luận văn -...
TRANSCRIPT
1
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM ........ 1
1.1. Lịch sử hình thành ngành ngân hàng Việt Nam ................................................. 1
1.2. Nhiệm vụ, chức năng của ngân hàng trong quá trình phát triển đất nước .......... 5
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của NHNN VN ............................................................ 5
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTM VN ............................................................ 5
1.3 . Khái quát tình hình hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam năm qua ........... 6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM QUA ....................................................................... 11 2.1. Những thành tựu và tồn tại của ngành ngân hàng Việt Nam trước thời kỳ hội nhập
............................................................................................................................................. 12 2.1.1. Những thành tựu đạt được ......................................................................... 12
2.1.2. Những tồn tại cần khắc phục ...................................................................... 13
2.2. Những cơ hội và thách thức trong thời gian tới .................................................... 14
2.2.1. Những cơ hội .............................................................................................. 14
2.2.2.Một số thách thức ........................................................................................ 17
2.3. Triển vọng phát triển của ngành trong tương lai .................................................. 19
2.3.1. Định hướng phát triển các ngân hàng trong thời gian tới ........................... 19
2.3.2. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước
ngoài .......................................................................................................................... 21
2.3.3. Khả năng phát triển thị phần của ngành ngân hàng trong thời gian tới ...... 22
2.3.4. Khả năng tăng trưởng doanh thu và cắt giảm chi phí trong hoạt động của ngân
hàng ........................................................................................................................... 23
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng ................................... 23
2.4.1. Nền kinh tế ................................................................................................. 23
2.4.2. Lãi suất ...................................................................................................... 24
2
2.4.3. Thị trường chứng khoán ............................................................................. 25
2.5. Đánh giá về cổ phiếu ngành ngân hàng ............................................................... 27
2.5.1. Vì sao cổ phiếu ngân hàng kém hấp dẫn nhà đầu tư? ................................. 28
2.5.2. Một số lưu ý khi đầu tư vào cổ phiếu ngành ngân hàng .............................. 29
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM .................................................................. 33
3.1. Lộ trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam ............................................... 33
3.2. Xây dựng một hệ thống pháp luật cho sự phát triển ngành ngân hàng .................. 35
3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngành nhân hàng và chuẩn bị nhân lực cho
tương lai..................................................................................................................... 38
3.4. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ
.................................................................................................................................. 39
3.5. Phân định một cách rõ ràng quyền lực của Ngân hàng nhà nước với Bộ tài chính
.................................................................................................................................. 42
3.6. Phát triển thị trường liên ngân hàng Việt Nam..................................................... 43
3.7. Xây dựng các công cụ phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng ..................................... 46
3.8. Thiết lập các công cụ phòng ngừa rủi ro cho khách hàng ..................................... 47
3.9. Những việc cần làm trong thời gian tới của ngành ngân hàng Việt Nam:............. 47
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢC
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẰT
NHNNVN : Ngân hàng nhà nước Việt Nam. NHTMVN : Ngân hàng thương mại Việt Nam. TTCK : Thị trường chứng khoán. TCTD : Tổ chức tín dụng. CK : Chứng khoán. CP : Cổ phiếu. FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài FII : Đầu tư gián tiếp nước ngoài NHTW : Ngân hàng Trung Ương. NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần. NHLD : Ngân hàng liên doanh. IPO : Initial Public Offering (Phát hành CP ra công chúng lần đầu) WTO : World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới) ROA : Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. ROE : Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần. TC-NH : Tài chính ngân hàng. DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ VÀ BẢNG BIỂU Đồ thị 1.1: Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (trang 10)
Đồ thị 1.2: Tốc độ tăng huy động vốn cho nền kinh tế (trang 10)
Đồ thị 1.3: Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế (trang 12)
Đồ thị 2.1: tỷ lệ nợ xấu ở các nhóm ngân hàng (trang16).
Đồ thị 2.2: thị phần ngành ngân hàng (trang 26)
Đồ thị2.3: ROA của một số ngân hàng năm 2007 (trang36).
Đồ thị 2.4: ROE của một số ngân hàng năm 2007 (trang36).
Đồ thị 2.5: chỉ số hoạt động của một số ngân hàng (trang37).
Bảng 1.1: Phát triển NHTM VN từ 1991-1997 (trang 4)
Bảng 1.2: Phát triển NHTM VN từ 1997-2001 (trang 5)
Bảng 2.1: Số máy ATM của một số ngân hàng (trang14).
Bảng 2.2: Kế hoạch vốn điều lệ của một số ngân hàng (trang20):
Bảng 2.3: GDP qua các thời kì: (trang28)
Bảng 2.4: Giá cổ phiếu của một số ngân hàng (trang32).
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM:
1.1 . Lịch sử hình thành của ngành ngân hàng Việt Nam:
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của từng
thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng
bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm vụ đó đã trở thành hiện
thực khi bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với
những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển
biến của cục diện cách mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển
theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng lần
thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số
15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách:
- Phát hành giấy bạc
- Quản lý Kho bạc
- Thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất
- Phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ
- Đấu tranh tiền tệ với địch.
Trải qua 57 năm từ ngày thành lập ngành ngân hàng, quá trình ngân hàng Việt Nam được
chia làm 4 giai đoạn chính:
a. Thời kỳ 1951-1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và
hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương
của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản
lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách; phát
triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc
doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
b. Thời kỳ 1954-1975: Tại Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân
hàng Quốc gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi
tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau;
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
5
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và
phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam.
c. Thời kỳ 1975-1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và
thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến
hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế
độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà
(ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm
1978.
d. Thời kỳ 1986 đến nay: ngành ngân hàng Việt Nam trải qua 4 cuộc cải cách lớn:
+ Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất (1987 - 1990) :
Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1987 nhằm làm cho hệ thống ngân
hàng Việt Nam thích ứng với cơ chế mới: Cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
bắt đầu trao quyền tự chủ tài chính cho các xí nghiệp, xoá bỏ bao cấp, thực hiện chế độ hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Có hai điểm nổi bật trong công cuộc cải tổ ngân hàng lần thứ nhất. Thứ nhất là việc tách bộ
phận Quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành Hệ thống Kho
bạc Nhà nước. Thứ hai là thành lập hệ thống Ngân hàng chuyên doanh và tách chức năng kinh
doanh của Ngân hàng Nhà nước giao về cho các ngân hàng chuyên doanh. Điều này được xem như
là một bước cải tổ quan trọng vì bước đầu tách bạch rõ ràng được hai chức năng quản lý và kinh
doanh của Ngân hàng Nhà nước. Từ đó hệ thống ngân hàng Việt Nam được phân thành 2 cấp rõ rệt:
Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng chuyên doanh.
Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng lúc bấy giờ vẫn còn chứa đựng nhiều nhược điểm khiến cho
hệ thống ngân hàng không thích ứng được khi chuyển sang cơ chế thị trường:
- Thứ nhất là hệ thống ngân hàng vẫn còn mang tính chất độc quyền Nhà nước, chưa cho
phép các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động ngân hàng.
- Thứ hai là hệ thống Ngân hàng này vẫn chưa chú trọng đến vai trò hoạt động như một ngân
hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước.
- Thứ ba là hệ thống ngân hàng tổ chức theo kiểu này chưa phù hợp với hệ thống ngân hàng
của các nước trên thế giới. Điều này phần nào làm cản trở quá trình hội nhập và thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.
6
- Cuối cùng hệ thống ngân hàng này vẫn còn thiếu cơ sở pháp lý làm nền tảng cho hoạt động
của cả hệ thống khiến cho cả hệ thống lâm vào tình trạng khó
khăn vào năm 1990.
Những nhược điểm như vừa nêu trên đòi hỏi một lần nữa phải cải tổ hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Năm 1990 với sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh các tổ chức tín
dụng, hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ cải tổ lần thứ hai.
+ Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ hai (1990 - 2000)
Nhu cầu cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam xuất phát từ yêu cầu chuyển đổi từ cơ chế quản
lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước cùng với chủ
trương phát triển nền kinh tế đa thành phần. Ngày 23/05/1990 Hội Đồng Nhà nước ban hành pháp
lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về các tổ chức tín dụng. Hai pháp lệnh này đánh dấu thời
kỳ cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam lần thứ hai. Với hai pháp lệnh này hệ thống ngân hàng Việt
Nam được tổ chức gần giống hệ thống ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường, bao gồm:
• Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương
• Các tổ chức tín dụng, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát
triển, công ty tài chính và hợp tác xã tín dụng, đóng vai trò ngân hàng trung
gian
Hệ thống ngân hàng tổ chức theo pháp lệnh 1990 còn có ưu điểm nổi bật nữa là bắt đầu chú
trọng đến vai trò ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước thể hiện ở chỗ quy định và quản lý
dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Điều này nhằm bảo đảm an toàn cho cả hệ thống
ngân hàng, tránh những sự cố đổ vỡ như đã từng xảy ra trước khi có pháp lệnh.
Cải tổ hệ thống ngân hàng năm 1990 đã góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân hàng về mặt
hình thức sở hữu cũng như số lượng ngân hàng. Bảng 1 tóm tắt số lượng và hình thức sở hữu ngân
hàng thương mại từ 1991 đến 1997.
Bảng 1.1: Phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam từ 1991 - 1997
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước
1995 1996 1997
Ngân hàng quốc doanh 4 4 4
Ngân hàng cổ phần 4 41 48
Ngân hàng liên doanh 1 3 4
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 0 8 18
Tổng cộng 9 56 74
7
Mặc dù giai đoạn 1991 - 1997 với sự ra đời của pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng đã
có những bước tiến đáng kể nhưng hệ thống ngân hàng kiểu này vẫn cần có một nền tảng pháp lý
vững chắc hơn đó là luật ngân hàng.
+ Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ ba (2000 - nay)
Rút kinh nghiệm sau 7 năm thực hiện, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh các tổ
chức tín dụng đã được bổ sung sửa đổi và trở thành Luật Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và Luật
Các Tổ Chức Tín Dụng được Quốc Hội thông qua ngày 12/12/1997 và được công bố ngày
26/12/1997. Theo Luật hiện hành, hệ thống Ngân hàng
ở Việt Nam bao gồm:
• Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đóng vai trò ngân hàng trung ương
• Các Tổ Chức Tín Dụng đóng vai trò định chế tài chính trung gian.
Trong các loại hình tổ chức tín dụng vừa kể trên, ngân hàng thương mại là loại hình hoạt
động mạnh nhất và đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hiện nay. Sau khi Luật
Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra
đời, số lượng ngân hàng thương mại tiếp tục giá tăng.
Bảng 1.2: Phát triển ngân hàng thương mại giai đoạn 1997 - 2001
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Mặc dù giai đoạn này có sự gia tăng mạnh số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc
biệt là ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng nhìn chung quy mô ngân hàng còn nhỏ bé nên hiệu
quả hoạt động và sức cạnh tranh không cao. Đứng trước tình hình đó, một số ngân hàng thương mại
cổ phần đã sáp nhập lại khiến cho số lượng ngân hàng thương mại giảm chỉ còn 39 ngân hàng vào
năm 2001. Từ năm 2001 đến nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam bước vào thời kỳ cũng cố,
nâng cao trình độ nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng nhằm gia tăng sức cạnh tranh chuẩn bị tích cực
cho thời kỳ hội nhập và tự do hoá hoạt động ngân hàng theo tinh thần Hiệp Định Thương Mại Việt
Mỹ.
1997 1999 2001
Ngân hàng quốc doanh 5 5 5
Ngân hàng cổ phần 51 48 39
Ngân hàng liên doanh 4 4 4
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 24 26 26
Tổng cộng 84 83 74
8
1.2. Nhiệm vụ, chức năng của ngân hàng trong quá trình phát triển đất nước:
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của NHNN VN:
* Nhiệm vụ cơ bản của NHNN nhằm duy trì ổn định giá cả, tăng sự ổn định trong hệ thống
tài chính, tức là ổn định nền kinh tế.
* Chức năng của NHNN:
NHNN thực hiện chức năng của mình, vừa với tư cách là một bộ máy của chính phủ, cơ
quan tham mưu cho Chính phủ trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng , vừa với tư cách là ngân hàng của
các ngân hàng. Do đó NHNN VN có các chức năng như sau:
- Phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ: đây là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của
NHTW, thực hiện chức năng này có tác động rất lớn đến tình hình tài chính, tiền tệ của quốc gia.
- Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng: NHTW không trực tiếp giao dịch với
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế và cá nhân mà chỉ giao dịch với các NHTM, các tổ chức tín
dụng. Thực hiện chức năng này bao gồm các hoạt động sau:
+ Mở tài khoản và tiếp nhận dự trữ tiền của các NHTM và các TCTD.
+ Tiếp vốn cho các NHTM và các TCTD bằng nhiều hình thức như chiết khấu, tái
chiết khấu, cho vay bắt buộc trong thanh toán bù trừ.
+ Tổ chức và thực hiện hệ thống thanh toán bù trừ giữa các NHTM.
+ Tổ chức điều hành hoạt động thị trường mở, thị trường liên ngân hàng.
+ Kiểm soát tín dụng đối với các NHTM bằng nhiếu biện pháp và công cụ khác
nhau…
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTM VN:
* Nhiệm vụ của NHTM:
Nhiệm vụ cơ bản nhất của NHTM đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa cá
nhân và tổ chức, “hút vốn” từ nơi nhàn rỗi và “bơm vào” nơi khan hiếm.
* Chức năng của NHTM:
- Chức năng trung gian tín dụng: đây là chức năng đặc trưng nhất của NHTM và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động cầu
nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ người có thể vì lý do gì đó không dùng nó
một cách sinh lời sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi.
- Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán: trong khi làm
trung gian thanh toán , ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các
công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thể thanh toán..) đã tiết kiệm rất nhiều cho xã hội về chi phí lưu
thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Việc làm truung
9
gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng , không chỉ là trung
gian thanh toán truyền thống như trước mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò
ngày càng chiếm vị trí quan trọng , phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật. Ở
các nước phát triển, phần lớn công tác thanh toán đều được thực hiện thông qua séc, phần lớn séc
thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua NHTM.
- Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng cấp 2: quá trình tạo tiền của
NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong
mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống NHTW của mỗi nước. Các ngân hàng có khả năng tạo ra tiền khi
họ cho vay hoặc đầu tư, tức là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cách cho vay và đầu tư. Khi
một ngân hàng cho một cá nhân hay doanh nghiệp vay, nó tạo ra trên sổ sách của nó một khoản tiền
gởi dành cho quyền lợi của người đi vay. Tương tự như vậy, khi ngân hàng mua trái phiếu kho bạc
hay các loại chứng khoán khác cho danh mục của mình thì tiền gởi được tạo ra cho quyền lợi của
những người bán chứng khoán này. Nói một cách khái quát, ngân hàng có khả năng tạo ra tiền dưới
chiêu bài tiền gởi mới bằng cách cấp phát tín dụnd cho khách hàng và đầu tư vào chứng khoán.
- Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác: ngày nay, ngân hàng cũng như hàng
loạt các định chế tài chính khác đã và đang mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Những chức
năng độc quyền của ngân hàng ngày càng thu hẹp, đồng thời ngân hàng từng bước thâm nhập vào
chức năng của các tổ chức tài chính khác. Chẳng hạn ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh sang
lĩnh vực mô giới chứng khoán, kinh doanh bất động sản và bảo hiểm…
- Chức năng tài trợ ngoại thương và nghiệp vụ ngân hàng quốc tế: một trong những chức
năng quan trọng nhất do các ngân hàng thực hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế là tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu và nền thương mại cho các quốc gia.
* Vai trò của NHTM: vai trò của NHTM được xác định trên cơ sơ chức năng và trên cơ sở
các nhiệm vụ của nó trong từng giai đoạn. Bởi chức năng là tính vốn có của NHTM và vai trò của
NHTM cũng chính là sự vận dụng các chức năng đó vào hoạt động thực tiễn. Vai trò của NHTM
thay đổi cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội. Với các chức năng đã nêu trên vai trò của NHTM
được thể hiện ở 2 mặt:
- Thực thi chính sách tiền tệ được hoạch định bởi NHTW.
- Góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng nghiệp vụ tạo tiền.
1.3. Khái quát tình hình hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam năm qua:
Năm 2007, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, ngành Ngân hàng cũng đã đạt
được những kết quả khả quan và có những đóng góp quan trọng vào phát triển và lớn mạnh của nền
kinh tế. Nhiều cơ chế chính sách tiền tệ, tín dụng đã đi vào cuộc sống, nhiều đổi mới về tổ chức và
10
mạng lưới đã được triển khai, sự hợp tác, liên kết chiến lược với các đối tác trong và ngoài nước đã
được đẩy mạnh, nhiều NHTM đã ký kết hợp tác với nhiều tập đoàn kinh tế và ngân hàng trong và
ngoài nước. Vốn pháp định của các NHTMNN và NHTMCP đã được tăng lên vượt bậc, nhiều
NHTM CP đã gần đạt được mức vốn pháp định cho năm 2010. Nhiều loại hình dịch vụ tiền tệ, ngân
hàng đã được phát triển. Đặc biệt trong năm 2007, công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng đã
phát triển vượt bậc, thanh toán thẻ và thanh toán không dùng tiền mặt đã tăng mạnh. Tốc độ tăng
tổng tài sản của các NHTMCP đã đạt trên 30%, lợi nhuận của các NHTM đạt cao hơn nhiều năm
trước đó. Đạt được những kết quả như vậy là nhờ sự nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng và sự chỉ
đạo điều hành của Chính phủ và các cơ quan chức năng, thể hiện ngay từ đầu năm 2007, trong Nghị
quyết 03/2007/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch kinh tế -
xã hội năm 2007 đã xác định nhiệm vụ tiền tệ, tín dụng như sau: “Điều hành chính sách tiền tệ linh
hoạt theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm kiểm soát được tỷ giá, lãi suất, lạm phát…” và kế hoạch
tiền tệ, tín dụng năm 2007 là: Tổng phương tiện thanh toán tăng 20% - 23% và dư nợ cho vay nền
kinh tế tăng 18 - 22% so với năm 2006 cùng với nhiều cơ chế, chính sách đi kèm.
Tính chung trong cả nước, tính đến hết tháng 11/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư đối với
nền kinh tế của hệ thống NH tăng gần 34% và ước tính hết năm 2007 tăng tới 37-38% so với cuối
năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17-21%.
Tuy nhiên, vốn huy động trong xã hội còn có tốc độ tăng trưởng lớn hơn. Theo Hiệp hội
Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng trong cả nước
tính đến hết 31/12/2007 ước tính tăng tới 36,5%, một số ước tính khác tăng 37-37,5%, gấp hơn 3,5
lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng trưởng lớn nhất từ gần 20 năm đổi mới hoạt động
ngân hàng
cho đến nay.
Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng NH trong năm 2007 đó là đầu tư các dự
án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới và khu đô thị mới, đầu
tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng thuỷ hải sản... Bên cạnh đó, đối tượng đầu tư
chứng khoán, vàng, tiêu dùng... cũng thu hút một khối lượng
rất lớn vốn tín dụng. Tốc độ tăng trưởng đó cũng cho thấy tiềm lực về vốn trong dân, trong xã hội
rất lớn, hoạt động NH đổi mới mạnh mẽ tạo lòng tin cho khách hàng, cho người gửi tiền, dịch vụ
phát triển đa dạng. Đồng thời cũng cho thấy, người dân ngày càng có thói quen gửi tiền vào NH vừa
hưởng lãi, vừa an toàn.
Bên cạnh những thành tích ở trên cũng còn một số điều cần bàn thể hiện ở các chỉ tiêu chủ
yếu như sau:
11
05
1015202530354045
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Huy ®éng vèn cho nÒn kinh tÕ
05
10152025303540
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tæng ph¬ng tiÖn thanh to¸n
- Tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng cao hơn nhiều năm trước: tăng khoảng 37% so với
năm 2006, cao hơn mức tăng trung bình của thời kỳ 2001 - 2007 (xem đồ thị 1). Như vậy, nếu so với
chỉ tiêu đề ra đầu năm thì tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2007 quá cao, vượt 80% so
với kế hoạch. Đây là con số nói lên lượng cung tiền tệ tăng quá mức cần thiết của nền kinh tế. Tuy
nhiên, trong vấn đề này, có thể khẳng định là có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên
nhân khách quan là do năm 2007, lượng ngoại tệ vào nhiều thông qua con đường FDI, FII và kiều
hối chuyển về, xuất khẩu tăng…
Đồ thị 1.1: Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán
Nguồn: tạp chí ngân hàng số 2+3/2008
Nguồn vốn huy động của năm 2007 qua hệ thống ngân hàng tăng 39,6% so với cuối năm
2006 và là năm có tốc độ tăng huy động vốn cao nhất so với nhiều năm trước đây. Trong đó, việc
huy động tiền đồng Việt Nam tăng cao, khoảng 45,6% so với năm 2006, huy động bằng ngoại tệ chỉ
tăng ở mức 22,5%. Nếu xét về nỗ lực huy động vốn cho nền kinh tế thì đây là một thành tích đáng
kể của hệ thống ngân hàng (xem đồ thị 2).
Đồ thị 1.2: Tốc độ tăng huy động vốn cho nền kinh tế
Nguồn: tạp chí ngân hàng số 2+3/2008
12
05
10152025303540
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
D nî tÝnh dông cho nÒn kinh tÕ
Thực tế trong năm 2007, nền kinh tế có nhu cầu về vốn rất lớn cho phát triển, nhưng với tốc
độ tăng huy động vốn cao như nêu ở trên là quá cao, làm cho cầu về vốn tăng mạnh, gây ra áp lực
tăng lãi suất tiền gửi làm ảnh hưởng không tốt đến tình hình đầu tư và hiệu quả của nền kinh tế. Việc
tăng lãi suất quá cao có thể góp kiềm chế được lạm phát, nhưng có thể gây ra giảm đầu tư và hiệu
quả của nền kinh tế lại bị tổn hại trong tương lai và nền kinh tế theo vòng xoáy lại có thể gặp khó
khăn ở sự trì trệ và chậm tốc độ phát triển.
Bên cạnh hai chỉ tiêu trên thì có thể thấy, dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền
kinh tế năm 2007 cũng tăng khá mạnh tăng 37,8%, cao đột biến so với nhiều năm trước đây. Đây là
chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển nền kinh tế. Đã có ý kiến cho rằng để nền
kinh tế tăng trưởng cao cần tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhưng nếu tăng trưởng tín dụng quá cao
như năm 2007 thì cần bàn thêm. Nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội của nền kinh tế năm 2007 là trên
452 ngàn tỷ đồng, trong đó, vốn huy động qua hệ thống ngân hàng chiếm khoảng 50%, tức là cần
khoảng 226 ngàn tỷ đồng, trong khi thực tế nguồn vốn mà hệ thống ngân hàng cho vay ra nền kinh
tế tăng khoảng 262 ngàn tỷ đồng so với năm 2006, như vậy cao hơn so với nhu cầu cần thiết khoảng
36 ngàn tỷ đồng. Nhưng vấn đề cần bàn chính là chỗ vòng quay đồng tiền năm 2007 có cao hơn các
năm do các nhu cầu vốn cho kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản và vay vốn cho tiêu
dùng. Sự hoạt động sôi động và phát triển mạnh của lĩnh vực chứng khoán, bất động sản và tiêu
dùng đã tác động ngược vào hệ thống ngân hàng làm cho nó cũng sôi động theo. Hơn nữa, có lẽ vấn
đề chuyển dịch cơ cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp, thể hiện ở chỗ cho
vay đối với lĩnh vực phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực sản xuất lại chưa đáp
ứng được nhu cầu (xem đồ thị 3).
Đồ thị 1. 3: Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế
Nguồn: tạp chí ngân hàng số 2+3/2008
13
Những tháng cuối năm 2007, hệ thống ngân hàng đã thực hiện chính sách kiểm soát chặt chẽ
tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng, tránh tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng
và không an toàn. Tuy nhiên, như trên đã nêu, do những tháng đầu năm sự kiểm soát tăng tổng
phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng chưa được quan tâm đúng mức nên mặc dù các
tháng cuối năm đã có nhiều nỗ lực nhưng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn.
Trong năm 2007, đã có nhiều giải pháp, cơ chế, chính sách được tiến hành khá tốt như:
nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt đã góp phần đáng kể trong điều hành chính sách
tiền tệ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được nâng lên 2 lần từ tháng 6 năm 2007, lãi suất đã được duy trì ở
mức ổn định. Công tác chiết khấu và cho vay cầm cố đã được tiến hành hợp lý trong những trường
hợp cần thiết. Đặc biệt trong năm 2007, công tác thu nợ đã được đẩy mạnh để rút tiền về NHNN khi
đến hạn.
Cơ chế chính sách điều hành tỷ giá hối đoái đã được vận dụng linh hoạt, bám sát cung cầu
ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái đã được giữ ở mức tương đối ổn định trên thị trường liên ngân hàng và
trong nền kinh tế, không để cho đồng Việt Nam lên giá so với đồng USD.
Điểm đáng chú ý trong năm 2007, là hoạt động tín dụng tiếp tục mở rộng và có hiệu quả, tỷ
lệ nợ xấu của các ngân hàng giảm và ở mức thấp. Các NHTMNN đã tiến hành tích cực công tác
chuẩn bị cổ phần hoá. Việc IPO thành công của Vietcombank vừa qua là một điểm khởi đầu cho sự
chuyển đổi mạnh mẽ của các NHTMNN. Qua một năm Việt Nam gia nhập WTO, các NHTM và
toàn hệ thống ngân hàng nước ta đã có thêm được nhiều kinh nghiệm và đang thể hiện sự vững vàng
đi lên. Đội ngũ cán bộ của hệ thống ngân hàng đã tăng lên đáng kể..
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, vẫn còn nhiều bất cập trong chính sách tiền tệ, tín
dụng như: chất lượng tín dụng còn chưa cao được như mong muốn, nguy cơ nợ xấu tăng cao và rủi
ro tín dụng vẫn còn tiềm ẩn, công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ vẫn chưa nâng cao được đúng mức
nên hiệu quả chưa cao; chính sách tiền tệ, tín dụng vẫn chưa được để ý đúng mức trong công tác
kiềm chế lạm phát và ổn định nền kinh tế. Hệ thống dịch vụ ngân hàng đã phát triển nhưng cũng
chưa được nhiều; dư nợ cho vay nền kinh tế còn tăng quá mức cần thiết, tỷ lệ huy động vốn dài hạn
chưa cao; mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng vẫn còn phải được quan tâm.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM QUA
Năm 2007 được đánh giá là năm sôi động nhất của lĩnh vực ngân hàng, là một năm ngành
ngân hàng gặt hái nhiều thành công. Thành công này được hưởng lợi từ quá trình hội nhập của Việt
14
Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội này để phá triển. Chính sự phát triển
thuận lợi đó đã đem lại nhiều lợi ích cho ngành ngân hàng. Nhu cầu của doanh nghiệp, người dân
đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Khách hàng bắt đầu xuất hiện những nhu cầu mới và nhu cầu
cũ cũng ngày càng gia tăng. từ các lĩnh vực kinh doanh như tín dụng, huy động, đầu tư... đến việc
mở rộng mạng lưới tăng trưởng tốt, hơn bao giờ hết.
Huy động vốn đạt kỷ lục.
Theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng và tổ chức
tín dụng trong cả nước tính đến hết 31/12/2007 ước tính tăng tới 36,5%, một số ước tính khác tăng
37-37,5%, gấp hơn 3,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là tốc độ tăng trưởng lớn nhất từ gần 20
năm đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay.
Chạy đua lập ngân hàng mới.
Năm 2007 chứng kiến cuộc chạy đua xin phép thành lập ngân hàng mới của các tập đoàn,
doanh nghiệp lớn trong nước. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế thành lập và hoạt động
ngân hàng thương mại cổ phần.
Lãi suất huy động VND tăng kỷ lục.
Năm 2007, lãi suất huy động USD chứng kiến 3 đợt tăng phổ biến, ngược với diễn biến trên
thị trường thế giới. Bên cạnh đó, lãi suất huy động VND được các ngân hàng đẩy lên mức kỷ lục 2
con số, phản ánh cầu nội tệ khá căng thẳng vào những tháng cuối năm.
Các ngân hàng trong nước rơi vào tình trạng khan hiếm VND và dư thừa USD vào những
tháng cuối năm 2007. Điều này có lặp lại vào năm 2008?
Tuy nhiên cạnh tranh năm 2008 chỉ mới bắt đầu. Từ 2008 đến 2012 sự cạnh tranh sẽ tăng
mạnh mẽ và quyết liệt đồng thời với sự gia tăng của các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng
mới trong nước. Các ngân hàng sẽ giành giật nhau thị phần, các mảng kinh doanh đều có sự cạnh
tranh gay gắt. Ngân hàng nào nhanh chóng có được công nghệ, đội ngũ, quản trị rủi ro tốt thì ngân
hàng đó sẽ đứng vững. Còn những ngân hàng yếu thế sẽ có xu hướng sáp nhập với nhau. Vậy thực
lực của ngành ngân hàng như thế nào chúng ta hãy đi vào phân tích tìm hiểu.
2.1. Những thành tựu và tồn tại của ngành ngân hàng Việt Nam trước thời kỳ hội nhập:
2.1.1. Những thành tựu đạt được: - Hầu hết các ngân hàng được thành lập và hoạt động lâu năm so với các định chế tài chính
khác đặc biệt là các NHTMNN. Nên thương hiệu của các ngân hàng được biết đến một cách rộng
15
rãi, đã nằm trong trí nhớ của nhiều người. Đặc biệt đối với không ít người dân, mỗi khi có hoạt động
thanh toán, gửi tiền thì điều đầu tiên họ nghĩ đến đó là phải đến NH.
- Riêng đối với các NHTMNN thường có quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp nhà nước,
các Tổng công ty, doanh nghiệp lớn. Mạng lưới hoạt động khá rộng trên toàn quốc, nhiều khách
hàng truyền thống, thị phần lớn, ổn định. Hơn nữa, các NH này có được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ
và ở một góc độ nào đó, các NHTMNN cũng có được môi trường pháp lý thuận lợi hơn so với các
NHTM CP, liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài.
- Sau gần 15 năm hoạt động trong kinh tế thị trường, các NHTM VN đã có được một số
lượng khách hàng khá đông đảo và có mối quan hệ với hầu hết các đối tượng khách hàng. Chẳng
hạn như: Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam có thế mạnh trong việc cung cấp các khoản tín
dụng trung và dài hạn cho các dự án lớn. Ngân hàng Ngoại thương tập trung vào cung cấp các dich
vụ quốc tế như thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ...Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông
thôn Việt Nam lại tập trung vào tài trợ cho các dự án tài chính phát triển nông thôn Việt Nam với
mạng lưới chi nhánh dày đặc trên cả nước. NHTMCP tập trung phục vụ đối tượng khách hàng là
doanh nghiệp tư nhân...Các NHTM VN luôn chú trọng tới mối quan hệ với khách hàng, đặc biệt là
có thể phục vụ các khách hàng có mức độ rủi ro rất cao theo tiêu chí của các ngân hàng nước ngoài.
- Từ ngày thành lập đến nay, mạng lưới ngân hàng Việt Nam hầu như có mặt ở khắp các tỉnh
thành trong cả nước với hệ thống các chi nhánh, phòng giao dịch ngày càng gia tăng, quan hệ với
khách hàng ngày càng chặt chẽ. Đây là điều kiện thuận lợi giúp các ngân hàng tăng cường khả năng
huy động vốn và tín dụng đến những vùng tiềm năng. Và đây cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp
cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
- Sự sôi động của thị trường chứng khoán trong năm vừa qua đã khiến các dịch vụ thẻ, mở
tài khoản của cá nhân và tổ chức nhộn nhịp hơn. Điều này cùng với một số dịch vụ khác về quản lý
tài chính doanh nghiệp và cá nhân đã mang lại những nguồn thu đáng kể cho các ngân hàng. Theo
số liệu mới công bố của NHNN, đến nay (2/2008) cả nước có 32 tổ chức phát hành thẻ, với tổng số
lượng thẻ là 8,3 triệu thẻ; 4.300 máy ATM; 23.000 điểm bán hàng hoá và dịch vụ chấp nhận thanh
toán thẻ (POS). Trong đó 85% lượng máy ATM phân bố tại các thành phố lớn. Hiện có 10 tổ chức
trên toàn quốc có lượng ATM nhiều nhất sau:
Bảng 2.1: số máy ATM của một số NH
16
2.1.2. Những tồn tại cần khắc phục:: - Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều chưa xây dựng được một chiến lược cạnh tranh dài hạn
rõ ràng, đảm bảo tính khả thi cao dựa trên lợi thế riêng có, mà chủ yếu vẫn kinh doanh theo chiến
lược ngắn hạn, thậm chí là “chụp giật, bóc ngắn - cắn dài”.
- Khuôn khổ Luật Pháp điều chỉnh hoạt động Ngân hàng nói chung phần nào còn mang
nhiều dấu ấn của cơ chế mệnh lệnh hành chính và cơ chế xin - cho. Chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của NHNN nói chung còn bị giới hạn so với thông lệ quốc tế - Hoạt động Ngân hàng theo Luật
hiện hành còn bị thu hút nhiều vào nhiệm vụ quản lý Nhà nước hơn là việc phát huy các thiên chức
của NHTW.
- Các Ngân hàng đặc biệt là NHTMNN của Việt Nam hiện tại vẫn bị đánh giá là kém phát
triển và chậm hội nhập, do hạn chế về công nghệ, tài chính, vốn và trình độ quản lý. Đến nay, cả 5
NHTMNN với tổng số vốn thuộc sở hữu nhà nước cũng chỉ đạt khoảng 19.400 tỷ đồng, hệ số an
toàn bình quân toàn hệ thống chỉ đạt dưới 5%, trong khi tỷ lệ tương ứng theo thông lệ quốc tế phải
đạt tối thiểu 8%. Mặt khác, hoạt động của các NHTMNN lại chịu không ít rủi ro bởi có tới 70% vốn
huy động là vốn ngắn hạn, nguồn vốn có kỳ hạn trên 5 năm chỉ chiếm khoảng 7%, nhưng các NH
hiện nay đang phải sử dụng tới 30-35% vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn.
- Chất lượng tài sản thấp, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm nhưng vẫn còn ở tỷ lệ cao nhất là
các NHTMNN (tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2007 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng
12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. Hệ thống báo cáo chưa minh
bạch, khả năng sinh lời thấp, chi phí quản lý cao...
Đồ thị 2.1: Tỷ lệ nợ xấu ở các nhóm ngân hàng.
17
- Các sản phẩm dịch vụ mặc dù đã có sự cải tiến đáng kể so với cách đây 5-7 năm, nhưng
vẫn còn rất đơn điệu, phần lớn chú trọng đến các nghiệp vụ huy động – cho vay, thanh toán, ngân
quỹ, còn đối với các sản phẩm dịch vụ mới như: quản lý tài sản, vốn, kinh doanh chứng khoán, tư
vấn tài chính, bảo hiểm, đầu tư... chưa thực sự phát triển.
- Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất
cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu.
Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn
chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. “Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn
ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ
gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống”.
- Nguồn nhân lực có trình độ và chuyên môn cao như đội ngũ chuyên gia quản lý giỏi về cơ
chế chính sách, luật lệ quốc tế còn thiếu rất nhiều. Chưa đổi mới lề lối, phương thức làm việc, tư duy
kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ NH.
- Các ngân hàng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, trong đó có việc tìm kiếm khách
hàng để giải nguồn vốn huy động. Thị phần tín dụng cho vay cũng đang gặp phải sự cạnh tranh
quyết liệt từ thị trường chứng khoán, công ty tài chính, các quỹ đầu tư, bảo hiểm...
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn cũng có nghĩa chi phí huy động vốn của các ngân hàng cao
hơn. Chưa hết, lạm phát tính đến quý I -2008 đã lên đến 9% một kỷ lục mới trong nhiều năm qua,
các ngân hàng sẽ phải tiếp tục tăng lãi suất huy động để giữ chân cũng như thu hút khách hàng.
2.2. Những cơ hội và thách thức trong thời gian tới.
2.2.1. Những cơ hội: - Với thị trường khoảng 87 triệu dân và tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ ngân hàng còn
rất thấp (khoảng 10%) như hiện nay và có tới 95% giao dịch thanh toán tại Việt Nam sử dụng tiền
mặt, 50% doanh thu của các NHTM đến từ ngân hàng những thành phố lớn, điều này cho thấy
ngành ngân hàng ở nước ta có tiềm năng rất lớn.
18
- Việt Nam đã gia nhập sân chơi thế giới nên môi trường pháp lý sẽ thuận lợi hơn và cạnh
tranh giữa các ngân hàng cũng công bằng hơn.
- Nhu cầu dịch vụ ngân hàng và tài chính gia tăng: Gia nhập WTO sẽ làm tăng nhu cầu về
dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng quốc tế. Do các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều
cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hoá quốc tế, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đồng thời, các nhà
đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài cũng có nhiều cơ hội thâm nhập và xuất khẩu hàng hoá vào thị
trường Việt Nam nên các luồng vốn chu chuyển thông qua hệ thống tài chính, ngân hàng cũng gia
tăng. Đồng thời, gia nhập WTO là động lực đối với sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp Việt
Nam. Quá trình hội nhập quốc tế buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, nâng cao năng lực và kinh
doanh có hiệu quả hơn. Vì vậy, môi trường kinh doanh ngân hàng có mức độ rủi ro thấp hơn, hoạt
động an toàn, lành mạnh và hiệu quả hơn.Và sự hiệu quả của khách hàng chính là hiệu quả của ngân
hàng.
- Trong lộ trình thực hiện đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-
2010 và định hướng đến 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số
291/2006/QĐ-TTg ngày 29-12-2006. Ngày 24/8/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số
20/2007/CT-TTg về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách Nhà
nước. Chỉ thị này đã đem lại nhiều cơ hội mới cho các ngân hàng.
- Trong năm 2008 sẽ có khoảng trên 30 ngân hàng kết nối liên thông thanh toán thẻ với nhau,
trong đó có các đơn vị phát hành thẻ lớn như 4 ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng cổ phần như
Đông Á... với tổng số khoảng 7 triệu thẻ, 4.300 máy ATM và khoảng 22 ngàn điểm chấp nhận thẻ
trên toàn quốc. Như vậy, với sự kết nối này, gần như toàn bộ thị trường thẻ Việt Nam đã có thể liên
thông với nhau.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh: Việc gia nhập WTO sẽ thúc đẩy cạnh tranh và kỷ luật thị
trường trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng sẽ phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động, phân bổ các nguồn
vốn mà còn thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng. Ngoài ra, mở cửa thị trường tài chính
dẫn đến quá trình sắp xếp lại thị trường và hoạt động ngân hàng theo hướng chuyên môn hóa tùy
theo thế mạnh cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Hơn nữa, quá trình hội nhập sẽ tạo ra những ngân
hàng có quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả. Khả năng cạnh tranh của các ngân
hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết hợp tác với các đối tác nước ngoài trong chuyển giao công
nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường. Hội nhập quốc tế cũng tạo ra nhiều cơ hội kinh
doanh do mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với khu vực thị trường mới, các nhóm
khách hàng có mức độ rủi ro thấp.
19
- Tiếp thu công nghệ ngân hàng và trình độ quản lí: gia nhập WTO sẽ thúc đẩy sự học hỏi
kinh nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng. Đây là điều kiện tốt để tiếp thu các
công nghệ ngân hàng và các kỹ năng quản lý tiên tiến thông sự liên kết, hợp tác kinh doanh, các
khoản hỗ trợ kỹ thuật của các ngân hàng nước ngoài cho các ngân hàng trong nước. Sự tham gia
điều hành, quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước sẽ tạo điều kiện cải
thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh của các ngân hàng trong nước. Các ngân hàng trong
nước có nhiều thuận lợi trong hỗ trợ về tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức mới của các ngân hàng
nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế; hỗ trợ xây dựng năng lực quản trị ngân hàng tiên tiến,
tăng cường khả năng phòng ngừa và xử lý rủi ro nhờ áp dụng công nghệ ngân hàng, kỹ năng quản
trị, phát triển sản phẩm mới.
- Sự kết hợp giữa ngân hàng trong nước với các ngân hàng, tập đoàn tài chính lớn trên thế
giới có chi nhánh hay văn phòng đại diện tại Việt Nam (như sự hợp tác của Ngân hàng Á Châu và
Ngân hàng Standar Chactered, Ngân hàng Techcombank và Ngân hàng HSBC, Ngân hàng Phương
Nam và Tập đoàn Tài chính Hana (Hàn Quốc), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội và
Tập đoàn tài chính Mỹ The Clearwater Capital Partners (CCP)…) đã đem đến cho ngân hàng những
cơ hội cho việc phát triển ngân hàng ngày càng hiện đại hơn, chuyên nghiệp hơn. Như những kinh
nghiệm trong việc quản lý việc huy động tiền gởi, quản lý chất lượng cho các khoản cho vay, phát
triển dư nợ, mở rộng các sản phẩm, dịch vụ của ngành, ứng dụng công nghệ mới…
- Tiệp cận thị trường vốn quốc tế và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nước: Mở cửa thị
trường dịch vụ ngân hàng sẽ giúp khơi thông thu hút nguồn vốn thể hiện ở việc các ngân hàng trong
nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu
quả hơn để giảm thiểu rủi ro và chi phí cơ hội. Do các hạn chế về đầu tư tài chính được dỡ bỏ, các
ngân hàng trong nước sẽ linh hoạt hơn trong việc phản ứng, điều chỉnh hành vi của mình theo các
diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để tối đa hóa cơ hội sinh lời và giảm thiểu rủi ro. Sự hiện
diện của các thể chế tài chính quốc tế sẽ giúp cho các ngân hàng trong nước tiếp cận được dễ dàng
hơn với thị trường vốn quốc tế. Tự do hoá tài chính làm giảm chi phí vốn do giảm mức độ rủi ro trên
thị trường nội địa, thị trường tài chính trong nước trở nên có tính thanh khoản lớn hơn, vì vậy, cả các
trung gian tài chính và doanh nghiệp đều được hưởng lợi.
2.2.2.Một số thách thức: - Trước thách thức mới của quá trình hội nhập hiện nay, đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải
chuyển sang giai đoạn mới là phát triển theo chiều sâu với nhiệm vụ: cơ cấu lại các NH thương mại,
20
cổ phần hoá các NH thương mại Nhà nước, tăng quy mô vốn của các NH và cải thiện năng lực quản
trị điều hành.
- Vốn điều lệ và vốn tự có có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung và đặc biệt đối với NHTM. Vốn điều lệ là tiềm lực tài chính, là điều kiện đảm bảo
an toàn trong hoạt động tài chính của NHTM, là uy tín của NHTM để tạo lòng tin với công chúng.
Vậy mà hiện nay vốn điều lệ của NHTM VN còn nhỏ bé, kể cả các NHTM Quốc doanh, khoảng từ
2.000 - 3.000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 130 - 150 triệu USD.
Việc tăng vốn nhanh sẽ làm gia tăng áp lực lên quá trình phát triển kinh doanh của các ngân
hàng. Theo Nghị định 141/CP về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng thì các
ngân hàng thương mại cổ phần và liên doanh đến cuối năm 2008 phải đạt mức vốn tối thiểu 1.000 tỷ
đồng và đến cuối năm 2010 tất cả các ngân hàng thương mại phải có vốn tối thiểu là 3.000 tỷ đồng.
Nếu không sẽ chịu các biện pháp xử lý, kể cả thu hồi giấy phép hoạt động.
Bảng 2.2: Vốn điều lệ của một số ngân hàng:
Ngoài những ngân hàng trên, hiện nhiều ngân hàng cũng đang xây dựng kế hoạch điều chỉnh
vốn điều lệ trong năm 2008. Tuy nhiên, các phương án tăng vốn của những ngân hàng này vẫn đang
trong quá trình hoàn thiện nên chưa thể công bố đến nhà đầu tư. Việc phát hành thêm cổ phiếu tăng
vốn của ngân hàng trong năm nay chủ yếu thông qua hình thức thưởng cổ phiếu hoặc bán với giá ưu
đãi bằng mệnh giá, thay vì "treo" giá cao như 2 năm trước đây. Nguyên nhân là do cổ phiếu ngân
hàng không còn hấp dẫn giới đầu tư như trước đây. Đồng thời, nhiều ngân hàng đã điều chỉnh lợi
21
nhuận năm 2008 so với kế hoạch dự kiến ban đầu, vì diễn biến của thị trường tiền tệ đang tạo nhiều
gánh nặng lên vai các ngân hàng.
Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức an toàn của ngân hàng là tỷ trọng vốn tự có so với
tổng tài sản có rủi ro. Điều 81 - Luật các tổ chức tín dụng 12/1997 đã quy định tổ chức tín dụng phải
duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn này. Theo thông lệ quốc tế, tỷ trọng này tối thiểu là 8%. Vậy mà các
NHTM VN mới chỉ đạt mức cao nhất là gần 5%.
Mức vốn tự có nhỏ bé còn làm hạn chế khả năng mở rộng cho vay bảo lãnh do quy định của
Luật các tổ chức tín dụng - Điều 79: Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được quá
15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Điều này hạn chế NHTM cho vay bảo lãnh các dự án lớn.
- Trong năm 2008 dự báo sẽ có tới 50 ngân hàng thương mại cổ phần và khoảng 5 ngân hàng
100% vốn nước ngoài. Khoảng chục ngân hàng cổ phần mới sẽ chính thức nhập cuộc năm nay.
Chưa hoạt động nhưng một số thành viên đã mạnh dạn đặt mục tiêu lợi nhuận, điều này hứa hẹn một
cuộc cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động trong ngành ngân hàng.
- Với sự phát triển “nóng” của thị trường chứng khoán và thị trường kinh doanh bất động sản
trong giai đoạn qua, một phần nguồn tiền trong nền kinh tế đã chuyển sang đầu tư kinh doanh chứng
khoán và bất động sản. Do đó lượng tiền tạm thời nhàn rỗi gởi vào các ngân hàng không còn như
trước nữa. Một phần thị phần của ngân hàng trong lĩnh vực huy động vốn đã bị san sẽ cho các lĩnh
vực này. Tuy nhiên, nếu xét về mặt cho vay để đầu tư vào 2 lĩnh vực này thì dư nợ hiện tại không
phải là một con số nhỏ. Số tiền giải ngân cho những khoản vay này lớn đến nổi NHNN phải khống
chế lại tỷ lệ cho vay kinh doanh chứng khoán với tỷ lệ dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán
không vượt quá 20% vốn điều lệ của ngân hàng (theo quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN về việc cho
vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán và việc ban hành công văn
ngưng trong việc cho vay kinh doanh bất động sản.
- Hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay vẫn mang tính chất "độc
canh". Sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như:
quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ v.v.
- Môi trường pháp lý cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa thật sự hoàn
thiện. Mà đối với hoạt động ngân hàng trong môi trường hội nhậphiện nay thì đây là vấn đề được
xem là cấp bách. Việc chỉnh sửa, bổ sung, mà việc này lại liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, vào
sự thay đổi nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của người dân, do vậy việc thực hiện không phải
dễ dàng. Nó đòi hỏi phải có thời gian và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở hạ tầng kinh tế, trình
độ của người làm luật...
22
- Tính bảo mật cơ sở dữ liệu cũng là một vấn đề đáng lo của ngành ngân hàng, trong vòng 2
năm trở lại đây cuộc sống của chúng ta ngày càng dựa dẫm vào Internet nhiều hơn, nên hệ quả là số
vụ tấn công nhằm vào thanh toán trực tuyến, ngân hàng, giao dịch chứng khoán và mạng xã hội ảo
cũng tăng theo.
- Hội nhập kinh tế thế giới là một xu hướng tất yếu của tất cả các ngành, nghề trong nền kinh
tế. Tuy nhiên điều này không chỉ mang lại những cơ hội mới mà nó còn mang lại cả những rủi ro,
thách thức đáng kể cho toàn bộ nền kinh tế. Những biến động của một nền kinh tế sẽ nhanh chóng
lan rộng ra khắp khu vực và toàn cầu. Chính vì thế hội nhập kinh tế đồng nghĩa là việc ghánh chụi
rủi ro và sống chung với rủi ro. Trong nền kinh tế này, ngân hàng và doanh nghiệp có mối quan hệ
rất chặt chẽ với nha như nhiều NHTM VN đã nói: sự thành đạt của khách hàng cũng là sự thành đạt
của ngân hàng. Điều này có nghĩa là các ngân hàng phải cùng ghánh chịu rủi ro của doanh nghiệp
trong quá trình hội nhập. Vấn đề đặt ra là các ngân hàng Việt Nam phải làm sao quản trị được các
rủi ro đó.
- Ở nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính-
ngân hàng, các hình thức tổ chức tín dụng khác cũng ngày càng đa dạng, như: các công ty tài chính,
quỹ đầu tư, bảo hiểm và thị trường chứng khoán…Điều này đồng nghĩa với việc các ngân hàng phải
cạnh tranh quyết liệt với các TCTD về thị phần huy động vốn lẫn cho vay.
2.3. Triển vọng phát triển của ngành trong tương lai:
2.3.1. Định hướng phát triển các ngân hàng trong thời gian tới - Các NHTMNN và các NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước đóng vai trò chủ lực và đi
đầu trong hệ thống ngân hàng về quy mô hoạt động, năng lực tài chính, công nghệ, quản lý và hiệu
quả kinh doanh. Các NHTMNN cùng với NHTMCP trong nước đóng vai trò nòng cốt trong hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Các TCTD nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng khác góp phần bảo
đảm sự phát triển hoàn chỉnh, an toàn và hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc tế của các NHTM Việt Nam với chất lượng dịch vụ cao và thương hiệu mạnh.
- Tiếp tục cơ cấu lại toàn diện các NHTM theo Đề án cơ cấu lại các NHTMNN và Đề án
củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP, cụ thể:
- Tăng cường năng lực thể chế (cơ cấu lại tổ chức và hoạt động):
Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTM từ trung ương đến chi nhánh. Đổi mới tổ chức bộ
máy quản lý, kinh doanh ở hội sở chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Phân biệt rõ ràng chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị và ban điều hành. Bộ phận giúp việc Hội đồng quản trị
ít nhất gồm có Ban Kiểm soát/Kiểm toán, Hội đồng/Ủy ban quản lý rủi ro.
23
Mở rộng quan hệ đại lý, hợp tác kinh doanh, phát triển sản phẩm, ứng dụng và chuyển giao
công nghệ với các tổ chức tài chính nước ngoài. Xúc tiến hiện diện thương mại của các NHTM VN
tại các thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
Mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo
đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh. Bảo đảm để cơ quan kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát nội
bộ hoạt động độc lập và chuyên nghiệp. Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc
lập, tập trung toàn hệ thống. Phát triển các hệ thống quản lý của NHTM phù hợp với các chuẩn mực,
thông lệ quốc tế và thực tiễn của các NHTM Việt Nam.
- Tăng cường năng lực tài chính (Cơ cấu lại tài chính):
Lành mạnh hoá và nâng cao một cách nhanh chóng và căn bản năng lực tài chính của các
NHTM để bảo đảm các NHTM có đủ năng lực tài chính (về quy mô và chất lượng). Tiếp tục tăng
quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có;
giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng
cân đối của các NHTMNN.
Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp
nhập; hợp nhất; mua lại. Kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho
hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản các NHTMCP theo quy định pháp
luật, song đảm bảo không gây tác động lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho các NHTM
mua, bán, hợp nhất, sáp nhập để tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động. Bảo đảm duy trì
mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn.
- Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh
tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các ngân
hàng có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành
NHTM Việt Nam. Về lâu dài, nhà nước chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc tỷ lệ cổ phần lớn tại
một số ít NHTMNN được cổ phần hoá tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng và yêu cầu
quản lý, bảo đảm an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao nguyên tắc thương mại,
kỷ luật thị trường trong hoạt động của các NHTM.
- Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các NHTMNN và các TCTD khác. Theo đó, các
TCTD được thực sự tự chủ (về tài chính, hoạt động, quản trị điều hành, tổ chức bộ máy, nhân sự),
hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và được hoạt động trong khuôn khổ pháp lý minh
bạch, công khai, bình đẳng. Quan hệ giữa NHNN với các TCTD không chỉ là quan hệ quản lý nhà
nước mà còn là quan hệ kinh tế trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường, minh bạch, xoá bỏ
24
bao cấp, đặc quyền, thiên vị và độc quyền kinh doanh. Xoá bỏ cơ chế đại diện chủ sở hữu của
NHNN đối với các NHTMNN. NHNN đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo lập môi trường thuận lợi
cho hoạt động tiền tệ, ngân hàng thông qua việc ban hành các quy định, chính sách, điều tiết thị
trường tiền tệ và tổ chức thực hiện giám sát an toàn cũng như việc chấp hành các quy định pháp luật
trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng.
2.3.2. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài:
Hội nhập là quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có thời gian cần thiết cho sự chuyển đổi đồng thời
phải thực hiện một cách đồng bộ việc cải cách cả tổ chức và hoạt động quản lý, cả tổ chức và hoạt
động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng để có thể phát huy tối đa cơ hội và giảm thiểu
những bất lợi trong tiến trình hội nhập.
Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo cam kết song phương và đa phương sẽ làm tăng
số lượng đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý và gia tăng các áp
lực cạnh tranh trên thị trường nội địa do nới lỏng các hạn chế cho các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.
Các ngân hàng Việt Nam đang trong tình trạng vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu, chất lượng
tài sản có thấp. Nợ xấu của các ngân hàng còn lớn, trình độ quản lý ngân hàng còn yếu và khả năng
chống đỡ rủi ro của các ngân hàng Việt Nam còn thấp. Hầu hết các ngân hàng còn thiếu chiến lược
kinh doanh bền vững, chủ yếu tăng theo chiều rộng bằng tăng tài sản có, mở rộng tín dụng, không
chú trọng nâng cao chất lượng tài sản và khả năng sinh lời.
Bên cạnh đó, công nghệ ngân hàng còn lạc hậu; các ngân hàng cũng chưa thiết lập được hệ
thống quản lý rủi ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu; kiểm tra, kiểm toán chưa hiệu
quả; hệ thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán, quản lý tài chính chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Mặt khác, đội ngũ cán bộ của hệ thống ngân hàng tuy khá đông nhưng trình độ am hiểu về
chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp trong nước, quốc tế, các nguyên tắc của WTO còn chưa đáp ứng
được yêu cầu.
Không chỉ hạn chế về dịch vụ, nhân lực, tài chính, các ngân hàng Việt Nam còn phải đối mặt
với hàng loạt các thách thức khác như những rủi ro ngoại sinh từ thị trường tài chính khu vực và
quốc tế; mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối...
Từ thực tế trên có thể nói sự cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng
nước ngoài là rất yếu. hiện tại thì cuộc cạnh tranh chỉ mới bắt đầu nhưng nếu các ngân hàng không
đổi mới không chú trọng đầu tư vào công nghệ cũng như phát triển các dịch vụ ngân hàng thì thị
25
phần của các ngân hàng trong nước sẽ mất đi đáng kể theo các chuyên gia nước ngoài dự đoán thì
hoạt động mua lại và sáp nhập (M&A) sẽ là một lĩnh vực phát triển với tốc độ nhanh trong bối cảnh
tự do hóa hoạt động ngân hàng theo các cam kết với WTO và dự đoán trong vòng từ năm đến bảy
năm nữa, ở Việt Nam sẽ chỉ còn một nửa số ngân hàng so với hiện nay.
2.3.3. Khả năng phát triển thị phần của ngành ngân hàng trong thời gian tới: Trong thời gian đến khối NH thương mại cổ phần sẽ bức phá và sẽ chiếm dần thị phần của
khối quốc doanh. Hiện tại, thị phần ngân hàng đang tạm chia từ 56,9% của khối quốc doanh, 3,3%
của ngân hàng phát triển và ngân hàng chính sách, 26,5% của khối thương mại cổ phần, 9,4% của
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh, 3,9% thuộc về công ty tài chính, cho thuê tài chính
và quỹ tín dụng nhân dân
Đồ thị 2.2: Thị phần ngành ngân hàng.
Nguồn: Tổng hợp các báo và tạp chí.
Như vậy, khối NHTM nhà nước vẫn chiếm thị phần lớn trên thị trường huy động và cho vay
vốn, cho dù tỷ trọng của khối này đã giảm xuống đáng kể (66,1% năm 2006 xuống 61,6% 6 tháng
năm 2007) nhưng về số tuyệt đối vẫn tăng lên ( 6 tháng đầu năm đạt 94.472 tỷ đồng). Trong khi đó,
thị phần của khối NHTM cổ phần đã dần tăng lên từ 21,3% vào cuối năm 2006 lên 24,2% vào giữa
năm 2007. Đây có thể coi là một thành công rất đáng ghi nhận của khối NHTM cổ phần vào thời
điểm kênh huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán đã ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng nói chung và khối NHTM cổ phần nói riêng. Chịu tác
động chung của thị trường vốn là khối các tổ chức tín dụng (TCTD) phi ngân hàng, vốn huy động và
26
đi vay của khối có sự sụt giảm về thị phần của toàn hệ thống các TCTD mặc dù về số tuyệt đối các
tổ chức này vẫn tăng lên 14.130 tỷ đồng so với cuối năm 2006.
2.3.4. Khả năng tăng trưởng doanh thu và cắt giảm chi phí trong hoạt động của ngân hàng:
Vốn đầu tư cho nền kinh tế của hệ thống NH thời kỳ này sẽ tạo ra tăng trưởng ở thời kỳ sau,
ít nhất là 6 tháng. Như vậy trong các tháng cuối năm cũng như năm 2008 và các năm tới có thể
khẳng định nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có tốc độ phát triển cao không chỉ dư vốn cho vay của hệ
thống NH mà còn do tốc độ chu chuyển vốn trong thanh toán, khả năng huy động vốn để đáp ứng
cho các kênh đầu tư khác: đầu tư trên TTCK, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thành lập quỹ đầu tư và
doanh nghiệp.
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng:
2.4.1. Nền kinh tế: - Năm 2007, Việt Nam được đánh giá là con rồng kinh tế mới với bước tăng trưởng cao nhất
trong 10 năm qua (8,5%), trở thành một trong những nền kinh tế năng động và hứa hẹn nhất châu Á.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn như cơn sốt giá dầu, thiên tai, dịch bệnh nhưng thị trường tài chính Việt
Nam tiếp tục có bước phát triển mạnh với tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu đạt xấp xỉ 40% GDP, dư nợ
thị trường trái phiếu đạt 17% GDP.
Bảng 2.3: GDP qua các thời kì:
- Các NHTM mở rộng huy động vốn bằng nhiều hình thức và giải pháp khác nhau như: mở
rộng mang lưới các chi nhánh, phòng giao dịch trên phạm vi toàn quốc nhằm đảm bảo cho việc huy
động vốn được thuận tiện hơn, dễ dàng hơn. Hiện đại hóa công nghệ gắn liền với tác phong giao
dịch của nhân viên giao dịch thể hiện sự tôn trọng của ngân hàng với khách hàng cũng là một cách
để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho các NHTM. Thêm vào đó việc các NHTM tạo cho khách
hàng một sự lựa chọn linh hoạt trong việc gởi tiền đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng rất cần
thiết và tạo cho khách hàng một sự thỏa mãng, anh toàn. Nếu các NHTM nâng cao năng lực của
mình hơn nữa trong việc huy động tiền gởi thì khả năng thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn
vì dù sao đi nữa ngân hàng vẫn là một kênh huy động tiền gởi tiết kiện truyền thồng và hầu như là
an toàn tuyệt đối trong thị trường.
27
- Theo thống kê của một số tổ chức thì nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín
dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20-25%, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế. Cụ thể là trong năm 2000 vồn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với
năm trước, năm 2001 tăng 25,5%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng
khoảng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%.
- Nguồn vốn huy động của toàn hệ thống ngân hàng trong năm qua vẫn tăng một phần do thu
nhập của người dân nhìn chung tăng. Trong khi chứng khoán chỉ sôi động ở những thành phố lớn
(chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) thì hệ thống mạng lưới các NHTM ngày càng được mở
rộng. Ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng đã trở nên quen thuộc với mọi tầng lớp dân cư, từ thành
thị đến nông thôn, miền núi… Mặt khác gửi tiền vào ngân hàng vẫn có sự đảm bảo chắc chắn hơn
về độ an toàn vốn và cũng có mức sinh lời nhất định mà không phải mạo hiểm như đầu tư mua
chứng khoán.
- Nền kinh tế phát triển hoạt động đầu tư,sản xuất, thương mại xuất nhập khẩu,… phát triển
mạnh sẽ có nhiều hoạt động giao dịch thanh toán tại ngân hàng.
- Kinh tế phát triển thu nhập của người dân cao ổn định và nhu cầu tiêu dùng từ đó cũng
được nâng cao dẫn đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng sẽ phát triển mạnh trong thời
gian tới.
2.4.2. Lãi suất: - Lãi suất là một yếu tố chủ đạo ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Việc
điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn tốt nhất là một vấn đề nghệ thuật. hiện các ngân hàng
đang chạy đua về lãi suất để thu hút khách hàng. Tuy có sự can thiệp của ngân hàng Nhà nước
nhưng các ngân hàng cạnh tranh nhau mạnh mẽ thông qua các hình thức khác như thương vàng, ô
tô…
- Tuy nhiên lãi suất cũng là một con dao hai lưỡi cho cá ngân hàng. Nếu chính sách về lãi
suất mà ngân hàng đưa ra không phù hợp thì chính lãi suất sẽ làm cho ngân hàng lâm vào tình huống
khó khăn. Khi một ngân hàng tăng lãi suất thì xét trong ngắn hạn có thể thu hút được lượng tiền gởi
nhiều hơn. Nhưng cần phải xét lại nguyên nhân tăng lãi suất đó liệu có phải là do ngân hàng hoạt
động thật sự hiệu quả đang có nhu cầu đầu tư vào một dự án lớn mà với mức lãi suất hiện thời
không đảm bảo huy động đủ vốn hay do ngân hàng đang trong tình trạng bị thiếu hụt vốn đầu vào,
mức độ tin cậy của ngân hàng không cao nên phải dùng công cụ giá để cạnh tranh với các ngân hàng
khác.
28
- Cuộc chạy đua lãi suất trong thơi gian qua đã làm tăng lãi suất cho vay vốn thị trường, tức
là làm tăng chi phí vốn vay của doanh nghiệp và người kinh doanh, từ đó làm tăng giá thành sản
phẩm và dịch vụ, tác động tăng giá trên thị trường xã hội… đẩy lạm phát tăng cao.
- Lãi suất đầu vào của NHTM, tức lãi suất huy động vốn tăng cao, cộng với chi phí cao do tỷ
lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ cho việc mua tín phiếu NHNN, nhưng lãi suất cho vay
tăng chậm, khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào thu hẹp. Bên cạnh đó,
tốc độ tăng trưởng dư nợ chậm hơn tốc độ tăng huy động vốn. Cả hai nhân tố đó làm cho lợi nhuận
của NHTM ngày càng thấp, làm ảnh hưởng đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, uy tín
của NHTM.
- Việc NHNN yêu cầu các NHTM tăng dự trữ bắt buộc và mua 24.000 tỷ đồng trong những
tháng đầu năm 2008 đã đưa các ngân hàng vào cuộc chạy đua lãi suất. Trong những ngày cuối tháng
2/2008 lãi suất huy động tiền gởi của các NHTM đã thay đổi liên tục và chỉ trong thời gian hết sức
ngắn ngủi mức tăng lãi suất đã đạt được mức kỷ lục hơn 12%/ năm ở hầu hết các kỳ hạn tiền huy
động. Việc các NHTM ồ ạt tăng lãi suất như vay đã làm cho luồn tiền di chuyển một cách nhanh
chóng từ ngân hàng có lãi suất thấp sang ngân hàng có lãi suất cao. Do đó nguồn huy động của các
ngân hàng không được ổn định trong khi các ngân hàng vẫn tiến hành cho vay bình thường.
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều khiển mức cung ứng
tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu
thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một
công cụ quan trọng của NHTW trong thực hiện CSTT.
Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp
lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn điều chỉnh lãi suất của các ngân
hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng, cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra,
NHTW có thể quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định các
mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên hình thức quản lý trực tiếp lãi suất này chỉ
phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển, và xu hướng chung là giảm dần sự
quản lý trực tiếp này.
2.4.3. Thị trường chứng khoán: - Hiện nay, hoạt động huy động vốn và cho vay đang chiếm khoảng 60%, cá biệt lên tới
90%, tỷ trọng lợi nhuận của các NHTM. Con số này đang đứng trước sự chia sẻ lớn từ sức hấp dẫn
của thị trường chứng khoán.
29
- Khi TTCK phát triển một cách mạnh mẽ và trở nên đại chúng những năm vừa qua, việc đầu
tư và kinh doanh chứng khoán không cón bó hẹp ở những đối tượng có thu nhập cao nữa mà nó đã
lan rộng ra khắp các tầng lớp dân cư từ những người nội trợ đến những người buôn bán nhỏ lẻ với
một số vốn góp tích lũy cũng có thể tham gia.
- Với đặc điểm là những khoản lợi nhuận thu về từ kinh doanh chứng khoán nhanh hơn và có
thể nhiều hơn so với tiền gởi tiết kiệm ngân hàng thì việc các ngân hàng phải chia sẻ thị phần cho
TTCK là điều tất nhiên.
- Việc dòng vốn nhàn rỗi trong dân đang ngày càng đổ dồn vào thị trường chứng khoán, thay
thế thói quen gửi tiết kiệm tại ngân hàng, đặt ngành này trước sức ép cạnh tranh mới.
- Các doanh nghiệp lâu nay chỉ quen đến ngân hàng vay vốn, nay có thêm một kênh huy
động vốn trung và dài hạn khá hữu hiệu là phát hành cổ phiếu qua thị trường chứng khoán”. Vì vậy,
“sức hút của thị trường chứng khoán đối với các tổ chức, cá nhân đang gây một ảnh hưởng không
nhỏ đối với thị trường nguồn ngắn hạn và cả trung-dài hạn tại các ngân hàng.
T
R
Trong năm qua hầu hết các nhà lãnh đạo của các ngân hàng đều thừa nhận rằng tính đại chúng và sự
hấp dẫn của TTCK đã làm cho việc huy động vốn của các ngânhàng đang bị chậm lại.
Nhưng TTCK cũng đem lại lợi ích cho NH chính các công ty chứng khoán, nơi mà khách
hàng mở tài khoản cũng là khách hàng của các ngân hàng. Do đó mặc dù một phần phải chia sẻ thị
phần cho TTCK, một mặt các ngân hàng thu hút vốn trong dân cư lại thông qua các công ty
chứng khoán.
30
- Nhiều khách hàng kê khai vay vốn ngân hàng để kinh doanh nhưng thực tế là để đổ vào
chứng khoán. Điều này gây khó khăn cho việc đánh giá những tác nhân vĩ mô tới hoạt động tài
chính ngân hàng và đặt hệ thống này trước những tác động bất lợi khi thị trường chứng khoán gặp
rủi ro.
2.5. Đánh giá về cổ phiếu ngành ngân hàng. Cổ phiếu ngân hàng - được mệnh danh là “cổ phiếu vua" đang thoái vị, mặc dù ngành ngân
hàng trong năm 2007 rất sôi động và đạt được những thành tựu lớn nhưng hiện tại cổ phiếu ngân
hàng vân kém hấp dẫn với các nhà đầu tư song song với việc giảm giá, việc phát hành thêm cổ phiếu
thưởng cho cổ đông để tăng vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần nhưng tính thanh khoản đang
suy yếu từng ngày. Giá cổ phiếu nhiều ngân hàng đang mất dần tính thanh khoản những ngày gần
đây, cho dù có nhiều thông tin tích cực hỗ trợ. Hiện các nhà đầu tư chưa thể phân tích một cách đầy
đủ những lợi hại đối với từng NH, nhưng tâm lý chung là e ngại lợi nhuận trong năm nay sẽ giảm.
Giá cổ phiếu DongA Bank còn 42.000-43.000 đồng/CP, giảm hơn 4 lần so với cùng kỳ năm trước.
Thê thảm hơn, cổ phiếu của một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ như: ABBANK, VietA Bank,
Southern Bank, OCB… tính thanh khoản luôn trong trạng thái suy yếu dần.
Bảng 2.4: Giá cổ phiếu của một số ngân hàng.
Có thể nói, giá cổ phiếu ngân hàng đang có nhiều thông tin tốt hỗ trợ, nhưng vẫn khó hút
được sự quan tâm của nhà đầu tư. Năm 2008 được xem là năm thực sự khó khăn của ngành ngân
hàng. Thực tế là nhiều ngân hàng bắt đầu điều chỉnh kế hoạch lợi nhuận so với dự kiến đưa ra đầu
năm (Cụ thể, Sacombank đưa ra mục tiêu đạt 2.000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2008, thay vì
2.500 tỷ đồng như dự kiến ban đầu. Eximbank cũng cho hay, nếu tình hình khó khăn trên thị trường
31
tiền tệ kéo dài thì mục tiêu đạt 1.500 tỷ đồng lợi nhuận năm nay (tăng gấp đôi 2007) cũng rất cam
go. ABBank đã tính đến việc điều chỉnh lợi nhuận năm 2008 từ 555 tỷ đồng xuống còn khoảng 500
tỷ đồng…).
2.5.1. Vì sao cổ phiếu ngân hàng kém hấp dẫn nhà đầu tư? Vì sao nhà đầu tư quay lưng với cổ phiếu ngân hàng? Phải chăng cổ phiếu ngân hàng đã tăng
quá cao so với giá trị thực và bây giờ buộc phải điều chỉnh để giá và giá trị thực cân bằng? Hay sau
các đợt tăng vốn rầm rộ, cổ phiếu ngân hàng đã bị pha loãng hết mức? Liệu có một sự vô lý nào
không khi các ngân hàng vẫn tăng trưởng cao, vẫn trả cổ tức trên 20%/năm, có ngân hàng tới 30-
40%/năm mà giá cổ phiếu lại không bằng những công ty “thường thường bậc trung” trên sàn niêm
yết?.
Sự thiếu vắng yếu tố nước ngoài trong giao dịch cổ phiếu ngân hàng. Cả hai ngân hàng đã
lên sàn là ACB và Sacombank đều đã đầy “room” 30%. Vì thế cho dù cổ phiếu ngân hàng hấp dẫn
đến đâu chăng nữa, nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể len chân.
Với những ngân hàng chưa niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài cá nhân cũng không thể mua
như nhà đầu tư trong nước. Sở hữu một cổ phiếu ngân hàng, họ cũng phải được Ngân hàng Nhà
nước cho phép. Các tổ chức nước ngoài chỉ còn cách đàm phán, mua 10-15% cổ phần của mỗi ngân
hàng.
Mà đã thương lượng, là mất thời gian, công sức, phải hỗ trợ kỹ thuật, chưa kể các đối tác
phải hợp “gu” nhau. Hàng loạt các cuộc đàm phán mua bán cổ phần ngân hàng không thành công
mới đây là thí dụ.
Sức ép của “cơn bão” thắt chặt tiền tệ. “Cho dù có nỗ lực đến đâu thì trước mắt, hoạt động
của ngành NH năm 2008 sẽ không thuận lợi như năm 2007. Lợi nhuận sẽ bị “teo” đi. chính sách của
Nhà nước đã làm cho các NH bất ngờ, nó đã làm ảnh hưởng không chỉ cho thị trường chứng khoán
mà cho cả ngành NH.
Chỉ số lạm phát tăng cao, đồng tiền VND tăng giá cũng làm giảm độ hứng khởi của nhà đầu
tư với cổ phiếu ngân hàng. Một điều quan trọng nữa là tâm lý của nhà đầu tư bây giờ đã thay đổi.
Chơi chứng khoán không còn thắng lớn như trước nữa mà thua nhiều hơn khi thị trường chứng
khoán liên tục giảm mạnh.
Chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng nhà nước khi rút bớt tiền khỏi lưu thông chống
lạm phát đã hé mở được những yếu kém của một số ngân hàng. Vì vậy, nhiều nhà đầu tư đã giảm
niềm tin đối với nhóm cổ phiếu này.
Ngân hàng thường xuyên phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ theo lộ trình. Mỗi khi
phát hành thêm cổ phiếu ngân hàng lại sẽ thường xuyên bị pha loãng làm cho giá cổ phiếu giảm.
32
Đồng thời, cổ phiếu ngân hàng hiện đang có độ trơ rất lớn đối với thông tin bán cổ phần cho nước
ngoài. Trước đây chỉ cần có tin Ngân hàng A sắp bán cổ phiếu cho nước ngoài là giá tăng chóng
mặt, còn bây giờ ngược lại.
Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng, đặc biệt là các NHTMCP trong thời gian qua.
mạng lưới hoạt động cũng đã làm chóng mặt khách hàng, hàng loạt các chi nhánh, phòng giao dịch
trên khắp tỉnh thành cả nước nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu giao dịch của tất cả đối tượng khách
hàng.
Các ngân hàng luôn phải chịu sự kiểm tra giám sát rất khắt khe của NHNN nên không thể
vượt rào trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Ngân hàng càng tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, lại càng bất ổn định. Vì chính họ
cũng không thể tìm được cho mình nguồn khách đầu tư an toàn dẫn đến tình trạng cổ phiếu được
thổi phồng lên như bong bóng rồi lại xẹp xuống tức thì.
Thị trường đã nhận ra một số NH không có khả năng sử dụng vốn một cách hiệu quả. Các
chỉ số tài chính như P/E, PEG, ROE... đều không hấp dẫn. Các NH này không hề có khả năng gầy
dựng nghiệp vụ NH chính thống, lượng vốn huy động được từ cổ đông, NH lại đem dùng vào
việc...gửi tiết kiệm ở các NH khác hoặc cho các cổ đông “đại gia” của mình vay.
2.5.2. Một số lưu ý khi đầu tư vào cổ phiếu ngành ngân hàng:: Vốn tự có lớn (Strong capital base).
Vốn tự có lớn là một con số cần được đưa ra xem xét trước khi đầu tư vào môt ngân hàng.
Các nhà đầu tư có thể quan sát một vài thước đo. Đầu tiên, đơn giản nhất là tỉ số vốn cổ phần trên
tài sản (equity-to- assets ratio), tỉ số này càng cao thì ngân hàng đó càng tốt.
Thật khó khăn để có một quy tắc vận dụng chung bởi vì mức vốn biến đổi theo mỗi trường
hợp tuỳ thuộc vào một số yếu tố chẳng hạn như rủi ro của khoản vay đó, nhưng hầu hết các ngân
hàng lớn mà chúng tôi phân tích đều có các tỉ số về vốn trong khung từ 8% đến 9%. (định mức do
Morningstar cung cấp).
Tất cả các thước đo này được tìm thấy trong báo cáo tài chính của các ngân hàng, và nhà đầu
tư nên so sánh chúng với trung bình của ngành, cũng như với các ngân hàng khác để tìm ra đâu là
ngân hàng thành công.
ROE (return on Equity) và ROA (return on assets).
Các thước đo này là các tiêu chuẩn phổ biến nhưng không chính thức (de facto standard) .
Nói chung các nhà đầu tư nên quan sát những ngân hàng mà tạo ra ROE từ trung bình cho đến cao.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư cũng nên quan tâm đến các ngân hàng kiếm được một mức ROE không
33
chỉ là quá thấp so với mức chuẩn của ngành này, mà còn quá cao so với ngành. Tỉ số ROE trong
khoảng từ 15%-20% là cao, từ 30% trở lên là rất cao.
Một điều mà nhà đầu tư cần phải hiểu được rằng, nhiều ngân hàng có tốc độ tăng trưởng
nhanh và có ROE vào khoảng 30% hoặc thậm chí là cao hơn chỉ bởi vì dự phòng quá ít cho sự thua
lỗ các khoản vay. Hay một ngân hàng dễ dàng nâng lợi nhuận của ngân hàng trong ngắn hạn bằng
cách dự phòng thấp hoặc tăng đòn bẩy trên bảng cân đối kế toán, và điều này có thể là rủi ro lớn
trong dài hạn. Vì lí do này, thật cần thiết để xem xét thêm tỉ số ROA của ngân hàng đó có ở mức cao
hay không nữa. Nói chung, thường có một sự phù hợp nhất định giữa ROA và ROE. Đối với ngân
hàng, một ROA cao sẽ là trong khoảng 1.2% đến 1.4%(định mức do Morningstar cung cấp).
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam có tỉ số ROE trung bình trong năm
2005 là khoảng 21%. Trong khi đó tỉ số này của khu vực châu Á là 16%. Dấu hiệu này cho thấy sự
thành công của các ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên bạn cần so sánh tỉ số này giữa các ngân hàng để
xác định xem ai là người thành công nhất.
Tỷ số ROA (năm 2007).
Đồ thị 2.3: ROA của một số ngân hàng năm 2007
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng)
34
Tỷ số ROE (năm 2007)
Đồ thị 2.4: ROE của một số ngân hàng năm 2007.
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng)
Tỉ số hiệu quả hoạt động (efficiency ratios).
Tỉ số hiệu quả hoạt động đo lường chi phí không có lãi vay, hay chi phí hoạt động, như một
phần trăm của thu nhập ròng. Về cơ bản, tỉ số này nói cho bạn biết ngân hàng được quản lí hiệu quả
như thế nào. Các ngân hàng tốt có tỉ số hiệu quả hoạt động thường dưới 55% (tỉ số này càng thấp là
càng tốt). Hãy quan sát các ngân hàng có tỉ số hoạt động hiệu quả như một bằng chứng rằng các chi
phí của nó nằm trong tầm kiểm soát.
Đồ thị 2.5:Chỉ số hoạt động của một số ngân hàng.
35
Lợi nhuân biên tế từ chênh lệch lãi suất (Net interest margins).
Một thước đo đơn giản khác là phải xem xét đến lợi nhuân biên tế từ chênh lệch lãi suất. Tỉ
số này chính là tỉ lệ phần trăm giữa thu nhập ròng từ lãi so với tổng tài sản bình quân. Ý nghĩa của tỉ
số này cho chúng ta biết, 1 đồng trong tổng tài sản bình quân sẽ mang lại đựoc bao nhiêu thu nhập
từ hoạt động tín dụng .Đối với các ngân hàng Việt Nam thì tỉ số này khá quan trọng vì phần lớn thu
nhập ròng của ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Theo định mức do Morningstar cung cấp, thì lợi
nhuận biên tế này của ngành chỉ dao động trong khung từ 3% đến 4%. Nhà đầu tư nên theo dõi tỉ số
này theo thời gian để nhận ra khuynh hướng.
Doanh thu vững mạnh.
Lịch sử cho thấy một ngân hàng thành công có thể cung cấp những dịch vụ mới đi kèm với
những dịch vụ truyền thống giúp làm gia tăng thu nhập phi lãi suất cùng với thu nhập có được từ
chênh lệch lãi suất. một thực tế hiển nhiên ngành ngân hàng VN có quá ít các dịch dụ tài chính, thu
nhập chính của họ từ hoạt động truyền thống. Hãy để mắt tới 3 chỉ tiêu chính: (1) tỷ lệ thu nhập lãi
ròng, (2) tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng doanh thu và (3) tốc độ tăng trưởng thu nhập phi lãi. Chỉ
tiêu đầu tiên có thể có mức thay đổi lớn tùy thuộc những yếu tố kinh tế, môi trường lãi suất và khu
vực mà tổ chức tín dụng tập trung cho vay, cho nên tốt nhất là so sánh chỉ tiêu này của ngân hàng
với những con số tương tự của các tổ chức tín dụng tương tự. Hãy tin chắc rằng bạn so sánh những
ngân hàng tương tự với nhau và rằng bạn hiểu được chiến lược của ngân hàng. Như thường lệ hãy
xem xét những con số trong một khoảng thời gian để có được cảm nhận về khuynh hướng.
Giá trên giá trị sổ sách.
Bởi vì bảng cân đối kế toán của ngân hàng hầu hết bao gồm các tài sản tài chính với nhiều
mức độ thanh khoản khác nhau, giá trị sổ sách là một đại diện tốt cho giá trị cổ phiếu của ngân hàng.
Giả sử tài sản và nợ của ngân hàng gần bằng giá trị được ghi sổ, giá trị của ngân hàng sẽ là giá trị sổ
sách. Đối với bất kỳ phần bù nào cao hơn mức đó, có nghĩa là các nhà đầu tư đang trả cho sự tăng
trưởng trong tương lai và những thu nhập vượt mức.
Những chỉ tiêu trên nên dùng như là điểm khởi đầu cho việc tìm kiếm những cổ phiếu ngân
hàng tốt. Nhìn chung, chúng tôi nghĩ rằng cách bảo vệ tốt nhất cho các nhà đầu tư chọn cổ phiếu của
ngành dịch vụ tài chính trong đó có ngành ngân hàng là tính kiên nhẫn và một giác quan hoài nghi
tốt. Hãy lập một danh mục trên giấy các ngân hàng mà trông có vẻ hứa hẹn và tìm hiểu hoạt động
kinh doanh của họ trong một thời gian. Hãy cảm nhận loại hình cho vay mà các ngân hàng này tiến
hành, cách thức kiểm soát rủi ro, chất lượng quản trị và khối lượng vốn chủ sở hữu mà ngân hàng
đang nắm giữ.
Tóm lại cần quan tâm sến các điểm sau:
36
Một ngân hàng thường hứng chịu ba rủi ro sau và vì thế nhà đầu tư hãy nên xem xét
ban lãnh đạo ngân hàng quản trị chúng như thế nào. Các rủi ro đó là: rủi ro tín dụng (credit), rủi
ro thanh toán (liquidity) và rủi ro lãi suất.
Các nhà đầu tư nên tập trung tìm kiếm các ngân hàng mà nắm giữ vốn cổ phần lớn
hơn so với đối thủ cạnh tranh trong ngành (hay có tỉ số vốn cổ phần trên tổng tài sản cao hơn) và
tất nhiên ngân hàng đó phải có sự dự phòng đúng mức cho sự thua lỗ của các khoản vay có thể xãy
ra trong tương lai.
Các ngân hàng quản lí tốt luôn có sự cân đối phù hợp giữa thời lượng (duration) tài
sản và thời lượng (duration) của nợ. Nghĩa là , các ngân hàng luôn tài trợ cho các khoản vay dài
hạn bằng nợ dài dạn hoặc tiền gửi có kì hạn, chứ không phaỉ tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn. Nhà
đầu tư hãy nên tránh các ngân hàng thực hiện trái với điều này.
Các ngân hàng có nhiều lợi thế cạnh tranh. Chúng có thể vay tiền tại mức lãi suất
thấp, sau đó cho vay với lãi suất cao hơn. Có hiệu quả kinh tế theo quy mô cao nhờ có mạng lưới
phân phối. Đặc điểm của ngân hàng là thâm dụng vốn làm ngăn cản các đối thủ mới.
Các nhà đầu tư nên tìm kiếm các ngân hàng có vốn tự có lớn, đồng thời có ROA và
ROE cao, và khả năng tạo ra tăng trưởng thu nhập đều đặn.
So sánh các ngân hàng tương tự nhau theo thước đo P/B có thể là một cách tốt để
chắc rằng bạn không trả quá cao cho chứng khoán của một ngân hàng.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM:
3.1. Lộ trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam:
-Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết
để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng
chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy hệ thống
NH Việt Nam từng bước cải cách nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới .
Một hệ thống NH hữu hiệu trở thành kênh dẫn nhập vốn quan trọng và hàng đầu sẽ đáp ứng đầy đủ
nhu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm cho nền kinh tế để đạt đến thành công của công nghiệp hoá
và hiện đại hóa. Vì vậy lĩnh vực NH cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống NH khu vực và
thế giới, xây dựng hệ thống NH có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn
và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập.
37
Các giải pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế NH tại Việt Nam :
Hội nhập quốc tế của ngành NH đặt ra những yêu cầu thách thức để thực hiện chính sách mở
cửa lĩnh vực dịch vụ NH song song với quá trình tăng cường cải cách hệ thống NH nhằm giải quyết
nhu cầu về vốn cho nền kinh tế cần phải tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, nhanh chóng xây dựng chiến lược, chiến thuật thích hợp để đảm bảo cho quá trình
hội nhập ngân hàng thành công, mang lại lợi ích thật sự cho nền kinh tế Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng môi trường pháp lý ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Việt Nam
và hệ thống NH phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Từng bước xoá bỏ các cơ chế bao cấp, bảo hộ đối với các NHTM VN đồng thời nới rộng
dần các hạn chế đối với NH nước ngoài đi đôi với củng cố, lành mạnh hoá các NHTM Việt Nam
chính sách hiện hành
- Xây dựng các khung pháp lý đảm bảo sân chơi bình đẳng, an toàn cho các loại hình NHTM
trên lĩnh vực tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đầu tư và các nghiệp vụ tài chính khác
- Từng bước thiết lập và áp dụng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ- NH như: chuẩn mực về tỉ lệ an toàn trong hoạt động NH, phân loại, trích lập và
sử dụng dự phòng bù đắp rủi ro, bảo hiểm tiền gửi thông qua việc tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn
bản để môi trường pháp lý về hoạt động NH phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ ba, nâng cao vai trò của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ.
- Hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp quá sâu của chính phủ các cơ quan, tổ chức đối với
các hoạt động của NHNN.
- Tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ kiểm
soát trực tiếp sang gián tiếp.
- Đẩy mạnh và phát triển thị trường liên NH : Từng bước hoàn thiện hệ thống thị trường tiền
tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên NH về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của
thị trường này, đặc biệt là các công cụ phái sinh như: forward, swap, option, các giao dịch phòng
tránh rủi ro về tỷ giá, lãi suất; tập trung xây dựng và hoàn thiện các quy chế cho thị trường tiền tệ.
Mở rộng thành viên tham gia giao dịch trên thị trường cho tất cả các TCTD kể cả các chi nhánh lớn
của các NHTM quốc doanh, NHCP, NHLD chi nhánh NH nước ngoài đều có thể tham gia bình
đẳng trên thị trường liên NH. Bổ sung và đa dạng hóa các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường
như tín phiếu kho bạc nhà nước, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu nhằm từng bước tạo tiền đề thuận
lợi cho các NHTM khai thác vốn trên thị trường tiền tệ nhanh chóng và hiệu quả giải quyết tình
trạng thiếu hụt vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cân đối nguồn vốn để cho vay.
Thứ tư, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.
38
- Các NH tiếp tục đẩy mạnh việc chấn chỉnh củng cố hệ thống ngân hàng, kiện toàn các
NHTM NN, sắp xếp lại các NHTMCP theo đề án của Chính phủ và NHNN Việt Nam .
- Tăng vốn điều lệ NHTM nhằm nâng cao năng lực tài chính ngân hàng nhằm đạt tỷ lệ an
toàn trên vốn theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng
Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, giám sát từ xa và công tác kiểm toán nội bộ trên cơ
sở hiện đại hoá hệ thống thông tin, chế độ báo cáo thống kê, triển khai mô hình cung cấp và dự báo
thông tin.
Thứ sáu, xây dựng thí điểm và đưa vào áp dụng mô hình tổ chức NHTM hiện đại theo tiêu
chuẩn quốc tế. Tiến hành cơ cấu tổ chức lại và quản lý các NHTM theo nhóm khách hàng và loại
dịch vụ của một NH đa năng, thay thế dần cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ hiện nay,
đồng thời nâng cao trình độ quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ - tài sản có, và kiểm soát nội bộ, nhằm
để tạo tiền đề xây dựng một số tập đoàn tài chính mạnh, có khả năng hoạt động như một NH quốc
tế.
3.2. Xây dựng một hệ thống pháp luật cho sự phát triển ngành ngân hàng:
Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập mạnh mẽ với thế giới nhưng lĩnh vực ngân hàng vẫn còn
nhiều hạn chế do còn nhiều bất cập về hệ thống pháp luật, nhiều luật và các văn bản dưới luật thuộc
lĩnh vực ngân hàng trái ngược nhau, không còn phù hợp với thực tiễn. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế và các cam kết nước ta đã ký khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc sửa
đổi luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng là một yêu cầu cấp bách đã được ấn định
thời gian và thông qua trong chương trình xây dựng luật năm 2008 của Quốc hội khoá XII. Đây là
hai luật có tính nhạy cảm và phức tạp, cần được xem xét kỹ lưỡng để sửa đổi, bổ sung phạm vi và
mức độ khá lớn để bảo đảm phù hợp với điều kiện và đặc điểm của nước ta cũng như các yêu cầu
nước ta đã ký về lĩnh vực dịch
vụ tài chính ngân hàng khi gia nhập WTO
Thứ nhất, nhận thức lại khái niệm dịch vụ ngân hàng và thống nhất quan niệm về dịch vụ
ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế.
Theo quy định chung của Hiệp định GATS, không có một khái niệm riêng cho dịch vụ ngân
hàng mà trên thực tế, dịch vụ này (giống như dịch vụ về bảo hiểm và chứng khoán) được coi như
một loại hình dịch vụ tài chính. Cũng theo Hiệp định này, dịch vụ tài chính là bất kì dịch vụ nào có
tính chất tài chính, do một nhà cung cấp dịch vụ tài chính của một thành viên thực hiện.Dịch vụ tài
chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và
dịch vụ tài chính khác.
39
Như vậy, theo thông lệ quốc tế, dịch vụ ngân hàng là khái niệm rất rộng, bao gồm tất cả các
hoạt động ngân hàng của một tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường vì mục tiêu lợi
nhuận. Tuy nhiên, đối chiếu với pháp luật Việt Nam hiện hành tại, quan niệm về dịch vụ ngân hàng
lại được hiểu khá hẹp, không bao gồm hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng. Sự khác biệt
này có thể dẫn tới những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Việt Nam đối với các hoạt động
ngân hàng do tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng của các nước thành viên WTO thực hiện tại Việt
Nam. Điều đó cho thấy yêu cầu cần thiết và cấp bách của việc thay đổi quan niệm về dịch vụ ngân
hàng trong pháp luật Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính hợp lí của khái niệm dịch vụ ngân hàng
theo tiêu chuẩn quốc tế như Hiệp định GATS đã ghi nhận. Sự thay đổi này tất yếu dẫn đến những
thay đổi quan trọng trong pháp luật hiện hành ở Việt Nam về mỗi loại hình dịch vụ ngân hàng,
chẳng hạn như các quy định về nhận tiền gửi, cấp tín dụng hay các quy định về dịch vụ thanh toán,
dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ bảo quản hiện vật quý và dịch vụ tín thác…
Thứ hai, quy định chặt chẽ hơn về các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân
hàng nhưng đồng thời phải đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong hoạt động cấp giấy phép. Giải
pháp này nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị
trường sau khi đã được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Quan trọng hơn, đây còn là giải pháp
nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của các quy định về quản lí, giám sát từ phía Nhà nước
đối với hoạt động ngân hàng, góp phần làm giảm chi phí giao dịch và chi phí gia nhập thị trường của
các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở nhận thức lại về vai trò của Nhà nước và các hiệp hội nghề nghiệp trong
lĩnh vực dịch vụ ngân hàng nên chuyển giao một số vấn đề hiện đang được quy định trong Luật các
tổ chức tín dụng sang cho Hiệp hội ngân hàng quy định, ví dụ như các quy định về điều kiện giao
dịch; quy trình nghiệp vụ giao dịch; điều lệ mẫu và hợp đồng mẫu; nội quy và quy chế hoạt động
của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trên thị trường. Sự phân quyền này là hợp lí bởi lẽ
trong nền kinh tế thị trường, cho dù đối với lĩnh vực kinh doanh đặc thù như lĩnh vực dịch vụ ngân
hàng thì Nhà nước cũng chỉ nên can thiệp bằng các quy định có tính chất nền tảng và ở tầm vĩ mô
còn các quy định liên quan đến chuyên môn và nghiệp vụ kinh doanh của các nhà cung cấp dịch vụ
ngân hàng thì nên để cho các hiệp hội nghề nghiệp (ví dụ như Hiệp hội ngân hàng) quy định có tính
hướng dẫn. Giải pháp này vừa làm giảm gánh nặng quản lí của Nhà nước, vừa phát huy được vai trò
tích cực của hiệp hội nghề nghiệp trong quá trình tham gia quản lí, giám sát đối với thị trường, đặc
biệt là loại hình thị trường có nhiều đặc thù về nghiệp vụ kinh tế như thị trường dịch vụ ngân hàng.
40
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung và ban hành thêm một số quy định nhằm đảm bảo tính minh bạch và
tính hiệu quả cho pháp luật ngân hàng. Giải pháp này được xem là cần thiết và có tính đột phá nhằm
cải thiện nhanh chóng môi trường kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam.
Các quy định cần được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhằm minh bạch hóa môi trường
pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam bao gồm:
- Sửa đổi các quy định về điều kiện cấp giấy phép đối với các tổ chức nước ngoài có hoạt
động dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, theo hướng đảm bảo sự bình đẳng về các điều kiện cấp giấy
phép giữa tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trong nước với tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh, văn phòng đại
diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam theo hướng bổ sung thêm quy định về việc cấp
giấy phép hoạt động ngân hàng tại Việt Nam cho các tổ chức nước ngoài không phải là tổ chức tín
dụng. Giải pháp này nhằm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch của pháp luật Việt Nam về việc tạo cơ
hội bình đẳng cho tất cả các tổ chức nước ngoài muốn cung ứng dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam.
Đây cũng chính là cách để Việt Nam thực hiện đúng các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch
vụ ngân hàng.
- Sửa đổi quy định về chủ thể gửi tiền tiết kiệm tại tổ chức tín dụng theo hướng cho phép
mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài, kể cả các tổ chức kinh doanh đều được gửi tiết kiệm
tại ngân hàng bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ.
- Sửa đổi các quy định về huy động vốn theo hướng quy định bình đẳng về giới hạn an toàn
trong hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài
có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về dịch vụ thanh toán theo hướng quy định bình đẳng về
quyền phát hành thẻ và cung cấp không giới hạn các dịch vụ thẻ tại Việt Nam giữa các tổ chức tín
dụng nước ngoài và các tổ chức tín dụng trong nước.
- Sửa đổi các quy định về cho thuê tài chính hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng cho thuê
tài chính, bao gồm cả động sản và bất động sản. Giải pháp này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu
thực tế của cả bên thuê và bên cho thuê trong quá trình cung cấp và sử dụng dịch vụ cho thuê tài
chính mà còn đảm bảo cho pháp luật Việt Nam về dịch vụ cho thuê tài chính phù
hợp hơn với thông lệ quốc tế
41
3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngành nhân hàng và chuẩn bị nhân lực cho
tương lai:
- Sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới cùng với nhu cầu mở rộng mạng lưới của các ngân
hàng hiện nay đang khiến cơn sốt nhân lực trong lĩnh vực này ngày một nóng bỏng. Nhiều công ty
tài chính, chứng khoán, quỹ đầu tư ra đời cũng càng đổ thêm dầu vào lửa. Hiện nay cả nước đã có
25 ngân hàng thương mại cổ phần, 6 ngân hàng quốc doanh, 44 ngân hàng đại diện nước ngoài, 4
ngân hàng 100% vốn nuóc ngoài chưa kể các ngân hàng đang đợi nhà nước cấp phép thành lập
cộng thêm hàng loạt chi nhánh, phòng giao dịch được “tăng cường” khắp các tỉnh, thành đã đẩy
“cầu” nhân sự lên mức “báo động đỏ”. Ta có thể nhẩm tính như sau: Để có một điểm giao dịch cần
tối thiểu 10 người, mở một chi nhánh mới cần ít nhất 20-30 người, và để “ra mắt” một NH mới
“khiêm tốn” lắm phải có trên 100 người. Như vậy, chưa cần nắm con số chính xác nhưng nhắm mắt
cũng ước đoán được số lượng nhân viên buộc phải có lớn như thế nào. Theo tính toán sơ bộ, 30.000
người là số lượng nhân viên cần cho ngành tài chính – ngân hàng trong năm nay và đến năm 2012 sẽ
cần ít nhất là 1,8 triệu người.
Ví dụ như: Habubank chỉ trong 1 năm đã có thêm 30 chi nhánh và điểm giao dịch mới, VP bank có
thêm gần 60 điểm, ngân hàng Á Châu trong năm vừa qua đã mở trên 100 chi nhánh và dự định trong
năm 2008 sẽ mở thêm khoảng 150 chi nhánh, phòng giao dịch.
- Với tốc độ mở ngân hàng như vậy thì tốc độ đào tạo sinh viên về ngành này cũng không hề
thua kém, theo thống kê thì đến cuối 2007 cả nước có 33 trường đào tạo ngành tài chính - ngân hàng
trình độ đại học, 16 trường cao đẳng, 8 trường trung cấp chuyên nghiệp với trên 63.000 sinh viên
chính quy và trên 30.000 sinh viên hệ vừa học vừa làm tốt nghiệp ra trường hằng năm...Với số
lượng sinh viên ra trường lớn như vậy nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực
cho ngành này hiện nay. Không đáp ứng được nhu cầu hiện nay có thể xuất phát từ nhiều nguyên
nhân sau: việc đào tạo tại các trường chưa chú ý đến nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực trong xã hội
cũng như chưa gắn với thị trường lao động, sinh viên ra trường khi đi phỏng vấn chưa thể hiện được
những tố chất mà nhà tuyển dụng yêu cầu như năng động.
- Từ những áp lực về lượng đã dẫn đến sự dễ dãi về chất trong việc tuyển dụng nhân sự đó là
điều nhận thấy ở tất cả các ngân hàng hiện nay vì hầu hết các NH hiện nay đang trong tình trạng
thiếu nhân lực trầm trọng, trừ các vị trí quản lý cấp cao ra thì các vị trí còn lại chỉ đòi hỏi ứng viên
những yêu cầu cơ bản như tốt nghiệp đại học, các ứng viên chỉ cần nắm được những kiến thức
nghiệp vụ căn bản đã được học tại trường là đạt yêu cầu không yêu cầu về kinh nghiệm làm việc hay
42
phải tốt nghiệp loại khá, giỏi...Do đó, việc đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên mới
được coi là việc tất yếu nên hiện nay hầu hết các NH đều xây dựng Trung tâm đào tạo của riêng
mình.
- Từ những yếu tố nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho những sinh viên năm 3,4 ngành tài
chính- ngân hàng. Chưa bao giờ mà sinh viên ngành tài chính – ngân hàng lại có thể dễ dàng tìm cho
mình một công việc thích hợp như hiện nay. Mặc dù, chỉ là sinh viên năm cuối chưa được nhận bằng
tốt nghiệp nhưng vẫn được nhận vào làm hẳn hoi với mức lương gần 2 triệu đồng/ tháng, tính ra mỗi
sinh viên có thể nhận được 60.000đồng/ngày với công việc là ngồi đọc sách. Với đủ mọi cách để giữ
chân những sinh viên năm cuối, các ngân hàng đã dùng những chiến thuật của mình như trao học
bổng cho sinh viên nhưng với điều kiện ràng buộc là phải phục vụ cho ngân hàng mình đã nhận học
bổng từ 3-5 năm để đáp ứng cho nhu cầu khan nhân lực hiện nay.
- Tuy nhiên, cần phải có những giải pháp cụ thể để có thể đào tạo được một đội ngũ nhân
viên đủ cả về lượng và chất phục vụ cho ngành tài chính – ngân hàng trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, để ngành này có thể cạnh tranh được với khu vực và thế giới như:
+ Hạn chế đào tạo theo hướng sinh viên chỉ ngồi lắng nghe trong khi giảng viên đứng giảng
100%, mà nên kết hợp theo hướng kết hợp giữa thầy và trò, giảng viên nên giao cho sinh viên về
nhà làm bài trước sau đó lên thuyết trình và cuối cùng thầy cô tổng kết lại. Như vậy, sẽ làm cho sinh
viên năng động hơn.
+ Cần phải tăng cường “trao đổi” các giáo viên có chất lượng cao giữa các trường lẫn nhau
đồng thời nâng cao chất lượng giảng viên của mình bằng cách tạo cơ hội cho giảng viên trường
mình đi học ở nước ngoài.
+ Các trường đại học , cao đẳng nên liên kết với các ngân hàng đào tạo theo hướng mà họ
yêu cầu, đặt hàng. Mỗi năm, các trường phải liên kết với các ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho
các sinh viên thực tập để họ nhanh chóng ứng dụng được các kiến thức đã học.
+ Ngoài ra, các trường cần thống nhất hệ thống bài tập và câu hỏi kiểm tra, có thể lập ngân
hàng bài tập và câu hỏi kiểm tra trên mạng cho sinh viên; xây dựng phần mềm mô phỏng tác nghiệp
của ngành TC-NH; đẩy mạnh đưa chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh vào trong nhà trường;
đồng thời xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành TC-NH phục vụ quản lý Nhà nước và nhiệm vụ đào tạo
3.4. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ:
43
- Điều 3 Luật NHNN 1997 khẳng định: “Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện
CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trong mối tương quan với cân đối ngân sách nhà
nước và mức tăng trưởng kinh tế.... Chính phủ xây dựng CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng
năm trình Quốc hội quyết định; tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng
bổ sung cho lưu thông hằng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội; quyết định các chính sách cụ thể khác và các giải pháp thực hiện..... ”.
Điều 4 Luật NHNN 1997 quy định: “Chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia
để tư vấn cho Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc về nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ về CSTT. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia do Chính phủ quy
định.”
Như vậy, hiện tại mặc dù được quy định là NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nhưng thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT còn hạn chế, NHNN có
mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. NHNN chỉ là cơ quan
xây dựng dự án CSTT Quốc gia để Chính phủ trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ
chức thực hiện; việc quyết định lượng tiền bổ sung vào lưu thông hằng năm cũng do Chính phủ
quyết định, NHNN có trách nhiệm điều hành trong phạm vị đã được duyệt,… Trong khi chức năng
NHTW chưa được khẳng định rõ nét, NHNN lại có trách nhiệm thực hiện nhiều nhiệm vụ thuộc về
chức năng quản lý nhà nước.
- Thêm vào đó trong suốt thời gian qua mục tiêu và vai trò của Ngân hàng Nhà nước còn
nhập nhằn với nhau, chưa được xác định, phân biệt rõ ràng. Khi mà mục tiêu của NHTW không
được xác định một cách chính xác, rõ ràng thì vai trò của nó cũng khó mà phân định được một cách
đúng đắn, đặc biệt là trong quan hệ với các ngành kinh tế khác như Tài chính, Kế hoạch và đầu
tư…Trong điều kiện kinh tế thị trường, hầu hết các NHTW trên thế giới đều xác định mục tiêu của
mình là: “duy trì sự ổn định của giá cả”. Vậy mục tiêu của NNHTW VN trong thời gian tới là gì ?
- Theo đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ( ban hành kèm theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ ) thì nhiệm vụ của NHNN nhằm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng, go1pn phần tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế-xã hội. NHNN độc lập, tự chủ trong việc xây dựng, điều hành CSTT, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của NHNN trong việc tổ chức thực hiện chiến lược, xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở phân định rõ quyền hạn, nhiệm vụ và hạn chế sự can thiệp của các cơ quan liên quan vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, pháp
44
luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Như vậy một câu hỏi tiếp tục được đặt ra là “phải xây dựng một NHNN độc lập với Chính phủ, tự chủ theo mô hình nào? Theo tiêu chí nào?” - Thêm vào đó sự biến đổi không ngừng của nền kinh tế chuyển đổi trong bối cảnh hội nhập
đã khiến cho pháp luật ngân hàng Việt Nam bộc lộ dần những hạn chế và bất cập thể hiện rõ nhất ở
quy định vị trí pháp lí, chức năng, cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan phát hành tiền quốc gia
hay Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNNVN). Nhiều quy định hiện hành của Luật ngân hàng
nhà nước Việt Nam đã và đang thể hiện lối tư duy và cách tiếp cận cũ, mang nhiều dấu ấn của cơ
chế quản lí hành chính bao cấp trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các quy định này tỏ ra
không phù hợp với thông lệ chung trên thế giới về địa vị pháp lí của cơ quan phát hành tiền quốc
gia. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Theo thông lệ của quốc tế thì cơ quan đứng đầu và điều hành hệ thống ngân hàng của một
nước sẽ là ngân hàng trung ương của nước đó. Nhưng ở Việt Nam hiện nay lại là “Ngân hàng nhà
nước”. Các chức năng của Ngân hàng nhà nước hiện nay cũng được quy định theo hướng quá coi
trọng chức năng quản lí nhà nước về ngân hàng, trong khi chức năng ngân hàng trung ương lại được
quan tâm không thỏa đáng, chỉ phản ánh được khía cạnh sở hữu của nhà nước đối với cơ quan đặc
biệt này chứ không phản ánh được bản chất là ngân hàng trung ương của nước Việt Nam và các
chức năng vốn có của nó so với các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
- Mô hình tổ chức của NHNNVN hiện nay còn quá nặng nề, cồng kềnh và hoạt động chưa
hiệu quả. Mô hình này dường như chỉ nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước chứ
không có nhiều tác dụng trong việc thực hiện chức năng của một ngân hàng Trung ương.
-Các quy định về hoạt động của Ngân hàng nhà nước còn thể hiện tư duy sử dụng mạnh mẽ
các biện pháp hành chính trong quá trình quản lí nhà nước cũng như thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia và giám sát an toàn đối với hệ thống ngân hàng.
=> Từ những thực trạng về NHNN hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về ngân hàng trung
ương ở Việt Nam cần hướng tới các giải pháp lớn sau đây:
- Việc cần làm đầu tiên là nên đổi tên “ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam” thành “Ngân Hàng
Trung ương Việt Nam”. Và theo dự kiến tháng 06/2009 thì NHNN sẽ trở thành NHTW. Vấn đề này
có vẻ như chỉ mang tính hình thức nhưng tên gọi này cũng dễ dàng được thế giới chấp nhận hơn vì
đó là một thông lệ của quốc tế và có thể đó là một sự thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào sân chơi toàn cầu.
- Ngân hàng Nhà nước không được độc lập hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ, lại có thể
bị can thiệp, chi phối bởi các chính sách khác của Chính phủ như chính sách tài khóa, mục tiêu tăng
45
trưởng...
- NHNN phải được quyền quyết định các định hướng, giải pháp trong xây dựng và điều hành
CSTT quốc gia cũng như trong việc thực hiện các chức năng khác của NHTW. Tất nhiên, song song
với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành
CSTT và thực hiện các chức năng của NHTW.
- Cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai trò độc lập của NHTW nghĩa là NHTW
thoát ly hoàn toàn khỏi Chính phủ mà nó thể hiện ở 3 tiêu thức cơ bản: mức độ quyết định của
NHTW trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, mức độ tự chủ về ngân sách, ảnh hưởng
của áp lức chính trị tác động đến vấn đề tổ chức và hoạt động của NHTW. Mục tiêu cuối cùng của
CSTT và cũng là mục tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì
vậy, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ nhằm bảo đảm
hoạt động của NHTW hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ.
-Tiến tới thực hiện Chính sách lạm phát mục tiêu. Lạm phát mục tiêu là một trong những
khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung dài hạn về
lạm phát và NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này, NHNN phải có
quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra các công cụ của CSTT. Bên cạnh
đó, dân chúng cũng phải được thông báo về khuôn khổ CSTT và việc thực hiện CSTT.
- Tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN. Theo đó, nhiệm kỳ của Ban
lãnh đạo NHTW có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm
kỳ của Chính phủ. Như vậy, quá trình ra quyết định của NHTW sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ
thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh hưởng một khi Chính phủ
thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ.
- Để đảm bảo tính độc lập về hoạt động, cần có qui định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng
của Chính phủ” theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng
gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức, và
lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các ngân hàng thương mại vay.
3.5. Phân định một cách rõ ràng quyền lực của Ngân hàng nhà nước với Bộ tài chính:
Để phân biệt rõ quyền lực của NHNN và Bộ Tài Chính trước tiên ta phải làm rõ các khái
niệm sau: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ .
- Chính sách tài khoá là chính sách thu chi của Chính phủ hay còn gọi là chính sách ngân
sách do Bộ Tài chính chịu trách nhiệm thực hiện. Còn chính sách tiền tệ là việc thực hiện tổng thể
46
các biện pháp, sử dụng các công cụ của Ngân hàng Trung ương nhằm góp phần đạt được các mục
tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền.
Và vấn đề dặt ra ở đây là làm sao phối hợp giữa hai chính sách này lại với nhau, cụ thể là hai cơ
quan điều hành với nhau như thế nào để góp phần ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Ta phải
phân biệt được rằng, chức năng của BTC là làm cho giá cả ổn định còn vấn đề tăng trưởng kinh tế
và chống lạm phát như thế nào đó lại là chức năng của NHTW.
- Trong các chức năng của Bộ Tài chính có nhiệm vụ quản lý và điều hành nhà nước về giá
cả, điểm 14 trong chức năng của Bộ Tài chính. Do đó, khi giá tăng cao, nói đến chỉ số giá, người ta
nghĩ ngay đến Bộ Tài chính. Vì thế, trong kiểm soát lạm phát, người ta cũng giao cho Bộ Tài chính.
Nếu ta nhìn phân công sẽ thấy sự "ngược đời". Vì như thế chẳng khác nào BTC lại thực hiện chức
năng của NHTW.
- Hoặc là, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò là cơ quan tài chính thứ hai của Chính phủ sau
Bộ Tài chính, phải tài trợ cho các dự án lớn mà lẽ ra đó lại là chức năng của BTC. Ở các tỉnh nghèo
rất dễ có sự can thiệp. Những tỉnh này rất cần đầu tư cơ sở hạ tầng để có tăng trưởng, trong khi ngân
sách hạn hẹp nên chỉ còn cách “ép” ngân hàng. Chạy theo các dự án duy ý chí không đem lại hiệu
quả, các doanh nghiệp không trả được nợ, tất yếu nợ xấu tại các ngân hàng tăng. Việc đề bạt lãnh
đạo ngân hàng đều do chính quyền địa phương quyết định nên sức ép đối với các giám đốc ngân
hàng là rất lớn.
- Ở đây ta thấy có sự nhập nhằng trong việc phân chia chức năng giữa NHNN và BTC.
Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này đó là do NHNN vẫn chưa thực sự độc lập với chính phủ, do sự
không độc lập nên làm NHNN có tiếng nói nhỏ nhẹ trong chính phủ. Ông Thống đốc ngang hàng Bộ
trưởng. Ngay từ NHNN đã cho thấy nó là thuộc nhà nước, chịu sự chi phối của các cơ quan nhà
nước như trong bộ máy hành chính. Do đó, trong tương lai ta cần phải xây dựng một NHTW độc lập
với ý chí của chính phủ để từ đó có thể giải quyết được vấn đề tách biệt chức năng giữa NHTW và
BTC.
3.6. Phát triển thị trường liên ngân hàng Việt Nam:
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là nơi mà Ngân hàng Nhà nước bằng nghiệp vụ ngân hàng
Trung ương thông qua hệ thống lãi suất của mình (Interesrat Targeting) điều tiết lãi suất thị trường
và kiểm soát lạm phát. Muốn vậy lãi suất thị trường liên ngân hàng phải “xoay quanh” lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở (OMO).
47
Trong một thị trường thì điều tất yếu là sẽ có những ngân hàng trong một khoản thời gian
nào đó thừa vốn sẽ cho những ngân hàng thiếu vốn vay trong một thời gian và một lãi suất do 2 bên
thỏa thuận với nhau. Đây chính là thị trường bán buôn vốn giữa các ngân hàng và giá cả là lãi suất
thỏa thuận giữa các bên.
Mục tiêu cao nhất của thị trường liên ngân hàng là đáp ứng nhu cầu cao nhất về vốn đầu tư
của nền kinh tế và lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Đồng tời hình thành nên lãi
suất bình quân trên thị trường, giảm khoản cách lãi suất cho vay giữa các NHTM, thúc đẩy chu
chuển vốn trong nước.
Hiện nay hầu hết các ngân hàng khi thiếu vốn trong thời gian ngắn, ngoài việc tìm kiếm
nguồn vốn huy động từ dân cư thì hầu như là đi vay ở thị trường liên ngân hàng. Nói là thị trường
liên ngân hàng nhưng cũng chỉ là sự dịch chuyển luồn vốn của các ngân hàng trong nước, đồng thời
các ngân hàng này phải trả một khoản phí nhất định gọi là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Thị trường liên ngân hàng Việt Nam hình thành và ra đời từ 07/12/1992 theo chỉ thị số
07/CT-NH1 của Thống đốc NHNN, cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay và đi vay lẫn
nhau. Tuy nhiên từ đó cho đến nay thì hoạt động của thị trường liên ngân hàng chủ yếu vẫn mang
tính thủ công.
Thị trường liên ngân hàng mở đầu năm 2008 với mức lãi suất VND qua đêm (over night)
nhẹ nhàng 6,52%. Nhưng chỉ chưa đầy một tháng sau đó, con số này đã tăng vọt gấp 4 lần, gây
“sốc” đối với những ngân hàng cần vốn và có thể cả với nhà điều hành chính sách tiền tệ.
Từ 6,52%, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng dần tăng theo cầu vốn của các
ngân hàng thương mại khi năm hết, Tết đến, nhu cầu rút tiền trong dân cư và doanh nghiệp tăng cao.
Đà tăng nhanh và mạnh đã thực sự gây “sốc” bởi kỷ lục trước đó (17% vào ngày 21/11/2007) đã bị
đánh đổ.
Ngày 29/1/2008, lãi suất qua đêm chỉ ở mức 10,86%. Một ngày sau đó, sự đột biến xuất hiện
khi các mốc 20%, 25% bị đánh đổ và đỉnh điểm có lúc lên tới 27% - chưa từng có trong lịch sử tiền
tệ Việt Nam.
Đặc biệt, bước sang ngân hàngững ngày sau Tết nguyên đáng 2008 vừa qua thì thị trường
liên ngân hàng Việt Nam càng trở nên hết sức nóng bỏng, giá cả của những món vay trên thị trường
liên ngân hàng liên tục tăng cao. Điển hình ngày 19/02/2008 lãi suất VND cho vay qua đêm liên tục
tăng và có lúc lên tới 43%/năm. Trong khi đó chỉ mới cuối tuần trước lãi suất này mới là 25%/năm
và mức cao nhất trong 2007 chỉ dừng lại ở con số 17%/năm.
48
Có lẽ chính sự tăng quá “nóng” của lại suất trên thị trường liên ngân hàng đã đưa các ngân
hàng vào cuộc đua tăng lãi suất trong những tháng qua.
Một câu hỏi đặt ra là từ đâu mà lãi suất ngân hàng tăng cao đến mức kỷ lục như vậy ??? Có
phải nguyên nhân từ bản thân các ngân hàng hay là do thị trường chưa hoạt động hiệu quả ?
Một trong những nguyên nhân quan trọng là hiệu quả quản trị vốn của ngân hàng trong thời
gian vừa qua chưa tốt lắm và chưa phù hợp với tiềm lực và năng lực của ngân hàng.
Như vậy với các ngân hàng càng nhỏ thì tỷ lệ huy động vốn thông qua thị trường liên ngân
hàng càng cao. Điều này cho thấy hoạt động của các ngân hàng này phụ thuộc nhiều vào khả năng
vay mượn trên thị trường liên ngân hàng. Trong khi đó một số ngân hàng lớn thì tỷ lệ này giảm đi
thậm chí một số ngân hàng lớn như ACB, Vietcombank… còn có chủ trương dành một lượng tiền
lên tới 50% vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
Một nguyên nhân nữa là do các NHTM CP nhỏ mới chuyển từ ngân hàng nông thôn lên thì
tính thanh khoản chưa cao. Điều này là do lượng tiền huy động từ dân cư chưa cao, do việc huy
động tiền gởi từ dân cư với mức lãi suất cao đột biến trước đây đã dến kỳ đáo hạn, do yêu cầu tăng
dự trữ bắt buộc của NHNN. Trong khi đó, những ngân hàng có dư vốn khả dụng lại không sẵn sàng
cho vay tên thị trường liên ngân hàng. Một mặt do sự dư vốn của họ cũng chỉ mang tính tạm thời, họ
vẫn phải có sự phòng vệ cần thiết.
Tóm lại một số nguyên nhân trên tuy không đầy đủ nhưng phần nào giúp ta thấy được trong
thời gian qua hoạt động của thị trường liên ngân hàng chưa thật sự là hiệu quả, hoạt động của nó ít
nhiều cũng còn phụ thuộc vào các NHTM lớn. Đồng thời cũng chính hoạt động của thị trường liên
ngân hàng cũng thể hiện sự yếu kém trong kinh doanh của một số ngân hàng.
* Một số đề suất cho sự phát triển của thị trường liên ngân hàng Việt Nam:
- Thị trường liên ngân hàng có những biến động mạnh mẽ về lãi suất trong những tháng vừa
qua một phần chính là do khả năng quản lý nguồn vốn của một số ngân hàng chưa được hiệu quả
cho lắm dẫn đến việc các ngân hàng ép giá lẫn nhau đẩy lãi suất liên ngân hàng lên cao. Do đó việc
quản trị nguồn vốn của bản thân mỗi ngân hàng cũng góp phần làm cho thị trường liên ngân hàng
hoạt động như đúng bản chất của nó. Chất lượng hoạt động của mỗi NHTM là điều kiện nhằm đem
lại sự ổn định cho thị trường.
- Đổi mới cơ chế hoạt động của NHNN trên thị trường tiền tệ sao cho NHNN trở thành ngân
hàng bán buôn lớn nhất trên thị trường tiền tệ. Xây dựng các quy chế hoạt động cho các thành viên
tham gia thị trường liên ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế tạo cơ sở cho các ngân hàng tham
gia vào thị trường liên ngân hàng khu vực và thế giới.
49
- Tạo sự liên kết của thị trường liên ngân hàng Việt Nam với thị trường liên ngân hàng trong
khu vực và thế giới. Khuyến khích các ngân hàng Việt Nam tham gia vào thị trường tiền tệ trong
khu vực, từng bước tiếp cận với nguồn vốn quốc tế.
- Hoàn thiện cơ chế xác định lãi suất của thị trường. Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành
và tổ chức thực hiện cơ chế xác định giá theo hướng khớp lệnh hoặc đấu giá, trước hết tại các trung
tâm tài chính lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Lãi suất được xác định ở những
trung tâm này sẽ làm cơ sở tham chiếu cho các địa phương còn lại trong cả nước. Đồng thời, các tổ
chức tín dụng sẽ căn cứ vào lãi suất nói trên để xác định lãi suất của thị trường bán lẻ – huy động
hoặc cho vay vốn đối với nền kinh tế. Nói cách khác, các tổ chức tín dụng có thể chủ động thoả
thuận lãi suất với các đối tượng khách hàng. Mặt khác, việc hình thành lãi suất như trên sẽ tạo điều
kiện gắn kết thị trường tiền tệ trong nước với thị trường các nước trong khu vực và quốc tế, góp
phần cho các tổ chức tín dụng chủ động tham gia hoạt động trên thị trường và với các ngân hàng
nước ngoài.
- Cuối cùng thống nhất thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
và có quy chế hoạt động phù hợp để hạn chế những bất cập trong việc quản lý dòng vốn.
3.7. Xây dựng các công cụ phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng:
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới biến đổi ngày càng nhanh với chu kỳ kinh doanh ngày
càng ngắn lại như hiện nay thì các tổ chức tài chính, ngân hàng cần linh hoạt hơn nữa trong chiến
lược phát triển kinh doanh của mình. Và để đảm bảo được sự an toàn trong kinh doanh đó thì các tổ
chức tín dụng, ngân hàng cần đẩy mạnh phát triển bộ phận quản lý rủi ro, cần có kế hoạch cụ thể về
quản lý rủi ro ngay từ thời điểm lên kế hoạch kinh doanh, định hướng chiến lược. Chỉ có những cơ
chế phòng ngừa từ xa thì mới có thể ngăn chặn hiệu quả những rủi ro có thể xảy ra., thay vì để xảy
ra thua lỗ mới bàn tính những biện pháp chống đỡ.
- Vấn đề cần được các ngân hàng ưu tiên hiện nay là đẩy nhanh quá trình áp dụng các tiêu
chuẩn quốc tế về nghiệp vụ tài chính ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro; nâng cao hệ thống
kiểm soát nội bộ của ngân hàng.
- Các ngân hàng cần thiết lập sẵn các tình huống, lường trước mọi tình huống xấu, có những
kịch bản đánh giá rủi ro có thể xảy ra để ứng phó kịp thời khi cần thiết. Tuy nhiên, không được thỏa
mãn với những gì mình đã đề ra vì nêu ra thì dễ nhưng khi htực hiện thế nào mới là vấn đề quan
trọng.
50
- Hoàn thiện dần hệ thống tài chính, ngân hàng trong nước để có thể phản ứng kịp với những
tác động trái chiều mà hội nhập nền kinh tế mang lại, hạn chế những tác động tiêu cực từ những biến
động của hệ thống tài chính ngân hàng của thế giới.
- Bộ phận quản lý rủi ro phải hoạt động độc lập và song hành với quá trình kinh doanh của
mỗi tổ chức, ngân hàng có trách nhiệm theo dõi, giám sát, và thường xuyên kiểm tra các hồ sơ tín
dụng, từ đó xếp thành nhóm khách hàng có nguy cơ rủi ro cao và đưa ra các biện pháp loại bỏ dần
những khách hàng này.
- Những thành viên trong bộ phận này cần hiểu rõ họ đang làm công việc gì với mục đích gì.
Từ đó họ sẽ giúp cho họ có những hành động, quyết định đúng đắn thông qua các công cụ phân tích
cụ thể. Công cụ ở đây là những dữ liệu mà mỗi đơn vị tích tụ trong quá trình kinh doanh nhiều năm,
từ đó rà soát xem đâu là những chỗ dễ xảy ra lỗ hổng, và cần có những biện pháp gì để lấp lỗ hổng
tiềm tàng đó.
- Cần có sự phối hợp tích cực giữa đơn vị tổ chức tài chính ngân hàng với cơ quan chức năng
của Nhà nước. Các cơ quan quản lý cần thường xuyên đánh giá hệ thống xác định vốn an toàn của
nội bộ các ngân hàng cũng như hệ thống tự giám sát của ngân hàng theo quy định. Mặt khác, Nhà
nước cũng nên có một bộ phận cảnh báo rủi ro độc lập để thông báo cho các tổ chức tín dụng, ngân
hàng có biện pháp ứng phó kịp thời với những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra.
3.8. Thiết lập các công cụ phòng ngừa rủi ro cho khách hàng:
Trong thế giới đầy rẫy rủi ro như hiện nay, mỗi ngân hàng cần xây dựng một hệ thống các
công cụ phòng ngừa rủi ro cho khách hàng. Chính những ngân hàng nào có thể thiết lập một hệ
thống các công cụ đầy đủ nhất, thiết thực nhất sẽ lôi kéo được nhiều khách hàng về cho mình.
Hiện nay một số ngân hàng như ACB, Sacombank, Eximbank…cũng đã xây dựng được một
số chương trình phòng ngừa rủi ro cho khách hàng nhưng vấn đề khó ở chỗ là làm sao để khách
hàng hiểu và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất.
Các khách hàng phần lớn là chưa có kiến thức về các công cụ đó nên một phần họ chứ dám
sử dụng, một phần do tâm lý khách hàng không muốn trả thêm phí cho sảm phẩm mà họ chưa biết.
Các ngân hàng trước tiên cần tổ chức các hội nghị, những buổi tuyên truyền về công dụng và
lợi ích của các sản phẩm đó.
3.9. Những việc cần làm trong thời gian tới của ngành ngân hàng Việt Nam:
Trên cơ sở phân tích những cơ hội và thách thức như ở phần trêns, ngành ngân hàng Việt
Nam đã đặt ra những giải pháp để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức, đó là:
- Ngân hàng Nhà nước (cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng) phải thực hiện
51
cam kết tái cơ cấu trên nguyên tắc cơ bản cho hệ thống tài chính mới đến năm 2010. Theo đó, xác
định lại chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước để tập trung hơn vào việc giữ ổn định
đồng tiền Việt Nam và các vấn đề kinh tế vĩ mô. Tái cơ cấu nhằm củng cố chức năng hiện tại của
Ngân hàng Nhà nước để loại bỏ sự chồng chéo về chức năng (tức là thực hiện chính sách tiền tệ và
quản lý ngân hàng) hiện đang tồn tại giữa các vụ của Ngân hàng. Tái cơ cấu toàn bộ cơ cấu quản trị
chung của Ngân hàng để có thể lập một tổ chức mới linh hoạt hơn. Rà soát và cải cách vấn đề cán bộ
và tổ chức cán bộ của Ngân hàng nhằm trang bị cho cán bộ các năng lực, kể cả năng lực về quản lý
để vận hành một ngân hàng mới...
- Các ngân hàng thương mại phải nâng cao tính cạnh tranh thông qua việc hiện đại hóa hệ
thống ngân hàng thương mại, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Trên thực tế,
các ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang thực hiện việc công nghệ hóa thông tin trong hoạt
động kinh doanh để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
- Đồng thời, Chính phủ cần phải sử dụng thật tốt các thiết chế đảm bảo an toàn hệ thống, bởi
như trên đã phân tích, sự cạnh tranh bao giờ cũng gắn với yếu tố rủi ro cao, thậm chí có thể làm
"biến dạng" rủi ro thông thường. Điều đó đòi hỏi các công cụ đảm bảo an toàn hệ thống tài chính
ngân hàng phải "theo kịp" những rủi ro mới phát sinh trong bối cảnh mới. Hiện nay, Chính phủ sử
dụng công cụ bảo hiểm tiền gửi để góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam - một tổ chức tài chính nhà nước được thành lập nhằm mục đích bảo vệ người gửi tiền
và góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng - Theo đó, người gửi tiền sẽ được bảo vệ trực
tiếp như sau: nếu tổ chức tín dụng (tổ chức nhận tiền gửi) bị giải thể hoặc phá sản, không có khả
năng thanh toán cho người gửi tiền thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ thay mặt Chính phủ chi trả
cho người gửi tiền tối đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi), số tiền còn lại sẽ được chi trả
trong quá trình thanh lý tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Người gửi tiền còn được bảo
vệ gián tiếp thông qua các chức năng kiểm tra, giám sát tổ chức tín dụng của Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam để góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng. Bởi hệ thống tài chính ngân hàng hoạt
động an toàn hiệu quả đồng nghĩa với việc quyền lợi của người gửi tiền được bảo vệ triệt để.
- Hiện nay, công cụ tài chính là bảo hiểm tiền gửi được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Bảo hiểm tiền gửi được coi là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc gia và là công cụ
không thể thiếu của nền kinh tế hiện đại, đặc biệt đối với nền kinh tế hội nhập. Khi Việt Nam gia
nhập WTO, vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam càng thể hiện rõ nét là một kênh quan trọng
giúp Chính phủ giám sát rủi ro, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và an ninh kinh tế
quốc gia. Trong bối cảnh mới, Chính phủ cần phải sử dụng tốt công cụ bảo hiểm tiền gửi thông qua
52
việc nâng cao năng lực pháp lý, năng lực tài chính cho Bảo hiểm tiềm gửi Việt Nam đáp ứng được
nhu cầu nhiệm vụ mở.
KẾT LUẬN:
Qua bài phân tích trên, phần nào ta đã có một cái nhìn khái quát về hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong thời gian qua. Trải qua một thời gian dài từ khi thành lập 1951 đến nay, hệ thống ngân
hàng Việt Nam đã có những bước phát triển rõ rệt. Ngày nay, ngành ngân hàng đã đóng góp phần
rất lớn cho sự phát triển của đất nước. Ngành ngân hàng đang giữ một vị trí có thể nói là rất quan
trọng trong nền kinh tế. Nhờ sự hoạt động hiệu quả của ngân hàng mà hoạt động sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế không ngừng được mở rộng cả về số lượng và chất lượng; hoạt động xuất
nhập khẩu diễn ra một cách thuân tiện hơn; người dân có thể hỗ trợ vốn cho các dự án của đất nước
nói riêng và nền kinh tế nói chung thông qua ngiệp vụ huy động vốn của ngân hàng; đồng thời nó
cũng đem đến cho người dân một khoản lợi tức nhất định….
Một số NHTM đi trước, ngày nay đã xây dựng được cho mình một thương hiệu vững chắc
trong nền kinh tế (Agribank, Vietcombank, BIDV, Incombak, ACB, Sacombank, Techcombank, NH
Đông Á…). Chính điều này sẽ tạo cho các NHTM VN một thế mạnh có thể cạnh tranh được với các
ngân hàng nước ngoài chuẩn bị gia nhập vào hệ thống ngân hàng của nước ta.
Ngành ngân hàng nước ta hiện nay tuy còn tồn tại nhiều thiếu xót nhưng nó cũng đã và đang
thể hiện một sự lớn mạnh không ngừng cả về chất và lượng. Ngành ngân hàng này nay đang giữ một
vai trò lớn cho sự phát triển của đất nước. Nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của
nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị
trường còn non yếu.
Như vậy việc xây dựng và phát triển ngành ngân hàng ngày một vững chắc hơn, hoạt động
hiệu quả hơn là một công việc hết sức cần thiết. Nó không chỉ thực hiện ngày một ngày hai ma cần
phải trải qua một quá trình lâu dài. Việc phát triển ngành ngân hàng cũng là một trong những nhiệm
vụ cần phải thực hiện song song với việc phát triển đất nước./.
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
http://www.sbv.gov.vn.
http://www.tuoitre.com.vn.
http://phapluattp.vn.
http://vnexpress.net.
http://www.mof.gov.vn.
http://vietnamnet.vn.
http://www.vir.com.vn.
http://www.yp.com.vn.
http://www.dautuchungkhoan.com/news/?
http://www5.sanotc.com.
http://www.vneconomy.vn/
Phân tích cổ phiếu ngành ngân hàng (Lê Đạt Chí, Trương Minh Huy (Theo Báo Đầu tư chứng khoán)).