[luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

30

Click here to load reader

Upload: thu-vien-luan-van-dai-hoc

Post on 25-May-2015

9.932 views

Category:

Documents


1 download

DESCRIPTION

[Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

TRANSCRIPT

Page 1: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Phần I Lời giới thiệu

Ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước .Đảng

ta chủ trương từng bước chuyển sang nên kttt địn hướng XHCN ,đồng thời coi đây là một phương hướng mang tính chiến lược trên lĩnh vực kinh tế .Sự chuyển biến đó là nguyên nhân trực tiếp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tăng trưởng với tốc độ cao ,tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kì đẩy mạnh CNH_HDH đất nước .thực tế đã khẳng định vai trò quan trọng và cần thiết của mô hình kttt định hướng XHCN không chỉ với sự phát triển kinh tế mà còn với quá trình xây dung cơ sơ vật chất kỹ thuật cho XHCN

KTTT hình thành và phát triển từ trong lòng TBCN .Còn KTTT có định hướng XHCN ở việt nam lại là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa hề có tiền lệ trong lịch sử.

Vấn đề càng quan trọng thì càng được quan tâm , nghiên cứu vấn đề càng mới mẻ thì càng có sức hấp dẫn kich thích ham muốn tìm hiểu và khám phá của mọi người . Chính vì vậy em quyết định chọn đề tài :”xây dung kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” cho đề án kinh tế chính trị đầu tay của mình .

Nội dung cua đề tàI này sẽ cung cấp các kiến thức cơ bản nhất ,tạo nền tảng để có thể tiếp tục đI sâu nghiên cứu phát triển va hoàn thiện những lí luận về kttt định hướng XHCN và đưa lí luận ứng dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả ở nước ta.

Mặc dù đã rất cố gắng , nhưng bài viết còn nhiều thiếu sót , rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đọc và các thầy cô.

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 1

Page 2: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Phần II Nội dung I . Những vấn đề lí luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩ

1-LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:

1.1 Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội

nô lệ loại người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra

của cải vật chất. Trong sản xuất đã bắt đầu có sản xuất thặng dư, tức là

phần sản phẩm nhảy vọt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo

ra. Mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu nhiên nhưng cùng với chế độ

tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những sản phẩm dư

thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình thiếu

do kết quả phân công chuyên môn hoá đưa lại thị trường sơ khai xuất hiện

từ đó.

Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối

xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế thị trường mới được xác lập,

và phải đến cuối giai đoạn phát triển của CNTB tự do cạnh tranh thì

kinh tế thị trường mới được xác lập hoàn toàn. Kinh tế thị trường là kinh

tế hàng hoá với những đặc trưng riêng của nó là người làm ra sản phẩm

với mục đích đi bán (để trao đổi) chứ không phải tiêu dùng hay ngẫu

nhiên như trước. Đặc trưng đó ngày càng được bổ sung phong phú thêm.

Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công

trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi đó là

trình độ văn minh mà nhân loại đạt được. Do đó mọi quan điểm cho rằng

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 2

Page 3: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

kinh tế thị trường là phát minh riêng của chủ nghĩa tư bản là không có

căn cứ. Việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản rồi nó

tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng

kinh tế thị trường là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN.... Đều có

thể dẫn đến sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta

đã khẳng định “sản xuất hàng hoá là thành tựu văn minh chung của

nhân loại”, chúng ta không chỉ kiên định “không bỏ qua kinh tế hàng

hoá ” mà còn khẳng định kinh tế hàng hoá còn tồn tại khách quan cho

đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng . lần này trong dự thảo văn kiện

đại hội IX tiếp tục khẳng định “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực

hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa.

1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu của nó.

a. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

- Kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp

trước kia sự cạnh tranh nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện

chúng ta nhận thấy rằng một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh

tranh thúc đẩy khoa khọc phát triển, tiếp thu được các công nghệ và bí

quyết mới. Nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho hàng loạt Xí

nghiệp doanh nghiệp bị phá sản. Đó là do kinh tế thị trường bao hàm cả

hai mặt tích cực và tiêu cực.

- Về mặt tích cực: Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng

động, quyết đoán có được nhiều kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh

thắng lợi hay thất bại từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất

lao động đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, quá trình xã hội

hoá lực lượng sản xuất.

- Về mặt tiêu cực và hạn chế: phân hoá giầu nghèo quá xa, dẫn đến mọi cân

bằng xã hội, xuất hiện mâu thuẫn xã hội. Sự phát triển mù quáng của các

doanh nghiệp mang lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Xuất hiện

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 3

Page 4: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

nhiều tệ nạn xã hội, quá coi trọng đồng tiền xem thường đạo đức truyền

thống.

Vậy để phát triển kinh tế thị trường cần phải có sự tác động của Nhà nước

để tiếp tục phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực. Điều đó đã được thể

hiện rõ trong đường lối kinh tế ở nước ta là Nhà nước quản lý kinh tế theo

định hướng xã hội chủ nghĩa gọi tắt là nền kinh tế định hướng xã hội chủ

nghĩa.

Trong lịch sử hình thành Nhà nước, chức năng hành chính công, lúc đầu

chỉ “mờ nhạt” đơn thuần là thu thuế của các tầng lớp dân cư hoạt động sản

xuất kinh doanh nhưng do tính tự phát của kinh tế thị trường đã gây ra

những hậu quả ngày càng nặng nền mà xã hội phải gánh chịu, Nhà nước

phải can thiệp sâu hơn vào kinh tế từ đó, chức năng kinh tế của Nhà nước

cũng dần được xác định. Học thuyết của JMKên (nhà kinh tế học Anh,

1884-1946) là điển hình về sự kêu gọi phải có bàn tay “hữu hình” của Nhà

nước can thiệp vào thị trường để hạn chế tính tự phát, tiêu cực của cơ chế

thị trường.

Tiếp sau học thuyết của Kên là nhiều học thuyết kinh tế với tên gọi khác

nhưng chỉ tập trung bàn về việc Nhà nước nên can thiệp vào kinh tế như

thế nào mức độ, thời điểm sao cho hiệu quả cao. Do đó, việc can thiệp vào

quá trình kinh tế (quản lý kinh tế vĩ mô) đã được coi là đương nhiên, mang

tính quy luật của kinh tế thị trường và việc định hướng phát triển của nền

kinh tế đó cũng hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất giai cấp của Đảng cầm

quyền.

Chúng ta biết rằng, Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là công

cụ của giai cấp cầm quyền, Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường ngay

từ buổi bình minh của nó để đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ và tư

bản, nhằm hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản, ngay cả sau này, khi

Nhà nước tư bản chủ nghĩa ban hành các đạo luật chống độc quyền cũng

quyết không phải vì lợi ích của giai cấp cần lao, mà vẫn là vì lợi ích toàn

cục của chế độ TBCN nói chung vì các tập đoàn tài chính nói riêng. Vì thế

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 4

Page 5: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

việc Nhà nước ta quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường là điều đương nhiên, phù hợp với tính

quy luật đã hình thành trong thực tiễn. Ngay trong nghị quyết trung ương 4

khoá VIII Đảng ta đã khẳng định: Đổi mới và tăng cường quản lý Nhà

nước vè kinh tế – xã hội coi đó như là một chính sách lớn để đảm bảo cho

định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện.

Kinh tế thị trường định hướng Xí nghiệp chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ

chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị

trường, vừa dựa trên những nguyên tắc bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do

đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có 2 nhóm nhân tố cơ

bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm

nhân tố của kinh tế thị trường đóng vai trò như là “động lực” thúc đẩy sản

xuất xã hội đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò hướng dẫn, chỉ

đạo sự vận đọng của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định.

Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mở. Để

mở cửa nền kinh tế tuỳ thuộc vào: thứ nhất, bối cảnh quốc tế, khu vực và

năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền

kinh tế thế giới, thứ hai, năng lực tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước

xã hội chủ nghĩa và khả năng nội sinh hoá có hiệu quả các yếu tố “ngoại

sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, trí thức kinh doanh...) du nhập

vào nước ta.

Như vậy, sự hiện diện của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là bộ phận cấu thành

trọng yếu (kinh tế Nhà nước ), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng

quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.

Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng

quản lý Nhà nước về kinh tế một đặc trưng của kinh tế hiện đại. Đối với

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực

hiện bởi Nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng

cộng sản.

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 5

Page 6: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây:

Một là, Nhà nước tạo môi trườg pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay

các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tự

chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn

phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả

đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình, tất

nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo

pháp luật. Do đó, Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp

luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử

dụng, thừa kế, chuyển nhượng....); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của

Nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động,

bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc môi trường, chống

hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động,

bảo hiểm xã hội...), luật thương mại,.....

Hai là, Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định bằng cách xây

dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ

thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong

đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, y tế), cùng với

các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tiêu dùng...

Ba là, Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển

kinh tế – xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị

trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các

chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về

thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà Nhà nước

khuyến put the boot in.

Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định

hưỡng xã hội chủ nghĩa “theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch

hoá, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị

trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”.

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 6

Page 7: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Có một số người cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà

nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước

cũng không còn cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm

và không có căn cứ lý luận và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất

cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trrên thế giới đều có cả hai

dạng điều tiết kinh tế, một là, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các

biện pháp hành chính; hai là, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận

dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh

nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc

các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do Nhà

nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều

lượng và hình thức trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là

công cụ điều tiết vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và

thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó.

Thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và thị trường – xét từ góc độ Nhà nước

– là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián

tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường, cũng

như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ

rằng, sẽ hợp lý hơn và hiệu quả hơn nếu thông qua kế hoạch hoá của Nhà

nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành

vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường

sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát

triển kinh tế xã hội.

Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng

vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế

sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý

Nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem

lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 7

Page 8: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn

nhiều yếu kém.

Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý

kinh tế củ Nhà nước theo hướng: “Nhà nước thực hiện tốt các chức năng,

định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để cần đạt nổ

lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập khuôn khổ luật

pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận

lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực

của cơ chế thị trường, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản

lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội.

Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán

của doanh nghiệp

2.Tính tất yếu khách quan và sự cần thiết phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta

a. Phát triển KTTT là sự lựa chọn đúng đắn.

Qua quá trình đổi mới và thực tế những thành tựu mà chúng ta đạt được đã chứng minh điều đó

ở thời kì 1975-1986 nước ta còn theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nó được phổ biến ở các nước CNXH thời bấy giờ. Nền kinh tế dựa vào các kế hoạch và sự chỉ huy từ nhà nước, chúng ta sản suất hàng hoá tự cung tự cấp đóng cửa nền kinh tế. Tình hình kinh tế Việt Nam thời bấy giờ lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát với tốc độ phi mã trở thành quốc nạn đã đe doạ đến cả nền KT nói chung. Nhà nước không đủ khả năng cung cấp hàng hoá cũng như kiểm soát giá cả thị trường điều đó cho thấy sự bất lực của chính phủ. Từ đại hội VI tháng 12 năm 1986 Đảng ta đã tiến hành đổi mới nền KT, chuyển từ nền KT tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT có sự quản lý của NN và theo định hướng XHCN, đây là sự khác nhau của nền KTTT ở các nước XHCN và các nước TBCN nói chung.

Từ sau năm 1986 chúng ta đã cho nhiều thành phần KT cùng tồn tại và SX phụ thuộc vào yêu cầu của thị trường, chúng ta đã mở cửa với thế giới với khẩu hiệu “Việt Nam mong muốn làm bạn với các nước trên thế giới”. Ngay lập tức chính sách này đã làm hồi phục nền KT vốn yếu kém và đang hấp hối. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào VN giúp chúng ta công

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 8

Page 9: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

nghệ, vốn. Các công ty trong nước được tự do hơn trong hoạt động SXKD và theo thị trường điều tiết. Qua các năm tiến hành đổi mới bộ mặt nền KT VN đã thay đổi hoàn toàn và bước đầu có tăng trưởng, đỉnh điểm là năm 1995 với mức tăng trưởng GDP là 9,5%. Vào những năm 1997 khi xảy ra khủng hoảng KT Châu á Việt Nam đã nhanh chóng thoát gia trong khi các nước khác như: Nhật, Thái Lan, Malaysia... chịu hậu quả nặng nề. Những năm gần đây VN và TQ là hai nước phát triển nền KTTT định hướng XHCN luôn có mức tăng trưởng cao và là hai nền KT phát triển nhanh nhất khu vực Châu á thái bình dương, khu vực phát triển KT năng động nhất thế giới. Tình hình đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể, các thành tựu trong nông nghiệp, giáo dục... đã giúp cho thế giới biết đến VN nhiều hơn.

KTTT là thành tựu mà các nước TBCN là những người đi tiên phong và phát triển nó. Ngày nay nó càng khẳng định tính đúng đắn và ưu việt của mô hình KT này. Nó đã chứng minh sự phát triển KTTT là một xu hướng tất yêu của thế giới và đến nay đã được toàn thế giới chấp nhận. Một ví dụ điển hình cho sự phát triển của nền KTTT định hướng XHCN thành công là Trung Quốc. Từ năm 1979 chính phủ Trung Quốc đã tiến hành cải cách nền KT theo nền KTTT định hướng XHCN do ĐCS Trung Quốc đề ra. Từ đó đến nay nề KT Trung Quốc có nhiều khởi sắc và khiến cả thế giới phải học tập.

Nhiều thành tựu về KT, KH, giáo dục của Trung Quốc đã và đang đứng đầu thế giới. Sự phát triển nhanh và bền vững của nền KT Trung Quốc đã đưa nước này trở thành một cường quốc và là một đối tác quan trọng trong nền KT toàn cầu. Trong vòng 14 năm trở lại đây GDP của Trung Quốc đã tăng gấp 6 lần do giữ được tốc độ phát triển cao trung bình trên 9% trên một năm. Trung Quốc đã gia nhập vào CLB các nước có GDP trên 1000 tỷ USD/ năm và hiện nay là nước đứng thứ 6 thế giới về GDP.

Qua các nội dung trên đã khẳng định cho luận điểm “Phát triển KTTT là sự lựa chọn đúng đắn”.

b. KTTT không những tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN.

Nền KTTT tồn tại khách quan và càng phát triển:

Do sự phát triển của KHKT ngày càng phục vụ đắc lực cho SXHH để phát triển KT cho nên trình độ lao động của con người đòi hỏi ngày càng cao. Do đó trong SX cần phân công theo từng công đoạn của cả một quy trình khép kín. Nhờ đó mà phân công lao động XH ngày càng phát triển mạnh, nó tạo năng suất lao động cao hơn, HH làm ra ngày càng đạt được chất lượng và mẫu mã hơn, thu nhập của người lao động tăng làm cho đời sống được cải thiện rõ rệt.

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 9

Page 10: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Hiện nay ở nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu: Toàn dân, tập thể, tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do có nhiều hình thức sở hữu nên tồn tại nhiều chủ thể KT có lợi ích riêng, hoạt động riêng và quan hệ giữa họ được thực hiện bằng quan hệ HH – TT. Họ mang tiền mua hàng rồi lại bán hàng thu tiền về, giữa các chủ thể KT ngày càng quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào nhau nhiều hơn.

Nước ta hiện nay tuy vẫn phổ biến KT NN và KT tập thể, chúng cùng một hình thức sở hữu nhưng giữa hai hình thức KT này vẫn có nhiều sự khác nhau: Tổ chức SX, tự chủ KD và cả trình độ KHCN, quản lý vẫn có những khoảng cách nhất định dẫn đến chi phí SX và hiệu quả SXKD cũng khác nhau.

Với xu hướng toàn cầu hoá KT hiện nay, quan hệ HH – TT ngày càng cấp thiết trong các quan hệ KT đối ngoại. Các nước cần cạnh tranh khốc liệt do đó HH của mỗi nước đưa ra thị trường cạnh tranh phải dựa trên trao đổi ngang giá và tiền là công cụ cho trao đổi, thị trường sẽ quyết định mức giá. Vì thế KTTT ở nước ta tồn tại là một tất yếu khách quan. Nếu như chúng ta muốn hội nhập với KT thế giới chúng ta không thể dùng ý chí chủ quan để xoá bỏ nó được.

Qua những lợi ích của KTTT đem lại thì sự cần thiết phát triển KTTT ở nước ta là một yêu cầu khách quan và rất cần thiết để chúng ta đưa đất nước tiến đến mục tiêu XHCN.

b.Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT.

Nền KTTT phát triển không những đem lại nhiều lợi ích cho nước sở tại mà nó còn có nhiều tác dụng to lớn khác tạo tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam KTTT sẽ phá vỡ nền KT còn mang nặng tính tự cấp tự túc của một nền KT tự nhiên, thúc đẩy XH hoá sản xuất.

Khi nền KTTT phát triển nó thúc đẩy quá trình XH hoá sản suất, quá trình này cần có một lực lượng sản xuất hùng hậu với trình độ cao do đó mà nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi đó năng suất lao động sẽ tăng và tạo ra được lượng hàng hoá khổng lồ cung cấp cho thị trường nhằm những nhu cầu bức thiết của cuộc sống.

Với đời sống mặt bằng chung của XH ngày càng phát triển do đó nhu cầu của XH hay những nhu cầu hàng hoá mà thị trường cần cũng ngày càng có sự chọn lọc về chất lượng mẫu mã. Do đó nếu các nhà cung ứng hay các nhà sản xuất muốn tồn tại hay phát triển cần phải nhạy bén với thị trường. Nó kích thích sự năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế, nó đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải luôn luôn phát triển, phải nâng cao chất lượng mẫu mã chủng loại hàng hoá tức là thúc đẩy sự cạnh tranh của các nhà sản xuất làm cho lực lượng sản xuất phát triển.

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 10

Page 11: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Với mục tiêu thu được nhiều lợi từ thị trường mang lại, nhà sản xuất phải tích tụ tập trung sản xuất dẫn đến quá trình phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất phát triển. Với tình hình nước ta hiện nay còn đang thiếu rất nhiều nhà quản lý kinh tế giỏi, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp so với các nước trong khu vực, công nghệ thì lạc hậu, vốn thì thiếu. Tất cả những điều này được giải quyết khi chúng ta xây dựng được một nền KTTT theo đúng nghĩa của nó.

Trên thế giới sự phát triển của KTTT đã phải trải qua 3 giai đoạn: sản xuất hàng hoá giản đơn, KTTT tự do, KTTT hiện đại nhưng để Việt Nam thực hiện thành công KTTT định hướng XHCN chúng ta không cần phải thực hiện theo trình tự này mà chúng ta có thể bỏ qua hai quá trình đầu bằng cách đi tắt đón đầu theo kiểu rút ngắn. Để chúng ta thực hiện được CNH-HĐH sản xuất đi lên CNXH thì chúng ta rất cần có vai trò chỉ đạo của nhà nước. Nhà nước cần vạch ra những chiến lược phát triển đưa ra những chính sách ở tầm vĩ mô để thực hiện định hướng XHCN.

II. Thực trạng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam

Lịch sử phát triển của nền KTTT đã bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh và cho đến nay đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành phổ biến ở hầu khắp các nước trên thế giới. Nền KTTT ở các nước kém phát triển như Việt Nam thì mới đang bắt đầu còn ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp ... bây giờ đã chuyển sang thành nền kinh tế tri thức. Lịch sử đã chứng minh nền KTTT hình thành và phát triển dưới CNTB và CNTB đã biết lợi dụng sự vượt trội của KTTT để thúc đẩy phát triển kinh tế mà thành công của các cường quốc như Mỹ Anh Nhật đã chứng minh hiệu quả kinh tế của nền KTTT mang lại là rất đáng kể. Thời gian gần đây thì Trung Quốc nổi lên như một cường quốc về kinh tế mà thành công của họ cũng nhờ sự phát triển đúng đắn nền KTTT theo các riêng và theo những đặc thù của chính họ.

Như vậy Việt Nam phát triển nền KTTT là một sự lựa chọn đúng đắn. KTTT không chỉ là cái riêng của CNTB mà nó vẫn tồn tại và rất cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Chúng ta hoàn toàn có thể phát triển nền KTTT theo cách riêng của chúng ta theo chế độ XHCN và những đặc trưng riêng có của mình.

Nhưng muốn phát triển nền KTTT thì cần phải có cơ sở nền tảng cho sự ra đời và phát triển của nó bao gồm:

- phải có sự phân công lao động xã hội.

- Đa dạng hoá hình thức sở hữu.

Hiện nay ở Việt Nam cũng đã và đang tạo ra hai điều kiện nền tảng này để phát triển nền KTTT của mình. Những đặc điểm của nền KTTT ở Việt Nam chúng ta sẽ cùng nhau xem xét ở phần dưới đây.

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 11

Page 12: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

1) Mục tiêu phát triển KTTT

Mục tiêu phát triển KTTT ở nước ta khác so với những nước khác ở mục tiêu về kinh tế và chính trị.

Về kinh tế, mục tiêu của chúng ta là giải phóng sức lao động, tạo công ăn việc làm và thực hiện CNH-HĐH đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển, đảm bảo được đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao.

Về chính trị, thì phát triển KTTT theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đưa nước ta lên CNXH đảm bảo cho sự công bằng và tiến bộ xã hội cho toàn thể nhân dân theo đúng tinh thần mục tiêu của CNXH.

ậ một số nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế lên hàng đầu, có nước lại nhờ nguồn viện trợ hay vay nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân sau đó mới phát triển kinh tế nhưng ở Việt Nam lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn với xoá đói giảm nghèo. Vừa qua thủ tướng chính phủ đã ký quyết định chọn ngày 13-10 hàng năm là ngày “Doanh nhân Việt Nam” đã đánh giá đúng vai trò của doanh nhân trong công cuộc phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo.

2) Nền KTTT nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo

Hiện nay nước ta còn tồn tại 3 hình thức sở hữu chính: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, tương ứng với các hình thức sở hữu đó là 6 thành phần kinh tế đang tồn tại là:

- Thành phần kinh tế nhà nước

- Thành phần kinh tế tập thể

- Thành phần kinh tế tư bản nhà nước

- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân

- Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ

- Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Tuy tồn tại 6 thành phần kinh tế nhưng thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò đầu tàu chủ đạo. Vì nhà nước ta là nhà nước XHCN cho nên phải đảm bảo lợi ích của toàn dân trên hết do đó thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tập thể phải đóng vai trò chính. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của KTTT nhà nước XHCN với nền KTTT của nhà nước TBCN. Tuy chúng ta xác định thành phần kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế chủ đạo nhưng nhà nước ta vẫn đảm bảo sự công bằng trong cạnh tranh và trong sự phát triển của các đơn vị kinh tế. Các đơn vị kinh tế đều bình đẳng với nhau trước pháp luật và đều được tạo mọi điều kiện tốt nhất trong làm

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 12

Page 13: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

ăn. Hiện nay ở Việt Nam thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân.

Hàng năm góp khoảng 50% GDP của cả nước, luôn đi đầu trong nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, cải tiến công nghệ và bảo vệ môi trường.

3) Trong nền KTTT định hướng XHCN tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.

Trong mỗi nền KT thì quan hệ sản xuất luôn quyết định quan hệ phân phối mà sở hữu lại là điều kiện quyết định đến quan hệ sản xuất. Hiện nay nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, mỗi một hình thức sở hữu lại có một phương pháp phân phối riêng do đó ở thời điểm hiện nay việc tồn tại nhiều hình thức phân phối là tất yếu. Nền KTTT thì phải đa dang sở hữu dẫn đến nhiều hình thức phân phối nhưng do Việt Nam là nền KTTT định hướng XHCN cho nên về căn bản chúng ta vẫn áp dụng phân phối theo lao động là chủ yếu. Phân phối theo lao động bao gồm: tài sản, lao động, vốn, quỹ phúc lợi XH.

Hình thức phân phối này tồn tại và phổ biến ở Việt Nam là do nền KT nước ta vẫn còn kém phát triển, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH mà tăng trưởng KT chỉ là công cụ để chúng ta hoàn thành sự nghiệp XHCN. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng KT của chúng ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng XH. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi XH có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đó.

4) Cơ chế vận hành nền KT là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN.

Nền KTTT ở nước ta cũng vận hành theo cơ chế thị trường với những đặc trưng riêng của thị trường như: quan hệ cung, cầu, giá cả,... và có sự quản lý của nhà nước. Nhưng nhà nước của chúng ta là nhà nước XHCN chứ không phải là nhà nước TBCN nên nền KT định hướng XHCN. Đây chính là điểm khác biệt và cũng là đặc trưng riêng có của nền KTTT ở nước ta. Cơ chế thị trường nó cũng có những khuyết tật của nó cho nên vai trò quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những thất baị của thị trường để hướng sự phát triển KT vào các mục tiêu nhân đạo XH, tiến bộ và công bằng mà bản thân cơ chế thị trường không làm được.

Vai trò của nhà nước là rất quan trọng, nhà nước đưa ra các chính sách, kế hoạch để điều tiết thị trường. Nhà nước XHCN đảm bảo cho xoá đói giảm nghèo, giảm bớt hố ngăn cách chênh lệch giàu nghèo điều mà các nước TBCN không thể thực hiện được. Đặc trưng của nhà nước XHCN là đại diện cho toàn dân còn các nước TBCN là đại diện cho giai cấp mình, cho các trùm tư bản.

Nhà nước quản lý nền KT thông qua các kế hoạch và các chính sách của mình. Các kế hoạch đề ra đều dựa trên sự vận động, nhu cầu của thị trường và cũng từ những tác động của thị trường mà nhà nước làm căn cứ để vạch

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 13

Page 14: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

ra các kế hoạch tương ứng. Kế hoạch và thị trường không thể tách rời nhau mà luôn luôn phụ thuộc nhau, nếu tách rời thị trường khỏi kế hoạch thì các kế hoạch đưa ra sẽ chủ quan duy ý chí không đáp ứng được các nhu cầu bức thiết. Còn nếu tách kế hoạch khỏi thị trường thì dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực và đầu tư không hiệu quả.

Chính vì vậy nền KTTT phải luôn luôn cần sự quản lý của nhà nước và để tiến tới một XH công bằng và tốt đẹp hơn thì cần sự định hướng XHCN, đó chính là cơ chế vận hành nền KTTT của Việt Nam đang thực hiện.

5) Nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền KT mở cửa hội nhập

Hiện nay với sự phát triển của nền KTTT ở Việt Nam nước ta cũng tiến hành mở cửa nền KT, đây chính là sự khác biệt của nền KT hiện nay với nền KT đóng của ta từ thời ký trước đổi mới.

Ngày nay do sự phát triển của KH – CN – KT mà các nước trên thế giới luôn phải phụ thuộc vào nhau. Không nước nào dù mạnh đến mấy cũng không thể có đủ cá nguồn lực để đáp ứng đủ các nhu cầu của nước mình. Chính vì vậy mà các nước cần mở cửa giao lưu để bổ sung thêm những lĩnh vực mà mình còn thiếu, còn yếu do đó tất yếu phải mở cửa hội nhập hợp tác với các nước khác vì quyền lợi và mục tiêu của mình. Nhất là với nền KTTT sôi động thì việc giao lưu mở cửa nền KT lại càng cấp thiết. Nước ta với xuất phát điểm rất thấp mà nền KTTT ở nước ta mới đang trong thời kỳ sơ khai, mọi mặt đều thiếu và yếu. Chúng ta rất cần vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, lao động trình độ cao,... do đó mở cửa hội nhập ta sẽ có những cơ hội tiếp cận được những mặt yếu này dần hoàn thiện mình hơn.

Khi hội nhập ta sẽ tận dụng được những nguồn vốn đều tư nước ngoài, đi kèm theo đầu tư là những công nghệ sản xuất hiện đại và cả những kinh nghiệm quản lý tốt của những nước đã phát triển KTTT trước chúng ta hàng thế kỷ. Khi đó công cuộc xây dựng nền KTTT của chúng ta sẽ được rút ngắn lại, sự mở cửa hội nhập sẽ đem lại cho chúng ta nhiều cơ hội phát triển và những thử thách mới.

Thị trường thế giới là vô tận khi hội nhập chúng ta có thể xâm nhập vào nó và lợi ích mà nó mang lại là vô cùng to lớn nhưng khi tham gia sân chơi tầm thế giới này chúng ta cũng phải chịu sức ép cạnh tranh từ những cường quốc mạnh hơn chúng ta nhiều lần. Các quy định, luật lệ và các tiêu chuẩn đặt ra sẽ là những trở ngại lớn nhất , việc thích nghi được sẽ khẳng định vị thế của chúng ta.

Bên cạnh đó chúng ta cũng cần đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ với các nước nhằm tăng cường hợp tác cùng phát triển của mỗi bên.

II. Thực trạng và những giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

1) Thực trạng nền KTTT ở Việt Nam.

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 14

Page 15: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

a) Tình hình phát triển KTTT còn ở giai đoạn sơ khai, yếu kém

Nguyên nhân thứ nhất là do cơ sở vật chất của chúng ta còn ở trình độ thấp về mọi mặt: máy móclạc hậu, theo UNDP máy móc của ta kém thế giới từ 2 – 3 thế hệ. Cá trang thiết bị còn lạc hậu do đó năng suất lao động thấp. Kèm theo là trình độ nhân công của chúng ta còn thấp, lao động chủ yếu là thủ công trình độ tay nghề không có, phần lớn chưa qua các lớp đào tạo nghề. Hiện nay ở Việt Nam thường có câu “thừa thầy, thiếu thợ” chính vì vậy để nâng cao trình độ và chất lượng lao động nhà nước đã chú trọng khâu đào tạo nghề cho lao động. Vài năm gần đây số lượng các trường đào tạo nghề tăng liên tục và trình độ tay nghề của người lao động Việt Nam đã có những bước tiến bộ. Trong cuộc thi tay nghề Asian năm nay đã vươn lên vị trí số một.

Nền KT nước ta có những bước phát triển nhưng nói chung vẫn còn nghèo do đó cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Đường xá còn ít, chất lượng đường còn kém, hiện nay ở Việt Nam chưa có con đường nao đạt tiêu chuẩn đường cao tốc theo tiêu chuẩn quốc tế. Về nhà cửa cầu cống còn ít và chất lượng đang ngày một xuống cấp. ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM vấn đề nhà ở cho người có thu nhập thấp vẫn còn là vấn đề chưa giải quyết được. Đa phần các lao động trong các khu công nghiệp vẫn chưa có chỗ ở và phải đi thuê các căn phòng nhỏ, chật chội, điều kiện vệ sinh, điện nước chưa đảm bảo.

Nền KT của Việt Nam vẫn liệt vào danh sách các nước nông nghiệp lạc hậu. Khoảng 70% số lao động là lao động nông nghiệp. Nhưng số lao động này vẫn chủ yếu là thủ công, năng suất thấp. Máy nông nghiệp cũng chỉ phổ biến ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhưng máy móc cũng vẫn chưa hiện đại.

Từ trình độ lao động thấp, máy móc lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng hàng hoá chưa cao, chủng loại không đa dạng, giá thành sản xuất cao.Do đó khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu kém không những trên thị trường nước ngoài mà còn ngay cả rhị trường trong nước các doanh nghiệp của chúng ta cũng khó cạnh tranh khi ta mở cửa thị trường.

b. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong giai đoạn hình thành nhưng chưa đồng bộ

Cùng sự hoàn thiện dần của nền KTTT thì thị trường hàng hoá cũng đang hình thành. Nhưng một thực trạng về thị trường hàng hoá của Việt Nam cũng như các nước đang phát triển nói chung vẫn còn nhiều tiêu cực. Nguy hiểm nhất cho các doanh nghiệp là nạn hàng hoá giả, nó làm cho uy tín các doanh nghiệp cũng như sản lượng của các doanh nghiệp giảm xuống. Ngoài ra còn nạn trốn thuế lậu thuế và các vụ gian lận thương mại mà chúng ta

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 15

Page 16: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

phát hiện làm cho ngân sách nhà nước thất thu lớn, hơn nữa nó còn làm cho thị trường trong nước bị lũng đoạn.

Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, Vài năm gần đây chúng ta cũng phát triển các công ty xuất khẩu lao động nhưng còn nhiều khó khăn và khủng hoảng. Người lao động Việt Nam chưa có tác phong công nghiệp cũng như kỷ luật lao động còn yếu. Tình trạng công nhân Việt Nam bỏ làm đi làm ngoài còn rất nhiều khiến cho các doanh nghiệp nước ngoài còn e dè trong việc lựa chọn thuê công nhân Việt Nam.

Vài năm gần đây thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành và đang dần hoàn thiện. Tuy vậy các dao dịch còn yếu còn ít về lượng cho nên huy động vốn ở thị trường còn hạn chế. Vốn chủ yếu vẫn do các ngân hàng cung cấp nhưng cơ hội cho vay của các ngân hàng cho các doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế. Ngoài ra các ngân hàng Việt Nam còn quá ít vốn. Theo WTO tổng lượng vốn các ngân hàng Việt Nam chỉ tương đương với lượng vốn của một ngân hàng trung bình khá của các nước phát triển.

c. Nhiều thành phần KT tham gia thị trường.

Như đã nêu ở phần I hiện nay nước ta có 6 thành phần KT cùng song song tồn tại do đó thị trường chúng ta có nhiều thành phần KT, KT nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán là chủ yếu.

d. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng KT đối ngoại, hội nhập thị trường khu vực và thế giới trong hoàn cảnh nền KT nước ta còn thấp so với nhiều nước trên thế giới.

Tuy vậy với xu thế toàn cầu hoá hiện nay chúng ta vẫn phải tham gia vì quyền lợi và sự phát triển. Tuy so sánh thì khi hội nhập thị trường thế giới thì chúng ta còn nhiều yếu kém do đó sẽ có nhiều bất lợi và khó khăn. Nhưng mỗi nền KT đều có lợi thế so sánh riêng của mình vì thế ta phải tham gia để làm sao có thể phát huy các mặt mạnh. Đa dạng hoá, đa phương hoá sao cho tận dụng được ngoại lực để phát huy nội lực nhằm đẩy nhanh CNH –HĐH nền KTQD để định hướng đi lên CNXH như mục tiêu của Đảng đề ra.

e. Quản lý nhà nước về KTXH còn yếu.

Về mặt này văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần IX có nhận định “Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm”.

Thực trạng đã chứng minh trên đài báo và các phương tiện thông tin đại chúng có nêu tình trạng thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước lên tới 30% giá trị công trình. Nhiều công trình xây không đảm bảo chất lượng cũng như hiệu quả KT chưa cao. Còn nhiều dự án KT khác của nhà nước đầu tư cho các địa phương khi vốn về đến nơi chỉ còn lại

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 16

Page 17: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

khoảng 50% - 60% như vậy cho thấy tình trạng thất thoát vốn khá nghiêm trọng. Đó là điểm yếu của các chính sách thực hiện và sự quản lý vẫn chưa nghiêm.

III. Mục tiêu phấn đấu và các giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN Việt Nam.

a) Mục tiêu phấn đấu.

Đại hội Đảng toàn quốc lần IX đã đề ra mục tiêu KT – XH giai đoạn 2000 – 2020:

Thứ nhất, mục tiêu đến năm 2005 là phải hoàn thành kế hoạch 5 năm giai đoạn 2001 –2005. Tuy vài nưm gần đây KT Việt Nam vẫn phát triển khá so với khu vực nhưng do nhiều yếu tố bên ngoài đặc biệt là tình hình thế giới đã kìm hãm tốc độ phát triển làm cho tốc độ phát triển trung bình của các năm 2001 – 2003 không đạt yêu cầu đề ra. Tuy vậy với tốc độ phát triển của năm 2004 ước đạt khoảng 7,5% và năm 2005 là 8,5% thậm trí trên 8,5% thì về cơ bản kế hoạch 5 năm có thể hoàn thành. Hiện nay nhà nước và chính phủ đang nỗ lực dàm phán đến năm 2005 Việt Nam sẽ trở thành thành viên của WTO.

Thứ hai, mục tiêu đến năm 2010 phấn đấu nền KT Việt Nam cơ bản là một nước công nghiệp. Tỷ lệ lao động trong các ngành CN và DV chiếm khoảng 50% lao động và ngành NN là 50%. Cơ cấu KT chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ là chính.

Thứ ba, mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp như Thái Lan và Malaysia bây giờ.

b) Những giải pháp cơ bản.

Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán chính sách KT nhiều thành phần do đó ta tiếp tục tồn tại nền KT nhiều thành phần. Tạo mọi điều kiện cho các thành phần KT có cơ hội phát triển công bằng và bình đẳng trước pháp luật.

Đẩy mạnh CNH – HĐH ứng dụng các tiến bộ KHCN trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động XH.

Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường: vốn, KHCN, lao động, thị trường chứng khoán. Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho chúng ta thực hiện CNH – HĐH đất nước.

Mở rộng và nâng cao hiệu quả KT đối ngoại, nâng cao hợp tác KT với các nước trên thế giới mà quan trọng nhất là sớm ra nhập vào WTO.

Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đây có thể coi là mục tiêu quan trọng nhất vì có ổn định chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật thì mới có thể nói đến phát triển KT. Trong mở rộng quan hệ KT,

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 17

Page 18: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

các nhà KT cũng ưu tiên đầu tiên là tình hình chính trị và pháp luật của nước được đầu tư phải ổn định.

Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý KT của nhà nước. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp là một cơ chế đã lỗi thời và không còn phù hợp với thời điểm hiện nay. Đây là mục tiêu phải loại bỏ đầu tiên và một mục tiêu cũng quan trọng là sự quản lý KT của nhà nước. Chúng ta đều biết rằng nhà nước quản lý nền KT quá yếu kém dẫn đến tình trạng thất thu vốn, đầu tư kém hiệu quả, thất thu thuế... do đó muốn đạt hiệu quả KT cao thì cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý KT của nhà nước.

IV.Kết luậnNhư vậy qua kết quả, thành tựu của hơn 17 năm đổi mới vừa qua bộ mặt KT của nước ta đã có nhiều khởi sắc, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu mang tầm cỡ thế giới. Tình hình kinh tế, chính trị ổn định, KT tăng trưởng nhanh và bền vững. Các thành tựu đó có được trước tiên là nhờ vào Đảng trong đó quyết định đổi mới năm 1986 đưa nước ta phát triển theo nền KTTT là một bước ngoặt lớn. Chính nhờ tình hình KT vững, ổn định đã tạo vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao với 171 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều chính phủ và các tổ chức phi chính phủ đang giúp đỡ Việt Nam trong các lĩnh vực KT, giáo dục, y tế.... Vị thế của chúng ta đã và đang ngày càng được cải thiện, củng cố trên trường quốc tế, trong lòng bè bạn và các đối tác trên toàn thế giới. Qua quá trình thực hiện KTTT đã chứng minh chủ trương đổi mới sang nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là đúng đắn. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại khách quan và chủ quan cần được khắc phục để ngày càng hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN theo đúng nghĩa ở Việt Nam.

Phần V Danh mục tài liệu tham khảo1. Chương XV KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam

Giáo trình: KTCT Mac – Lê Nin

Tác giả: TS Trịnh Đình Bảy

NXB: Chính trị Quốc gia 2002

2. Bài: Một vài kình nghiệm phát triển KTTT của các nước công nghiệp phát triển

Tác giả: TS Nguyễn Xuân Thắng

Tạp chí: Những vấn đề KT thế giới 2 – 2001

3. Bài: Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp trong nền KT Việt Nam hiện tại

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 18

Page 19: [Luanvandaihoc.com]xây dựng kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Tác giả: Trần Minh Châu

Tạp chí: Lý luận chính trị 1 –2001

4. Bài: Nền KTTT cần có một nhà nước hiệu quả, bài học từ nước Nga

Tác giả: Văn Trân

Tạp chí: Thông tin tài chính số 9 tháng 5 năm 2001

5. Bài: Nền KTTT nhiều thành phần trong thời kỳ qúa độ lên CNXH

Tác giả: Vũ Văn Phúc

Tạp chí: Giáo dục lý luận

6. Tiếp tục đổi mới để xây dựng đồng bộ cơ chế quản lý nền KTTT định hướng XHCN

Tác giả: GS – TS Hồ Văn Vĩnh

Tạp chí: Lý luận chính trị số 6 năm 2001

7. Bài: Mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta

Tác giả: GS – TS Chu Văn Cấp

Tạp chí: Lý luận chính trị số 5 năm 2001

8. Văn kiện đại hội Đảng IX

9.Giáo trình kinh tế chính trị mác lê-nin, Bộ giáo dục và đào tạo ,NXB giáo dục,HN 2003 tái bản 2004.

10. Giáo trình kinh tế chính trị mác lê-nin về thời kì quá độ lên CNXH (dùng cho hệ cử nhân chính trị ), NXB chính trị quốc gia HN 2001 .

11.Văn kiện đại hội đảng VIII,IX.

12.Văn kiện hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành TW khoá IX nxb chính trị quốc gia ,2004.

13.Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta của tác giả TS Vũ Văn Phúc và Trần Thị Minh Châu ,NXB Chính trị quốc gia ,HN 2001.

14.Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dung nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam ,TS Dương Thị Liễu –NXB chính trị quốc gia ,HN 2001,

http://luanvandaihoc.com/ 0908907113 Page 19