các khoản dư nợ ở các tổ chức tài chính hiện tại ở mức - 0,1%, lãi suất trái

phiếu kỳ hạn 10 năm bị giới hạn ở mức 0%, trong khi tốc độ mua sắm tài sản

vẫn ở mức 80 nghìn JPY (727 tỷ đô la Mỹ) một năm.

NHTW Trung Quốc đưa ra tuyên bố duy trì CSTT thận trọng và trung hòa

trong năm 2017, thể hiện qua 2 đợt điều chỉnh tăng các mức lãi suất cho vay

ngắn hạn và lãi suất cho vay trung dài hạn trên thị trường mở trong 3 tháng đầu

năm 2017. Ngoài ra, PboC còn tiến hành can thiệp vào thị trường thông qua các

đợt bơm hút tiền qua thị trường mở, đặc biệt vào những giai đoạn khi thị trường

cần nhiều thanh khoản như Tết nguyên đán.

3. Diễn biến thị trường ngoại hối, chứng khoán

Thị trường ngoại hối

Thị trường ngoại hối 6 tháng đầu năm 2017 nhìn chung không có biến động

mạnh, diễn biến của các đồng tiền chủ chốt, bên cạnh những tác động từ diễn

biến kinh tế trong nước, tiếp tục bị ảnh hưởng mạnh bởi diễn biến chính trị quan

trọng diễn ra trên toàn cầu. Trải qua 6 tháng đầu năm, đồng USD có xu hướng

giảm là chủ đạo, các đồng tiền mạnh tại khu vực Châu Âu, Châu Á đều tăng giá

so với đồng bạc xanh và vàng đã ghi nhận những diễn biến tốt nhất trong quý I.

Chỉ số USD

index chỉ có 01

tháng tăng điểm

kể từ đầu năm

Bước sang năm 2017, đồng bạc xanh đã không giữ được đà tăng thiết lập sau

kết quả bầu cử của nước Mỹ vào tháng 11 năm ngoái, chỉ số USD đã giảm ngay

từ đầu năm bất chấp những tín hiệu lạc quan của nền kinh tế, phục hồi tăng

trong tháng 2 và giảm liên tiếp trong 4 tháng sau đó. So sánh với cùng kỳ của

năm trước, diễn biến của đồng USD trong 6 tháng đầu năm nay không còn bị

chi phối mạnh bởi những quyết định của Fed về việc cắt giảm lãi suất, mà thay

vào đó là sự tác động của tình hình căng thẳng địa chính trị, những diễn biến

chính trị quan trọng trên thế giới và những quan ngại về tính khả thi của các

chính sách của Chính phủ mới cũng như những lùm xùm cá nhân của ông chủ

nhà trắng – Donald Trump. Những bất ổn đó đã tác động ngay lên diễn biến của

7

đồng USD trên thị trường, trong đó rõ nét nhất là xu hướng giảm liên tiếp của

USD index kể từ tháng 3 cho đến hết tháng 54. Ngoài ra, kỳ vọng về lộ trình

điều chỉnh chính sách của Fed cũng đã có ảnh hưởng đi trước trong diễn biến

của USD index nên xu hướng tăng của đồng bạc xanh thường không kéo dài

hoặc thậm chí không xuất hiện khi chính sách được công bố. Kết thúc 6 tháng

đầu năm, đồng USD đã quay trở lại ngưỡng giá của thời điểm trước khi bầu cử,

giảm 6,72%; hiện giao dịch ở mức 95.42.

Diễn biến chỉ số USD

Nguồn: investing.com

4 Tháng 3 giảm 0,9%; Tháng 4 giảm 1,32%; Tháng 5 giảm 2,07%.

5 Đồng EUR: Tháng 1 tăng 2,68%; Tháng 2 giảm 2,05%; Tháng 3 tăng 0,71%; Tháng 4 tăng 2,3%; Tháng 5 tăng 3,18%; Tháng 6 tăng 1,63%.

Đồng GBP: Tháng 1 tăng 1,95%; Tháng 2 giảm 1,57%; Tháng 3 tăng 1,36%; Tháng 4 tăng 3,2%; Tháng 5 giảm 0,47%; Tháng 6 tăng 1,06%.

EUR và GBP đã

có diễn biến

thuận lợi hơn

thời điểm của

năm ngoái

Ngay từ đầu năm 2017, đồng EUR và GBP đã ghi nhận xu hướng tăng điểm và

gần như duy trì được đà tăng trong phần lớn thời gian 6 tháng đầu năm5. Thực tế

này đã diễn ra trái ngược với những quan ngại về khu vực Châu Âu vào thời

điểm cuối năm 2016. Xu hướng tăng điểm của 2 đồng tiền này thể hiện mạnh

nhất trong quý II.

Những diễn biến chính trị trong khu vực và xung quanh chiến dịch bầu cử tại các

nước lớn như Pháp, Đức, Hà Lan hay những tín hiệu xấu từ khu vực ngân hàng

của Ý, Hy Lạp,…. cũng có ảnh hưởng bất lợi lên diễn biến của hai đồng tiền này

vào một số thời điểm nhất định. Tuy nhiên, xu hướng giảm thường không kéo dài

trước những tín hiệu kinh tế lạc quan chưa từng có trong những năm gần đây và

đà giảm của đồng USD trên thị trường ngoại hối.

Trong quý II, cả đồng EUR và đồng GBP đều ghi nhận những tháng tăng mạnh.

Trước đề nghị tiến hành chiến dịch tổng bầu cử sớm của thủ tướng Theresa May,

đồng GBP đã bỏ qua sự hoài nghi về số phận của nước Anh và những quan ngại

xoay quanh mối quan hệ giữa Anh và EU, ghi nhận tháng tăng điểm tốt vào tháng

4/2017 khoảng hơn 3%, trong đó có ngày đồng GBP/USD đạt 1.2951 – mức cao

nhất kể từ tháng 10 năm ngoái. Bên cạnh đó, kết quả cầu cử của nước Pháp vào

đầu tháng 5/2017 với chiến thắng thuộc về ông Macron – đã làm dịu đi nỗi lo sợ

về chủ nghĩa dân túy sẽ gia tăng tại khu vực Châu Âu đã mang lại một tháng tăng

điểm tốt nhất của đồng EUR kể từ đầu năm, ở mức hơn 3%.

Kết thúc 6 tháng đầu năm, đồng EUR và đồng GBP đã tăng lần lượt là 8,65% và

5,58% so với cuối năm ngoái.

8

6 Quyết định tăng lãi suất tiền gửi trung hạn và lãi suất repo đảo ngược của PBOC vào tháng 2; Bơm vốn qua OMO; Bán USD ra thị trường;

Thay đổi cách tính tỷ giá tham chiếu,….

7 Thắt chặt quản lý đối với hoạt động đầu tư và chuyển tiền ra nước ngoài. Theo đó, các công ty phải xin giấy phép cho các khoản thanh toán

ngoại tệ ra nước ngoài trị giá trên 5 triệu USD, bao gồm cả trả nợ và thanh toán cổ tức; Yêu cầu những người muốn mua lượng lớn ngoại tệ

phải nêu rõ mục đích và cung cấp thông tin bổ sung.

JPY tiếp tục tăng

giá so với đồng

USD, CNY biến

động ổn định,

tăng nhẹ so với

USD

Trong nửa đầu năm 2017, nhìn chung 02 đồng tiền mạnh của khu vực Châu Á

cũng có diễn biến thuận lợi. Theo đó, đồng JPY đã lấy lại xu hướng tăng giá sau

chuỗi giảm kéo dài trong quý IV/2016, xu hướng này duy trì liên tục trong quý I

với tổng mức tăng hơn 4% và duy trì đan xen trong Quý II. Diễn biến tăng của

đồng tiền này tiếp tục được hỗ trợ bởi nhu cầu đầu tư an toàn trước các dấu hiệu

bất ổn của kinh tế, chính trị vào thời điểm đầu năm bên cạnh xu hướng giảm của

đồng bạc xanh. Ngoài ra, những tín hiệu khởi sắc hơn của nền kinh tế cũng đã

chặn được đà giảm của đồng tiền này vào một số thời điểm. Kết thúc 6 tháng,

đồng JPY tăng 3,86%.

Trong khi đó, đồng CNY cũng khởi đầu một năm với xu hướng trái ngược với

diễn biến của đồng tiền này vào cuối năm 2016. Mặc dù đồng CNY cũng ghi

nhận xu hướng tăng giảm đan xen giữa các tháng, tuy nhiên mức độ biến động

tăng đã quyết định xu hướng của đồng tiền này trong 6 tháng đầu năm. Trong số

các đồng tiền mạnh quan sát, đồng CNY là đồng tiền có mức biến động tương đối

thấp và ổn định. Diễn biến này được hỗ trợ bởi công tác điều hành CSTT của

PBOC6 và chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn để kiểm soát các dòng vốn

chảy ra khỏi biên giới Đại Lục7. Đây cũng là những nỗ lực của Chính phủ Trung

Quốc trong lộ trình thực hiện chiến lược quốc tế hóa đồng CNY cũng như khẳng

định cam kết của mình tại hội nghị thượng đỉnh G20 - đó là thực hiện chính sách

đồng tiền định giá thấp tương đối không phải là mục tiêu của Trung Quốc. Sau

khi ổn định đầu năm nay, đồng NDT đột ngột tăng lên cao trong vài tuần giao

dịch cuối quý II sau khi PBOC công bố điều chỉnh, bổ sung yếu tố “phản chu kỳ”

trong cách tính tỷ giá tham chiếu hàng ngày để giảm bớt kỳ vọng về việc CNY sẽ

giảm thêm và dòng vốn chảy ra khi Mỹ tăng lãi suất. Kết thúc 6 tháng đầu năm

2017, đồng CNY đã tăng 2,36% so với đồng USD, giao dịch ở mức 6.6480.

Từ năm 2016 đến nay, Trung Quốc đối mặt với áp lực dòng vốn rút khỏi thị

trường nội địa lớn chưa từng có. Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã phải bán

USD từ nguồn dự trữ ngoại tệ nhằm kiềm chế đà mất giá của đồng NDT. Theo

Cơ quan quản lý ngoại hối quốc gia Trung Quốc, dự trữ ngoại tệ của nước này

giảm xuống dưới ngưỡng 3.000 tỷ USD, còn 2.990 tỷ USD trong tháng 1/2017 -

tháng giảm thứ bảy liên tiếp. Tình trạng này gây lo ngại về sự ổn định về tài

chính của Trung Quốc bởi kho dự trữ ngoại tệ được xem là "bia đỡ" cho nền kinh

tế trước biến động thương mại và tiền tệ. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, nhờ

các biện pháp kiểm soát vốn của Chính phủ nước này và sự suy yếu của đồng

USD đã hãm lại dòng chảy vốn, quy mô dự trữ ngoại hối đã tăng trở lại. Theo số

liệu của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC), dự trữ ngoại hối của nền

kinh tế lớn thứ 2 thế giới đã tăng thêm 24 tỷ USD trong tháng 5 lên mức cao nhất

7 tháng là 3,054 nghìn tỷ USD, sau khi đã tăng 21 tỷ USD vào tháng 4. Đây là

lần đầu tiên kể từ tháng 6/2014, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng 4 tháng liên

tiếp.

9

Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh

Nguồn: investing.com

0.95

1

1.05

1.1

1.15

1.22

-Jan

-17

12

-Jan

-17

22

-Jan

-17

1-F

eb-1

7

11

-Feb

-17

21

-Feb

-17

3-M

ar-1

7

13

-Mar

-17

23

-Mar

-17

2-A

pr-

17

12

-Ap

r-1

7

22

-Ap

r-1

7

2-M

ay-1

7

12

-May

-17

22

-May

-17

1-J

un

-17

11

-Ju

n-1

7

21

-Ju

n-1

7

EUR/USD

1.15

1.2

1.25

1.3

1.35

2-J

an-1

71

2-J

an-1

72

2-J

an-1

71

-Feb

-17

11

-Feb

-17

21

-Feb

-17

3-M

ar-1

71

3-M

ar-1

72

3-M

ar-1

72

-Ap

r-1

71

2-A

pr-

17

22

-Ap

r-1

72

-May

-17

12

-May

-17

22

-May

-17

1-J

un

-17

11

-Ju

n-1

72

1-J

un

-17

GBP/USD

100

105

110

115

120

2-J

an-1

7

12

-Jan

-17

22

-Jan

-17

1-F

eb-1

7

11

-Feb

-17

21

-Feb

-17

3-M

ar-1

7

13

-Mar

-17

23

-Mar

-17

2-A

pr-

17

12

-Ap

r-1

7

22

-Ap

r-1

7

2-M

ay-1

7

12

-May

-17

22

-May

-17

1-J

un

-17

11

-Ju

n-1

7

21

-Ju

n-1

7

USD/JPY

6.656.7

6.756.8

6.856.9

6.957

2-J

an-1

7

12

-Jan

-17

22

-Jan

-17

1-F

eb-1

7

11

-Feb

-17

21

-Feb

-17

3-M

ar-1

7

13

-Mar

-17

23

-Mar

-17

2-A

pr-

17

12

-Ap

r-1

7

22

-Ap

r-1

7

2-M

ay-1

7

12

-May

-17

22

-May

-17

1-J

un

-17

11

-Ju

n-1

7

21

-Ju

n-1

7

USD/CNY

Dự trữ ngoại hối

ròng trên toàn

cầu đã suy giảm

Tính đến cuối năm 2016, dự trữ ngoại hối toàn cầu ròng tiếp tục suy giảm

khoảng 105 tỷ USD, mặc dù đã có diễn biến tăng trong nửa đầu năm 2016.

Nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng trên không có nhiều điểm khác so với năm

2015, đó là việc nhiều quốc gia có chính sách tỷ giá neo với đồng USD đã cố

gắng làm chậm lại đà giảm giá của đồng bản tệ. Trong đó, riêng Trung Quốc đã

chiếm gần như toàn bộ mức suy giảm của dự trữ toàn cầu trong năm 2016 (hơn

300 tỷ USD). Mặc dù vậy, tỷ lệ dữ trữ ngoại hối của nhiều nước so với tổng nợ

ngắn hạn hay với GDP hiện vẫn ở mức khá cao như Ấn Độ, Trung Quốc, Đài

Loan, Hàn Quốc,….

Dự trữ ngoại hối tính

trên % của nợ ngắn

hạn

Dự trữ ngoại hối tính

theo % GDP

Ấn Độ 427% 15%

Trung Quốc 399% 27%

Mexico 334% 16%

Hàn Quốc 330% 26%

Đài Loan 277% 82%

Thụy Sĩ 63% 96%

Nhật Bản 45% 23%

Canada 13% 5%

Ý 5% 2%

Anh Quốc 2% 4%

Đức 2% 1%

Pháp 2% 2% Nguồn: IMF, WB

10

Diễn biến thị trường vàng

Diễn biến giá vàng thế giới

Nguồn: usagold.com

Mặc dù từ đầu năm đến nay, đà tăng của giá vàng vẫn đang được hỗ trợ mạnh

mẽ bởi lực cầu, nhưng theo báo cáo của WGC (Hội đồng vàng thế giới) thì nhu

cầu vàng hiện đã giảm so với cùng thời điểm năm ngoái. Trong đó, nhu cầu đầu

tư vàng qua các Quỹ ETFs đã có sự thu hẹp, nhu cầu dự trữ của NHTW các

nước cũng đã chậm lại, tín hiệu tích cực chỉ xuất hiện từ hai cấu phần chiếm tỷ

trọng nhỏ trong tổng cầu như nhu cầu đầu tư vàng miếng, vàng trang sức và

vàng sử dụng trong khu vực sản xuất.

Diễn biến nhu cầu nắm giữ vàng toàn cầu

Nguồn: gold.org

8 Tháng 4 tăng 1,51%; Tháng 5 tăng 0,14%; Tháng 6 giảm 2,14%.

0

100

200

300

400

500

600

700

Tấn

Nhu cầu vàng trang sức

Nhu cầu đầu tư vàng

Nhu cầu nắm giữ vàng của

NHTW

Giá vàng tiếp tục

tăng nhưng xu

hướng đi xuống

đã xuất hiện vào

Quý II

Bước sang năm 2017, giá vàng mặc dù không đạt thêm những mức đỉnh mới

nhưng nhìn chung vẫn giữ được đà tăng. Giá vàng đã tăng mạnh trong Quý I và

bắt đầu có xu hướng chậm lại vào Quý II8. Kết thúc 6 tháng, giá vàng giao ngay

tăng 7,92%, chốt ở mức 1.241,42 $/oz.

Trong suốt thời gian giao dịch nửa đầu năm 2017, những yếu tố bất ổn về kinh

tế và chính trị của thế giới tiếp tục là lực đẩy cho đà tăng của giá vàng, bên cạnh

đó, những vấn đề của nước Mỹ, từ diễn biến kinh tế đến các quyết sách kinh tế

lớn vẫn có ảnh hưởng quyết định tới xu hướng tăng, giảm ngắn hạn của giá

vàng. Qua 6 tháng đầu năm, vàng cũng chỉ có duy nhất một tháng giảm giá –

một diễn biến ngược với diễn biến của USD index.

11

Thị trường chứng khoán toàn cầu

TTCK toàn cầu

diễn biến tích

cực

Thị trường chứng khoán toàn cầu trong nửa đầu năm 2017 diễn biến tích cực.

Các thị trường chủ chốt tại khắp các châu lục đều ghi nhận đà tăng điểm qua 6

tháng, điều này là sự khởi sắc mạnh mẽ so với diễn biến ảm đạm của cùng kỳ

năm 2016.

Diễn biến các thị trường chứng khoán chủ chốt 6T/2017 so với 6T/2016

Nguồn: Bloomberg

Thị trường chứng khoán Mỹ duy trì đà tăng điểm liên tục qua hầu hết các tháng

nhờ được tiếp sức bởi nhiều thông tin hỗ trợ, trước hết là kỳ vọng mạnh mẽ của

giới đầu tư về các gói nới lỏng tài khóa của chính quyền tổng thống Donald

Trump, sau đó là những diễn biến tích cực của môi trường kinh tế vĩ mô và kết

quả lợi nhuận khả quan của các doanh nghiệp niêm yết. Nhờ đó, kết thúc 6 tháng

cả 3 chỉ số chứng khoán chính đều đạt được mức tăng điểm kỷ lục trong vòng

nhiều năm qua, trong đó Dow Jones tăng 6,96%, S&P 500 tăng 7,18% và

Nasdaq tăng 12,83% so với cuối năm ngoái.

Diễn biến thị trường chứng khoán Mỹ T1/2016 – T6/2017

Nguồn: Bloomberg

Chứng khoán châu Âu chứng kiến nhiều biến động trong nửa đầu năm do chịu

tác động của những thông tin trái chiều. Có những thời điểm thị trường thăng

hoa khi đón nhận hiệu ứng tích cực từ các cuộc bầu cử tổng thống tại Pháp, Ý và

những tín hiệu hồi phục đến từ các nền kinh tế đầu tàu trong khu vực. Tuy

nhiên, cũng có những thời điểm, đặc biệt như vào tháng 6 vừa qua, thị trường

giảm điểm khá mạnh khi phát sinh các lo ngại về cuộc khủng hoảng di cư, tác

động bất lợi của Brexit hay tình trạng yếu kém của hệ thống ngân hàng trong

khu vực. Mặc dù vậy, kết thúc nửa đầu năm 2017, chỉ số EuroStoxx toàn khu

vực vẫn đạt được mức tăng 1,98%, các thị trường chủ chốt đều đạt được mức

tăng điểm tốt so với cuối năm ngoái như CAC 40 của Pháp tăng 5,3%; DAX của

Đức tăng 4,75%,... Chỉ số FTSE 100 của Anh cũng vẫn duy trì được mức tăng

điểm 0,63% so với cuối năm 2016, tuy nhiên mức tăng này đã thấp hơn đáng kể

so với mức tăng hơn 6% của 6 tháng đầu năm ngoái.

12

Triển vọng kinh tế thế giới 6 tháng cuối năm 2017

Kinh tế toàn cầu

sẽ tiếp tục đà

phục hồi nhưng

sẽ đối mặt với

nhiều rủi ro,

thách thức

Với những chuyển biến tích cực trong 6 tháng đầu năm, kinh tế toàn cầu 6

tháng cuối năm 2017 dự báo sẽ tiếp tục đạt được những kết quả khả quan. Hầu

hết các tổ chức kinh tế đều thống nhất trong dự báo cho rằng tăng trưởng kinh tế

toàn cầu năm 2017 sẽ cao hơn so với năm 2016 với mức tăng trưởng giao động

trong khoảng 3,5% - 3,7%, mức cao nhất kể từ năm 2011 trở lại đây. Tăng

trưởng tích cực sẽ được ghi nhận ở hầu hết các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ,

khu vực EU, Nhật Bản cho đến các quốc gia mới nổi như Trung Quốc, khu vực

Mỹ La Tinh, Ấn Độ và Đông Nam Á.

Thương mại toàn cầu cũng được dự báo sẽ tiếp tục cải thiện với mức tăng

trưởng cả năm 2017 ước đạt 4%, cao hơn mức tăng trưởng 2,6% của năm 2016

và cũng cao hơn mức dự báo 3% được đưa ra trước đó. Sự phục hồi của hoạt

động thương mại càng được củng cố nhờ cầu nhập khẩu có xu hướng gia tăng

tại các nền kinh tế phát triển và dòng chảy thương mại ra vào Trung Quốc đang

tăng tốc.

Bên cạnh đó, thị trường ngoại hối trong 6 tháng còn lại của năm được đánh giá

sẽ không có nhiều biến động mạnh, thị trường sẽ khó có thể đón nhận thêm các

nhân tố tác động mạnh tới xu thế của các đồng tiền. Khuynh hướng vận động

Diễn biến một số chỉ số chứng khoán chủ chốt tại thị trường châu Âu T1/2016 – T6/2017

Nguồn: Bloomberg

Chứng khoán châu Á diễn biến tích cực sau 6 tháng với chỉ số MSCI khu vực

châu Á Thái Bình Dương đạt mức tăng mạnh 14,07% so với cuối năm trước.

Mặc dù vậy, xu hướng biến động có sự khác nhau giữa các thị trường. Chứng

khoán Nhật Bản khởi đầu chậm chạp trong những tháng đầu năm nhưng tăng tốc

mạnh mẽ hơn trong quý II nhờ được hỗ trợ bởi những chuyển biến tốt từ tình

hình kinh tế vĩ mô trong nước. Chứng khoán Trung Quốc duy trì đà tăng điểm

khá ổn định và chỉ suy giảm trong tháng 4 và 5 khi Trung Quốc thực hiện thắt

chặt kiểm soát đòn bẩy tài chính. Đáng chú ý là thị trường chứng Hồng Kông

với mức tăng trên 17% và Hàn Quốc với mức tăng trên 19% thuộc nhóm tăng

trưởng tốt nhất khu vực.

Diễn biến một số chỉ số chứng khoán chủ chốt tại thị trường châu Á T1/2016 – T6/2017

Nguồn: Bloomberg

13

của thị trường cũng khá rõ, đồng USD sẽ giữ được đà tăng khi các thông tin

kinh tế Mỹ tiếp tục được củng cố. Đồng EUR, đồng GBP có thể sẽ có các diễn

biến trái chiều, trong đó chiều hướng thuận lợi trong ngắn hạn sẽ nghiêng về

đồng EUR. Đồng tiền chung diễn biến phụ thuộc khá nhiều vào các kết quả

kinh tế của khu vực và sự phục hồi của hệ thống ngân hàng cũng như việc giải

quyết ổn thỏa các vấn đề về nợ công, trong khi đó đồng GBP nhiều khả năng sẽ

trải qua những đợt biến động tiềm năng trước những rủi ro của các kịch bản

Brexit cũng như kết quả cuộc bầu cử Quốc hội hay quyết định điều chỉnh lãi

suất của NHTW.

Tại khu vực Châu Á, đồng JPY và đồng CNY được kỳ vọng sẽ duy trì xu

hướng trong nửa đầu năm nhưng các mức thay đổi sẽ không quá lớn. Nhu cầu

nắm giữ tài sản đầu tư an toàn và sự phục hồi của nền kinh tế sẽ tiếp tục hỗ trợ

cho đà tăng của JPY. Sự lên giá của đồng CNY trong hai tháng gần đây đã làm

suy giảm quan điểm về sự suy yếu của đồng CNY trong năm nay. Mặc dù hiện

đang có nhiều quan ngại về sự gia tăng trở lại của dòng vốn rút ra khỏi Trung

Quốc từ nay đến cuối năm nhưng những diễn biến thuận lợi của kinh tế Trung

Quốc và tham vọng quốc tế hóa đồng nhân dân tệ sẽ cản lại đà giảm sâu của

đồng tiền này.

Cuối cùng, giá vàng sẽ tiếp tục biến động nhưng các xu hướng tăng giảm khó

kéo dài và mức biến động cũng sẽ không mạnh. Xu hướng vận động vẫn phụ

thuộc rất lớn vào kinh tế nước Mỹ, các bất ổn chính trị trên toàn cầu. Ngoài ra,

mặc dù nhu cầu vàng đã suy giảm nhưng từ nay đến cuối năm giá vàng cũng sẽ

bị chi phối mạnh hơn bởi yếu tố mùa vụ tại Ấn Độ và Trung Quốc.

Mặc dù tiếp tục đón nhận thêm các dự báo lạc quan nhưng tăng trưởng kinh tế

toàn cầu có thể tiếp tục phải đối mặt với những thách thức chính sau:

+ Tình hình chính trị thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp như việc cải

tổ thể chế tại các quốc gia châu Âu, các cuộc đàm phán về Brexit và làn sóng

bảo hộ dấy lên ở một số nước có thể tạo ra những rào cản cho hoạt động kinh tế,

làm chậm lại đà phục hồi thương mại và tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

+ Căng thẳng địa chính trị leo thang, chủ nghĩa khủng bố gia tăng đe dọa an

ninh nhiều nước, thúc đẩy chủ nghĩa dân túy, từ đó cũng gây ra nhiều trở ngại

đối với hoạt động thương mại, đầu tư trên phạm vi toàn cầu.

+ Triển vọng tăng trưởng tại các quốc gia, đặc biệt tại các nền kinh tế phát triển

như Mỹ, Nhật Bản và các nước châu Âu mặc dù đã được cải thiện đáng kể,

song vẫn chưa hoàn toàn giải quyết được những hậu quả sau khủng hoảng tài

chính toàn cầu. Trong khi đó tại các thị trường mới nổi, việc tiến hành một loạt

điều chỉnh mang tính trung hạn sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị kìm

hãm và không thể tăng tốc trong thời gian tới.

+ Tình trạng nợ tiếp tục gia tăng tại các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi,

trong đó đáng chú ý là cấu phần nợ của khu vực ngoài nhà nước cũng tạo ra

những trở ngại nhất định đối với tăng trưởng trong dài hạn và có thể làm phát

sinh những rủi ro đối với ổn định tài chính.

+ Thị trường tiền tệ, ngoại hối tiếp tục bị chi phối bởi môi trường chính sách và

tình hình địa chính trị còn khó đoán định và bất ổn, thực tế đó sẽ làm gia tăng

các quan ngại về sự ổn định của hệ thống tài chính, tiền tệ. Thực tế đó có thể

làm nhu cầu đầu tư an toàn sẽ gia tăng và nếu tăng quá mạnh nó có thể làm sai

lệch giá trị thực của các tài sản đầu tư cũng như của các đồng tiền giao dịch

trên thị trường,..…

14

KINH TẾ TRONG NƯỚC

1. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế

6 tháng đầu năm

chưa được như kỳ

vọng

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2017 ước tăng 5,73% so

với cùng kỳ năm trước, trong đó GDP quý 1 tăng 5,15%, quý 2 tăng

6,17%. Diễn biến của GDP nửa đầu năm 2017 về cơ bản đang giống với xu

hướng cùng kỳ năm 2016, mặc dù tốc độ tăng trưởng đã được cải thiện qua

các quý song vẫn ở mức thấp. Trong đó, đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng của

nhóm ngành công nghiệp và xây dựng sụt giảm mạnh – động lực chính của

nền kinh tế trong những năm qua.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 6 tháng các năm 2015, 2016 và 2017

Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (%) Đóng góp của các khu vực

vào tăng trưởng 6 tháng

đầu năm 2017

(Điểm phần trăm)

6 tháng/2015 6 tháng/ 2016 6 tháng/2017

Tổng số 6,32 5,65 5,73 5,73

Nông, lâm nghiệp và thuỷ

sản 2,22 -0,18 2,65 0,43

Công nghiệp và xây dựng 9,36 7,86 5,81 2,00

Dịch vụ 5,86 6,47 6,85 2,59

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp

sản phẩm 5,5 6,61 6,11 0,71

Nguồn: TCTK

Trong mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực dịch vụ tiếp tục duy

trì được đà tăng tốt, đạt 6,85%, đóng góp 2,59 điểm phần trăm vào mức tăng

trưởng chung. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là nhóm ngành duy

nhất đã có sự cải thiện tốt so với cùng kỳ năm ngoái, nhóm ngành này đã lấy

lại được mốc tăng trưởng với mức tăng 2,65%, đóng góp 0,43 điểm phần

trăm. Cuối cùng, mặc dù khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,81%, đóng

góp 2,0 điểm phần trăm nhưng đây lại là mức tăng thấp nhất trong 03 năm

vừa qua.

Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu

vực nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu

vực dịch vụ

-2

-1

0

1

2

3

4

5

6

7

Ngành thủy sản

Ngành lâm nghiệp

Ngành nông nghiệp

%

2016

2017

15

Xét về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2017

Xét về góc độ sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2017

Nguồn: TCTK

Vai trò dẫn dắt của

sản xuất công nghiệp

đã suy giảm mặc dù

đã xuất hiện dấu

hiệu tích cực hơn

trong quý II

Diễn biến của chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp - IIP trong 6 tháng đầu

năm nay tiếp tục có được xu hướng tăng qua các tháng, tốc độ tăng có cải thiện

qua các quý (quý I tăng 4,3%, quý II tăng 7,8%), tuy nhiên nếu so với cùng kỳ

đà tăng đã giảm – xu hướng này diễn ra khá liên tục từ trong 04 tháng đầu năm

và mới có tín hiệu cải thiện trong 2 tháng gần đây. Trong diễn biến tăng của chỉ

số chung, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là chỉ số trụ cột nhưng

ngành khai khoáng duy trì đà giảm, thậm chí nhiều tháng còn có mức giảm

mạnh hơn so với cùng kỳ năm ngoái.

Diễn biến IIP so với tháng trước

Diễn biến IIP so với cùng kỳ

Nguồn: TCTK

Tính chung 6 tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,2% so với

cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 10,5%; ngành sản

xuất và phân phối điện tăng 8%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước

thải tăng 7,8%; Và riêng ngành khai khoáng giảm 8,2% (chủ yếu do khai thác

dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 11,6%).

Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong khu vực công nghiệp và xây dựng

Nguồn: TCTK

-10

-5

0

5

10

15

Ngành công nghiệp Ngành khai khoáng Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

%

2016

2017

16

Diễn biến chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế

biến, chế tạo

Diễn biến chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế

biến, chế tạo

Nguồn: TCTK

9 Tháng 1: 51,9 điểm; Tháng 2: 54,2 điểm; Tháng 3: 54,6 điểm.

Bên cạnh đó, dữ liệu tồn kho và tiêu thụ hàng hóa của ngành công nghiệp chế

biến, chế tạo cũng có diễn biến khác so với năm ngoái, chỉ số tiêu thụ toàn

ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 5 tháng đầu năm tăng 8,2%, thấp hơn mức

tăng 8,8% theo số so sánh cùng kỳ của 6 tháng đầu năm 2016. Chỉ số tồn kho

toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 1/6/2017 tăng 10,2% so

với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn mức tăng 9% của cùng thời điểm năm 2016.

Chỉ số Nhà quản

trị mua hàng tiếp tục ở

ngưỡng mở rộng

Diễn biến khu vực sản xuất cũng khá trùng hợp với những gì mà khu vực

doanh nghiệp đã dự báo. Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các

doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2017 của Tổng

cục thống kê cho thấy: Có 43% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất

kinh doanh quý II năm nay tốt hơn quý trước; 19,2% doanh nghiệp đánh giá

gặp khó khăn và 37,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh

doanh ổn định.

Chỉ số PMI trong 6 tháng đầu năm luôn nằm ở trong vùng mở rộng nhưng

diễn biến không ổn định qua các tháng. Từ đầu năm đến nay, chỉ số PMI có

diễn biến tốt nhất trong Quý I9, giảm liên tục trong tháng 4, tháng 5 và mới có

dấu hiện tăng trở lại vào tháng 6, từ mức 51,6 điểm của tháng trước lên mức

52,5 điểm. Mặc dù vậy, PMI của Việt Nam đã có được vị trí tốt so với các

nước trong khu vực Asean, giữ vị trí đứng đầu trong Quý I, giảm về vị trí thứ

3 trong tháng 5 và hiện đang ở vị trí thứ hai sau Philippine (53,9 điểm).

Xu hướng tăng của PMI qua các tháng chủ yếu do sức tăng của đơn hàng mới

ở trong nước và đơn hàng xuất khẩu. Nhờ đó sản lượng đã tăng liên tục trong

8 tháng, tốc độ tạo việc làm mới cũng tăng và lượng hàng tồn kho cũng được

cải thiện. Bên cạnh đó, cả chi phí đầu vào và đầu ra đang có xu hướng giảm.

Đồ thị diễn biến Chỉ số PMI trong 6 tháng đầu năm 2017

Nguồn: Nikkei

49

50

51

52

53

54

55

17

Hoạt động bán lẻ

hàng hóa và dịch

vụ tiêu dùng là

động lực dẫn dắt

tăng trưởng về

phía cầu

Trong nửa đầu năm 2017, hoạt động bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

đang thể hiện xu hướng tích cực hơn so với cùng thời điểm so sánh của năm

trước. Ngoại trừ tháng 2 doanh thu hoạt động bán lẻ có sự sụt giảm so với

tháng trước do tác động của yếu tố mùa vụ, những tháng còn lại đều đạt được

tốc độ tăng trưởng tốt so với tháng trước cũng như so với cùng kỳ. Tính chung

6 tháng đầu năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu

dùng đạt 1.924,1 nghìn tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, nếu

loại trừ yếu tố giá tăng 8,4% (cao hơn mức tăng 8,1% của cùng kỳ năm 2016).

Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh

thu DV TD so với tháng trước và cùng kỳ (%)

Tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu

dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố giá (% yoy)

Nguồn: TCTK

Với diễn biến như vậy, hoạt động bán lẻ đã đóng góp quan trọng vào tăng

trưởng kinh tế xét theo ngành kinh tế cũng như trên góc độ sử dụng GDP. Cụ

thể, ngành bán lẻ cùng với bán buôn đã đóng góp lớn nhất vào mức tăng

trưởng GDP chung của khu vực dịch vụ10, góp phần đưa khu vực dịch vụ duy

trì được tốc độ tăng trưởng cao nhất trong vòng 5 năm vừa qua. Bên cạnh đó,

xét trên góc độ sử dụng GDP, với sự khởi sắc của hoạt động bán lẻ, tiêu dùng

cuối cùng tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng 7,04% so với cùng kỳ năm

2016, cao hơn mức tăng trưởng 6,98% của 6 tháng đầu năm 2016 và tiếp tục

là khu vực đóng góp cao nhất vào tăng trưởng GDP11.

Vốn đầu tư toàn

xã hội tiếp tục

gia tăng

Vốn đầu tư toàn xã hội

thực hiện 6 tháng đầu

năm 2017 theo giá hiện

hành ước tính đạt 674,8

nghìn tỷ đồng, tăng

10,5% so với cùng kỳ

năm trước và bằng 32,8%

GDP, cao hơn so với tốc

độ tăng trưởng của cùng

kỳ 2 năm liền trước12.

Trong đó, vốn đầu tư từ

khu vực tư nhân vẫn là

động lực dẫn dắt tăng

trưởng tổng vốn đầu tư

toàn xã hội khi chiếm

38,7% tổng vốn và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất là 14,9%. Vốn khu vực

Nhà nước chiếm 35,9% tổng vốn và đạt tốc độ tăng 6,8%, mặc dù cao hơn so

với cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2015. Vốn đầu tư từ

10 6 tháng đầu năm 2017, bán buôn bán lẻ đóng góp 0,65 điểm phần % vào mức tăng trưởng chung. 11 Tiêu dùng cuối cùng đóng góp 8,48 điểm % vào mức tăng GDP chung, cao hơn tích lũy tài sản chỉ đóng góp 4,26 điểm %. 12 6 tháng đầu năm 2015 tốc độ tăng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 9,3%, 6 tháng đầu năm 2016 tốc độ tăng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 10,3%.

Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6

tháng các năm 2015 - 2017 (% yoy)

Nguồn: TCTK

0.00%

5.00%

10.00%

15.00%

20.00%

Khu vực Nhà

nước

Khu vực

ngoài Nhà

nước

Khu vực có

đầu tư FDI

Vốn đầu tư

toàn xã hội

6T 2015 6T 2016 6T 2017

18

khu vực nước ngoài đã không còn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như

cùng kỳ năm trước, hiện chiếm 25,4% tổng vốn và chỉ tăng 9,6%.

Diễn biến các cấu phần vốn đầu tư toàn xã hội được thể hiện rõ nét hơn khi

quan sát hoạt động giải ngân vốn đầu tư trên các mảng NSNN cũng như vốn

đầu tư nước ngoài:

Tình hình giải

ngân nguồn vốn

đầu tư từ NSNN

vẫn còn gặp

nhiều khó khăn

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn đầu tư từ NSNN vẫn diễn biến

theo đúng quy luật hàng năm khi giải ngân ở mức thấp trong quý I và bắt đầu

tăng tốc trở lại khi bước vào quý II. Tính chung 6 tháng đầu năm 2017, vốn từ

ngân sách Nhà nước thực hiện ước tính đạt 115 nghìn tỷ đồng, bằng 38,7% kế

hoạch năm và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, mặc dù tình

hình thực hiện vốn đầu tư từ NSNN đã có chuyển biến tích cực trong những

tháng gần đây nhưng mức giải ngân vẫn còn thấp so với kế hoạch năm và

mức tăng trưởng cũng thấp hơn so với cùng kỳ năm trước13. Sự khó khăn

trong việc giải ngân nguồn vốn đầu tư từ NSNN cũng thể hiện qua sự chững

lại qua hoạt động chi đầu tư phát triển khi qua 6 tháng đầu năm chi đầu tư

phát triển mới chỉ bằng 23,3% dự toán, thấp hơn đáng kể so với mức dự toán

của các năm trước14.

Diễn biến vốn đầu tư từ NSNN giai đoạn T1/2016 – T6/2017

Nguồn: TCTK

Giải ngân vốn

đầu tư trực tiếp

nước ngoài mặc

dù vẫn tăng về số

tuyệt đối nhưng

tốc độ tăng

trưởng đã chậm

lại

Sau quý I giải ngân ở mức

thấp với mức tăng trưởng chỉ

đạt 3,4% so với cùng kỳ,

diễn biến vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài thực hiện trong

quý II đã có sự cải thiện khi

đạt mức tăng trưởng 7,36%.

Tính hết 6 tháng, vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài thực

hiện ước tính đạt 7,7 tỷ USD,

tăng 6,5% so với cùng kỳ

năm 2016, là mức tăng thấp

nhất trong 3 năm gần đây15.

Điều này là lý do giải thích

cho tình trạng tăng trưởng

chậm lại của nguồn vốn đầu

tư từ khu vực nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

13 Vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng đầu năm 2016 ước tính đạt 107,0 nghìn tỷ đồng, bằng 42,5% kế hoạch năm và tăng 11,9%

so với cùng kỳ năm trước 14 6 tháng đầu năm 2016 giải ngân vốn đầu tư phát triển bằng 29,2% dự toán, 6 tháng đầu năm 2015 giải ngân vốn đầu tư phát triển bằng

41,4% dự toán 15 6 tháng đầu năm 2015 và 2016, tăng trưởng vốn FDI thực hiện so với cùng kỳ đạt mức tăng lần lượt là 9,6% và 11,5%.

So sánh diễn biến vốn FDI thực hiện qua 2 quý

đầu năm 2015, 2016 và 2017

(triệu USD)

Nguồn: TCTK

19

Tốc độ tăng FDI

thu hút đã giảm

xuống

Trong vòng 5 tháng đầu năm, hoạt động thu hút vốn FDI diễn ra khá trầm

lắng, đặc biệt đối với cấu phần vốn FDI thu hút mới16. Tuy nhiên chỉ trong

tháng 6, lượng vốn FDI vào Việt Nam bao gồm cả vốn thu hút mới và vốn

tăng thêm đã gia tăng đột biến thêm 7 tỷ USD, tức là chiếm hơn 1/3 lượng

vốn FDI thu hút được từ đầu năm đến nay. Trong đó, chủ yếu là lượng vốn

FDI thu hút mới đã đạt con số 6,24 tỷ USD, cao hơn tổng lượng vốn FDI thu

hút mới trong cả 5 tháng đầu năm nhờ một số dự án đầu tư trọng điểm mới

được cấp phép trong tháng vừa qua17.

Như vậy, tính đến hết 20/6/2017, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới,

cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần đạt 19,23 tỷ

USD, tăng 54,8% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù đã có sự tăng tốc mạnh

mẽ trong tháng 6 nhưng do diễn biến kém thuận lợi trong hoạt động thu hút

FDI của những tháng trước nên mức tăng này chỉ bằng một nửa so với mức

tăng của 6 tháng đầu năm 2016.

Diễn biến các cấu phần vốn FDI thu hút qua các tháng trong năm 2017

(triệu USD)

Nguồn: TCTK

Qua 6 tháng, ngành sản xuất và

phân phối điện, khí đốt, nước nóng,

hơi nước và điều hòa không khí đã

vươn lên là ngành thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số

vốn đăng ký của các dự án được cấp

phép mới đạt 5.255,8 triệu USD,

chiếm 44,4% tổng vốn đăng ký cấp

mới nhờ một loạt các dự án đầu tư

quan trọng được phê duyệt trong

lĩnh vực sản xuất điện; ngành công

nghiệp chế biến, chế tạo đã tụt

xuống vị trí thứ 2 khi chỉ đạt 3.838,5

triệu USD, chiếm 32,4%; các ngành

còn lại đạt 2.743,9 triệu USD, chiếm 23,2%.

16 Tính hết 5 tháng đầu năm 2017, lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 12,13 tỷ USD, trong đó vốn thu hút mới chỉ đạt 5,6 tỷ USD,

giảm 26,1% so với cùng kỳ năm trước. 17 Dự án Nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 trị giá 2,8 tỷ USD, dự án Aeon MALL Hà Đông trị giá 250 triệu USD, dự án sân golf Sakura ở Hải

Phòng, dự án Nhiệt điện BOT Nam Định 1 trị giá 2,07 tỷ USD,…

Cơ cấu đầu tư FDI vào các ngành trong

nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2017

Nguồn: Cục xúc tiến đầu tư

SX phân

phối điện,

khi đốt,

nước nóng,

hơi nước và

ĐHKK

44.40%

Khai

khoáng,

32.40%

Lĩnh vực

khác,

23.20%

20

Trong số 56 quốc gia và vùng lãnh

thổ có dự án đầu tư được cấp phép

mới tại Việt Nam trong 6 tháng năm

nay, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn

nhất với 4.568,1 triệu USD, chiếm

38,6% tổng vốn đăng ký cấp mới;

tiếp đến là Singapore 2.731,7 triệu

USD, chiếm 23,1%; Hàn Quốc

1.625 triệu USD, chiếm 13,7%;

Trung Quốc 1.100,6 triệu USD,

chiếm 9,3%; Hồng Kông 550,2 triệu

USD, chiếm 4,6%; Đức 321,9 triệu

USD, chiếm 2,7%.

Xuất khẩu tăng

trưởng tốt trong 6

tháng đầu năm

2017

Trong 6 tháng đầu năm 2017, hoạt động xuất khẩu diễn biến thuận lợi với kim

ngạch xuất khẩu qua các quý đều tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm 201618.

Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 97,8 tỷ USD, tăng 18,9% so với

cùng kỳ năm 2016, cao gấp 3 lần so với mức tăng trưởng 5,9% của 6 tháng

năm ngoái. Trong đó hoạt động xuất khẩu đều có mức tăng trưởng cao trong

cả hai khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước với mức

tăng trưởng 6 tháng của 2 khu vực lần lượt đạt 21% và 13,8% so với cùng kỳ,

cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng lần lượt chỉ đạt 6,9% và 3,3% trong 6 tháng

đầu năm 2016.

Sự phục hồi của xuất khẩu là nhờ các mặt hàng chế biến chế tạo vẫn duy trì

tốc độ tăng trưởng khả quan19, cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu các mặt

hàng này trong cùng kỳ năm 2016 và nhiều mặt hàng còn đạt tốc độ tăng

trưởng cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu chung. Trong khi đó, xuất khẩu dầu thô,

các mặt hàng nông thủy sản và khai khoáng cũng đã có sự phục hồi trở lại,

nhiều mặt hàng đạt mức tăng trưởng khá cao, trái ngược hoàn toàn với xu

hướng sụt giảm của cùng kỳ năm ngoái20.

Tốc độ tăng trưởng kim ngạch XK một số mặt hàng chủ lực 6T/2017 so với 6T/2016

Nguồn: TCTK

18 Kim ngạch xuất khẩu quý I năm 2017 đạt 44,7 tỷ USD tăng 15,85% so với quý I năm 2016, kim ngạch xuất khẩu quý II năm 2017 đạt

53,81 tỷ USD, tăng 22,6% so với quý II năm 2016 19 Qua 6 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt 20,1 tỷ USD, tăng 18,3%; hàng dệt may đạt 11,6 tỷ USD, tăng 7%; điện

tử, máy tính và linh kiện đạt 11,3 tỷ USD, tăng 42,3%; giày dép đạt 7 tỷ USD, tăng 11,6%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 6,1

tỷ USD, tăng 36,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,3 tỷ USD, tăng 15%,... 20 Qua 6 tháng đầu năm 2017, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,6 tỷ USD, tăng 13,5%; thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, tăng 15,6%; cà phê đạt 1,9

tỷ USD, tăng 9,9% (lượng giảm 15,5%); rau quả đạt 1,7 tỷ USD, tăng 50,4%; dầu thô đạt 1,6 tỷ USD, tăng 39,2% (lượng tăng 10,1%); hạt

điều đạt 1,4 tỷ USD, tăng 20,3% (lượng giảm 4,7%)

Cơ cấu đầu tư FDI phân theo đối tác

Nguồn: Cục xúc tiến đầu tư

Nhật Bản, 38.60%

Singapore, 23.10%

Hàn Quốc, 13.70%

Trung Quốc, 9.30%

Hồng Kông, 4.60%

Đức, 2.70% Quốc gia khác, 8.00%

21

Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường lớn đều đạt tốc độ tăng

trưởng cao và cơ cấu xuất khẩu sang các thị trường không có nhiều thay đổi

với Mỹ và EU vẫn là 2 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam21. 6 tháng

đầu năm cũng đang cho thấy sự chuyển dịch về kim ngạch xuất khẩu sang thị

trường các nước trong khu vực.

Tỷ trọng XK vào các thị trường 6T/2016 Tỷ trọng XK vào các thị trường 6T/2017

Nguồn: TCTK

Nhập khẩu hồi

phục mạnh mẽ so

với cùng kỳ năm

2016

Tương tự xuất khẩu, nhập khẩu cũng tăng liên tục qua hai quý với tốc độ

cao22. Tính chung 6 tháng, nhập khẩu ước đạt 100,5 tỷ USD, tăng 24,1% so

với cùng kỳ năm 2016 (6 tháng đầu 2016 nhập khẩu giảm 0,5%). Trong đó,

tốc độ tăng nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt 18,2% và của

khối doanh nghiệp FDI đạt 28,3%, đều cao hơn rất nhiều tốc độ tăng trưởng

của cùng kỳ năm trước23.

Sự gia tăng của nhập khẩu trong 6 tháng qua chủ yếu là do nhập khẩu tư liệu

sản xuất tăng rất mạnh 24,6% so với cùng kỳ năm 2016 trong khi 6 tháng đầu

năm 2016 nhập khẩu nhóm hàng này giảm 0,6%. Đáng chú ý, nhiều mặt hàng

có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2016 và tốc độ tăng của

kim ngạch nhập khẩu chung, ví dụ như điện thoại và linh kiện tăng 29,5%,

điện tử, máy tính và linh kiện tăng 28,2%, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ

tùng khác tăng 37,8%, nguyên nhiên vật liệu tăng 22,7%, sắt thép tăng 24,3%,

chất dẻo tăng 24,6%, xăng dầu tăng 31,4%... Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng

tiêu dùng cũng tăng mạnh ở mức 18,6% so với cùng kỳ năm 2016, cao hơn

mức tăng 0,7% của cùng kỳ năm trước.

Tốc độ tăng trưởng kim ngạch NK một số mặt hàng tư liệu SX 6T/2017 so với 6T/2016

Nguồn: TCTK

21 Trung Quốc tăng 42,5%, Nhật Bản tăng 19,5%, Asean tăng 26,7% và Hàn Quốc tăng 29,1%, Mỹ tăng trưởng 9,5% và EU tăng 12,6% so

với cùng kỳ năm trước. 22 Kim ngạch nhập khẩu quý I/2017 đạt 46,7 tỷ USD, tăng 24,9% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu quý II/2017 đạt 53,8 tỷ USD, tăng

24,09% so với cùng kỳ. 23 6 tháng đầu năm 2016, nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước tăng 1,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,8%.

22

Nhập khẩu từ tất cả các thị trường đều có sự phục hồi mạnh mẽ. Cụ thể, nhập

khẩu từ Trung Quốc, Asean, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ đều gia tăng mạnh

ở mức hai con số so với cùng kỳ năm 2016, trái ngược với xu hướng sụt giảm

hoặc tăng trưởng thấp tại các thị trường trong 6 tháng đầu năm ngoái24. Cơ

cấu thị trường nhập khẩu không có nhiều thay đổi so với cùng kỳ năm ngoái,

với Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, theo sau là

Hàn Quốc, Asean, Nhật Bản.

Tỷ trọng NK từ các thị trường QI/2016 Tỷ trọng NK vào các thị trường QI/2017

Nguồn: TCTK

Cán cân thương

mại nhập siêu 2,7

tỷ USD

Cán cân thương mại 6 tháng đầu năm 2017 ước nhập siêu 2,7 tỷ USD, trong

đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 12,92 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,22 tỷ USD. Như vậy, cùng với sự gia

tăng mạnh mẽ của nhập khẩu hơn so với xuất khẩu, nền kinh tế đã quay trở lại

tình trạng nhập siêu, trái ngược với tình trạng xuất siêu của 6 tháng đầu năm

ngoái.

Diễn biến XK, NK và nhập siêu giai đoạn 1/2016 – 6/2017

Nguồn: TCTK

Một số chính sách quan trọng trong công tác quản lý, điều tiết kinh tế được ban hành trong tháng 6

1/ Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 2/6/2017 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng các ngành,

lĩnh vực nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2017.

2/ Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số

35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp.

24 6 tháng đầu năm 2017, nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2016, Hàn Quốc tăng 51,2%, ASEAN tăng 17,6%, Nhật

Bản tăng 10,7%, EU tăng 16,3%, Hoa Kỳ tăng 27,2%.

23

2. Lạm phát

Nguồn: Tổng cục thống kê

5.22 5.12 4.96 4.84.47

4.15

0.46 0.690.9 0.9

0.370.02

-1

0

1

2

3

4

5

6

Jan-17 Feb-17 Mar-17 Apr-17 May-17 Jun-17

DIỄN BIẾN CPI NĂM 2017

CPI bình quân

CPI so với tháng trước

CPI so với cuối năm trước

-0.67

-0.51

0.95

0.99

1.12

1.62

1.99

4.11

8.77

9.99

47.93

4.15

-10 0 10 20 30 40 50 60

Bưu chính viễn thông

Hàng ăn và dịch vụ ăn …

Văn hóa, giải trí và du lịch

Thiết bị và đồ dùng gia …

May mặc, mũ nón, giày dép

Đồ uống và thuốc lá

Hàng hóa và dịch vụ khác

Nhà ở và vật liệu xây dựng

Giao thông

Giáo dục

Thuốc và dịch vụ y tế

CPI tổng thể

%

CPI BÌNH QUÂN 6 THÁNG NĂM 2017

SO VỚI CÙNG KỲ

Lạm phát đã

giảm dần qua

các tháng

Lạm phát sau khi tăng cao ở thời điểm cuối năm 2016 đã có chiều hướng giảm

dần qua từng tháng trong năm nay, điều này trái ngược với xu hướng tăng của

lạm phát so với cùng kỳ. Kết thúc tháng 6/2017, CPI bình quân 6 tháng đầu

năm nay tăng ở mức 4,15% so với cùng kỳ năm 2016. CPI cơ bản bình quân

tiếp tục diễn biến ổn định ở mức 1,52% qua 6 tháng.

Trong 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng CPI tiếp tục bị chi phối mạnh bởi nhóm

Thuốc và dịch vụ Y tế, Giao thông và Giáo dục, cụ thể như sau:

+ Nhóm Thuốc và dịch vụ Y tế có CPI bình quân 6 tháng tăng mạnh nhất ở mức

47,93% so với cùng kỳ, trong đó riêng dịch vụ y tế tăng tới 66,09%.

+ Nhóm Giáo dục có CPI bình quân 6 tháng tăng 9,99%, trong đó dịch vụ giáo

dục tăng 11,56%.

+ Nhóm Giao thông có CPI bình quân tăng 8,77% so với cùng kỳ, diễn biến

tăng của nhóm hàng này chịu tác động từ việc điều chỉnh giá xăng dầu qua các

tháng (12 lần điều chỉnh kể từ đầu năm) theo diễn biến của giá dầu trên thế giới.

Ngoài ra, giá một số nhiên liệu khác như gas và khí đốt trong những tháng đầu

năm cũng tăng lên làm CPI bình quân nhóm Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng

4,11% so với cùng kỳ.

24

Nguồn: Tổng cục thống kê

0

10

20

30

40

50

60

01

/20

15

03

/20

15

05

/20

15

07

/20

15

09

/20

15

11

/20

15

01

/20

16

03

/20

16

05

/20

16

07

/20

16

09

/20

16

11

/20

16

01

/20

17

03

/20

17

05

/20

17

CPI THUỐC & DỊCH VỤ Y TẾ

GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)

Thuốc và dịch vụ Y tế

CPI toàn phần

0

10

20

30

40

50

60

01

/20

15

03

/20

15

05

/20

15

07

/20

15

09

/20

15

11

/20

15

01

/20

16

03

/20

16

05

/20

16

07

/20

16

09

/20

16

11

/20

16

01

/20

17

03

/20

17

05

/20

17

CPI GIÁO DỤC

GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)

Giáo dục

CPI toàn phần

-20

-15

-10

-5

0

5

10

15

20

01

/20

15

03

/20

15

05

/20

15

07

/20

15

09

/20

15

11

/20

15

01

/20

16

03

/20

16

05

/20

16

07

/20

16

09

/20

16

11

/20

16

01

/20

17

03

/20

17

05

/20

17

CPI GIAO THÔNG VÀ NHÀ Ở VLXD

GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)

Giao thông

Nhà ở và VLXD

-6

-4

-2

0

2

4

6

01

/20

15

03

/20

15

05

/20

15

07

/20

15

09

/20

15

11

/20

15

01

/20

16

03

/20

16

05

/20

16

07

/20

16

09

/20

16

11

/20

16

01

/20

17

03

/20

17

05

/20

17

CPI LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM

GIAI ĐOẠN 2015 - 2017 ( so với cùng kỳ)

Hàng ăn và dịch vụ ăn uống

Lương thực

Thực phẩm

Ăn uống ngoài gia đình

Bên cạnh đó, diễn biến của CPI tổng thể cũng bị chi phối bởi đà giảm giá của

nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống - nhóm chiếm tỷ trọng cao nhất trong rổ

hàng hoá tính CPI. Quan sát dữ liệu thống kê cho thấy tất cả các nhóm ngành

nhỏ trong nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống đều có xu hướng giảm hoặc tăng

chậm lại. Trong đó đáng chú ý là giá Thực phẩm giảm rất mạnh do dư thừa

nguồn cung và không thể tiêu thụ qua xuất khẩu nhiều như những năm trước.

Ngoài ra, giá nhiều sản phẩm nông nghiệp khác như rau củ quả, hàng nông sản,

trứng, … cũng ở mức thấp. Qua 6 tháng đầu năm, CPI bình quân Hàng ăn và

dịch vụ ăn uống giảm 0,51% (trong đó: Lương thực tăng 1,39%; Ăn uống ngoài

gia đình tăng 1,65%; riêng Thực phẩm có giảm 1,74% so với cùng kỳ năm

trước).

Mặc dù có dấu hiệu chững lại trong 6 tháng đầu năm, nhưng trong 6 tháng cuối

năm khả năng lạm phát tăng cao trở lại vẫn luôn tiềm ẩn.

25

Nguồn: IMF

Một số chính sách quan trọng về điều tiết giá cả được ban hành trong tháng 6 năm 2017

1/ Nghị quyết 51/NQ-CP ngày 19/6/2017 Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị

quyết số 07-NQ/TW ngày 18/112016 của Bộ Chính trị về Chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước,

quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.

2/ Công văn số 4881/BCT-TTTN ngày 05/6/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu

Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: tăng 303 đồng/lít; Xăng E5: tăng 283 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S: tăng

225 đồng/lít; Dầu hỏa: tăng 326 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: tăng 139 đồng/kg.

3/ Công văn số 5430/BCT-TTTN ngày 20/6/2017 của Bộ Công Thương về việc điều hành kinh doanh xăng dầu

Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng RON 92: giảm 862 đồng/lít; Xăng E5: giảm 805 đồng/lít; Dầu diesel 0.05S:

giảm 650 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 738 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 369 đồng/kg.

3. Thu chi ngân sách Nhà nước

0

20

40

60

80

100

120

140

160

GIÁ HÀNG HÓA THẾ GIỚI

GIAI ĐOẠN 2015 - 2017

Chỉ số giá hàng hóa chung

Chỉ số giá hàng hóa phi năng lượng

020406080

100120140160180

CHỈ SỐ GIÁ CẢ MỘT SỐ

HÀNG HÓA THẾ GIỚI

Dầu thôNăng lượng

Lương thực, thực phẩm (không bao gồm đồ uống)

Nguyên liệu thô (nông nghiệp)

Thu NSNN đã có

nhiều cải thiện trong

khi chi đầu tư phát

triển đang gặp nhiều

khó khăn

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2017 ước

tính đạt 500,9 nghìn tỷ đồng, bằng 41,3% dự toán năm, trong đó thu nội

địa 399,1 nghìn tỷ đồng, bằng 40,3%; thu từ dầu thô 21,1 nghìn tỷ đồng,

bằng 55,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 80,6

nghìn tỷ đồng, bằng 44,8%. Như vậy, thu ngân sách 6 tháng đầu năm nay

đã tăng hơn 17% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó thu nội địa đạt mức

tăng 14,42%, thu từ dầu thô tăng 19,2% và thu cân đối ngân sách hoạt

động xuất nhập khẩu tăng 27,9%. Sự gia tăng của kim ngạch xuất nhập

khẩu và việc giá dầu tăng giá trong những tháng trước đó đã góp phần giúp

cải thiện hai nguồn thu quan trọng từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2017 ước

tính đạt 533,4 nghìn tỷ đồng, bằng 38,4% dự toán năm, trong đó chi

thường xuyên đạt 398,9 nghìn tỷ đồng, bằng 44,5%; chi trả nợ lãi 50 nghìn

tỷ đồng, bằng 50,5%; chi trả nợ gốc ước tính đạt 88,1 nghìn tỷ đồng, bằng

53,8% dự toán năm. Riêng chi đầu tư phát triển mới đạt 83,3 nghìn tỷ

đồng, bằng 23,3% dự toán năm.

Như vậy, từ đầu năm đến nay bội chi ngân sách mức bội chi là gần 20

nghìn tỷ đồng, tương đương 43,5% dự toán năm.

26

4. Tình hình doanh nghiệp

So sánh thu NSNN 6 tháng đầu năm 2016 với 6 tháng

đầu năm 2017

So sánh chi NSNN 6 tháng đầu năm 2016 với 6

tháng đầu năm 2017

Nguồn: TCTK

Trong 6 tháng đầu năm, KBNN tổ chức gọi thầu TPCP với các kỳ hạn từ 5

năm cho đến 30 năm. Trong đó, hầu hết các TPCP kỳ hạn dài đã vượt kế

hoạch đề ra. Lãi suất TPCP kỳ hạn 5-7 năm nằm trong khoảng từ 4,9% -

5,55%/năm; lãi suất TPCP kỳ hạn từ 10-15 năm nằm trong khoảng từ

5,65% - 7,25%/năm và lãi suất TPCP kỳ hạn từ 20-30 năm nằm trong

khoảng từ 6,67% - 7,97%/năm.

Kết quả huy động trong 6 tháng đầu năm cho thấy tỷ lệ TPCP trúng thầu

đạt tỷ lệ cao với kỳ hạn 15 năm và 20 năm. Kết thúc 6 tháng đầu năm,

KBNN huy động thành công 125.744,66 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ qua

đấu thầu với tổng giá trị gọi thầu là 154.500 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 81,39% - cao

hơn so với tỷ lệ 80,02% của 6 tháng đầu năm 2016, hoàn thành 68,6% kế

hoạch cả năm 2017.

Giá trị trúng thầu qua các kỳ hạn trong tháng 6 năm 2017

Nguồn: hnx.vn

Khu vực doanh

nghiệp tiếp tục

diễn biến tốt

Cả nước có 61.276 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký đạt

596,2 nghìn tỷ đồng - tăng 12,4% về số doanh nghiệp và tăng 39,4% về vốn so

với 6 tháng cùng kỳ năm trước.

Số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng mạnh ở những ngành đang có kết

quả kinh doanh khởi sắc như: Kinh doanh bất động sản có 2.279 doanh nghiệp,

tăng 68,3%; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 679 doanh nghiệp, tăng

37,2%; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 318 doanh nghiệp, tăng 30,9%;

Giáo dục và đào tạo có 1.597 doanh nghiệp, tăng 30,4%. Trong khi đó, xét về

lượng vốn đăng ký kinh doanh hầu hết các ngành còn lại đều có tỷ lệ vốn đăng

ký tăng so với cùng kỳ. Chỉ có có một số ngành giảm bao gồm: Khai khoáng

giảm 68,5%; Thông tin và truyền thông giảm 19,3% và Nông lâm nghiệp, thủy

sản giảm 9,1%.

0.00%

20.00%

40.00%

60.00%

80.00%

100.00%

120.00%

-

5,000

10,000

15,000

20,000

25,000

30,000

5 7 10 15 20 30

Tỷ

đồ

ng

Kỳ hạn

Giá trị trúng thầu Tỷ lệ giá trị trúng thầu/giá trị gọi thầu

27

Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh

0

5,000

10,000

15,000

20,000

25,000

30,000

35,000

40,000

Quý

I/2016

Quý

II/2016

Quý

III/2016

Quý

IV/2016

Quý

I/2017

Quý

II/2017

SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP

GIAI ĐOẠN 2016 - 2017

Số doanh nghiệp thành lập mớiSố doanh nghiệp hoạt động trở lại

0

50,000

100,000

150,000

200,000

250,000

300,000

350,000

Quý

I/2016

Quý

II/2016

Quý

III/2016

Quý

IV/2016

Quý

I/2017

Quý

II/2017

nghìn tỷ

đồng

VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH

GIAI ĐOẠN 2016 - 2017

7.4%

3.2%

10.0%

4.1%

7.4%

10.7%

10.5%

21.9%

23.1%

15.1%

37.2%

9.7%

10.7%

30.4%

15.1%

30.9%

68.3%

0% 50% 100%

Nghệ thuật, giải trí

Vận tải, kho bãi

Nông, lâm thủy sản

Khai khoáng

Thông tin và truyền thông

Xây dựng

Buôn bán, sửa ô tô xe máy

Dịch vụ việc làm, du lịch

Sản xuất điện, nước, gas

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

Tài chính ngân hàng

CN chế biến chế tạo

Khoa học công nghệ

Giáo dục và đào tạo

Hoạt động dịch vụ khác

Y tế và trợ giúp xã hội

Kinh doanh BĐS

TỶ LỆ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP MỚI

6 THÁNG ĐẦU NĂM

163.9%

-5.5%

-9.1%

-68.5%

-19.3%

45.3%

58.2%

111.0%

37.1%

100.4%

50.3%

57.1%

19.2%

101.9%

0.7%

81.9%

42.2%

-100% 0% 100% 200%

Nghệ thuật, giải trí

Vận tải, kho bãi

Nông, lâm thủy sản

Khai khoáng

Thông tin và truyền thông

Xây dựng

Buôn bán, sửa ô tô xe máy

Dịch vụ việc làm, du lịch

Sản xuất điện, nước, gas

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

Tài chính ngân hàng

CN chế biến chế tạo

Khoa học công nghệ

Giáo dục và đào tạo

Hoạt động dịch vụ khác

Y tế và trợ giúp xã hội

Kinh doanh BĐS

TỶ LỆ VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH

6 THÁNG ĐẦU NĂM

56.324

17

2.7

TỶ LỆ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP

MỚI 6 THÁNG ĐẦU NĂM (%)

Công ty TNHH 1 TV Công ty TNHH 2 TV

Công ty cổ phần Doanh nghiệp tư nhân

35

19.7

45

0.3

TỶ LỆ VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH

MỚI 6 THÁNG ĐẦU NĂM (%)

Công ty TNHH 1 TV Công ty TNHH 2 TV

Công ty cổ phần Doanh nghiệp tư nhân

Số lượng doanh nghiệp mới và số vốn gia tăng mạnh nhất vào Quý II/2017,

trong đó đáng chú ý là quy mô của doanh nghiệp đã mở rộng, lượng vốn đăng

ký bình quân đạt 9,7 tỷ đồng trên một doanh nghiệp - tăng 24,3% so với cùng

kỳ năm trước.

28

Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh

5. Tình hình lao động việc làm

Nguồn: TCTK

Về tình hình giải thể và tạm ngừng kinh doanh, trong 6 tháng đầu năm nay số

doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trên cả nước là 5.443 doanh nghiệp -

giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2016 tăng 17%) trong đó

chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 92,2%.

Ngược lại, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động có thời hạn và tạm ngừng

đăng ký kinh doanh trong 6 tháng đầu năm nay tăng so với cùng kỳ, cho thấy

khi thị trường kinh doanh càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng cao và mức

độ sàng lọc của thị trường cũng mạnh mẽ hơn.

Lực lượng lao

động trên 15 tuổi

gia tăng

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trên cả nước tính đến thời điểm 1/7/2017

là khoảng 54,5 triệu người - tăng 0,16 triệu người so với cùng kỳ năm 2016.

Trong đó khu vực khu vực nông thôn chiếm 67,9% với 37 triệu lao động, khu

vực thành thị chiếm 32,1% tương đương 17,5 triệu người.

Trong số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, số lao động có việc làm là 53,4

triệu người (chiếm 97,98%) - bao gồm 21,6 triệu người đang làm việc ở khu

vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (40,4%); khu vực công nghiệp và xây dựng

13,6 triệu người (25,6%) và khu vực dịch vụ 18,2 triệu người (34%). Phân bổ

lao động trong các khu vực của nền kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng

giảm dần lao động trong khu vực nông lâm nghiệp thủy sản và tăng số lượng

lao động ở khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ.

29

Nguồn: Tổng cục thống kê

Nguồn: TCTK

III. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN

Một số chính sách quan trọng trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng trong tháng 6 năm 2017

1/ Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

2/ Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg ngày 12/6/2017 quy định về hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi

mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ.

3/ Quyết định 23/2017/QĐ-TTg ngày 22/6/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 246/2006/QĐ-

TTg ngày 27/10/2006 về việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã (HTX) và ban hành Quy chế hoạt động

bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX.

4/ Thông tư 03/2017/TT-NHNN ngày 06/6/2017 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 16/2012/TT-

NHNN ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số điều của

Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

5/ Thông tư 05/2017/TT-NHNN ngày 30/6/2017 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2016/TT-

NHNN ngày 26 tháng 02 năm 2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội dung

về quản lý ngoại hối đối với việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp.

42.2

24.4

33.4

LAO ĐỘNG TRÊN 15 TUỔI

6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016 (%)

Nông lâm nghiệp thủy sảnCông nghiệp và xây dựngDịch vụ

40.4

25.6

34

LAO ĐỘNG TRÊN 15 TUỔI

6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017 (%)

Nông lâm nghiệp thủy sảnCông nghiệp và xây dựngDịch vụ

Tỷ lệ thất nghiệp

và thiếu việc làm

tăng nhẹ

Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động 6 tháng đầu năm nay

tăng nhẹ với cùng kỳ năm trước, ở mức 2,28% so với mức 2,27 % của cùng

thời điểm so sánh vào năm ngoái. Tuy nhiên xu hướng thất nghiệp và thiếu việc

làm đã giảm nhẹ qua các quý.

Điểm chú ý là tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi thanh niên (từ 15-24 tuổi) đã tăng

ở mức cao trong Quý II – tăng cao nhất trong 5 quý gần đây. Trong đó tỷ lệ này

ở khu vực thành thị là 11,98% - cao gấp đôi so với khu vực nông thôn chỉ là

5,79%.

30

Diễn biến lãi suất huy động bình quân của Khối

NHTM Nhà nước

Diễn biến lãi suất huy động bình quân Khối

NHTM Cổ phần

Nguồn: Tổng hợp

25 BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Argribank

Lãi suất huy

động đã tăng phù

hợp ở các kỳ hạn

dài

Trong 6 tháng đầu năm, xu hướng tăng của lãi suất huy động cũng đã hình

thành ngay trong quý I. Tuy nhiên xu hướng tăng của các kỳ hạn ngắn gần như

chỉ xuất hiện trong 3 tháng đầu năm, trong khi đó lãi suất huy động kỳ hạn dài

trên 12 tháng diễn ra khá liên tục. Diễn biến tăng của lãi suất huy động không ồ

ạt, diễn ra rải rác trong khối các NHTM qua các tháng, bắt đầu từ các NHTM

CP nhỏ và gần đây mới xuất hiện tại các NHTM CP lớn. Thực tế này nếu xét

trên tổng thể của thị trường tiền tệ không phản ánh hình thành áp lực tăng chí

phí lãi suất trong tương lai. Xu hướng này là một sự điều chỉnh cần thiết theo

nhu cầu của thị trường, đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh

doanh của các NHTM, tránh rủi ro kỳ hạn. Kết thúc tháng 6 mặt bằng lãi suất

huy động VND ngắn hạn so với thời điểm đầu năm đã tăng nhẹ khoảng 0,01%

đối với khối NHTM Nhà nước25, tăng từ 0,02% - 0,07%/năm đối với khối

NHTM Cổ phần. Và lãi suất huy động kỳ hạn dài trên 12 tháng đã tăng trong

khoảng từ 0,02% - 0,05%/năm đối với khối NHTM Nhà nước và trong khoảng

từ 0,09% - 0,12%/năm đối với khối NHTM Cổ phần. Hiện tại, lãi suất không kỳ

hạn phổ biến trong khoảng từ 0,2% - 1%/năm ở cả hai khối NHTM Nhà nước

và NHTM Cổ phần, lãi suất huy động VND có kỳ hạn phổ biến trong khoảng từ

4,8% - 7,5%/năm đối với khối NHTM Nhà nước và trong khoảng từ 5% -

8%/năm đối với khối NHTM Cổ phần.

Lãi suất cho vay

vẫn tiếp tục duy

trì xu hướng ổn

định

Lãi suất cho vay VND đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6-7%/năm đối với

ngắn hạn, các NHTM nhà nước áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ

biến đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh

vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn;

9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng tốt, tình hình

tài chính lành mạnh, minh bạch, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-5%/năm.

Tuy nhiên, lãi suất cho vay USD đã giảm 0,1%/năm đối với tất cả các kỳ hạn.

Theo đó, lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 2,8-6,0%/năm; trong đó lãi suất

cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8-4,7%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn

ở mức 4,7-6,0%/năm.

Lãi suất liên

ngân hàng diễn

biến thuận lợi

Diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 2017 có xu hướng

giống với nửa đầu năm 2016, lãi suất tất cả các kỳ hạn đều có xu hướng tăng

trong quý I và giảm liên tục trong quý II. Diễn biến tăng, giảm diễn ra rõ nét

31

Diễn biến lãi suất liên ngân hàng qua 6 tháng đầu

năm (%)

Doanh số giao dịch liên ngân hàng 6 tháng đầu

năm (tỷ đồng)

Nguồn: NHNN

26 Ngày 09/01/2017 nâng giá mua USD từ 22.300 lên 22.575 VND/USD; Ngày 11/4/2017 nâng giá mua USD từ 22.575 lên 22.675

VND/USD; Ngày 19/6/2017 nâng giá mua USD từ 22.675 lên 22.725 VND/USD.

nhất ở các kỳ hạn ngắn (qua đêm, 01 tuần) và gần như không có sự thay đổi ở

kỳ hạn dài. Xu hướng này cũng phản ánh tình trạng thanh khoản khá ổn định

trong hệ thống và hỗ trợ cho các ngân hàng trong việc nỗ lực giảm lãi suất tín

dụng trong tình hình hiện nay. Hiện lãi suất qua đêm giao dịch ở mức

1,47%/năm; 1 tuần ở mức 1,84%/năm; 1 tháng ở mức 3,37%/năm; 3 tháng ở

mức 4,36%/năm và 6 tháng là 5,5%/năm.

Diễn biến cặp tỷ

giá VND/USD ổn

định, phù hợp

với diễn biến

trong nước và

quốc tế

Trong 6 tháng đầu năm, diễn biến của tỷ giá trung tâm, tỷ giá giao dịch trong

nền kinh tế không phản ánh áp lực đầu cơ như giai đoạn trước, đặc biệt vào

những thời điểm có sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn, cụ thể như vào

thời điểm Fed công bố tăng lãi suất trong tháng 6, giá USD bán ra của các ngân

hàng ổn định quanh mức 22.720 VND/USD; trên thị trường tự do thậm chí còn

giao dịch ở mức giá thấp hơn, khoảng 22.705 VND/USD.

Bên cạnh những yếu tố khách quan thuận lợi (cung cầu thị trường ổn định,

nguồn cung dồi dào,…), kết quả đó tiếp tục phản ánh những nỗ lực của NHNN

trong công tác quản lý ngoại hối hướng tới sự ổn định của thị trường, trong đó

đặc biệt phải kể đến cơ chế tỷ giá trung tâm đã giúp giảm dần sự phụ thuộc vào

một đồng tiền mạnh, hạn chế các cú sốc từ bên ngoài.

Sau 6 tháng đầu năm, tỷ giá trung tâm đã được điều chỉnh tăng liên tục qua các

tháng với tổng mức tăng là 1,23% so với đầu năm 2017, tăng hơn 500 VND so

với mức tỷ giá trung tâm lần đầu tiên được NHNN công bố vào tháng 1/2016.

Diễn biến tỷ giá trung tâm có phần hơi khác với xu hướng của đồng USD trên

thị trường quốc tế, tuy nhiên đây được xem là động thái chủ động đón đầu

những tác động điều chỉnh chính sách của các nước lớn. Ngoài ra, để hạn chế

những ảnh hưởng về tâm lý đến diễn biến của thị trường, từ đầu năm đến nay,

sở giao dịch của NHNN cũng đã 03 lần điều chỉnh nâng giá mua đô la (tháng 1,

4, 6 tăng từ 22.300 VND/USD hồi đầu năm lên 22.725 VND/USD)26 nhằm hỗ

trợ ngăn đà giảm mạnh của tỷ giá, có ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động thương

mại, đồng thời áp dụng giá bán thấp hơn trần biên độ với mục đích phát tín hiệu

sẵn sàng cung ứng nguồn cho thị trường. Tính đến cuối tháng 6, tỷ giá trung

tâm ở mức 22.431 VND/USD.

Trước sự chủ động của NHNN, diễn biến của tỷ giá giao dịch tại các NHTM và

32

trên thị trường tự do khá thuận lợi, không có diễn biến căng thẳng kể cả những

thời điểm mang tính quy luật hoặc những thay đổi khách quan trên thị trường

tiền tệ thế giới, diễn biến cùng xu hướng với đồng USD trên thị trường quốc tế,

giảm lần lượt là 0,07 và 1,32 so với đầu năm. Trong đó, tỷ giá giao dịch của các

NHTM tăng 02 tháng vào tháng 2, tháng 6 và tỷ giá giao dịch trên thị trường tự

do mới tăng trở lại trong tháng 6. Nhìn chung trong nửa đầu năm, tỷ giá có biến

động trong một số thời điểm, nhưng không kéo dài và không lớn. Trong 3 tháng

gần đây, tỷ giao dịch chiều bán của các NHTM diễn biến ổn định quanh mức

22.700 – 22.770 VND/USD và trên thị trường tự do là 22.690 – 22.800

VND/USD, chênh lệch tỷ giá bán trên hai thị trường đã đảo chiều mạnh từ mức

hơn 300 đồng hồi đầu năm xuống mức -10 đồng vào thời điểm cuối tháng 6.

Diễn biến tỷ giá VND/USD trong 6 tháng đầu năm 2017

Nguồn: NHNN

Giá vàng biến

động thấp hơn

rất nhiều so với

giá vàng quốc tế

Diễn biến của giá vàng trong nửa đầu năm nay đã hạ nhiệt rất nhiều so với

cùng thời điểm năm 2016. Mặc dù về cơ bản xu hướng của giá vàng trong nước

khá trùng hợp với giá vàng trên thị trường quốc tế qua các tháng, tuy nhiên do

tốc độ thay đổi ở mức thấp, thậm chí có thời điểm giá vàng trong nước không

biến động ngay cả khi giá vàng thế giới tăng khá mạnh nên hết 6 tháng giá vàng

trong nước theo chiều bán ra đã giảm nhẹ ở mức 0,59%. Khác với năm ngoái,

diễn biến của giá vàng trong nước không có được sự hỗ trợ từ lực cầu đầu tư

của thị trường, nhu cầu vàng cho mục đích kinh doanh ở mức thấp, chủ yếu là

các giao dịch nhỏ lẻ của người dân. Tính từ đầu năm, thị trường vàng trong

nước chỉ có một đợt tăng giá kéo dài 2-3 ngày trong quý I (vào thời điểm ngày

vía Thần tài hồi đầu năm và những bất ổn chính trị trên thế giới), vào thời điểm

này, vàng đã có lúc giao dịch ở mức 38 triệu đồng/lượng, nhưng sau đó nhanh

chóng xuống ngưỡng 36 – 37 triệu đồng/lượng. Kết thúc tháng 6, giá vàng trong

nước chốt giao dịch ở mức 36,16 – 36,38 triệu đồng/lượng, chênh lệch giữa giá

vàng trong nước và giá vàng thế giới giảm khoảng một nửa so với thời điểm

đầu năm, hiện là 2,228 triệu đồng/lượng.

33

Diễn biến giá vàng trong nước trong 6 tháng đầu

năm 2017

Diễn biến giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế

quy đổi ra VNĐ

Nguồn: sjc.com.vn

Nguồn: UBCKNN

276 tháng đầu năm 2016: VN-Index tăng 9,19% và HNX-Index tăng 5,95% so với cuối năm 2015.

0

2000

4000

6000

8000

600

640

680

720

760

800

3/1

/201

7

12

/1/2

23

/1/2

8/2

/201

7

17

/2/2

28

/2/2

9/3

/201

7

20

/3/2

29

/3/2

10

/4/2

19

/4/2

28

/4/2

11

/5/2

22

/5/2

31

/5/2

9/6

/201

7

20

/6/2

29

/6/2

tỷ đồng

DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE

6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017 Giá trị giao dịch (tỷ đồng)

Chỉ số HOSE

0

200

400

600

800

1000

1200

75

80

85

90

95

3/1

/201

711

/1/2

…19

/1/2

…3/2

/201

713

/2/2

…21

/2/2

…1/3

/201

79/3

/201

717

/3/2

…27

/3/2

…4/4

/201

713

/4/2

…21

/4/2

…3/5

/201

711

/5/2

…19

/5/2

…29

/5/2

…6/6

/201

714

/6/2

…22

/6/2

…30

/6/2

tỷ đồng

DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX

6 THÁNG ĐẦU NĂM 2017Giá trị giao dịch (tỷ đồng)

Chỉ số HNX

0

200

400

600

800

1000

01

/2016

01

/2016

03

/2016

03

/2016

04

/2016

05

/2016

06

/2016

07

/2016

08

/2016

09

/2016

10

/2016

11

/2016

12

/2016

12

/2016

02

/2017

03

/2017

03

/2017

04

/2017

05

/2017

06

/2017

DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE 2016 - 2017

Chỉ số HOSE

0

20

40

60

80

100

120

01

/2016

01

/2016

03

/2016

03

/2016

04

/2016

05

/2016

06

/2016

07

/2016

08

/2016

08

/2016

09

/2016

10

/2016

11

/2016

12

/2016

01

/2017

02

/2017

03

/2017

03

/2017

04

/2017

05

/2017

06

/2017

DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX 2016 - 2017

Chỉ số HNX

TTCK Việt Nam

diễn biến khởi

sắc trong 6 tháng

đầu năm

Chỉ số VN-Index và chỉ số HNX-Index đều có sự tăng trưởng vượt bậc trong

nửa đầu năm. Cụ thể, chỉ số VN-Index kết thúc phiên giao dịch cuối cùng của

tháng 6/2017 ở mức 776,47 điểm - tăng 16,8% so với đầu năm 2017. Trong khi

đó, HNX-Index tăng 23,7% lên mức 99,14 điểm. Mặc dù có thời điểm thị

trường sụt giảm nhẹ trong tháng 4 nhưng xu hướng tăng điểm được duy trì qua

cả hai Quý. So với thời điểm 6 tháng cùng kỳ năm trước27, mức tăng trưởng này

là rất ấn tượng và cao nhất trong nhiều năm trở lại đây.

34

Nguồn: Bloomberg

Nguồn: UBCK

Với kết quả này, Việt Nam đã vượt qua nhiều quốc gia và vươn lên trở thành thị

trường chứng khoán có mức tăng trưởng tốt nhất Đông Nam Á và là một trong

số những thị trường tăng trưởng cao trong khu vực châu Á.

Trong 6 tháng đầu năm, lượng thanh khoản tăng rất mạnh trên thị trường, tổng

khối lượng giao dịch trên thị trường trong 6 tháng đầu năm là khoảng 28.640

triệu cổ phiếu, với tổng giá trị giao dịch đạt 531,8 nghìn tỷ đồng – tăng 32,4%

về khối lượng và 57% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Nếu như trong năm

2016 giá trị giao dịch bình quân đạt khoảng 2.400 tỷ đồng mỗi phiên thì riêng

trong nửa đầu năm 2017, giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đã đạt gần gần

4.000 tỷ đồng.

Trong đà tăng của thị trường, nhóm các cổ phiếu có vốn hoá lớn và Bluechips

vẫn giữ vai trò chủ yếu. Trong đó có thể kể đến nhiều cổ phiếu lớn ngành Ngân

hàng như: MBB, ACB, BID, CTG, STB đã tăng mạnh trong 6 tháng qua nhờ

kết quả kinh doanh khởi sắc và tác động tích cực của các chính sách liên quan

đến công tác xử lý nợ xấu. Song song với sự khởi sắc của nhóm Ngân hàng là

nhóm cổ phiếu dịch vụ Tài chính nói chung như Chứng khoán (SSI, VCSC) và

Bảo hiểm (BVH). Bên cạnh đó, những cổ phiếu thuộc các ngành Tiêu dùng &

35

Nguồn: UBCK

IV. TRIỂN VỌNG KINH TẾ VĨ MÔ CUỐI NĂM 2017

-150

-100

-50

0

50

100

150

200

250

300

350

tỷ đồng

KHỐI NGOẠI MUA - BÁN RÒNG

TRÊN HNX GIAI ĐOẠN 2016 - 2017

bán lẻ (VNM, MSN, …); Xây dựng & Bất động sản (VIC, NVL, HBC,

HPG,…) tiếp tục tăng trưởng tốt. Đà tăng của thị trường còn có đóng góp của

nhóm cổ phiếu vốn hoá nhỏ và trung bình trong Quý I, tuy nhiên lực đẩy của

nhóm cổ phiếu này đã chững lại trong Quý II.

Diễn biến khởi sắc của thị trường phải kể đến đóng góp từ hoạt động của các

nhà đầu tư nước ngoài. Sau trạng thái rút ròng rất mạnh vào cuối năm ngoái,

khối ngoại đã mua ròng trở lại với giá trị rất lớn, tổng giá trị mua ròng 6 tháng

đầu năm 2017 trên cả 2 sàn đạt trên 9.000 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay.

Trong đó nhà đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành Tiêu dùng bán

lẻ, Xây dựng và vật liệu xây dựng và các nhóm ngành liên quan khác.

Trên sàn HOSE, khối ngoại mua ròng liên tục qua cả 6 tháng, trong đó lượng

mua ròng bắt đầu tăng vọt kể từ tháng 3. Tổng giá trị mua ròng trên HOSE đạt

8.800 tỷ đồng, tập trung ở các cổ phiếu VNM (mua ròng 4.345 tỷ đồng), sau đó

là các cổ phiếu thuộc nhóm Xây dựng & VLXD: HPG (1.023 tỷ đồng), ROS

(1.007 tỷ đồng). Bên cạnh đó, nhiều cổ phiếu mới niêm yết cũng thu hút được

lượng mua ròng lớn từ khối ngoại như: PLX (987,7 tỷ đồng); SAB (416,6 tỷ

đồng); VJC (407,6 tỷ đồng).

Trên sàn HNX, mặc dù khối ngoại mua ròng trong 4 tháng và bán ròng trong 2

tháng nhưng tổng giá trị giao dịch vẫn đạt trạng thái mua ròng với giá trị 218 tỷ

đồng. Trong đó tập tập trung ở các cổ phiếu: VGC (158,4 tỷ đồng); HUT (85 tỷ

đồng) và DBC (53,3 tỷ đồng).

Xuất phát từ các diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến tài chính, tiền tệ trong 6

tháng đầu năm có thể nhận thấy, mặc dù đã có được những vùng sáng nhất định

nhưng chưa đủ để có thể làm dịu đi những áp lực. Diễn biến của kinh tế trong

nước từ nay đến cuối năm, để có thể đạt được mục tiêu GDP mà Quốc hội đặt ra

cho năm 2017 ở mức 6,7% sẽ là một nhiệm vụ đầy thử thách, đặc biệt là trong

bối cảnh sự phục hồi đang diễn ra trên diện rộng với những tín hiệu ngày càng

rõ rệt của các nền kinh tế trên thế giới.

36

28 Tính đến 20/6/2017, tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đạt 7,54%.

Quan sát từ đầu năm đến nay, có thể nhận thấy Việt Nam đã khá chủ động trong

việc đón nhận và phòng vệ những tác động của kinh tế thế giới. Tuy nhiên các

giải pháp để vượt qua vẫn còn nhiều vấn đề cần thảo luận, ví dụ như động lực

cho tăng trưởng kinh tế cán đích là nhóm ngành nào; môi trường kinh doanh đã

được cải thiện nhưng làm thế nào để khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng,

đầu tư, sản xuất kinh doanh; làm thế nào để kích cầu mạnh hơn nữa, đặc biệt

trong điều kiện giá giảm, khu vực nước ngoài có nhiều dấu hiệu thu hẹp,….

Điều đó cũng có nghĩa là tăng trưởng kinh tế trong thời gian còn lại sẽ phụ

thuộc mạnh mẽ vào nội lực của nền kinh tế, cụ thể là khu vực sản xuất. Vì vậy,

từ nay đến hết năm, nền kinh tế vẫn phải cẩn trọng với những áp lực cả từ bên

trong và bên ngoài với những tâm điểm đáng chú ý như sau:

1/ Những quyết định còn bỏ ngỏ trong chính sách thương mại toàn cầu, trong đó

vai trò then chốt vẫn thuộc về nước Mỹ. Nếu các chính sách bảo trợ thương mại

của Chính quyền tổng thống Trump có đủ hiệu lực thực thi và có sức lan tỏa

trên toàn cầu sẽ tác động mạnh mẽ lên các đối tác có quan hệ thương mại với

Mỹ. Và không chỉ dừng ở vấn đề giá trị cán cân thương mại của Mỹ với các đối

tác mà nó còn có thể dẫn đến một cuộc chiến ngầm về tỷ giá để bảo vệ lợi ích

thương mại của các bên, vấn đề này sẽ đặc biệt ảnh hưởng tới công tác điều

hành CSTT bảo vệ ổn định giá trị đồng tiền của những nước có gắn kết chặt chẽ

với đồng USD như Việt Nam.

2/ Tốc độ tăng trưởng GDP mặc dù đã có cải thiện giữa quý I và quý II nhưng

vẫn ở mức thấp, một trong những lĩnh vực giữ vai trò trọng yếu là Công nghiệp,

xây dựng đang có đà tăng trưởng thấp so với những năm gần đây, khó khăn

không chỉ diễn ra trong một nhóm ngành mà đã diễn ra trên tất cả các ngành

thuộc khu vực này. Trong đó đáng chú ý là xu hướng diễn biến xấu của nhóm

ngành khai thác mặc dù giá cả hàng hóa năng lượng đã có sự phục hồi nhất định

so với cùng thời điểm những năm trước.

Bên cạnh đó, mặc dù lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã lấy lại đà

tăng trưởng trong thời gian trước, tuy nhiên đà tăng này có thể sẽ chững lại khi

mà nguy cơ bất ổn thời tiết, bệnh dịch vẫn đang rình rập; giá nông sản, thực

phẩm cả trong nước và thế giới đều giảm, đặc biệt là giá thịt lợn tác động tiêu

cực tới chăn nuôi, cơ cấu nông nghiệp theo định hướng hiệu quả cao vẫn còn

hạn chế, chưa có giải pháp cụ thể đối với các khu vực chịu tác động bất lợi của

môi trường biển, thị trường tiêu thụ gắn với ngành hàng trong nước chưa phát

triển… sẽ tạo ra thách thức tới mục tiêu tăng trưởng năm 2017.

3/ Diễn biến tiền tệ, ngân hàng hiện tại vẫn ổn định, diễn biến của thị trường

khá chủ động trước những tác động từ bên ngoài và phù hợp với nhu cầu của

nền kinh tế. Theo đó, tỷ giá điều hành chủ động, không tạo áp lực và rủi ro bất

ổn, lãi suất, tín dụng28 diễn biến thuận lợi, bám sát các mục tiêu đặt ra. Mặc dù

vậy, từ nay đến cuối năm không thể chủ quan đối với những thách thức từ bên

trong và bên ngoài có thể làm gia tăng áp lực trong công tác điều hành tỷ giá

cũng như những diễn biến bất ổn có thể xảy ra. Cụ thể đó là những quyết sách

lớn về điều hành CSTT của Mỹ, EU, Trung Quốc, trong đó đặc biệt là các quyết

sách ECB trước tín hiệu phục hồi mạnh mẽ của Châu Âu có thể có nhiều yếu tố

37

Dự báo của một số tổ chức về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2017

Các chỉ tiêu Trung tâm Thông tin và dự

báo kinh tế xã hội quốc gia

Ủy ban giám sát tài chính

quốc gia

Tăng trưởng kinh tế 6,5% 6,5 – 6,7%

Lạm phát 4% 2,4%

Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội 34% -

Tăng trưởng tín dụng 18% -

Nguồn: Tổng hợp từ các tổ chức

bất ngờ sẽ xảy ra; Tiếp đến là những bất lợi từ tình trạng thâm hụt cán cân

thương mại gia tăng từ đầu năm và khả năng có thể tăng ở mức cao; Lạm phát

đang có xu hướng giảm nhưng xét theo số bình quân hiện đã cao và có thể sẽ

gia tăng mạnh trong 6 tháng tới. Ngoài ra, tín dụng đã gia tăng mạnh trong 6

tháng đầu năm và sẽ còn gia tăng theo xu hướng này trong 6 tháng cuối năm.

Mặc dù room tín dụng của năm là 18% nhưng vẫn cần kiểm soát chặt chẽ dòng

tín dụng để hướng vào khu vực sản xuất, dịch vụ, kiểm soát mạnh mẽ dòng tín

dụng vào bất động sản, nhất là chứng khoán khi mà thị trường này đang bùng

nổ trở lại.