mÔ hÌnh tỔ chỨc vÀ hoẠt ĐỘng cỦa hỘi ĐỒng hiẾn … fileban biÊn tẬp dỰ...
TRANSCRIPT
BAN BIÊN TẬP
DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
_____________________
MÔ HÌNH
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP Ở
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI (Sách chuyên khảo)
HÀ NỘI, 2013
CHỦ BIÊN
- GS.TS. Phan Trung Lý, Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ
nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, Uỷ viên Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992, Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
- Ths. Nguyễn Văn Phúc, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế của Quốc hội,
Phó trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
- TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, thành viên
Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
NHÓM TÁC GIẢ
1. GS.TS. Nguyễn Đăng Dung (Chương III (cùng TS. Đặng Minh Tuấn))
2. TS. Vũ Công Giao (Chương I)
3. TS. Đặng Minh Tuấn (Chương II - Các nước Pháp (cùng TS. Võ Trí
Hảo), Campuchia, Angiêri, Tuynidi, Chương III (cùng GS.TS. Nguyễn Đăng
Dung) và Phụ lục - Dịch thuật các quy định của Hiến pháp và pháp luât các
nước liên quan)
4. NCS. Bùi Ngọc Sơn (Chương II - Các nước Môritani, Xênêgan và Phụ
lục – Dịch thuật các quy định của Hiến pháp và pháp luât các nước liên quan)
5. TS. Võ Trí Hảo (Chương II - Các nước Pháp (cùng TS. Đặng Minh
Tuấn), Cadắcxtan (cùng TS. Lê Hưng Long), Libăng, Ethiopia và Phụ lục –
Dịch thuật các quy định của Hiến pháp và pháp luât các nước liên quan)
6. NCS. Trần Kiên (Chương II - Các nước Chad, Marốc và Phụ lục -
Dịch thuật các quy định của Hiến pháp và pháp luât các nước liên quan)
7. TS. Lê Hưng Long (Chương II – Các nước Cadắcxtan (cùng TS Võ
Trí Hảo), Libăng và Phụ lục - Dịch thuật các quy định của Hiến pháp và pháp
luât các nước liên quan)
8. Nguyễn Thu Trang (Phụ lục - Dịch Luật về Hội đồng Hiến pháp của
Cadắcxtan)
BIÊN TẬP
- Nguyễn Văn Phúc
Phó trưởng Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
- Hoàng Minh Hiếu
Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội
- Nguyễn Đức Lam
Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử, Văn phòng Quốc hội
- Dương Thuỳ Dung
Vụ Kinh tế, Văn phòng Quốc hội
- Đặng Minh Tuấn
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
THAM GIA BÌNH LUẬN:
- GS.TSKH Đào Trí Úc
Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội
- GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
Trưởng khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội
LỜI NÓI ĐẦU
Hiến pháp là văn bản chính trị-pháp lý, là đạo luật cơ bản, luật gốc của đất
nước, phản ánh ý chí của toàn dân, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống
chính trị và trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Việc bảo đảm tính tối
cao của Hiến pháp, bảo đảm để tất cả các chủ thể trong xã hội tôn trọng và
nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Hiến pháp luôn là vấn đề được các
quốc gia trên thế giới quan tâm.
Ở Việt Nam, vấn đề tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm tính tối cao
của Hiến pháp cũng đã được đề cập trong quá trình xây dựng và thực thi các bản
Hiến pháp. Trong thời gian gần đây, cùng với việc thực hiện mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng cơ chế bảo vệ
Hiến pháp đã được đặt ra trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng, theo đó cần nghiên cứu “xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám
sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền” và “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp
trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”1. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng tiếp tục yêu cầu “xây dựng từng bước hoàn thiện cơ chế,
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định
của các cơ quan công quyền”2.
Thực hiện chủ trương này của Đảng, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992 một mặt đề nghị tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện
hành, tăng cường vai trò của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền khác của Nhà
nước trong việc giám sát, kiểm tra việc thi hành Hiến pháp, đồng thời đã tiến
hành nghiên cứu, đề xuất quy định về thiết chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách
theo mô hình Hội đồng Hiến pháp. Đây là một trong những mô hình cơ quan
bảo hiến được một số nước trên thế giới áp dụng và được cho là phù hợp với
nguyên tắc và mô hình tổng thể tổ chức bộ máy Nhà nước ở nước ta. Nhằm cung
1 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2010), trang
333 - 396.
2 Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu tòan toàn quốc lần
thứ XI của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011), trang
247.
cấp thêm thông tin tham khảo, phục vụ cho quá trình sửa đổi Hiến pháp năm
1992, tiếp theo việc cho xuất bản và phát hành cuốn “Một số vấn đề cơ bản của
Hiến pháp các nước trên thế giới”, Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
tổ chức biên soạn cuốn sách chuyên khảo về Hội đồng Hiến pháp của một số
nước.
Mục đích chủ yếu của cuốn sách là giới thiệu về cơ cấu tổ chức, thẩm
quyền, cách thức và thực tiễn hoạt động của Hội đồng Hiến pháp, từ đó có thể
rút ra những kinh nghiệm phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng thiết chế bảo
vệ Hiến pháp ở nước ta.
Ban biên tập xin trân trọng cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội, các đồng chí
lãnh đạo, các nhà quản lý, các chuyên gia đã dành thời gian đọc và góp ý để
hoàn thiện cuốn sách; cảm ơn các giáo sư, giảng viên của Khoa Luật, Đại học
quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội đã tham gia nghiên cứu, biên soạn, bình
luận về nội dung của cuốn sách; các cán bộ, chuyên viên thuộc Văn phòng Quốc
hội đã dành nhiều thời gian để hỗ trợ về công tác hành chính và biên tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng việc biên soạn không tránh khỏi sai
sót, hạn chế, Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 kính mong tiếp
tục nhận được các đóng góp ý kiến để nội dung của cuốn sách tiếp tục được
hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
GS.TS. PHAN TRUNG LÝ
Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
Uỷ viên Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Trưởng Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
i
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO VỆ HIẾN PHÁP .......................... 1
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CƠ QUAN BẢO
VỆ HIẾN PHÁP.................................................................................................................................. 1
1.1. Khái niệm bảo vệ Hiến pháp ........................................................... 1
1.2. Quá trình hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp ............................... 2
II. CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO VỆ HIẾN PHÁP ............................................... 6
2.1. Khái quát .......................................................................................... 6
2.2. Nghị viện ........................................................................................ 10
2.3. Hội đồng Hiến pháp ....................................................................... 11
2.4. Tòa án Hiến pháp ........................................................................... 12
2.5. Tòa án thường ................................................................................ 14
CHƯƠNG II MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG HIẾN
PHÁP Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .......................................................................... 16
I. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CỘNG HÒA PHÁP ....................................................... 16
1.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 16
1.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 20
1.3. Cơ cấu tổ chức ............................................................................... 20
2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ..................................................................... 23
2.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 29
II. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CAMPUCHIA ............................................................... 32
2.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 32
2.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 33
2.3. Cơ cấu tổ chức và quy trình, thủ tục .............................................. 33
2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ..................................................................... 36
2.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 43
III. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CADẮCXTAN ............................................................. 44
3.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 44
3.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 44
3.3. Cơ cấu tổ chức ............................................................................... 45
3.4. Thẩm quyền ................................................................................... 46
3.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 48
IV. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP ANGIÊRI ...................................................................... 51
4.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 51
4.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 52
4.3. Cơ cấu tổ chức và quy trình, thủ tục hoạt động ............................. 52
ii
4.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ..................................................................... 56
4.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 58
V. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP MÔRITANI ................................................................... 59
5.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 59
5.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 61
5.3. Cơ cấu tổ chức ............................................................................... 61
5.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ..................................................................... 62
5.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 64
VI. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CỘNG HOÀ CHAD ................................................... 67
6.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 67
6.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 69
6.3. Cơ cấu tổ chức ............................................................................... 70
6.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ..................................................................... 72
6.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 75
VII. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP TUYNIDI .................................................................... 77
7.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 77
7.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 77
7.3. Cơ cấu tổ chức ............................................................................... 78
7.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ..................................................................... 80
7.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 84
VIII. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP XÊNÊGAN ................................................................ 86
8.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 86
8.2. Khuôn khổ pháp lý ......................................................................... 87
8.3. Cơ cấu tổ chức ............................................................................... 88
8.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ..................................................................... 88
8.5. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 90
IX. HỘI ĐỒNG ĐIỀU TRA HIẾN PHÁP ETHIOPIA ............................................. 92
9.1. Quá trình hình thành và phát triển ................................................. 92
9.2. Khuôn khổ pháp lý, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền .......................... 94
9.3. Thực tiễn hoạt động ....................................................................... 97
X. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP MARỐC ........................................................................ 100
10.1. Quá trình hình thành và phát triển ............................................. 100
10.2. Khuôn khổ pháp lý ..................................................................... 102
10.3. Cơ cấu tổ chức ........................................................................... 103
10.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ................................................................. 104
10.5. Thực tiễn hoạt động ................................................................... 106
iii
XI. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP LIBĂNG ...................................................................... 109
11.1. Quá trình hình thành, phát triển ................................................. 109
11.2. Khuôn khổ pháp lý ..................................................................... 111
11.3. Cơ cấu tổ chức ........................................................................... 111
11.4. Nhiệm vụ, quyền hạn ................................................................. 113
11.5. Thực tiễn hoạt động ................................................................... 114
CHƯƠNG III NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................ 116
I. Cơ sở hình thành Hội đồng Hiến pháp .................................................................... 116
II. Khuôn khổ pháp lý của Hội đồng Hiến pháp ....................................................... 120
III. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Hiến pháp ............................................................. 120
IV. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp ............................................. 122
V. Thực tiễn hoạt động của Hội đồng Hiến pháp...................................................... 123
VI. Việc thành lập Hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam ................................................ 125
PHỤ LỤC: Tuyển chọn quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Hội đồng Hiến pháp ở một số nước ......................................................................... 129
1. Cộng hoà Pháp .............................................................................................................. 129
2. Campuchia ..................................................................................................................... 134
3. Cadắcxtan ...................................................................................................................... 136
4. Angiêri ............................................................................................................................ 160
5. Môritani .......................................................................................................................... 163
6. Chad ................................................................................................................................ 165
7. Tuynidi ............................................................................................................................ 167
8. Xênêgan .......................................................................................................................... 170
9. Ethiopia .......................................................................................................................... 172
10. Marốc ............................................................................................................................ 174
11. Libăng ........................................................................................................................... 175
iv
CÁC MINH HOẠ
Các bảng
Bảng 1: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến trên toàn thế giới ........................ 6
Bảng 2: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Châu Âu .................... 6
Bảng 3: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Châu Phi .................... 7
Bảng 4: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Trung Đông ............... 7
Bảng 5: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Châu Á và Châu Đại
dương .................................................................................................................... 7
Bảng 6: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Bắc Mỹ ...................... 8
Bảng 7: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Trung và Nam Mỹ .... 8
Bảng 8: Bảng phân tích so sánh thẩm quyền của hai mô hình ........................ 104
Bảng 9: Bảng thống kê các thành viên Hội đồng Hiến pháp được bầu từ Nghị
viện năm 2008 .................................................................................................. 112
Các hình:
Hình 1: Quy định về cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp các nước trên thế giới (từ
1803 đến sau năm 2000) ....................................................................................... 5
Hình 2: Các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp Campuchia .......... 36
Hình 3: Quyền đề nghị lên Hội đồng Hiến pháp ở Campuchia......................... 39
Hình 4: Thẩm quyền và thủ tục giải quyết của Hội đồng Hiến pháp
Campuchia .......................................................................................................... 42
Hình 5: Quy trình kiểm hiến trước .................................................................... 83
Các hộp
Hộp 1: Vụ Marbury kiện Madison....................................................................... 3
1
CHƯƠNG I:
CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO VỆ HIẾN PHÁP
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CƠ
QUAN BẢO VỆ HIẾN PHÁP
1.1. Khái niệm bảo vệ Hiến pháp
Bảo vệ Hiến pháp (hay “bảo hiến”) có ý nghĩa cốt lõi là kiểm tra tính hợp
hiến của các đạo luật do Nghị viện (hay Quốc Hội) ban hành, cụ thể là đánh giá
xem những đạo luật được đưa ra có phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến
pháp hay không1. Theo nghĩa rộng hơn, bảo hiến được hiểu là kiểm tra tính hợp
hiến trong hành vi của tất cả các thiết chế quyền lực được Hiến pháp quy định,
chứ không chỉ giới hạn ở việc làm luật của Nghị viện.
Cơ chế bảo hiến là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức việc bảo vệ
Hiến pháp của một quốc gia, được thể hiện cụ thể thông qua các mô hình cơ
quan bảo hiến. Cơ chế bảo hiến của các nước không hoàn toàn giống nhau, tuy
chúng thường tuân thủ những đặc điểm chung của các mô hình cơ quan bảo vệ
Hiến pháp phổ biến (nêu ở Mục II dưới đây).
Ở nhiều quốc gia, bảo hiến đồng nghĩa với kiểm hiến của tòa án (judicial
review), là thẩm quyền của các tòa án xem xét và đánh giá tính hợp hiến của các
đạo luật hoặc quyết định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp2. Quan
niệm này xuất phát từ thực tế là phần lớn quốc gia trên thế giới trao cho các tòa
án (Tòa án thường hoặc Tòa án Hiến pháp) nhiệm vụ bảo hiến. Mặc dù vậy, cần
thấy rằng tài phán Hiến pháp (bảo vệ Hiến pháp bằng tòa án) chỉ là một trong
các mô hình bảo hiến.
1 Xem: Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế
giới, (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012) tr.120.
2 Xem: http://www.britannica.com/EBchecked/topic/307542/judicial-review, http://legal-
dictionary.thefreedictionary.com/judicial+review
2
1.2. Quá trình hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp
Cũng như bất kỳ văn bản pháp luật nào khác của các quốc gia, Hiến pháp
cũng đứng trước nguy cơ bị vi phạm. Điều này làm phát sinh nhu cầu cần có
một cơ chế bảo hiến.
Trong thực tế, chính các cơ quan nắm giữ quyền lực công (Nghị viện,
Chính phủ, Tòa án..) là những chủ thể chính của các hành vi vi hiến. Do Hiến
pháp là bản khế ước do nhân dân lập ra để tổ chức, kiểm soát quyền lực nhà
nước và ràng buộc chính quyền nên mọi hành vi vi hiến đều phải bị xử lý để bảo
đảm ý chí, chủ quyền của nhân dân được tôn trọng và thực hiện. Trong bối cảnh
đó, ở các xã hội có Hiến pháp nhân dân, luôn đòi hỏi thành lập các thiết chế bảo
hiến. Nhu cầu về bảo hiến trước hết và chủ yếu xuất phát từ xã hội, từ nhân dân.
Nói cách khác, bảo hiến là yêu cầu chung ở mọi quốc gia chứ không phải là cơ
chế dành riêng cho các nước áp dụng mô hình chính trị đa đảng hay một đảng.
Lịch sử bảo hiến được một học giả chia thành các giai đoạn như sau:1
+Trước Chiến tranh thế giới thứ I
Những yếu tố ban đầu của bảo hiến được cho là xuất hiện vào thời cổ Hy
Lạp, khi pháp luật nước này phân biệt giữa một nomos (văn bản pháp luật có
hiệu lực tối cao như Hiến pháp) và một psephisma (văn bản pháp luật có hiệu
lực thấp hơn). Một psephisma, bất kể nội dung quy định về vấn đề gì, cũng
không được trái với nomos, nếu trái sẽ bị coi là vô hiệu.
Một số khía cạnh của bảo hiến sau đó được áp dụng trong hệ thống pháp
luật của Đức từ năm1180 (về sau được đề cập trong Hiến pháp Weimar 1919).
Ngoài ra, các hình thức sơ khai của bảo hiến cũng xuất hiện ở một số nước Châu
Âu khác như ở Pháp (từ giữa thế kỷ XIII), Bồ Đào Nha (từ thế kỷ XVII), Na Uy,
Đan Mạch, Hy Lạp, Áo, Romania (thế kỷ XIX). Mặc dù không có Hiến pháp
thành văn, nước Anh cũng được coi là có đóng góp quan trọng vào sự phát triển
của thể chế bảo hiến, vì từ thời Trung cổ, người Anh đã khởi xướng ra thủ tục
impeachment (luận tội để bãi miễn quan chức nhà nước), đồng thời từ năm 1610
đã đề xướng nguyên tắc về tính tối thượng (supremacy) của luật (bao gồm các
quy phạm luật Hiến pháp) và quyền của tòa án được xem xét tính hợp pháp các
hoạt động của Chính phủ - những điều mà sau đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
việc thiết lập cơ chế bảo hiến ở Hoa Kỳ.
1Xem: Arne Mavčič, Historical Steps in the Development of Systems of Constitutional Review and Particularities
of Their Basic Models, tại http://www.concourts.net/introen.php.
3
Ở Hoa Kỳ, vào cuối thế kỷ 18, tòa án đã ra một phán quyết tuyên bố các
luật của đế chế Anh không có hiệu lực trên lãnh thổ các bang Bắc Mỹ. Tuy
nhiên, phải đến năm 1803, trong vụ án nổi tiếng Marbury kiện Madison, quyền
bảo hiến của tòa án mới được xác lập chính thức và tạo ra mô hình bảo hiến kiểu
Hoa Kỳ do các tòa án thường thực hiện.
Hộp 1: Vụ Marbury kiện Madison1
Bối cảnh vụ kiện: Vào đầu năm 1801, những ngày chót trước khi hết nhiệm kỳ, Tổng
thống John Adams đã bổ nhiệm 16 thẩm phán liên bang và 42 thẩm phán hòa bình ở tòa án
hạt (Justice of the peace). Để nhậm chức chính thức, các quyết định bổ nhiệm phải được Thư
ký Nhà nước (Secretary of State) gửi đến những người được bổ nhiệm. Tuy nhiên, vì thời gian
quá gấp, một số thẩm phán do John Adams cất nhắc đã không kịp nhận quyết định bổ nhiệm
trước khi Tổng thống mới là Thomas Jefferson lên nắm quyền. Ngay sau khi nhậm chức,
Thomas Jefferson ra lệnh ngừng cấp quyết định bổ nhiệm đối với các trường hợp chưa nhận
quyết định, trong đó có Marbury. Căn cứ vào quy định của Luật về tòa án năm 1789, Marbury
kiện James Madison, tân Thư ký Nhà nước, lên Tòa án tối cao Liên bang, yêu cầu Tòa ra lệnh
(writ) buộc Madison phải ra quyết định bổ nhiệm Marbury.
Phán quyết của Tòa án tối cao: Tòa tuyên Marbury có quyền được nhận quyết định
bổ nhiệm, vì việc bổ nhiệm diễn ra đúng luật. Sự chậm trễ trong việc gửi các quyết định bổ
nhiệm đã vi phạm quyền luật định của Marbury. Tuy nhiên, Tòa lại từ chối đơn của Marbury
yêu cầu Tòa ra lệnh buộc Madison phải gửi quyết định bổ nhiệm. Tòa cho rằng mình không
có thẩm quyền như vậy. Quy định của Luật năm 1789 trao cho Tòa án thẩm quyền đó là trái
với Điều III của Hiến pháp Hoa Kỳ, do đó không có hiệu lực.
Ý nghĩa của phán quyết đối với bảo hiến: Trong lập luận cho phán quyết của Tòa án
tối cao về vụ việc trên, Chánh án John Marshall đã nhấn mạnh: “Thẩm quyền và bổn phận của
nhánh tư pháp là xác định luật nào được áp dụng. Toà án có quyền áp dụng luật đối với từng
trường hợp cụ thể nên cần thiết phải có thẩm quyền dẫn giải và giải thích luật được áp dụng.
Nếu có hai đạo luật xung đột nhau, Toà án phải quyết định việc áp dụng của từng đạo luật”.
Trong trường hợp luật trái với Hiến pháp, và được áp dụng trong một vụ việc, tòa án phải coi
Hiến pháp cao hơn bất kỳ đạo luật nào của lập pháp; Hiến pháp, chứ không phải các đạo luật,
có hiệu lực đối với vụ việc như vậy. Như vậy, Tòa án tối cao Hoa Kỳ bằng phát quyết trong
vụ kiện nói trên đã tạo ra tiền lệ mở đầu cho mô hình tài phán hiến pháp bằng tòa án thường
sau đó được nhiều nước tiếp nhận và áp dụng. Theo đó, tòa án có thể tuyên về sự vi hiến của
một đạo luật do nghị viện ban hành, từ chối không áp dụng nó trong vụ việc được đưa ra
trước tòa.
+ Giữa Chiến tranh thế giới thứ I và thứ II
1 Nguồn tham khảo: Marbury v. Madison – Case Brief Summary, tại http://www.lawnix.com/cases/marbury-madison.html,
Marbury V. Madison, Sự đấu tranh lý tưởng của ngành Tư pháp, tại http://www.trenews.net/Article.aspx?Id=6022
4
Giai đoạn này được gọi là “thời kỳ của nước Áo” (the Austrian Period).
Chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của hai nhà luật học Hans Kelsen và Adolf Merkl,
Hiến pháp năm 1920 của Áo đã xác lập nền tảng của Tòa án Hiến pháp nước
này, với độc quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Mô hình Tòa án
Hiến pháp chịu trách nhiệm về bảo hiến sau đó được áp dụng ở nhiều quốc gia
khác, đặc biệt là ở Châu Âu, trở thành một trong các mô hình bảo hiến chính
hiện nay trên thế giới.
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ II
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ chế bảo hiến tiếp tục được thiết lập ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Trong thời kỳ này, ngoài tòa án (tòa án thường và
Tòa án Hiến pháp), ở một số nước, Hiến pháp còn giao quyền bảo hiến cho một
số cơ quan khác, như Hội đồng Hiến pháp, các tòa đặc biệt thuộc Tòa án tối cao,
hoặc cho bản thân Nghị viện.
Như vậy, kể từ vụ Marbury kiện Madison năm 1803 mà dẫn đến việc xác
lập quyền bảo hiến của hệ thống tòa án ở Hoa Kỳ, cơ chế bảo hiến đã không
ngừng phát triển trên thế giới.
Trong thời điểm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai,
một loạt quốc gia Châu Âu đã thiết lập cơ quan bảo hiến (hầu hết theo mô hình
Tòa án Hiến pháp kiểu Áo, bao gồm Áo (1920), Czechoslovakia (1920),
Liechtenstein (1925), Hy Lạp (1927), Ai Cập (1941), Tây Ban Nha (1931),
Ireland (1937)1…
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, có thêm nhiều quốc gia cả ở Châu Âu và
ở các khu vực khác thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp theo mô hình Châu Âu,
Hoa Kỳ hoặc hỗn hợp như Braxin (1946), Nhật Bản (1947), Miến Điện (1947),
Ý (1948), Thái Lan (1949), CHLB Đức (1949), Ấn Độ (1949), Pháp (1958),
Luxembourg (1950), Syria (1950), Uruguay (1952)2…
Thập kỷ 1960-1970 đánh dấu bằng việc xây dựng hoặc cải tổ lớn thiết chế
bảo hiến ở một số quốc gia Nam Âu (do kết quả của sự sụp đổ của nhiều chế độ
độc tài) và một số khu vực khác của châu lục này, bao gồm tại Síp (1960), Thổ
Nhĩ Kỳ (1961), An-giê-ri (1963), Nam Tư cũ (1963), Slovenia và một số nước
1 Arne Mavčič, tài liệu đã dẫn.
2 Arne Mavčič, tài liệu đã dẫn.
5
cộng hoà khác thuộc Nam Tư cũ (1963), Hy Lạp (1968), Tây Ban Nha (1978),
Bồ Đào Nha (1976), Áo, CHLB Đức, Thuỵ Điển, Pháp, Bỉ1…
Sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô-Đông Âu vào cuối thập kỷ
1980 đầu thập kỷ 1990 đã dẫn đến sự ra đời của một loạt quốc gia dân chủ mới
(new democracy countries). Hầu hết các quốc gia này đã nhanh chóng thành lập
cơ quan bảo hiến, đồng thời với việc chuyển đổi từ phương thức tổ chức quyền
lực tập quyền sang tam quyền phân lập.
Xét chung, kể từ khi chính thức hình thành vào đầu thế kỷ 19 đến nay, cơ
chế bảo hiến đã phát triển liên tục trên thế giới, dưới nhiều dạng thức khác nhau
dựa trên hai mô hình cơ bản (mô hình Châu Âu và Hoa Kỳ), trong đó những
thập kỷ cuối của thế kỷ 20 có tốc độ phát triển nhanh nhất (xem hình dưới đây):
Hình 1: Quy định về cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp các nước trên
thế giới (từ 1803 đến sau năm 2000)2
Theo biểu đồ trên, tính đến sau năm 2000, hơn 80% Hiến pháp của các
quốc gia trên thế giới đã quy định về vấn đề bảo hiến dưới những dạng thức
khác nhau.
Trong các hình thức bảo hiến, Tòa án Hiến pháp thuộc về những định chế
chiếm ưu thế nhất. Được xác lập lần đầu tiên ở Áo vào năm 1920 trên cơ sở lý
thuyết của Hans Kelsen, Tòa án Hiến pháp đã sớm trở thành mô hình bảo hiến
1 Arne Mavčič, tài liệu đã dẫn.
2 Nguồn: Tom Ginsburg, Why do countries adopt constitutional review, tại
http://www.utexas.edu/law/colloquium/papers-public/2012-2013/09-24-
12_Why%20Do%20Countries%20Adopt%20Constitutional%20Reviews.pdf, truy cập ngày 5/3/2013.
6
chủ yếu ở Châu Âu1 và là một “hiện tượng” ở các nền dân chủ mới vào cuối thế
kỷ 20. Một loạt quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi dân chủ ở Đông Âu,
Châu Phi và Châu Á đã chọn mô hình bảo hiến này2. Theo một khảo sát vào
năm 2003, Tòa án Hiến pháp chiếm 75% mô hình bảo hiến ở các nước dân chủ
mới3. Như thể hiện trong mục II dưới đây, cùng với mô hình tòa án thường, mô
hình Tòa án Hiến pháp chiếm ưu thế vượt trội so với mô hình Hội đồng Hiến
pháp.
II. CÁC MÔ HÌNH CƠ QUAN BẢO VỆ HIẾN PHÁP
2.1. Khái quát
Dựa trên các tiêu chí về tổ chức, thầm quyền và thủ tục, Arne Mavčič4
chia các thiết chế bảo hiến hiện hành trên thế giới thành các mô hình và thống kê
sự phân bố của các mô hình đó trên thế giới như sau:
Bảng 1: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến trên toàn thế giới
STT Mô hình Tỷ lệ
1. Hội đồng Hiến pháp kiểu Pháp 3.91%
2. Hội đồng Hiến pháp kiểu Châu Âu 2.79%
3. Toà án Hiến pháp kiểu Châu Âu 29.61%
4. Toà án Hiến pháp kiểu hỗn hợp 2.79%
5. Toà án Tối cao kiểu Châu Âu 11.17%
6. Toà án kiểu hỗn hợp 5.04%
7. Toà án kiểu Hoa Kỳ 29.05%
8. Khối thịnh vượng chung mới 0.56%
9. Mô hình khác 12.29%
10. Chưa có cơ chế bảo vệ Hiến pháp 2.79%
Bảng 2: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Châu Âu
STT Mô hình Tỷ lệ
1. Hội đồng Hiến pháp kiểu Pháp 2.38%
2. Hội đồng Hiến pháp kiểu Châu Âu 0.00%
3. Toà án Hiến pháp kiểu Châu Âu 61.90%
1 Như trên, pp 52-53.
2 Jiunn-Rong Yeh & Wen-Chen Chang, “The Changing Landscape of Modern Constitutionalism: Transitional
Perspective” 4 (1) National Taiwan University Law Review (2009) 153
3 Nguồn: Tom Ginsburg, Judicial Review in New Democracies: Constitutional Courts in Asian Cases (New York:
Cambridge University Press, 2003), pp 7-8.
4 Arne Mavčič, Historical Steps in the Development of Systems of Constitutional Review and Particularities of
Their Basic Models, tại http://www.concourts.net/introen.php, truy cập ngày 7/1/2013.
7
4. Toà án Hiến pháp kiểu hỗn hợp 4.76%
5. Toà án Tối cao kiểu Châu Âu 9.52%
6. Toà án kiểu hỗn hợp 5.03%
7. Toà án kiểu Hoa Kỳ 11.90%
8. Khối thịnh vượng chung mới 0.00%
9. Mô hình khác 2.38%
10. Chưa có cơ chế bảo vệ Hiến pháp 4.76%
Bảng 3: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Châu Phi
STT Mô hình Tỷ lệ
1. Hội đồng Hiến pháp kiểu Pháp 11.54%
2. Hội đồng Hiến pháp kiểu Châu Âu 3.85%
3. Toà án Hiến pháp kiểu Châu Âu 23.08%
4. Toà án Hiến pháp kiểu hỗn hợp 0.00%
5. Toà án Tối cao kiểu Châu Âu 17.31%
6. Toà án kiểu hỗn hợp 1.92%
7. Toà án kiểu Hoa Kỳ 23.08%
8. Khối thịnh vượng chung mới 1.92%
9. Mô hình khác 11.54%
10. Chưa có cơ chế bảo vệ Hiến pháp 5.77%
Bảng 4: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Trung Đông
STT Mô hình Tỷ lệ
1. Hội đồng Hiến pháp kiểu Pháp 0.00%
2. Hội đồng Hiến pháp kiểu Châu Âu 10.00%
3. Toà án Hiến pháp kiểu Châu Âu 30.00%
4. Toà án Hiến pháp kiểu hỗn hợp 0.00%
5. Toà án Tối cao kiểu Châu Âu 10.00%
6. Toà án kiểu hỗn hợp 0.00%
7. Toà án kiểu Hoa Kỳ 20.00%
8. Khối thịnh vượng chung mới 0.00%
9. Mô hình khác 30.00%
10. Chưa có cơ chế bảo vệ hiến pháp 0.00%
Bảng 5: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Châu Á và
Châu Đại dương
STT Mô hình Tỷ lệ
1. Hội đồng Hiến pháp kiểu Pháp 0.00%
2. Hội đồng Hiến pháp kiểu Châu Âu 4.55%
3. Toà án Hiến pháp kiểu Châu Âu 22.73%
4. Toà án Hiến pháp kiểu hỗn hợp 0.00%
5. Toà án Tối cao kiểu Châu Âu 2.27%
6. Toà án kiểu hỗn hợp 4.55%
8
7. Toà án kiểu Hoa Kỳ 40.91%
8. Khối thịnh vượng chung mới 0.00%
9. Mô hình khác 25.00%
10. Chưa có cơ chế bảo vệ hiến pháp 0.00%
Bảng 6: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Bắc Mỹ
STT Mô hình Tỷ lệ
1. Hội đồng Hiến pháp kiểu Pháp 0.00%
2. Hội đồng Hiến pháp kiểu Châu Âu 0.00%
3. Toà án Hiến pháp kiểu Châu Âu 0.00%
4. Toà án Hiến pháp kiểu hỗn hợp 0.00%
5. Toà án Tối cao kiểu Châu Âu 0.00%
6. Toà án kiểu hỗn hợp 0.00%
7. Toà án kiểu Hoa Kỳ 100%
8. Khối thịnh vượng chung mới 0.00%
9. Mô hình khác 0.00%
10. Chưa có cơ chế bảo vệ Hiến pháp 0.00%
Bảng 7: Tỷ lệ các hình thức cơ quan bảo hiến ở khu vực Trung và
Nam Mỹ
STT Mô hình Tỷ lệ
1. Hội đồng Hiến pháp kiểu Pháp 0.00%
2. Hội đồng Hiến pháp kiểu Châu Âu 0.00%
3. Toà án Hiến pháp kiểu Châu Âu 6.90%
4. Toà án Hiến pháp kiểu hỗn hợp 13.79%
5. Toà án Tối cao kiểu Châu Âu 17.24%
6. Toà án kiểu hỗn hợp 13.79%
7. Toà án kiểu Hoa Kỳ 44.83%
8. Khối thịnh vượng chung mới 0.00%
9. Mô hình khác 3.45%
10. Chưa có cơ chế bảo vệ hiến pháp 0.00%
Chú thích về các hình thức cơ quan bảo hiến trên thế giới:
STT Mô hình Tính chất
1. Hội đồng
Hiến pháp
kiểu Pháp
Dựa theo mô hình Hội đồng Hiến pháp của Pháp năm
1958 với đặc điểm cơ bản là chủ yếu thực hiện chức
năng kiểm hiến trước (kiểm tra các dự luật) mà không
có quyền kiểm sau (kiểm tra các đạo luật có hiệu lực),
mặc dù Hội đồng Hiến pháp có thể kiểm soát rất mạnh
mẽ các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, từ
năm 2008, sau khi sửa đổi Hiến pháp, Hội đồng Hiến
pháp của Pháp đã được trao quyền kiểm hiến các đạo
luật có hiệu lực.
9
2. Hội đồng
Hiến pháp
kiểu Châu
Âu
Là mô hình thiết lập Hội đồng Hiến pháp, nhưng chịu
ảnh hưởng ít nhiều các đặc tính của mô hình bảo hiến
Châu Âu (Tòa án Hiến pháp), như thiết lập một cơ
quan bảo hiến độc lập; có quyền kiểm hiến các đạo luật
có hiệu lực; bảo hiến trừu tượng; vụ việc hiến pháp do
những người có thẩm quyền hoặc cơ quan công quyền
đề xuất.
3. Toà án Hiến
pháp kiểu
Châu Âu
Là mô hình do Kelsen đề xuất năm 1920, được áp dụng
phổ biến ở Châu Âu với những đặc điểm như: bảo hiến
“tập trung” và theo quy trình bảo hiến đặc biệt của
Tòa án Hiến pháp; bảo hiến “trừu tượng”, tức là không
xuất phát từ một vụ việc cụ thể, mà được đề xuất bởi
những cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền;
quyền kiểm tra sau (một số được trao quyền kiểm hiến
trước); quyết định có giá trị bắt buộc (xem thêm Mục
2.2 dưới đây).
4. Toà án Hiến
pháp kiểu
hỗn hợp
Tòa án Hiến pháp kết hợp một số đặc điểm của mô hình
Hoa Kỳ, theo đó Tòa án Hiến pháp không chỉ thực hiện
bảo hiến “trừu tượng”, mà còn “cụ thể”, tức là vụ việc
hiến pháp được khởi xướng bởi các cá nhân có các
quyền bị vị phạm trong một vụ việc cụ thể (trong hoặc
ngoài tòa án). Như vậy, các cá nhân trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các thẩm phán có quyền đề nghị Tòa án
Hiến pháp xem xét bảo vệ quyền hiến định của họ
5. Toà án Tối
cao kiểu
Châu Âu
Tòa án Tối cao là cơ quan duy nhất có quyền kiểm tra
các đạo luật - đặc điểm bảo hiến “tập trung” theo mô
hình Châu Âu (xem thêm Mục 2.4 dưới đây).
6. Toà án kiểu
hỗn hợp
Tòa án tư pháp vừa có quyền kiểm tra tính hợp hiến của
các đạo luật áp dụng cho vụ việc đang giải quyết tại
tòa, đồng thời có quyền đề xuất Tòa án Hiến pháp xem
xét vấn đề đó. Tòa án Hiến pháp là cơ quan cao nhất có
quyền phán quyết về tính hợp hiến của một đạo luật.
7. Toà án kiểu
Hoa Kỳ
Là hình thức bảo hiến phi tập trung và cụ thể (xem
thêm Mục 2.4 ở dưới)
8. Khối thịnh
vượng
chung mới
Tòa án tối cao thực hiện quyền kiểm hiến trước (kiểm
tra các dự luật) và chức năng tư vấn (tư vấn cơ quan
lập pháp xem xét sửa đổi các dự luật trái hiến pháp).
Tòa án tối cao cũng có thể kiểm hiến sau, tuy nhiên các
quyết định của Tòa án chỉ có giá trị tham khảo.
9. Mô hình
khác
Việc kiểm hiến được thực hiện theo các mô hình khác,
chẳng hạn việc kiểm hiến bởi Nghị viện vẫn còn tồn tại
ở một số nước (xem thêm Mục 2.5 ở dưới).
10
Từ các bảng trên, có thể thấy, nếu xét trên phạm vi toàn thế giới, hai mô
hình bảo hiến được áp dụng nhiều nhất là mô hình Tòa án Hiến pháp kiểu Châu
Âu (chiếm 29,61%) và mô hình tòa án kiểu Hoa Kỳ (chiếm 29,05%). Tiếp theo
đó là các mô hình Tòa án Tối cao kiểu Châu Âu (chiếm 11,7%).
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng nếu xét theo khu vực, có sự phân hoá rất
lớn về việc áp dụng mỗi mô hình. Ở đây, trong khi các mô hình Tòa án Hiến
pháp kiểu Châu Âu và mô hình Toà án kiểu Hoa Kỳ chiếm vị trí áp đảo tại “quê
hương” của chúng (Châu Âu và Bắc Mỹ) thì lại phải cạnh tranh quyết liệt ở các
khu vực khác của thế giới. Trong đó, hai bên có phần tương đương nhau ở Châu
Phi, và trong khi mô hình Tòa án Hiến pháp Châu Âu chiếm ưu thế ở Trung
Đông thì mô hình tòa án thường kiểu Hoa Kỳ tỏ ra được ưa chuộng hơn tại các
khu vực Châu Á, Châu Đại dương và Trung, Nam Mỹ. Đại đa số các nước
XHCN cũ như các nước từng là thành viên của Liên Xô, Đông Âu, Trung Âu
đều áp dụng mô hình Tòa án Hiến pháp kiểu Châu Âu. Trong khi đó, ở vùng
Châu Á- Thái Bình Dương gần Việt Nam, có những nước áp dụng mô hình bảo
hiến bằng tòa án thường như Nhật Bản, Philipines, Malaysia, Singapore; có
nước thành lập Tòa án Hiến pháp như Hàn Quốc, Đài Loan, Indonesia, Thái
Lan; trong khi đó Campuchia và Timor Leste có Hội đồng Hiến pháp; còn Trung
Quốc và Lào được coi là các nước có bảo hiến bằng cơ quan lập pháp.
Mặc dù rất đa dạng, bốn mô hình cơ bản được áp dụng ở những mức độ
khác nhau trên thế giới, bao gồm Tòa án Hiến pháp, Toà án thường, Hội đồng
Hiến pháp và Nghị viện.
2.2. Nghị viện1
Theo mô hình này, chỉ có Nghị viện (hay Quốc hội) mới có quyền kiểm
tra các văn bản pháp luật do mình thông qua. Như vậy, Nghị viện có chức năng
kép, vừa có thẩm quyền ban hành luật, vừa kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật
do mình ban hành. Điều này bị các học giả trên thế giới phê phán là không đảm
bảo tính độc lập, khách quan. Thêm vào đó, do Nghị viện là cơ quan đại biểu,
mang tính chất chính trị nên thường không có trình tự, thủ tục phù hợp như các
thiết chế bảo hiến chuyên trách để tiến hành xem xét, phán quyết về tính hợp
hiến của một văn bản pháp luật.
1 Xem: Ban biên tập sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới,
(NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012) tr. 263.
11
Thực tế trên thế giới đã chứng minh là Nghị viện thường không thực hiện
chức năng bảo vệ Hiến pháp một cách hiệu quả. Chính vì vậy, bảo hiến bằng
Nghị viện (hay cơ quan lập pháp kiêm bảo hiến) hiện chỉ còn được một số ít
quốc gia trên thế giới áp dụng. Nghị viện của Pháp, Thái Lan đã từng được giao
chức năng bảo vệ Hiến pháp, nhưng sau đó Hiến pháp của hai quốc gia này đã
thiết lập cơ quan bảo hiến độc lập (Hội đồng Hiến pháp ở Pháp, Toà án Hiến
pháp ở Thái Lan)1.
2.3. Hội đồng Hiến pháp2
Hội đồng Hiến pháp cũng là một mô hình bảo hiến tập trung nhưng mang
nhiều yếu tố chính trị hơn là một cơ quan chuyên môn tài phán Hiến pháp như
Tòa án Hiến pháp. Cụ thể, trong Hội đồng Hiến pháp của một số quốc gia, các
Tổng thống nghỉ hưu thường được coi là thành viên đương nhiên. Với các thành
viên khác, tiêu chí tuyển chọn cũng không bắt buộc phải có chuyên môn về pháp
luật. Thêm vào đó, quy trình giải quyết vụ việc của các Hội đồng Hiến pháp
thường thiếu đặc trưng của thủ tục tố tụng, không mang tính công khai.
Hội đồng Hiến pháp, khi ra đời đầu tiên ở Pháp, chỉ có chức năng kiểm
hiến trước, tức là kiểm tra tính hợp hiến của các dự án luật trước khi công bố.
Mặc dù vậy, gần đây một số quốc gia áp dụng mô hình này, kể cả Pháp, đã trao
cho Hội đồng Hiến pháp quyền kiểm hiến sau (kiểm hiến các đạo luật đã có hiệu
lực).
Như đã đề cập, Hội đồng Hiến pháp không mang tính phổ biến như các
mô hình Tòa án Hiến pháp và Tòa án thường. Theo Bảng 1 ở trên, có khoảng
7,9% số nước có thiết chế bảo hiến độc lập theo mô hình Hội đồng Hiến pháp
(tính cả hai dạng kiểu Pháp và kiểu Châu Âu)3. Hầu hết các quốc gia đang áp
dụng mô hình Hội đồng Hiến pháp là các nước Châu Phi, chỉ có một vài nước ở
Trung Đông và Châu Á. Ở Châu Âu – nơi phát xuất của mô hình này - hiện chỉ
còn nước Pháp đang áp dụng.
1. Xem: Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các
nước trên thế giới, (NXB Chính trị - Quốc gia, Hà Nội, 2012), tr. 260.
2. Xem: Ban biên tập sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới,
(NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012), tr. 261.
3. Theo Bảng 1, tổng số nước có mô hình Hội đồng Hiến pháp là 6,7% trên tổng số các nước trên thế
giới. Tuy nhiên, tổng số các nước có thiết chế bảo hiến độc lập chiếm 84.92% tổng số các nước trên thế giới. Vì
vậy, tỷ lệ các nước có mô hình bảo hiến độc lập trên tổng số các nước có thiết chế bảo hiến độc lập là 7,9%.
12
Kết hợp từ hai nguồn tài liệu, có thể xác lập danh sách các quốc gia hiện
có Hội đồng Hiến pháp như sau: Angiêri; Bờ Biển Ngà; Cadắcxtan; Campuchia;
Chad; Comoros; Dibuti; Ethiopia; Iran; Libăng; Marốc; Môdămbích; Môritani;
Pháp; Xênêgan; Timor Leste; Tuynidi1.
Do giới hạn của cuốn sách và của nguồn tài liệu tham khảo nên trong
Chương II dưới đây, nhóm tác giả chỉ khảo sát cụ thể Hội đồng Hiến pháp của
11 nước trong danh sách trên.
2.4. Tòa án Hiến pháp2
Tòa án Hiến pháp thuộc mô hình bảo hiến tập trung (có nghĩa là quyền
bảo vệ Hiến pháp ở quốc gia chỉ được giao cho một cơ quan)3. Ở các quốc gia
theo mô hình Tòa án Hiến pháp, các tòa án thường (tòa tư pháp), kể cả tòa tối
cao, đều không có quyền bảo hiến, và thông thường Tòa án Hiến pháp có vị thế
độc lập với hệ thống tòa án tư pháp (đồng thời độc lập với các cơ quan lập pháp
và hành pháp). Thành viên của các Tòa án Hiến pháp là các thẩm phán có năng
lực chuyên môn và uy tín cao.
Tòa án Hiến pháp cũng thuộc mô hình bảo hiến trừu tượng (có nghĩa là
việc xem xét các hành vi vi hiến không cần xuất phát từ một vụ tranh chấp cụ
thể nào). Ở các quốc gia theo mô hình này, Tòa án Hiến pháp thường được trao
quyền tự động phán quyết xem một đạo luật hay quyết định của các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp có vi phạm Hiến pháp hay không, bất kể có hay không
có vụ việc được trình lên. Quyền này áp dụng cả với các dự luật trước khi công
bố (kiểm hiến trước) và đang có hiệu lực (kiểm hiến sau). Tuy nhiên, khác với
mô hình bảo hiến bằng tòa án thường, nơi mà các bên của vụ việc có quyền đề
nghị kiểm tra tính hợp hiến, theo mô hình Tòa án Hiến pháp, chỉ có các cơ quan
hoặc người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước (ví dụ, các nhà lãnh đạo hành
pháp, nghị sỹ hoặc các cơ quan chính quyền địa phương…) mới có quyền đưa
vụ việc kiểm hiến lên Tòa án Hiến pháp.
1 Nguồn:Arne Mavčič, The Constitutional Review, tại
http://www.concourts.net/tab/tab1.php?lng=en&stat=1&prt=0&srt=6 và Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên
thế giới, sđd, tr.449. Ghi chú về mô hình (kiểu Pháp hoặc kiểu Châu Âu) theo Arne Mavčič (không bao gồm những quốc gia
Tuynidi, Sri Lanka, Ethiopia, Chad). 2 Xem: Ban biên tập sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới,
(NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012), tr. 262.
3 Ngoài tòa án Hiến pháp, còn một số mô hình bảo hiến tập trung khác, ví dụ như mô hình tòa án tối cao đóng vai
trò là cơ quan bảo hiến, hay mô hình Hội đồng Hiến pháp.
13
Tuy nhiên, Tòa án Hiến pháp ở nhiều nước trong thời gian gần đây đã kết
hợp giữa bảo hiến trừu tượng với bảo hiến cụ thể. Các tòa án thường trong khi
giải quyết một vụ việc cụ, theo đề nghị của các bên trong vụ việc hoặc tự mình
đề nghị Tòa án Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của các đạo luật áp dụng cho
vụ việc đó. Mô hình này hiện giờ được áp dụng ở nhiều nước như Đức, Áo, Ý,
Tây Ban Nha, Bỉ và Hàn Quốc. Các tòa án tư pháp ở Ý thường xuyên sử dụng
quyền này. Như vậy, thông qua phương thức bảo hiến cụ thể, các cá nhân có thể
bảo vệ các quyền tự do hiến định bị xâm phạm bởi các đạo luật (Đức, Áo, Bỉ),
hoặc các hành vi hành chính hoặc tư pháp (Đức, Tây Ban Nha, Hàn Quốc). Ở
Hàn Quốc, các cá nhận không những có quyền đề nghị Tòa án Hiến pháp bảo vệ
các quyền cơ bản một cách gián tiếp thông qua các tòa án, mà còn có quyền đề
nghị trực tiếp tới Tòa án Hiến pháp nếu không được tòa án hoặc các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết.
Tòa án Hiến pháp của các quốc gia thường có thẩm quyền rộng, bao gồm:
Kiểm tra tính hợp hiến của các dự luật và các đạo luật đã có hiệu
lực (thẩm quyền cơ bản và quan trọng nhất);
Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực; giữa
trung ương và địa phương;
Bảo vệ các quyền con người trước sự xâm phạm của các cơ quan
nhà nước;
Kiểm tra tính hợp hiến của các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân…
Ở các nước theo mô hình này, phán quyết của Tòa án Hiến pháp có tính
chất chung thẩm và có giá trị bắt buộc với mọi đối tượng.
Với những ưu điểm của một thiết chế bảo hiến tập trung và sức mạnh của
các phán quyết tư pháp, Tòa án Hiến pháp tỏ ra là một trong những thiết chế bảo
hiến hiệu quả nhất. Chính vì vậy nó được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn.
Trong thực tế, số lượng các vụ việc mà một Tòa án Hiến pháp xử lý trong
một năm tùy thuộc vào bối cảnh của từng quốc gia. Ví dụ, số phán quyết mà Tòa
án Hiến pháp đã đưa ra trong năm 2012 ở Cộng hòa Séc, Hungary và Ý chỉ là 3,1
trong khi ở LB Nga là 272. Đặc biệt, theo số liệu thống kê thực tế từ ngày
1 Nguồn: trang web của tòa án hiến pháp các nước Cộng hòa Séc, Hungary, Ý, tại
http://www.concourt.cz/view/726, http://www.mkab.hu/case-law/translations,
http://www.cortecostituzionale.it/ActionPagina_1172.do, truy cập ngày 15/4/2013.
2 Nguồn: trang web của tòa án hiến pháp LB Nga, tại http://www.ksrf.ru/en/Decision/Judgments/Pages/2012.aspx,
truy cập ngày 15/4/2013.
14
7/9/1951 đến ngày 31/12/2007, Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức đã thụ lý
169.502 vụ việc, trong số đó có tới 163.374 vụ việc (chiếm tới 96,37%) là các
khiếu kiện Hiến pháp của cá nhân1; riêng trong năm 2012, số phán quyết của
Toà án Hiến pháp ở CHLB Đức là 10 phán quyết2.
2.5. Tòa án thường3
Mô hình này được chia thành hai nhánh chính: Bảo hiến bằng Tòa án tối
cao và bằng tòa án có thẩm quyền chung.
Tòa án tối cao cũng là mô hình bảo hiến tập trung vì chỉ có Tòa án này
mới được trao thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp. Thông thường ở các quốc gia theo
mô hình này, Tòa án tối cao sẽ thành lập ra một bộ phận riêng, thậm chí là một
tòa riêng, để xem xét, xử lý các vụ việc vi hiến.
Quyền bảo hiến cũng có thể được giao cho các Tòa án thường có thẩm
quyền chung (mô hình Hoa Kỳ). Trong trường hợp này, khi giải quyết các vụ
việc cụ thể, mọi tòa án tư pháp thông thường đều có quyền xem xét tính hợp
hiến của một quy định hay một vấn đề liên quan, do đó, mô hình bảo hiến này
được gọi là mô hình bảo hiến phi tập trung. Nếu có kháng cáo, Tòa án tối cao là
cơ quan xét xử cao nhất và cuối cùng các vụ việc về Hiến pháp và các phán
quyết của Tòa án tối cao sẽ trở thành án lệ cho các vụ việc tương tự.Việc xét xử
các vụ việc Hiến pháp cũng theo quy trình tố tụng như với các vụ việc hành
chính, hình sự, dân sự. Trong một vụ việc được giải quyết (hành chính, hình sự,
dân sự…) tại tòa, các bên có quyền đề nghị kiểm tra tính hợp hiến của một đạo
luật áp dụng để giải quyết vụ việc đó. Khi được đề nghị như vậy, thẩm phán
phải tạm đình chỉ vụ việc đang giải quyết để chuyển sang vụ việc kiểm hiến. Vì
vậy, đây vừa mang tính chất là kiểm hiến sau và bảo hiến cụ thể (việc kiểm hiến
được thực hiện thông qua một vụ việc cụ thể đang được giải quyết tại tòa án).
Khi đã xác định một đạo luật là vi hiến, tòa án sẽ không áp dụng đạo luật
đó để giải quyết vụ việc; tuy nhiên, tòa không có thẩm quyền tuyên bố hủy bỏ
đạo luật vi hiến, vì đó là thẩm quyền riêng có của Nghị viện. Trong hệ thống
1. Số liệu thống kê thực tế của Tòa án Hiến pháp liên bang Đức về giải quyết các vụ việc của Tòa án Hiến pháp liên
bang Đức từ ngày 7/9/1951 đến ngày 31/12/2007 công bố tại website chính thức của Tòa án hiến pháp liên bang Đức tại địa
chỉ:http://www.bundesverfassungsgericht.de/organisation/gb2007/A-I-1.html truy cập ngày 3/4/2012.
2 Nguồn: trang web của Tòa án Hiến pháp CHLB Đức, tại http://www.bverfg.de/en/index.html, truy cập ngày
15/4/2013.
3. Xem: Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới,
(NXB CTQG – Sự Thật, Hà Nội., 2012), tr. 263.
15
thông luật, việc tòa án không áp dụng một đạo luật sẽ trở thành án lệ nên cho dù
đạo luật vẫn còn giá trị về hình thức (chưa bị hủy bỏ) thì nó cũng không còn giá
trị trên thực tế vì không được các tòa án áp dụng nữa.
Một khía cạnh khác đó là, phán quyết kiểm hiến của tòa án chỉ có giá trị
đối với các bên tham gia vụ việc mà không có giá trị với các chủ thể khác. Điều
đó có thể dẫn đến sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật nếu không có
truyền thống án lệ. Nói cách khác, truyền thống án lệ có vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong trường
hợp quyền bảo hiến được giao cho các tòa án thường. Thêm vào đó, mô hình
này đòi hỏi quốc gia phải có cơ chế đào tạo và tuyển dụng thẩm phán tiên tiến
để có thể bảo đảm rằng đội ngũ thẩm phán có năng lực chuyên môn giỏi, đủ khả
năng xử lý các vụ việc kiểm hiến thường rất phức tạp.
16
CHƯƠNG II
MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
HIẾN PHÁP Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
I. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CỘNG HÒA PHÁP
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.1.1. Truyền thống Nghị viện: Rào cản hình thành cơ chế tài phán Hiến
pháp
Xuất phát từ truyền thống về tính tối cao của Nghị viện, Pháp đã thiếu
vắng cơ chế kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật trong một thời gian rất dài.
Các học giả thời kỳ này cho rằng việc cho phép kiểm hiến các đạo luật làm mất
đi quyền lực vốn có của Nghị viện – cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân.
Nghị viện không thể chấp nhận các đạo luật do họ làm ra bị kiểm tra bởi các
thẩm phán1.
Mãi cho đến năm 1799, người ta mới bắt đầu bàn về việc kiểm tra tính
hợp hiến của các đạo luật nhằm cân bằng quyền lực giữa lập pháp và hành pháp.
Trong thời gian này, Hiến pháp trao cho Thượng viện quyền kiểm hiến các đạo
luật. Theo Hiến pháp năm 1799, một trong hai viện đã được trao thẩm quyền
kiểm hiến. Cụ thể, Thượng viện có thể hủy bỏ tất cả các đạo luật do Hạ viện đệ
trình vì sự bất hợp hiến của các đạo luật đó. Thượng viện cũng có kiểm tra tính
hợp hiến các đạo luật theo đề nghị của Tòa án hoặc Chính phủ. Trên thực tế,
những quy định Hiến pháp này chỉ có giá trị trên giấy tờ. Thượng viện chưa bao
giờ xem xét một vụ việc kiểm hiến nào, và cũng chưa có một chủ thể nào từng
đệ trình Thượng viện xem xét vấn đề bảo hiến. Tương tự, theo Hiến pháp năm
1852, Thượng viện có chức năng tuyên bố sự bất hợp hiến của các đạo luật đã
được Hạ viện thông qua. Thượng viện cũng có quyền đình chỉ các đạo luật bất
hợp hiến do Chính phủ hoặc các công dân đệ trình. Ngoài ra, Thượng viện còn
có quyền giải thích Hiến pháp. Về cơ bản, Thượng viện theo Hiến pháp năm
1852 có những thẩm quyền giống với Hiến pháp năm 1799, tuy nhiên nó cũng
không có vai trò tích cực nào trong việc kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật.
1 Barthelemy Jacques, Duez Paul, Traite de droit constitutionnel, Paris, Pantheon-Assas Paris II, 2004, tr. 221.
17
Trong nền Cộng hòa thứ III, Hiến pháp không có quy định nào về tài phán
Hiến pháp. Tuy vậy, nhiều người đã nêu ra sự cần thiết phải có một thiết chế tài
phán Hiến pháp để bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật. Nhiều ý kiến đề xuất
mô hình tài phán Hiến pháp của Mỹ, song các thẩm phán lúc bấy giờ lại từ chối
kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật. Tòa án tối cao cho rằng các thẩm phán
không thể vi phạm nguyên tắc phân quyền và tòa án không có thẩm quyền kiểm
tra một đạo luật có nguồn gốc từ quyền lực cao nhất trong bộ máy nhà nước.
Trong khi đó, Hội đồng Nhà nước (Tòa án hành chính tối cao) đã từ chối xem
xét tính hợp hiến của một điều khoản trong một đạo luật năm 1934 khi cho rằng
vấn đề này không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước. Sự từ chối của các
tòa án phản ánh quan điểm về sự tôn trọng các đạo luật – ý chí chung của nhân
dân và truyền thống đề cao tính tối cao của Nghị viện – cơ quan do nhân dân
trực tiếp bầu ra.
Mặc dù các thẩm phán kiên quyết từ chối chức năng kiểm hiến, nhiều
người đã đệ trình các dự luật đề xuất thiết lập tài phán Hiến pháp. Nhiều lần, từ
năm 1903 đến 1925, các nghị sĩ như Charles Benoist đã đề nghị sửa đổi Hiến
pháp năm 1875 (trong nền Cộng hòa thứ III) để mở đường cho việc chấp nhận
mô hình tài phán Hiến pháp của Mỹ. Theo quan điểm của họ, để bảo đảm các
quyền và tự do của công dân và chống lại khả năng “sai lầm của đa số trong
Nghị viện”, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1798 phải được đưa vào
Hiến pháp và Tòa án tối cao có quyền kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật
khi có đề nghị trong một vụ việc xét xử cụ thể1. Tuy nhiên, những đề xuất này
thậm chí không được thảo luận bởi Nghị viện. Thực tế đó thể hiện quan điểm
chống đối rõ ràng của các thành viên Nghị viện.
Trong thời gian này, một số học giả cũng như chính trị gia cũng đề nghị
thành lập một Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền kiểm hiến các đạo luật trên cơ
sở đệ trình của các tòa án tư pháp. Theo họ, một Tòa án Hiến pháp-một tòa án
đặc biệt sẽcó khả năng đảm bảo tính hợp hiến của các đạo luật, và do đó có thể
bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
Trước tình trạng vi phạm nghiêm trọng các quyền con người, các nhà lập
hiến đã thảo luận một cách nghiêm túc về việc xây dựng một cơ chế tài phán
Hiến pháp. Theo Hiến pháp năm 1946, một Ủy ban Hiến pháp được thành lập.
Ủy ban Hiến pháp do Tổng thống đứng đầu, bao gồm Chủ tịch của Thượng viện
1 Barthelemy Jacques, Duez Paul, tài liệu đã dẫn.
18
và Hạ viện cùng 7 thành viên do Hạ viện bầu hàng năm từ những người không
phải là nghị sĩ, đại diện tỷ lệ các đảng phái và 3 thành viên được bầu tương tự
bởi Thượng viện. Ủy ban Hiến pháp có quyền kiểm tra tính hợp hiến của các dự
luật do Hạ viện thông qua nhưng chưa được công bố theo đề nghị chung của
Tổng thống và Chủ tịch Thượng viện. Trước khi xem xét tính hợp hiến, Ủy ban
Hiến pháp phải đề xuất một sự đồng thuận của hai viện, và nếu không đạt được
sự đồng thuận đó, Ủy ban chuyển dự luật cho Hạ viện xem xét lại. Nếu Ủy ban
Hiến pháp tuyên bố dự luật vi hiến, dự luật đó sẽ không được công bố trước khi
Hiến pháp được sửa đổi cho phù hợp.
Những quy định Hiến pháp trên không có giá trị thực tế để kiểm soát các
đạo luật, bởi vì trong trường hợp mâu thuẫn giữa luật và Hiến pháp, luật không
phải sửa đổi mà thay vào đó là Hiến pháp, do Hạ viện có quyền sửa đổi Hiến
pháp theo một quy trình lập pháp thông thường. Hơn nữa, Ủy ban Hiến pháp
không có quyền hủy bỏ dự luật, mà chỉ có quyền chuyển dự luật đó trở lại cho
Nghị viện xem xét lại.
1.1.2. Sự ra đời của Hội đồng Hiến pháp
Vào đầu năm 1958, Pháp kiều sống ở thuộc địa Angiêri của Pháp bất mãn
với chính sách chiến tranh của mẫu quốc và lo lắng cho số phận của họ, nên đã
nổi loạn chống lại Chính phủ Pháp. Chính phủ của Pfilmlin mặc dầu được sự
ủng hộ của Nghị viện nhưng không có khả năng chấm dứt cuộc nổi loạn và
tuyên bố từ chức. Thời kỳ này, nước Pháp cũng chứng kiến sự bất ổn của hệ
thống chính trị khi chỉ trong một thời gian chưa tròn 10 năm sau chiến tranh thế
giới thứ II, nước này đã phải thay đến gần mười Chính phủ. Dân chúng chán
ngán với các cuộc cãi cọ triền miền giữa các đảng phái, mặt khác cục diện thất
bại trong chiến tranh Angiêri đang đến gần, thúc đẩy Tổng thống của nền Cộng
hòa đệ tứ kêu gọi tướng De Gaulle1 đứng ra thành lập một Chính phủ hoàn toàn
mới.Tướng De Gaulle tiếp nhận lời đề nghị bằng việc soạn thảo ra một bản Hiến
pháp mới. Ngày 28 tháng 9 năm 1958 bản Hiến pháp do De Gaulle soạn thảo
được nhân dân nồng nhiệt tiếp nhận thông qua cuộc trưng cầu ý dân với 80% số
phiếu ủng hộ. Bản Hiến pháp này thiết lập nên một nền Cộng hòa mới – nền
Cộng hòa Đệ ngũ gắn liền với tên tuổi của Tướng De Gaulle.
Lo lắng trước sự lộng quyền của Nghị viện và sự hỗn độn của hệ thống
chính trị quá nhiều đảng của nền cộng hòa đệ tứ đã để lại dấu ấn trong Hiến
1. Sau này là Tổng thống đầu tiên của nền Cộng hòa Đệ ngũ của nước Pháp.
19
pháp năm 1958 của nước Pháp, tướng De Gaulle đã có hai phát kiến khắc phục
hiện tượng này, đồng thời cũng nhằm mục đích tăng quyền cho mình với tư cách
là vị Tổng thống đầu tiên của nền Cộng hòa Đệ ngũ:
- Tăng quyền cho Tổng thống Pháp, có nhiệm kỳ độc lập với Nghị viện và
không bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm.
- Thành lập Hội đồng Hiến pháp để kiểm soát các nhà lập pháp trong
khuôn khổ Hiến pháp.
Mặc dù vậy, sự đời của Hội đồng Hiến pháp không được ủng hộ trong
giới luật gia cũng như các tầng lớp chính trị. Khi đó, rất nhiều người chỉ trích về
một thiết chế bảo hiến “dị thường”, có nhiều đặc điểm của một cơ quan chính trị
hơn là một cơ quan tài phán hiến pháp thông thường, cụ thể là:
- Trong số các thành viên của Hội đồng Hiến pháp, các Tổng thống nghỉ
hưu là thành viên đương nhiên;
- Tiêu chí tuyển chọn các thành viên Hội đồng Hiến pháp không bắt buộc
phải có chuyên môn về pháp luật;
- Quy trình giải quyết tại Hội đồng Hiến pháp không công khai và thiếu
đặc trưng của thủ tục tố tụng;
- Hội đồng Hiến pháp chỉ kiểm tra các dự án luật trước khi công bố.
Mặc dù vậy, sự ra đời của Hội đồng Hiến pháp đánh dấu một bước quan
trọng trong lịch sử bảo hiến của nước Pháp.
1.1.3. Sự phát triển của Hội đồng Hiến pháp
Trong quá trình hoạt động, Hội đồng Hiến pháp dần dần tiến hóa theo
chiều hướng tích cực. Năm 1971, Hội đồng Hiến pháp công nhận Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền năm 1789 và Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 là
những phần không thể tách rời của Hiến pháp năm 1958. Quyết định này cho
phép Hội đồng Hiến pháp có thể bảo vệ các quyền và tự do của con người được
quy định trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền cũng như trong Lời nói
đầu. Tiếp theo, sửa đổi Hiến pháp năm 1974 cho phép 60 đại biểu Hạ viện hoặc
60 đại biểu Thượng viện có quyền đệ trình việc kiểm hiến lên Hội đồng Hiến
pháp. Cải cách Hiến pháp quan trọng này mở đường cho các đại biểu thiểu số
trong Nghị viện có khả năng yêu cầu Hội đồng Hiến pháp xem xét các vấn đề
Hiến pháp.
Trước năm 2008, Hội đồng Hiến pháp là mô hình bảo hiến hạn chế, bởi
nó chỉ được thực hiện quyền kiểm hiến các dự luật trước khi Tổng thống công
20
bố, chứ không có quyền kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật đã có hiệu lực. Do
đó, Hội đồng Hiến pháp cũng không thể bảo vệ các quyền con người, quyền
công dân khi bị một đạo luật trái Hiến pháp xâm phạm. Tuy vậy, với sửa đổi
Hiến pháp năm 2008, Hội đồng Hiến pháp được trao quyền kiểm hiến sau đối
với các đạo luật xuất phát từ một vụ việc cụ thể của tòa án thông qua đề nghị
của Hội đồng Nhà nước (Tòa án hành chính tối cao) và Tòa án tối cao. Đây có
thể nói là cải cách Hiến pháp quan trọng nhất về Hội đồng Hiến pháp, bởi vì Hội
đồng Hiến pháp được chuyển dịch từ một thiết chế mang nhiều yếu tố chính trị-
hạn chế sang một thiết chế tài phán Hiến pháp. Hay nói cách khác, nước Pháp
cuối cùng cũng phải tiến tới tài phán Hiến pháp thực thụ, mặc dầu còn một vài
hạn chế để có thể được coi là tài phán Hiến pháp đầy đủ.
1.2. Khuôn khổ pháp lý
Hiến pháp năm 1958 quy định về Hội đồng Hiến pháp tại một chương
riêng (Chương V-Hội đồng Hiến pháp), bao gồm 8 điều, từ Điều 56 đến Điều
63. Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp còn được quy định tại các điều liên quan đến
Tổng thống (Điều 7, Điều 16); hoạt động lập pháp (các Điều 37, 41, 46) và Điều
ước quốc tế (Điều 54). Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật về Hội
đồng Hiến pháp được ban hành ngày 7/10/1958 quy định chi tiết về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng Hiến pháp, được sửa đổi 4 lần vào các năm 1959, 1974,
1995 và 2008. Luật này bao gồm 56 điều, chia thành 3 phần chính: Tổchức Hội
đồng Hiến pháp; Hoạt động của Hội đồng Hiến pháp; Kiểm tra các văn bản luật.
Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp cũng ban hành các quy chế hoạt động của Hội
đồng, bao gồm Quy chế nghĩa vụ các thành viên của Hội đồng; Tổ chức Bộ phận
giúp việc Hội đồng; Nguyên tắc nội bộ về dữ liệu của Hội đồng.
1.3. Cơ cấu tổ chức
- Thành viên đương nhiên của Hội đồng Hiến pháp: Một đặc thù gây
tranh cãi
Hội đồng Hiến pháp bao gồm 9 thành viên được bổ nhiệm và các thành
viên đương nhiên. Các Tổng thống là những thành viên đương nhiên suốt đời
của Hội đồng Hiến pháp theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Hiến pháp. Theo
đó, Tổng thống Pháp khi hết nhiệm kỳ thì đương nhiên trở thành thành viên suốt
đời của Hội đồng, trừ khi ông ta làm đơn từ chối. Điều này dẫn đến khả năng
tổng số lượng thành viên của Hội đồng không cố định, do số thành viên được bổ
nhiệm thì cố định, nhưng số thành viên kế thừa thì phụ thuộc vào ý chí hay khả
năng (sức khỏe, tuổi tác) của các nguyên Tổng thống.
21
Đặc điểm kế thừa chức vụ mang đậm tính chất phong kiến này hình thành
do bối cảnh văn hóa và chính trị của nước Pháp tại thời điểm ra đời Hiến pháp
năm 1958. Có người phân tích từ góc độ tinh thần hào hiệp của tướng De Gaulle
thì Khoản 2 Điều 56 của Hiến pháp 1958 là sự bày tỏ lòng biết ơn của ông đối
với hai người Tổng thống tiền bối của nền Cộng hòa đệ tứ là René Coty và
Vincent Auriol, những người đã tìm cách chuyển giao quyền lực một cách hòa
bình cho ông, và làm cho việc xây dựng nền cộng hòa đệ ngũ được nhẹ nhàng
hơn1. Xét bối cảnh chính trị đương thời và sự khôn ngoan của tướng De Gaulle
thì điều khoản này giúp ông có thể sử dụng các vị Tổng thống tiền bối, những
người mà ảnh hưởng chính trị vẫn còn rất lớn trong lúc quyền lực chính trị của
ông chưa vững vàng2.
Cũng có người phân tích từ lợi ích của Tổng thống khi về hưu, thì điều
khoản này bảo đảm một vị trí về hưu danh giá sau khi Tổng thống mãn nhiệm. Ở
vị trí này, cựu Tổng thống vẫn dễ dàng tham dự vào chính trường, bởi ông ta có
quyền bỏ phiếu hoàn toàn bình đẳng với các thành viên do bổ nhiệm và có thể
giữ chức Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp3.
-Thẩm quyền và quy trình bổ nhiệm
Chín thành viên của Hội đồng Hiến pháp được chia đều bổ nhiệm bởi 3
chủ thể, bao gồm Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Quốc hội (Hạ
viện) với nhiệm kỳ 9 năm. Cứ 3 năm một lần, một thành viên được bổ nhiệm lại
bởi mỗi chủ thể. Để bảo đảm sự tiếp nối Hội đồng, trong nhiệm kỳ đầu tiên, mỗi
chủ thể bổ nhiệm một thành viên với nhiệm kỳ 9 năm, một thành viên với nhiệm
kỳ 6 năm và một thành viên với nhiệm kỳ 3 năm. Từ năm 1962 (sau 3 năm đầu
tiên), các thành viên mới được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 9 năm.
- Điều kiện bổ nhiệm
1 Philipp Mels, Bundesverfassungsgericht und Conseil de Constitution: ein Vergleich der
Verfassungsgerichtsbarkeit in Deutschland und Frankreich im Spannungsfeld zwischen der Euphorie für die Krönung des
Rechtsstaats und der Furcht vor einem „gouvernement de judges“, Verlag Franz Vahlen München, 2003, trang 130.
2 Avril/Gicquel, Le Conseil constitutionnel, trang 83; Rousseau, Droit du contentieux constitutionnel, trang 38;
Rousillon, Le Conseil constitutionnel, trang 10, theo Philipp Mels, Bundesverfassungsgericht und Conseil de Constitution:
ein Vergleich der Verfassungsgerichtsbarkeit in Deutschland und Frankreich im Spannungsfeld zwischen der Euphorie für
die Krönung des Rechtsstaats und der Furcht vor einem „gouvernement de judges“, Verlag Franz Vahlen München, 2003,
trang 133.
3 Philipp Mels, Bundesverfassungsgericht und Conseil de Constitution: ein Vergleich der
Verfassungsgerichtsbarkeit in Deutschland und Frankreich im Spannungsfeld zwischen der Euphorie für die Krönung des
Rechtsstaats und der Furcht vor einem „gouvernement de judges“, Verlag Franz Vahlen München, 2003, trang 132.
22
Khác với những yêu cầu về bằng cấp hoặc nghề nghiệp đối với các Tòa án
Hiến pháp ở nhiều nước, Hiến pháp Pháp không đòi hỏi bất kỳ điều kiện nào
như tuổi tác, kinh nghiệm, đào tạo chuyên môn, cũng như bằng cấp để được bổ
nhiệm vào Hội đồng Hiến pháp. Trên thực tế, các ứng viên thành viên Hội đồng
Hiến pháp thường là những thành phần có quan điểm và lợi ích chính trị gần gũi
với người bổ nhiệm1. Mặc dù không đòi hỏi điều kiện về bằng cấp hay kinh
nghiệp pháp luật, phần lớn các thành viên đều có bằng cấp về luật hoặc liên
quan đến pháp luật; ngày càng có nhiều các thẩm phán; thông thường có kinh
nghiệm chính trị, tham gia và hiểu rõ các vấn đề chính trị-pháp lý.
- Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp
Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do Tổng thống bổ nhiệm trong số các thành
viên được bổ nhiệm và thành viên đương nhiên. Trên thực tế, Chủ tịch Hội đồng
Hiến pháp luôn là thành viên được bổ nhiệm.
- Quản lý hành chính của Hội đồng Hiến pháp
Hội đồng Hiến pháp có tính tự chủ tương đối trên 3 phương diện:
Tự chủ ban hành quy chế nội bộ: Mặc dù Hiến pháp và Luật về Hội đồng
Hiến pháp đặt ra một quy tắc cơ bản về hoạt động của Hội đồng, cơ quan này
vẫn có khả năng tự chủ trong việc ban hành các quy chế nội bộ.
Tự chủ về quản lý hành chính nội bộ: Hội đồng Hiến pháp có bộ máy
hành chính đặt dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hội đồng.
Tự chủ tài chính: Sự tự chủ về tài chính thể hiện qua quy định cho phép
Hội đồng Hiến pháp được tự quyết định ngân sách, và quyết định này được Nghị
viện thông mà không bất kỳ sửa đổi hay thảo luận nào.
- Vị trí thành viên của Hội đồng Hiến pháp
Các quy định về thành viên của Hội đồng Hiến pháp đều nhằm củng cố
tính độc lập của họ trong hoạt động.
Nhiệm kỳ của các thành viên Hội đồng là 9 năm, không bổ nhiệm lại.
1Về mặt luật pháp, hoàn tòan không có gì cản trở khi Tổng thống Pháp bổ nhiệm bất kỳ người thành niên nào vào
Hội đồng Hiến pháp. Tuy nhiên trên thực tế, để giữ uy tín riêng của mình, cũng như uy tín của đảng phái mà ông ta thuộc về,
thì Tổng thống pháp, cũng như Chủ tịch thượng viện, Chủ tịch hạ viện thường lựa chọn những người có uy tín khoa học, có
cùng quan điểm chính trị để bổ nhiệm vào Hội đồng Hiến pháp. Trong số này các nhà luật học chiếm tỷ lệ khá cao.
23
Tất cả các thành viên Hội đồng Hiến pháp không được kiêm nhiệm các
chức danh của Chính phủ, Nghị viện, Hội đồng kinh tế - xã hội, lãnh đạo đảng
phái hoặc của các nhóm chính trị và các thành viên cơ quan dân cử.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp không được thực hiện các công việc trên
cương vị một vị trí công quyền có liên quan đến các vấn đề mà Hội đồng đang
xem xét. Ngoài ra, các thành viên Hội đồng còn có các nghĩa vụ hoàn thành tốt
và trung thành các chức năng của mình, bảo đảm sự công tâm trong việc tôn
trọng Hiến pháp, giữ kín các thảo luận và phiếu của Hội đồng, không thực hiện
hoạt động tư vấn về các vấn đề liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng…
2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Hội đồng Hiến pháp thực hiện quyền kiểm hiến theo 2 nhóm chính: Kiểm
tra tính hợp hiến các quy phạm pháp luật; Kiểm soát hoạt động của các thể chế.
Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp còn thực hiện một số quyền hạn đặc biệt hoặc
mang tính chất tư vấn khác.
2.4.1. Kiểm tra hợp hiến các quy phạm pháp luật
a) Phân định lập pháp và lập quy
Điều 41 Hiến pháp quy định:
“Nếu trong quá trình xây dựng và ban hành luật, một quy định hoặc sửa
đổi không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hoặc trái với các quy định về lập
pháp uỷ quyền tại Điều 38, Chính phủ hoặc Chủ tịch Viện liên quan có thể phản
đối sự không phù hợp đó.
Trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Chính phủ và Chủ tịch Viện
liên quan, Hội đồng Hiến pháp, theo đề nghị của một trong hai Viện, sẽ quyết
định trong thời hạn 8 ngày”.
Theo quy định này, trong suốt quá trình lập pháp, Chính phủ có quyền
phản đối việc làm luật của hai Viện nếu Chính phủ cho rằng việc làm luật đó
không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hoặc trái với các quy định về ủy quyền
lập pháp. Chủ tịch Hạ viện hoặc Thượng viện sẽ quyết định chấp nhận hoặc
không chấp nhận sự phản đối của Chính phủ. Nếu chấp nhận thì quy định hoặc
sửa đổi luật bị hủy bỏ; còn nếu không chấp nhận, Chủ tịch Hạ viện hoặc Thượng
viện có thể đệ trình Hội đồng Hiến pháp xem xét trong thời hạn 8 ngày.
Trên thực tế, có tổng cộng 11 lần tranh chấp giữa Chính phủ và Chủ tịch
Viện liên quan về vấn đề này được đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp theo đề nghị
24
của Chủ tịch Hạ viện (6 lần) và Chủ tịch Thượng viện (5 lần). Từ năm 1979 đến
nay, không một đề xuất nào được đưa lên Hội đồng Hiến pháp.
Điều 37 của Hiến pháp quy định:
“Các vấn đề khác không nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật sẽ thuộc
phạm vi điều chỉnh của các quy định lập quy.
Đối với các văn bản được ban hành dưới hình thức lập pháp điều chỉnh
các vấn đề này, thì có thể bị sửa đổi bởi các sắc lệnh sau khi có ý kiến thuận của
Tòa án hành chính tối cao. Đối với các văn bản dạng này mà được ban hành
sau khi Hiến pháp này có hiệu lực, thì chỉ có thể bị sửa đổi bởi sắc lệnh khi có
quyết định của Hội đồng Hiến pháp xác nhận các văn bản đó có tính chất là văn
bản dưới luật theo quy định tại khoản trên”.
Theo quy định tại Điều này, các văn bản lập pháp được ban hành trước
khi Hiến pháp năm 1958 quy định các vấn đề thuộc quyền lập quy thì có thể bị
sửa đổi bởi các sắc lệnh; còn các văn bản lập pháp được ban hành sau khi Hiến
pháp năm 1958 có hiệu lực chỉ có thể bị sửa đổi bởi sắc lệnh khi Hội đồng Hiến
pháp xác nhận rằng văn bản đó có tính chất là văn bản lập quy.
b) Kiểm tra các luật tổ chức và luật thường
Đối với việc kiểm tra tính hợp hiến của luật, Hội đồng Hiến pháp có thể
kiểm hiến trước cũng như sau khi đạo luật có hiệu lực.
- Kiểm hiến các đạo luật trước khi công bố
Điều 61 của Hiến pháp quy định:
“Các luật về tổ chức, trước khi được công bố, và các quy tắc của Hạ viện
và Thượng viện, trước khi được áp dụng, phải trình lên Hội đồng Hiến pháp để
xem xét tính hợp hiến của các văn bản đó.
Cùng như vậy, các luật khác, trước khi được công bố, cũng có thể được
trình lên Hội đồng Hiến pháp để xem xét tính hợp hiến khi có yêu cầu của Tổng
thống, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện hoặc 60 Hạ nghị sỹ
hoặc 60 Thượng nghị sỹ.
Trong các trường hợp quy định tại hai khoản nêu trên, Hội đồng Hiến
pháp phải xem xét và cho ý kiến trong thời hạn một tháng. Tuy nhiên, trong
trường hợp khẩn cấp, theo yêu cầu của Chính phủ, thời hạn này có thể rút lại
còn 8 ngày.
25
Cũng trong những trường hợp trên, việc xem xét tính hợp hiến của Hội
đồng Hiến pháp sẽ tạm đình chỉ thời hạn ban hành các văn bản đó”.
Vai trò cơ bản và truyền thống của Hội đồng Hiến pháp Pháp là kiểm hiến
các dự án luật trước khi công bố (kiểm hiến trước). Có hai trường hợp khác
nhau: Thứ nhất, các luật về tổ chức trước khi được công bố bắt buộc phải
chuyển sang cho Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến; Thứ hai, các dự
luật thông thường trước khi công bố có thể được xem xét bởi Hội đồng khi có đề
nghị của một trong các chủ thể, bao gồm Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ
viện, Chủ tịch Thượng viện và 60 Hạ nghị sỹ hoặc 60 Thượng nghị sỹ.
Các đạo luật chỉ được ban hành sau khi có tuyên bố của Hội đồng Hiến
pháp về tính phù hợp với Hiến pháp của các đạo luật đó.
- Kiếm hiến sau khi đạo luật có hiệu lực
Điều 61-1 của Hiến pháp quy định:
“Trong quá trình tố tụng, nếu có các khiếu nại cho rằng các đạo luật đã
vi phạm các quyền và tự do được Hiến pháp bảo đảm thì vụ việc có thể được
Tòa án Hành chính Tối cao hoặc Tòa án tối cao đệ trình lên Hội đồng Hiến
pháp và Hội đồng Hiến pháp phải ra phán quyết trong thời hạn luật định.
Các điều kiện để áp dụng điều khoản này sẽ được một đạo luật tổ chức
quy định”.
Theo quy định cải cách này của Hiến pháp, các bên trong một vụ việc giải
quyết tại tòa án có thể đặt vấn đề đối với tòa án đó về sự bất hợp hiến của một
đạo luật nào đó đang áp dung cho vụ việc đó. Các tòa án này nếu xét thấy có vấn
đề bất hợp hiến sẽ đưa vụ việc lên Tòa án Hành chính tối cao hoặc Tòa án tối
cao để các Tòa này xem xét đệ trình Hội đồng Hiến pháp. Hội đồng Hiến pháp
có quyền ra phán quyết về tính hợp hiến của đạo luật.
Điều 61-1 được bổ sung trong sửa đổi Hiến pháp năm 2008 lần đầu tiên
cho phép Hội đồng Hiến pháp có thể kiểm hiến các đạo luật đã có hiệu lực mà
xâm phạm các quyền và tự do hiến định trong một vụ việc cụ thể. Đây là một
cuộc cách mạng cải cách Hội đồng Hiến pháp, thể hiện ở những đặc điểm sau
đây:
- Hội đồng Hiến pháp có thể kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật đã có
hiệu lực (kiểm hiến sau).
- Vụ việc Hiến pháp xuất phát từ một trường hợp cụ thể đang được giải
quyết tại tòa án (tài phán Hiến pháp cụ thể).
26
- Vụ việc Hiến pháp dựa theo yêu cầu của các cá nhân và nhằm bảo vệ
các quyền tự do khi bị đạo luật xâm phạm.
Mặc dù vậy, quy định trên vẫn có những hạn chế so với mô hình Tòa án
Hiến pháp khi chỉ trao quyền cho Tòa án hành chính tối cao và Tòa án tối cao có
quyền đệ trình vụ việc Hiến pháp lên Hội đồng Hiến pháp, bởi vì ở nhiều nước
theo mô hình Tòa án Hiến pháp hiện nay, các cá nhân hoặc các tòa án tư pháp
giải quyết vụ việc có quyền đề nghị trực tiếp Tòa án Hiến pháp xem xét sự bất
hợp hiến của một đạo luật. Có quan điểm cho rằng các nhà lập hiến của Pháp đã
lo lắng về sự quá tải của Hội đồng Hiến pháp với số nhân lực hạn chế (Hiện nay,
Hội đồng Hiến pháp có tổng số nhân sự là 64 người, kể cả 9 thành viên Hội
đồng Hiến pháp, các luật gia, nhân viên…), nên đã sử dụng “bộ lọc” ở Tòa án
hành chính tối cao (Hội đồng Nhà nước) và Tòa án tối cao. Các Tòa án này chỉ
chuyển vụ việc lên Hội đồng Hiến pháp nếu đáp ứng đủ 3 điều kiện:
- Quy định được xem xét phải đang áp dụng cho vụ việc;
- Quy định này chưa bao giờ được tuyên bố phù hợp với Hiến pháp;
- Vấn đề phải tính chất nghiêm trọng1.
Phán quyết của Hội đồng Hiến pháp có giá trị áp dụng bắt buộc với các cơ
quan nhà nước và cá nhân. Nếu Hội đồng Hiến pháp phán quyết một đạo luật bất
hợp hiến, đạo luật đó sẽ phải được bãi bỏ trong một thời hạn do Hội đồng đặt ra.
Trong khoảng thời gian cho đến thời điểm bãi bỏ, đạo luật cũng không thể được
áp dụng. Hội đồng Hiến pháp cũng có quyền quyết định hiệu lực hồi tố đối với
các phán quyết của mình2.
c) Kiểm hiến các cam kết quốc tế
Hội đồng Hiến pháp có quyền kiểm tra tính hợp hiến của các cam kết
quốc tế của Cộng hòa Pháp. Trên cơ sở đề nghị của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ
tịch Hạ viện hoặc Chủ tịch Thượng viện hoặc của 60 Hạ nghị sỹ hoặc 60
Thượng nghị sỹ, khi Hội đồng Hiến pháp tuyên bố một cam kết quốc tế có điều
khoản trái với Hiến pháp, thì cam kết quốc tế đó chỉ được phê chuẩn hoặc phê
duyệt sau khi đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp (Điều 54).
1 Olivier Dutheillet de Lamothe, nguyên thành viên Hội đồng Hiến pháp của Pháp, L’experience francaise du
controle de constitutionnalite (1958-2013), Bài trình bày tại Học Viện Hành Chính Quốc gia, ngày 8/5/2013.
2 Olivier Dutheillet de Lamothe, nguyên thành viên Hội đồng Hiến pháp của Pháp, L’experience francaise du
controle de constitutionnalite (1958-2013), Bài trình bày tại Học Viện Hành Chính Quốc gia, ngày 8/5/2013.
27
2.4.2. Kiểm tra hoạt động của các thể chế
a) Kiểm tra các cuộc bầu cử
Hội đồng Hiến pháp kiểm tra bầu cử Tổng thống cũng như bầu cử Nghị
viện.
Đối với cuộc bầu cử Tổng thống, Hội đồng Hiến pháp bảo đảm cho cuộc
bầu cử được tiến hành hợp lệ và xem xét, giải quyết các khiếu nại và công bố kết
quả bầu cử (Điều 58). Trong cuộc bầu cử Nghị viện, khi có khiếu nại, Hội đồng
Hiến pháp có quyền xem xét về tính hợp pháp của cuộc bầu cử Hạ viện và
Thượng viện (Điều 59).
b) Kiểm tra việc tổ chức trưng cầu ý dân
Hội đồng Hiến pháp bảo đảm cho các hoạt động trưng cầu ý dân được tiến
hành hợp pháp và tuyên bố kết quả trưng cầu ý dân (Điều 60).
Trong lĩnh vực kiểm tra các cuộc bầu cử cũng như trưng cầu ý dân, Hội
đồng Hiến pháp thực hiện cả quyền tài phán và tư vấn. Hội đồng có thẩm quyền
quyết định về tính hợp pháp của các hoạt động này. Ngoài ra, Chính phủ xin ý
kiến tư vấn của Hội đồng về các văn bản liên quan đến việc tổ chức bỏ phiếu
trong các cuộc bầu cử Tổng thống và trưng cầu ý dân1.
c) Kiểm tra tiêu chuẩn nghị sỹ
Hội đồng Hiến pháp sẽ kiểm tra sự không kiêm nhiệm của các nghị sỹ
theo quy định của Hiến pháp. Ngoài ra, Hội đồng còn có quyền kiểm tra các tiêu
chuẩn của các nghị sỹ đang trong nhiệm kỳ. Nếu Hội đồng ra quyết định tuyên
bố một nghị sỹ kiêm nhiệm hoặc không đủ tiêu chuẩn khi ứng cử thì nghị sỹ đó
sẽ bị bãi nhiệm.
d) Kiểm tra quy chế Nghị viện
Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến các quy chế Nghị viện theo
quy định tại khoản 1 Điều 61 của Hiến pháp: “Các luật về tổ chức, trước khi
được công bố, và các quy tắc của Hạ viện và Thượng viện, trước khi được áp
dụng, phải trình lên Hội đồng Hiến pháp để xem xét tính hợp hiến của các văn
bản đó”. Chủ tịch Hạ viện hoặc Thượng viện có nghĩa vụ trình việc ban hành
hoặc sửa đổi các quy tắc (quy chế) của các viện đó để Hội đồng Hiến pháp xem
xét.
1Ngoài quyền tư vấn trong lĩnh vực này, Hội đồng Hiến pháp còn được Tổng thống xin ý kiến tư vấn khi ban hành
các biện pháp đặc biệt, tình trạng khẩn cấp.
28
2.4.3. Một số quyền hạn đặc biệt hoặc mang tính chất tư vấn
Hội đồng Hiến pháp có một số quyền hạn đặc biệt như vấn đề khuyết, tình
trạng bất khả kháng của Tổng thống, ứng viên Tổng thống:
“Trong trường hợp Tổng thống khuyết vì bất cứ lý do gì hoặc không thể
thực hiện được chức năng của mình, thì các nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng
thống, trừ các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại các điều 11 và 12 dưới
đây, sẽ tạm thời do Chủ tịch Thượng viện thực hiện; nếu Chủ tịch thượng viện
cũng không thể thực hiện được, thì các nhiệm vụ, quyền hạn đó sẽ do Chính phủ
thực hiện. Việc xác nhận tình trạng Tổng thống không thể thực hiện được chức
năng, nhiệm vụ của mình thuộc thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp quyết định
theo đa số tuyệt đối và trên cơ sở có đề nghị của Chính phủ.
Trong trường hợp khuyết Tổng thống hoặc trong trường hợp có quyết định
xác nhận của Hội đồng Hiến pháp về việc Tổng thống vĩnh viễn không thể thực
hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, thì việc bỏ phiếu để bầu Tổng thống
mới phải được tổ chức, trừ trường hợp bất khả kháng theo sự xác nhận của Hội
đồng Hiến pháp, trong thời hạn sớm nhất là 20 ngày, chậm nhất là 35 ngày kể
từ ngày bắt đầu khuyết Tổng thống hoặc kể từ ngày có quyết định xác nhận của
Hội đồng Hiến pháp về việc Tổng thống vĩnh viễn không thể thực hiện được
chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong trường hợp có ứng cử viên đã tuyên bố công khai ra tranh cử Tổng
thống trong thời hạn dưới 30 ngày trước ngày hết hạn giới thiệu ứng cử viên mà
lại chết hoặc rơi vào tình trạng không thể tham gia tranh cử được nữa trong
khoảng thời gian 7 ngày trước ngày hết hạn giới thiệu ứng cử viên, Hội đồng
Hiến pháp có quyền quyết định hoãn cuộc bầu cử.
Hội đồng Hiến pháp cũng quyết định hoãn cuộc bầu cử trong trường hợp
trước khi diễn ra vòng bỏ phiếu thứ nhất mà có ứng cử viên chết hoặc không thể
tham gia tranh cử được nữa” (Điều 7 Hiến pháp).
Trong các tính trạng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, Tổng thống thực
hiện quyền tư vấn:
“Khi có sự đe doạ nghiêm trọng và trực tiếp đến sự tồn tại của các thiết
chế của nền Cộng hoà, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ hay đến việc thực hiện
các cam kết quốc tế của nước Cộng hoà Pháp và có sự đứt quãng trong hoạt
động bình thường của các cơ quan hiến định của Nhà nước, Tổng thống có
quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết để khắc phục, sau khi tham khảo ý kiến
chính thức của Thủ tướng, Chủ tịch của hai Viện và Chủ tịch Hội đồng Hiến
Pháp.
29
Tổng thống ra thông điệp thông báo với Quốc dân về việc áp dụng các biện
pháp đó.
Các biện pháp được áp dụng đều phải nhằm mục đích đảm bảo cho các cơ
quan hiến định của Nhà nước có được trong thời hạn sớm nhất các phương tiện
cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hội đồng Hiến pháp được
tham khảo ý kiến về những vấn đề liên quan đến các cơ quan hiến định của Nhà
nước.
Trong những trường hợp này, Nghị viện sẽ đương nhiên tiến hành phiên
họp.
Hạ viện không thể bị giải tán trong thời gian Tổng thống thực hiện các
quyền hạn đặc biệt.
Ba mươi ngày sau khi Tổng thống thực hiện các quyền hạn đặc biệt, Hội
đồng Hiến pháp có thể kết thúc việc xem xét theo đề nghị của Chủ tịch Hạ viện,
Chủ tịch thượng viện, sáu mươi hạ nghị sĩ hoặc thượng nghị sĩ, nếu hội đủ các
điều kiện nêu tại đoạn 1 Điều này. Hội đồng Hiến pháp tiến hành thông báo
công khai ý kiến trong những thời hạn ngắn nhất. Trong những điều kiện tương
tự, kết thúc sáu mươi ngày kể từ khi Tổng thống thực hiện các quyền đặc biệt và
ngoài thời hạn này, Hội đồng Hiến pháp tiến hành đầy đủ việc xem xét và công
bố về vấn đề này”. (Điều 16).
2.5. Thực tiễn hoạt động
Khi mới ra đời dưới thời Tổng thống Charles De Gaulles (1958-1970), các
hoạt động Hội đồng Hiến pháp Pháp phản ánh nhiều tính chính trị của cơ quan
này khi Hội đồng Hiến pháp được cho là một phương tiện của hành pháp để
chống lại Nghị viện. Hầu như tất cả các đề xuất lên Hội đồng Hiến pháp đều
xuất phát từ Thủ tướng nhằm chống lại các dự luật của Nghị viện, và khi đó Hội
đồng Hiến pháp đã đình chỉ một phần tất cả các dự luật được xem xét. Trong
một lần duy nhất, Chủ tịch Thượng Viện, Gaston Monnerville, đã đề nghị Hội
đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của cuộc trưng cầu dân ý quyết định bầu
cử trực tiếp Tổng thống năm 1962 do Tổng thống Charles de Gaulle khởi xướng.
Tuy nhiên, Hội đồng Hiến pháp đã ra phán quyết “không có thẩm quyền” để
đình chỉ ý chí trực tiếp của người dân Pháp1.
1 Alec Stone, The Birth of Judicial Politics in France: The Constitutional Council in Comparative
Perspective, Oxford University Press, ISBN 0-19-507034-8, chapter III.
30
Năm 1971, Hội đồng Hiến pháp lần đầu tiên ra phán quyết bất hợp hiến
của một số quy định của một dự luật xuất phát từ sự vi phạm các quyền và tự do
của con người, mà không phải từ các lý do mang tính kỹ thuật1.
Bên cạnh yếu tố chính trị, Hội đồng Hiến pháp với thẩm quyền hạn chế
hầu như không thể kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật đã có hiệu lực, do đó đã
gặp trở ngại trong việc bảo vệ Hiến pháp cũng như bảo vệ các quyền tự do hiến
định bị xâm phạm. Hội đồng Hiến pháp ban hành nhiều quyết định trên tất cả
nội dung thuộc thẩm quyền, nhưng chủ yếu mang tính tư vấn, khuyến nghị.
Tuy nhiên, Hiến pháp Pháp đã có những cải cách quan trọng về Hội đồng
Hiến pháp, góp phần thúc đẩy vai trò của cơ quan này trong việc bảo vệ Hiến
pháp và các quyền tự do cá nhân. Đầu tiên, phải kể đến tầm quan trọng của
những cải cách Hiến pháp trong các năm 1971 và 1974. Sau cải cách hiến pháp
năm 1974 cho phép 60 đại biểu Hạ viện hoặc Thượng viện có thể thực hiện một
đề xuất lên Hội đồng Hiến pháp, các đảng đối lập đã rất tích cực trong việc đề
nghị xem xét các đạo luật gây tranh cãi2.
Tiếp theo, sửa đổi đặc biệt quan trọng vào năm 2008 (bắt đầu có hiệu lực
từ ngày 1/3/2010) đã chuyển đổi Hội đồng Hiến pháp trở thành cơ quan tài phán
có khả năng kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật đã có hiệu lực, bảo vệ các
quyền tự do hiến định bị xâm phạm. Số lượng các vụ việc Hội đồng Hiến pháp
thụ lý từ sau các cải cách Hiến pháp này tăng rất lớn so với trước. Chỉ trong
khoảng thời gian 6 tháng, từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2010, Hội đồng Hiến pháp
đã ban hành số quyết định liên quan đến việc kiểm tra tính hợp hiến của các luật
thường tương đương với tổng số quyết định được ban hành trong khoảng thời
gian 17 năm, từ 1958 đến 19743. Trong khoảng thời gian 3 năm đầu kể từ khi
sửa đổi Hiến pháp có hiệu lực, các tòa án tư pháp đã chuyển 1520 vụ việc lên
cho các Tòa án hành chính tối cao (Hội đồng Nhà nước) và Tòa án tối cao, trong
khi hai cơ quan này đã quyết định chuyển 314 vụ (Hội đồng Nhà nước chuyển
137 vụ; Tòa án tối cao chuyển 177 vụ) và không chuyển 1206 vụ khác (Hội
đồng Nhà nước không chuyển 412 vụ; Tòa án Tối cao không chuyển 794 vụ).
1 Jérôme Favre, La décision du Conseil constitutionnel du 16 juillet 1971. L’invention d’un nouveau
pouvoir juridictionnel., Revue d'étude politique des assistants parlementaires, nr 2; M. Letourneur, R. Drago,
The Rule of Law as Understood in France, The American Journal of Comparative Law, Vol. 7, No. 2 (Spring,
1958), pp. 147–177.
2 Tony Prosser, Constitutions and Political Economy: The Privatisation of Public Enterprises in France
and Great Britain, The Modern Law Review, Vol. 53, No. 3 (May 1990), pp. 304–320.
3 Xem số liệu của Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa Pháp, http://www.conseil-constitutionnel.fr.
31
Tỷ lệ chuyển lên Hội đồng Hiến pháp là khoảng 20%. Hội đồng Hiến pháp ban
hành 255 phán quyết. Thời hạn phán quyết trung bình khoảng 2 tháng1.
Hội đồng Hiến pháp tuyên bố 67,5% các quy định được chuyển đến Hội
đồng để xem xét là phù hợp với Hiến pháp (53,8% phù hợp toàn bộ và 13,7%
một phần), 26,4% các quy định không phù hợp với Hiến pháp (16,5% không
phù hợp toàn bộ và 10% không phù hợp từng phần). Đối với các đạo luật, Hội
đồng Hiến pháp đã tuyên bố bất hợp hiến một phần đạo luật thường: 13 quyết
định năm 2009; 7 quyết định năm 2010; 7 quyết định năm 2011; 4 quyết định
năm 2012. Hội đồng Hiến pháp cũng đã tuyên bố bất hợp hiến toàn bộ đạo luật
thường: 1 quyết định năm 2010; 1 quyết định năm 2011 và 2 quyết định năm
2012.2
Không chỉ tăng đột biến về số lượng, chất lượng các quyết định của Hội
đồng Hiến pháp cũng được tăng cường hơn nhiều so với trước. Như một cựu
thành viên Hội đồng Hiến pháp cho biết, trong 9 tháng năm 2010, Hội đồng đã
ra nhiều quyết định quan trọng để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người
dân hơn toàn bộ 9 năm ông làm việc ở Hội đồng cộng lại. Ví dụ, quyết định của
Hội đồng Hiến pháp bác quy định chỉ cho phép người bị giam giữ bởi cảnh sát
trong thời gian 24 hoặc 48 giờ sau thời điểm bắt đầu thời hạn giam giữ có quyền
nói chuyện với luật sư của mình; hoặc quyết định ủng hộ việc tăng lương hưu
cho các cựu chiến binh người Pháp có nguồn gốc từ Bắc Phi3.
1 Olivier Dutheillet de Lamothe, nguyên thành viên Hội đồng Hiến pháp của Pháp, L’experience
francaise du controle de constitutionnalite (1958-2013), Bài trình bày tại Học Viện Hành Chính Quốc gia, ngày
8/5/2013.
2 Xem số liệu của Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa Pháp, http://www.conseil-constitutionnel.fr.
3 Olivier Dutheillet de Lamothe, nguyên thành viên Hội đồng Hiến pháp của Pháp, L’experience
francaise du controle de constitutionnalite (1958-2013), Bài trình bày tại Học Viện Hành Chính Quốc gia, ngày
8/5/2013.
32
II. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CAMPUCHIA
2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Bảo hiến là một thiết chế ra đời muộn ở Campuchia. Hiến pháp năm 1947
(được sửa đổi, bổ sung nhiều lần) không có điều khoản nào về bảo hiến, mà chỉ
có các quy định về quyền giải thích Hiến pháp của Quốc hội.
Hiến pháp năm 1972 lần đầu tiên quy định thiết lập Tòa án Hiến pháp,
độc lập với hệ thống tư pháp thường, có chức năng bảo hiến theo mô hình Châu
Âu. Tuy vậy, sự xuất hiện của chế độ Khơ-me Đỏ vào năm 1975 đã dẫn đến
cuộc tàn sát và phá hủy các nguyên tắc dân chủ và pháp quyền cho đến tận cuối
năm 1978. Sau khi giành tự do vào năm 1979, chính thể đại nghị được khôi
phục. Hiến pháp năm 1981 của Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã trao quyền
giải thích luật cho Hội đồng Nhà nước – Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hiến pháp
năm 1989 tiếp tục trao cho Ủy ban thường trực của Quốc hội thực hiện chức
năng giải thích luật. Tuy nhiên, các Hiến pháp này đều không nhắc đến giải
thích Hiến pháp và bảo hiến.
Năm 1993, một bản Hiến pháp mới được ban hành bởi Quốc hội lập hiến
do nhân dân bầu ra dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Chương XII của Hiến
pháp quy định về Hội đồng Hiến pháp theo mô hình của Pháp nhưng có nhiều
điểm khác biệt1, đặc biệt ở quy định về quyền kiểm tra tính hợp hiến của các đạo
luật đã có hiệu lực và tổ chức tham vấn công chúng về các vụ việc về bầu cử. Từ
đó đến nay, Hiến pháp 1993 được sửa đổi 5 lần, nhưng không có lần nào sửa đổi
quy định về Hội đồng Hiến pháp.
Hội đồng Hiến pháp được quy định theo Hiến pháp 1993 nhằm bảo vệ
Hiến pháp, giải thích Hiến pháp, luật và kiểm tra, quyết định các tranh chấp về
bầu cử Quốc hội và Thượng viện. Mặc dù được quy định từ năm 1993, Hội đồng
Hiến pháp chỉ bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 15/6/1998, bởi cho tới tháng
1 Cho đến trước cải cách Hiến pháp năm 2008, Hội đồng Hiến pháp của Pháp chỉ có quyền kiểm tra các dự án luật
trước khi công bố.
33
12/1997, Hội đồng thẩm phán tối cao – một trong các chủ thể lựa chọn ba thành
viên Hội đồng Hiến pháp, mới họp để bầu ra các thành viên Hội đồng Hiến
pháp.
Khác với các Tòa án Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp không được xếp vào
hệ thống các cơ quan tư pháp mà được coi là một thiết chế hiến định độc lập.
Các thành viên của Hội đồng Hiến pháp không nhất thiết phải có bằng luật (có
thể có bằng cấp về hành chính, ngoại giao hoặc kinh tế) hoặc phải có kinh
nghiệm trong ngành tư pháp (chỉ cần có kinh nghiệm nghề nghiệp nói chung
như làm việc trong Chính phủ, Quốc hội, các đảng chính trị, công đoàn…).
2.2. Khuôn khổ pháp lý
Hiến pháp năm 1993 quy định về Hội đồng Hiến pháp tại một chương
riêng (Chương XII - Về Hội đồng Hiến pháp, bao gồm 9 điều từ Điều 136 đến
Điều 144). Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức và hoạt động
của Hội đồng Hiến pháp được ban hành ngày 8/3/1998, quy định chi tiết về tổ
chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp. Luật này đã được sửa đổi một lần
vào ngày 31/1/2007 (sau đây gọi tắt là Luật HĐHP). Luật bao gồm 41 điều, chia
thành 5 chương: Chương I-Tổ chức của Hội đồng Hiến pháp; Chương II-Chức
năng của Hội đồng Hiến pháp; Chương III-Các hình phạt; Chương IV-Các điều
khoản chuyển tiếp và Chương V-Các điều khoản cuối cùng.
2.3. Cơ cấu tổ chức và quy trình, thủ tục
2.3.1. Cơ cấu tổ chức
Hội đồng Hiến pháp gồm có 9 thành viên đều do Quốc vương bổ nhiệm,
trong đó 3 thành viên do Quốc vương trực tiếp lựa chọn, 3 thành viên do Hội
đồng thẩm phán tối cao bầu và 3 thành viên do Quốc hội (Hạ viện) bầu. Chủ tịch
Hội đồng Hiến pháp được Hội đồng bầu trong số các thành viên của Hội đồng
theo quy chế đa số, có nhiệm kỳ 3 năm và có thể được bầu lại.
Cơ chế lựa chọn các thành viên Hội đồng Hiến pháp cân bằng ba nhánh
quyền lực nhà nước khác nhau nhằm bảo đảm tính độc lập, trung lập của Hội
đồng với bất kỳ nhánh quyền lực nào.
Trong số các cơ quan có quyền lựa chọn các thành viên Hội đồng Hiến
pháp, Quốc vương có quyền tự quyết 3 thành viên, đồng thời có quyền bổ nhiệm
các thành viên còn lại theo sự lựa chọn của các cơ quan khác. Quy định này cho
thấy vai trò đáng kể của Quốc vương trong việc thành lập Hội đồng Hiến pháp
34
cũng như phản ánh vị trí quan trọng của Quốc vương trong chính thể quân chủ
lập hiến ở Campuchia.
Để trở thành thành viên của Hội đồng Hiến pháp, các ứng viên phải có đủ
các tiêu chuẩn sau:
- Là người Khơ-me theo khai sinh;
- Ít nhất 45 tuổi;
- Ít nhất có 15 năm kinh nghiệm nghề nghiệp;
- Có bằng đại học trở lên trong các lĩnh vực pháp luật, hành chính, ngoại
giao hoặc kinh tế.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp có nhiệm kỳ 9 năm. Cứ ba năm sẽ có 3
thành viên Hội đồng được bổ nhiệm lại. Trong nhiệm kỳ đầu, có ba loại thành
viên được bổ nhiệm 3 năm, 6 năm và 9 năm. Mỗi chủ thể, bao gồm Quốc vương,
Hội đồng thẩm phán tối cao và Hạ viện, lựa chọn một thành viên có nhiệm kỳ 3
năm, một thành viên có nhiệm 6 năm, một thành viên có nhiệm kỳ 9 năm.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp không được kiêm nhiệm vị trí khác, bao
gồm thành viên Chính phủ, thành viên Thượng viện, thành viên Hạ viện, Chủ
tịch hoặc Phó Chủ tịch một đảng phái, Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch một tổ chức
công đoàn, thẩm phán. Các thành viên Hội đồng Hiến pháp không được thực
hiện các chức năng hoặc công việc nào khác trong nhiệm kỳ.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp không phải chịu trách nhiệm dân sự và
hình sự về các quyết định khi thực thi các chức năng với tư cách là thành viên
của Hội đồng.
Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp có vị trí và quyền lợi tương đương với Chủ
tịch Hạ viện. Các thành viên của Hội đồng Hiến pháp có vị trí và quyền lợi
tương đương với Phó Chủ tịch Hạ viện.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp có thể bị Hội đồng Hiến pháp quyết định
bãi nhiệm với số phiếu 2/3 tổng số các thành viên Hội đồng. Hình thức quyết
định của Hội đồng Hiến pháp không công khai, được thông qua sau khi nghe
thành viên bị bỏ phiếu trình bày. Hội đồng Hiến pháp có thể bãi nhiệm bất cứ
thành viên nào của Hội đồng khi hoạt động của họ không phù hợp với chức năng
thành viên hoặc không tham dự ba cuộc họp liên tiếp của Hội đồng mà không có
thông báo trước, hoặc không thể thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ thành viên do
không có khả năng thể chất hoặc tinh thần.
35
Khi nghỉ hưu, các thành viên Hội đồng Hiến pháp có lương hưu hàng
tháng như một đại biểu Hạ viện.
Hội đồng Hiến pháp được quản lý về hành chính bởi Văn phòng Hội
đồng. Văn phòng Hội đồng do Tổng thư ký đứng đầu, với sự trợ giúp của một
Phó tổng thư ký. Tổng thư ký và Phó tổng thư ký hoạt động theo sự hướng dẫn
của Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, có thể được Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp ủy
quyền ký các công văn hoặc quyết định hành chính.
2.3.2. Quy trình, thủ tục
Cuộc họp của Hội đồng Hiến pháp chỉ có giá trị khi có ít nhất 5 thành
viên tham dự theo sự triệu tập của Chủ tịch, hoặc trong trường hợp Chủ tịch
vắng mặt, theo sự triệu tập của thành viên nhiều tuổi nhất. Thành viên nhiều tuổi
nhất cũng sẽ triệu tập và điều hành phiên họp để bầu ra Chủ tịch Hội đồng Hiến
pháp.
Các Quy tắc về Thủ tục do các thành viên Hội đồng đặt ra với số phiếu đa
số. Thành viên Hội đồng được phân chia thành 3 nhóm do 3 chủ thể khác nhau
lựa chọn. Chủ tịch Hội đồng sẽ bổ nhiệm một thành viên của nhóm bất kỳ để
báo cáo về một vụ việc.
Nhóm có liên quan của Hội đồng Hiến pháp sẽ thảo luận và đánh giá quan
điểm do thành viên báo cáo đệ trình. Sau khi thảo luận, thành viên báo cáo sẽ
trình báo cáo của mình, kể cả trong trường hợp có ý kiến trái chiều, lên cuộc họp
trù bị của Hội đồng do Chủ tịch ấn định.
Cuộc họp trù bị là cuộc họp chuẩn bị cho phiên toàn thể, trong đó mỗi
thành viên sẽ trình bày các quan điểm, ý kiến của mình. Trong cuộc họp này,
Hội đồng Hiến pháp không ra quyết định mà chỉ lắng nghe các quan điểm, ý
kiến để chuẩn bị cho cuộc họp của phiên toàn thể. Trong cuộc họp này, có thể có
nhiều ý kiến, quan điểm đồng thuận hoặc trái ngược về vấn đề được xem xét.
Cuộc họp toàn thể là công việc thuộc giai đoạn cuối, trong đó Hội đồng
Hiến pháp ra quyết định với số phiếu đa số tuyệt đối của toàn thể các thành viên
Hội đồng. Phiên họp của Hội đồng Hiến pháp có thể công khai trong một số
trường hợp được quy định trong luật bầu cử.
Tất cả các thảo luận trong cuộc họp sẽ được ghi âm bởi một nhóm thư ký
do Tổng thư ký hoặc Phó tổng thư ký chỉ đạo.
36
Cuộc thảo luận và bỏ phiếu của Hội đồng Hiến pháp không công khai.
Các thành viên Hội đồng không được trình bày các quan điểm của mình ra bên
ngoài cuộc họp.
Hội đồng Hiến pháp ban hành quyết định với đa số phiếu của các thành
viên Hội đồng (5 phiếu) ngoại trừ trường hợp quyết định thông qua các Quy tắc
về Thủ tục và bãi nhiệm thành viên phải có 2/3 phiếu của tổng số các thành viên
Hội đồng (6 phiếu).
Việc đối chất chỉ được sử dụng trong thủ tục điều trần công khai (the
public hearings). Khi tham gia vụ việc tại Hội đồng, các thành viên và những
người có liên quan có thể trình bày miệng hoặc văn bản để tranh luận/bảo vệ
quan điểm tại Hội đồng.
2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Hội đồng Hiến pháp bảo vệ Hiến pháp theo ba nhóm nhiệm vụ, quyền hạn
được Hiến pháp quy định tại Điều 136 (I): Kiểm tra tính hợp hiến các dự luật,
đạo luật đã có hiệu lực; kiểm tra tính hợp hiến của các hành vi hành chính; Phán
quyết về các tranh chấp bầu cử.
Hình 2: Các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp
Campuchia
2.4.1. Kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật
Hội đồng Hiến pháp có thể kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật trước
và sau khi đạo luật có hiệu lực. Đối với các luật tổ chức và các quy tắc về thủ
37
tục của Thượng viện và Hạ viện bắt buộc phải được Hội đồng Hiến pháp kiểm
tra trước khi công bố. Hội đồng Hiến pháp là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
tuyên vô hiệu các đạo luật của Hạ viện trái với Hiến pháp. Các quyết định của
Hội đồng Hiến pháp có giá trị cuối cùng, không được khiếu nại và bắt buộc với
tất cả các cơ quan nhà nước.
a) Quy trình kiểm tra
Để thực hiện quyền kiểm hiến các đạo luật, nhiều chủ thể được trao quyền
đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến các đạo luật khi họ cho rằng
đạo luật đó không phù hợp với Hiến pháp. Theo quy định tại các Điều 140 (I),
141 (I,1) của Hiến pháp và các Điều 17, 18 (I) và 19 của Luật HĐHP, các chủ
thể sau đây được quyền khởi xướng vụ việc hiến pháp lên Hội đồng Hiến pháp:
Quốc vương; Thủ tướng; Chủ tịch Hạ viện; 1/10 số thành viên Hạ viện; Chủ tịch
Thượng viện; ¼ (trong trường hợp kiểm soát các đạo luật đã có hiệu lực là 1/10)
số thành viên Thượng viện; tất cả các tòa án thông qua Tòa án Tối cao).
Mặc dù chỉ các chủ thể đại diện công quyền mới có quyền đề nghị Hội
đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của các đạo luật, Hiến pháp Campuchia
cũng cho phép các công dân có thể gián tiếp đề nghị Hội đồng Hiến pháp thông
qua hai con đường:
- Thông qua các đại diện của họ tại Thượng viện và Hạ viện
Qua các kiến nghị của cử tri về sự vi hiến của một đạo luật nào đó, các đại
biểu Hạ viện sẽ khiếu kiện vụ việc Hiến pháp lên Hội đồng Hiến pháp (Điều 141
Hiến pháp). Ví dụ, Điều 38 Luật các đảng chính trị cho phép các cơ quan có
thẩm quyền hoặc các tòa án có thể quy định một hình phạt. Một công dân đã
từng đề nghị lên Chủ tịch Hạ viện - Hoàng tử Norodom Ranariddh - trình Hội
đồng Hiến pháp giải thích Điều 38 xem ai có quyền đặt ra một hình phạt. Hoàng
tử Norodom Ranariddh đã thay mặt công dân này làm một đơn đề nghị trình Hội
đồng Hiến pháp xem xét. Hội đồng Hiến pháp đã giải thích Điều 38 theo hướng
chỉ có các tòa án có thể đặt ra hình phạt đối với các đảng phái, bởi vì Điều 128
(II) và Điều 129 (II) của Hiến pháp quy định rẳng chỉ có các tòa án mới có
quyền này1.
- Thông qua các tòa án
1 Quyết định số 049/003/2002 của Hội đồng Hiến pháp ngày 5/8/2002.
38
Các cá nhân cũng có thể đề nghị các tòa án trình Hội đồng Hiến pháp xem
xét tính hợp hiến của các đạo luật trong một vụ việc giải quyết tại tòa án (Điều
150 (II) Hiến pháp; Điều 19 Luật HĐHP). Để có thể yêu cầu kiểm tra tính hợp
hiến một đạo luật đang có hiệu lực trong một vụ việc cụ thể tại tòa án, công dân
phải khiếu nại rằng đạo luật đó xâm phạm trực tiếp đến các quyền cá nhân của
mình. Trong trường hợp này, công dân khiếu nại vụ việc lên Hội đồng Hiến
pháp thông qua Tòa án Tối cao. Các nguyên tắc trên được quy định tại Điều 19
Luật HĐHP:
“Bất cứ ai liên quan đến một vụ việc giải quyết tại tòa án đều có quyền đề
nghị tòa án đó xem xét sự bất hợp hiến của bất kỳ quy định nào của một đạo luật
hoặc bất kỳ quyết định nào của một cơ quan nhà nước mà người đó cho rằng đã
xâm phạm các quyền và tự do cơ bản của mình. Nếu Tòa án cho rằng đề nghị
trên có đủ cơ sở, Tòa án sẽ chuyển vụ việc lên Tòa án Tối cao trong thời hạn 10
ngày. Tòa án Tối cao sẽ xem xét vụ việc và đề nghị Hội đồng Hiến pháp trong
thời gian 15 ngày, ngoại trừ khi Tòa án Tối cao cho rằng đề nghị trên không có
đủ cơ sở”.
Cách thức khởi kiện vụ án hiến pháp mà theo đó một trong các bên trong
vụ việc có quyền đề nghị các tòa án xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đang
áp dụng cho vụ việc đó có nguồn gốc từ Hoa Kỳ. Mặc dù thiết lập Hội đồng
Hiến pháp theo mô hình Châu Âu, trong đó đề xuất vụ việc hiến pháp thuộc
thẩm quyền của cơ quan công quyền trung ương không xuất phát từ một vụ việc
cụ thể (tài phán hiến pháp trừu tượng), Hiến pháp Campuchia đã cấy ghép đặc
điểm của mô hình Hoa Kỳ, trong đó các bên đương sự trong vụ việc tư pháp đề
nghị tòa án xem xét tính hợp hiến của các đạo luật (tài phán hiến pháp cụ thể).
Sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mô hình là xu thế chung của các mô
hình tài phán nhằm tiếp thu chọn lọc các kinh nghiệm tích cực khác biệt. Ở đa số
các nước có Tòa án Hiến pháp hiện nay, các tòa án thường đều được tiếp nhận
các khiếu kiện hiến pháp của các bên trong vụ việc để trình lên Tòa án Hiến
pháp xem xét. Quy định này cho phép khả năng bảo vệ hiệu quả hơn các quyền
và tự do hiến định của người dân.
Tuy nhiên, các tòa án Campuchia không được quyền trực tiếp đề nghị lên
Hội đồng Hiến pháp, mà phải thông qua Tòa án tối cao. Hình thức trung gian
này cho phép tạo ra một kênh lọc tại Tòa án tối cao trước khi trình lên cơ quan
bảo hiến, do đó tránh được tình trạng quá tải tại Hội đồng Hiến pháp. Tuy nhiên,
quy định này cũng hạn chế khá lớn các khiếu kiện của người dân cho thể tiếp
cận được Hội đồng Hiến pháp.
39
Ở Pháp, cải cách Hiến pháp năm 2008 về Hội đồng Hiến pháp lần đầu tiên
có quy định tương tự như Hiến pháp Campuchia. Điều rất thú vị ở đây là Hội
đồng Hiến pháp Campuchia (1993) được xây dựng theo mô hình Hội đồng Hiến
pháp Pháp (1958), nhưng có những cải cách tích cực so với mô hình gốc. Ở
chiều ngược lại, Hội đồng Hiến pháp Pháp giờ đây lại phải học hỏi mô hình Hội
đồng Hiến pháp Campuchia. Điều đó cho thấy việc chuyển đổi Hội đồng Hiến
pháp từ một cơ quan chính trị sang mô hình tài phán hiến pháp là một xu thế
chung trong sự phát triển của vấn đề bảo hiến.
Hình 3: Quyền đề nghị lên Hội đồng Hiến pháp ở Campuchia1
Hội đồng Hiến pháp phải ra quyết định trong thời hạn 30 ngày (8 ngày
trong trường hợp khẩn cấp) kể từ ngày nhận được đơn đề nghị (Điều 140 (II,3)
Hiến pháp; Điều 22 (I) Luật HĐHP). Ít nhất phải có 7 thẩm phán của Hội đồng
để xem xét và kết luận về vụ việc (Điều 14 (II) Luật HĐHP).
Khi xem xét kiểm hiến một đạo luật, Hội đồng Hiến pháp họp kín, nhưng
có thể mời các chuyên gia đóng góp làm rõ vụ việc (Điều 21 (I) Luật HĐHP). Ý
kiến của các chuyên gia pháp luật là nguồn tham khảo quan trọng để Hội đồng
đưa ra các phán quyết. Ví dụ, sau cuộc bầu cử quốc gia vào tháng 7 năm 2003,
Quốc vương đã đề nghị Hội đồng Hiến pháp cho ý kiến về việc Quốc vương có
phải triệu tập phiên họp đầu tiên của Hạ viện (theo Điều 82 (I) Hiến pháp) hay
1.The Khmer Institute of Democracy, The Constitutional Council, www.khmerrough.com.
HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP
Nhà
Vua
Thủ
tướng
Các công dân có thể nêu vấn đề kiểm hiến thông qua
các đại diện của họ tại Thượng Viện và Hạ Viện
hoặc thông qua các tòa án
Chủ
tịch
Hạ
Viện
110
thành
viên Hạ
Viện
Chủ
tịch
Thượng
Viện
1/4 các thành
viên Thượng
Viện (đối với
các đạo luật
đã có hiệu lực
là 1/10)
Tất cả
các tòa
án thông
qua
TATC
40
không. Hội đồng Hiến pháp đã tham khảo ý kiến của một luật sư, người đã cho
rằng Quốc vương không có quyền xin ý kiến tư vấn của Hội đồng Hiến pháp,
mà chỉ có thể đề nghị kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật. Tuy nhiên, Hội
đồng Hiến pháp sau đó đã quyết định rằng: Quốc vương có quyền đề nghị Hội
đồng Hiến pháp giải thích Hiến pháp; Quốc vương phải triệu tập phiên họp đầu
tiên của Hạ viện bởi sự hiện diện của Quốc vương là rất quan trọng đối với đất
nước, phù hợp với vị trí của cơ quan cao nhất, và trong quá khứ, vị trí nguyên
thủ của Quốc vương luôn thể hiện rõ ở kỳ họp thứ nhất của Hạ viện.
Với đa số các thành viên (Điều 22 (III) Luật HĐHP), Hội đồng Hiến pháp
ra quyết định bằng hình thức văn bản (Điều 22 (III) Luật HĐHP) chứa đựng các
lập luận (Điều 22 (I) và (V) Luật HĐHP). Quyết định của Hội đồng Hiến pháp
là quyết định cuối cùng (Điều 142 (II) Hiến pháp) và có giá trị bắt buộc với tất
cả các cơ quan nhà nước (Điều 23 Luật HĐHP). Để bảo đảm sự minh bạch, các
quyết định của Hội đồng Hiến pháp phải được đăng Công báo và Chủ tịch Hạ
viện phải thông báo cho tất cả các nhà lập pháp, Thủ tướng phải thông báo cho
các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án tối cao phải thông báo cho tất cả các
tòa án.
b) Nội dung và hệ quả pháp lý của các quyết định của Hội đồng Hiến
pháp
Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của các dự thảo luật, các luật
đang có hiệu lực, các quy tắc nội bộ của Hạ viện và Thượng viện.
Hội đồng Hiến pháp ra phán quyết về các vấn đề liên quan đến Hiến pháp
– đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý tối cao. Do vậy, các quyết định của Hội
đồng Hiến pháp có ảnh hưởng lên toàn bộ hệ thống pháp luật.
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp có những hệ quả pháp lý khác
nhau:
- Các quyết định giải thích những quy định Hiến pháp sẽ dẫn đến hệ quả
là các đạo luật liên quan phải được Hạ viện sửa đổi cho phù hợp (Điều 151 (II)
Hiến pháp);
- Các quyết định tuyên bố bất hợp hiến sẽ dẫn đến hệ quả là các đạo luật
bị tuyên bố bất hợp hiến sẽ không thể được công bố hoặc thực thi (Điều 124
Hiến pháp). Ví dụ, Điều 3 của Dự thảo Luật về Bạo lực gia đình quy định những
hành động phù hợp với “truyền thống Khơ-me tốt đẹp” không thể được coi là
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, người ta cho rằng rất khó để xác định thế nào là
“truyền thống Khơ-me tốt đẹp”, vì mỗi người có các quan niệm khác nhau.
41
Trong vụ việc này, Hội đồng Hiến pháp tuyên bố điều khoản đó là vi hiến. Hội
đồng cũng đề xuất thêm cách quy định điều khoản này một cách hợp hiến. Hạ
viện sẽ phải sửa điều khoản này trước khi đạo luật được công bố.
2.4.2. Kiểm tra tính hợp hiến của các hành vi hành chính
Hội đồng Hiến pháp không những có quyền kiểm tra tính hợp hiến của
các đạo luật của Hạ viện, mà còn có quyền kiểm tra tính hợp hiến các hành vi
hành chính.
Quy trình kiểm tra tính hợp hiến của các hành vi hành chính được thực
hiện thông qua quy trình tư pháp tại tòa án. Trong một vụ việc giải quyết tại tòa
án, các bên trong vụ việc phải khiếu nại rằng hành vi hành chính đó xâm phạm
trực tiếp đến các quyền cá nhân của mình (Điều 19 Luật HĐHP).
Nếu Hội đồng Hiến pháp tuyên bố sự bất hợp hiến của một hành vi hành
chính, Tòa án tối cao (cơ quan đã đệ trình vụ việc lên Hội đồng Hiến pháp) phải
tuyên bố vô hiệu hành vi hành chính đó (Điều 150 II Hiến pháp).
2.4.3. Phán quyết về các tranh chấp bầu cử
Bên cạnh chức năng kiểm tra tính hợp hiến của các quy phạm pháp luật,
Hội đồng Hiến pháp còn kiểm tra các hoạt động của Ủy ban bầu cử quốc gia để
bảo đảm sự tự do và công bằng của các cuộc bầu cử quốc gia (Điều 136 (II)
Hiến pháp).
Theo quy định tại Điều 26 Luật HĐHP:
“Hội đồng Hiến pháp xem xét và quyết định về:
1) Những yêu cầu của các đảng chính trị hoặc các ứng cử viên chống lại
các quyết định bác bỏ khiếu nại về việc ứng cử hoặc danh sách ứng cử viên của
Ủy ban Bầu cử Quốc gia.
2) Những yêu cầu của các cá nhân chống lại các quyết định bác bỏ bỏ yêu
cầu đăng ký bầu cử của Ủy ban Bầu cử Quốc gia.
3) Những yêu cầu của các cá nhân hoặc đại diện của họ chống lại các
quyết định của Uỷ ban Bầu cử Quốc gia mà đã bác bỏ các khiếu nại liên quan
đến các tên bị bỏ sót, việc đăng ký hoặc lưu giữ các cử tri trong danh sách bầu
cử không phù hợp với các điều kiện được quy định trong Luật Bầu cử.
4) Những yêu cầu của các đảng chính trị chống lại sự bác bỏ quyền đăng
ký của các đảng chính trị đó.”
42
Theo Điều 27 Luật HĐHP, Hội đồng Hiến pháp xem xét và quyết định về:
1) Những yêu cầu trực tiếp chống lại các kết quả bầu cử mà các cá nhân hoặc
đảng chính trị đang tranh cử không đồng tình…; 2) Những yêu cầu của các cá
nhân hoặc các đảng chính trị chống lại các quyết định bác bỏ khiếu nại về kết
quả bầu cử của Ủy ban Bầu cử Quốc gia.
Hội đồng bầu cử sẽ tiến hành các cuộc tranh luận công khai để tiến hành
điều tra về các tranh chấp bầu cử. Hội đồng có thể ra các quyết định sau:
- Đồng tình hoặc phản đối các quyết định của Ủy ban Bầu cử Quốc gia;
- Tuyên bố vô hiệu một cuộc bầu cử;
- Tuyên bố rằng một ứng cử viên được bầu một cách hợp pháp hoặc bất
hợp pháp.
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp phải được thể hiện dưới hình
thức văn bản và chứa đựng các lập luận. Các quyết định này có hiệu lực chung
thẩm (Điều 34 (IV) Hiến pháp), ngay lập tức và được đăng trên Công báo.
Hình 4: Thẩm quyền và thủ tục giải quyết của Hội đồng Hiến pháp
Campuchia
(6)
Chú thích:
-Quyền của công dân đề nghị kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật đã
công bố (1) thông qua các cơ quan công quyền (2).
- Quyền của công dân đề nghị kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật đã
công bố hoặc các hành vi hành chính qua các tòa án liên quan (3) để chuyển lên
Tòa án tối cao (4) đệ trình Hội đồng Hiến pháp (5).
(4)
(1) (3)
(2) (5)
Tòa án liên quan
HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP
- Chủ tịch Thượng Viện
- Chủ tịch Hạ Viện
- 1/4 thành viên Thượng Viện
- 1/0 thành viên Hạ Viện
Tòa án Tối cao
Công dân Công dân hoặc đại diện của nguyên đơn
phản đối quyết định của UBBC quyết định
của Ủy ban Bầu cử Quốc gia
(6)
43
- Quyền của công dân khiếu kiện các quyết định của Ủy ban Bầu cử Quốc
gia trực tiếp lên Hội đồng Hiến pháp (6).
2.5. Thực tiễn hoạt động
Từ năm 1998 đến năm 2010, Hội đồng Hiến pháp Campuchia đã thụ lý và
giải quyết 177 vụ việc, trong đó có 46 vụ tranh chấp về bầu cử, 52 vụ việc về
kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật và các hành vi hành chính, 48 phán quyết
về sự trái thẩm quyền hoặc hình thức pháp lý, 21 vụ việc về giải thích Hiến pháp
và luật, 10 vụ tư vấn hoặc yêu cầu1.
Các tài liệu nghiên cứu về thực tiễn chưa cho thấy rõ vai trò của các chủ
thể công quyền (lập pháp và hành pháp) trong việc đề xuất Hội đồng Hiến pháp
xem xét các vấn đề Hiến pháp. Tòa án là một thiết chế được mong đợi sẽ đóng
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và tự do hiến định của công dân
trước các vi phạm Hiến pháp của lập pháp và hành pháp, tuy nhiên, Tòa án tối
cao chưa bao giờ đề xuất vụ việc nào lên Hội đồng Hiến pháp để xem xét tính
hợp hiến của các đạo luật hoặc hành vi hành chính.
1Constitutional Council of Cambodia, www.ccc.gov.kh.
44
III. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CADẮCXTAN
3.1. Quá trình hình thành và phát triển
Cadắcxtan là một trong những nước cộng hòa cuối cùng của Liên Xô
được tách ra độc lập vào tháng 12 năm 19911. Tuy nhiên, đến ngày 30 tháng 8
năm 1995 – gần bốn năm sau khi giành được độc lập, Hiến pháp của Cadắcxtan
mới được thông qua. Sự thay đổi hệ thống chính trị là một dấu mốc quan trọng,
mở ra một kỷ nguyên mới khi Cadắcxtan trở thành một quốc gia độc lập có chủ
quyền và một nền cộng hòa tự do về mặt kinh tế. Bởi sự thay đổi quan trọng
này, ngày 30 tháng 8 – ngày Hiến pháp - trở thành ngày quốc lễ của Cadắcxtan.
Hội đồng Hiến pháp là thiết chế lần đầu tiên được lập ra ở Cadắcxtan theo
Chương VI của Hiến pháp 1995. Thiết chế Hội đồng Hiến pháp ghi nhận sự tập
trung quyền lực vào tay Tổng thống và mang những đặc điểm sau:
Không xây dựng cơ chế phán quyết hiến pháp đầy đủ;
Tổng thống sau khi về hưu đương nhiên có quyền trở thành thành
viên của Hội đồng Hiến pháp;
Tổng thống có vai trò rất lớn trong việc bổ nhiệm các thành viên
Hội đồng Hiến pháp.
Tổng thống có quyền phủ quyết tương đối đối với các nghị quyết
của Hội đồng Hiến pháp;
Hội đồng Hiến pháp mang nhiều màu sắc của cơ quan chính trị hơn
là một cơ quan chuyên môn có vị thế độc lập khách quan.
3.2. Khuôn khổ pháp lý2
Hội đồng Hiến pháp được quy định tại:
Chương VI Hiến pháp Cadắcxtan 1995;
Luật Hội đồng Hiến pháp 1995 (gồm 6 chương, 47 điều);
Nội quy của Hội đồng Hiến pháp, được ban hành theo Nghị quyết
số 1/2002 ngày 19 tháng 4 năm 2002 của Hội đồng.
1http://aglobalworld.com/holidays-around-the-world/Cadắcxtan-celebrates-constitution-day/
2The speech of the Chairman of the Constitutional Council of the Republic Cadắcxtan Igor Rogov on 2nd Congress
of the World Conference on Constitutional Justice “Separation of Powers and Independence of Constitutional Courts and
Equivalent Bodies”, Rio de Janeiro, 16-18 January 2011
45
3.3. Cơ cấu tổ chức
Nguyên tắc tam quyền phân lập, kiềm chế đối trọng được ghi nhận trong
Hiến pháp Cộng hòa Cadắcxtan. Theo Điều 3 của Hiến pháp, quyền lực nhà
nước ở Cộng hòa Cadắcxtan là thống nhất và được thực thi trên cơ sở Hiến pháp
và luật phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước được phân chia thanh ba
nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiềm chế, đối trọng giữa chúng
trong quá trình tương tác.1
Trong hệ thống tam quyền phân lập, Hội đồng Hiến pháp đóng một vị trí
rất đặc biệt. Mô hình phòng hiến của Pháp đã được lựa chọn làm cơ sở cho sự
phát triển của Hội đồng Hiến pháp Cadắcxtan, bởi vậy nó có nhiều khác biệt,
bên cạnh những những đặc điểm cơ bản của mô hình nguyên mẫu.
Hội đồng Hiến pháp Cadắcxtan bao gồm bảy thành viên. Chủ tịch và hai
thành viên của Hội đồng Hiến pháp được bổ nhiệm bởi Tổng thống; hai thành
viên do Thượng viện bổ nhiệm, hai thành viên còn lại do Mazhilis (Hạ viện) bổ
nhiệm. Hội đồng là cơ quan nhà nước độc lập.
Để hỗ trợ cho hoạt động của Hội đồng Hiến pháp, bộ phận quản trị được
thành lập, gọi là Văn phòng Hội đồng Hiến pháp2. Văn phòng có trách nhiệm
tiến hành các điều tra, tổ chức các buổi điều trần và các công việc phụ trợ khác
nhằm hỗ trợ hoạt động của Hội đồng Hiến pháp. Những những chức năng cụ thể
của Văn phòng là:
a) Cung cấp phân tích pháp luật và các thỏa thuận quốc tế là đối tượng
khiếu nại hiến pháp;
b) Tổ chức chuẩn bị cho các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp;
c) Cung cấp các phân tích thông tin và phát hành các tài liệu công bố;
d) Tổ chức, phối hợp, kiểm soát và quản lý tài liệu;
đ) Tương tác với truyền thông của Cộng hòa Cadắcxtan;
e) Giám sát các vấn đề tài chính, kỹ thuật và ngân sách dịch vụ xã hội
(social services budgets) của Hội đồng Hiến pháp;
1The speech of the Chairman of the Constitutional Council of the Republic Cadắcxtan Igor Rogov on 2nd Congress
of the World Conference on Constitutional Justice “Separation of Powers and Independence of Constitutional Courts and
Equivalent Bodies”, Rio de Janeiro, 16-18 January 2011
2http://www.constcouncil.kz/eng/norpb/polobap/
46
g) Duy trì mối quan hệ với các tổ chức quốc tế, các tòa án hiến pháp
trên thế giới và các cơ quan tương tự trên thế giới;
h) Sắp xếp lịch trình, thời biểu;
Văn phòng Hội đồng Hiến pháp bao gồm các bộ phận sau:
a) Phòng hợp tác quốc tế
b) Phòng pháp luật
c) Phòng thông tin và phân tích
d) Phòng tài vụ hành chính
đ) Phòng tổng hợp
3.4. Thẩm quyền
Thủ tục kiểm tra tính hợp hiến trước của Hội đồng Hiến pháp chỉ được
khởi xướng trên cơ sở đề nghị của những chủ thể sau: Tổng thống, Thủ tướng,
Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện, từ một phần năm tổng số các nghị sĩ
của cả hai viện của Nghị viện, các tòa án.
Hội đồng Hiến pháp bảo đảm sự tương thích của luật với hiến pháp của
quốc gia bằng kiểm hiến trước và sau.Quyết định (nghị quyết) của Hội đồng
Hiến pháp đóng vai trò cung cấp sự giải thích đúng đắn các nguyên tắc, quy
phạm của Hiến pháp nhằm bảo đảm sự phát triển liên tục và ổn định của Nhà
nước.
Hội đồng Hiến pháp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong việc bảo
đảm tính hợp hiến của các quan hệ pháp luật, mà còn trở thành “chuyên gia”
trong việc tập trung vào sự phát triển của lập pháp hiện hành và thực tiễn thực
thi pháp luật. Theo Điều 72 của Hiến pháp, Hội đồng có thẩm quyền quyết định
những vấn đề sau:
- Về sự đúng đắn trong việc tổ chức các cuộc bầu cử Tổng thống, nghị sĩ
và của cuộc trưng cầu ý dân trên toàn quốc trong trường hợp có tranh chấp1;
- Xem xét tính hợp hiến của dự luật đã được Nghị viện thông qua trước
khi Tổng thống ký; xem xét tính hợp hiến của các quyết định của Nghị viện và
các viện của Nghị viện.
1Decide on the correctness of conducting the elections of the President of the Republic, deputies of Parliament, and
conducting an all-nation referendum in case of dispute.
47
- Xem xét tính hợp hiến của các điều ước quốc tế trước khi phê chuẩn;
- Giải thích chính thức Hiến pháp;
- Đưa ra kết luận trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 47 Hiến pháp.
Ngoài ra Hội đồng còn có quyền giải quyết các kháng cáo của các tòa án
trong các trường hợp được quy định tại Điều 78 Hiến pháp. Điều 78 quy định
như sau:
“Tòa án không có quyền áp dụng luật (của Nghị viện) và bất kỳ văn bản
quy phạm pháp luật nào nếu nó xâm phạm quyền và tự do của cá nhân, công
dân đã được xác lập trong hiến pháp. Nếu bất kỳ một tòa án nào khi áp dụng
một luật hay văn bản quy phạm pháp luật nào đó thấy rằng văn bản đó xâm
phạm quyền và tự do của cá nhân, công dân thì tòa án sẽ tạm dừng thủ tục tố
tụng và đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp yêu cầu tuyên bố văn bản đó vi hiến1”.
Quyền lực của Hội đồng Hiến pháp Cadắcxtan được thực thi theo các
nguyên tắc độc lập, khách quan, kiên định, tập thể và chỉ tuân theo Hiến pháp.
Nghị quyết, quyết định của Hội đồng Hiến pháp sẽ có hiệu lực ràng buộc
vào ngày nó được thông qua trên toàn lãnh thổ Cadắcxtan, có tính chất chung
thẩm, không thể bị khiếu nại hay kháng cáo.
Trong phạm vi hạn chế bởi địa vị hiến định của mình, bằng chức năng
giải thích hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp trở thành người mở lối thoát lập pháp
của quốc gia và gián tiếp thúc đẩy quá trình thực thi pháp luật.
Đặc điểm tập quyền, lấy Tổng thống làm trung tâm thể hiện rõ nhất ở việc
theo Hiến pháp Cadắcxtan. Không có ai ngoài Tổng thống có quyền phản đối
quyết định của Hội đồng Hiến pháp. Hay nói cách khác, Tổng thống có quyền
phủ quyết đối với quyết định của Hội đồng Hiến pháp. Tuy nhiên đây là quyền
phủ quyết tương đối, chứ không phải là phủ quyết tuyệt đối. Sự phản đối của
Tổng thống không có nghĩa là hủy bỏ quyết định tương ứng của Hội đồng Hiến
pháp mà chỉ là một dịp để yêu cầu Hội đồng Hiến pháp xem xét lại lần nữa vấn
đề tương ứng. Hội đồng Hiến pháp có thể vượt qua sự phản đối này nếu khi xem
xét lại vấn đề và đạt được sự nhất trí từ hai phần ba tổng số thành viên của Hội
đồng. Nếu khi xem xét lại vấn đề và khi biểu quyết không đạt được sự nhất trí từ
hai phần ba tổng số thành viên của mình thì nghị quyết hay quyết định của Hội
1Đây là hoạt động kiểm hiến sau.
48
đồng coi như chưa được thông qua, hay nói cách khác sẽ không còn giá trị pháp
lý.
Cùng với các cơ quan nhà nước khác, Hội đồng Hiến pháp đã thúc đẩy
các sự phát triển của xã hội, vượt qua các xung đột pháp lý, giảm xung đột xã
hội, tập trung vào phát triển các giá trị hiến pháp.
Bên cạnh những chức năng, thẩm quyền nêu trên, Hội đồng Hiến pháp
còn có một chức năng mang lại nhiều ảnh hưởng chính trị, đó là chuẩn bị thông
điệp hàng năm về tình trạng hợp hiến của quốc gia. Trong văn bản này, Hội
đồng sẽ phân tích tình hình lập pháp hiện tại và thực tiễn áp dụng pháp luật của
quốc gia dưới góc nhìn hiến pháp, tập trung chỉ ra những tồn đọng, thiếu sót
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.
Theo Hiến pháp, thông điệp này được phát đi tại phiên họp liên viện, bởi
vậy đầu tiên thông điệp hướng tới tính hợp hiến trong hoạt động lập pháp của
Nghị viện. Thông điệp cũng đồng thời hướng tới hoạt động của Tổng thống. Vì
không coi hoạt động của Hội đồng Hiến pháp là hoạt động mang tính chất tư
pháp1 nên thông điệp của Hội đồng Hiến pháp mang tính định hướng tương lai
cho hoạt động của nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp.
Bên cạnh thông điệp nêu trên, theo Luật về Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa
Cadắcxtan, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, theo yêu cầu của Tổng thống, sẽ trình
bày thông tin về thực trạng tính hợp hiến của quốc gia.
3.5. Thực tiễn hoạt động
3.5.1. Tổng quan
Về tổng quan, theo phát biểu của Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa
Cadắcxtan2, Hội đồng đã có vai trò to lớn trong quá trình phát triển của
Cadắcxtan, thông qua việc loại bỏ những mâu thuẫn phát sinh không thể tránh
khỏi trong các sản phẩm lập pháp, áp dụng các điều ước quốc tế và làm rõ ràng
những nội dung lập pháp, góp phần vào sự chuyển mình của hệ thống pháp luật
Cadắcxtan từ một hệ thống pháp luật đơn giản thời xã hội chủ nghĩa phát triển
thành một hệ thống pháp luật năng động hiện đại và hiệu quả. Trong quá trình
chuyển đổi hệ thống pháp luật này, thông qua việc hiện thực hóa việc giám sát
1Nhưng cũng không nói rõ là hành pháp hay lập pháp.
2The speech of the Chairman of the Constitutional Council of the Republic Cadắcxtan Igor Rogov on 2nd Congress
of the World Conference on Constitutional Justice “Separation of Powers and Independence of Constitutional Courts and
Equivalent Bodies”, Rio de Janeiro, 16-18 January 2011
49
hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp đã trở thành người “gìn giữ” các giá trị hiến
pháp, làm nền tảng cho sự phát triển lợi ích quốc gia.
Mặc dầu xây dựng dựa trên hình mẫu của Hội đồng Hiến pháp Pháp,
nhưng, Hội đồng Hiến pháp Cadắcxtan đã có hai cải tiến căn bản, làm cho cơ
quan này trở nên thực quyền hơn:
Hội đồng Hiến pháp nguyên mẫu của Pháp vào năm 1958 chỉ có
chức năng phòng hiến, khuyến nghị mà không có chức năng kiểm
hiến sau, trong khi đó Hội đồng Hiến pháp Cadắcxtan, ngoài chức
năng phòng hiến đối với dự luật của Nghị viện, thì có chức năng tài
phán hiến pháp đối với các văn bản quy phạm đã có hiệu lực.1
Hội đồng Hiến pháp nguyên mẫu của Pháp vào năm 1958 không có
chức năng tài phán hiến pháp cụ thể (phải đến cải cách năm 2008
mới có chức năng này), thì ngay từ khi thành lập (năm 1995), Hội
đồng Hiến pháp Cadắcxtan đã có quyền tài phán hiến pháp cụ thể
theo sự đệ trình của các tòa án theo Điều 78 Hiến pháp. Theo đó,
nếu bất kỳ một tòa án nào khi áp dụng một luật hay văn bản quy
phạm pháp luật nào đó thấy rằng văn bản đó xâm phạm quyền và tự
do của cá nhân, công dân thì tòa án sẽ tạm dừng thủ tục tố tụng và
đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp yêu cầu tuyên bố văn bản đó vi
hiến.
3.5.2. Số lượng, nhóm vụ việc đã giải quyết
Chính nhờ hai thay đổi nêu trên nên số lượng vụ việc hiến pháp được
mang ra trước Hội đồng Hiến pháp nhiều lên. Trong 18 năm tồn tại đầu tiên, số
lượng vụ việc mà Hội đồng Hiến pháp Cadắcxtan giải quyết nhiều hơn hẳn so
với số lượng án giải quyết trong 18 năm đầu tại Hội đồng Hiến pháp của Pháp.
Cụ thể, từ 1995 đến 2013, Hội đồng Hiến pháp Cadắcxtan đã giải quyết2:
- 4 khiếu kiện yêu cầu xem xét tính hợp hiến của dự luật trước khi Tổng
thống ký công bố;
- 14 lần giải thích hiến pháp;
- 01 lần xem xét vụ án Hiến pháp theo đệ trình của tòa án (tài phán hiến
pháp cụ thể);
1 Giống thẩm quyền của tòa án hành chính một số quốc gia.
2 http://www.constcouncil.kz/eng/resheniya/
50
- 01 lần chuyển thông điệp về tình trạng tuân thủ hiến pháp của quốc gia
trước phiên họp liên viện.
3.5.3. Khả năng độc lập chính trị
Trong mối quan hệ với người có quyền lực nhất Cadắcxtan – người cầm
quyền suốt gần 30 năm qua – Tổng thống Nursultan Nazarbayev, Hội đồng Hiến
pháp cũng thể hiện thái độ độc lập.
Đã có ba lần Tổng thống Nursultan Nazarbayev phản đối nghị quyết của
Hội đồng Hiến pháp, nhưng chỉ có một lần duy nhất Hội đồng không hội đủ sự
nhất trí từ hai phần ba tổng số phiếu để vượt qua sự phủ quyết tương đối của
Tổng thống. Gần đây nhất, vào ngày 31 tháng giêng năm 20111, Hội đồng Hiến
pháp đã tuyên bố tính bất hợp hiến của Nghị quyết của Quốc hội về việc hủy bỏ
bầu cử ở Cadắcxtan trong 10 năm để trao quyền làm Tổng thống suốt đời cho
Nursultan Nazarbayev2.
1 http://www.constcouncil.kz/eng/resheniya/?cid=10&rid=581
2http://www.rferl.org/content/kazakh_constitutional_council_rejects_referendum_to_extend_nazarbaev_rule/22923
61.html
51
IV. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP ANGIÊRI
4.1. Quá trình hình thành và phát triển
Angiêri có lịch sử bảo hiến gắn liền với lịch sử Hiến pháp: một quá trình
không liên tục, bắt đầu đánh dấu bởi sự tồn tại ngắn ngủi, sau đó là một khoảng
thời gian dài thiếu vắng, rồi bất ngờ xuất hiện trở lại. Có thể chia lịch sử phát
triển bảo hiến của Angiêri thành 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Bản Hiến pháp đầu tiên của Angiêri được ban hành năm
1963 sau khi quốc gia này tuyên bố độc lập đã quy định thành lập Hội đồng
Hiến pháp tại Điều 63 và Điều 64, theo đó Hội đồng Hiến pháp có quyền “phán
quyết về tính hợp hiến của các đạo luật và sắc lệnh”. Tuy nhiên, Hội đồng Hiến
pháp đã không thể thực hiện được nhiệm vụ bảo hiến do những diễn biến chính
trị diễn ra ngay sau đó chỉ một tháng, khiến cho Hiến pháp không được tôn trọng
sau khi được công bố.
Giai đoạn 2: Hiến pháp tháng 10/1976 không quy định về bảo hiến, mặc
dù Điều 186 nêu rằng “sự kiểm soát chính trị trao cho các cơ quan lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước phải được thực thi phù hợp với Hiến chương quốc gia và với
các quy định của Hiến pháp”.
Giai đoạn 3: Ý tưởng về thành lập thiết chế bảo hiến là chủ đề nổi bật
trong các thảo luận chính trị. Vào tháng 12/1983, cuộc họp lần thứ 5 của Đảng
Mặt trận Tự do quốc gia (FLN) đã kêu gọi thành lập một cơ quan tối cao đặt
dưới quyền Tổng thống, với vai trò kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật nhằm
bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và để nâng cao tính chính đáng của các đạo
luật cũng như thúc đẩy nền dân chủ ở quốc gia.
Hội đồng Hiến pháp đã được tái lập trong lần sửa đổi cơ bản Hiến pháp
ngày 23/2/1989, cùng với việc thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, các quyền và
tự do và nguyên tắc phân quyền. Theo quy định của Hiến pháp mới, một Hội
đồng Hiến pháp được thành lập với những quyền hạn quan trọng hơn so với
Hiến pháp năm 1963, bao gồm quyền kiểm tra sự tuân thủ các công ước quốc tế,
các đạo luật và quy tắc; kiểm tra tính hợp pháp của các cuộc bầu cử quốc gia và
các quyền tư vấn trong một số trường hợp đặc biệt. Việc tái lập Hội đồng Hiến
pháp là một bước quan trọng trong lịch sử bảo hiến và quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Angiêri.
52
Sửa đổi Hiến pháp ngày 28/11/1996 tiếp tục có những cải cách quan trọng
liên quan đến Hội đồng Hiến pháp, cụ thể như mở rộng thẩm quyền của Hội
đồng đến việc kiểm hiến bắt buộc các luật tổ chức trước khi công bố. Những cải
cách Hiến pháp tích cực đó biểu hiện sự phát triển bước đầu của chế độ bảo hiến
ở Angiêri.
4.2. Khuôn khổ pháp lý
Hội đồng Hiến pháp Angiêri hiện nay được thành lập theo quy định của
Hiến pháp 1989, trong đó đoạn 1 Điều 153 tuyên bố: “Một Hội đồng Hiến pháp
được thành lập, được giao phó kiểm tra sự tôn trọng Hiến pháp”. Hiến pháp
không có một chương riêng về Hội đồng Hiến pháp mà quy định thiết chế này
trong Phần 3 Chương 1 (Kiểm soát) cùng với các thiết chế có vai trò kiểm soát
quyền lực khác là Nghị viện và Kiểm toán Nhà nước. Chương này gồm 7 điều,
từ Điều 163 đến Điều 169.
Trên cơ sở các nguyên tắc hiến định, các luật tổ chức có liên quan được
ban hành, cụ thể như Luật tổ chức chế độ bầu cử. Tuy nhiên, Angiêri không có
một đạo luật chuyên biệt về Hội đồng Hiến pháp. Thay vào đó, Tổng thống ban
hành một số sắc lệnh quy định về tổ chức của cơ quan này, còn bản thân Hội
đồng Hiến pháp thì ban hành nhiều quy tắc hoạt động của cơ quan mình.
4.3. Cơ cấu tổ chức và quy trình, thủ tục hoạt động
4.3.1. Cơ cấu tổ chức
- Thành viên
Theo quy định tại Điều 164 của Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp gồm 9
thành viên, trong đó 3 thành viên được Tổng thống bổ nhiệm, 2 thành viên được
Quốc hội (Hạ viện) bầu, 2 thành viên được Hội đồng Quốc gia (Thượng viện)
bầu, một thành viên được Tòa án tối cao bầu và một thành viên do Hội đồng
Nhà nước (Tòa hành chính tối cao) bầu. Một trong số ba thành viên do Tổng
thống bổ nhiệm là Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp.
Sự phân bổ các thành viên Hội đồng Hiến pháp cho các cơ quan khác
nhau cho phép bảo đảm tính độc lập của Hội đồng với các nhánh quyền lực nhà
nước khác. Xét tương quan, việc nhánh lập pháp có quyền bổ nhiệm số lượng
lớn hơn (4 thành viên) so với nhánh hành pháp (3 thành viên) và nhánh tư pháp
(2 thành viên) có thể dẫn đến sự phụ thuộc của Hội đồng Hiến pháp vào cơ quan
lập pháp và các đảng phái chính trị, đặc biệt trong trường hợp Tổng thống thuộc
đảng đa số trong Nghị viện.
53
Hiến pháp Angiêri không quy định bất kỳ tiêu chuẩn nào về tuổi tác, bằng
cấp, hay kinh nghiệm đối với các ứng cử viên Hội đồng Hiến pháp, ngoại trừ
thành viên đại diện ngành tư pháp bắt buộc phải là thẩm phán của Tòa án tối cao
hoặc Tòa hành chính tối cao. Quy định này phản ánh quan điểm cho rằng Hội
đồng Hiến pháp có nhiều đặc điểm của một cơ quan chính trị hơn một cơ quan
tài phán tư pháp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đa phần các thành viên Hội đồng
Hiến pháp là đại diện của các ngành lập pháp, hành pháp và là các giáo sư luật,
những người làm thực tiễn pháp luật hoặc có bằng cấp pháp luật.
- Nhiệm kỳ
Cũng theo quy định tại Điều 164 Hiến pháp, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp
do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Hội đồng với nhiệm kỳ duy nhất sáu
năm. Các thành viên khác của Hội đồng Hiến pháp cũng được bầu hoặc bổ
nhiệm với nhiệm kỳ duy nhất 6 năm, trong đó một nửa được bầu lại 3 năm một
lần. Sự nối tiếp các thành viên như vậy cho phép nâng cao hiệu quả hoạt động
và sự độc lập của Hội đồng Hiến pháp.
Nhiệm kỳ của các thành viên Hội đồng Hiến pháp cũng có thể kết thúc
nếu họ bị chết, từ chức hoặc gặp phải một trở ngại kéo dài dẫn đến không thực
hiện được nhiệm vụ. Trong bất kỳ trường hợp nào như vậy, Hội đồng sẽ quyết
định việc kết thúc nhiệm kỳ của thành viên liên quan, sau khi thông báo cho các
cơ quan hiến định liên quan (tùy thuộc vào thành viên do bổ nhiệm hoặc bầu).
- Nghĩa vụ
Những nghĩa vụ của các thành viên Hội đồng Hiến pháp được quy định
trong Các nguyên tắc về quy trình hoạt động của Hội đồng Hiến pháp, ban hành
vào ngày 7/8/1989, theo đó Điều 46 ấn định rằng “các thành viên Hội đồng
Hiến pháp giữ một thái độ trung lập và sẽ không chấp nhận bất kỳ một vị trí
công quyền nào”.
Để bảo đảm tính trung lập và độc lập của Hội đồng Hiến pháp, các nhà
lập hiến đã đặt ra quy tắc chặt chẽ về sự không kiêm nhiệm. Theo quy định tại
đoạn 2 Điều 164 Hiến pháp, “khi được bầu hoặc bổ nhiệm, các thành viên Hội
đồng Hiến pháp phải từ bỏ bất kỳ công việc, chức năng, trách nhiệm hoặc nhiệm
vụ nào khác”. Điều đó có nghĩa là các thành viên Hội đồng Hiến pháp không
được kiêm nhiệm hoạt động Nghị viện, Chính phủ hay bất kỳ các hoạt động
công hoặc tư nào khác. Các thành viên Hội đồng Hiến pháp cũng không được
tham gia các đảng phái, tuy nhiên, họ có thể tham gia các hoạt động văn hóa
54
hoặc khoa học nếu như các hoạt động này không ảnh hưởng đến sự độc lập hoặc
trung lập của họ.
Hội đồng Hiến pháp hoàn toàn độc lập trong việc thực thi các hình thức
kỷ luật với các thành viên của mình. Điều này nhằm bảo đảm tính độc lập của
Hội đồng Hiến pháp trong các phán quyết. Bất cứ các vi phạm nghĩa vụ của một
thành viên đều dẫn đến các hình thức kỷ luật do Hội đồng quyết định.
- Quản lý hành chính
Hội đồng Hiến pháp có tính tự chủ tương đối trong việc ban hành quy chế
nội bộ nhằm bảo đảm tính độc lập của cơ quan này.
Hội đồng Hiến pháp cũng có quyền tự chủ trong quản lý bộ máy hành
chính, bao gồm một Văn phòng Hội đồng, đứng đầu bởi một Tổng thư ký, do
các giám đốc nghiên cứu và một bộ phận hành chính trợ giúp. Văn phòng Hội
đồng có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp cần thiết chuẩn bị và tổ chức các hoạt
động của Hội đồng. Văn phòng Hội đồng có hai phòng: phòng tài liệu và phòng
nhân sự và kỹ thuật. Các vị trí quan trọng của Văn phòng do Chủ tịch Hội đồng
quyết định.
Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp cũng có quyền tự chủ về tài chính. Ngân
sách của Hội đồng nhập vào ngân sách chung của Nhà nước, không phải đưa ra
thảo luận trước Quốc hội, nhưng việc thực thi ngân sách phải đặt dưới sự kiểm
tra của các cơ quan Nhà nước khác (Cơ quan kiểm toán, Tổng Thanh tra Tài
chính) và những khoản chi tiêu cụ thể phải chịu sự giám sát của Kiểm tra viên
tài chính thuộc Bộ tài chính.
4.3.2. Quy trình, thủ tục
Theo quy định tại khoản 2 Điều 167 Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp quy
định các quy tắc cho hoạt động của Hội đồng, bao gồm việc kiểm tra tính hợp
hiến của các đạo luật và kiểm tra tính hợp pháp của các cuộc bầu cử quốc gia.
Trong cả hai trường hợp, các phán quyết của Hội đồng đều được thực
hiện dưới hình thức văn bản và theo thủ tục kín. Để ra một phán quyết, ít nhất
phải có sự tham gia của năm thành viên Hội đồng. Phán quyết được thông qua
với đa số thành viên có mặt. Trong trường hợp ngang phiếu, Chủ tịch hoặc chủ
tọa phiên họp sẽ quyết định.
- Về quyền kiểm tra tính hợp hiến
Theo Điều 166 Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp sẽ xem xét các vụ việc
theo “đề nghị của Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện hoặc Chủ tịch Thượng viện”.
55
Điều này có nghĩa là Hội đồng chỉ có thể kiểm tra tính hợp hiến của một văn bản
pháp luật khi có đề nghị của một trong ba chủ thể kể trên. Nói cách khác, Hội
đồng không thể tự mình khởi động một vụ việc kiểm hiến. Quyền đề nghị Hội
đồng Hiến pháp thực hiện kiểm hiến chỉ là đặc quyền của ba thiết chế quyền lực
đã nêu.
Các luật tổ chức và các quy tắc thủ tục của cả Thượng viện và Hạ viện
đều phải đượcđệ trình lên Hội đồng Hiến pháp để kiểm tra tính hợp hiến trước
khi ban hành. Đối với các luật tổ chức, Tổng thống phải đệ trình Hội đồng Hiến
pháp xem xét tính hợp hiến của dự thảo luật sau khi được Nghị viện thông qua.
Các luật chỉ có giá trị thực thi khi Hội đồngđã cho ý kiến về tính hợp hiến của
chúng.
Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp cũng phán quyết về tính hợp hiến của các
đạo luật thường, các điều ước quốc tế và các quy tắc lập quy nếu được đệ trình.
Hội đồng Hiến pháp có thể kiểm hiến trước và sau khi văn bản pháp luật có hiệu
lực.
Trong việc kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản pháp luật đã có hiệu
lực, Điều 169 Hiến pháp quy định: “Khi Hội đồng Hiến pháp cho rằng một quy
định lập pháp hoặc lập quy trái với Hiến pháp, các quy định này sẽ mất hiệu lực
kể từ ngày ban hành quyết định của Hội đồng”. Các ý kiến và quyết định của
Hội đồng Hiến pháp có giá trị bắt buộc ngay đối với tất cả các cơ quan công
quyền.
Các chủ thể có thẩm quyền phải đề nghị Hội đồng Hiến pháp thực hiện
một vụ kiểm hiến bằng hình thức văn bản. Văn phòng Hội đồng sẽ tiếp nhận
đơn. Sau khi nhận đơn, Hội đồng Hiến pháp sẽ tiến hành giai đoạn điều tra, bắt
đầu bằng việc Chủ tịch Hội đồng bổ nhiệm một trong số thành viên phụ trách vụ
việc. Người được giao phụ trách vụ việc phải nghiên cứu hồ sơ, đề xuất ý kiến
hoặc quyết định và đệ trình một bản sao hồ sơ cùng với một bản báo cáo cho các
thành viên Hội đồng. Người được giao vụ việc có thể thu thập thông tin và các
tài liệu liên quan đến hồ sơ và nhờ tư vấn của các chuyên gia nếu cần thiết.
Tiếp theo giai đoạn điều tra, Chủ tịch Hội đồng sẽ ấn định ngày tiến hành
phiên họp toàn thể và triệu tập các thành viên. Hội đồng sẽ họp kín và thông qua
quyết định bằng biểu quyết theo đa số.
Các ý kiến và quyết định của Hội đồng Hiến pháp được viết bằng ngôn
ngữ quốc gia trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày Hội đồng thông qua ý kiến hoặc
quyết định. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng hoặc Chủ tọa phiên họp ký và Tổng
56
Thư ký lưu hồ sơ, các ý kiến và quyết định của Hội đồng được thông báo đến
Tổng thống và chủ thể đã đệ trình vụ việc lên Hội đồng. Các ý kiến và quyết
định cuối cùng được gửi cho Văn phòng Chính phủ để đăng công báo.
- Kiểm tra tính hợp pháp của cáccuộc trưng cầu ý dân và bầu cử quốc
gia
Trong cuộc trưng cầu ý dân, Hội đồng Hiến pháp xem xét đơn kháng cáo
và tuyên bố kết quả cuối cùng. Bất kỳ cử tri nào cũng có quyền đề nghị xem xét
tính hợp phápcủa các hoạt động bỏ phiếu. Các biên bản bỏ phiếu được niêm
phong và gửi cho Hội đồng xem xét và công bố kết quả cuối cùng chậm nhất 10
ngày sau khi nhận được biên bản.
Đối với bầu cử Tổng thống, Hội đồng Hiến pháp tham gia ở ba mức độ:
- Thông qua danh sách các ứng cử viên Tổng thống;
- Phán quyết về khiếu nại của các ứng cử viên hoặc những người đại diện
cho họ và tuyên bố kết quả của bầu cử;
- Kiểm tra tài khoản tranh cử của các ửng cử viên.
Hội đồng Hiến pháp cũng kiểm tra các cuộc bầu cử Hạ viện và Thượng
viện.
4.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp được quy định trong
Hiến pháp và được cụ thể hóa bởi Quy chế thủ tục hoạt động của Hội đồng và
một số văn bản pháp luật khác.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng được chia thành các nhóm cơ bản sau:
4.4.1. Các nhiệm vụ, quyền hạn trong điều kiện bình thường
- Kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản pháp luật
Theo quy định tại Điều 165 Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp phán quyết
về tính hợp hiến của các công ước quốc tế, các đạo luật và các quy tắc lập quy,
các luật tổ chức và các quy tắc về thủ tục của Thượng viện và Hạ viện.
Sự kiểm hiến đối với các văn bản pháp luật có thể là lựa chọn hoặc bắt
buộc: Hội đồng Hiến pháp chỉ xem xét kiểm hiến các văn bản pháp luật khi có
đề nghị của Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện hoặc Chủ tịch Hạ viện. Các luật
tổ chức và các quy tắc thủ tục bắt buộc phải đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp để
57
kiểm tra tính hợp hiến trước khi công bố và thực hiện. Hội đồng có thể kiểm
hiến trước và sau khi các văn bản pháp luật có hiệu lực.
- Kiểm tra các cuộc trưng cầu ý dân và bầu cử quốc gia
Theo quy định của đoạn 2 Điều 163 Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp“…
kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt động trưng cầu ý dân, các cuộc bầu cử Tổng
thống và bầu cử quốc gia và tuyên bố kết quả của các hoạt động này”. Những
đặc quyền này được quy định chi tiết trong Luật tổ chức bầu cử.
Kiểm tra tính hợp pháp của các cuộc bầu cử bao gồm từ việc kiểm tra các
kháng cáo được quy định trong luật bầu cử cho tới kiểm tra tài chính tranh cử.
4.4.2. Các nhiệm vụ, quyền hạn trong điều kiện đặc biệt
Các nhà lập hiến trao cho Hội đồng Hiến pháp và Chủ tịch Hội đồng
quyền tư vấn trong một số trường hợp đặc biệt.
Theo quy định tại các Điều 93 và Điều 97 của Hiến pháp, Tổng thống sẽ
tham vấn ý kiến của Hội đồng Hiến pháp trước khi công bố tình trạng khẩn cấp
hoặc trước khi ký kết thỏa thuận đình chiến và hiệp ước hòa bình. Hội đồng
Hiến pháp cũng cho ý kiến trong trường hợp sửa đổi Hiến pháp theo quy định tại
Điều 176 của Hiến pháp và trong giai đoạn khuyết Tổng thống vì lý do chết
hoặc từ chức theo quy định tại Điều 91.
Hội đồng Hiến pháp can thiệp vào quy trình bầu cử Tổng thống, theo đó
Hội đồng kéo dài thời hạn bầu cử Tổng thống lên tới 60 ngày khi một trong hai
ứng cử viên chết, rút lui hoặc bị cản trở trong vòng bầu cử thứ 2 vì bất kỳ một lý
do nào theo quy định tại Điều 89. Hội đồng cũng có thể kéo dài nhiệm kỳ của
Nghị viện trong trường hợp đặc biệt theo đề nghị của Tổng thống.
Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp có vai trò “giám sát” trong ba trường hợp
đặc biệt sau đây:
- Trong trường hợp Tổng thống gặp trở ngại vì lý do sức khỏe nghiêm
trọng và kéo dài: Trong tình huống này, Hội đồng Hiến pháp họp để xem xét
vấn đề và đề nghị Nghị viện tuyên bố tình trạng của Tổng thống;
- Hội đồng Hiến pháp họp để xem xét sự khuyết Tổng thống trong trường
hợp Tổng thống từ chức hoặc chết;
- Trong trường hợp Tổng thống từ chức hoặc chết cùng với việc khuyết
Chủ tịch Thượng viện vì bất kỳ lý do nào, Hội đồng Hiến pháp họp để xem xét
sự khuyết của Tổng thống và Chủ tịch Thượng viện.
58
Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp cũng có một số thẩm quyền đặc biệt như
được Tổng thống tham vấn về tình trạng khẩn cấp; thực hiện các chức năng của
người đứng đầu Nhà nước trong tình trạng đồng thời khuyết Tổng thống và Chủ
tịch Thượng viện.
4.5. Thực tiễn hoạt động
Trong những năm đầu, Hội đồng Hiến pháp chỉ ban hành một số lượng
hạn chế các quyết định và ý kiến trong lĩnh vực kiểm tra tính hợp hiến của các
văn bản pháp luật (tổng cộng 14 ý kiến và 5 quyết định trong khoảng thời gian
10 năm kể từ khi thành lập, từ 1989 đến 1999). Mặc dù có sự tích cực hơn từ cải
cách Hiến pháp năm 1996, Hội đồng Hiến pháp vẫn không phát huy đáng kể vai
trò kiểm hiến trong lĩnh vực này1.
Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát từ quy định của Hiến pháp
trong việc hạn chế các chủ thể có quyền đề nghị Hội đồng Hiến pháp. Ngoài các
chủ thể ít ỏi bao gồm Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện,
không một cơ quan công quyền nào khác hoặc công dân được quyền đề nghị Hội
đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của các đạo luật cũng như một số văn bản
pháp luật khác. Hội đồng Hiến pháp chưa bao giờ được đề nghị xem xét các đạo
luật phê chuẩn các điều ước quốc tế và các quy phạm lập quy.
Trong việc kiểm soát các cuộc bầu cử, Hội đồng Hiến pháp chủ yếu ban
hành các quyết định kiểm tra tài chính tranh cử của các ứng cử viên trong bầu cử
Tổng thống. So với lĩnh vực kiểm hiến các đạo luật, Hội đồng Hiến pháp thể
hiện vai trò tích cực hơn trong việc giải quyết các tranh chấp bầu cử.
Mặc dù vẫn còn đóng vai trò hạn chế, Hội đồng Hiến pháp Angiêri ngày
càng nỗ lực trong việc khẳng định vị thế của cơ quan bảo vệ Hiến pháp. Cùng
những cải cách Hiến pháp, các hoạt động của Hội đồng Hiến pháp có thể mở ra
những triển vọng mới trong thời gian tới.
1Theo số liệu của Hội đồng Hiến pháp Angiêri.
59
V. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP MÔRITANI
5.1. Quá trình hình thành và phát triển
Môritani là một nước cộng hòa Hồi giáo ở Tây Phi, trước đây là một
thuộc địa của Pháp. Pháp chiếm đóng lãnh thổ của Môritani từ cuối thế kỷ 19.
Nước này giành được độc lập từ Pháp vào ngày 28 tháng 11 năm 1960.1
Trên phương diện Hiến pháp, theo một nghiên cứu của hai học giả Sherif
Ayoub và Anton P. Jongeneel ở Trường Luật Columbia (Hoa Kỳ),2 diễn tiến
Hiến pháp của Môritani trải qua bốn giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu với việc ban hành bản Hiến pháp năm 1961
sau khi Môritani độc lập khỏi Pháp. Bản Hiến pháp này dựa theo Hiến pháp của
Pháp, là luật tối cao điều chỉnh các thể chế và các quy trình chính trị ở Môritani.
Tuy nhiên, bản chất không chính đáng của bản Hiến pháp này cùng với việc nó
không có hiệu quả trong việc thúc đẩy và bảo vệ các chuẩn mực của chủ nghĩa
1Thông tin chung về Môritani, xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Môritani.
2Sherif Ayoub & Anton P. Jongeneel, Failures and Prospects: Four Eras of Constitutionalism in Môritani, Public
Law & Legal Theory Research Paper Series (New York: Columbia Law School, 2006).
60
hợp hiến tự do đã làm cho giai đoạn thứ nhất sớm kết thúc chỉ sau một vài năm
bản Hiến pháp này được ban hành.
Trong gian đoạn thứ hai, Hiến pháp 1961 bị bỏ qua năm 1965, cùng với
việc thể chế hóa chế độ một đảng, và sau đó bị chính thức xóa bỏ bởi một ủy ban
quân sự thiết lập quyền lực bằng một cuộc đảo chính năm năm 1978. Sau đó,
Môritani rơi vào 13 năm mất ổn định dưới sự cai trị của chính quyền quân sự
với những bế tắc chính trị, đảo chính, và xung đột vũ trang.
Do những áp lực bên trong và bên ngoài, Môritani đã ban hành Hiến pháp
mới- Hiến pháp hiện hành –vào ngày 12 tháng 7 năm 1991, mở ra thời kỳ thứ ba
trong quá trình phát triển Hiến pháp ở quốc gia này. Về những áp lực bên trong,
người Môritani càng ngày càng mong muốn kết thúc chế độ chính quyền quân
sự và tiến hành nền dân chủ thực sự. Về những áp lực bên ngoài, sự kết thúc của
Chiến tranh lạnh và làn sóng dân chủ diễn ra toàn cầu làm cho giới cầm quyền
Môritani phải tiến hành các quá trình dân chủ hóa. Tuy nhiên, những sai lầm của
Hiến pháp 1961 lại được lặp lại trong Hiến pháp 1991. Về phương diện tính
chính đáng, giống như Hiến pháp 1961, Hiến pháp 1991 của Môritani gần như
sao chép nguyên văn Hiến pháp của Pháp. Hơn nữa, quy trình lập hiến khá giới
hạn: tham gia vào quá trình soạn thảo Hiến pháp chỉ gồm có các nhà lãnh đạo
chóp bu và một số rất ít các học giả luật Hiến pháp. Hệ quả là người dân
Môritani bị buộc phải tôn vinh một bản Hiến pháp theo phong cách phương Tây
mà bản thân họ không được tham gia vào quá trình soạn thảo ra nó.
Hiệu lực của Hiến pháp 1991 không được bảo đảm do sự thất bại của ba
trụ cột của chính quyền hợp hiến tự do và dân chủ ở Môritani: ngành lập pháp,
ngành hành pháp, và ngành tư pháp. Điều này đến lượt nó lại làm phá vỡ môi
trường an ninh chính trị ở Môritani. Sự không chính đáng và không có hiệu lực
của các quy tắc Hiến pháp dẫn đến những sự kiện chính trị quan trọng của
Môritani từ năm 1991 đến cuộc đảo chính tháng 8 năm 2005.
Ngày 3 tháng 8 năm 2005, một nhóm quân sự do đại tá Ely Ould
Mohamed Vall đứng đầu tuyên bố đã lật đổ Tổng thống Maaouiya Ould Sidi
Ahmed Taya trong một cuộc đảo chính không đổ máu. Nhóm này sau đó tổ chức
một Hội đồng được gọi là Hội đồng Quân sự vì Công lý và Dân chủ để quản lý
các công việc của nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi không quá hai năm, và
sau đó sẽ tổ chức một chế độ dân chủ hợp hiến thực sự ở Môritani. Cuộc đảo
chính tháng 8 năm 2005 mở ra giai đoạn thứ tư trong diễn tiến Hiến pháp ở
Môritani- một giai đoạn được đánh dấu bởi sự chính đáng và hiệu lực của bản
Hiến pháp- một điều kiện cho sự theo đuổi dân chủ thực sự của người Môritani.
61
Hội đồng Quân sự vì Công lý và Dân chủ đã có những bước đi tích cực trong
việc thúc đẩy dân chủ ở Môritani. Các cuộc bầu cử Tổng thống và cơ quan lập
pháp được tổ chức giữa năm 2007 dựa trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng.
Các thể chế ủng hộ quá trình dân chủ cũng được củng cố.1
Hội đồng Hiến pháp của Môritani được hình thành trong một bối cảnh
như trên. Hội đồng được quy định trong bản Hiến pháp năm 1991- Hiến pháp
hiện hành của Môritani, được sửa đổi một lần sau cuộc trưng cầu ý dân ngày 25
tháng 6 năm 2006.2
5.2. Khuôn khổ pháp lý
Hiến pháp 1991 của Môritani có một chương riêng (Chương 6) gồm 8
điều quy định về Hội đồng Hiến pháp. Những nguyên tắc sau đây được khẳng
định trong Hiến pháp này là nền tảng cho sự tồn tại của Hội đồng Hiến pháp:
Chủ quyền nhân dân: “Nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực. Chủ
quyền quốc gia thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện chủ quyền
thông qua cơ quan đại diện được bầu cử và thông qua trưng cầu ý
dân. Không một bộ phận nào của nhân dân và không cá nhân nào
có thể tự tuyên bố thực thi chủ quyền.” (Điều 2)
Pháp quyền: Pháp luật là biểu hiện tối cao của ý chí nhân dân. Tất
cả mọi người phải tuân thủ pháp luật (Điều 4).
Nhân quyền: Nhà nước sẽ bảo đảm cho tất cả công dân các quyền
tự do cá nhân và tự do công cộng. (Điều 10).
Phân quyền: Hiến pháp xác lập một chế độ chính quyền với cấu
trúc ba bộ phận truyền thống gồm: cơ quan hành pháp (chương 2),
cơ quan lập pháp (chương 3), và cơ quan tư pháp (chương 7).
5.3. Cơ cấu tổ chức
Xét về mặt cấu trúc, Hội đồng Hiến pháp là một cơ quan độc lập trong hệ
thống nhà nước Môritani. Nó không nằm trong một trong ba nhánh truyền thống
của chính quyền và được Hiến pháp xác định trong một chương riêng.
Về thành phần, Hội đồng Hiến pháp gồm có 6 thành viên với nhiệm kỳ 9
năm và không được bổ nhiệm lại. 1/3 thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ
1Sherif Ayoub & Anton P. Jongeneel, 3-4.
2http://en.wikipedia.org/wiki/Constitution_of_Môritani.
62
được chọn 3 năm một lần. 3 thành viên sẽ do Tổng thống Cộng hòa bổ nhiệm,
hai thành viên do Chủ tịch Quốc hội (Hạ viện) bổ nhiệm, và một thành viên do
Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm. Họ không được là lãnh đạo của bất cứ đảng
phái nào. Họ có quyền miễn trừ Nghị viện. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do
Tổng thống Cộng hòa bổ nhiệm trong số các thành viên do Tổng thống chọn lựa.
Trong trường hợp ngang phiếu, phiếu của Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp có tính
quyết định (Điều 81).
Hiến pháp cũng quy định thành viên của Hội đồng Hiến pháp không được
đồng thời là thành viên của Chính phủ hay Nghị viện. Mọi sự bất khả kiêm
nhiệm khác do một đạo luật tổ chức quy định (Điều 82).
Nhận xét về cấu trúc của Hội đồng Hiến pháp, hai học giả Sherif Ayoub
và Anton P. Jongeneel cho rằng Hội đồng Hiến pháp đã được xây dựng theo một
cách thức khiến cho nó không thể kiểm soát các nhánh quyền lực còn lại. Hội
đồng Hiến pháp được coi là một thể chế bảo hiến không có năng lực, do nó được
thiết kế phụ thuộc vào Tổng thống và đảng của ông ta. Điều này tiêu biểu ở việc
một nửa thành viên của Hội đồng Hiến pháp (3 người) do Tổng thống bổ nhiệm
và trong số đó một người sẽ làm Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp- người có lá
phiếu quyết định trong các phán quyết của Hội đồng Hiến pháp. So với Hội
đồng Hiến pháp của Pháp, nơi có 9 thành viên và chỉ có 3 người do Tổng thống
bổ nhiệm, sự sắp xếp thể chế nhân sự của Hội đồng Hiến pháp Môritani được
cho là kém hiệu quả. Hơn nữa, vì ở Môritani Tổng thống rất có ảnh hưởng đối
với Thượng viện nên hai thành viên Hội đồng Hiến pháp do Thượng viện lựa
chọn cũng không độc lập với Tổng thống giống như các thành viên do Tổng
thống bổ nhiệm. Do vậy, Sherif Ayoub và Anton P. Jongeneel kết luận rằng Hội
đồng Hiến pháp chỉ là một sự mở rộng của quyền hành pháp.1
5.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Hội đồng Hiến pháp có các loại thẩm quyền sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền liên quan đến tranh chấp bầu cử.
Hội đồng Hiến pháp có quyền đánh giá về tính hợp pháp của việc bầu cử
Tổng thống nước Cộng hòa. Nó có quyền xem xét lại và tuyên bố về kết quả bầu
cử (Điều 83). Hội đồng Hiến pháp cũng có quyền phán quyết về tính hợp pháp
1Sherif Ayoub & Anton P. Jongeneel, 20.
63
trong việc bầu cử đại biểu Hạ viện và Thượng việntrong trường hợp có tranh
chấp (Điều 84).
Thứ hai, thẩm quyền liên quan đến trưng cầu ý dân.
Hội đồng Hiến pháp có quyền đánh giá về tính hợp pháp của cuộc trưng
cầu ý dân và tuyên bố kết quả.
Thứ ba, thẩm quyền kiểm hiến trước.
Cụ thể thẩm quyền này được quy định trong Hiến pháp như sau:
(1) Các luật tổ chức trước khi được công bố, các quy chế của hai Viện
trước khi được đem thi hành phải được đệ trình lên Hội đồng Hiến
pháp để xác định xem chúng có phù hợp với Hiến pháp hay không.
(2) Với mục đích tương tự, các đạo luật thông thường trước khi được
công bố phải được đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp bởi Tổng thống
nước Cộng hòa, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Thượng viện, hoặc bởi
1/3 số thành viên của Quốc hội, hoặc bởi 1/3 số thành viên của
Thượng viện .
(3) Trong hai trường hợp nói trên, Hội đồng Hiến pháp sẽ ra phán
quyết trong vòng một tháng. Tuy nhiên, theo yêu cầu của Tổng
thống, nếu khẩn cấp, thời gian này có thể giảm xuống 8 ngày.
(4) Trong những trường hợp nói trên, việc đệ trình luật lên Hội đồng
Hiến pháp sẽ tạm hoãn việc ban hành chúng. (Điều 86).
Có thể nhận thấy rằng Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền bản chất của cơ
quan bảo hiến là kiểm tra tính hợp hiến của luật, và một số quyền phụ thuộc
khác như quyết định về tranh chấp bầu cử và trưng cầu ý dân. Nhưng so với các
định chế bảo hiến khác (ví dụ Hội đồng Hiến pháp của Pháp hiện nay), Hội đồng
Hiến pháp của Môritani có hai giới hạn. Thứ nhất là giới hạn về thẩm quyền
kiểm tra sau. Hội đồng này không có quyền xem xét tính hợp hiến của một đạo
luật đã được ban hành. Thứ hai là khả năng tiếp cận công lý Hiến pháp. Theo
Hiến pháp, chỉ có cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp được tiến cận với Hội
đồng Hiến pháp. Các tòa án và công dân không được quyền đặt vấn đề về tính
hợp hiến của luật trước Hội đồng Hiến pháp.
Hiệu lực của phán quyết
Một quy phạm được tuyên bố là bất hợp hiến sẽ không được ban hành
hoặc không được đem thi hành. Quyết định của Hội đồng Hiến pháp được bảo
64
vệ bởi nguyên tắc hậu quả định án (res judicata).1 Có nghĩa là phán quyết của
Hội đồng Hiến pháp không thể bị kháng cáo. Nó phải được tuân thủ bởi tất cả
các cơ quan công quyền và bởi tất cả các cơ quan hành chính, tư pháp. (Điều
87). Như vậy, có thể thấy phán quyết của Hội đồng Hiến pháp có tính chất ràng
buộc, không phải là tính chất tư vấn.
5.5. Thực tiễn hoạt động
Để tìm hiểu về thực tiễn hoạt động của Hội đồng Hiến pháp Môritani, có
thể xem hai vụ việc sau đây liên quan đến hai loại thẩm quyền: phán quyết về
tranh chấp bầu cử và kiểm hiến tính các đạo luật.
Vụ việc thứ nhất: Quyết định về kết quả bầu cử
Bầu cử Tổng thống được tổ chức ở Môritani vào ngày 18 tháng 7 năm
2009. Mohammed Ould Abdel Aziz, người đã lãnh đạo cuộc đảo chính, tuyên bố
thắng cử với đa số 52.58%. Ngay sau khi kết quả được công bố, Ahmed Ould
Daddah, lãnh đạo của lực lượng đối lập có tên là “Tập hợp Lực lượng Dân chủ”
(nhận được tỉ lệ phiếu bầu là 13.66%) đã phản đối kết quả bầu cử mà ông ta cho
rằng nó được sắp xếp sẵn.2
Vụ việc được đưa lên Hội đồng Hiến pháp và Hội đồng đã tuyên bố kết
quả bầu cử là hợp hiến, đồng nghĩa với việc xác nhận Mohammed Ould Abdel
Aziz chính thức là Tổng thống của Môritani. Chủ tịch Hội đồng Hiến
phápAbdellahi Ould Ely Salem cho rằng Hội đồng xác nhận tính hợp hiến của
kết quả bầu cử vì quan sát viên của các ứng cử viên đã ký vào biên bản kiểm
phiếu do đơn vị bỏ phiếu nộp lên. Ông ta cũng nói rằng các cố vấn pháp luật của
Hội đồng - Ủy ban bầu cử Độc lập và Bộ nội vụ - đã kết luận cuộc bầu cử là hợp
hiến. Quyết định của Hội đồng là không thể bị kháng cáo, mặc dù phe đối lập
mong muốn Hội đồng Hiến pháp phủ nhận kết quả bầu cử.3
Vụ việc thứ hai: quyết định về tính hợp hiến của luật.
Ngày 4/3/2010, Hội đồng Hiến pháp Môritani đưa ra phán quyết phản đối
10 điều trong đạo luật chống khủng bố do Nghị viện thông qua vào tháng 1 năm
1Nguyên tắc hậu quả định án (tiếng Latinh, Res judicata) có nghĩa là một phán quyết có hiệu lực chung cuộc và
không thể kháng cáo
2Elections in Môritanin: Repercussions and Consequences,
http://www.khilafah.com/index.php/analysis/africa/7300-elections-in-Môritani-repercussions-and-consequences
3Môritani's Constitutional Council Upholds Win for Aziz, http://www.voanews.com/content/a-13-2009-07-23-
voa62-68819752/413378.html.
65
đó. 10 điều luật này bị Hội đồng Hiến pháp yêu cầu hủy bỏ vì bất hợp hiến, do
chúng cho phép nghe trộm điện thoại, xem trộm thư, khám nhà, đột nhập tư gia
bất cứ lúc nào. Một số điều luật khác còn cho phép tống giam trẻ vị thành niên,
mở rộng thời hạn tạm giam đến 4 năm và ngăn cản yêu cầu được hầu tòa.
Trong một cuộc họp báo, Thủ tướng Moulaye Ould Mohamed Laghdaf
tuyên bố rằng Chính phủ tôn trọng quan điểm của Hội đồng Hiến pháp. Thủ
tướng nói: “Chúng tôi đã chuẩn bị một đạo luật tốt để đối phó với những thách
thức của chủ nghĩa khủng bố. Đạo luật đã được Quốc hội và Thượng viện thông
qua. Tuy nhiên Hội đồng Hiến pháp đã đưa ra quan điểm và chúng tôi tôn
trọng.” Dưới đây là một số nhận định về quyết định của Hội đồng Hiến pháp.
Beddahi Ould Sbahi, người đã đặt vấn đề xem xét tính hợp hiến của đạo
luật chống khủng bố trước Hội đồng Hiến pháp và được 22 trong số 95 đại biểu
ủng hộ, nói quyết định của Hội đồng là “dựa trên một cơ sở hợp pháp và phản
ánh nhu cầu chung của dân chúng.”
Saleh Ould Dehmach, một nhà tư vấn truyền thông, nói: “Đây không phải
là lần đầu tiên Hội đồng Hiến pháp đưa ra một quyết định gây nhiều tranh luận”.
Phê bình cách mà Sbahi ủng hộ quyết định của Hội đồng Hiến pháp, Ould
Dehmach cho rằng: “Đó là một quyết định được phóng đại, không được xem xét
một cách kỹ lưỡng. Đó là vì nó không xem xét bối cảnh và mục đích trong cách
nhìn của cơ quan lập pháp.”
Sidi Mohamed Ould Maham, một nhà lập pháp, cho rằng phái đa số trong
Nghị viên tôn trọng phán quyết của Hội đồng Hiến pháp vì phán quyết được đưa
ra bởi một cơ quan hiến định, nhưng ông ta nhận định bản thân phán quyết của
Hội đồng Hiến pháp chỉ hợp hiến về hình thức, còn về nội dung lại không phù
hợp với Hiến pháp. Viện dẫn điều 10 của Hiến pháp quy định rằng “tự do có thể
bị giới hạn theo luật”, ông ta cho rằng đạo luật chống khủng bố xác lập các giới
hạn lên một số tự do, nhưng đó là những giới hạn theo luật, không phải theo sắc
lệnh hay quyết định.
Trên một phương diện khác, nhà phân tích chính trị Lemrabet Ould
Ibrahim cho rằng mặc dù quyết định của Hội đồng Hiến pháp trái với xu hướng
của đa số cầm quyền, nhưng nó phản ánh sự độc lập về mặt thể chế- một điều có
ý nghĩa củng cố dân chủ: “Chúng ta không thể nói về dân chủ nếu không có
những thể chế hiến định độc lập theo đuổi lợi ích chung của nhà nước và công
66
dân...Hội đồng Hiến pháp đã cho thấy rằng nó không còn là một trò chơi trong
tay của quyền hành pháp và tư pháp.”1
Đánh giá
Thứ nhất, Hội đồng Hiến pháp của Môritani mô phỏng theo Hội đồng
Hiến pháp của Pháp trước đây. Điều này hàm ý về sự ảnh hưởng của chế độ
thuộc địa đến quá trình phát triển Hiến pháp quốc gia nói chung và thể chế bảo
hiến nói riêng. Rõ ràng, trong việc xây dựng các thể chế Hiến pháp, người ta
không thể coi nhẹ những ảnh hưởng của chế độ thuộc địa. Các thuộc địa sau khi
giành được độc lập khỏi mẫu quốc lại dựa trên truyền thống Hiến pháp của mẫu
quốc để xây dựng các thể chế Hiến pháp độc lập.
Thứ hai, trên phương diện thể chế, Hội đồng Hiến pháp của Môritani
được xây dựng như một cơ quan bảo hiến độc lập của quốc gia nhưng có những
yếu tố làm cho nó có thể bị kiểm soát bởi các quyền hành pháp và lập pháp, đặc
biệt là quyền hành pháp. Lưu ý rằng, trong Hiến pháp của Môritani, quyền hành
pháp (chương 2) được quy định trước quyền lập pháp (chương 3). Điều này
phần nào phản ánh tư duy trọng thị quyền hành pháp ở quốc gia này. Sự phụ
thuộc của Hội đồng Hiến pháp vào Tổng thống, như đã trình bầy, thể hiện ở
nhân sự của nó do Tổng thống kiểm soát. Ngành tư pháp và dân chúng không có
khả năng, về mặt thể chế, tiếp cận với Hội đồng Hiến pháp.
Thứ ba, tuy nhiên, Hội đồng Hiến pháp của Môritani được xây dựng trong
một bối cảnh chính trị không ổn định (đảo chính, đấu tranh vũ trang). Bối cảnh
chính trị, cùng với những ảnh hưởng của chế độ thuộc địa, đã giới hạn khả năng
xây dựng một thể chế bảo hiến mạnh mẽ hơn và cũng giới hạn thực tiễn hoạt
động của nó.
Thứ tư, mặc dù vậy, những phát triển gần đây, đặc biệt là vụ việc Hội
đồng Hiến pháp từ chối đạo luật chống khủng bố, cho thấy Hội đồng này đang
dần dần có vai trò tích cực. Quyết định của nó được Chính phủ tôn trọng mặc dù
Chính phủ coi đạo luật được đệ trình là một đạo luật tốt. Nhìn chung, một thể
chế bảo hiến không thể cường tráng ngay khi nó được hình thành. Nó phải được
xây dựng tùy vào bối cảnh của quốc gia và sẽ phát triển dần dần trong thực tiễn
cùng với quá trình dân chủ hóa mà bản thân nó sẽ có đóng góp vào.
1Thông tin và các nhận xét xung quanh quyết định của Hội đồng Hiến pháp được dẫn lại từ: Môritanin
Constitutional Council Rejects Parts of Anti-terrorism Law,
http://www.magharebia.com/cocoon/awi/xhtml1/en_GB/features/awi/features/2010/03/09/feature-01 (truy cập lần
cuối, ngày 4/3/2013).
67
VI. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP CỘNG HOÀ CHAD
6.1. Quá trình hình thành và phát triển
Cộng hòa Chad là một quốc gia nằm ở vùng Trung Phi vốn là một thuộc
địa của Pháp. Ngày 28 tháng 11 năm 1958, Chad trở thành một nước Cộng hòa
thuộc khối Liên hiệp Pháp - một Liên hiệp được thành lập theo Hiến pháp Đệ
ngũ cộng hòa năm 1958 của Cộng hòa Pháp. Ngày 11 tháng 08 năm 1960, Cộng
hòa Chad chính thức trở thành một quốc gia độc lập với Tổng thống đầu tiên là
ông Francois Tombalbaye.1Kể từ khi tuyên bố độc lập, Cộng hòa Chad đã trải
qua một thời gian dài nội chiến và bất ổn chính trị, bắt nguồn bởi các cuộc xung
đột sắc tộc, tôn giáo và đặc biệt là do các chính quyền độc tài tạo ra. Năm 1990,
tướng Idriss Deby thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ nhà độc tài Hissen
Habre và lên làm tổng thống. Năm 1993, Deby bãi bỏ lệnh cấm hoạt động đối
với các đảng phái chính trị đối lập và bắt đầu tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Năm 1996, một bản Hiến pháp được ban hành, làm nền tảng tổ chức và vận
hành bộ máy nhà nước. Bản Hiến pháp này thường được coi là bản Hiến pháp
dân chủ đầu tiên của Cộng hòa Chad. Kể từ năm 1996, bốn cuộc bầu cử Tổng
thống và ba cuộc bầu cử Nghị viện đã được tiến hành. Tuy nhiên, tiến trình dân
chủ hóa ở Cộng hòa Chad cũng gặp nhiều khó khăn và chưa tạo ra các kết quả
mong muốn. Xung đột sắc tộc vẫn tiếp diễn, nội chiến giữa các phe phái đang
tiếp tục và bất ổn chính trị ngày càng gia tăng.2
Đối diện với một lịch sử chính trị phức tạp, lịch sử lập hiến của Cộng hòa
Chad cũng trải qua nhiều thăng trầm. Kể từ khi trở thành một quốc gia cộng hòa
thuộc khối Liên hiệp Pháp cho đến năm 1990, Chad đã có đến 8 bản Hiến pháp.
Bản Hiến pháp đầu tiên được ban hành ngày 31 tháng 03 năm 1959, theo mô
hình của bản Hiến pháp 1958 của Pháp với một số khác biệt nhỏ. Bản Hiến pháp
này nhanh chóng bị thay thế bởi một bản Hiến pháp mới của Cộng hòa Chad độc
lập có hiệu lực kể từ ngày 28 tháng 11 năm 1960. Kể từ đó cho đến năm 1996,
1Nadjita F.Ngarhodjim, An introduction to the legal system and legal research in Chad, tại
http://www.nyulawglobal.org/Globalex/Chad1.htm 2Paul – Simon Handy, Chad: Democratisation challenges and limits of international intervention (2008) tại
http://www.realinstitutoelcano.org/wps/portal/rielcano_eng/Content?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/elcano/elcano_in/zonas
_in/sub-saharan+africa/ari59-2008 lên mạng ngày 05/03/2013
68
một loạt bản Hiến pháp đã được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung hay thay thế
các bản Hiến pháp cũ. Một đặc trưng của các bản Hiến pháp trong thời kì này là
thường được thay thế sau khi một nhà độc tài cũ đã bị lật đổ và một lực lượng
mới lên cầm quyền. Do đó, Hiến pháp thường được ban hành nhằm hợp thức
hóa chính quyền mới và nhiều khi là để xác lập vị trí độc tài cho một cá nhân
hay một chính quyền bạo lực.
Năm 1996, một bản Hiến pháp cho thời kì quá độ, dân chủ được ban
hành. Hiến pháp này được sửa đổi vào năm 2005 và hiện vẫn là bản Hiến pháp
có hiệu lực ở Chad. Hiến pháp 1996 được xem là bản Hiến pháp dân chủ đầu
tiên ở Cộng hòa Chad. Hiến pháp 1996 gồm 16 chương, 227 Điều. Bản Hiến
pháp 1996 thiết lập một chính thể cộng hòa dựa trên các nền tảng dân chủ, pháp
quyền và công lý.1Các quyền và nghĩa vụ căn bản của nhân dân được minh thị
ghi nhận vào trong Hiến pháp. Bên cạnh đó, nguyên tắc phân quyền, kiềm chế
và đối trọng cũng được thể hiện một cách rõ ràng với quyền lực nhà nước được
phân chia cho ba cơ quan độc lập với nhau là quyền hành pháp bao gồm Tổng
thống và nội các đứng đầu bởi Thủ tướng. Quyền lập pháp do Quốc hội một viện
thực thi và quyền tư pháp do tòa án đảm nhiệm. Tòa án còn được xác định là
người bảo vệ các quyền tự do căn bản của nhân dân. Ngoài ra, còn có các thiết
chế hiến định khác là: Hội đồng Hiến pháp; Hội đồng Kinh tế, Văn hóa và Xã
hội; Tòa án công lý Cấp cao (the High Court of Justice); Hội đồng tư pháp cấp
cao (the High Council of Judiciary) và Hội đồng truyền thông cấp cao (the High
Council of Communication). Việc sửa đổi Hiến pháp phải được trưng cầu ý dân,
các sửa đổi có tính chất kĩ thuật có thể được thông qua bởi đa số 2 phần 3 đại
biểu Quốc hội.2
Hiến pháp 1996 được sửa đổi vào năm 2005.3 Theo đó, giới hạn nhiệm kỳ
Tổng thống bị bãi bỏ. Tổng thống có thể ra ứng cử và được bầu giữ chức vụ bao
nhiêu lần cũng được. Thượng viện bị bãi bỏ và thay thế bằng Hội đồng kinh tế,
văn hóa và xã hội, biến Quốc hội lưỡng viện thành Quốc hội một viện. Hai thay
đổi này, đặc biệt là việc bãi bỏ quy định hạn chế nhiệm kỳ Tổng thống đã gặp
phải sự phản đối mạnh mẽ từ các đảng phái chính trị đối lập.4 Sự sửa đổi năm
1 Điều 1 Hiến pháp Cộng hòa Chad (1996, sửa đổi 2005)
2 Điêu 224 Hiến pháp Cộng hòa Chad (1996, sửa đổi 2005)
3 Tòan văn Hiến pháp Cộng hòa Chad năm 1996 sửa đổi bổ sung 2005 có thể đọc tại
http://www.cefod.org/legitchad/web/texte/519#h8 lên mạng ngày 05/03/2013 4 Neldjingaye Kameldy, The Chadian Constitution of 1996: A Commentary, trang 3
69
2005 dường như phản ánh một truyền thống lạm quyền và tập quyền của các
lãnh đạo nhà nước ở Cộng hòa Chad và cũng là một nguyên nhân của tình trạng
nội chiến, xung đột sắc tộc cũng như bất ổn chính trị lâu dài ở nước này.
Một trong những đặc điểm của Hiến pháp Cộng hòa Chad là chịu nhiều
ảnh hưởng của Hiến pháp Pháp. Tuy nhiên, thiết chế Hội đồng Hiến pháp đặc
trưng của Cộng hòa Pháp lại không hề được du nhập trong bản Hiến pháp độc
lập đầu tiên của Chad cũng như trong các bản Hiến pháp tiếp theo.1 Phải đợi đến
năm 1996 thì thiết chế Hội đồng Hiến pháp mới lần được quy định chính thức
trong Hiến pháp Chad tại Chương VII. Nhưng cũng phải đợi đến năm 2000 thì
Hội đồng Hiến pháp mới chính thức đi vào hoạt động, sau khi Tổng thống ký
sắc luật bổ nhiệm và các thành viên Hội đồng tuyên thệ nhậm chức. Kể từ khi đi
vào hoạt động, Hội đồng Hiến pháp của Chad đã gặp nhiều chỉ trích về mức độ
độc lập của nó với các cơ quan nhà nước khác, nhất là với Tổng thống, đặc biệt
là sau khi Hiến pháp 1996 được sửa đổi nhằm tăng thời gian cầm quyền của
Tổng thống, bãi bỏ thiết chế Thượng viện, dẫn đến việc phải sửa đổi một số quy
định liên quan đến Hội đồng Hiến pháp. Một số quyết định của Hội đồng về kết
quả bầu cử Tổng thống cũng bị chỉ trích mạnh mẽ, đặt ra nhiều câu hỏi về tính
khoa học và hiệu quả của mô hình Hội đồng Hiến pháp này.
6.2. Khuôn khổ pháp lý
Các quy định về Hội đồng Hiến pháp được quy định tại Chương 7, từ
Điều 160 cho đến Điều 171 của Hiến pháp 1996 sửa đổi bổ sung năm 2005 của
Cộng hòa Chad.2 Hiến pháp Chad quy định một cách rõ ràng ngay tại Điều 160
rằng: “Nay thiết lập một Hội đồng Hiến pháp”.3 Các quy định sau đó tại Chương
7 xác lập khuôn khổ pháp lý tối cao cho Hội đồng Hiến pháp từ thành phần,
nhiệm kì, cách thức bổ nhiệm cho đến thẩm quyền cũng như các vấn đề khác
liên quan. Như trên đã chỉ ra, Hiến pháp 1996 là bản Hiến pháp đầu tiên quy
định về thiết chế Hội đồng Hiến pháp. Dưới Hiến pháp, Quốc hội cũng đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật chi tiết hóa một số vấn đề có liên quan đến thiết
chế này. Điều 171 của Hiến pháp minh thị trao cho Quốc hội quyền ban hành
luật chi tiết hóa các vấn đề về tổ chức, hoạt động và điều kiện bổ nhiệm thành
viên Hội đồng Hiến pháp. Ngoài ra, kể từ khi đi vào hoạt động, Hội đồng Hiến
1 Neldjingaye Kameldy, The Chadian Constitution of 1996: A Commentary, trang 1
2 Bản dịch các quy định có liên quan đến Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa Chad được cung cấp ở cuối chương.
3 Điều 164 Hiến pháp Cộng hòa Chad
70
pháp cũng đã tự ban hành một số văn bản quy định về quy chế hoạt động, thủ
tục giải quyết tranh chấp của Hội đồng. Một số văn bản tiêu biểu phải kể đến:
Luật số 019/PR/98 ngày 20 tháng 07 năm 1998 của Quốc hội quy
định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp.
Luật số 006/PR/2005 ngày 27 tháng 04 năm 2005 sửa đổi Điều 7
của Luật số 019/PR/98 ngày 20 tháng 07 năm 1998;
Luật số 24/PR/2006 ngày 21 tháng 06 năm 2006 sửa đổi Luật số
19/PR/98 và 006/PR/2005;
Luật số 06/PR/2009 ngày 05 tháng 02 năm 2009 sửa đổi Luật số
24/PR/2006 và Luật số 19/PR/98.1
Quyết định số 003/PCC/99 của Hội đồng Hiến pháp Quy định về
quy chế hoạt động của Hội đồng.2
Tuy có một hệ thống khá đầy đủ các quy định từ cấp cao nhất là Hiến
pháp cho đến Luật của Quốc hội và Quyết định của chính Hội đồng thiết lập
khuôn khổ pháp lý căn bản cho hoạt động và chức năng của Hội đồng Hiến
pháp, song phải đợi đến tháng 10 năm 2000 Hội đồng Hiến pháp của Chad mới
bắt đầu hoạt động. Điều này là do phải đến ngày 28 tháng 04 năm 1999 thì 9
thành viên của Hội đồng mới làm lễ tuyên thệ nhậm chức với sự chứng kiến của
Tổng thống Deby.
6.3. Cơ cấu tổ chức
Có sự thay đổi lớn trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng Hiến pháp khi so
sánh giữa các quy định trong Hiến pháp 1996 và Hiến pháp sửa đổi 2005. Hiến
pháp 1996 quy định thành phần Hội đồng Hiến pháp gồm 9 người, trong đó có 3
thẩm phán và 6 luật gia cao cấp. Quy định này cho thấy những nhà lập hiến của
Cộng hòa Chad đã học được nhiều bài học từ sự thất bại của các quốc gia chịu
ảnh hưởng của mô hình Hội đồng Hiến pháp khác khi đặt ra quy định yêu cầu
các thành viên của Hội đồng Hiến pháp phải là thẩm phán hoặc các luật gia cao
cấp. Điều này ít nhất đã góp phần tăng tính chuyên nghiệp, chất lượng cũng như
tính độc lập cho Hội đồng. Nhờ vậy, những phán quyết của Hội đồng về các vấn
đề thuộc thẩm quyền cũng có tính thuyết phục và hợp lý hơn.
1 International Commission of Jurists, Chad – Attacks on Justice, 11th ed , trang 70
2Các văn bản này có thể tiếp cận bằng tiếng Pháp tại trang web
http://www.accpuf.org/index.php?option=com_content&task=view&id=208&Itemid=307 hoặc
http://www.cefod.org/legitchad/web/ lên mạng ngày 05/03/2013
71
Quan trọng hơn, Hiến pháp 1996 cũng thiết lập một cơ chế cân bằng và
đối trọng trong việc bổ nhiệm các thành viên Hội đồng. Theo đó, Tổng thống,
Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện mỗi người có quyền bổ nhiệm 1 thẩm
phán và 2 luật gia làm thành viên của Hội đồng. Nhưng Hiến pháp 2005 đã sửa
đổi quy định này. Cùng với việc bãi bỏ thiết chế Thượng viện, theo quy định tại
Điều 161 Hiến pháp 2005, số lượng thành viên Hội đồng Hiến pháp vẫn giữ
nguyên là 9, với 3 thẩm phán và 6 luật gia cao cấp, tuy nhiên, Tổng thống nay có
quyền bổ nhiệm 2 thẩm phán và 3 luật gia, trong khi Chủ tịch Quốc hội chỉ có
quyền bổ nhiệm 1 thẩm phán và 3 luật gia.1 Điều này đã dấy lên lo ngại rằng quy
định mới tạo ra một cơ chế thiếu cân bằng khi Tổng thống có thể bổ nhiệm
nhiều người ủng hộ mình vào Hội đồng Hiến pháp và vì vậy Hội đồng sẽ mất đi
tính độc lập và khách quan khi phán xét các tranh chấp có liên quan đến Tổng
thống.
Nhiệm kỳ của các thành viên Hội đồng Hiến pháp là 9 năm, không được
gia hạn. Các thành viên Hội đồng không thể bị bãi miễn khỏi chức vụ trong bất
kỳ trường hợp nào trừ khi bị kết tội, từ chức hay mất khả năng đảm nhiệm chức
vụ một cách lâu dài.2 Bên cạnh đó, thành viên Hội đồng cũng không thể là thành
viên của Chính phủ, nắm giữ bất cứ một chức vụ bầu cử nào khác, hay là công
chức nhà nước cũng như thành viên của các tổ chức vì lợi nhuận.3 Hai quy định
này, kết hợp với yêu cầu về chuyên môn nêu trên được hy vọng sẽ bảo đảm và
tăng cường tính độc lập của các thành viên Hội đồng Hiến pháp - một vị trí sẽ
thường xuyên chịu áp lực chính trị, pháp luật khi đưa ra phán quyết do tính chất
phức tạp của vấn đề Hội đồng phải xử lý, đó là các tranh chấp về thẩm quyền
giữa các nhánh quyền lực khác nhau, về kết quả bầu cử Tổng thống, hay về tính
hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội ban hành hoặc các điều ước quốc tế mà
Chad định tham gia.
Hội đồng Hiến pháp có một Chủ tịch được bầu bởi các thành viên của Hội
đồng cho một nhiệm kỳ 3 năm và có thể được bầu lại.4
Hiến pháp Chad có một quy định riêng về lời tuyên thệ mà các thành viên
Hội đồng Hiến pháp phải đọc khi được bổ nhiệm: “Tôi xin tuyên thệ sẽ thực thi
1 Điều 161 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
2 Điều 161 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
3 Điều 163 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
4 Điều 164 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
72
một cách tận tâm các trách nhiệm của mình trong sự tuân thủ chặt chẽ nghĩa vụ
trung lập và đúng thẩm quyền, bảo đảm sự tôn trọng đối với Hiến pháp và luôn
hành xử một cách trung thành và liêm khiết trong việc thực thi nhiệm vụ.”1 Quy
định đặc biệt này phản ánh các nguyên tắc căn bản của Hội đồng Hiến pháp:
Trung lập; Có năng lực; Liêm chính và Trung thành với Hiến pháp chứ không
phải trung thành với bất kỳ lực lượng chính trị nào.
6.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Để hiểu rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp trong Hiến
pháp của Cộng hòa Chad, trước tiên cần làm rõ về vị trí của thiết chế này trong
bộ máy chính quyền của Chad, cụ thể là Hội đồng Hiến pháp là một thiết chế
độc lập bên ngoài các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp hay là một phần
của nhánh quyền lực tư pháp?
Hiến pháp Cộng hòa Chad minh thị quy định nguyên tắc tam quyền phân
lập giữa ba nhánh quyền lực hành pháp, tư pháp và lập pháp. Đồng thời cũng
xác định rõ ràng các cơ quan thực thi các quyền này.2 Điều 144 quy định tòa án
là các cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hiến pháp Chad cũng thiết lập thiết chế
Hội đồng Tư pháp cấp cao (High Council of Judiciary) chịu trách nhiệm quản trị
và bổ nhiệm các thẩm phán của tòa án. Tuy nhiên, bên cạnh đó Hiến pháp lại
thiết lập ba thiết chế hiến định đặc biệt là Tòa án Công lý Cấp cao (High Court
of Justice) có thẩm quyền xét xử tội trạng của Tổng thống và các nhân viên
chính quyền cao cấp khác3; Hội đồng Hiến pháp (Constitutional Council) có
trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp với thẩm quyền tài phán tính hợp hiến của các
đạo luật và điều ước quốc tế; hành vi của chính quyền; xung đột thẩm quyền
giữa các cơ quan quyền lực nhà nước và cuối cùng là phân xử các tranh chấp về
bầu cử Tổng thống.4Thiết chế hiến định cuối cùng là Hội đồng Truyền thông
Cấp cao (High Council of Communication).5Câu hỏi đặt ra là các cơ quan này,
đặc biệt là Hội đồng Hiến pháp có thuộc về nhánh quyền lực tư pháp hay là một
thiết chế hiến định độc lập với thẩm quyền riêng?
1 Điều 165 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
2 Điều 7 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
3 Xem Chương VIII Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
4 Xem Chương VII Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
5 Xem Chương X Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
73
Một số học giả khi phân tích Hiến pháp của Cộng hòa Chad có xếp Hội
đồng Hiến pháp vào mục cơ quan tư pháp.1 Việc này có lẽ bắt nguồn từ sự suy
luận rằng quyền lực nhà nước được minh thị phân tách thành ba quyền là lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời, Hội đồng Hiến pháp lại thực hiện quyền
tài phán, đối tượng của thẩm quyền tài phán của Hội đồng rất đặc biệt. Hơn nữa,
chương về Hội đồng Hiến pháp lại được xếp ngày sau chương về Tòa án. Do đó,
các học giả nêu trên đã xếp Hội đồng Hiến pháp vào mục phân tích về tòa án.
Tuy nhiên, Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa Chad, cả về lý thuyết lẫn thực
tiễn là một thiết chế hiến định độc lập với cả ba nhánh quyền lực nhà nước thông
thường là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong một quyết định được đưa ra
vào năm 2001, Hội đồng đã lập luận rõ: “Hiến pháp 1996 thừa nhận rằng chỉ có
Tòa án tối cao; Tòa Phúc thẩm và các Tòa tòa sơ thẩm (Tribunals and Justices of
the Peace) quy định tại Điều 148 là có thẩm quyền xét xử; do đó, bất kì bất kì cơ
quan tài phán nào mà không được đề cập đến trong quy định kể trên thì không
phải là một phần của cơ quan tư pháp.”2
Bằng chính quyết định của mình, Hội đồng Hiến pháp đã xác định rõ vị trí
của nó là một thiết chế hiến định độc lập, bên ngoài ba nhánh quyền lực nhà
nước thông thường là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhiệm vụ của Hội đồng
này là bảo vệ Hiến pháp thông qua tài phán Hiến pháp. Thẩm quyền bảo hiến
của Hội đồng bắt nguồn trực tiếp từ nhân dân.
Điều 162 Hiến pháp Chad quy định cụ thể về thẩm quyền và đối tượng tài
phán của Hội đồng Hiến pháp. Theo đó, Hội đồng Hiến pháp có các thẩm quyền
sau:
Thứ nhất, Hội đồng Hiến pháp tuyên bố về tính hợp hiến của các đạo luật
của quốc gia và các điều ước quốc tế trước và sau khi được ban hành hay kí kết.3
Nếu Hội đồng Hiến pháp xác định một điều ước quốc tế là trái với một điều
khoản nào đó của Hiến pháp Chad thì điều khoản đó cần phải được sửa đổi trước
khi điều ước được kí kết, gia nhập hay thông qua. Đối với các đạo luật, khi có
yêu cầu của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội hay ít nhất một phần
mười đại biểu Quốc hội, Hội đồng Hiến pháp sẽ ra phán quyết về tính hợp hiến
1 Ví dụ như Nadjita F.Ngarhodjim, An introduction to the legal system and legal research in Chad, tại
http://www.nyulawglobal.org/Globalex/Chad1.htm lên mạng ngày 05/03/2013 2Hội đồng Hiến pháp, Quyết định số 002/PCC/SG/01 ngày 06 tháng 04 năm 2001. Trích từ Neldjingaye Kameldy,
The Chadian Constitution of 1996: A Commentary, trang 15
3 Điều 162 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
74
của một dự án luật trước khi được ban hành.1 Đối với một đạo luật đã được ban
hành, Hội đồng Hiến pháp có 15 ngày để quyết định về tính hợp hiến của đạo
luật đó. Thời gian này có thể được rút ngắn xuống còn 8 ngày theo yêu cầu của
Chính phủ.2 Về nguyên tắc, công dân không thể trực tiếp nêu vấn đề về tính hợp
hiến của một đạo luật đối với Hội đồng Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp Chad
đã thiết lập một cơ chế gián tiếp. Theo đó, trong một vụ kiện trước tòa án
thường, các đương sự của vụ việc có thể khiếu nại tính vi hiến của một đạo luật
đang được xem xét áp dụng. Trong trường hợp này, tòa án phải tạm thời hoãn
xử lý vụ việc và chuyển vấn đề về tình hợp hiến của đạo luật ra cho Hội đồng
Hiến pháp xem xét trong vòng 45 ngày.3 Bất kỳ đạo luật nào đã bị tuyên bố là vi
hiến thì đều không thể được ban hành hay thực thi.4
Thứ hai, Hội đồng Hiến pháp bảo đảm tính hợp pháp của các cuộc trưng
cầu ý dân và tuyên bố kết quả trưng cầu ý dân. Quan trọng hơn, Hội đồng Hiến
pháp phân xử các tranh chấp, khiếu nại liên quan đến bầu cử Tổng thống cũng
như Quốc hội.
Cuối cùng, Hội đồng Hiến pháp phân xử tranh chấp giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước cũng như bảo đảm cho sự hoạt động hợp pháp của các cơ
quan công quyền.5
Quyết định của Hội đồng Hiến pháp là quyết định chung thẩm và không
thể bị kháng án. Nó có giá trị bắt buộc đối với mọi cơ quan chính quyền cũng
như các tòa quân sự, dân sự cũng như hành chính.6
Như vậy, có thể thấy Hội đồng Hiến pháp Chad có một thẩm quyền khá
rộng. Không chỉ dừng lại ở việc phán xét về tính hợp hiến của các đạo luật của
chính quyền mà còn phân xử khi có xung đột giữa các thiết chế quyền lực nhà
nước. Hội đồng còn chịu trách nhiệm phân xử các tranh chấp về bầu cử và trưng
cầu ý dân, những vấn đề vốn có sự nhạy cảm về mặt chính trị. Trao thẩm quyền
này cho Hội đồng Hiến pháp có thể phù hợp khi Hội đồng bao gồm các thành
viên là các thẩm phán chuyên nghiệp, có năng lực và uy tín, cũng như Hội đồng
1 Điều 166 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
2 Điều 168 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
3 Điều 167 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
4 Điều 169 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
5 Điều 162 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
6Điêu 170 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
75
là một thiết chế hoàn toàn độc lập khỏi các cơ quan khác. Tuy vậy, thực tế thì
Hội đồng lại chịu ảnh hưởng mạnh bởi Tổng thống.
6.5. Thực tiễn hoạt động
Kể từ khi chính thức đi vào hoạt động, Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa
Chad đã đưa ra một số quyết định phản ánh cả các ưu và nhược điểm của mô
hình này, đặc biệt là tính độc lập của Hội đồng. Như trên đã chỉ ra, theo Hiến
pháp sửa đổi 2005, Tổng thống Cộng hòa Chad hiện nay có thẩm quyền bổ
nhiệm 2 thẩm phán và 3 luật gia cao cấp làm thành viên Hội đồng.1 Một trong
những quyết định điển hình là Quyết định số 002/PCC/SG/01 ngày 06 tháng 04
năm 2001 của Hội đồng Hiến pháp. Quyết định này liên quan đến đơn kiện của
một nhóm các nạn nhân của cựu Tổng thống độc tài Hissene Habre, người đã cai
trị Cộng hòa Chad cho đến năm 1990 thì bị lật đổ bởi tướng Deby, người sau đó
lên làm tổng thống. Sau khi bị lật đổ Habre đã sống lưu vong ở Xênêgan. Nhiều
nạn nhân của Habre đã đâm đơn kiện ra tòa án Xênêgan yêu cầu chính quyền
Xênêgan phải truy tố hoặc dẫn độ Habre và các quan chức thuộc chính quyền cũ
của ông này về Chad để bị truy tố.
Hội đồng Hiến pháp đã quyết định rằng: Thứ nhất, Sắc lệnh số
004/PR/MJ/93 vào năm 1993 là vi hiến; Thứ hai, tòa án thường của Chad có
thẩm quyền xét xử các thành viên của chính quyền cũ của Habre; và Thứ ba, các
tòa án được liệt kê tại Điều 148 của Hiến pháp và được bổ sung bởi Luật số
004/PR/98 năm 1998 là các cơ quan tư pháp duy nhất tại Chad.2
Như vậy, có thể thấy trong vụ này Hội đồng Hiến pháp đã vận dụng thẩm
quyền tài phán tính hợp hiến của các đạo luật và thẩm quyền giải quyết các xung
đột thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước để đưa ra quyết định phù hợp với
Hiến pháp. Sau đó, dưới sức ép của Chad và cộng đồng quốc tế, Xênêgan đã
phải mở phiên tòa quốc tế để xét xử Habre.
Tuy nhiên, sự độc lập của mô hình Hội đồng Hiến pháp chỉ thực sự bị thử
thách khi Hội đồng phải ra các phán quyết liên quan đến Tổng thống Deby và
đảng chính trị của ông. Trong vài năm trở lại đây, Hội đồng Hiến pháp Chad đã
đưa ra hai phán quyết gây tranh cãi liên quan đến cuộc bầu cử Tổng thống và
1 Điều 161 Hiến pháp Cộng hòa Chad 1996 sửa đổi bổ sung 2005
2 Tòan văn Quyết định có thể xem tại
http://www.asser.nl/upload/documents/DomCLIC/Docs/NLP/Chad/Habr%C3%A9_Conseil_Constit_6-4-2001.pdf và
Neldjingaye Kameldy, The Chadian Constitution of 1996: A Commentary, trang 15 lên mạng ngày 05/03/2013
76
Nghị viện. Trong cùng một năm 2011, Hội đồng đã lần lượt tuyên bố kết quả
bầu cử Tổng thống và tiếp sau là Nghị viện, theo đó, Tổng thống Deby tái đắc
cử lần thứ 4 và đảng của ông cũng giành thắng lợi chiếm đa số ghế tại Nghị viện
là chính xác, cho dù các cuộc bầu cử này đều bị các đảng đối lập cáo buộc là
gian lận.1
Phán quyết của Hội đồng Hiến pháp cho thấy Hội đồng ít nhiều chịu sự
ảnh hưởng của Tổng thống và các lực lượng chính trị và không hoàn toàn độc
lập trong khi thực hiện thẩm quyền của mình. Sự không độc lập này đã dẫn đến
thiếu công bằng trong khi phán xét, làm cho kết quả không bảo đảm công lý. Hệ
quả là bất ổn chính trị ngày càng thêm trầm trọng trong khi đáng lẽ ra Hội đồng
cần phải là người bảo đảm cho sự ổn định chính trị bằng cách thượng tôn Hiến
pháp.
1Xem Chad Constitutional Council Confirms Ruling Party Victory tại http://www.thenewage.co.za/13187-1020-53-
Chad_constitutional_council_confirms_ruling_party_victory lên mạng ngày 05/03/2013 và Chad Constitutional Council
Confirms Deby Poll Win tại http://www.rnw.nl/africa/bulletin/chad-constitutional-council-confirms-deby-poll-win lên mạng
ngày 05/03/2013
77
VII. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP TUYNIDI
7.1. Quá trình hình thành và phát triển
Tuynidi là một quốc gia thuộc vùng Bắc Phi, trước đây là một thuộc địa
của Cộng hoà Pháp. Tunidi giành được độc lập từ Pháp vào năm 1956. Trong
quá trình soạn thảo Hiến pháp đầu tiên năm 1959, các nhà lập hiến Tuynidi đã
không nhắc đến cơ chế bảo hiến. Do vậy, Hiến pháp đầu tiên của Tuynidi không
có quy định nào về bảo hiến. Có thể các nhà lập hiến lúc bấy giờ cho rằng các
thiết chế đại diện cho chủ quyền nhân dân mới được thành lập không thể nào vi
phạm các quy định Hiến pháp.
Tuy nhiên, sau một thập niên kể từ khi bản Hiến pháp đầu tiên ra đời,
người ta bắt đầu thảo luận về sự cần thiết phải thành lập cơ chế bảo hiến để bảo
vệ tính tối cao của Hiến pháp cũng như các quyền cơ bản của công dân. Trên
thực tế, xuất phát từ những đòi hỏi chính trị và pháp lý, các tranh luận đã bàn về
khả năng trao cho các tòa án thường thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến của các
đạo luật.
Vào ngày 16/12/1987, lần đầu tiên một thiết chế mới ra đời, Hội đồng
Hiến pháp, được thành lập bởi một chỉ thị của Tổng thống, thực hiện chức năng
tư vấn (trong lĩnh vực kiểm tra tính hợp hiến của các dự luật). Vài năm sau,
chính xác vào ngày 6/11/1995, Hiến pháp sửa đổi lần đầu tiên hiến định Hội
đồng Hiến pháp tại Chương IX. Năm 1998, một sửa đổi Hiến pháp đã bổ sung
quyền kiểm hiến bắt buộc bởi Hội đồng Hiến pháp.
Sự phát triển bảo hiến tiếp tục được ghi nhận với sửa đổi Hiến pháp ngày
1/6/2002, mở rộng các quyền cơ bản trong Hiến pháp. Các quy định mới về sửa
đổi Hiến pháp lần này cũng mở rộng thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp và
tăng cường sự độc lập của thiết chế hiến định này.
7.2. Khuôn khổ pháp lý
Hiến pháp hiện hành của Tuynidi1 quy định về Hội đồng Hiến pháp tại
một chương riêng (Chương IX-Hội đồng Hiến pháp, bao gồm 4 điều từ Điều 72
đến Điều 75). Ngoài ra, một số điều khác của Hiến pháp cũng có các quy định
1. Hiện nay, sau cách mạng Mùa xuân Ả-rập năm 2012, Hiến pháp mới của Tunidi đang được soạn thảo
và dự kiến sẽ được thông qua trong năm 2013.
78
liên quan đến Hội đồng Hiến pháp. Trên cơ sở của Hiến pháp, Luật về Hội đồng
Hiến pháp được ban hành ngày 12/7/2004. Luật này gồm 40 điều, chia thành 4
chương: Chương I-Các quy định chung; Chương II-Tổ chức của Hội đồng Hiến
pháp; Chương III-Kiểm tra tính hợp hiến và hoạt động của các cơ quan nhà
nước; Chương IV-Kiểm tra các cuộc bầu cử.
7.3. Cơ cấu tổ chức
Theo quy định tại khoản 5 Điều 75 của Hiến pháp Tuynidi, Hội đồng
Hiến pháp gồm chín thành viên, trong đó bốn thành viên được Tổng thống bổ
nhiệm và hai thành viên do Chủ tịch Hạ viện lựa chọn, có nhiệm kỳ ba năm, có
thể được bổ nhiệm lại hai lần, và ba thành viên được bổ nhiệm đương nhiên:
Chánh Tòa Phá án, Chánh Tòa Hành chính tối cao và Chánh Tòa kiểm toán.
Theo quy định trên, sáu thành viên Hội đồng Hiến pháp do Tổng thống và
Hạ viện lựa chọn có nhiệm kỳ 3 năm, có thể được bổ nhiệm lại hai lần, trong khi
ba thành viên còn lại được bổ nhiệm đương nhiên. Cách thức lựa chọn này rất
đặc biệt ở các điểm sau:
Thứ nhất, thành viên Hội đồng Hiến pháp chia thành hai loại: thành viên
được lựa chọn và thành viên đương nhiên. Phương pháp này có phần giống với
cách quy định của Hiến pháp Cộng hòa Pháp. Tuy nhiên, thành viên đương
nhiên của Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa Pháp không phải là những người đứng
đầu đương nhiệm của ngành tòa án, mà là các Tổng thống nghỉ hưu. Nếu như
việc thừa nhận các Tổng thống là các thành viên đương nhiên ở Pháp bị chỉ trích
dữ dội về tính chất chính trị của nó, thì việc bổ nhiệm các thành viên đương
nhiên là những người đứng đầu đương nhiệm của ngành tòa án ở Tuynidi dường
như có phần ưu điểm hơn, bởi vì các thẩm phán có vị trí độc lập và phù hợp với
công việc của Hội đồng Hiến pháp. Tuy vậy, Hiến pháp Tuynidi cho phép 3
thành viên đương nhiên của Hội đồng Hiến pháp kiêm các chức vụ đứng đầu các
tòa án trung ương. Quy định này có thể ảnh hưởng đến vị trí độc lập của Hội
đồng so với ngành tư pháp.
Thứ hai, Hiến pháp không quy định về tiêu chuẩn lựa chọn vào Hội đồng
Hiến pháp, mà trao quyền cho Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện toàn quyền lựa
chọn các thành viên Hội đồng. Giống ở một số nước có Hội đồng Hiến pháp như
Pháp, việc không đặt ra tiêu chuẩn thành viên ở Tuynidi phản ánh tính chính trị
của Hội đồng Hiến pháp, một đặc điểm khác căn bản so với mô hình Tòa án
Hiến pháp mà trong đó các thẩm phán Hiến pháp được lựa chọn từ các ứng cử
79
viên có đủ các điều kiện khắt khe về bằng cấp, kinh nghiệm chuyên môn trong
lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
Trong trường hợp khuyết thành viên, Tổng thống sẽ bổ nhiệm thành viên
mới với nhiệm kỳ 3 năm. Tổng thống bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp
trong số các thành viên do Tổng thống bổ nhiệm. Các thành viên Hội đồng Hiến
pháp phải tuyên thệ trước khi nhậm chức.
Để nâng cao tính độc lập của các thành viên Hội đồng Hiến pháp, khoản 6
Điều 75 Hiến pháp quy định: “Các thành viên Hội đồng Hiến pháp không thể
thực hiện các chức năng của Chính phủ hoặc Nghị viện. Các thành viên Hội
đồng Hiến pháp cũng không thể đảm đương các chức năng của một cơ quan
chính trị, công đoàn hoặc tiến hành các hoạt động có thể ảnh hưởng đến sự
trung lập và độc lập của họ. Luật đặt ra các trường hợp không kiêm nhiệm khác,
nếu có. Luật đặt ra các bảo đảm cần thiết cho các thành viên Hội đồng Hiến
pháp để họ thực thi các hoạt động, cũng như đặt ra quy chế hoạt động và thủ tục
của Hội đồng Hiến pháp”.
Phù hợp với quy định trên của Hiến pháp, Luật về Hội đồng Hiến pháp
ngày 12/7/2004 đã cụ thể hóa và bổ sung các trường hợp không kiêm nhiệm
khác áp dụng đối với các thành viên Hội đồng Hiến pháp. Tuy nhiên, Luật này
cũng quy định: các thành viên Hội đồng Hiến pháp được bổ nhiệm từ các công
chức hoặc cơ quan công quyền có thể tiếp tục thực hiện các chức năng trước đó
của họ với điều kiện được sự cho phép đặc biệt và sự kiêm nhiệm đó không ảnh
hưởng đến sự độc lập của họ (Điều 10); các thành viên Hội đồng phải thông báo
ngay lập tức cho Chủ tịch Hội đồng các hoạt động ngoài Hội đồng (Điều 11);
các thành viên Hội đồng phải dừng tất cả các hoạt động có thể ảnh hưởng đến sự
độc lập, công bằng trong việc thực thi các chức năng thành viên Hội đồng (Điều
12); nghiêm cấm các thành viên Hội đồng trong thời gian đương nhiệm tham gia
bất kỳ một vị trí chính trị nào hoặc tư vấn về các vấn đề liên quan hoặc ảnh
hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của Hội đồng; nghiêm cấm ghi chức danh
thành viên Hội đồng trong bất kỳ văn bản nào không có liên quan đến hoạt động
của Hội đồng (Điều 12).
Như vậy, cũng như quy định của nhiều nước, quy tắc không kiêm nhiệm
của các thành viên Hội đồng Hiến pháp được đặt ra nhằm bảo đảm tính độc lập
của các thành viên Hội đồng trong các hoạt động của họ. Tuy vậy, Luật về Hội
đồng Hiến pháp của Tuynidi lại có những quy định mở, cho phép các thành viên
Hội đồng có thể kiêm nhiệm một số hoạt động, với điều kiện không làm ảnh
hưởng đến các nhiệm vụ của thành viên Hội đồng. Quy định này có tính rủi ro
80
cao, vì nó đã mở đường cho sự thiếu độc lập của các thành viên Hội đồng. Khác
với Tuynidi, hầu hết Hiến pháp các nước đều quy định chặt chẽ và khắt khe về
sự không kiêm nhiệm của các thành viên Hội đồng Hiến pháp hoặc Tòa án Hiến
pháp nhằm bảo đảm tính độc lập cao của thành viên cũng như thiết chế bảo hiến.
Không kể các quy định liên quan đến các thành viên đương nhiên, các
thành viên Hội đồng Hiến pháp không thể bị truy tố, bắt giam hoặc xét xử khi
thực thi các nhiệm vụ của Hội đồng. Khi phạm tội, các thành viên Hội đồng
Hiến pháp có thể bị truy tố.
Hội đồng Hiến pháp sẽ quyết định bãi nhiệm thành viên Hội đồng trong
các trường hợp vi phạm nguyên tắc kiêm nhiệm, không thực hiện đúng các
nghĩa vụ thành viên, mất các quyền chính trị-dân sự… Sự vắng mặt của thành
viên Hội đồng trong ba phiên họp liên tiếp không có lý do chính đáng được coi
như tự từ chức.
7.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Hội đồng Hiến pháp Tuynidi được Hiến pháp trao quyền kiểm tra trước
các dự luật, các quy chế Nghị viện, điều ước quốc tế, giải quyết các tranh chấp
bầu cử và giám sát việc trưng cầu ý dân.
- Kiểm tra trước các dự luật, các quy chế Nghị viện và điều ước quốc tế
Quyền kiểm tra trước các dự luật có nghĩa là xem xét tính hợp hiến của
các dự luật trước khi chúng được công bố. Hội đồng Hiến pháp kiểm tra các dự
luật theo đề nghị của Tổng thống. Các luật tổ chức cũng như luật thường đều
thuộc đối tượng kiểm tra của Hội đồng. Các sửa đổi luật sau khi được cơ quan
lập pháp thông qua trước khi công bố cũng phải được kiểm tra bởi Hội đồng
theo đề nghị của Tổng thống.
Việc trao cho Hội đồng Hiến pháp quyền kiểm tra trước các dự luật trước
khi công bố nhằm phòng ngừa sự ra đời của các đạo luật vi hiến. Các ý kiến về
kiểm tra tính hợp hiến các dự luật có giá trị bắt buộc, được đăng trên Công báo.
Theo quy định của Hiến pháp Tuynidi, có hai loại kiểm tra của Hội đồng
Hiến pháp: Kiểm tra sự phù hợp (le contrôle de conformité) và kiểm tra sự
tương hợp (le contrôle de compatibilité). Tuy nhiên, hai khái niệm này không
được làm rõ trong Hiến pháp và Luật về Hội đồng Hiến pháp. Trong khoa học
luật Hiến pháp ở Tuynidi, hai loại kiểm tra này được hiểu như sau:
Kiểm tra sự phù hợp có nghĩa là dựa vào văn bản Hiến pháp, các nguyên
tắc hiến định và quy tắc hiến định để kiểm tra sự phù hợp hay không phù hợp
81
của các dự luật. Nếu một quy phạm luật không phù hợp với Hiến pháp thì phải
chỉ rõ quy phạm đó không phù hợp với một quy định Hiến pháp, một nội dung
Hiến pháp cụ thể.
Kiểm tra sự tương hợp có nghĩa là dựa vào các nền tảng của Hiến pháp,
hay nói cách khác dựa vào các nguyên tắc và giá trị Hiến pháp được thừa nhận
để kiểm tra sự tương hợp hay không tương hợp của các dự luật.
Để bảo đảm các dự luật quan trọng phải được kiểm tra bởi Hội đồng Hiến
pháp, Hiến pháp Tuynidi quy định rằng Tổng thống có nghĩa vụ phải đệ trình
Hội đồng xem xét tính hợp hiến của “các dự luật tổ chức, các dự luật được quy
định tại Điều 47 của Hiến pháp, cũng như các dự luật về phương thức áp dụng
Hiến pháp, quốc tịch, tình trạng cá nhân, nghĩa vụ, xác định các tội phạm, vi
phạm và hình phạt áp dụng, các quy trình tư pháp, ân xá, cũng như các nguyên
tắc cơ bản về tài sản và các quyền, giáo dục, sức khỏe cộng đồng, quyền làm
việc và an ninh xã hội” (Điều 72 Hiến pháp). Theo quy định này, phạm vi xem
xét bắt buộc của Hội đồng Hiến pháp Tuynidi khá rộng, không chỉ giới hạn ở
các luật tổ chức, mà cả các luật về quyền cơ bản. Tất cả các dự luật về các quyền
cá nhân cơ bản phải được xem xét bởi Hội đồng Hiến pháp. Thông thường, Hội
đồng Hiến pháp các nước chỉ kiểm tra bắt buộc các dự luật về tổ chức.
Ngoài ra, Hiến pháp Tuynidi quy định Tổng thống bắt buộc phải đệ trình
Hội đồng Hiến pháp xem xét các điều ước quốc tế (Đoạn 2 Điều 72).
Hội đồng Hiến pháp cũng kiểm tra tính hợp hiến của các quy chế nội bộ
của Hạ viện và Thượng viện trước khi áp dụng: “Quy chế nội bộ của Hạ viện và
quy chế nội bộ của Thượng viện được đệ trình Hội đồng Hiến pháp trước khi áp
dụng để kiểm tra sự phù hợp hoặc sự tương hợp của các quy chế này với Hiến
pháp” (Đoạn 3 Điều 74 Hiến pháp). Trong trường hợp này, Chủ tịch của các
Viện liên quan sẽ đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp.
Hiến pháp Tuynidi chỉ quy định về hình thức kiểm tra trước (bảo hiến
trước) các dự luật, quy chế nội bộ Nghị viện và điều ước quốc tế trước khi công
bố hoặc áp dụng. Quyền kiểm hiến sau- kiểm hiến các đạo luật đã có hiệu lực -
không được trao cho Hội đồng Hiến pháp. Đây là một hạn chế rất lớn, bởi vì các
đạo luật có hiệu lực không thể bị kiểm soát bởi Hội đồng Hiến pháp. Hình thức
bảo hiến trước không thể bảo đảm rằng các đạo luật được công bố có hiệu lực sẽ
luôn phù hợp với Hiến pháp. Hơn nữa, sự vi hiến của các đạo luật này ảnh
hưởng trực tiếp đến các quyền và tự do của công dân.
82
Hội đồng Hiến pháp với nhiệm vụ cơ bản là bảo hiến trước các dự luật là
mô hình hạn chế, chịu sự ảnh hưởng lớn của Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm
1958. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ những hạn chế này, sửa đổi Hiến pháp Cộng
hòa Pháp năm 2008 đã cho phép Hội đồng có thể kiểm tra tính hợp hiến các đạo
luật đã có hiệu lực.
Quy trình kiểm tra trước các dự luật cũng như các quy tắc khác được khởi
xướng bởi yêu cầu của Tổng thống. Theo quy định của Hiến pháp, duy nhất
Tổng thống được trao quyền đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem xét các vấn đề
này. Tổng thống thực hiện khâu cuối cùng – quyền công bố để làm cho các quy
tắc có giá trị áp dụng - do vậy được trao quyền (hoặc có nghĩa vụ) đề nghị Hội
đồng Hiến pháp. Sự trao quyền duy nhất cho Tổng thống làm cản trở các chủ thể
khác tham gia vào quy trình làm luật được đề nghị Hội đồng Hiến pháp kiểm tra
tính hợp hiến của các dự luật.
Khi tiếp nhận vụ việc, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp sẽ bổ nhiệm một báo
cáo viên trong số các thành viên Hội đồng Hiến pháp chịu trách nhiệm nghiên
cứu vụ việc đó.
Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 1351, Hội đồng Hiến pháp phải
đưa ra ý kiến trong thời hạn tối đa một tháng kể từ ngày nhận được đề nghị.
Trong trường hợp khẩn cấp, thời hạn này được rút gọn xuống 10 ngày. Trong
trường hợp đặc biệt, thời hạn một tháng có thể kéo dài thêm hai tuần.
Hội đồng Hiến pháp sẽ họp để xem xét vụ việc. Hội đồng sẽ lắng nghe
báo cáo viên, sau đó thảo luận, tiếp theo yêu cầu báo cáo viên chuẩn bị dự thảo ý
kiến của Hội đồng theo những định hướng của Hội đồng, và cuối cùng đưa ra ý
kiến theo đa số các thành viên. Hội đồng Hiến pháp có thể triệu tập bất cứ ai nếu
thấy cần thiết.
Theo Hiến phápTuynidi, Hội đồng Hiến pháp đưa ra các ý kiến (“Avis”
trong tiếng Pháp) trong lĩnh vực kiểm tra tính hợp hiến của các dự luật và các
quy phạm khác trước khi được công bố hoặc áp dụng. “Ý kiến” có nghĩa tương
đương với “quyết định”, vì ý kiến có giá bắt buộc chứ không phải để tham khảo.
Các ý kiến của Hội đồng Hiến pháp có giá trị bắt buộc với tất cả các cơ quan
công quyền (Điều 75 Hiến pháp).Theo đó, Tổng thống sẽ phải hoãn công bố các
1 Tổng thống có thể phản đối sự không phù hợp của tất cả các đạo luật hoặc sửa đổi luật xâm phạm đến lĩnh vực lập
quy. Tổng thống đưa vấn đề này lên Hội đồng Hiến pháp ra phán quyết trong thời hạn tối đa 10 ngày kể từ ngày nhận được
đề nghị.
83
luật đã được Nghị viện thông qua dựa trên ý kiến của Hội đồng Hiến pháp (Điều
52 Hiến pháp); Tổng thống cũng không được chuyển các dự luật mình đệ trình
cho các cơ quan lập pháp hoặc đưa ra trưng cầu ý dân nếu Hội đồng Hiến pháp
cho rằng dự luật đó trái Hiến pháp.
Các ý kiến của Hội đồng được chuyển đến các cơ quan nhà nước liên
quan và được đăng Công báo.
- Giải quyết các tranh chấp bầu cử và kiểm soát trưng cầu ý dân
Với sửa đổi Hiến pháp năm 2002, Hội đồng Hiến pháp có thêm vai trò
giải quyết tranh chấp bầu cử và kiểm soát trưng cầu ý dân: “Hội đồng Hiến
pháp phán quyết về những tranh chấp liên quan đến bầu cử các thành viên Hạ
viện và Thượng viện. Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt
động trưng cầu ý dân và tuyên bố kết quả của các hoạt động này. Luật bầu cử
đặt ra các thủ tục về vấn đề này” (Khoản 4 Điều 72).
Hội đồng Hiến pháp tiếp nhận các khiếu nại về việc ứng cử Tổng thống,
Thượng nghị sỹ và Hạ nghị sỹ theo quy trình và thời hạn quy định trong Luật
bầu cử. Hội đồng Hiến pháp xem xét kín các khiếu nại về ứng cử viên và ra
phán quyết về giá trị của các ứng cử viên theo phương thức đa số.
Hội đồng Hiến pháp cũng kiểm tra các hoạt động trưng cầu ý dân theo các
quy định của Luật bầu cử. Hội đồng Hiến pháp họp kín và ra phán quyết về kết
quả trưng cầu ý dân theo phương thức đa số.
Các khiếu nại về bầu cử và trưng cầu ý dânphải được thể hiện dưới hình
thức văn bản, do người có đủ năng lực đệ trình, và được chuyển cho Văn phòng
Hội đồng để trình ngay lên Chủ tịch Hội đồng.
Hình 5: Quy trình kiểm hiến trước
84
Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp sẽ cử một hoặc nhiều báo cáo viên trong số
các thành viên Hội đồng Hiến pháp để xem xét các khiếu nại. Báo cáo viên có
thể lắng nghe bất kỳ ai và có thể đề nghị cung cấp thông tin trong quá trình xem
xét khiếu nại.
Hội đồng Hiến pháp họp kín để ra quyết định về các khiếu nại theo đa số
thành viên và tuyên bố kết quả bầu cử.
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp trong lĩnh vực bầu cử có giá trị
chung thẩm và không thể bị khiếu nại (Đoạn 4 Điều 75 Hiến pháp).
Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp còn có một số quyền khác như quyền xác
nhận trường hợp khuyết Tổng thống theo quy định tại Điều 57 của Hiến pháp:
“Trong trường hợp khuyết Tổng thống do từ trần, từ chức hoặc trở ngại
tuyệt đối, Hội đồng Hiến pháp sẽ ngay lập tức họp và xác nhận trường hợp
khuyết của Tổng thống với số phiếu đa số các thành viên. Hội đồng sẽ ra tuyên
bố về vấn đề này để gửi cho Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện. Chủ tịch
Hạ viện ngay lập tức được trao quyền thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc
gia trong một khoảng thời gian ít nhất 45 ngày cho đến nhiều nhất 60 ngày. Nếu
sự kiện này xảy ra đồng thời với việc giải tán Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện sẽ
tạm thời được trao quyền thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia trong
khoảng thời gian tương tự”.
7.5. Thực tiễn hoạt động
Cho đến năm 1998, Hội đồng Hiến pháp phụ thuộc rất nhiều vào Tổng
thống, bởi vì Hội đồng Hiến pháp chỉ hoàn toàn là một thiết chế tư vấn dưới
Tổng thống. Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp chỉ thực hiện chức năng tư vấn. Sự
thiếu độc lập và thẩm quyền hạn chế đã làm cho Hội đồng Hiến pháp không thể
hiện vai trò đáng kể nào trong việc bảo hiến1.
Với sửa đổi Hiến pháp năm 1998, trong đó chuyển đổi Hội đồng Hiến
pháp từ một cơ quan tư vấn sang một cơ quan tài phán (có quyền ban hành các
quyết định có giá trị bắt buộc), Hội đồng Hiến pháp thực hiện các nhiệm một
một cách thực chất và độc lập hơn. Hội đồng đã xem xét nhiều vấn đề, nội dung
khác nhau liên quan đến kiểm tra các dự luật, qua đó đóng góp vào việc bảo đảm
sự phù hợp và tương hợp của các dự luật với các quy định của Hiến pháp.
1 En Achour (Rafâa), « Vicissitudes du contrôle de constitutionnalité des lois (en Tunisie) », A.I.J.C.,
vol. IV, 1988, p.538.
85
Tuy nhiên, cũng như Hội đồng Hiến pháp một số nước, sự giới hạn thẩm
quyền của Hội đồng Hiến pháp trong việc kiểm tra tính hợp hiến của các đạo
luật sau khi được công bố và có hiệu lực đã ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò thực
tế của Hội đồng trong nhiệm vụ bảo hiến và bảo vệ các quyền và tự do của công
dân.
Hội đồng Hiến pháp chỉ thực hiện quyền giải quyết các tranh chấp bầu cử,
trưng cầu ý dân kể từ sửa đổi Hiến pháp năm 2002. Tuy nhiên, Hội đồng không
đóng vai trò nổi bật trong lĩnh vực này.
Trong một diễn biến mới vào ngày 15/1/2011, Hội đồng Hiến pháp đã ra
thông báo quyết định xác nhận sự khuyết Tổng thống theo quy định tại Điều 57
của Hiến pháp sau khi Tổng thống Ben Ali từ chức. Sự ra đi của Tổng thống
Ben Ali xuất phát từ tình trạng khủng hoảng xã hội không có tiền lệ trong lịch sử
Tuynidi, với phong trào phản đổi Tổng thống dâng cao, và hệ quả là Tổng thống
đã phải từ chức.
86
VIII. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP XÊNÊGAN
8.1. Quá trình hình thành và phát triển
Cộng hòa Xênêgan là một nước ở Tây Phi, trước đây là thuộc địa của
Pháp. Xênêgan giành độc lập từ Pháp vào năm 1960. Hệ thống Hiến pháp của
Xênêgan hiện nay về cơ bản mô phỏng theo mô hình chính thể lưỡng tính được
xác định trong Hiến pháp của nền Cộng hòa thứ 5 của Pháp năm 1958. Lịch sử
Hiến pháp của Xênêgan trải qua một quá trình phát triển phức tạp với nhiều lần
cải cách Hiến pháp.
Trong gian đoạn phi thuộc địa hóa, Xênêgan có Hiến pháp 1959 và sửa
đổi Hiến pháp năm 1960. Hiến pháp 1959 là luật cơ bản của nhà nước liên bang
giữa Xênêgan và Liên minh Mali. Sửa đổi Hiến pháp 1960 tái lập lại Hiến pháp
độc lập của Xênêgan, thiết lập một hệ thống chính quyền theo mô hình Nghị
viện với chế độ hành pháp lưỡng đầu gồm Tổng thống và Thủ tướng.
Sau độc lập, Xênêgan có Hiến pháp mới vào năm 1962. Bối cảnh Hiến
pháp sau độc lập được đặc trưng bởi sự đối kháng chính trị giữa hai cực của
ngành hành pháp: Tổng thống và Thủ tướng. Sự mâu thuẫn này dẫn đến cuộc
đảo chính không thành công của Thủ tướng vào năm tháng 12 năm 1962. Để
giải quyết mâu thuẫn, Hiến pháp mới đã thay thế mô hình Nghị viện bằng mô
hình Tổng thống chế với quyền lực hành pháp được tăng cường. Hiến pháp vẫn
được giữ lại về cơ bản nhưng có nhiều sửa đổi sau đó. Năm 1966, Liên minh
Cấp tiến của Senghor tuyên bố là đảng duy nhất trong nước và Xênêgan trở
thành một nhà nước độc đảng. Đến năm 1978, một hệ thống đa đảng (3 đảng)
được tái lập.
Sau chiến tranh lạnh, làn sóng dân chủ hóa ảnh hướng đến Châu Phi và
dẫn đến những cải cách Hiến pháp quan trọng của Xênêgan. Tháng 3 năm 1991,
Quốc hội thông qua một số sửa đổi Hiến pháp. Sửa đổi Hiến pháp tái lập vị trí
của Thủ tướng như một phương tiện cân bằng quyền lực của Tổng thống. Các
đảng đối lập cũng được phép tham gia vào Chính phủ. Liên quan đến nhánh tư
pháp, sửa đổi Hiến pháp xác định ba cơ quan mới là: Hội đồng Hiến pháp, Hội
đồng Nhà nước, và Tòa án thượng thẩm. Như vậy, Hội đồng Hiến pháp được
xác lập ở Xênêgan theo sửa đổi Hiến pháp năm 1991 như một cơ quan thuộc
nhánh tư pháp.
87
Sau những diễn biến chính trị, Xênêgan tiến tục cải cách Hiến pháp, dẫn
đến việc ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp hiện hành, sau một cuộc trưng
cầu ý dân vào tháng 7 năm 20011.
8.2. Khuôn khổ pháp lý
Hội đồng Hiến pháp của Xênêgan được thành lập theo Hiến pháp 2001.
Cần xem xét đặc tính của trật tự Hiến phápXênêgan làm nền tảng cho việc xây
dựng và vận hành của Hội đồng Hiến pháp. Xênêgan theo mô hình chính quyền
đại diện, tự do, đa nguyên. Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc pháp quyền và
phân quyền giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xênêgan là một
Nhà nước đơn nhất phi tập trung với các cộng đồng địa phương có cơ quan hành
chính và tài chính độc lập. Hiến pháp Xênêgan tuyên bố và bảo vệ các quyền
con người. Một hệ thống tư pháp độc lập phán xét về các vi phạm Hiến pháp.
Nhân vật trung tâm của Nhà nước Xênêgan là Tổng thống - người đứng đầu Nhà
nước - được dân bầu trực tiếp theo nguyên tắc tự do, bình đẳng, và phổ thông.
Xênêgan có một hệ thống đa đảng, cam kết bảo vệ tự do tôn giáo, có sự tách biệt
giữa Nhà nước và tôn giáo, thực thi chế độ kinh tế thị trường có sự can thiệp của
Chính phủ, và có lực lượng an ninh của Chính phủ dân sự.2
Hội đồng Hiến pháp được quy định trong Chương 8 (Quyền tư pháp) của
Hiến pháp Xênêgan. Điều 88 của Chương này quy định: “Quyền tư pháp là
quyền độc lập khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nó được thực hiện bởi
Hội đồng Hiến pháp, Tòa án tối cao, Tòa án kiểm toán, các tòa án, và các tòa án
đặc biệt.” Như vậy, Hội đồng Hiến pháp có ba đặc tính. Thứ nhất, nó là một cơ
quan độc lập của quốc gia, không thuộc ngành lập pháp và ngành hành pháp.
Thứ hai, nó là một cơ quan tư pháp. Thứ ba, mặc dù vậy, Hội đồng Hiến pháp
không phải là một bộ phận của hệ thống tòa án thường. Nó độc lập với các tòa
án thường (tòa án tối cao, các tòa án khác, các tòa án đặc biệt), và cùng với các
tòa án này và các cơ quan khác như Hội đồng Nhà nước, Kiểm toán Nhà
nước...cùng thực thi quyền tư pháp.
1 Thông tin về diễn tiến Hiến pháp ở Xênêgan được tham khảo từ: Constitutional history of Senegal,
http://www.constitutionnet.org/country/constitutional-history-Senegal
2 Demba Sy, “ Senegal” in Encyclopedia of World Constitutions, Volume III ed., Gerhard Robbers (New York:
Facts on File, 2007), 797.
88
Những điểm trên cho thấy Hội đồng Hiến pháp của Xênêgan giống với
Tòa án Hiến pháp hơn là Hội đồng Hiến pháp của Pháp, do nó là một cơ quan
độc lập của nhà nước, thực hiện quyền tư pháp.1
8.3. Cơ cấu tổ chức
Về thành phần, Hội đồng Hiến pháp gồm 5 thành viên, có một Chủ tịch,
một Phó Chủ tịch và 3 thẩm phán. Nhiệm kỳ của họ là 6 năm. Cứ mỗi 2 năm,
Chủ tịch và hai thành viên khác của Hội đồng sẽ được thay thế, theo thứ tự dựa
trên ngày hết hạn nhiệm kỳ của họ. Thành viên của Hội đồng Hiến pháp do
Tổng thống Cộng hòa bổ nhiệm. Điều kiện để được bổ nhiệm làm thành viên
của Hội đồng Hiến pháp do một đạo luật tổ chức quy định. Các thành viên Hội
đồng Hiến pháp có thể được tái nhiệm. Chức vụ của thành viên Hội đồng Hiến
pháp chỉ có thể bị kết thúc trước thời hạn vì lý do mất khả năng thể chất và trong
điều kiện do một đạo luật tổ chức quy định. (Điều 89). Để bảo vệ các thành viên
Hội đồng Hiến pháp, Điều 93 quy định thêm: “Trừ trường hợp phạm tội quả
tang, các thành viên của Hội đồng Hiến pháp chỉ có thể bị bắt, truy tố, xét xử về
tội phạm hình sự với sự đồng ý của Hội đồng.”
Như vậy, có thể thấy rằng thành viên của Hội đồng Hiến pháp Xênêgan
không được bổ nhiệm theo một quy trình dân chủ. Việc để cho Tổng thống hoàn
toàn lựa chọn các thành viên Hội đồng Hiến pháp và đặt cơ quan dân chủ đứng
ngoài quy trình này có thể giới hạn sự độc lập và tính chính đáng của Hội đồng
Hiến pháp.
8.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Theo Điều 92 của Hiến pháp Xênêgan, Hội đồng Hiến pháp có quyền:
quyết định về tính hợp hiến của luật, của quy chế nội bộ của Nghị viện, và của
các điều ước quốc tế, tranh chấp về thẩm quyền giữa cơ quan lập pháp và hành
pháp. Như vậy, Hội đồng Hiến pháp Xênêgan có các loại thẩm quyền sau:
Thứ nhất, quyền kiểm tra tính hợp hiến của luật. Điều 74 trong Chương
VI - Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp, cho thấy vai trò kiểm hiến của
Hội đồng Hiến pháp có tính chất kiểm tra trước. Điều này quy định như sau:
“Hội đồng Hiến pháp có thể họp để xem xét tính hợp hiến của luật khi có
đề nghị của:
1 Chính vì vậy, một số tài liệu tiếng Anh dịch Hội đồng Hiến pháp của Xênêgan là Tòa án Hiến pháp
(Constitutional Court).
89
1) Tổng thống Cộng hòa, trong vòng sáu ngày sau khi đạo luật được
thông qua và chuyển đến cho Tổng thống.
2) Một số lượng hạ nghị sĩ tương đương với 10% tổng số thành viên
của Hạ viện, trong vòng sáu ngày sau khi đạo luật được thông qua.
3) Một số lượng thượng nghị sĩ tương đương với 10% tổng số thành
viên của Thượng viện, trong vòng sáu ngày sau khi đạo luật được
thông qua.”
Như vậy, một đạo luật đã được Nghị viện thông qua, được chuyển cho
Tổng thống công bố, và nếu Tổng thống cho rằng đạo luật bất hợp hiến, Hội
đồng Hiến pháp sẽ họp để phán quyết. Trong một trường hợp khác, một số
lượng nhất định nghị sĩ của hai viện cũng có quyền yêu cầu Hội đồng Hiến pháp
xem xét lại tính hợp hiến của đạo luật đã được thông qua nhưng chưa công bố.
Đây rõ ràng là một sự mô phỏng theo truyền thống bảo hiến của Pháp. Quy định
trên cũng cho thấy, chỉ các định chế chính trị (Tổng thống, một số lượng nhà lập
pháp), được quyền tiếp cận công lý Hiến pháp. Hiến pháp không cho thấy các
tòa án tư pháp thường và công dân có quyền đặt vấn đề tính hợp hiến của luật
trước Hội đồng Hiến pháp.
Thứ hai, quyền kiểm tra tính hợp hiến của các điều ước quốc tế. Về loại
thẩm quyền này, Hiến pháp Xênêgan quy định tại Điều 97: “Nếu Hội đồng Hiến
pháp tuyên bố một điều ước quốc tế chứa đựng điều khoản mâu thuẫn với Hiến
pháp, việc phê chuẩn hay thông qua điều ước quốc tế đó chỉ có thể được thực
hiện sau khi sửa đổi Hiến pháp.”
Thứ ba, quyền giải quyết tranh chấp về quyền lực giữa các định chế chính
trị (lập pháp và hành pháp). Nếu trong quy trình lập pháp, một dự án luật hoặc
một đề nghị sửa đổi luật không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật, Thủ tướng và
các thành viên khác của Chính phủ có thể phản đối tiếp nhận chúng. Trong
trường hợp có bất đồng, Hội đồng Hiến pháp, theo yêu cầu của Tổng thống
Cộng hòa, của Quốc hội (tức Hạ viện), của Thượng viện, hoặc của Thủ tướng, sẽ
đưa ra quyết định trong vòng 8 ngày (Điều 83).
Ngoài ra, một điều khác của Hiến pháp liên quan đến cơ quan hành pháp
cũng đề cập đến thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp. Theo Điều 52 của Hiến
pháp, “Quốc hội không thể bị giải tán trong thời kỳ thực thi quyền lực đặc biệt.
Khi những quyền này được thực hiện sau khi giải tán, ngày bầu cử được xác
định trong sắc lệnh tuyên bố giải tán không thể bị hoãn, ngoại trừ trường hợp bất
khả kháng do Hội đồng Hiến pháp xác định.” Điều khoản này cho phép Hội
đồng Hiến pháp tham gia vào quá trình giải quyết các khủng hoảng chính trị.
90
Hậu quả của phán quyết
Theo Điều 75 của Hiến pháp, trong trường hợp đạo luật được xem xét về
tính hợp hiến của nó trước khi công bố, thời gian công bố sẽ bị hoãn lại cho đến
khi có kết quả của phiên thảo luận lần thứ hai của Quốc hội về đạo luật hoặc có
quyết định của Hội đồng Hiến pháp tuyên bố đạo luật phù hợp với Hiến pháp.
Điều 92 của Hiến pháp khẳng định: “Phán quyết của Hội đồng Hiến pháp
không thể bị kháng cáo. Nó có hiệu lực đối với tất cả các công quyền và tất cả
các nhà chức trách hành chính và tư pháp.” Quy phạm này cho thấy Hội đồng
Hiến pháp Xênêgan không phải là một cơ quan tư vấn của các định chế chính trị.
Phán quyết của nó có tính chất ràng buộc pháp lý đối với tất cả các định chế
quyền lực công cộng.
8.5. Thực tiễn hoạt động
Để tìm hiểu về thực tiễn hoạt động của Hội đồng Hiến pháp Xênêgan, có
thể xem xét một số vụ án sau đây:
Vụ án thứ nhất:Tính bất hợp hiến của đạo luật về bình đẳng.
Ngày 30 tháng 4 năm 2007, Hội đồng Hiến pháp Xênêgan đã tuyên bố
một đạo luật về bình đẳng do Nghị viện thông qua là bất hợp hiến vì luật này
xâm phạm nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân, cũng như xâm phạm tuyên
bố chung về quyền con người và quyền công dân- một cấu phần của Hiến pháp.
Đạo luật này do Nghị viện Xênêgan thông qua vào tháng 3, quy định rằng phải
có tỷ lệ bình đẳng giữa nam và nữ trong danh sách bầu cử.1 Hội đồng đã xem xét
kiến nghị về tính hợp hiến của các nghị sĩ đối lập thuộc Đảng Xã hội Xênêgan,
Liên minh lực lượng cấp tiến, Phong trào dân chủ của Đảng công nhân. Những
thành viên của Hội đồng Hiến phápủng hộ quan điểm đối lập cho rằng Hiến
pháp chỉ công nhận công dân nói chung được hưởng đầy đủ các quyền chứ
không phân biệt các loại công dân khác nhau. Kiến nghị của các nghị sĩ đối lập
cho rằng đạo luật không thể được áp dụng cho cuộc bầu cử sẽ được tổ chức vào
ngày 3 tháng 6 (2007), bởi vì thời hạn ban hành nó cần phải được hoãn lại cho
đến khi có quyết định của Hội đồng Hiến pháp.2
Vụ án thứ hai: Tính hợp hiến của việc ứng cử Tổng thống lần 3.
1 Andreas Mehler, Henning Melber, Klaas Van Walraven, ed., Africa Yearbook 4 (Brill: Hotei Publishing, 2007),
168-169.
2 Seneganese constitutional council rejects law on equality,
http://english.peopledaily.com.cn/200705/01/eng20070501_371169.html.
91
Ngày 27 tháng 1 năm 2012, Hội đồng Hiến pháp Xênêgan thông qua
quyết định về tính hợp hiến của việc Tổng thống đương nhiệm Abdoulaye Wade
ứng cử tổng thống lần thứ ba mặc dù Hiến pháp giới hạn một người không được
làm tổng thống quá hai nhiệm kỳ. Wade được xem là biểu tượng dân chủ ở
Xênêgan vào tháng 3 năm 2000 khi ông ta được bầu làm tổng thống, kết thúc 40
năm dưới sự cai trị của Đảng Xã hội. Trong nhiệm kỳ thứ nhất, Wade nỗ lực xúc
tiến dân chủ bằng việc xây dựng Hiến pháp mới - Hiến pháp 2001 hiện hành của
Xênêgan. Chính bản Hiến pháp này đặt ra giới hạn Tổng thống không được giữ
chức quá hai nhiệm kỳ. Nhưng hy vọng vào Wade dần dần được thay thế bởi nỗi
sợ hãi về một chế độ độc đoán, đặc biệt sau khi ông ta tái đắc cử lần thứ 2 vào
năm 2007, khi các lãnh đạo của phe đối lập cáo buộc ông ta đã gian lận trong
bầu cử.1 Một nhà nghiên cứu ở Trung tâm Dân chủ, Phát triển và Pháp quyền
thuộc Đại học Standford bình luận: “Ông Wade dường như lập lại những hành
động phi dân chủ của người tiền nhiệm, đó là lạm dụng các thể chế lập pháp và
tư pháp và giới hạn các tự do căn bản…Wade kiểm soát ngành tư pháp và Hội
đồng Nhà nước, quyết định về nghề nghiệp của các thẩm phán và bổ nhiệm các
thành viên của Hội đồng Hiến pháp. Hầu hết quyết định của các cơ quan này đều
ủng hộ ông ta, đặc biệt là quyết định của Hội đồng Hiến pháp cho phép ông ta
tranh cử lần thứ ba. Hội đồng đã chấp nhận lập luận của ông ta rằng giới hạn
nhiệm kỳ không áp dụng đối với ông ta vì Hiến pháp mới chưa có hiệu lực khi
ông ta được bầu làm Tổng thống lần đầu tiên vào năm 2000.”2 Sau quyết định
của Hội đồng Hiến pháp, các nhóm đối lập đã tập hợp và kêu gọi chống lại
quyết định đó.3
Sơ bộ có thể thấy bối cảnh chính trị ảnh hướng lớn đến hoạt động của Hội
đồng Hiến pháp ở Xênêgan. Trong vụ án liên quan đến kiếm tra tính hợp hiến
của luật, Hội đồng Hiến pháp Xênêgan đã tỏ ra là người bảo vệ quyền bình
đẳng. Nhưng trong vụ án về bầu cử, người ta có thể thấy Hội đồng Hiến pháp
nằm dưới sự kiểm soát của quyền lực chính trị. Ngay từ việc thiết kế thể chế, các
nhà lập hiến Xênêgan có vẻ đã muốn đặt Hội đồng Hiến pháp dưới sự kiểm soát
của quyền lực chính trị khi trao cho Tổng thống toàn quyền bổ nhiệm các thành
viên của Hội đồng này.
1 Landry Signé, Strangling Democracy in Senegal, The New York Times,
http://www.nytimes.com/2012/02/25/opinion/strangling-democracy-in-Senegal.html. 2 Như trên.
3 Như trên.
92
IX. HỘI ĐỒNG ĐIỀU TRA HIẾN PHÁP ETHIOPIA
9.1. Quá trình hình thành và phát triển1
Ethiopia là một quốc gia thuộc vùng Sừng Châu Phi. Trước khi Hiến pháp
đầu tiên – Hiến pháp 1931 – được ban hành, Ethiopia không có một Hiến pháp
thành văn điều chỉnh các vấn đề như cơ chế bảo hiến hay kiềm chế đối trọng.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước phong kiến Ethiopia ban hành năm 1931
mô phỏng theo Hiến pháp Meiji 1789 của Nhật Bản.
Trước khi có bản hiến pháp đầu tiên này, mối quan hệ quyền lực trong
triều đình hoặc quan hệ giữa chính quyền với nhà thờ, vai trò của nhà thờ trong
quản trị đất nước đã có một số văn bản pháp luật điều chỉnh, tuy không được gọi
là hiến pháp. Truyền thống lâu đời trên 3.000 năm2 của Ethiopia thường dẫn
chiếu tới cổ luật của nước này có tên gọi là Fitha Ngest – văn bản được các luật
gia coi là một sự phát triển rất quan trọng trong truyền thống pháp luật ở
Ethiopia. Văn kiện pháp lý này điều chỉnh mối quan hệ giữa chính quyền, nhà
thờ và giới quý tộc. Để duy trì trật tự quyền lực thì mối quan hệ chính yếu là
mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, nó đóng vai trò chi phối toàn
bộ hệ thống quản trị quốc gia.
Tuy nhiên, ở giai đoạn sau đó, các học giả có sự đồng thuận rộng rãi khi
cho rằng sự giao lưu với phương Tây và ảnh hưởng của các học giả người
Ethiopia được đào tạo ở Châu Âu cũng như mối quan hệ ngoại giao ngày càng
chặt chẽ với Châu Âu trong thời gian trị vì của hoàng đế Haile Selassie là những
nhân tố chính khiến người Ethiopia từ bỏ văn kiện truyền thống Fitha Ngest để
tiến tới việc ban hành bản hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử của mình –
Hiến pháp 1931. Song đây là bản hiến pháp do triều đình chủ động đưa ra nên
không có gì ngạc nhiên khi nó tập trung quyền lực cho Hoàng đế, và bởi vậy
chưa đặt ra vấn đề bảo hiến.
Sau đó, đất nước Ethiopia bị Italia chiếm đóng trong 5 năm (1936 –
1941). Khi giành được độc lập, nhân dân Ethiopia ý thức rõ hơn về nhu cầu hiện
đại hóa hệ thống pháp luật quốc gia. Do hệ quả của sự kiện lịch sử này và các
yếu tố nội sinh khác, một bản sửa đổi bổ sung hiến pháp được thông qua vào
1 Getahun Kassa (2007), Mechanisms Of Constitutional Control:A Preliminary Observation Of The Ethiopian
System, Afrika Focus, Vol. 20, Nr. 1-2, 2007, pp. 75-104.
2 http://www.forumfed.org/libdocs/FedCountries/FC-Ethiopia.pdf
93
năm 1955. Bản sửa đổi bổ sung này đã quy định sự thay đổi trong hệ thống tổ
chức quản trị chính quyền, hướng tới sự hạn chế quyền lực của hoàng đế và tạo
không gian mở rộng việc công nhận các quyền và tự do của công dân. Sau đó,
Hiến pháp Ethiopia đã trải qua ba lần sửa đổi, bổ sung căn bản vào các năm
1986, 1991 và 1995.
So với các bản hiến pháp trước, Hiến pháp 1995 (Hiến pháp hiện hành)
của Ethiopia đã trao thẩm quyền quyết định tính hợp hiến cho Viện thứ hai của
Quốc hội. Hiến pháp 1995 đặc biệt lưu tâm đến việc bảo vệ các quyền cơ bản và
tự do được thừa nhận rộng rãi theo đúng các công ước quốc tế, nên cần phải có
một cơ chế phù hợp để bảo đảm tính hợp hiến của hành vi công quyền. Bởi vậy,
các học giả và chính trị gia Ethiopia đã tranh luận rất nhiều về cơ chế bảo đảm
sự tuân thủ Hiến pháp và cân nhắc việc trao chức năng giải thích Hiến pháp cho
cơ quan nào: cho tư pháp hay cho một cơ quan khác ngoài tư pháp.
Khi phân tích bối cảnh của Ethiopia, các học giả đã cố gắng đi tìm một
mô hình đặc biệt và cho rằng cần trao quyền giải thích hiến pháp cho Viện liên
bang (tương tự Thượng viện ở các nước khác). Việc trao quyền giải thích Hiến
pháp cho Viện liên bang có nghĩa là các tiểu bang được trao nhiều cơ hội hơn
trong việc bảo vệ quyền lợi của mình trước nguy cơ lạm quyền của chính quyền
liên bang. Sở dĩ như vậy vì Viện liên bang có mối liên hệ chặt chẽ hơn với các
tiểu bang so với Hạ viện. Viện liên bang (sau đây gọi là Thượng viện) có chức
năng bảo vệ lợi ích của các tiểu bang.
Với đặc thù cấu trúc liên bang và các quan điểm nói trên, Điều 62 Hiến
pháp (Liên bang) 1995 và Tuyên bố 251/2001 đã trao quyền giải thích hiến pháp
cho Thượng viện, theo đó Thượng viện có quyền giải thích hiến pháp và quyết
định về tính hợp hiến của hành vi lập pháp và các hành vi công quyền khác.
Điều 84 Hiến pháp 1995 và Tuyên bố 250/2001 đã trao cho Hội đồng điều tra
hiến pháp quyền điều tra các tranh chấp hiến pháp và đệ trình các kiến nghị lên
Thượng viện.
Tương tự, mỗi bang của Liên bang Ethiopia có Hiến pháp riêng của mình
và các bang này cũng trao quyền giải thích Hiến pháp tiểu bang cho Hội đồng
dân tộc hay Ủy ban giải thích hiến pháp (ở các bang Afar, Tigray, Amhara,
Oromyia, Harari, Benishangul-Gumuz, Gambella). Để hỗ trợ cho các cơ quan
này, một Hội đồng điều tra hiến pháp (của tiểu bang) được thành lập.
94
Như vậy, về tổng thể, việc bảo đảm tuân thủ hiến pháp ở Ethiopia được
thiết kế theo hai tầng nấc: liên bang và tiểu bang. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập
trung làm rõ vấn đề ở tầm liên bang.
9.2. Khuôn khổ pháp lý, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền
9.2.1. Thượng viện (Viện liên bang)
Với sửa đổi Hiến pháp năm 1995, Ethiopia chuyển từ nhà nước đơn nhất
sang hình thức cấu trúc liên bang và kéo theo sự thay đổi tổ chức Nghị viện từ
hệ thống một viện sang hệ thống hai viện.
Khác với Hạ viện được bầu trực tiếp, Thượng viện có thể bầu trực tiếp
hay gián tiếp tùy theo mỗi bang1.
Thượng viện đại diện cho các dân tộc, sắc tộc và cho nhân dân; mỗi sắc
tộc có ít nhất một Thượng nghị sĩ và nếu sắc tộc đó có nhiều người thì cứ mỗi
một triệu người sẽ có thêm một ghế Thượng nghị sĩ.
Điều 62 Hiến pháp 1995 trao cho Thượng viện quyền tự mình quyết định
giải thích hiến pháp. Việc giải thích Hiến pháp sẽ xuất phát từ yêu cầu của các
dân tộc, sắc tộc và của nhân dân. Trợ giúp cho chức năng này của Thượng viện
là Hội đồng điều tra hiến pháp.
Với sự trao quyền rất rõ ràng như vậy của Hiến pháp, Thượng viện có
quyền tối cao trong vấn đề giải thích hiến pháp, các tòa án Ethiopia bị gạt ra
ngoài lề trong vấn đề này2. Tuy nhiên điều đó không cản trở tòa án áp dụng Hiến
pháp trong công việc hàng ngày để thực thi nhiệm vụ và trách nhiệm của mình3.
Ngoài Hiến pháp, Tuyên bố 251/2001 của Nghị viện liên bang được ban
hành nhằm củng cố quyền lực của Thượng viện, trong đó đã nỗ lực làm rõ các
chức năng của Thượng viện đối với vấn đề điều chỉnh Hiến pháp. Nhằm mục
đích hoàn thành chức năng này, Thượng viện được trao quyền tổ chức Hội đồng
điều tra hiến pháp và thông qua thủ tục tố tụng tại Hội đồng điều tra hiến
pháp.Thượng viện là cơ quan quyết định cuối cùng về giải thích hiến pháp trên
cơ sở kiến nghị đệ trình lên của Hội đồng điều tra hiến pháp; giải quyết khiếu
1 Luật pháp tiểu bang có thể quy định để cho dân cư bầu trực tiếp Thượng nghị sĩ đại diện cho bang mình, hoặc quy
định cơ quan lập pháp tiểu bang bầu ra Thượng nghị sĩ liên bang.
2 Như vậy từ giải thích hiến pháp ở đây của Thượng viện được hiểu là giải thích trừu tượng, làm rõ nghĩa theo kiểu
giải thích từ ngữ; còn áp dụng hiến pháp của tòa án là giải thích gắn liền ngữ cảnh.
3 Getahun Kassa (2007), Mechanisms Of Constitutional Control:A Preliminary Observation Of The Ethiopian
System, Afrika Focus, Vol. 20, Nr. 1-2, 2007, pp. 75-104.
95
nại của những bên liên quan không thỏa mãn, nếu vụ việc của họ bị Hội đồng
điều tra hiến pháp từ chối xem xét với lý do vụ việc của họ không cần giải thích
hiến pháp.
Thượng viện có nghĩa vụ ra quyết định trong vòng 30 ngày kể từ ngày
nhận được bản đệ trình kiến nghị của Hội đồng điều tra hiến pháp.
9.2.2. Hội đồng điều tra hiến pháp
Một điểm khá đặc biệt trong cơ chế bảo đảm tuân thủ hiến pháp ở
Ethiopia chính là thể hiện sự kết hợp giữa cách tiếp cận chuyên nghiệp và cách
tiếp cận chính trị để giải quyết nhiệm vụ bảo đảm tuân thủ hiến pháp1. Đó chính
là sự kết hợp giữa Thượng viện là một cơ quan mang tính chính trị và Hội đồng
điều tra hiến pháp là một cơ quan mang tính chuyên môn.
Hiến pháp sửa đổi được thông qua năm 1995, nhưng phải đến 1996 thì
Hội đồng điều tra hiến pháp mới được thành lập. Nói là cơ quan chuyên môn
nhưng điểm khác biệt giữa Hội đồng điều tra hiến pháp với các cơ quan tài phán
hiến pháp chuyên nghiệp trên thế giới ở chỗ: thành viên của Hội đồng điều tra
hiến pháp, ngoài thẩm phán, còn có các loại thành viên khác.
Hội đồng điều tra hiến pháp gồm 11 thành viên. Thành phần của Hội đồng
điều tra hiến pháp gồm ba nhóm, từ ba nguồn khác nhau:
Sáu thành viên là những chuyên gia về pháp luật có năng lực
chuyên môn cao và đạo đức tốt được Tổng thống bổ nhiệm trên cơ
sở đề nghị của Hạ viện;
Ba thành viên do Thượng viện chọn ra trong số các Thượng nghị sĩ;
Hai ghế còn lại dành cho những người kiêm nhiệm tự động, đó là
Chánh án và Phó chánh án Tòa án tối cao Liên bang. Hai thành viên
này là hai thành viên mặc nhiên, tự động có quyền tham gia Hội
đồng điều tra hiến pháp mà không cần ai bầu cử hay bổ nhiệm. Hai
thành viên này sẽ giữ chức vụ tương ứng Chủ tịch và Phó chủ tịch
Hội đồng điều tra hiến pháp.
Nhiệm kỳ của của các thành viên phụ thuộc họ tham gia Hội đồng điều tra
hiến pháp như thế nào:
1 Mô hình và cách tiếp cận này cũng tìm thấy ở hiến pháp các bang.
96
Đối với các thành viên kiêm nhiệm tự động thì tư cách thành viên
của họ gắn liền với tư cách và nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh
án Tòa án tối cao.
Sáu thành viên do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Hạ viện
sẽ có nhiệm kỳ tương đương độ dài nhiệm kỳ của Tổng thống –
nghĩa là nhiệm kỳ 6 năm. Họ có thể được tái cử.
Nhiệm kỳ của các thành viên do Thượng viện chọn sẽ tương ứng
với nhiệm kỳ Thượng nghị sĩ của mình.
Tuyên bố 251/2000 đưa ra một số hướng dẫn về việc bổ nhiệm, nhiệm kỳ
và miễn nhiệm tư cách thành viên của Hội đồng điều tra hiến pháp. Tuy nhiên,
vẫn còn một số điểm không rõ ràng trong Tuyên bố này. Ví dụ, Tuyên bố nói
rằng cơ quan nào có quyền bổ nhiệm thì sẽ có quyền miễn nhiệm thành viên
tương ứng khi có lý do thích hợp và sự miễn nhiệm này phải được sự chấp thuận
của đa số thành viên Thượng viện. Nhưng Tuyên bố không nói thế nào là “lý do
thích hợp“. Điều không rõ ràng này khiến cho nhiệm kỳ của thành viên Hội
đồng điều tra hiến pháp không được bảo đảm (ngoại trừ hai thành viên kiêm
nhiệm tự động), do đó làm ảnh hưởng tới sự độc lập của các thành viên của Hội
đồng.
Điểm đặc biệt thứ hai của cơ chế bảo đảm tuân thủ hiến pháp của Ethiopia
nằm ở điều kiện trở thành thành viên Hội đồng điều tra hiến pháp. Ba thành viên
do Thượng viện chọn trên tổng số 11 thành viên không đòi hỏi có trình độ luật
học. Việc có các thành viên không hiểu biết chuyên sâu về pháp luật tham gia
Hội đồng điều tra hiến pháp làm cho cơ quan này mang tính chính trị hơn là một
cơ quan chuyên môn.
Thẩm quyền của Hội đồng điều tra hiến pháp cũng rất hạn chế. Nó có
nhiệm vụ điều tra các tranh chấp hiến pháp và đệ trình lên Thượng viện nếu thấy
việc giải thích hiến pháp là cần thiết.
Hội đồng điều tra hiến pháp có thể nhận vụ việc từ Thượng viện, cơ quan
lập pháp tiểu bang, từ các cơ quan hành pháp, từ bất kỳ tòa án nào và từ các bên
có lợi ích liên quan để xem xét. Hội đồng họp theo quý nhưng có thể triệu tập
các phiên họp bất thường.
Mặc dầu kết luận của Hội đồng điều tra hiến pháp không có hiệu lực ràng
buộc về mặt pháp lý, bởi nó cần được sự chấp thuận của Thượng viện, nhưng
thực tế nó có ảnh hưởng quan trọng tới việc bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân và phát triển dân chủ ở Ethiopia.
97
Để thực thi quyền lực hiến định này, Hội đồng điều tra hiến pháp có
quyền thông qua thủ tục tố tụng của mình; nhưng những thủ tục tố tụng này phải
được sự chấp thuận của Thượng viện. Một phần vì các điều khoản hiến pháp,
một phần vì Tuyên bố 251/2001 (về Hội đồng điều tra hiến pháp) trải qua quá
trình điều chỉnh và sau một thập kỷ thủ tục tố tụng đã cho phép các bên đương
sự có thể mang các vụ việc ra trước Hội đồng điều tra hiến pháp và tới Thượng
viện trên cơ sở kháng cáo.
9.3. Thực tiễn hoạt động1
Hội đồng điều tra hiến pháp, cùng với Thượng viện, trong hơn một thập
kỷ qua đã giải quyết không nhiều vụ việc hiến pháp, nhưng các quyết định đưa
ra đều có tác động lớn.
Phần lớn các vụ việc được chuyển tới Hội đồng điều tra hiến pháp nhưng
dừng lại ở ngay giai đoạn đầu tiên vì có nhiều lý do cho thấy vụ việc không
xứng tầm một vụ điều tra hiến pháp. Nhưng vẫn có một số ít vụ quan trọng được
nghe bởi Hội đồng điều tra hiến pháp và sau đó được đệ trình lên Thượng viện
để ra phán quyết cuối cùng.
Nếu phân tích theo loại vụ việc, cho thấy hầu hết các vụ việc là do công
dân kháng cáo lên Hội đồng điều tra hiến pháp và chỉ có khoảng 5 vụ việc trực
tiếp yêu cầu kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật thông qua bởi Hạ viện và
các cơ quan lập pháp tiểu bang. Các vụ việc còn lại đòi yêu cầu kiểm tra tính
hợp hiến của các quyết định, hành vi của các cơ quan hành pháp của cả liên
bang và tiểu bang hoặc các phán quyết của tòa án.
Số lượng các vụ việc kháng cáo phán quyết của tòa án nhiều cho thấy các
đương sự trong các vụ kháng cáo xem Hội đồng điều tra hiến pháp như một diễn
đàn hay một tầng nấc kháng cáo tiếp theo nhằm chống lại các phán quyết của
các phiên tòa phá án hay phiên tòa phúc thẩm. Nói cách khác, công chúng chưa
nhận thức đúng về chức năng của Hội đồng điều tra hiến pháp cũng như của
Thượng viện trong vấn đề này.
Những vụ án sau đây được các học giả coi như là những cột mốc quan
trọng chứng tỏ Hội đồng điều tra hiến pháp và Thượng viện đã hoạt động như
một cơ quan giải thích hiến pháp.
1 Getahun Kassa (2007), Mechanisms Of Constitutional Control:A Preliminary Observation Of The Ethiopian
System, Afrika Focus, Vol. 20, Nr. 1-2, 2007, pp. 75-104.
98
Vụ án quyền bầu cử
Vụ án này khởi xướng bởi một nhóm người từ Bambasi và Assosa
Woreda của tiểu bang Benishangul-Gumuz. Họ yêu cầu kiểm tra tính hợp hiến
của quyết định do Ủy ban bầu cử ban hành cấm họ tranh cử với lý do họ không
biết ngôn ngữ ở hạt bầu cử, đồng thời cáo buộc Điều 38 Tuyên bố 111/95 là vi
hiến.
Nhóm người này cho rằng quyết định nói trên và Điều 38 của Tuyên bố
111/95 mâu thuẫn với Điều 38 Hiến pháp bảo đảm quyền bầu cử và được bầu.
Vụ việc được Hội đồng điều tra hiến pháp xem xét. Năm trên tổng số 7
thành viên có mặt cho rằng kháng cáo của đương sự là có căn cứ và sau đó đệ
trình lên Thượng viện vào ngày 07 tháng 6 năm 2000. Thượng viện đã tuyên bố
quyết định nói trên và Điều 38 Tuyên bố 111/95 là vi hiến.
Tuy nhiên, nhóm thành viên thiểu số (của Hội đồng điều tra hiến pháp)
cho rằng Điều 38 của Tuyên bố 111/95 không phải chỉ nhằm vào việc loại trừ
những người không biết ngôn ngữ địa phương ra khỏi danh sách ứng cử, mà nó
được ban hành bởi quan ngại rằng ứng cử viên cần phải hiểu ngôn ngữ của cử
tri.
Nhóm thành viên thiểu số tiếp tục tranh luận rằng ngôn ngữ là một khía
cạnh quan trọng của các quyền, chẳng hạn như quyền tự quản, và nó là sự thể
hiện và ghi nhận bản sắc của các dân tộc, sắc tộc. Điều 38 Tuyên bố 111/95
không cấm tham gia tranh cử với lý do anh ta thuộc về một cộng đồng ngôn ngữ
nào đó, mà chỉ là yêu cầu anh ta (ứng cử viên) phải biết ngôn ngữ của nhóm cử
tri mà anh ta đang có dự định đại diện cho họ.
Nhóm thành viên thiểu số cũng cho rằng bầu cử không phải là một quyền
không có giới hạn; mà thay vào đó nó có thể bị giới hạn bởi luật pháp. Bởi vậy,
quyết định cấm tranh cử nêu trên không phải là phân biệt đối xử và không vi
hiến.
Vụ án Silte
Hai nguyên đơn trong vụ án hiến pháp này đại diện cho cộng đồng khởi
kiện vụ án, nhưng sau đó vụ án được theo đuổi bởi một Hạ nghị sĩ Đảng Dân
chủ Thống nhất Silte, nên vụ án được đặt tên theo tên Đảng này.
Nguyên đơn cho rằng những người thuộc cộng đồng của họ bị coi là
người Gurage trái với ý muốn của họ và bị từ chối quyền tự quyết của cộng
đồng trong một thời gian dài, bởi vậy họ yêu cầu Thượng viện bảo đảm cho họ
99
thực thi quyền hiến định. Họ nhấn mạnh rằng cộng đồng người Silte không phải
là người Gurage mà là cộng đồng người với ngôn ngữ riêng, lãnh thổ riêng, lịch
sử riêng, do đó, việc coi người Silte là người Gurage là xâm phạm quyền tự
quyết của họ.
Hội đồng điều tra hiến pháp đã tiếp nhận vụ việc, điều tra, ra khuyến nghị
và đệ trình lên Thượng viện. Tuy nhiên, Hội đồng cho rằng, nguyên tắc cạn kiệt1
các phương thức khiếu kiện của địa phương cần được khai thác. Tuy vấn đề
nguyên đơn nêu xứng tầm một vụ việc hiến pháp, nhưng nó cần được xem xét
trước bởi các cơ chế địa phương và đề nghị đương sự có thể sau đó mang vụ
việc trở lại Thượng viện nếu cho rằng quyết định của các cơ quan địa phương là
trái với Hiến pháp liên bang. Đồng thời Hội đồng cũng gợi ý Hội đồng điều tra
hiến pháp của tiểu bang cần theo dõi quá trình giải quyết vụ việc tại địa phương
và việc giải quyết phải có sự tham gia trực tiếp của cộng đồng người khởi kiện.
Điểm mới trong vụ án này là lần đầu tiên nêu lên nguyên tắc cạn kiệt
trong các vụ việc hiến pháp.
Vụ án Kedija Beshir
Vụ án này được đệ trình bởi Hiệp hội nữ luật sư Ethiopia nhân danh
Kedija Beshir.
Đơn khởi kiện liên quan đến phán quyết thừa kế tuyên bởi một tòa án (tôn
giáo) ở Naiba dựa vào luật Sharia (luật tôn giáo). Và tranh luận chủ yếu xảy ra
xung quanh việc các tòa án thường đã đồng thuận một cách hệ thống với phán
quyết của tòa án tôn giáo.
Trước khi vụ án được chuyển tới Hội đồng điều tra hiến pháp đã trải qua
giai đoạn kháng cáo ở Tòa án Sharia tối cao (tòa án tôn giáo) và cuối cùng là thủ
tục phá án của Tòa án tối cao Liên bang (của tòa án thường). Tất cả các cấp xét
xử đều tái khẳng định nội dung của phán quyết của tòa án Naiba. Nhưng đương
sự (bà Kedija Beshir và được đại diện bởi Hiệp hội nữ luật sư Ethiopia) và ba
đồng khởi kiện cùng nhau phản đối phán quyết của tòa án Naiba và bày tỏ rằng
họ không muốn tòa án tôn giáo xét xử vụ việc của họ.
Các cấp tòa án tiếp theo đều dựa vào luật Sharia (luật tôn giáo) để giải
quyết vụ việc và từ chối yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, Hiệp hội nữ luật sư
Ethiopia cho rằng việc trải qua tất cả các cấp tòa án đều có quan điểm giống
1 Nguyên tắc cạn kiệt (Erschöpfung) đòi hỏi các con đường, phương thức khiếu kiện hợp pháp khác đã sử dụng hết,
không còn nguồn nào khác, mới được phép đưa vụ việc ra Hội đồng điều tra hiến pháp.
100
quan điểm của tòa án tôn giáo Naiba dẫn tới hình thành nên một quan niệm
chung, thái độ của Nhà nước (chứ không riêng gì các tổ chức tôn giáo) đối với
phụ nữ không đúng đắn và đi ngược lại quyền lợi của phụ nữ đã được ghi nhận
trong hiến pháp. Bởi vậy, việc tất cả các cấp tòa án của nhà nước đồng thanh với
tòa tôn giáo như trên là vi hiến.
Nhận được vụ án, Hội đồng điều tra hiến pháp cho rằng vụ án xứng tầm
một vụ việc hiến pháp và đệ trình lên Thượng viện với các quan điểm sau:
Việc tất cả các cấp tòa án của Nhà nước lặp lại phán quyết của tòa án tôn
giáo Naiba là trái với Điều 34 Khoản 5 Hiến pháp 1995 – Điều khoản này thừa
nhận quyền của các bên tranh chấp được giải quyết tranh chấp của họ tại các
định chế tôn giáo hoặc tập quán. Theo quy định này, các tranh chấp liên quan
vấn đề gia đình, nhân thân chỉ có thể giải quyết tại các định chế tôn giáo, tập
quán với sự đồng thuận của các bên tranh chấp.
Quyền tài phán của các định chế tôn giáo, tập quán không phải là quyền
tài phán bắt buộc đối với các bên tranh chấp; hay nói cách khác các định chế này
không đương nhiên có thẩm quyền. Họ chỉ có thẩm quyền nếu các đương sự
đồng thuận lựa chọn họ. Bởi vậy, tòa án tôn giáo Naiba không có thẩm quyền
trong vụ án này, vì bị bà Kedija Beshir từ chối mang vụ việc ra tòa tôn giáo. Hay
nói cách khác, phán quyết của tòa án Naiba là vi hiến.
Thượng viện đã tán thành quan điểm của Hội đồng điều tra hiến pháp và
tuyên bố nguyên đơn thắng kiện.
X. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP MARỐC
10.1. Quá trình hình thành và phát triển
Marốc (Vương quốc Morocco) là một quốc gia nằm ở vùng Bắc Phi.
Marốc vốn là thuộc địa dưới chế độ bảo hộ (Protectorate) của cả Pháp và Tây
Ban Nha cho đến năm 1956, khi nước này lần lượt tuyên bố độc lập khỏi Pháp
ngày 2 tháng 3 năm 1956 và Tây Ban Nha ngày 7 tháng 4 năm 1956. Kể từ
đó,Marốc trở thành một quốc gia độc lập theo chế độ quân chủ lập hiến. Tuy
nhiên, Quốc vương trị vì Marốc có khá nhiều quyền lực được trao theo Hiến
pháp, khiến cho mô hình quân chủ lập hiến cũng không thật sự rõ nét. Hiến pháp
sửa đổi năm 2011 đã có nhiều cải cách giảm bớt quyền hạn của Quốc vương và
tăng thẩm quyền cho các cơ quan nhà nước khác để dân chủ hóa hơn nữa Vương
101
quốc, hiện thực hóa mô hình quân chủ lập hiến và xây dựng ổn định chính trị tại
Marốc.1
Ngay từ khi còn là một quốc gia dưới sự bảo hộ của Pháp và Tây Ban
Nha, Marốc đã có các dự án nhằm xây dựng hiến pháp cho quốc gia. Năm 1908,
một dự thảo Hiến pháp đã được giới thiệu tại Marốc. Điều thú vị là dự thảo này
được đăng tải trên tờ báo “Lissan Al Maghreb” và không rõ tác giả là ai. Nhưng
dự thảo đã thu hút được sự chú ý của người dân Marốc và phản ánh một ý thức
mới về dân chủ, lập hiến, pháp quyền và quyền con người ở Marốc. Dự thảo này
không bao giờ được chấp nhận và ban hành.
Bản Hiến pháp đầu tiên được ban hành tại Marốc vào năm 1962, sau khi
Marốc tuyên bố độc lập. Để ban hành bản Hiến pháp này, Quốc vương Marốc
khi đó là Hassan II đã thành lập một Hội đồng Hiến pháp chịu trách nhiệm dự
thảo Hiến pháp. Hiến pháp sau đó được đưa ra trưng cầu ý dân vào ngày 7 tháng
12 năm 1962 và chính thức được ban hành vào ngày 14 tháng 12 năm 1962.
Hiến pháp 1962 chính thức lựa chọn chế độ Quân chủ lập hiến áp dụng cho
Vương quốc Marốc.
Kể từ đó, Marốc cũng đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung hay ban bố các bản
Hiến pháp mới. Trong đó phải kể đến các bản Hiến pháp được ban hành vào
năm 1970, 1972, 1992. Năm 1996 một bản Hiến pháp mới được ban hành. Điểm
nổi bật của bản Hiến pháp mới là thiết lập một Quốc hội lưỡng viện. Năm 2011
Hiến pháp 1996 được sửa đổi bổ sung với nhiều cải cách liên quan đến cả Quốc
vương, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và tài phán hiến pháp.2
Marốc có một lịch sử phát triển liên quan đến bảo hiến, hay tài phán hiến
pháp và các mô hình áp dụng thẩm quyền này. Ngay trong dự thảo 1908, vấn đề
tài phán hiến pháp đã được đặt ra, phản ánh nhận thức của tác giả dự thảo về tầm
quan trọng của thiết chế này từ rất sớm. Năm 1962, vấn đề tài phán hiến pháp
chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp bằng cách thiết lập một Tòa Hiến
pháp (Constitutional Bench) trong lòng Tòa án Tối cao (Supreme Court). Mô
hình này đã hai lần được cải cách trong một thời gian ngắn bằng mô hình Hội
đồng Hiến pháp lâm thời trong giai đoạn từ ngày 11 đến 20 tháng 06 năm 1963
và từ ngày 9 tháng 10 năm 1970 đến 20 tháng 10 năm 1977. Trong các giai đoạn
1 Xem thêm thông tin về Vương quốc Marocco tại http://en.wikipedia.org/wiki/Morocco lên mạng ngày 05/03/2013
2 Xem thêm về Hiến pháp Maroc tại http://fr.wikipedia.org/wiki/Constitution_du_Maroc Hiến pháp Maroc (tiếng
Pháp) http://www.sgg.gov.ma/BO/bulletin/FR/2011/BO_5964-Bis_Fr.pdf lên mạng ngày 05/03/2013 (tiếng Anh)
http://www.ancl-radc.org.za/sites/default/files/morocco_eng.pdf lên mạng ngày 05/03/2013
102
này, Tòa Hiến pháp và Hội đồng Hiến pháp đã ban hành khoảng 820 phán quyết
liên quan đến tính hợp hiến của các đạo luật căn bản và các quy định về thủ tục
do Quốc hội ban hành, cũng như về những tranh chấp trong bầu cử.
Mô hình Tòa Hiến pháp phụ thuộc này được cải cách và thay thế bằng mô
hình Hội đồng Hiến pháp độc lập trong Hiến pháp 1992. Đặc trưng cơ bản của
thiết chế Hội đồng Hiến pháp năm 1992 là độc lập so với tòa án cũng như các
thiết chế khác. Mô hình này tiếp tục được duy trì trong Hiến pháp năm 1996.
Tuy nhiên, lần sửa đổi Hiến pháp năm 2011 đã thay thế mô hình này bằng việc
thiết lập Tòa án Hiến pháp độc lập (Constitutional Court), được quy định tại
chương VIII.1
10.2. Khuôn khổ pháp lý
Hiến pháp 1996 quy định về Hội đồng Hiến pháp tại Chương VI, bao gồm
4 điều từ Điều 78 đến Điều 81. Hiến pháp sửa đổi 2011 quy định về Tòa án Hiến
pháp tại Chương VIII, gồm có 6 điều từ Điều 129 đến Điều 134.2 Hiến pháp
2011 xác lập các quy định căn bản về thành phần, số lượng, thẩm quyền của Tòa
án Hiến pháp.
Ngoài ra, Hiến pháp 2011, tương tự như Hiến pháp 1996 cũng minh thị
quy định tại Điều 131 trao cho Quốc hội quyền ban hành các đạo luật căn bản
quy định về hoạt động, chức năng và thủ tục của Tòa án Hiến pháp cũng như
tiêu chuẩn thành viên của Tòa án.3
Điều 133 Hiến pháp năm 2011 thiết lập một quy định mới so với Hiến
pháp năm 1996. Theo Điều 133, Quốc hội cũng có quyền ban hành luật căn bản
quy định về điều kiện và cách thức cho phép Tòa án Hiến pháp xem xét tính hợp
hiến của một đạo luật đã được ban hành và đang có hiệu lực, nhưng bị đương sự
trong một vụ kiện đang được tòa án thường thụ lý cáo buộc là vi phạm các
quyền căn bản của nhân dân theo Hiến pháp.4
Theo sự ủy nhiệm của Hiến pháp, Quốc hội Marốc đã ban hành nhiều đạo
luật căn bản quy định về hoạt động, thẩm quyền, thủ tục cũng như tiêu chuẩn
1 Xem thêm Marocco, Constitutional Council tại
http://www.codices.coe.int/NXT/gateway.dll/CODICES/descriptions/eng/afr/marlên mạng ngày 05/03/2013 2Xem Hiến pháp Maroc 1996, Chương VI và Hiến pháp Maroc 2011, Chương VIII
3 Điều 131 Hiến pháp Maroc 2011
4 Điều 133 Hiến pháp Maroc 2011
103
thành viên của Hội đồng Hiến pháp (theo Hiến pháp năm 1996) cũng như Tòa
án Hiến pháp (theo Hiến pháp năm 2011).1
10.3. Cơ cấu tổ chức
Theo Hiến pháp năm 1996, Hội đồng Hiến pháp bao gồm 12 thành viên,
trong đó 6 người được bổ nhiệm bởi Quốc vương, 3 người được bổ nhiệm bởi
Chủ tịch Hạ viện (House of Representatives), 3 người được bổ nhiệm bởi Chủ
tịch Thượng viện (House of Counsellors).2 Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do
Quốc vương bổ nhiệm trong số 6 thành viên được lựa chọn bởi Quốc vương.
Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng là 9 năm và không được gia hạn.
Theo quy định của Luật, cơ cấu tổ chức của Hội đồng Hiến pháp theo
Hiến pháp năm 1996 gồm có Chủ tịch Hội đồng và các cơ quan giúp việc. Cơ
quan giúp việc bao gồm:
-Văn phòng Hội đồng hay Tổng thư ký (Le Secrétaire Général) chịu trách
nhiệm điều hành chung công việc hành chính của Hội đồng.
-Phòng lưu trữ (Le Service du Greffe) có nhiệm vụ tập hợp, bảo quản và
lưu trữ các tài liệu, quyết định và các giấy tờ khác của Hội đồng, đồng thời là cơ
quan điều phối các giấy tờ về bầu cử cũng như dịch vụ tống đạt quyết định, giấy
tờ.
-Phòng giáo dục và đối ngoại (Le Service des Etudes et des Relations
Extérieures) chịu trách nhiệm về quan hệ đối ngoại, nghiên cứu của Hội đồng.
-Phòng thông tin và tài liệu (Le Service de la Documentation et de
l’Informatique) chịu trách nhiệm cung cấp thông tin tài liệu, thư viện cho Hội
đồng và những người bên ngoài nghiên cứu về Hội đồng. Nó còn quản trị một
website riêng của Hội đồng.
-Phòng tổ chức và tài chính (Le Service Administratif et Financier) quản
lý ngân sách và nhân sự cho Hội đồng.
-Cuối cùng là Phòng Kế toán (Le Service Comptable).3
1Một phần các đạo luật này đã được dịch ra tiếng Pháp và đăng tải tại Website http://www.conseil-
constitutionnel.ma/sommaire_fr.phplên mạng ngày 05/03/2013
2 Điều 79 Hiến pháp Maroc 1996
3 http://www.conseil-constitutionnel.ma/FR/Etablissement.php?P=SystemeAdministratif&R=Etablissement
104
Hiến pháp năm 2011 thiết lập một Tòa án Hiến pháp với 12 thành viên, 6
trong số đó được bổ nhiệm bởi Quốc vương. Trong số 6 người này, có một
người do Tổng thư ký Hội đồng Ulemas (Hội đồng giáo sỹ hồi giáo tối cao) đề
nghị, 6 thành viên còn lại do Hạ viện và Thượng viện (3 thành viên mỗi Viện)
bầu lên bằng phương thức bỏ phiếu kín, do mỗi Viện giới thiệu. Cuộc bỏ phiếu
phải có ít nhất 2/3 đại biểu tham dự.1 Chánh án Tòa án Hiến pháp do Quốc
vương bổ nhiệm trong số 12 thành viên của Tòa chứ không phải chỉ nằm trong
số thành viên do Quốc vương chỉ định như Hiến pháp năm 1996.
Hiến pháp năm 2011 cũng quy định rõ ràng về tiêu chuẩn bổ nhiệm thành
viên Tòa án Hiến pháp. Thành viên Tòa Hiến pháp phải là người có kiến thức
chuyên sâu trong lĩnh vực tư pháp và có năng lực chuyên môn về tư pháp, học
thuật hay hành chính. Họ cũng phải có ít nhất 15 năm kinh nghiệm. Phải trung
thực và trung lập.2
Hiến pháp 2011 trao cho Quốc hội quyền ban hành các đạo luật căn bản
về hoạt động, chức năng cũng như thủ tục của Tòa án Hiến pháp. Ngoài ra, Hiến
pháp 2011 còn quy định rõ, các thành viên của Tòa án Hiến pháp không được
đồng thời nắm giữa các chức vụ khác.3 Quy định mới này nhằm tăng thêm tính
độc lập cho Tòa án Hiến pháp trong mối quan hệ với Quốc vương và các cơ
quan nhà nước khác.
10.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Có một số sự khác biệt về quyền hạn giữa Hội đồng Hiến pháp theo Hiến
pháp năm 1996 và Tòa án Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2011. Bảng sau sẽ
phân tích so sánh thẩm quyền của hai mô hình.
Bảng 8: Bảng phân tích so sánh thẩm quyền của hai mô hình
Thẩm quyền Hội đồng Hiến pháp Tòa án Hiến pháp
Kiểm tra tính hợp
hiến
Kiểm tra tính hợp hiến của
các đạo luật căn bản và các
quy định về thủ tục của
Quốc hội hay các đạo luật
thường khác trước khi
Kiểm tra tính hợp hiến của
các đạo luật căn bản và các
quy định về thủ tục của Quốc
hội hay các đạo luật thường
khác trước khi được ban hành
1 Điều 130 Hiến pháp Maroc 2011
2 Điều 130 Hiến pháp Maroc 2011
3 Điều 131 Hiến pháp Maroc 2011
105
được ban hành (Điều 81).
Để yêu cầu sửa đổi luật
thường, cần có ¼ số đại
biểu của một trong hai
việnnhất trí.
(Điều 132). Số lượng đại biểu
cần thiết để yêu cầu sửa đổi
luật thường là ít nhất 1/5 cho
Hạ viện và ¼ cho Thượng
viện.
Giám sát tính hợp
hiến của các đạo
luật liên quan đến
việc phân chia
thẩm quyền giữa
lập pháp và tư
pháp.
Phán quyết về tính hợp
hiến của một đạo luật do
Quốc hội ban hành nhưng
bị Chính phủ phản đối cho
là vi hiến.
Phán quyết về tính hợp hiến
của một đạo luật do Quốc hội
ban hành nhưng bị Chính phủ
phản đối là vấn đề đó không
thuộc thẩm quyền của Quốc
hội.
Kiểm tra tính hợp
thức của các cuộc
bầu cử Nghị viện
và trưng cầu ý
dân.
Điều 180 Điều 132
Kiểm tra tính hợp
hiến của một đạo
luật bị khiếu nại
trước tòa là vi
hiến.
Không quy định Điều 133
Các thẩm quyền
khác
- Quyết định về tư cách
thành viên của đại biểu Hạ
viện, Thượng viện trước và
sau bầu cử, khi có xung đột
vị trí, chết hoặc từ chức.
- Xác định tư cách thành
viên của chính Hội đồng
Hiến pháp.
- Phán quyết trong trường
hợp có xung đột giữa
Chính phủ và Hạ viện hoặc
Thượng viện theo yêu cầu
Tương tự như Hội đồng Hiến
pháp.
Ra phán quyết theo đa số
(không bao gồm thành viên
không được bầu lại) trong
trường hợp một trong hai viện
không kịp thời bầu thành viên
của Tòa án Hiến pháp.
106
của Thủ tướng hoặc của
Chủ tịch các viện.1
Hiệu lực của phán
quyết
Phán quyết không thể bị
kháng cáo, có giá trị bắt
buộc với mọi cơ quan công
quyền, các thiết chế tòa án
và hành chính (Điều 81).
Các điều khoản hoặc đạo
luật bị tuyên vi hiến không
được ban hành hay áp
dụng.ban hành hoặc áp
dụng.
Tương tự như Hội đồng Hiến
pháp (Điều 134)
Như vậy, có thể thấy Tòa án Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2011 có thẩm
quyền rộng hơn ít nhiều so với Hội đồng Hiến pháp năm 1996. Một thẩm quyền
mới bổ sung là quyền xác định tính chất vi hiến của một đạo luật đã được ban
hành và đang được áp dụng nhưng bị khiếu nại là vi phạm các quyền tự do dân
chủ của công dân. Trong trường hợp này tòa án thường đang thụ lý xử lý vụ án
có quyền đệ trình khiếu nại lên Tòa án Hiến pháp để ra phán quyết.
10.5. Thực tiễn hoạt động
Tài phán hiến pháp của Marốc có một lịch sử lâu dài và phong phú. Điều
này không chỉ được thể hiện qua các mô hình đã từng được áp dụng mà còn qua
cả số lượng phán quyết đã ban hành.
Trong thời gian từ năm 1962 cho đến năm 1992, khi tồn tại mô hình Tòa
Hiến pháp trực thuộc Tòa án Tối cao cũng như hai giai đoạn ngắn áp dụng mô
hình Hội đồng Hiến pháp, đã có khoảng 820 phán quyết được ban hành liên
quan đến tính hợp hiến của các đạo luật cũng như tính hợp thức của các cuộc
bầu cử quốc hội.
Kể từ năm 1992 cho đến năm 2009, Hội đồng Hiến pháp đã ban hành
khoảng 800 phán quyết về nhiều lĩnh vực. Cụ thể như sau :
Kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật căn bản : 2
Kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật thường : 10
1 Marocco, Constitutional Council tại
http://www.codices.coe.int/NXT/gateway.dll/CODICES/descriptions/eng/afr/mar lên mạng ngày 05/03/2013
107
Kiểm tra tính hợp hiến của các quy định về thủ tục của các Viện
của Quốc hội : 12
Sửa đổi các văn bản do cơ quan lập pháp ban hành : 45
Kiểm tra tính hợp thức của các cuộc trưng cầu ý dân: 2
Phán quyết về các xung đột trong bầu cử: 627
Áp dụng các quy định về tư cách pháp lý của các đại biểu Quốc
hội: 53
Xác định tư cách thành viên của Hội đồng Hiến pháp: 2
Xác định tư cách thành viên của các đại biểu Quốc hội: 9
Xác định thẩm quyền: 3
Vấn đề khác: 4.1
Một ví dụ về thẩm quyền xác định tính hợp hiến của văn bản luật là khi
Hội đồng Hiến pháp bác bỏ khiếu nại của các đảng đối lập về một số biện pháp
được quy định trong Dự thảo Luật Tài chính năm 2002. Trong vụ việc này, các
đảng đối lập khiếu nại việc Luật cho phép chia sẻ khoản tiền thu được từ chương
trình tư nhân hóa giữa Quỹ của Quốc vương và Chính phủ bằng một sắc lệnh
(decree) không những trái với Hiến pháp mà còn là xâm phạm thẩm quyền của
Quốc hội. Vụ việc này cũng chỉ ra cho thấy trong tư duy của các nghị sĩ ở
Marốc, Hội đồng Hiến pháp không phải thật sự là một cơ quan tư pháp mà là đại
diện cho tài phán chính trị.2
Trong một vụ việc khác, Hội đồng Hiến pháp đã tuyên quy định cho phép
biệt phái các công chức nhà nước sang làm việc tại các đảng chính trị và công
đoàn là vi phạm Điều 7 của Hiến pháp. Hội đồng cũng đồng thời sửa đổi các
điều khoản bị coi là vi hiến trong đạo luật có liên quan.3
Những ví dụ trên cho thấy Hội đồng Hiến pháp Marốc đã vận dụng
thường xuyên thẩm quyền của mình do Hiến pháp trao cho để phán quyết về
tính hợp hiến của các đạo luật. Một mảng lớn khác cũng thường xuyên được
xem xét là tranh chấp trong các cuộc bầu cử, 627 trường hợp trong khoảng 15
năm.
1Marocco, Constitutional Council tại
http://www.codices.coe.int/NXT/gateway.dll/CODICES/descriptions/eng/afr/mar lên mạng ngày 05/03/2013
2Xem Morocco’s constitutional council rejects appeal tại http://www.panapress.com/Morocco-s-constitutional-
council-rejects-appeal--13-452113-17-lang1-index.html lên mạng ngày 05/03/2013
3Moroccco: Constitutional Council clampdown on secondments tại
http://ansamed.biz/en/marocco/news/ME.XEF73093.html lên mạng ngày 05/03/2013
108
Tuy nhiên, cũng như nhiều vấn đề khác trong Hiến pháp, một trong các
khuyết điểm lớn của mô hình Hội đồng Hiến pháp và sau này là Tòa án Hiến
pháp là sự phụ thuộc lớn của Hội đồng vào Quốc vương. Quốc vương có quyền
bổ nhiệm đến 6 thành viên của Hội đồng. Cho dù Hiến pháp năm 2011 đã có sự
thay đổi nhỏ nhưng Chánh án Tòa Hiến pháp vẫn do Quốc vương bổ nhiệm
trong số các thành viên của Tòa án. Vẫn biết vai trò của nền quân chủ và Quốc
vương là rất lớn trong đời sống chính trị và Hiến pháp Marốc, nhưng sự can dự
quá lớn của Quốc vương vào Hội đồng Hiến pháp bị xem là đi ngược lại chính
định hướng cải cách do Quốc vương Mohamed VI nêu ra.1
1 Abdellah Tourabi, Constitutional Reform in Morocco: Reform in times of revolution (2011) Arab Reform
Initative
109
XI. HỘI ĐỒNG HIẾN PHÁP LIBĂNG
11.1. Quá trình hình thành, phát triển
Libăng là một quốc gia thuộc vùng Trung Đông, trước khi giành được độc
lập vào năm 1943, Libăng là lãnh thổ uỷ trị của Pháp từ sau đại chiến thế giới
lần thứ nhất. Hiện nay, Libăng là một nước cộng hòa dân chủ nghị viện, trong
đó cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bao gồm các đại diện theo tỷ lệ từ
những cộng đồng tôn giáo khác nhau trong đất nước.
Sau khi đế chế Ottoman sụp đổ vào năm 1943, Hiệp ước quốc gia
(National Pact) - một hiệp ước hiện thực hóa những thỏa thuận bất thành văn
trước đó - đã được ký kết và được xem như là một trong những nền tảng chính
trị cơ bản để hình thành nên đất nước Libăng hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, cuộc
nội chiến kéo dài hơn 15 năm từ giữa thập niên 1970 đã ngăn cản việc thực hiện
các quyền chính trị. Sau khi nội chiến kết thúc, nhân dân Libăng cùng chung tay
xây dựng một nhà nước cộng hòa dân chủ với nền tảng là sự phân chia quyền
lực giữa Nghị viện, Chính phủ và Tổng thống.
Trong mô hình Nhà nước Libăng, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện với
128 nghị sĩ đại diện cho 10 sắc tộc và 2 tôn giáo chính ở Libăng là Kito giáo và
Hồi giáo. Trước 1990, số ghế trong Nghị viện được phân chia theo tỷ lệ 60%
cho người Kito giáo và 40% cho người Hồi giáo. Sau đó, tỷ lệ này được chia
đều cho cả 2 tôn giáo. Bộ máy Chính phủ Libăng cũng được phân bổ theo cách
thức tương tự. Vì vậy, cho đến thời điểm hiện nay, 3 vị trí quyền lực nhất của
Libăng được phân bổ theo thứ tự: Tổng thống là người Kito giáo, Chủ tịch Nghị
viện là người Hồi giáo và Thủ tướng là người Hồi giáo.
Nghị viện Libăng được bầu theo cơ chế phổ thông đầu phiếu (ứng cử viên
phải từ 21 tuổi trở lên). Nguyên tắc bầu cử là “người thắng cuộc được tất
cả”(winner-take-all) đối với các nhóm sắc tộc. Do các sắc tộc sinh sống tại nhiều
địa phương khác nhau, điều này nghĩa là nếu một ứng cử viên chiến thắng ở một
nhóm sắc tộc cũng đồng nghĩa với chiến thắng ở các địa phương mà sắc tộc đó
chiếm đa số. Hiện nay đang có một nỗ lực thay đổi từ cách thức trên sang hình
thức đại diện theo tỷ lệ.
Hiện tại ở Libăng, hầu hết các Nghị sĩ không đại diện cho các đảng phái
chính trị như được biết ở các quốc gia khác, và hiếm khi họ hình thành các liên
minh chính trị giữa các đảng phái. Khối chính trường Libăng dựa trên xung đột
lợi ích địa phương, sắc tộc hơn là quyền lực chính trị. Các dự luật hoặc những
110
cuộc bầu cử vì vậy luôn gây ra nhiều tranh cãi. Từ trước giai đoạn nội chiến,
những khiếu nại liên quan đến tính hợp hiến của một đạo luật hay kết quả của
những cuộc bầu cử luôn được giải quyết bởi chính Nghị viện. Việc thiếu vắng
một cơ chế độc lập giải quyết những vấn đề trên đã đặt ra nhiều thách thức đối
với việc bảo đảm tính công bằng và minh bạch trong các phán quyết. Thực trạng
này, tuy sau đó đã được giải quyết trên lý thuyết với sự ra đời của Luật về Hội
đồng Hiến pháp, vẫn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay.
Theo tinh thần của Hiến pháp đầu tiên năm 1926 và Hiến pháp hiện hành
năm 1990, Nghị viện Libăng gồm các thành viên được phân chia đều theo hai
tôn giáo chính là Kito giáo và Hồi giáo. Các cuộc bầu cử Nghị viện được tiến
hành bốn năm một lần. Vì tính chất đa sắc tộc, những mâu thuẫn trong nội bộ
Nghị viện luôn xảy ra và đã dẫn đến cuộc nội chiến từ năm 1975 đến 1990, đe
dọa sự bền vững của đất nước. Vào năm 1989, Thỏa ước Ta’if, hay còn gọi là
Thỏa ước hòa giải dân tộc (National Reconciliation Accord) đã được các bên ký
kết, chính thức chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài, đồng thời quy định nhiều vấn
đề liên quan đến Nghị viện, Chính phủ và cơ chế bảo hiến. Theo đó, Nghị viện
sau khi được thành lập thông qua hình thức bầu cử toàn dân sẽ tiếp tục bầu ra
Tổng thống. Tổng thống Libăng có nhiệm kỳ sáu năm và chỉ được đảm nhận
một nhiệm kỳ duy nhất. Trong nhiệm kỳ của mình, dựa trên đề nghị của Tổng
thống, Nghị viện Libăng bầu ra Hội đồng Hiến pháp (the Constitutional
Council). Hội đồng Hiến pháp Libăng, với nền tảng pháp lý là Điều 19 Hiến
pháp và Luật về Hội đồng Hiến pháp có nhiệm vụ bảo đảm sự minh bạch trong
các cuộc bầu cử và sự hợp hiến đối với các đạo luật.
Tính đến thời điểm hiện tại, Hội đồng Hiến pháp Libăng đã chính thức
trải qua 4 nhiệm kỳ. Trong khoảng thời gian đầu, Hội đồng không thể hiện được
nhiều vai trò đối với hoạt động của Nghị viện do không có cơ sở pháp lý đầy đủ
(không có cơ chế hoạt động rõ ràng). Căn cứ pháp lý lúc bấy giờ là những tinh
thần bảo hiến được tìm thấy rải rác trong nội dung của Thỏa ước Ta’if với
những quy định đơn giản và trừu tượng như “kết quả các cuộc bầu cử có thể bị
khiếu nại và một cơ chế chuyên biệt thuộc Nghị viện sẽ giải quyết”. Đến năm
1993, Luật về Hội đồng Hiến pháp đã được Nghị viện Libăng thông qua, quy
định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng. Đến năm 2008, Luật này đã được
sửa đổi, bổ sung làm cơ sở pháp lý cho sự tồn tại và vận hành của Hội đồng.
111
11.2. Khuôn khổ pháp lý
Hội đồng Hiến pháp Libănglần đầu tiên được thành lập dựa trên cơ sở
Điều 19 Hiến pháp Libăng năm 1990. Những khiếu nại liên quan đến bảo hiến
trước năm 1990 được giải quyết bởi cả Nghị viện và Tòa án tối cao. Căn cứ
pháp lý cho cơ chế này chính là Điều 13 Hiến pháp cũ (Hiến pháp 1926) quy
định thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện đối với tư cách Nghị sĩ được giải
quyết bởi Nghị viện; Điều 9 (Hiến pháp 1926) quy định thẩm quyền tuyên một
đạo luật là vi hiến thuộc về Tòa án tối cao Libăng. Hai điều này sau đó đã bị bãi
bỏ trong lần chỉnh sửa Hiến pháp 1990.
Luật về Hội đồng Hiến pháp được thông qua vào tháng 7 năm 1993, được
Nghị viện Libăng chỉnh sửa vào tháng 12 năm 2008. Theo Luật này, Hội đồng
Hiến pháp, một cơ chế tài phán độc lập dưới sự bảo hộ của Hiến pháp, có thẩm
quyền giới hạn trong việc xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và giải quyết
các khiếu nại liên quan đến kết quả bầu cử Tổng thống hoặc Nghị viện, bao gồm
cả khiếu nại đối với cuộc bầu cử Chủ tịch Nghị viện.
Ngoài ra, theo Hiến pháp Libăngnăm 1990, Hội đồng Hiến pháp là một cơ
quan được thành lập với mục tiêu giám sát và bảo đảm tính hợp hiến của các văn
bản luật. Đồng thời, Hội đồng này cũng có nhiệm vụ giải quyết những mâu
thuẫn phát sinh từ các cuộc bầu cử Nghị viện. Tổng thống, Chủ tịch Nghị viện
và các thành viên đứng đầu những cơ quan khác trong bộ máy nhà nước trung
ương có quyền tham khảo ý kiến của Hội đồng về một đạo luật bị cho là vi hiến.
Lãnh tụ tinh thần của các cộng đồng tôn giáo có quyền tham khảo ý kiến của
Hội đồng về việc ban hành, công nhận và thực thi các quy định có liên quan đến
tự do cá nhân, tự do tính ngưỡng, thực hành tôn giáo.
11.3. Cơ cấu tổ chức
Hội đồng Hiến pháp Libăng gồm 10 thành viên, 5 người được chỉ định
bởi Nghị viện, 5 người được bổ nhiệm bởi Hội đồng Bộ trưởng (Council of
Ministers). Mặc dù về nguyên tắc là bảo đảm sự cân đối giữa các thành viên từ
Nghị viện và Hội đồng Bộ trưởng, song trên thực tế luôn phải có sự cân bằng
giữa các thành viên theo Hồi giáo và Kito giáo. Các thành viên của Hội đồng
Hiến pháp phải có độ tuổi trong khoảng từ 50 đến 70. Ngoài ra, các thành viên
còn cần có ít nhất 25 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý với vai trò là thẩm
phán, luật sư hoặc luật gia. Hội đồng Hiến pháp có nhiệm kỳ 6 năm. Bên cạnh
đó, theo Điều 4 Luật về Hội đồng Hiến pháp 1993(được sửa đổi bổ sung năm
2008), nhiệm kỳ của một nửa số thành viên Hội đồng chấm dứt sau thời điểm
112
công bố Luật này. Những người này sẽ được lựa chọn thông qua hình thức rút
thăm.
Các thành viên được chỉ định bởi Hội đồng Bộ trưởng:
Các thành viên từ Hội đồng Bộ trưởng được lựa chọn theo cách thức đơn
giản. Trong số các thành viên là Bộ trưởng và Thứ trưởng, Hội đồng Bộ trưởng
sẽ tiến hành bỏ phiếu biểu quyết bầu 5 người vào Hội đồng Hiến pháp. Những
thành viên Hội đồng Bộ trưởng được bầu không thể kiêm nhiệm.
Các thành viên được chỉ định bởi Nghị viện:
Năm thành viên còn lại của Hội đồng Hiến pháp được lựa chọn từ Nghị
viện thông qua chế độ bầu cử. Các thành viên này được bầu thông qua 2 vòng. Ở
vòng thứ nhất, từ 16 ứng cử viên đã được lựa chọn, các Nghị sĩ sẽ tiến hành bỏ
phiếu chọn ra 2 người có số phiếu cao nhất (trên 2/3 trong tổng số 128 thành
viên Nghị viện). Ở vòng thứ 2, các Nghị sĩ sẽ tiến hành bỏ phiếu chọn ra 3 thành
viên còn lại (tỷ lệ trên ½ thành viên Nghị viện).
Bảng 9: Bảng thống kê các thành viên Hội đồng Hiến pháp được bầu
từ Nghị viện năm 2008
Ứng cử viên Bầu vòng 1 Bầu vòng 2
Ahmad El Dinn 97,4%
Tarek Ziyadeh 95,8%
Zghaloul Attied 62,7%
Antoine Kheir 59,2%
Raymond Eid 63,1%
Michel Bou Arraj 42,1%
Salah Moukhaiber 43,8%
Các ứng viên còn lại đều có số phiếu dưới 30%
Chỉ định Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp:
Luật về Hội đồng Hiến pháp quy định, nghị quyết đầu tiên của các thành
viên Hội đồng sau khi tuyên thệ nhậm chức là bầu ra Chủ tịch và Phó Chủ tịch
Hội đồng Hiến pháp. Chủ tịch Hội đồng sẽ mang hàm Bộ trưởng. Ngoài ra,
mười thành viên Hội đồng còn tiến hành bầu các chức danh Tổng thư ký Hội
đồng và Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Hiến pháp. Văn phòng Hội đồng sẽ
đảm nhận những công việc liên quan đến vấn đề tổ chức hành chính và thụ lý
các vụ việc.
113
11.4. Nhiệm vụ, quyền hạn
Hội đồng Hiến pháp Libăng có chức năng chính là giám sát và giải quyết
các vụ việc phát sinh từ các cuộc bầu cử Nghị viện. Hội đồng làm việc theo cơ
chế tập thể và biểu quyết thông qua các vấn đề theo đa số. Vì vậy, Luật về Hội
đồng Hiến pháp yêu cầu phải có tối thiểu 8 thành viên thường trực trong các
phiên làm việc (Điều 11). Đối với các phán quyết liên quan đến kết quả bầu cử
Nghị viện, cần có tối thiểu 7 thành viên Hội đồng biểu quyết thông qua (Điều
12). Các thành viên Hội đồng có thể đưa ra những ý kiến khác nhau. Tuy nhiên,
cuối cùng, một phán quyết phải được thông qua và phán quyết này không thể thu
hồi hay không thể bị phúc thẩm.
Khiếu nại kết quả bầu cử:
Theo Điều 24 đến Điều 32 Luật về Hội đồng Hiến pháp, kết quả bầu cử
tại một địa phương chỉ có thể được khiếu nại bởi ứng viên thua cuộc tại địa
phương đó. Khiếu nại phải được chuyển đến Văn phòng Hội đồng trong thời hạn
30 ngày kể từ ngày kết quả bầu cử chính thức được thông báo. Khiếu nại phải
nêu rõ nguyên nhân và cung cấp đầy đủ chứng cứ vì sao kết quả chính thức cần
phải bị hủy bỏ và tiến hành bầu cử lại. Vụ việc khiếu nại cũng sẽ được thông
báo cho Chủ tịch Nghị viện và Bộ Nội vụ. Bộ trưởng Bộ Nội vụ phải có trách
nhiệm cung cấp cho Hội đồng Hiến pháp những tài liệu, chứng cứ có liên quan
đến việc khiếu kiện.
Việc phát sinh vụ việc khiếu nại không trì hoãn việc công bố kết quả bầu
cử chính thức. Trước khi có kết luận chính thức từ Hội đồng Hiến pháp, ứng
viên thắng cử vẫn thực hiện nhiệm vụ và công việc của một nghị sĩ. Tùy thuộc
vào tính chất phức tạp của vụ việc, thời hạn để Hội đồng Hiến pháp ra Nghị
quyết về khiếu nại là 3 tháng, trong một số trường hợp đặc biệt, Hội đồng có thể
gia hạn một lần nhưng tổng thời hạn không quá 6 tháng.
Trong trường hợp Hội đồng ra nghị quyết công nhận nội dung khiếu nại,
sẽ có 2 hướng xử lý. Một là, kết quả bầu cử của ứng viên bị khiếu nại sẽ bị hủy
bỏ, lập tức đình chỉ tư cách Nghị sĩ của ứng viên đó, tiến hành chỉnh sửa kết quả
bao gồm việc bổ nhiệm ứng viên mới. Hai là, kết quả bầu cử bị hủy bỏ và một
cuộc bầu cử lại sẽ được tiến hành theo Luật về Bầu cử Nghị viện.
Bảo hiến:
Theo Luật về Hội đồng Hiến pháp, tính hợp hiến của một đạo luật sẽ được
kiểm tra bởi Hội đồng Hiến pháp dựa trên yêu cầu của bất kỳ thành viên nào
trong Nghị viện. Ngoài ra, Tòa án tối cao Libăng cũng có quyền yêu cầu Hội
114
đồng xem xét tính vi hiến của một đạo luật. Yêu cầu này phải được chuyển đến
Văn phòng Hội đồng chậm nhất là 6 tháng sau ngày công bố chính thức đạo luật.
Hội đồng Hiến pháp sẽ được triệu tập để xem xét vụ việc trong thời hạn 9 tháng
kế từ thời điểm được triệu tập. Trong quá trình xem xét vụ việc, Hội đồng Hiến
pháp có quyền triệu tập và chất vấn Chủ tịch Nghị viện, Thủ tướng, Tổng thống
và các Nghị sĩ.
11.5. Thực tiễn hoạt động
Theo quy định tại Điều 19 Hiến pháp Libăng, Hội đồng Hiến pháp có
chức năng giám sát tính hợp hiến của các văn bản pháp luật và giải quyết những
xung đột phát sinh từ các cuộc bầu cử Nghị viện và Tổng thống. Tuy có một quá
trình hình thành và phát triển gần 20 năm, Hội đồng Hiến pháp Libăng không có
nhiều đóng góp cho hoạt động bảo hiến và giám sát bầu cử tại quốc gia này.
Quyết định đầu tiên của Hội đồng Hiến pháp được ban hành vào năm 1995.
Năm 1996, sau một loại tranh cãi, Hội đồng ra Nghị quyết tuyên bố Luật về bầu
cử Nghị viện Libăng là vi hiến, đồng thời tuyên bố hủy bỏ kết quả bầu cử trước
đó, tiến hành bầu cử lại. Chính vì phải tiến hành bầu cử lại nên đến tháng 4 năm
1997, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp lúc bấy giờ phải từ nhiệm do không đạt đủ
số phiếu để được bầu vào Nghị viện và như vậy, không thỏa mãn điều kiện trở
thành Chủ tịch Hội đồng (Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp trước hết phải là thành
viên của Nghị viện).
Mặc dù đã có những căn cứ pháp lý rõ ràng cho các chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn, Hội đồng Hiến pháp Libăng vẫn chưa thể phát huy tối đa hiệu
quả. Vì là một cơ chế giải quyết tranh chấp với số thành viên là một số chẵn,
những phán quyết của Hội đồng trước khi được thông qua luôn phải đối mặt với
nhiều trở ngại. Quá trình biểu quyết của Hội đồng thường kéo dài do không đạt
được tỷ lệ đa số. Ngoài ra, vì là một tập hợp của hai thế lực tôn giáo, tính trung
thực của Hội đồng luôn bị đặt nghi vấn. Một lý giải cho năng lực yếu kém của
Hội đồng Hiến pháp là pháp luật Libăng chưa quy định một cơ chế hỗ trợ tư
pháp đối với các phán quyết, từ đó dẫn đến tình trạng phán quyết chỉ mang tính
tham khảo. Năm 1995, Hội đồng Hiến pháp ra quyết định tuyên bố đạo luật hạn
chế quyền sở hữu của các sắc tộc là vi hiến, nhưng mãi đến năm 2004 đạo luật
này mới được sửa đổi.
Ngoài ra, do tính chất phức tạp của hệ thống tư pháp Libăng cùng với việc
Nhà nước này ban hành thêm những đạo luật về bầu cử, Hội đồng Hiến pháp đã
mất dần chức năng giám sát bầu cử. Bên cạnh đó, sự mở rộng và lạm quyền của
115
các tòa án quân sự đã làm cho hệ thống tư pháp Libăng càng thêm phân
mảnh.Hội đồng Hiến pháp dần mất đi thực quyền và các phán quyết của Hội
đồng không còn mang giá trị chung thẩm.
116
CHƯƠNG III
NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
I. Cơ sở hình thành Hội đồng Hiến pháp
Cũng như các cơ quan bảo hiến khác, Hội đồng Hiến pháp ra đời với vai
trò bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Thay vì trao quyền bảo hiến cho Tòa án
Hiến pháp hoặc các tòa án thường, một số quốc gia đã trao quyền bảo hiến cho
Hội đồng Hiến pháp. Sự ra đời Hội đồng Hiến pháp (có nguồn gốc từ nước
Pháp), gắn với những điều kiện chính trị-xã hội và mô hình tổng thể tổ chức Nhà
nước cụ thể của từng quốc gia.
a) Thiết lập cơ quan bảo hiến đặc biệt, tách khỏi hệ thống các cơ quan tư
pháp thông thường
Hội đồng Hiến pháp được xếp vào mô hình bảo hiến tập trung. Các quốc
gia đã lựa chọn thiết lập một cơ quan bảo hiến độc lập trong đó có Hội đồng
Hiến pháp để thực hiện chức năng bảo hiến thay vì trao chức năng này cho các
tòa án thường theo mô hình Mỹ với những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, việc trao cho các tòa án thường quyền kiểm tra tính hợp hiến
các đạo luật không phù hợp với truyền thống “Nghị viện tối cao” ở Châu Âu lúc
bấy giờ.
Vào năm 1920, khi tài phán hiến pháp được thiết lập tại nước Áo thì mô
hình phi tập trung của Hoa Kỳ được cân nhắc, nhưng mô hình này không được
tiếp nhận tại nước Áo, cũng như toàn Châu Âu sau này. Đó là bởi ở Châu Âu lục
địa thế kỷ 19, ảnh hưởng của nguyên tắc “Nghị viện là tối cao” còn rất mạnh, vì
vậy rất khó thuyết phục các chính trị gia đương thời chấp nhận việc các tòa án
có thể xem xét lại và tuyên bố một đạo luật là vi hiến. Để tránh xung đột với
nguyên tắc “Nghị viện là tối cao”, Hans Kelsen, học giả người Áo đã tìm ra cách
giải thích mới về tài phán hiến pháp. Ông cho rằng: tài phán hiến pháp không
phải là tư pháp mà là lập pháp phủ định (một phần của lập pháp). Ông đã viết
như sau:
“Việc bãi bỏ một đạo luật có đặc điểm quy phạm như việc ban hành một
đạo luật. Việc bãi bỏ một đạo luật tương đương với việc ban hành một đạo
luật nhưng chỉ thêm dấu trừ (dấu phủ định) ở đằng trước. Bởi vậy, việc hủy
một đạo luật cũng là thực hiện chức năng lập pháp và một tòa án hủy một
đạo luật cũng là một cơ quan thuộc quyền lực lập pháp. Do vậy, chúng ta có
117
thể tưởng tượng việc hủy bỏ một đạo luật thông qua tòa án tương đương
một cuộc “giải phẫu” quyền lực lập pháp và trao quyền lực lập pháp cho hai
cơ quan”1.
Mô hình tài phán hiến pháp phi tập trung của Hoa Kỳ cho phép bất kỳ một
tòa án nào cũng có thể từ chối áp dụng một đạo luật của Quốc hội với lý do vi
hiến là điều không thể chấp nhận được theo suy nghĩ của người Châu Âu lúc bấy
giờ. Cho đến tận ngày nay, mô hình đó vẫn không thể áp dụng phổ biến ở Châu
Âu còn vì hai lý do khác nữa.
Thứ hai, Châu Âu lục địa không có truyền thống án lệ mạnh như Hoa Kỳ.
Ở nước Mỹ với mô hình bảo hiến phi tập trung, các tuyên bố của tòa án
chỉ dừng lại ở việc không áp dụng đạo luật của lập pháp trong từng trường hợp
cụ thể, mà không tuyên bố một cách trực tiếp sự mất hiệu lực pháp lý của đạo
luật đó. Nhưng với truyền thống án lệ, phán quyết của tòa án cấp cao luôn có
hiệu lực ràng buộc đối với các vụ án tương tự, nên đạo luật của cơ quan lập pháp
tự nhiên mất hiệu lực thi hành. Nguyên tắc đó là xa lạ đối với truyền thống của
các nước có hệ thống luật dân sự (Châu Âu lục địa), nơi mà mà các thẩm phán
được quyền đưa ra các quyết định độc lập, nên rất có khả năng dẫn đến trường
hợp ngay với cùng một đạo luật, thẩm phán này cho là hợp hiến, nhưng thẩm
phán khác lại cho là không. Nói cách khác, các cơ quan tư pháp của hệ thống
luật dân sự rất dễ có những ý kiến khác nhau về tính hợp hiến của một đạo luật.
Sự mâu thuẫn giữa các thẩm phán, giữa các cơ quan tư pháp và sự không thể dự
đoán của pháp luật là một điều trái ngước với nguyên lý của trật tự pháp quyền.
Thực tế mô hình bảo hiến phi tập trung đã từng được áp dụng ở Châu Âu ở một
số nước như ở Đức, Ý nhưng không mấy thành công trước khi hai nước này
thành lập Tòa án hiến pháp2.
Thứ ba, kinh nghiệm và kỹ năng của các thẩm phán Châu Âu (cho đến tận
ngày nay) vẫn có sự khác biệt với các đồng nghiệp Hoa Kỳ. Ở Châu Âu các
thẩm phán tương lai thông thường đi theo lộ trình: học đại học, sau đó làm thư
ký tòa án trước khi được bổ nhiệm làm thẩm phán. Bởi vậy, Hans Kelsen cho
rằng các thẩm phán thông thường ở Châu Âu không có đủ kinh nghiệm, kỹ năng
cần thiết để có thể trở thành “thẩm phán hiến pháp”(thẩm phán làm việc tại một
tòa án có quyền tài phán hiến pháp).
1. Vgl. Hans Kelsen (1928), im Wesen und Entwicklung der Staatsgerichtsbarkeit - Überprüfung von
Verwaltungsakten durch die ordentlichen Gerichte, tr. 54
2 Xem: Mauro Cappeletly , Judical Review in the Contemporary World, p.59
118
Trong khi đó, ở Hoa Kỳ, tất cả các thẩm phán, không phân biệt ở cấp nào,
đều có kinh nghiệm khá dày dặn mà thẩm phán Châu Âu lục địa không có được,
bởi lẽ để trở thành sinh viên luật học ở Châu Âu ứng viên chỉ cần tốt nghiệp phổ
thông, trong khi đó ở Hoa Kỳ thì bắt buộc sinh viên phải có bằng cử nhân hoặc
kỹ sư về một lĩnh vực khác. Điều này có nghĩa là sinh viên luật học ở Hoa Kỳ đã
am hiểu sâu một ngành, lĩnh vực cụ thể của cuộc sống ngay từ lúc bước vào
giảng đường luật học. Ngoài ra, nếu như các thẩm phán ở Châu Âu lục địa
thường được bổ nhiệm trong số các thư ký tòa án, thì ngược lại, các thẩm phán ở
Hoa Kỳ chủ yếu được lựa chọn từ các luật sư danh tiếng và có đạo đức tốt. So
với các thư ký tòa án, kinh nghiệm và kỹ năng của các luật sư này có thể sánh
như bậc thầy1. Trong cuốn sách Hệ thống và sự phát triển của tài phán hiến
pháp, Hans Kelsen viết2:
“Trong bất kỳ trường hợp nào, dù là nhằm bảo đảm tính hợp pháp cũng như
bảo đảm tính hợp hiến thì không nên trao quyền xem xét và hủy bỏ hành vi
bất hợp pháp, bất hợp hiến cho chính cơ quan đã có hành vi (ban hành ra)
hành vi bất hợp pháp, bất hợp hiến đó”.3
Hans Kelsen viết tiếp4:
“Chỉ có thể cầu đến một cơ quan độc lập với cơ quan lập pháp, cũng như
độc lập với bất kỳ cơ quan nhà nước khác thì mới có thể hủy các hành vi vi
hiến của các nhà lập pháp. Đó chính là định chế của một Tòa án hiến
pháp”5.
Bên cạnh những cơ sở chung thành lập một mô hình bảo hiến tập trung,
những hoàn cảnh, điều kiện đặc thù khác ở một số quốc gia đã dẫn đến sự ra đời
của Hội đồng Hiến pháp, thay vì thành lập Tòa án Hiến pháp. Những hoàn cảnh,
điều kiện đặc thù đó bao gồm:
b) Sự ra đời và ảnh hưởng mô hình Hội đồng Hiến pháp của Pháp
1 Vgl. Georg Vanberg. 2005 , S. 79
2 Nguyên văn tiếng Đức: „In keinem anderen Falle von Rechtmäßigkeitsgarantie wie gerade in dem der
Verfassungsgarantie liegt es so nahe, die Vernichtung des rechtswidrigen Aktes dem Organ selbst zu überlassen, das den
rechtswidrigen Akt gesetzt hat.“
3 Vgl. Hans Kelsen (1928), S. 53
4 Nguyên văn tiếng Đức: “Nur ein vom Gesetzgeber verschiedenes, von diesem und daher auch von jeder anderen
staatlichen Autorität unabhängiges Organ muß berufen werden, die verfassungswidrigen Akte des Gesetzgebers zu
vernichten. Das ist die Institution eines Verfassungsgerichtes“
5 Vgl. Hans Kelsen (1928), S. 53
119
Mô hình Hội đồng Hiến pháp ra đời ở Pháp theo quy định của bản Hiến
pháp 1958. Xuất phát từ truyền thống “Nghị viện tối cao”, người Pháp không
chấp nhận việc các tòa án thường hoặc một Tòa án đặc biệt có thể kiểm tra các
đạo luật của Nghị viện. Những rào cản đó khiến cho nước Pháp chỉ có thể thành
lập một Hội đồng Hiến pháp - một cơ quan có nhiều đặc điểm chính trị với thẩm
quyền hạn chế (chỉ thực hiện chức năng tiền kiểm hiến cho đến cải cách vào
năm 2008).
Dưới sự ảnh hưởng truyền thống pháp luật của Pháp, một số quốc gia như
Angiêri, Campuchia, Môritani, Chad, Tuynidi, Xênêgan, Marốc… đã lựa chọn
mô hình Hội đồng Hiến pháp. Không thuộc nhóm các nước đó, Ethiopia cũng
thiết lập Hội đồng Hiến pháp với những đặc điểm khác biệt.
Khác với mô hình Tòa án Hiến pháp hay mô hình tòa án tư pháp, mô hình
Hội đồng Hiến pháp của Pháp không được nhân rộng ở các nước khác trên thế
giới xuất phát từ những hạn chế căn bản của mô hình này: Một cơ quan có nhiều
đặc điểm chính trị và thẩm quyền bảo hiến hạn chế.
c) Hội đồng Hiến pháp: Sự lựa chọn chính trị an toàn
Các quốc gia thiết lập Hội đồng Hiến pháp đều là những quốc gia có
truyền thống bảo hiến muộn so với các quốc gia khác. Trong khi bảo hiến ra đời
xuất phát từ nhu cầu cần thiết phải bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp – một
nguyên tắc căn bản của Nhà nước pháp quyền.
Khi xã hội phát triển cùng với sự chuyển đổi dân chủ và pháp quyền,
người ta bắt đầu nhận thấy sự cần thiết của cơ quan bảo hiến trong việc kiểm tra
tính hợp hiến của các cơ quan công quyền để bảo đảm các quyền và tự do của
nhân dân. Tuy nhiên, sự chuyển đổi chính trị chưa tạo ra đầy đủ các điều kiện để
ra đời một Tòa án Hiến pháp, mà chỉ là một Hội đồng Hiến pháp.
Hội đồng Hiến pháp là sự lựa chọn chính trị an toàn của các nhà lãnh đạo,
bởi Hội đồng Hiến pháp của các quốc gia nói trên thường mang nhiều đặc điểm
của một cơ quan chính trị bên cạnh một số đặc điểm của cơ quan tài phán hiến
pháp. Đây vừa là diễn đàn hòa giải, thỏa hiệp giữa các lực lượng, thế lực chính
trị của quốc gia, vừa là cơ quan có ít nhiều quyền phán quyết các vi phạm, tranh
chấp hiến pháp. Thành lập Hội đồng Hiến pháp giúp các quốc gia một mặt vẫn
có một cơ quan bảo hiến có quyền phán quyết các vi phạm hiến pháp, mặt khác
không vượt quá khả năng “kiểm soát” của các nhà lãnh đạo.
Song, mang nhiều đặc điểm của một cơ quan chính trị là hạn chế chính
của Hội đồng Hiến pháp, vì nó khiến cho cơ quan này khó đưa ra phán quyến
120
dứt điểm cuối cùng về một vụ việc vi hiến như một thiết chế tài phán tư pháp.
Theo xu hướng chung, Hiến pháp các nước đã và đang có những cải cách
chuyển đổi Hội đồng Hiến pháp từ một cơ quan có nhiều đặc điểm chính trị sang
một cơ quan tài phán hiến pháp. Những nỗ lực với những thành công bước đầu
phản ánh xu thế tất yếu của việc thành lập cơ quan tài phán Hiến pháp.
II. Khuôn khổ pháp lý của Hội đồng Hiến pháp
Khi lựa chọn mô hình Hội đồng Hiến pháp, Hiến pháp các nước thường
có những quy định riêng, thậm chí một chương riêng về cơ quan hiến định này.
Các quy định trong Hiến pháp các nước thường đề cập đến cơ cấu tổ chức, quy
trình hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn và hiệu lực của các phán quyết của Hội
đồng Hiến pháp. Ngoài các quy định riêng, Hiến pháp một số nước còn có
những quy định tại các chương khác có liên quan đến Hội đồng Hiến pháp.
Trên cơ sở Hiến pháp, một số nước còn ban hành Luật về Hội đồng Hiến
pháp nhằm quy định cụ thể hơn về tổ chức và hoạt động của cơ quan này. Bên
cạnh đó, một số luậtcó liên quan (như luật bầu cử, luật trưng cầu ý dân…) cũng
được sửa đổi phù hợp với các quy định của Hiến pháp về Hội đồng Hiến pháp.
Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp ở các nước thường được trao quyền chủ
động trong việc ban hành các quy tắc (quy chế) hoạt động của mình phù hợp với
Hiến pháp và Luật. Cách thức trao quyền này bảo đảm nâng cao tính tự chủ và
độc lập của Hội đồng.
III. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Hiến pháp
Tuy cùng có tư cách là một thiết chế độc lập với các nhánh lập pháp, hành
pháp và tư pháp, việc tổ chức Hội đồng Hiến pháp không hoàn toàn giống nhau
ở các quốc gia. Ở giác độ chung nhất, Hiến pháp nhiều nước quy định các thành
viên Hội đồng Hiến pháp được lựa chọn bởi các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Cách thức thành lập Hội đồng Hiến pháp như vậy nhằm tránh sự lệ
thuộc của Hội đồng vào bất cứ nhánh quyền lực nào, qua đó nâng cao tính độc
lập của Hội đồng. Ví dụ, theo quy định tại Điều 164 Hiến pháp Angiêri, Hội
đồng Hiến pháp nước này gồm 9 thành viên, trong đó có 3 thành viên do Tổng
thống chỉ định, 2 thành viên do Quốc hội (Hạ viện) bầu, 2 thành viên do Hội
đồng Quốc gia (Thượng viện) bầu, một thành viên do Tòa án tối cao bầu và một
121
thành viên do Hội đồng Nhà nước bầu1. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp được bổ
nhiệm với một nhiệm kỳ duy nhất kéo dài 6 năm. Các thành viên khác của Hội
đồng cũng có nhiệm kỳ kéo dài 6 năm và không được bầu hoặc bổ nhiệm lại. Dù
có một vài điểm khác biệt, Hội đồng Hiến pháp các nước khác cũng được thành
lập theo phương thức tương tự.
Bên cạnh những thành viên được bầu hoặc được bổ nhiệm, ở một số ít
Hội đồng Hiến pháp còn có những thành viên đương nhiên. Đó là vị trí của các
nguyên thủ quốc gia đã về hưu. Ví dụ, ở Pháp và Cadắcxtan, các Tổng thống
nghỉ hưu là thành viên đương nhiên của Hội đồng Hiến pháp. Quy định về các
thành viên đương nhiên của Hội đồng Hiến pháp thể hiện tính chính trị trong
cách thức thành lập và là nguyên nhân của sự thiếu độc lập của Hội đồng, do đó
bị chỉ trích rất nhiều bởi các học giả hiến pháp.
Trong tiêu chí tuyển chọn các thành viên Hội đồng Hiến pháp của các
quốc gia thường không bắt buộc phải có chuyên môn về pháp luật. Đây cũng là
một đặc điểm nữa thể hiện đặc điểm chính trị của Hội đồng Hiến pháp so với
các mô hình tài phán Hiến pháp bằng tòa án. Theo nhận thức chung, Hội đồng
Hiến pháp không phải là một cơ quan tư pháp (kiểu như Tòa án Hiến pháp), nên
không cần thiết phải bao gồm tất cả thành viên là các thẩm phán có chuyên môn.
Thêm vào đó, quy trình giải quyết vụ việc tại Hội đồng Hiến pháp của các quốc
gia thường không công khai và mang ít đặc trưng của thủ tục tố tụng tư pháp.
Trong thực tế, đa số thành viên Hội đồng Hiến pháp ở các quốc gia được
lựa chọn từ những người có chuyên môn (bằng cấp hoặc kinh nghiệm) về chính
trị, hành chính hoặc pháp luật. Trong số đó, các thẩm phán tư pháp cũng có thể
được lựa chọn để trở thành thành viên Hội đồng Hiến pháp.
Để đảm bảo sự độc lập của Hội đồng Hiến pháp, các thành viên Hội đồng
thường không được kiêm nhiệm các chức vụ trong các cơ quan nhà nước. Trong
trường hợp kiêm nhiệm, Hiến pháp quy định rõ việc kiêm nhiệm không được
ảnh hưởng đến vị trí độc lập trong các hoạt động của Hội đồng.
Mặc dù Hội đồng Hiến pháp các nước được coi là một thiết chế hiến định
độc lập, Hiến pháp các nước thường có ít quy định liên quan đến quy trình bổ
nhiệm, tiêu chuẩn, tư cách thành viên, phương thức hoạt động để bảo đảm tính
độc lập của thiết chế hiến định này. Đây cũng là một trong những hạn chế lớn
1 Hội đồng Nhà nước Angiêri là cơ quan kiểm soát các hoạt động của các cơ quan hành chính (Khoản 2, Điều 152,
Hiến pháp Angiêri).
122
của Hội đồng Hiến pháp so với các mô hình bảo hiến tư pháp (Tòa án Hiến pháp
hoặc các tòa án thường).
Gần đây, Hiến pháp một số nước đã dần có những cải cách nhằm nâng
cao thẩm quyền và tính độc lập của Hội đồng Hiến pháp với các nhánh quyền
lực khác.
IV. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Hiến pháp
Mặc dù có một số điểm khác biệt, hiện nay Hội đồng Hiến pháp các nước
thường được trao những thẩm quyền rộng rãi trong việc kiểm tra tính hợp hiến
của các đạo luật, giải thích Hiến pháp, giám sát các cuộc bầu cử và trưng cầu ý
dân.
- Về quyền kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật
Hầu hết các Hội đồng Hiến pháp như ở Pháp, Marốc, Libăng, Angiêri,
Chad, Campuchia, Cadắcxtan, đều có quyền kiểm tra trước (tiền kiểm hiến) và
kiểm tra sau (hậu kiểm hiến) các đạo luật. Một số ít nước như Môritani, Tuynidi
chỉ trao cho Hội đồng Hiến pháp quyền kiểm hiến các dự luật (tiền kiểm hiến).
Một số cơ quan hoặc chức danh lãnh đạo cao cấp của Nhà nước thường
được trao quyền đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của một đạo
luật. Ở một số nước như Pháp, Marốc, Chad.., Hiến pháp trao cho các bên trong
một vụ án tư pháp có quyền đề nghị tòa án trình Hội đồng Hiến pháp kiểm tra
các đạo luật áp dụng cho vụ việc đang giải quyết. Những quy định này có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo cơ hội cho công dân có khả năng tiếp
cận Hội đồng Hiến pháp.
- Về quyền giám sát các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân
Đại đa số Hội đồng Hiến pháp các nước đều được trao quyền giải quyết
tranh chấp trong các cuộc bầu cử (kể cả bầu cử Tổng thống và bầu cử Nghị viện)
và trưng cầu ý dân. Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp các nước cũng thường được
trao quyền công bố kết quả của các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân.
- Về quyền kiểm tra các điều ước quốc tế
Một số nước trao cho Hội đồng Hiến pháp quyền kiểm tra tính hợp hiến
của các điều ước quốc tế trước khi phê chuẩn.
- Về quyền giải thích Hiến pháp
123
Quyền giải thích Hiến pháp được coi là một quyền gắn liền với chức năng
của Hội đồng Hiến pháp. Cho dù có được quy định rõ trong Hiến pháp hay
không, Hội đồng Hiến pháp các nước đều có quyền giải thích Hiến pháp.
- Một số nhiệm vụ và quyền hạn khác
Ngoài những thẩm quyền phổ biến trên, Hội đồng Hiến pháp của
Cadắcxtan còn có quyền kiểm tra tính hợp hiến của các hành vi và văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước. Sự mở rộng này rất đặc
biệt so với Hội đồng Hiến pháp các nước, cho phép Hội đồng Hiến pháp
Cadắcxtan có khả năng kiểm soát không những quyền lập pháp mà cả quyền
hành pháp.
Bên cạnh quyền kiểm hiến các dự luật, kiểm tra các cuộc bầu cử, trưng
cầu ý dân, Hội đồng Hiến pháp Xênêgan còn được trao thẩm quyền giải quyết
tranh chấp quyền lực giữa hai nhánh lập pháp và hành pháp.
Trong số các quốc gia, Ethiopia có Hội đồng Hiến pháp với thẩm quyền
hạn chế nhất. Hội đồng Hiến pháp Ethiopia chỉ thực hiện nhiệm vụ điều tra các
tranh chấp hiến pháp và đệ trình Thượng viện lời giải thích Hiến pháp nếu cần
thiết.
Giống như các Tòa án Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp của các nước ngày
càng được trao những thẩm quyền rộng rãi hơn. Việc tăng cường quyền lực cho
Hội đồng Hiến pháp cho thấy xu hướng xích lại gần nhau giữa hai mô hình Hội
đồng Hiến pháp và Tòa án Hiến pháp.
V. Thực tiễn hoạt động của Hội đồng Hiến pháp
Mặc dù có cùng tên gọi, hoạt động của Hội đồng Hiến pháp ở các quốc
gia có những điểm khác nhau. Điều này xuất phát từ sự khác biệt về cơ cấu tổ
chức, thẩm quyền, quy trình hoạt động của cơ quan này cũng như bối cảnh, điều
kiện chính trị đặc thù ở mỗi quốc gia.
Hội đồng Hiến pháp ở một số nước, cụ thể như ở Angiêri, Môritani, Chad,
Tuynidi, Xênêgan, Libăng... vẫn còn đóng vai trò hạn chế trong việc kiểm tra
tính hợp hiến các đạo luật của Nghị viện, và cả trong các lĩnh vực khác như
giám sát các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân hay giải quyết các tranh chấp quyền
lực.
Những hạn chế trên có thể được lý giải từ các phương diện cơ bản sau
đây:
124
Thứ nhất, Hội đồng Hiến pháp thiếu tính độc lập với các cơ quan nhà
nước khác, xuất phát từ những hạn chế về tổ chức của cơ quan này. Vấn đề tính
độc lập của Hội đồng Hiến pháp càng trở nên nghiêm trọng hơn khi cơ quan này
được thành lập và hoạt động ở các nước có bối cảnh chính trị thiếu dân chủ,
không ổn định, hoặc đang trong xung đột vũ trang. Các cơ quan nhà nước, đặc
biệt là nhánh hành pháp, ở các quốc gia luôn tìm mọi cách để can thiệp vào tổ
chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp.
Thứ hai, phần lớn Hiến pháp các nước chỉ trao cho một số chủ thể quyền
lực được đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem xét các vụ việc (bảo hiến trừu
tượng). Quy trình làm việc của Hội đồng Hiến pháp không công khai và thiếu
tranh tụng. Một số Hội đồng Hiến pháp chỉ có quyền kiểm hiến trước các dự án
luật mà không có quyền kiểm hiến sau, làm cho phạm vi hoạt động của Hội
đồng Hiến pháp bị hạn chế trong thực tiễn.
Trong xu hướng nâng cao vai trò của Hội đồng Hiến pháp, nhiều quốc gia
đã có những nỗ lực nhằm nâng cao tính độc lập, mở rộng thẩm quyền và làm
cho Hội đồng Hiến pháp trở nên gần dân hơn. Cải cách Hiến pháp của Pháp về
Hội đồng Hiến pháp năm 2008 là một bước tiến quan trọng trong lịch sử bảo
hiến của quốc gia này, theo đó lần đầu tiên cho phép các công dân có khả năng
khiếu nại về sự vi hiến của các đạo luật đang áp dụng trong một vụ việc giải
quyết tại tòa án tư pháp. Cải cách này có ý nghĩa kép: Một mặt cho phép Hội
đồng Hiến pháp không chỉ có quyền kiểm tra tính hợp hiến của các dự án luật
trước khi công bố và có hiệu lực (kiểm hiến trước hay bảo hiến trước), mà còn
kiểm hiến cả các đạo luật đã có hiệu lực (kiểm hiến sau hay bảo hiến sau); mặt
khác cho phép công dân trong một vụ việc cụ thể tại tòa án có quyền đề nghị
chuyển vụ việc lên Hội đồng Hiến pháp để bảo vệ các quyền hiến định của họ
(bảo hiến cụ thể).
Trong số các quốc gia có Hội đồng Hiến pháp, Cadắcxtan gần đây có
những thành quả quan trọng trong việc hiện thực hóa vai trò của Hội đồng Hiến
pháp. Mặc dầu xây dựng dựa trên hình mẫu của Hội đồng Hiến pháp Cộng hòa
Pháp, nhưng Hiến pháp Cadắcxtan đã có hai cải tiến căn bản cho phép Hội đồng
Hiến pháp thực hiện chức năng bảo hiến sau và cụ thể (trước cải cách Hiến pháp
của Pháp về vấn đề này năm 2008). Hơn thế, Hội đồng Hiến pháp nước này còn
có quyền tài phán Hiến pháp đối với các văn bản quy phạm dưới luật.
Hội đồng Hiến pháp Marốc cũng đã vận dụng thường xuyên thẩm quyền
của mình do Hiến pháp trao cho để phán quyết về tính hợp hiến của các đạo luật.
125
Một mảng lớn khác cũng thường xuyên được xem xét là tranh chấp trong các
cuộc bầu cử, với 627 trường hợp trong khoảng 15 năm.
VI. Việc thành lập Hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam
Từ những phân tích ở phần trên, có thể thấy con đường thiết lập các thiết
chế bảo vệ hiến pháp thường rất khó khăn, phức tạp, phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện chính trị, pháp lý, xã hội của mỗi quốc gia.
Các bản Hiến pháp 1946,1959,1980 và 1992 của Việt Nam đều không quy
định về việc thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách mà giao nhiệm vụ giám sát
tuân thủ Hiến pháp cho Nghị viện/Quốc hội. Bản Hiến pháp năm 1967 ở miền
Nam cũng không quy định thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách nhưng giao
thẩm quyền này cho Tối cao pháp viện đồng thời đảm nhiệm (Điều 81). Duy
nhất bản Hiến pháp năm 1956 ở miền Nam quy định thành lập cơ quan bảo hiến
chuyên trách, lấy tên là Viện bảo hiến (Thiên thứ 8 với 4 điều từ Điều 85 đến
Điều 88).
Như vậy, có thể nói là Việt Nam chưa có truyền thống sử dụng thiết chế
chuyên trách bảo vệ hiến pháp. Bối cảnh đó, cộng với việc không theo hệ thống
thông luật (án lệ) khiến cho việc sử dụng Tòa án tối cao hoặc các Tòa án có
thẩm quyền chung như ở các nước để thực hiện chức năng tài phán Hiến pháp sẽ
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, việc xây dựng thiết chế bảo hiến kiểu Tòa án
Hiến pháp theo mô hình Châu Âu có lẽ không phù hợp với điều kiện của nước ta
hiện nay. Do đó, việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là có tính khả thi hơn. Vấn
đề là nên quy định về Hội đồng Hiến pháp như thế nào trong Hiến pháp để phù
hợp với thể chế chính trị và mô hình tổng thể tổ chức Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đang tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được công bố lấy ý kiến nhân dân
đã lựa chọn mô hình Hội đồng Hiến pháp khi đưa vào một quy định mới về cơ
quan bảo hiến chuyên trách này tại Điều 120 như sau:
“1. Hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội thành lập, gồm Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.
2. Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm
pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ban hành; kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình
khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp; yêu cầu Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ
126
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình
hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ văn bản vi phạm Hiến pháp; kiểm
tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trước
khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.
3. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng Hiến pháp và số
lượng, nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng Hiến pháp do luật định”.
Việc hiến định cơ quan bảo hiến chuyên trách thể hiện một bước tiến quan
trọng không chỉ về tư duy lập hiến mà còn về tư duy pháp quyền ở Việt Nam.
Nó mở ra một khả năng mới, bổ sung một cơ chế mới trong việc bảo vệ hiệu quả
tính tối cao của Hiến pháp, khắc phục hạn chế, bất cập của mô hình Quốc hội
giám sát sự tuân thủ Hiến pháp hiện nay ở nước ta. Lựa chọn mô hình Hội đồng
Hiến pháp mà bỏ qua các mô hình bảo hiến khác cũng cho thấy các nhà lập hiến
Việt Nam đã có sự cân nhắc, lực chọn rất cẩn trọng về mặt chính trị và pháp lý.
Ngoài ra, sự lựa chọn này cũng cho thấy các nhà lập hiến Việt Nam có xu hướng
đánh giá sự tương hợp nhất định của truyền thống pháp luật Việt Nam với pháp
luật Châu Âu lục địa hay còn gọi là hệ thống dân luật (civil law), cái nôi của mô
hình bảo hiến độc lập tách khỏi hệ thống tòa án thường (Tòa án tối cao và các
Tòa án thẩm quyền chung).
Như đã phân tích ở phần trên, Hội đồng Hiến pháp không phải là mô hình
phổ biến trên thế giới. Hiện nay, có khoảng 7,9% số nước có thiết chế bảo hiến
độc lập theo mô hình Hội đồng Hiến pháp (xem Bảng 1)1. Tuy nhiên, việc chọn
lựa một mô hình bảo hiến phải căn cứ vào nhiều yếu tố, không nhất thiết là cần
chọn mô hình phổ biến nhất. Mặt khác, cũng cần thấy rằng các mô hình phổ biến
hơn phải chứng tỏ được tính ưu việt hơn, do đó mới được nhiều quốc gia lựa
chọn. Ở đây, chúng tôi cho rằng mô hình Tòa án Hiến pháp về lâu dài tỏ ra thích
hợp hơn mô hình Hội đồng Hiến pháp.Vì thế, nếu chọn mô hình Hội đồng Hiến
pháp thì cũng chỉ nên coi là một bước quá độ và cần thiết lập Hội đồng Hiến
pháp với những chức năng, thẩm quyền bắt kịp với xu hướng cải cách cơ quan
này đang diễn ra trên thế giới, cũng như phù hợp với những định hướng, yêu cầu
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
1. Theo Bảng 1, tổng số nước có mô hình Hội đồng Hiến pháp là 6,7% trên tổng số các nước trên thế
giới. Tuy nhiên, tổng số các nước có thiết chế bảo hiến độc lập chiếm 84.92% tổng số các nước trên thế giới. Vì
vậy, tỷ lệ các nước có mô hình bảo hiến độc lập trên tổng số các nước có thiết chế bảo hiến độc lập là 7,9%.
127
Khi ra đời ở Pháp với truyền thống “Nghị viện tối cao”, Hội đồng Hiến
pháp chỉ được trao quyền kiểm tra các dự án luật trước khi công bố và thực hiện
một số quyền tư vấn khác. Rõ ràng, quan niệm về tính tối cao của Nghị việc
từng là rào cản lớn cho sự thiết lập một cơ quan có khả năng tài phán về tính
hợp hiến của các đạo luật của Nghị viện.
Để thiết lập Hội đồng Hiến pháp thực hiện chức năng tài phán Hiến pháp,
vấn đề được đặt ra ngay tại những nước theo truyền thống Nghị viện là sự kiểm
hiến này có đi ngược lại với nguyên tắc “Nghị viện tối cao” hay không? Câu trả
lời bắt đầu bằng sự thay đổi cách nhìn nhận về Hiến pháp và Nghị viện. Hiến
pháp là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất, là bản khế ước xã hội, phản ánh chủ
quyền nhân dân. Tất cả các hành vi xâm phạm Hiến pháp của các cơ quan Nhà
nước, kể cả Nghị viện cũng là trái với chủ quyền tối cao của nhân dân. Do đó,
việc kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật của Nghị viện không phải là phủ nhận ý
chí nhân dân, mà trái lại, là bảo vệ ý chí chung đó. Với cách quan niệm này, mặc
dù có vị trí tối cao, các đạo luật của Nghị viện vẫn phải đặt dưới Hiến pháp, và
cần phải có cơ chế để bảo đảm nguyên tắc đó.
Do vậy, ở Pháp cũng như một số nước khác hiện nay, mặc dù nguyên tắc
“Nghị viện tối cao” vẫn còn ít nhiều được thừa nhận , Hội đồng Hiến pháp hoặc
Tòa án Hiến pháp đã được trao quyền kiểm hiến các đạo luật của Nghị viện.
Tương tự, ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng
các văn bản của Quốc hội cũng phải phù hợp với Hiến pháp, và trên thực tế vẫn
có khả năng các văn bản của Quốc hội trái với nội dung và tinh thần của Hiến
pháp. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để thành lập một Hội đồng Hiến
pháp có chức năng kiểm tra và phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản của
Quốc hội.
Theo quy định của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được công bố
lấy ý kiến nhân dân, Hội đồng Hiến pháp không phải là một cơ quan tài phán
hiến pháp độc lập, mà dường như là một cơ quan có nhiều đặc điểm chính trị, do
Quốc hội thành lập để giúp Quốc hội thực hiện chức năng bảo hiến, không có
quyền phán quyết mà chỉ có quyền kiến nghị Quốc hội và yêu cầu các cơ quan
nhà nước khác xem xét khi phát hiện các vi phạm Hiến pháp.
Theo kinh nghiệm và lý thuyết bảo hiến ở các quốc gia đã phân tích ở
trên, Hội đồng Hiến pháp với tư cách là một cơ quan có nhiều đặc điểm chính trị
sẽ có vai trò hạn chế trong việc bảo vệ Hiến pháp. Bị lệ thuộc về tổ chức vào
Quốc hội, Hội đồng Hiến pháp khó có thể kiểm hiến các văn bản do Quốc hội
128
ban hành. Những thẩm quyền hạn chế của Hội đồng Hiến pháp cũng khiến cơ
quan này khó có thể thực hiện được đầy đủ chức năng của cơ quan bảo hiến.
Nói tóm lại, nếu Hiến pháp quy định việc thành lập Hội đồng Hiến pháp,
rất cần nâng cao tính độc lập, mở rộng thẩm quyền và tạo điều kiện cho người
dân tiếp cận với cơ quan này theo xu hướng phát triển chung của các Hội đồng
Hiến pháp trên thế giới hiện nay, cụ thể như sau:
- Về tổ chức, Hội đồng Hiến pháp cần được thành lập từ các nhánh quyền
lực lập pháp, hành pháp và tư pháp.Các thành viên phải là những người có
chuyên môn (bằng cấp và kinh nghiệm) về chính trị, hành chính hoặc pháp luật.
- Về thẩm quyền, Hội đồng Hiến pháp không những có quyền kiểm hiến
trước, mà cần được trao quyền phán quyết về tính hợp hiến hay bất hợp hiến của
các đạo luật đã có hiệu lực; các văn bản quy phạm pháp luật khác, các hành vi
hành chính của các cơ quan hành pháp. Ngoài ra, Hội đồng Hiến pháp còn cần
được trao các thẩm quyền khác như giám sát các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân,
việc ký kết, phê chuẩn các điều ước quốc tế.
- Về quyền tiếp cận, Hiến pháp cần trao cho người dân được quyền khiếu
nại với Hội đồng Hiến pháp thông qua các tòa án tư pháp và qua các đại biểu
Quốc hội; hoặc khi đã sử dụng hết các biện pháp pháp lý sẵn có nhưng không
bảo vệ được các quyền hiến định.
Ngoài ra, việc chỉ dành một điều duy nhất trong Hiến pháp cho thiết chế
quan trọng này như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng là vấn đề cần
xem xét thêm. Như đã phân tích, hầu hết các Hiến pháp quy định về cơ quan này
trong một chương riêng, gồm nhiều điều, hoặc nếu không quy định thành một
chương riêng thì cũng đề cập trong nhiều điều. Các quy định của Hiến pháp
thường đề cập các nội dung cơ bản không thể thiếu về Hội đồng Hiến pháp như
cơ cấu tổ chức; thẩm quyền, quy trình, thủ tục, các phán quyết và hiệu lực của
phán quyết của cơ quan này. Trong khi đó, Điều 120 của Dự thảo, như đã nêu ở
trên, mới chỉ đề cập đến thẩm quyền thành lập và chức năng mà chưa, hoặc mới
đề cập rất sơ sài các yếu tố như cơ cấu tổ chức; số lượng, nhiệm kỳ, thủ tục, điều
kiện bầu các thành viên; giá trị pháp lý của kết quả điều tra, phương thức làm
việc… của Hội đồng Hiến pháp. Việc để những vấn đề quan trọng này cho luật
định tiềm ẩn những nguy cơ thiết chế này sẽ trở lên rất hình thức và thiếu ổn
định, đơn giản là do luật dễ thay đổi hơn nhiều so với Hiến pháp.
129
PHỤ LỤC: Tuyển chọn quy định của Hiến pháp và pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp ở một số nước
1. Cộng hoà Pháp
1.1. Hiến pháp1
Điều 7
Tổng thống được bầu theo đa số tuyệt đối tổng số phiếu bầu. Nếu sau
vòng bỏ phiếu thứ nhất không đạt được đa số tuyệt đối thì vào ngày thứ 14 sau
đó sẽ tiến hành bỏ phiếu vòng hai. Chỉ hai ứng cử viên giành nhiều phiếu nhất
trong vòng một mới được đề cử tham dự vòng hai.
Quá trình bầu Tổng thống phải được bắt đầu theo sự triệu tập của Chính
phủ.
Việc bầu cử Tổng thống mới phải được tổ chức chậm nhất là 20 ngày,
sớm nhất là 35 ngày trước ngày hết nhiệm kỳ của Tổng thống đương nhiệm.
Trong trường hợp chức danh Tổng thống bị khuyết vì bất cứ lý do gì,
hoặc Tổng thống không thể thực hiện được chức năng của mình thì các nhiệm
vụ, quyền hạn của Tổng thống, trừ các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại
các Điều 11 và 12 dưới đây sẽ tạm thời do Chủ tịch Thượng viện thực hiện; nếu
Chủ tịch Thượng viện cũng không thể thực hiện được, thì các nhiệm vụ, quyền
hạn đó sẽ do Chính phủ thực hiện. Hội đồng Hiến pháp tuyênvề tình trạng Tổng
thống không thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình theo đa số tuyệt
đối và trên cơ sở đề nghị của Chính phủ.
Trong trường hợp khuyết chức danh Tổng thống hoặc trong trường hợp có
quyết định xác nhận của Hội đồng Hiến pháp về việc Tổng thống vĩnh viễn
không thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, thì việc bỏ phiếu để
bầu Tổng thống mới phải được tổ chức, trừ trường hợp bất khả kháng theo sự
xác nhận của Hội đồng Hiến pháp, trong thời hạn sớm nhất là 20 ngày, chậm
nhất là 35 ngày kể từ ngày bắt đầu khuyết chức danh Tổng thống hoặc kể từ
1. Được ban hành năm 1958 và sửa đổi, bổ sung các năm 1962, 1992, 1995, 1997, 2000, 2003, 2005,
2007, 2008.
130
ngày có quyết định xác nhận của Hội đồng Hiến pháp về việc Tổng thống vĩnh
viễn không thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong trường hợp có ứng cử viên đã tuyên bố công khai ra tranh cử Tổng
thống trong thời hạn dưới 30 ngày trước ngày hết hạn giới thiệu ứng cử viên mà
bị chết hoặc rơi vào tình trạng không thể tham gia tranh cử được nữa trong
khoảng thời gian 7 ngày trước ngày hết hạn giới thiệu ứng cử viên, Hội đồng
Hiến pháp có quyền quyết định hoãn cuộc bầu cử.
Hội đồng Hiến pháp cũng quyết định hoãn cuộc bầu cử trong trường hợp
trước khi diễn ra vòng bỏ phiếu thứ nhất mà có ứng cử viên chết hoặc không thể
tham gia tranh cử được nữa.
Trong trường hợp một trong hai ứng cử viên có ưu thế nhất trong vòng
đầu chết hoặc rơi vào tình trạng không thể tiếp tục tranh cử mà chưa bị rút khỏi
cuộc bầu cử thì Hội đồng Hiến pháp có quyền quyết định tổ chức lại một lần nữa
toàn bộ cuộc bầu cử. Hội đồng Hiến pháp cũng có quyền quyết định như vậy
trong trường hợp một trong hai ứng cử viên còn lại tranh cử vòng bỏ phiếu thứ
hai chết hoặc rơi vào tình trạng không thể tiếp tục tranh cử.
Trong mọi trường hợp, Hội đồng Hiến pháp tham gia giải quyết các vấn
đề về bầu cử Tổng thống theo các điều kiện quy định tại đoạn 2, Điều 61 dưới
đây hoặc theo các điều kiện quy định trong đạo luật về tổ chức nêu tại Điều 6
trên đây.
Hội đồng Hiến pháp có quyền kéo dài thêm các thời hạn quy định tại đoạn
3 và đoạn 5 Điều này, nhưng việc bỏ phiếu phải được tiến hành chậm nhất là 35
ngày kể từ ngày có quyết định của Hội đồng. Nếu việc áp dụng các quy định tại
khoản này làm hoãn cuộc bầu cử cho đến sau ngày hết nhiệm kỳ của Tổng thống
đương nhiệm, thì Tổng thống đương nhiệm sẽ tiếp tục thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình cho đến ngày bầu được người kế nhiệm.
Các quy định tại Điều 49, 50 và 89 của Hiến pháp này không được áp
dụng cho thời gian khuyết Tổng thống cũng như cho thời gian từ khi có quyết
định xác nhận việc Tổng thống vĩnh viễn không thể thực hiện được chức năng,
nhiệm vụ đến khi bầu được người kế nhiệm.
Điều 16
Khi có sự đe doạ nghiêm trọng và trực tiếp đến sự tồn tại của các thiết chế
của nền Cộng hoà, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ hay đến việc thực hiện các
cam kết quốc tế của nước Cộng hoà Pháp và có sự đứt quãng trong hoạt động
131
bình thường của các cơ quan hiến định của Nhà nước, Tổng thống có quyền áp
dụng mọi biện pháp cần thiết để khắc phục, sau khi tham khảo ý kiến chính thức
của Thủ tướng, Chủ tịch của hai Viện và Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp.
Tổng thống ra thông điệp thông báo với quốc dân về việc áp dụng các
biện pháp đó.
Các biện pháp được áp dụng đều phải nhằm mục đích đảm bảo cho các cơ
quan hiến định của Nhà nước có được trong thời hạn sớm nhất các phương tiện
cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hội đồng Hiến pháp được
tham khảo ý kiến về những vấn đề liên quan đến các cơ quan hiến định của Nhà
nước.
Trong những trường hợp này, Nghị viện sẽ đương nhiên tiến hành phiên
họp.
Hạ viện không thể bị giải tán trong thời gian Tổng thống thực hiện các
quyền hạn đặc biệt.
Ba mươi ngày sau khi Tổng thống thực hiện các quyền hạn đặc biệt, Hội
đồng Hiến pháp có thể kết thúc việc xem xét theo đề nghị của Chủ tịch Hạ viện,
Chủ tịch Thượng viện, sáu mươi hạ nghị sĩ hoặc thượng nghị sĩ, nếu hội đủ các
điều kiện nêu tại đoạn 1 Điều này. Hội đồng Hiến pháp tiến hành thông báo
công khai ý kiến trong những thời hạn ngắn nhất. Trong những điều kiện tương
tự, kết thúc sáu mươi ngày kể từ khi Tổng thống thực hiện các quyền đặc biệt và
ngoài thời hạn này, Hội đồng Hiến pháp tiến hành đầy đủ việc xem xét và công
bố về vấn đề này.
Điều 37
Các vấn đề khác không nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật sẽ thuộc
phạm vi điều chỉnh của các quy định lập quy.
Đối với các văn bản được ban hành dưới hình thức lập pháp điều chỉnh
các vấn đề này, thì có thể bị sửa đổi bởi các sắc lệnh sau khi có ý kiến thuận của
Tòa án hành chính tối cao. Đối với các văn bản dạng này mà được ban hành sau
khi Hiến pháp này có hiệu lực, thì chỉ có thể bị sửa đổi bởi sắc lệnh khi có quyết
định của Hội đồng Hiến pháp xác nhận các văn bản đó có tính chất là văn bản
dưới luật.
Điều 41
Nếu trong quá trình xây dựng và ban hành luật, một quy định hoặc sửa đổi
không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hoặc trái với các quy định về lập pháp
132
uỷ quyền tại Điều 38, Chính phủ hoặc Chủ tịch Viện liên quan có thể phản đối
sự không phù hợp đó.
Trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Chính phủ và Chủ tịch Viện
liên quan, Hội đồng Hiến pháp, theo đề nghị của một trong hai Viện, sẽ quyết
định trong thời hạn 8 ngày.
Điều 46
Việc biểu quyết thông qua và sửa đổi, bổ sung các đạo luật có tính chất là
luật về tổ chức theo quy định của Hiến pháp được thực hiện theo những quy
định sau đây.
Viện đầu tiên nhận được dự án luật chỉ được tiến hành thảo luận và biểu
quyết sau khi hết thời hạn được quy định tại đoạn thứ 3 của Điều 42. Trong
trường hợp quy trình rút gọn được áp dụng theo các điều kiện được quy định tại
Điều 45, các dự án luật chỉ được tiến hành thảo luận tại Viện đầu tiên nhận được
dự án luật sau khi hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày dự án được đệ trình.
Thủ tục quy định tại Điều 45 cũng được áp dụng. Tuy nhiên, nếu giữa hai
Viện không đạt được thoả thuận thì văn bản chỉ được Hạ viện thông qua lần cuối
nếu đạt được đa số tuyệt đối tổng số thành viên của Hạ viện nhất trí thông qua.
Các đạo luật về tổ chức liên quan đến Thượng viện phải được cả hai Viện
thống nhất thông qua.
Các đạo luật về tổ chức chỉ được ban hành sau khi có tuyên bố của Hội
đồng Hiến pháp về tính phù hợp với Hiến pháp của các đạo luật đó.
Điều 54
Trên cơ sở có đề nghị của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện hoặc
Chủ tịch Thượng viện hoặc của 60 Hạ nghị sỹ hoặc 60 Thượng nghị sỹ, Hội
đồng Hiến pháp tuyên bố một cam kết quốc tế có điều khoản trái với Hiến pháp,
thì cam kết quốc tế đó chỉ được phê chuẩn hoặc phê duyệt sau khi đã tiến hành
sửa đổi Hiến pháp.
Chương VII. Hội đồng Hiến pháp
Điều 56
Hội đồng Hiến pháp bao gồm chín thành viên có nhiệm kỳ chín năm và
không được tái nhiệm. Ba năm một lần, 1/3 số thành viên của Hội đồng Hiến
pháp được thay đổi. Ba thành viên do Tổng thống bổ nhiệm, ba thành viên do
Chủ tịch Hạ viện bổ nhiệm và ba thành viên do Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm.
133
Việc bổ nhiệm này được tiến hành theo thủ tục được quy định tại đoạn cuối của
Điều 13. Thủ tục bổ nhiệm do chủ tịch mỗi viện thực hiện chỉ phải tham vấn các
ủy ban thường trực có liên quan trong nội bộ Viện tương ứng.
Bên cạnh chín thành viên nêu trên, các Tổng thống mãn nhiệm đương
nhiên là thành viên suốt đời của Hội đồng Hiến pháp.
Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do Tổng thống bổ nhiệm. Trong trường hợp
số phiếu của các thành viên ngang nhau, phiếu của Chủ tịch có giá trị quyết
định.
Điều 57
Thành viên của Hội đồng Hiến pháp không được đồng thời kiêm nhiệm
chức danh Bộ trưởng hoặc thành viên của hai viện trong Nghị viện. Các trường
hợp không kiêm nhiệm khác được quy định trong một đạo luật về tổ chức.
Điều 58
Hội đồng Hiến pháp đảm bảo cho cuộc bầu cử Tổng thống được tiến hành
hợp lệ.
Hội đồng Hiến pháp xem xét, giải quyết các khiếu nại và công bố kết quả
bầu cử.
Điều 59
Hội đồng Hiến pháp kết luận về tính hợp lệ của việc bầu cử các Hạ nghị
sỹ và Thượng nghị sỹ trong các trường hợp có khiếu nại.
Điều 60
Hội đồng Hiến pháp đảm bảo cho các hoạt động trưng cầu ý dân được tiến
hành hợp lệ theo quy định tại Điều 11 và 89 của Chương XV và tuyên bố kết
quả trưng cầu dân ý.
Điều 61
Các luật về tổ chức, trước khi được công bố, các dự luật do các nghị sỹ
trình, trước khi đưa ra trưng cầu ý dân theo Điều 11, và Nội quy của Hạ viện và
Thượng viện, trước khi được áp dụng, phải trình lên Hội đồng Hiến pháp để Hội
đồng kết luậnvề tính hợp hiến của các văn bản đó.
Tương tự, các luật của Nghị viện, trước khi được công bố, cũng có thể
được trình lên Hội đồng Hiến pháp để Hội đồng kết luận về tính hợp hiến khi có
yêu cầu của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện
hoặc 60 Hạ nghị sỹ hoặc 60 Thượng nghị sỹ.
134
Trong các trường hợp quy định tại hai đoạn nêu trên, Hội đồng Hiến pháp
phải ra quyết định trong thời hạn một tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn
cấp, theo yêu cầu của Chính phủ, thời hạn này có thể rút lại còn 8 ngày.
Cũng trong những trường hợp trên, việc xem xét tính hợp hiến của Hội
đồng Hiến pháp sẽ lùi thời gian ban hành các văn bản đó.
Điều 61-1
Trong quá trình tố tụng đang diễn ra tại tòa án, nếu có các khiếu nại cho
rằng các đạo luật đã vi phạm các quyền và tự do được Hiến pháp bảo đảm thì vụ
việc có thể được Hội đồng Nhà nước hoặc Tòa án Thượng thẩm đệ trình lên Hội
đồng Hiến pháp và Hội đồng Hiến pháp phải ra kết luận trong thời hạn luật định.
Các điều kiện để áp dụng điều khoản này sẽ được một đạo luật tổ chức
quy định.
Điều 62
Quy định bị tuyên bố là không hợp hiến theo quy định của Điều 61 thì
không được ban hành hoặc áp dụng.
Quy định bị tuyên bố là không hợp hiến theo quy định của Điều 61-1 phải
bị hủy bỏ kể từ ngày công bố quyết định của Hội đồng Hiến pháp hoặc kể từ
ngày được xác định trong quyết định của Hội đồng. Hội đồng Hiến pháp phải
xác định các điều kiện và giới hạn để có thể khiếu nại về hậu quả của các quy
định của luật.
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp không bị kháng cáo. Các quyết
định này có hiệu lực áp dụng bắt buộc đối với tất cả các cơ quan công quyền, tất
cả các cơ quan hành chính và tất cả các tòa án.
Điều 63
Một đạo luật về tổ chức sẽ quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng
Hiến pháp, thủ tục và thời hạn giải quyết tại Hội đồng Hiến pháp.
2. Campuchia
2.1. Hiến pháp1
Chương XII - Về Hội đồng Hiến pháp
1. Được ban hành năm 1993.
135
Điều 136.
Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền đảm bảo sự tôn trọng Hiến pháp, giải
thích Hiến pháp, các Luật đã được Quốc hội (Hạ viện) thông qua và Thượng
viện xem xét lại.
Hội đồng Hiến pháp có quyền xem xét và quyết định các tranh chấp liên
quan đến các cuộc bầu cử thành viên Quốc hội và thành viên Thượng viện.
Điều 137.
Hội đồng Hiến pháp bao gồm chín thành viên có nhiệm kỳ giới hạn là
chín năm. Một phần ba tổng số thành viên Hội đồng Hiến pháp được thay thế ba
năm một lần. Ba thành viên được Quốc vương bổ nhiệm, ba thành viên được
Quốc hội bầu và ba thành viên còn lại được Hội đồng Thẩm phán Tối cao bầu.
Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do các thành viên Hội đồng Hiến pháp bầu
ra. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, tiếng nói của Chủ tịch Hội đồng
Hiến pháp có giá trị ưu tiên.
Điều 138.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp được lựa chọn trong số những nhân vật
có vị trí cao, có bằng đại học luật, hành chính, ngoại giao hoặc kinh tế và có
kinh nghiệm nghề nghiệp dày dạn.
Điều 139.
Các chức năng của thành viên Hội đồng Hiến pháp không được trùng với
các chức năng của thượng nghị sỹ, thành viên Quốc hội, thành viên Chính phủ
Hoàng gia, thẩm phán, công chức, Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch một đảng chính
trị hoặc Chủ tịch, phó Chủ tịch một công đoàn.
Điều 140.
Quốc vương, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội hoặc một phần mười các đại
biểu Quốc hội, Chủ tịch Thượng viện hoặc một phần tư tổng số thượng nghị sỹ
có thể đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem xét các đạo luật đã được Quốc hội
thông qua trước khi đạo luật được công bố.
Nội quy của Quốc hội, Nội quy của Thượng viện và các luật tổ chức phải
được chuyển tới Hội đồng Hiến pháp xem xét trước khi công bố. Hội đồng Hiến
pháp sẽ công bố chậm nhất trong thời hạn 30 ngày về sự phù hợp hay không phù
hợp với Hiến pháp của các luật, Nội quy của Quốc hội và của Thượng viện.
Điều 141.
136
Sau khi một đạo luật được công bố, Quốc vương, Chủ tịch Thượng viện,
Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, một phần tư các thượng nghị sỹ, một phần mười
các đại biểu Quốc hội, hoặc các tòa án có thể đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem
xét tính hợp hiến của đạo luật đó.
Bất cứ công dân nào đều có quyền nêu vấn đề về tính vi hiến của các đạo
luật thông qua sự trung gian của các đại biểu Quốc hội hoặc Chủ tịch Quốc hội
hoặc các thượng nghị sỹ hoặc Chủ tịch Thượng viện theo quy định của đoạn đã
nêu ở trên.
Điều 142.
Một quy định của bất kỳ điều khoản nào bị Hội đồng Hiến pháp tuyên bố
không phù hợp với Hiến pháp thì không thể được công bố hoặc thực thi.
Quyết định của Hội đồng Hiến pháp là quyết định cuối cùng, không được
khiếu nại.
Điều 143.
Quốc vương tham vấn Hội đồng Hiến pháp về bất kỳ đề xuất nào nhằm
mục đích sửa đổi Hiến pháp.
Điều 144
Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp được quy định bởi một
luật tổ chức.
Chương XV- Về hiệu lực, sửa đổi và bổ sung Hiến pháp
Hiến pháp hiện hành là luật tối cao của Vương Quốc Campuchia.
Tất cả các luật và quyết định của tất cả các cơ quan nhà nước phải phù
hợp tuyệt đối với Hiến pháp.
3. Cadắcxtan
3.1. Hiến pháp1
Chương VI: Hội đồng Hiến pháp
…
Điều 71.
1. Được ban hành năm 1996.
137
1. Hội đồng Hiến pháp nước Cộng hòa Cadắcxtan bao gồm bảy thành
viên với nhiệm kỳ sáu năm. Cựu Tổng thống của Cộng hòa Cadắcxtan có quyền
trở thành thành viên suốt đời của Hội đồng Hiến pháp.
2. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp sẽ được bổ nhiệm bởi Tổng thống. Khi
Hội đồng Hiến pháp bỏ phiếu với số phiếu ngang nhau về cùng một vấn đề thì lá
phiếu của Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp sẽ đóng vai trò quyết định.
3. Hai thành viên của Hội đồng Hiến pháp được bổ nhiệm bởi Tổng
thống, hai thành viên được bổ nhiệm bởi Thượng viện, hai thành viên được bổ
nhiệm bởi Majilis (Hạ viện). Một nửa số thành viên của Hội đồng Hiến pháp
được bổ nhiệm mới sau ba năm một lần.
4. Tất cả các thành viên của Hội đồng Hiến pháp không được kiêm nhiệm
là đại biểu, giữ các chức vụ được trả công, trừ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu
khoa học hoặc các hoạt động sáng tạo khác, không được tham gia các hoạt động
của doanh nghiệp, tham gia cơ quan điều hành hoặt giám sát của các tổ chức
thương mại.
5. Tất cả các thành viên của Hội đồng Hiến pháp trong lúc đương nhiệm
sẽ không bị bắt giữ, tạm giam hay phải chịu các biện pháp trừng phạt hành chính
áp dụng bởi tòa án hoặc truy tố về một tội hình sự mà không có sự đồng ý của
Nghị viện, trừ trường hợp bị bắt phạm tội quả tang hoặc phạm một tội hình sự
nghiêm trọng.
6. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp sẽ được điều chỉnh bởi
một đạo luật hiến pháp.
Điều 72.
1. Theo yêu cầu của Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện, Chủ tịch Hạ viện
hoặc của ít nhất một phần năm tổng số các nghị sĩ (của cả hai viện), Thủ tướng,
Hội đồng Hiến pháp sẽ quyết định:
1) Về sự đúng đắn của các cuộc bầu cử Tổng thống, nghị sĩ và các cuộc
trưng cầu ý dân trên toàn quốc, trong trường hợp có tranh chấp;
2) Xem xét tính hợp hiến của dự luật đã được Nghị viện thông qua trước
khi Tổng thống ký;
2-1) xem xét tính hợp hiến của các quyết định của Nghị viện và các viện
của nó.
3) Xem xét tính hợp hiến của các điều ước quốc tế trước khi phê chuẩn;
138
4) Giải thích chính thức Hiến pháp;
5) Đưa ra kết luận trong các trường hợp được quy định tại Đoạn 1 và
Đoạn 2 Điều 47 Hiến pháp.
2. Hội đồng Hiến pháp sẽ xem xét kiến nghị của các tòa án trong các
trường hợp được quy định tại Điều 78 Hiến pháp.
Điều 73.
1. Việc tuyên thệ nhậm chức Tổng thống, đăng ký nghị sĩ trúng cử của
Nghị viện hoặc kết quả trưng cầu ý dân trên toàn quốc sẽ bị tạm dừng chờ phán
xét của Hội đồng Hiến pháp khi có yêu cầu, khiếu nại tới Hội đồng Hiến pháp
về những vấn đề liên quan được đề cập tại điểm a, khoản 1 Điều 72 Hiến pháp.
2. Việc ký công bố luật và phê chuẩn điều ước quốc tế sẽ bị tạm dừng
trong trường hợp có yêu cầu gửi tới Hội đồng Hiến pháp theo điểm b và điểm c
Khoản 1 Điều 72 Hiến pháp.
3. Hội đồng Hiến pháp sẽ thông qua một nghị quyết trong vòng một tháng
kể từ ngày có yêu cầu. Thời hạn này có thể được rút ngắn 10 ngày theo đề nghị
của Tổng thống, nếu vấn đề khẩn cấp.
4. Tổng thống có thể phản đối toàn bộ hoặc từng phần các nghị quyết của
Hội đồng Hiến pháp. Những phản đối này có thể bị phủ quyết bởi sự nhất trí từ
hai phần ba tổng số thành viên Hội đồng Hiến pháp. Nếu phản đối của Tổng
thống không bị phủ quyết thì nghị quyết của Hội đồng Hiến pháp coi như chưa
được thông qua.
Điều 74.
1. Luật và các điều ước quốc tế bị cho là không phù hợp với Hiến pháp
nước Cộng hòa Cadắcxtan sẽ không thể được ký công bố, phê chuẩn và có hiệu
lực áp dụng.
2. Luật và các văn bản quy phạm pháp luật bị tuyên bố là vi hiến vì đã
xâm phạm các quyền, tự do cá nhân và của công dân được bảo vệ bởi Hiến pháp
thì sẽ bị hủy bỏ và không có hiệu lực.
3. Nghị quyết của Hội đồng Hiến pháp sẽ có hiệu lực ràng buộc vào ngày
được thông qua trên toàn bộ lãnh thổ Cộng hòa Cadắcxtan, có tính chất chung
thẩm và không thể bị khiếu nại, kháng cáo.
...
Chương VII: Tòa án và công lý
139
...
Điều 78.
Tòa án không có quyền áp dụng luật (của Nghị viện) và bất kỳ văn bản
quy phạm pháp luật nào nếu nó xâm phạm quyền và tự do của cá nhân công dân
đã được xác lập trong hiến pháp. Nếu bất kỳ một tòa án nào khi áp dụng một
luật hay văn bản quy phạm pháp luật nào mà thấy rằng văn bản đó xâm phạm
quyền và tự do của cá nhân, công dân thì tòa án sẽ tạm dừng thủ tục tố tụng và
đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp yêu cầu tuyên bố văn bản đó vi hiến.
...
3.2. Luật về Hội đồng Hiến pháp1
ChươngI.
Quy định chung
Điều 1. Vị trí pháp lý của Hội đồng Hiến pháp
Hội đồng Hiến pháp, với tư cách là một cơ quan nhà nước bảo đảm hiệu
lực tối cao của Hiến pháp nước Cộng hòa Cadắcxtan trên toàn bộ lãnh thổ của
nước Cộng hòa:
1) Khi thực hiện các quyền hạn của mình, Hội đồng tự chủ và độc lập với
các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các nhà chức trách và công dân, chỉ tuân thủ
Hiến pháp nước Cộng hoà và không bị chi phối bởi các động cơ chính trị hay bất
kỳ động cơ nào khác;
2) Thực hiện các quyền hạn của mình theo Hiến pháp của nước Cộng hòa
và theo Luật này, tránh xem xét và kiểm tra bất kỳ vấn đề nào khác trong bất kỳ
trường hợp nào khác khi chúng thuộc thẩm quyền của Toà án hoặc của cơ quan
nhà nước khác.
Điều 2. Thành viên của Hội đồng Hiến pháp
Hội đồng Hiến pháp có bảy (7) thành viên, bao gồm cả Chủ tịch Hội
đồng. Các cựu Tổng thống của nước Cộng hòa là thành viên suốt đời của Hội
đồng Hiến pháp.
Điều 3. Thủ tục thành lập Hội đồng Hiến pháp
1. Có hiệu lực từ 29/12/1995
140
1. Tổng thống nước Cộng hòa bổ nhiệm và miễn nhiệm Chủ tịch Hội
đồng Hiến pháp.
2. Hai (2) thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ được bổ nhiệm bởi Tổng
thống nước Cộng hòa; hai (2) thành viên khác được bổ nhiệm bởi Thượng viện
theo sự giới thiệu của Chủ tịch Thượng viện và hai (2) thành viên còn lại bởi Hạ
viện theo giới thiệu của Chủ tịch Hạ viên. Ba năm một lần, một nửa số thành
viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ được thay thế.
Điều 4. Yêu cầu đối với ứng cử viên vào Hội đồng Hiến pháp
1. Mọi công dân của nước Cộng hòa Cadắcxtan từ ba mươi (30) tuổi trở
lên, đang cư trú trên lãnh thổ của nước Cộng hoà, có bằng đại học luật, có kinh
nghiệm làm việc trong lĩnh vực pháp lý không ít hơn năm (5) năm, đều có thể
được bổ nhiệm làm thành viên của Hội đồng Hiến pháp.
2. Các yêu cầu của khoản 1 Điều này không áp dụng đối với cựu Tổng
thống nước Cộng hòa.
Điều 5. Nhiệm kỳ của các thành viên Hội đồng Hiến pháp
1. Một nhiệm kỳ của Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp
là sáu năm.
2. Trong trường hợp thoái nhiệm, miễn nhiệm, hoặc hết nhiệm kỳ, Chủ
tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ được thay thế theo các thủ tục
được quy định trong Hiến pháp và Luật này.
3. Vị trí Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ được bổ
nhiệm trong vòng một (1) tháng kể từ ngày người tiền nhiệm thoái nhiệm, miễn
nhiệm, hoặc hết nhiệm kỳ.
4. Trong trường hợp Chủ tịch hoặc thành viên Hội đồng Hiến pháp hết
nhiệm kỳ trong giai đoạn họ tham gia xem xét các vấn đề được xử lý bởi Hội
đồng Hiến pháp, quyền hạn của họ sẽ được gia hạn cho đến khi quyết định xem
xét cuối cùng của vấn đề đó được đưa ra.
Điều 6. Tuyên thệ của Chủ tịch và các thành viên Hội đồng Hiến pháp
Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp sau khi bổ nhiệm,
trong một buổi lễ tại phiên họp chung của hai viện của Nghị viện, sẽ được Tổng
thống nước Cộng hòa dẫn lời tuyên thệ như sau: Tôi xin thề sẽ tận tâm thực hiện
nhiệm vụ của Chủ tịch (thành viên) của Hội đồng Hiến pháp của nước Cộng hòa
Cadắcxtan, sẽ làm việc một cách công minh, chỉ quy thuận theo Hiến pháp của
141
nước Cộng hòa và không quy thuận theo ai khác hay điều gì khác ngoài Hiến
pháp.
Điều 7. Các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp
1. Phiên họp của Hội đồng Hiến pháp chỉ có giá trị nếu không ít hơn hai
phần ba (2/3) số thành viên của Hội đồng Hiến pháp có mặt.
2. Các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp sẽ được triệu tập khi cần thiết
bởi Chủ tịch Hội đồng, nếu Chủ tịch vắng mặt thì bởi một thành viên của Hội
đồng được Chủ tịch ủy quyền thay thế làm nhiệm vụ này.
Điều 8. Tố tụng hiến pháp
Việc thảo luận và thông qua các quyết định về các vấn đề trong thẩm
quyền của Hội đồng Hiến pháp sẽ được thực hiện phù hợp với các thủ tục tố
tụng Hiến pháp được quy định theo Hiến pháp và theo Luật này.
Điều 9. Pháp luật liên quan đến Hội đồng Hiến pháp
1. Vị thế pháp lý, thẩm quyền, tổ chức và thủ tục hoạt động của Hội đồng
Hiến pháp sẽ được xác định bởi Hiến pháp của nước Cộng hòa và Luật này.
2. Đối với các vấn đề về tổ chức và thủ tục hoạt động của Hội đồng Hiến
pháp không được quy định trong Hiến pháp và theo Luật này, Hội đồng Hiến
pháp sẽ thông qua Quy chế của Hội đồng.
Chương II.
Vị thế của Chủ tịch và thành viên của Hội đồng Hiến pháp nước Cộng hòa
Điều 10. Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp với tính
cách là quan chức nhà nước
1. Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp là quan chức nhà
nước, với vị thế được xác định bởi Hiến pháp và Luật này, và bởi các văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến công vụ nhà nước đối với các nội dung không
được quy định trong Hiến pháp và Luật này.
2. Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp không được là nghị
sỹ, không làm bất kỳ công việc có trả lương nào khác, ngoại trừ việc giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, hoặc các hoạt động sáng tạo; không được hoạt động kinh
doanh, tham gia vào cơ quan quản lý hoặc giám sát của một tổ chức thương mại.
Điều 11. Sự độc lập của Chủ tịch và các thành viên của Hội đồngHiến
pháp
142
1. Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp khi thực hiện
nhiệm vụ của mình được độc lập và chỉ phải tuân thủ Hiến pháp của nước Cộng
hòa Cadắcxtan và theo Luật này. Không hành động nào khác có tính bắt buộc
đối với họ. Bất kỳ sự can thiệp nào với các hoạt động của họ hoặc gây áp lực
hay ảnh hưởng nào khác vào hoạt động của họ, dưới bất kỳ hình thức nào khác,
đều bị cấm và sẽ bị truy cứu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
2. Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp không có trách
nhiệm giải thích về hoạt động của mình khi thực thi công việc theo thủ tục tố
tụng hiến pháp. Không ai có quyền yêu cầu họ báo cáo về việc thực hiện nhiệm
vụ của mình.
3. Không ai có quyền yêu cầu, và Chủ tịch và các thành viên của Hội
đồng Hiến pháp không có quyền, ngoại trừ tại các phiên họp của Hội đồng Hiến
pháp, bày tỏ ý kiến hoặc tư vấn về các vấn đề thuộc đối tượng xem xét của Hội
đồng Hiến pháp trước khi thông qua quyết định cuối cùng.
4. Trong thời gian đương nhiệm, các thành viên của Hội đồng Hiến pháp
không thể bị thay thế. Quyền hạn của họ không thể bị chấm dứt hoặc đình chỉ,
trừ các trường hợp theo quy định của Luật này.
5. Chủ tịch hoặc thành viên của Hội đồng Hiến pháp có nghĩa vụ tự rút lui
không tham gia giải quyết một vấn đề mà cần được thông qua bởi Hội đồng
Hiến pháp, nếu do các mối quan hệ hoặc lợi ích cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp
của họ có thể gây ra những nghi ngờ về tính khách quan của quyết định đưa ra
bởi Hội đồng.
6. Thành viên của Hội đồng Hiến pháp không có quyền bào chữa hoặc
quyền đại diện, trừ trường hợp đại diện hợp pháp tại tòa án hoặc các cơ quan tài
phán khác, và không có quyền bảo trợ cho bất kỳ người nào trong việc thực hiện
các quyền hoặc từ chối các nghĩa vụ của họ.
Điều 12. Quyền bất khả xâm phạm của các thành viên Hội đồng Hiến
pháp
1. Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp, trong thời gian
đương chức, không thể bị bắt giữ, không bị áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính theo thủ tục tư pháp, không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu không có
sự đồng ý của Quốc hội, trừ các trường hợp họ bị bắt phạm tội quả tang hoặc
phạm các tội nghiêm trọng.
143
2. Vụ án hình sự buộc tội Chủ tịch hoặc thành viên Hội đồng Hiến pháp
chỉ có thể được khởi tố bởi người đứng đầu các cơ quan điều tra của quốc
gia/nhà nước. Trưởng cơ quan công tố của nước Cộng hòa giám sát việc tuân thủ
pháp luật trong quá trình điều tra và phải trình Nghị viện đề xuất về việc có
đồng ý hay không việc truy cứu trách nhiệm hình sự Chủ tịch hoặc thành viên
của Hội đồng Hiến pháp. Việc xét xử vụ án hình sự đối với Chủ tịch hoặc một
thành viên của Hội đồng Hiến pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án tối cao của
nước Cộng hòa.
3. Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp không phải chịu xử
lý kỷ luật.
4. Không ai được tước quyền của thành viên Hội đồng Hiến pháp tham
gia các phiên họp của Hội đồng, trừ khi quyền đó bị đình chỉ theo quy định của
Luật này.
Điều 13. Bình đẳng về quyền của Chủ tịch và các thành viên của Hội
đồng Hiến pháp
Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp có quyền ngang nhau
trong việc xem xét các vấn đề được xử lý bởi Hội đồng Hiến pháp và trong việc
thông qua các quyết định, trừ trường hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật
này.
Điều 14. Đình chỉ quyền hạn của Chủ tịch hoặc thành viên của Hội
đồng Hiến pháp
1. Quyền hạn của Chủ tịch hoặc thành viên của Hội đồng Hiến pháp có
thể bị đình chỉ bởi người bổ nhiệm họ theo kiến nghị của Hội đồng Hiến pháp,
trong các trường hợp:
1) không tham gia các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp mà không có lý
do chính đáng không ít hơn ba lần liên tiếp;
2) do tình trạng sức khỏe nên không có khả năng để thực hiện nhiệm vụ
của mình trong một thời gian dài;
3) được công nhận là mất tích theo quyết định của Toà án có hiệu lực
pháp luật.
2. Quyền hạn của Chủ tịch hoặc thành viên của Hội đồng Hiến pháp cũng
có thể bị đình chỉ trong trường hợp họ bị bắt giữ phù hợp với các thủ tục luật
định, khi họ phải chịu trách về hành chính hoặc hình sự, khi họ bị tòa án áp dụng
144
các biện pháp có tính chất y tế bắt buộc, bị công nhận là không có khả năng,
hoặc trong trường hợp họ bị hạn chế về năng lực.
3. Quyết định đình chỉ các quyền hạn của Chủ tịch hoặc thành viên Hội
đồng Hiến pháp được thông qua không muộn hơn một tháng sau ngày xác định
các căn cứ để đình chỉ quyền lực của họ.
4. Quyền hạn của Chủ tịch hoặc thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ bị
đình chỉ cho đến khi không còn các căn cứ cho việc đó.
Điều 15. Chấm dứt quyền hạn của Chủ tịch hoặc một thành viên của
Hội đồng Hiến pháp
1. Quyền hạn:
1) của Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp chỉ bị chấm dứt bởi Tổng thống nước
Cộng hoà;
2) của thành viên Hội đồng Hiến pháp có thể bị chấm dứt bởi chủ thể đã
bổ nhiệm thành viên đó là Tổng thống, Thượng viện, Hạ viện (Majilis) của nước
Cộng hòa.
2. Quyền hạn của Chủ tịch hoặc thành viên của Hội đồng Hiến pháp có
thể bị chấm dứt do:
1) Đồng ý với đề nghị xin từ chức của người đó;
2) Phán quyết buộc tội người đó đưa ra bởi Tòa án Tối cao có hiệu lực
pháp luật;
3) Người đó được công nhận là không có năng lực hành vi theo một quyết
định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
4) Người đó được công nhận là đã chết theo một quyết định của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật;
5) Cái chết của người đó;
6) Người đó không tuân thủ các quy định theo khoản 2 Điều 10 Luật này;
7) Người đó vi phạm lời thề, hành động không phù hợp với Hiến pháp của
nước Cộng hòa và Luật này, có hành động xấu xa không phù hợp với địa vị cao
quý của mình;
8) Việc bổ nhiệm người đó vi phạm các yêu cầu theo quy định trong Hiến
pháp và Luật này;
9) Người đó hết nhiệm kỳ được quy định theo Hiến pháp;
145
10) Người đó đã bị loại trừ theo Luật Hiến pháp của nước Cộng hòa
Cadắcxtan (Luật số 41-IV, ngày 17/06/2008).
11) Người đó tham gia một đảng chính trị hoặc bất kỳ hiệp hội công cộng
nào khác mà theo đuổi các mục tiêu chính trị.
Điều 16. Bảo đảm cho các hoạt động của Chủ tịch và các thành viên
của Hội đồng Hiến pháp
1. Tiền lương của Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ
được Tổng thống nước Cộng hòa quyết định phù hợp với các thủ tục thành lập
nêu tại điểm 9 Điều 44 Hiến pháp nước Cộng hòa.
2. Nhà ở, phương tiện đi lại và các dịch vụ khác, cũng như các dịch vụ y
tế, điều dưỡng và điều trị ở khu nghỉ mát của Chủ tịch và các thành viên của Hội
đồng Hiến pháp phải được thực hiện phù hợp với các thủ tục quy định bởi Tổng
thống nước Cộng hòa.
Chương III.
Thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp nước Cộng hòa
và của các thành viên Hội đồng
Điều 17. Thẩm quyền của Hội đồng Hiến pháp
1. Hội đồng Hiến pháp, theo quy định tại tiểu mục (1), khoản 1 Điều 72
của Hiến pháp quyết định về sự đúng đắn trong trường hợp có tranh cãi liên
quan đến những vấn đề sau đây:
1) bầu cử Tổng thống;
2) bầu cử nghị sỹ hai viện;
3) trưng cầu ý dân toàn quốc.
2. Hội đồng Hiến pháp, phù hợp với các tiểu mục (2, 2-1, 3) khoản 1 Điều
72 của Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của:
1) Các dự thảo luật được nghị viện thông qua, trước khi trình Tổng thống
ký ban hành;
2) Các nghị quyết được thông qua bởi nghị viện và hai Viện của nghị
viện;
3) Các điều ước quốc tế của nước Cộng hòa trước khi chúng được phê
chuẩn.
146
3. Hội đồng Hiến pháp, phù hợp với các tiểu mục (4) và (5) khoản 1 Điều
72 của Hiến pháp có các thẩm quyền sau đây:
1) Giải thích chính thức các quy định của Hiến pháp;
2) Cho đến khi nghị viện thông qua một quyết định thích hợp về từ chức
của Tổng thống nước Cộng hòa, Hội đồng xem xét quyết định cuối cùng về việc
từ chức có phù hợp với thủ tục quy định trong Hiến pháp hay không.
4. Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền, phù hợp với những điều sau đây:
1) Khoản 2 Điều 2 của Hiến pháp, xem xét yêu cầu của Tòa án về việc
đánh giá các hành vi vi hiến mà Tòa án, theo quy định tại Điều 78 của Hiến
pháp, tin rằng luật hoặc bất kỳ hành vi pháp lý nào đang có hiệu lực, đã vi phạm
các quyền và tự do của các cá nhân và công dân mà được quy định bởi Hiến
pháp;
2) Điểm (6) Điều 53 của Hiến pháp, trên cơ sở kết quả tổng kết việc thực
hành các thủ tục tố tụng hiến pháp, hàng năm phải gửi cho nghị viện một báo
cáo về tình trạng hợp hiến của các đạo luật của Cộng hòa.
Điều 18. Những quyền hạn khác của Hội đồng Hiến pháp
Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền:
1) trong phạm vi chức năng của mình, có quyền yêu cầu cung cấp và nhận
tài liệu, tư liệu và bất kỳ thông tin nào khác từ tất cả các cơ quan nhà nước, các
tổ chức, và huy động, phù hợp với các thủ tục đã được thiết lập, các chuyên gia
để thực hiện những đánh giá chuyên môn và tư vấn khoa học;
2) kiến nghị đình chỉ quyền hạn của Chủ tịch và các thành viên của Hội
đồng Hiến pháp và thực hiện bất kỳ quyền hạn khác được thiết lập theo Luật
này.
Điều 19. Quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp
1. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp có trách nhiệm:
1) Lãnh đạo việc chuẩn bị và xem xét các vấn đề mà Hội đồng Hiến pháp
đã chấp nhận xử lý;
2) Triệu tập các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp, trình các đề mục
được chấp nhận xử lý để xem xét ở các phiên họp và chủ trì các phiên họp của
Hội đồng Hiến pháp;
3) Giao nhiệm vụ cho các thành viên và tổ chức công việc của các thành
viên của Hội đồng Hiến pháp và bộ máy của nó;
147
4) Xác định các biện pháp để đảm bảo tổ chức phiên họp;
5) Phát biểu tại một phiên họp chung của hai viện nghị viện thay mặt Hội
đồng Hiến pháp thông báo về tình trạng hợp hiến của pháp luật nước Cộng hòa
Cadắcxtan;
6) Cung cấp thông tin về tình trạng hợp hiến của pháp luật tại Cộng hòa
theo yêu cầu của Tổng thống.
7) Ký quyết định và biên bản cuộc họp của Hội đồng Hiến pháp;
8) Trình Hội đồng Hiến pháp phê duyệt Quy chế của Hội đồng;
9) Phê duyệt quy định liên quan đến bộ máy, cơ cấu và nhân sự của Hội
đồng Hiến pháp phù hợp với ngân sách được cấp;
10) Bổ nhiệm và miễn nhiệm nhân viên văn phòng của Hội đồng Hiến
pháp;
11) Thực hiện bất kỳ quyền hạn nào khác theo quy định của Luật này và
các quy định khác về Hội đồng Hiến pháp.
2. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp thực thi thẩm quyền của mình thông qua
các sắc lệnh và chỉ thị.
Chương IV.
Tố tụng Hiến pháp
Điều 20. Người tham gia tố tụng Hiến pháp
1. Những chủ thể tham gia tố tụng hiến pháp là những cá nhân và cơ quan
khởi xướng tố tụng hiến pháp bao gồm:
1) Tổng thống nước Cộng hòa;
2) Chủ tịch Thượng viện;
3) Chủ tịch Hạ viện;
4) Một nhóm không ít hơn 1/5 tổng số thành viên nghị viện;
5)Thủ tướng Chính phủ;
6) Các tòa án của nước Cộng hòa;
7) Các cơ quan nhà nước và các quan chức nhà nước có văn bản bị xem
xét tính hợp hiến.
148
2. Nếu cần thiết, những người tham gia tố tụng hiến pháp có thể có đại
diện tại Hội đồng Hiến pháp và quyền hạn của họ phải được quy định phù hợp
với các thủ tục trong pháp luật tố tụng dân sự.
Điều 21. Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng Hiến pháp
1. Những người tham gia tố tụng hiến pháp trong phạm vi thẩm quyền của
họ được hưởng quyền bình đẳng về mặt thủ tục.
2. Những người tham gia tố tụng hiến pháp có các quyền sau đây:
1) Được tiếp cận nội dung các tài liệu tố tụng, mượn văn bản và sao chép;
2) trình chứng cứ, tham gia phân tích các chứng cứ, chứng minh các luận
điểm làm cơ sở trình bày và phản đối;
3) nêu các lập luận và suy nghĩ của mình về tất cả các vấn đề nảy sinh
trong quá trình tố tụng hiến pháp với Hội đồng Hiến pháp;
4) nêu kiến nghị và bày tỏ ý kiến của mình về kiến nghị đã nêu ra;
5) giải thích bằng lời và bằng văn bản với Hội đồng Hiến pháp.
3. Người tham gia tố tụng hiến pháp:
1) Nếu đó là người đề nghị khởi xướng tố tụng hiến pháp, thì có quyền để
thay đổi cơ sở khiếu nại, tăng hoặc giảm mức độ của nó hoặc rút lại đơn khiếu
nại trước khi diễn ra phiên họp của Hội đồng Hiến pháp đưa ra quyết định cuối
cùng.
2) liên quan đến văn bản đang được xem xét, có quyền thừa nhận toàn bộ
hoặc một phần những yêu sách khởi kiện hoặc phản đối chúng.
4. Người tham gia tố tụng Hiến pháp có nghĩa vụ như sau:
1) tận tâm thực hiện các quyền của họ. Việc cung cấp cho Hội đồng Hiến
pháp những thông tin cố ý sai lệch hoặc việc không cung cấp các tài liệu theo
yêu cầu của Hội đồng Hiến pháp hoặc những tài liệu và các thông tin khác sẽ bị
coi là không tôn trọng Hội đồng và sẽ kéo theo những trách nhiệm pháp lý theo
quy định của pháp luật;
2) tôn trọng Hiến pháp của nước Cộng hòa, Hội đồng Hiến pháp và những
yêu cầu, thủ tục được thông qua bởi Hội đồng;
3) tuân thủ mệnh lệnh của Chủ tọa về trật tự, thủ tục tại các phiên xét xử.
149
Điều 22. Hình thức và nội dung khiếu nại gửi đến Hội đồng Hiến
pháp
1. Khiếu nại gửi đến Hội đồng Hiến pháp phải bằng văn bản.
2. Những thông tin sau đây phải được nêu rõ trong đơn khiếu nại:
1) tên của Hội đồng Hiến pháp;
2) tên, địa điểm, địa chỉ và các thông tin liên quan khác về người khiếu
nại;
3) tên, địa chỉ và các thông tin khác liên quan đến người đại diện của
người khiếu nại và quyền hạn của họ trừ khi đại diện được thực hiện theo chức
trách;
4) tên, địa điểm và địa chỉ của cơ quan nhà nước, của quan chức ký hoặc
ban hành các văn bản liên quan đến việc tiến hành bầu cử Tổng thống, các thành
viên Nghị viện và việc trưng cầu ý dân của nước cộng hòa trong trường hợp đơn
khiếu nại nêu vấn đề về tính đúng đắn của các sự kiện đó;
5) tên, ngày, tháng thông qua của các luật trong trường hợp đơn khiếu nại
đặt ra vấn đề về sự phù hợp với Hiến pháp của một đạo luật đã được Nghị viện
thông qua;
5-1) tên, ngày, tháng thông qua các nghị quyết của Nghị viện và các viện
của Nghị viện trong trường hợp đơn khiếu nại đặt ra vấn đề tính phù hợp của các
quyết định của Nghị viện với Hiến pháp của nước Cộng hòa;
6) tên, ngày tháng và nơi ký kết điều ước quốc tế bởi nước Cộng hòa,
quan chức đã ký điều ước thay mặt nước Cộng hoà hoặc các cơ quan nhà nước
của nước Cộng hòa trong trường hợp đơn khiếu nại yêu cầu xem xét tính hợp
hiến của điều ước quốc tế đó.
7) các quy định của Hiến pháp của nước Cộng hòa nếu khiếu nại yêu cầu
giải thích chính thức các quy định đó;
8) tên, địa điểm và địa chỉ của cơ quan nhà nước, quan chức ký hoặc ban
hành văn bản, tên, số và ngày thông qua, các nguồn văn bản và các chi tiết khác
của luật hoặc bất kỳ văn bản pháp luật nào khác nếu tòa án cho rằng luật hoặc
văn bản đó vi hiến và tòa án tin tưởng rằng luật hoặc văn bản đó vi phạm các
quyền và tự do của con người, của công dân được quy định trong Hiến pháp;
9) tên và thành phần của Ủy ban do Nghị viện thành lập theo quy định tại
khoản 1 Điều 47 của Hiến pháp và kết luận của của Ủy ban đó; tên, ngày, tháng
150
thông qua và nội dung của các văn bản liên quan đến việc xem xét của Nghị
viện về việc bãi miễn Tổng thống nước Cộng hoà trước thời hạn.
10) thông tin về số lượng đại biểu khởi xướng yêu cầu luận tội Tổng
thống đương nhiệm; thông tin về kết quả biểu quyết tại các viện của Nghị viện;
thông tin về kết quả điều tra luận tội đối với Tổng thống; thông tin về kết luận
của Toà án tối cao về tính phù hợp của lời buộc tội; tên, ngày, tháng thông qua,
nội dung các hành vi liên quan đến việc xem xét của Nghị viện về vấn đề liên
quan đến việc luận tội Tổng thống đương nhiệm của nước Cộng hòa;
11) bản chất của khiếu nại;
12) các dữ kiện, hoàn cảnh và chứng cứ khác làm cơ sở cho đơn khiếu nại
và khẳng định tính chất phù hợp của nó;
13) các quy định của Hiến pháp của nước Cộng hòa và của Luật này trao
quyền khiếu nại lên Hội đồng Hiến pháp;
14) danh sách các tài liệu kèm theo.
3. Đơn khiếu nại phải có chữ ký của cá nhân liên quan; trong trường hợp
tòa án chuyển kiến nghị lên Hội đồng Hiến pháp, phải có chữ ký của Chánh án
của tòa án đó.
4. Những tài liệu sau đây cần được kèm theo đơn khiếu nại:
1) bản sao văn bản mà đơn đề cập đến;
2) tài liệu về các quyền hạn của người đại diện, trừ các trường hợp khi
người đại diện theo chức trách;
3) 10 bản copy của đơn khiếu nại và các tài liệu kèm theo.
5. Các tài liệu mà không phải là các ngôn ngữ thủ tục tố tụng hiến pháp
phải có bản dịch sang tiếng Kazakh hoặc tiếng Nga.
Điều 23. Hệ quả của việc kiến nghị lên Hội đồng Hiến pháp
Trong trường hợp có đơn khiếu nại gửi lên Hội đồng Hiến pháp thì các
việc sau đây sẽ bị tạm đình chỉ:
1) việc nhậm chức của Tổng thống, việc đăng ký các thành viên nghị viện
đắc cử, hoặc kết quả trưng cầu ý dân của nước Cộng hòa theo quy định tại tiểu
mục (1) khoản 1 Điều 72 của Hiến pháp.
2) việc ký ban hành, phê chuẩn các đạo luật hoặc điều ước quốc tế có liên
quan theo quy định tại các tiểu mục (2) và (3) khoản 1 Điều 72 của Hiến pháp.
151
3) các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 78 của Hiến pháp.
Điều 24. Thời hạn xem xét khiếu nại của Hội đồng Hiến pháp
Hội đồng Hiến pháp xem xét đơn khiếu nại đã được chấp nhận và thông
qua quyết định cuối cùng trong vòng một tháng kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Theo yêu cầu bằng văn bản của Tổng thống nước Cộng hòa, thời hạn này có thể
được giảm xuống đến mười ngày nếu vấn đề cấp bách.
Điều 25. Chấp thuận hoặc từ chối chấp nhận đơn khiếu nại
Đơn khiếu nại nhận được phải được Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp trình
lên để Hội đồng xem xét tại phiên họp phải được tiến hành trong thời hạn ba
ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Hội đồng Hiến pháp sau khi xem xét một
đơn khiếu nại có thể từ chối chấp nhận và trả lại nếu:
1) đơn không phù hợp với hình thức và nội dung được quy định bởi Luật
này, hoặc đơn được trình lên bởi các đối tượng không phù hợp;
2) các vấn đề nêu trong đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội
đồng;
3) vấn đề trong đơn phù hợp với Hiến pháp nhưng đã được xem xét bởi
Hội đồng Hiến pháp và Hội đồng đã đưa ra một quyết định hợp lệ;
4) vấn đề nêu trong đơn không được giải quyết theo Hiến pháp;
5) văn bản vi hiến đã được bãi bỏ hoặc đã hết hiệu lực.
Điều 26. Thủ tục chuẩn bị tư liệu để xem xét một đơn khiếu nại đã
được chấp nhận xử lý tại phiên họp của Hội đồng Hiến pháp
1. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp, bằng chỉ thị của mình, phân công thành
viên Hội đồng có trách nhiệm chuẩn bị tư liệu cho phiên họp của Hội đồng. Nếu
có các vấn đề phức tạp đặc biệt trong đơn khiếu nại hoặc do ý nghĩa đặc biệt
khẩn cấp của nó, việc chuẩn bị tài liệu có thể được giao cho một số thành viên
của Hội đồng.
2. Khi một số đơn khiếu nại liên quan với nhau được trình lên Hội đồng
Hiến pháp, Hội đồng có thể quyết định xem xét chung một lần các đơn đó. Nếu
trong số các đơn khiếu nại một vài đơn thuộc thẩm quyền của Hội đồng Hiến
pháp và những đơn khác thuộc thẩm quyền của các cơ quan quyền lực nhà nước
khác thì chỉ có những đơn thuộc thẩm quyền của Hội đồng mới được xem xét.
3. Đối với một đơn khiếu nại đã được chấp nhận xem xét, thành viên của
Hội đồng Hiến pháp được giao nhiệm vụ có trách nhiệm chuẩn bị tư liệu để xem
152
xét tại phiên họp của Hội đồng trong thời hạn mà Chủ tịch Hội đồng quy định,
và phải:
1) xác định những người tham gia tố tụng hiến pháp, giải thích cho họ về
quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật này;
2) yêu cầu cung cấp các tài liệu liên quan đến đối tượng của đơn cũng như
các thông tin khác;
3) khi cần thiết, có thể mời các nhà chức trách, nhà khoa học, nhà hoạt
động thực tiễn với tư cách là các chuyên gia thẩm định, nghiên cứu và đánh giá;
4) gửi bản sao các tài liệu cho các thành viên Hội đồng chậm nhất là hai
ngày trước khi bắt đầu phiên họp đã quy định;
5) chuẩn bị dự thảo quyết định của Hội đồng;
6) thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào khác được yêu cầu để xem xét khiếu nại
một cách thích hợp.
4. Sau khi hoàn thành công việc chuẩn bị, Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp
bằng chỉ thị của mình, phải xác định ngày tiến hành phiên họp của Hội đồng
xem xét bản chất của các vấn đề nêu trong đơn khiếu nại.
Điều 27. Thủ tục tổ chức các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp liên
quan tới việc xem xét các đơn khiếu nại đã được chấp nhận xử lý
1. Việc xem xét các đơn khiếu nại bởi Hội đồng Hiến pháp phải được
thực hiện tại phiên họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hội đồng.
2. Trong phiên họp, Chủ tịch có trách nhiệm:
1) Kiểm tra sự có mặt của các thành viên của Hội đồng đủ số lượng cần
thiết để tổ chức phiên họp và đảm bảo yêu cầu về biên bản;
2) công bố bắt đầu phiên họp của Hội đồng;
3) đọc các đề mục vấn đề cần được xem xét;
4) đề nghị thành viên Hội đồng được giao trách nhiệm báo cáo về sự có
mặt của những người được triệu tập dự phiên họp, các chuyên gia và lý do nếu
vắng mặt;
5) giải thích cho những người tham gia tố tụng hiến pháp quyền và nghĩa
vụ của họ;
6) hỏi những người tham dự phiên họp về các yêu sách của họ để Hội
đồng xem xét quyết định;
153
7) tuyên bố về việc bắt đầu xem xét các vấn đề phải xem xét.
3. Việc xem xét về từng vấn đề được bắt đầu với bài phát biểu của thành
viên Hội đồng - phúc trình viên về vụ việc, trong đó trình bày bản chất của vấn
đề, các nguyên nhân và lý do để xem xét, các nội dung của những tư liệu hiện
có. Các thành viên của Hội đồng có quyền đặt các câu hỏi cụ thể đối với phúc
trình viên.
4. Đối tượng có đơn khiếu nại cũng như đại diện của các cơ quan nhà
nước và quan chức (hay đại diện của họ) mà các văn bản và hành vi của họ đang
được xem xét về tính hợp hiến có thể yêu cầu được tham gia và có thể được cho
phép tham dự phiên họp của Hội đồng. Nếu cần thiết, Hội đồng có thể nghe phát
biểu của những người tham gia tố tụng hiến pháp, các chuyên gia và những
người được mời khác.
5. Nếu một vấn đề đã được làm sáng tỏ, Chủ tịch Hội đồng tuyên bố họp
riêng các thành viên Hội đồng để ra quyết định cuối cùng. Trong cuộc họp đó,
những người không phải là thành viên của Hội đồng sẽ không được phép tham
dự. Các thành viên Hội đồng không được phép tự ý tiết lộ nội dung các quyết
định đã được bỏ phiếu thông qua tại cuộc họp. Trong cuộc họp, các thành viên
của Hội đồng có thể tự do nêu quan điểm riêng về các vấn đề và đề nghị các
thành viên khác làm rõ quan điểm của họ.
Điều 28. Biên bản các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp
1. Phiên họp của Hội đồng Hiến pháp phải được ghi biên bản và nếu cần
thì có thể được ghi âm.
2. Biên bản các phiên họp của Hội đồng phải được lưu giữ bằng ngôn ngữ
tiến hành thủ tục tố tụng hiến pháp.
3. Các thủ tục tiến hành các cuộc họp trong các phiên họp của Hội đồng,
các yêu cầu đối với nội dung của nó cũng như các vấn đề khác liên quan đến
việc lập biên bản các phiên họp của Hội đồng Hiến pháp được xác định bởi Chủ
tịch Hội đồng.
Điều 29. Ngôn ngữ tiến hành tố tụng hiến pháp
1. Thủ tục tố tụng hiến pháp và các quyết định được thông qua bởi Hội
đồng Hiến pháp phải được thể hiện bằng tiếng Kazakh hoặc tiếng Nga.
2. Đối với những người tham gia tố tụng hiến pháp không có khả năng
hiểu ngôn ngữ sử dụng cho thủ tục tố tụng hiến pháp, Hội đồng có trách nhiệm
cung cấp phiên dịch sang ngôn ngữ mẹ đẻ của họ hoặc ngôn ngữ mà họ biết.
154
Điều 30. Chấm dứt thủ tục tố tụng hiến pháp
1. Thủ tục tố tụng hiến pháp có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng phải
trước khi thông qua quyết định cuối cùng, và được thực hiện trong các trường
hợp sau đây:
1) Chủ thể khiếu nại rút đơn;
2) Văn bản bị khiếu nại là vi hiến đã bị bãi bỏ hoặc mất hiệu lực;
3) Khiếu nại được đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Hội đồng.
2. Quyết định của Hội đồng chấm dứt các thủ tục tố tụng giải quyết khiếu
nại đang xem xét sẽ tước đi khả năng của chủ thể nêu khiếu nại một lần nữa với
Hội đồng về vấn đề đã xem xét.
Chương V:
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp
Điều 31. Các loại quyết định của Hội đồng Hiến pháp
1. Quyết định của Hội đồng hiến pháp là bất kỳ văn bản nào được thông
qua tại phiên họp của Hội đồng.
2. Các quyết định của Hội đồng bao gồm các quyết định cuối cùng của
Hội đồng để thực hiện các thẩm quyền hiến định của Hội đồng và các quyết định
để thực hiện các thẩm quyền khác của Hội đồng Hiến pháp.
Điều 32. Hình thức quyết định của Hội đồng Hiến pháp
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp sẽ được thực hiện dưới các hình
thức sau đây:
1) Nghị quyết, bao gồm cả nghị quyết có quy phạm pháp luật tạo thành
một phần cấu thành của pháp luật hiện hành của nước Cộng hòa Cadắcxtan;
2) kết luận;
3) thông điệp.
Điều 33. Thông qua quyết định của Hội đồng Hiến pháp
1. Hội đồng Hiến pháp quyết định theo tập thể.
2. Hội đồng Hiến pháp quyết định theo đa số phiếu của tổng số thành viên
bằng biểu quyết công khai, còn theo cách bỏ phiếu kín nếu có yêu cầu của ít
nhất một thành viên.
155
3. Trong trường hợp xảy ra số phiếu bằng nhau khi thông qua quyết định
của các thành viên thì phiếu của Chủ tịch Hội đồng sẽ là phiếu quyết định và
Chủ tịch trong bất kỳ trường hợp nào cũng sẽ là người bỏ phiếu cuối cùng. Khi
Chủ tịch Hội đồng được thay bằng thành viên khác của Hội đồng theo sự ủy
quyền của Chủ tịch thì quy tắc này không được áp dụng. Trong trường hợp đó,
một cuộc bỏ phiếu khác sẽ được tiến hành với sự tham gia của Chủ tịch hoặc
một thành viên của Hội đồng mà vắng mặt ở cuộc bỏ phiếu đầu tiên.
4. Trong phiên họp của Hội đồng, không ai trong số các thành viên dự
họp có quyền tránh hoặc không tham gia biểu quyết.
5. Quyết định được thông qua bởi Hội đồng Hiến pháp trước hết cần được
chứng thực bằng các chữ ký của các thành viên đã tham gia biểu quyết, sau đó
phải được Chủ tịch Hội đồng ký.
Điều 34. Ý kiến khác của thành viên Hội đồng Hiến pháp
Thành viên của Hội đồng Hiến pháp mà không đồng ý với quyết định cuối
cùng của Hội đồng có quyền thể hiện ý kiến của mình bằng văn bản.
Điều 35. Các quyết định bổ sung của Hội đồng Hiến pháp
1. Hội đồng Hiến pháp ra quyết định bổ sung trong các trường hợp sau:
1) vấn đề được nêu ra về việc giải thích một quyết định của Hội đồng
Hiến pháp. Trong trường hợp này, quyết định bổ sung được thông qua theo đơn
kiến nghị của những người tham gia tố tụng hiến pháp hoặc các cơ quan nhà
nước và quan chức có nghĩa vụ thi hành quyết định cuối cùng của Hội đồng;
2) để sửa chữa sai sót có tính câu chữ trong quyết định của Hội đồng.
Trong trường hợp này, quyết định bổ sung được chấp nhận bởi Hội đồng theo
sáng kiến riêng.
2. Các quyết định bổ sung không được mâu thuẫn với nội dung thực tế,
bản chất và mục đích của quyết định của Hội đồng.
3. Quyết định bổ sung được thông qua bởi Hội đồng trong một cuộc họp
mà các thủ tục được xác định bởi Quy chế của Hội đồng.
Điều 36. Xem xét lại quyết định của Hội đồng Hiến pháp
1. Quyết định của Hội đồng Hiến pháp có thể được xem xét lại bởi Hội
đồng theo sáng kiến của Tổng thống nước Cộng hòa hoặc theo sáng kiến của
chính Hội đồng, trong trường hợp:
1) quy định của hiến pháp làm cơ sở cho quyết định đã thay đổi;
156
2) phát hiện những hoàn cảnh mới đáng kể về đối tượng khiếu nại.
2. Vì lợi ích của việc bảo vệ các quyền và tự do của con người và của
công dân, bảo vệ an ninh quốc gia, chủ quyền và toàn vẹn của nhà nước, có thể
xem xét lại quyết định của Hội đồng Hiến pháp theo sáng kiến của Tổng thống
nước Cộng hòa.
3. Hội đồng Hiến pháp ra nghị quyết để bãi bỏ quyết định của mình.
4. Trong trường hợp xem xét lại quyết định cuối cùng, Chủ tịch Hội đồng
bằng chỉ thị của mình xác định ngày và thủ tục để tổ chức một phiên họp mới về
vấn đề này.
Điều 37. Nội dung của quyết định cuối cùng của Hội đồng Hiến pháp
Những nội dung sau đây phải được thể hiện trong quyết định cuối cùng
của Hội đồng Hiến pháp:
1) tên, ngày và nơi quyết định đã được thông qua;
2) các thành viên của Hội đồng Hiến pháp đã thông qua quyết định;
3) các chủ thể khiếu nại và người đại diện của họ;
4) Đối tượng khiếu nại;
5) quy định của Hiến pháp và Luật này xác định quyền của Hội đồng Hiến
pháp được xem xét khiếu nại;
6) các dữ kiện do Hội đồng thiết lập;
7) tên của văn bản được xem xét tính hợp hiến và nguồn của nó;
8) quyết định của quan chức mà được xem xét tính hợp hiến;
9) hạt bầu cử, quận, các đơn vị hành chính - lãnh thổ bị khiếu nại về tính
đúng đắn của các cuộc bầu cử Tổng thống, bầu cử thành viên nghị viện hoặc
trưng cầu ý dân của nước Cộng hòa tại đó ;
10) nội dung của các điều khoản của Hiến pháp mà được yêu cầu giải
thích chính thức;
11) thủ tục tố tụng được quy định theo các khoản 1, 2 Điều 47 của Hiến
pháp mà việc tuân thủ các quy định này được yêu cầu xem xét;
12) các lập luận ủng hộ quyết định mà Hội đồng Hiến pháp đưa ra;
13) các quy định của Hiến pháp mà Hội đồng đã viện dẫn;
14) cấu trúc của quyết định;
157
15) các thủ tục và thời gian cho việc thực hiện và công bố quyết định;
16) Tính chung thẩm của quyết định.
Điều 38. Hiệu lực pháp lý của quyết định của Hội đồng Hiến pháp
1. Một quyết định cuối cùng của Hội đồng Hiến pháp sẽ có hiệu lực kể từ
ngày nó được thông qua trên toàn bộ lãnh thổ của nước Cộng hòa, có tính chung
thẩm và không thể bị kháng nghị. Trình tự để bất kỳ quyết định nào khác có hiệu
lực được xác định bởi Hội đồng.
2. Tổng thống có thể nộp đơn phản đối toàn bộ hoặc một phần các quyết
định cuối cùng của Hội đồng Hiến pháp, tuy nhiên:
1) đơn phản đối phải nộp không muộn hơn trong một tháng kể từ ngày
Tổng thống nhận được quyết định;
2) đơn sẽ bị phủ quyết nếu 2/3 tổng số thành viên của Hội đồng Hiến pháp
phản đối.
3. Trong trường hợp không đủ 2/3 số thành viên Hội đồng biểu quyết phủ
quyết đơn phản đối của Tổng thống nước Cộng hòa sẽ thị quyết định của Hội
đồng Hiến pháp bị coi là không được thông qua và việc xem xét vụ việc phải
được chấm dứt.
Điều 39. Những hậu quả của việc thông qua các quyết định cuối cùng
của Hội đồng Hiến pháp
1. Các đạo luật và các điều ước quốc tế bị coi là không phù hợp với Hiến
pháp của nước Cộng hòa sẽ không được ký ban hành hoặc không được phê
chuẩn và không đưa vào thực hiện. Việc thừa nhận một đạo luật phù hợp với
Hiến pháp sẽ khôi phục quá trình ký ban hành đạo luật đó. Việc thừa nhận một
điều ước phù hợp với Hiến pháp sẽ khôi phục quá trình phê chuẩn điều ước đó.
2. Luật và các văn bản pháp luật bị coi là vi hiến, bao gồm việc hạn chế
các quyền và tự do của cá nhân và công dân đã được hiến định, sẽ mất hiệu lực
pháp lý và không được áp dụng. Quyết định của các tòa án và các cơ quan thực
thi pháp luật khác được thực hiện dựa trên các luật và văn bản pháp luật bị coi là
vi hiến sẽ không được thi hành.
3. Các cuộc bầu cử Tổng thống nước Cộng hòa, nếu bị Hội đồng cho là
không phù hợp với Hiến pháp, thì theo quyết định của Ủy ban Bầu cử Trung
ương tại các hạt bầu cử liên quan (các đơn vị hành chính - lãnh thổ) sẽ được coi
là không hợp lệ. Việc công nhận cuộc bầu cử Tổng thống là phù hợp với Hiến
pháp sẽ dẫn đến việc đăng ký Tổng thống mới.
158
4. Cuộc bầu cử đại biểu của Thượng viện và Hạ viện (Majilis), nếu bị Hội
đồng cho là không phù hợp với Hiến pháp, thì theo quyết định của Ủy ban Bầu
cử Trung ương tại các hạt bầu cử liên quan, sẽ được coi không hợp lệ. Việc công
nhận cuộc bầu cử đại biểu Thượng viện và Hạ viện là phù hợp với Hiến pháp sẽ
dẫn đến việc đăng ký các đại biểu đã trúng cử.
5. Kết quả trưng cầu ý dân của nước Cộng hòa, nếu bị Hội đồng cho là
không phù hợp với Hiến pháp, thì theo quyết định của Ủy ban bầu cử trung
ương tại các hạt có liên quan có quyền biểu quyết (đơn vị hành chính - lãnh thổ)
sẽ được coi không hợp lệ. Việc công nhận cuộc trưng cầu ý dân được tổ chức
phù hợp với Hiến pháp sẽ dẫn đến việc tiếp tục tổng hợp kết quả của cuộc trưng
cầu dân ý.
6. Kết luận của Hội đồng về việc không tuân thủ các thủ tục hiến định
trước khi thông qua một quyết đinh của Nghị viện theo quy định tại các khoản 1
và 2 Điều 47 của Hiến pháp mà liên quan tới các vấn đề như miễn nhiệm trước
thời hạn, quyết định luận tội Tổng thống sẽ dẫn đến việc Nghị viện chấm dứt
xem xét các vấn đề này. Nếu Hội đồng kết luận về sự phù hợp với các thủ tục
hiến pháp trong các vấn đề trên sẽ dẫn đến việc tiếp tục xem xét việc miễn
nhiệm hoặc luận tội Tổng thống.
Điều 40. Thực hiện quyết định của Hội đồng Hiến pháp
1. Hội đồng Hiến pháp có thể xác định trình tự và thời hạn thực hiện các
quyết định do mình thông qua.
Trong trường hợp quyết định của Hội đồng đòi hỏi phải tăng chi tiêu nhà
nước hoặc giảm các khoản thu nhà nước, Hội đồng xác định thời hạn thực hiện
các quyết định do Hội đồng thông qua theo thỏa thuận với Chính phủ.
2. Các cơ quan nhà nước và những quan chức liên quan trong thời hạn do
Hội đồng Hiến pháp thiết lập phải thông báo cho Hội đồng về các biện pháp đã
được áp dụng để thực hiện các quyết định của Hội đồng.
3. Các khuyến nghị và đề nghị về hoàn thiện pháp luật nêu trong các
quyết định của Hội đồng Hiến pháp phải được các cơ quan nhà nước và quan
chức có thẩm quyền xem xét và phải thông báo với Hội đồng về quyết định đã
được thong qua.
Điều 41. Gửi và công bố quyết định của Hội đồng Hiến pháp
1. Quyết định cuối cùng của Hội đồng Hiến pháp sẽ được:
159
1) gửi trong vòng hai ngày sau khi được thông qua tới các chủ thể có đơn
khiếu nại hoặc người đại diện của họ, và trong mọi trường hợp đều gửi đến Tổng
thống, hai Viên của Nghị viện, Chánh án Tòa án tối cao, Tổng Công tố viên, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp của nước Cộng hòa Cadắcxtan.
2) phải được công bố bằng tiếng Cadắc và tiếng Nga trên các phương tiện
thông tin đại chúng chính thức của quốc gia.
2. Các quyết định khác nếu cần sẽ được công bố và gửi đến các cơ quan
nhà nước, quan chức có liên quan đến vụ việc theo các thủ tục do Quy chế của
Hội đồng Hiến pháp quy định.
Chương VI.
Các quy định cuối cùng và tạm thời
Điều 42. Tài chính cho hoạt động của Hội đồng Hiến pháp
Nguồn tài chính cho các hoạt động của Hội đồng Hiến pháp được lấy từ
ngân sách của nước Cộng hòa.
Điều 43. Bộ máy của Hội đồng Hiến pháp
Công tác thông tin - tham khảo, tài liệu khoa học, tư vấn và các tư liệu
khác do bộ máy của Hội đồng Hiến pháp đảm trách mà hoạt động được quy định
bởi pháp luật hiện hành, Quy chế của Hội đồng và Quy định liên quan đến bộ
máy của Hội đồng.
Điều 44. Biểu tượng và con dấu của Hội đồng Hiến pháp
1. Quốc kỳ của nước Cộng hòa Cadắcxtan phải được treo ở trụ sở của Hội
đồng.
2. Trong phòng họp của Hội đồng có treo biểu tượng, quốc kỳ và hiến
pháp của nước Cộng hòa Cadắcxtan.
3. Trong phòng làm việc của Chủ tịch Hội đồng có treo quốc kỳ của nước
Cộng hòa Cadắcxtan.
4. Hội đồng có con dấu mang biểu tượng của nước Cộng hòa Cadắcxtan
và tên của Hội đồng.
Điều 45. Giấy tờ chứng minh của Chủ tịch và các thành viên của Hội
đồng Hiến pháp
Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ được cấp giấy tờ
chứng minh theo mẫu, có chữ ký của Tổng thống nước Cộng hòa.
160
Điều 46. Thủ tục thiết lập và nhiệm kỳ của Hội đồng Hiến pháp khóa
đầu
Các thủ tục cho việc thiết lập và nhiệm kỳ của Hội đồng Hiến pháp khóa
đầu tiên được xác định theo Điều 47 của Hiến pháp nước Cộng hòa.
Điều 47. Thủ tục có hiệu lực và việc thực hiện Luật này
Luật này sẽ:
1) có hiệu lực từ thời điểm nó được công bố;
2) được áp dụng đối với các tranh chấp và các quan hệ pháp luật nảy sinh
sau khi nó có hiệu lực.
Tổng thống nước Cộng hòa Cadắcxtan
N. Nazarbaev
4. Angiêri
4.1. Hiến pháp1
Phần ba:
Kiểm soát và các thiết chế tư vấn
Chương I:
Kiểm soát
---
Điều 163
Một Hội đồng Hiến pháp được thành lập để kiểm tra sự tôn trọng Hiến
pháp. Hội đồng Hiến pháp cũng kiểm tra hình thức phù hợp của các hoạt động
trưng cầu dân ý, bầu cử Tổng thống và các cuộc bầu cử quốc gia. Hội đồng Hiến
pháp công bố kết quả của các hoạt động này.
Điều 164
Hội đồng Hiến pháp gồm chín (09) thành viên: ba (03) thành viên được
Tổng thống bổ nhiệm, hai (02) thành viên được Quốc hội (Hạ viện) bầu, hai (02)
thành viên được Hội đồng Quốc gia (Thượng viện ) bầu, một (01) thành viên
được Tòa án tối cao bầu và một (01) thành viên do Hội đồng Nhà nước (Tòa
hành chính tối cao) bầu.
1. Ban hành năm 1996 và được sửa đổi, bổ sung năm 2008.
161
Khi được bầu hoặc bổ nhiệm, các thành viên Hội đồng Hiến pháp phải từ
bỏ bất kỳ công việc, chức năng, trách nhiệm hoặc nhiệm vụ nào khác.
Tổng thống bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp với một nhiệm kỳ duy
nhất sáu năm.
Các thành viên khác của Hội đồng Hiến pháp thực hiện một nhiệm kỳ duy
nhất 6 năm và được bầu lại một nửa 3 năm một lần.
Điều 165
Ngoài những thẩm quyền được ghi nhận bởi các quy định khác của Hiến
pháp, Hội đồng Hiến pháp tuyên bố về tính hợp hiến của các điều ước, đạo luật
và quy tắc lập quy bằng ý kiến nếu các văn bản này chưa có hiệu lực hoặc bằng
quyết định nếu đã có hiệu lực.
Hội đồng Hiến pháp, theo đề nghị của Tổng thống, cho ý kiến bắt buộc về
tính hợp hiến các luật tổ chức sau khi Nghị viện thông qua.
Hội đồng Hiến pháp cũng tuyên bố tính hợp hiến của các quy tắc thủ tục
của một trong hai Viện của Nghị viện theo các quy định của đoạn trên.
Điều 166
Hội đồng Hiến pháp được triệu tập bởi Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện
hoặc Chủ tịch Thượng viện.
Điều 167
Hội đồng Hiến pháp họp kín. Ý kiến hoặc quyết định của Hội đồng được
đưa ra trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày Hội đồng nhận được đề nghị.
Hội đồng Hiến pháp xác định các quy tắc hoạt động của Hội đồng.
Điều 168
Khi Hội đồng Hiến pháp cho rằng một điều ước, một thỏa thuận hoặc một
hiệp ước không hợp hiến, sự phê chuẩn không thể được thực hiện.
Điều 169
Khi Hội đồng Hiến pháp cho rằng một quy định lập pháp hoặc lập quy
không hợp hiến, quy định này mất hiệu lực kể từ ngày quyết định được thông
qua bởi Hội đồng.
…
1.2. Quy chế đặt ra các quy tắc về hoạt động của Hội đồng Hiến pháp
162
(Do Hội đồng Hiến pháp thông qua ngày 28/6/2000, sửa đổi ngày
14/6/2009)
Quy chế bao gồm 6 phần chính:
Phần I: Các quy tắc về hoạt động của Hội đồng Hiến pháp liên quan đến
kiểm soát sự phù hợp và tính hợp hiến.
Chương I: Kiểm soát sự phù hợp với Hiến pháp của các đạo luật tổ chức
và các quy tắc nội bộ của hai Viện của Nghị viện.
Chương II: Kiểm soát tính hợp hiến của các điều ước, luật và quy định lập
quy.
Chương III: Các thủ tục.
Phần II: Kiểm soát tính hợp pháp của các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý.
Chương I: Kiểm soát bầu cử Tổng thống.
Chương II: Kiểm soát bầu cử các thành viên Nghị viện.
Chương III: Kiểm soát các hoạt động trưng cầu dân ý.
Chương IV: Kiểm soát các quy định chung.
Phần III: Quyền ban hành các ý kiến và quyết định của Hội đồng Hiến
pháp.
Phần IV: Các trường hợp đặc biệt về tư vấn của Hội đồng Hiến pháp.
Phần V: Các quy tắc liên quan đến thành viên Hội đồng Hiến pháp.
Phần VI: Các hoạt động của Hội đồng Hiến pháp và các quan hệ đối
ngoại.
1.3. Các sắc lệnh của Tổng thống quy định tổ chức của Hội đồng Hiến pháp
- Sắc lệnh Tổng thống số 89-143 ngày 7/8/1989 liên quan đến các quy tắc
về tổ chức của Hội đồng Hiến pháp và vị trí của một số thành viên của Hội đồng
Hiến pháp.
- Sắc lệnh Tổng thống số 01-102 bis 27 Moharram 1422 ngày
21/3/2001sửa đổi Sắc lệnh Tổng thống số 89-143 ngày 7/8/1989 liên quan đến
các quy tắc về tổ chức của Hội đồng Hiến pháp và vị trí của một số thành viên
của Hội đồng Hiến pháp.
- Sắc lệnh Tổng thống số 02-157 3 Rabie El Aouel 1423 ngày 16/5/2002
sửa đổi Sắc lệnh Tổng thống số 89-143 ngày 7/8/1989 liên quan đến các quy tắc
163
về tổ chức của Hội đồng Hiến pháp và vị trí của một số thành viên của Hội đồng
Hiến pháp.
- Sắc lệnh Tổng thống số 02-158 3 Rabie El Aouel 1423 ngày 16/5/2002
bổ sung Sắc lệnh Tổng thống số 90-225 ngày 25/7/1990 quy định về danh mục
các chức năng tối cao của Nhà nước với tư cách là Nguyên thủ quốc gia.
- Sắc lệnh Tổng thống số 04-105 15 Safar 1425 ngày 5/3/2004 bổ sung
Sắc lệnh Tổng thống số 89-143 ngày 7/8/1989 liên quan đến các quy tắc về tổ
chức của Hội đồng Hiến pháp và vị trí của một số thành viên của Hội đồng Hiến
pháp.
5. Môritani
5.1. Hiến pháp1
Chương 6 - Hội đồng Hiến pháp
Điều 81 (Thành phần)
(1) Hội đồng Hiến pháp gồm có 6 thành viên với nhiệm kỳ 9 năm và
không được bổ nhiệm lại. 1/3 thành viên của Hội đồng Hiến pháp sẽ được bổ
nhiệm mới 3 năm một lần. 3 thành viên sẽ do Tổng thống Cộng hòa bổ nhiệm,
hai thành viên do Chủ tịch Quốc hội (Hại viện) bổ nhiệm, và một thành viên do
Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm.
(2) Thành viên Hội đồng Hiến pháp phải ít nhất là 35 tuổi.
(3) Thành viên Hội đồng Hiến pháp không được là lãnh đạo của bất cứ
đảng phái chính trị nào. Họ được hưởng quyền miễn trừ như nghị sỹ.
(3) Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do Tổng thống Cộng hòa bổ nhiệm
trong số các thành viên do Tổng thống lựa chọn. Trong trường hợp ngang phiếu,
phiếu của Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp có tính quyết định.
Điều 82 (Không kiêm nhiệm)
Thành viên của Hội đồng Hiến pháp không được đồng thời là thành viên
của Chính phủ hay Nghị viện. Mọi trường hợp không kiêm nhiệm khác do một
đạo luật tổ chức quy định.
Điều 83 (Chức năng)
1. Được ban hành năm 1991.
164
(1) Hội đồng Hiến pháp đánh giá về tính hợp pháp của việc bầu cử Tổng
thống nước Cộng hòa.
(2) Hội đồng xem xét khiếu nại về bầu cử và công bố kết quả bầu cử.
Điều 84 (Phán quyết về bầu cử)
Trong trường hợp có khiếu nại, Hội đồng Hiến pháp phán quyết về tính
hợp pháp trong việc bầu cử Hạ nghị sỹ và Thượng nghị sỹ.
Điều 85 (Đánh giá trưng cầu ý dân)
Hội đồng Hiến pháp đánh giá về tính hợp pháp của cuộc trưng cầu ý dân
và công bố kết quả.
Điều 86 (Kiểm hiến trước)
(1) Các luật tổ chức trước khi được công bố, các nội quy của Thượng viện
và Hạ viện trước khi được áp dụng phải được đệ trình lên Hội đồng Hiến pháp
để xác định xem chúng có phù hợp với Hiến pháp hay không.
(2) Với mục đích tương tự, luật trước khi được công bố có thể được đệ
trình lên Hội đồng Hiến pháp bởi Tổng thống Cộng hòa, Chủ tịch Hạ viên, Chủ
tịch Thượng viện, hoặc bởi 1/3 số thành viên của Hạ viện, hoặc bởi 1/3 số thành
viên của Thượng viện.
(3) Trong các trường hợp được đề cập ở hai khổ nói trên, Hội đồng Hiến
pháp sẽ ra phán quyết trong vòng một tháng. Tuy nhiên, theo yêu cầu của Tổng
thống, nếu khẩn cấp, thời gian này có thể giảm xuống còn một tuần.
(4) Trong những trường hợp nói trên, việc đệ trình luật lên Hội đồng Hiến
pháp sẽ tạm hoãn việc ban hành chúng.
Điều 87 (Phán quyết chung thẩm, có tính bắt buộc thi hành)
(1) Một quy phạm được tuyên bố là bất hợp hiến sẽ không được ban hành
hoặc không được đem thi hành.
(2) Quyết định của Hội đồng Hiến pháp được bảo vệ bởi nguyên tắc hậu
quả định án (res judicata).
(3) Quyết định của Hội đồng Hiến pháp không thể bị kháng cáo. Nó phải
được tuân thủ bởi tất cả các cơ quan công quyền và bởi tất cả các cơ quan hành
chính, tư pháp.
Điều 88 (Luật tổ chức)
165
Một đạo luật tổ chức sẽ quy định về tổ chức, hoạt động của Hội đồng
Hiến pháp, các thủ tục cần tuân theo, trong đó có giới hạn về thời gian đối với
việc đệ đơn lên Hội đồng.
6. Chad
6.1. Hiến pháp1
Chương VII. Hội đồng Hiến pháp
Điều 159.
Nay thiết lập một Hội đồng Hiến pháp.
Điều 160.
Hội đồng Hiến pháp có 9 thành viên, gồm (3) thẩm phán và (6) luật gia
cao cấp, được chỉ định như sau:
Hai thẩm phán và 3 luật gia cao cấp do Tổng thống chỉ định.
Một thẩm phán và 3 luật gia cao cấp do Chủ tịch Quốc hội bổ nhiệm.
Nhiệm kì của thành viên Hội đồng Hiến pháp là 9 năm và không được gia
hạn.
Cứ sau 3 năm một lần, một phần ba số thành viên Hội đồng Hiến pháp sẽ
được bổ nhiệm mới.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp không thể bị bãi miễn khỏi chức vụ trong
nhiệm kì của họ, trừ trường hợp bị kết tội, từ chức hoặc mất năng lực đảm nhiệm
chức vụ lâu dài.
Thành viên của Hội đồng Hiến pháp phải là những người có chuyên môn,
có đạo đức tốt và trung thực.
Điều 161.
Hội đồng Hiến pháp phán quyết về tính hợp hiến của các đạo luật, điều
ước quốc tế.
Hội đồng tuyên bố kết quả bầu cử Tổng thống và cơ quan lập pháp.
Hội đồng xem xét tính hợp pháp và tuyên bố kết quả các cuộc trưng cầu
dân ý.
1. Được ban hành năm 1996 và sửa đổi, bổ sung năm 2005.
166
Hội đồng phải quyết định về tính hợp hiến của các đạo luật tổ chức trước
khi nó được ban hành và các quy định về thủ tục của Quốc hội trước khi nó
được áp dụng.
Hội đồng xác nhận lời tuyên thệ của Tổng thống mới đắc cử.
Hội đồng là cơ quan điều hòa các chức năng của các thiết chế nhà nước và
hoạt động của các cơ quan công quyền.
Hội đồng giải quyết các tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước.
Điều 162.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp không đồng thời là thành viên của chính
phủ, hay người đảm nhiệm bất cứ chức danh do bầu cử nào, hay là công chức
hoặc đảm nhận các công việc vì lợi nhuận khác.
Điều 163.
Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp do các thành viên của Hội đồng bầu ra với
nhiệm kì 3 năm và có thể được bầu lại.
Điều 164.
Trước khi nhậm chức, các thành viên của Hội đồng phải tuyên thệ như
sau: “Tôi xin tuyên thệ sẽ thực thi một cách tận tâm các trách nhiệm của mình
trong sự tuân thủ chặt chẽ nghĩa vụ trung lập và đúng thẩm quyền, đảm bảo sự
tôn trọng đối với Hiến pháp và luôn hành xử một cách trung thành và liêm khiết
trong việc thực thi nhiệm vụ.”
Điều 165.
Theo yêu cầu của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội hoặc ít nhất
là 1/10 số đại biểu Quốc hội, Hội đồng Hiến pháp phải phán quyết về tính hợp
hiến của một đạo luật trước khi nó được ban hành.
Điều 166.
Bất kì công dân nào cũng có thể nêu ra tính vi hiến của một đạo luật tại
tòa án đang xét xử vụ việc có liên quan.
Trong trường hợp này, tòa án phải tạm hoãn xét xử vụ việc và chuyển vấn
đề về tính hợp hiến của đạo luật cho Hội đồng Hiến pháp xem xét trong thời hạn
tối đa 45 ngày.
Điều 167
Hội đồng Hiến pháp xem xét và kết luận về văn bản trong vòng 15 ngày.
167
Trong một số trường hợp cấp thiết, theo đề nghị của Chính phủ, thời hạn
nói trên rút xuống còn 8 ngày. Trong trường hợp đó, việc xem xét của Hội đồng
Hiến pháp sẽ tạm hoãn thời gian công bố văn bản.
Điều 168.
Một đạo luật không thể được ban hành hay áp dụng nếu một trong các
điều khoản của nó bị tuyên bố là vi hiến.
Điều 169.
Quyết định của Hội đồng không thể bị kháng cáo.
Quyết định của Hội đồng có giá trị bắt buộc với mọi cơ quan công quyền
cũng như các tòa án thường, tòa án hành chính hay tòa án quân sự.
Điều 170.
Các thẩm quyền, tổ chức, hoạt động của Hội đồng Hiến phápcũng như
quyền miễn trừ của các thành viên Hội đồng do một đạo luật tổ chức quy định.
7. Tuynidi
7.1. Hiến pháp1
Điều 35
Những vấn đề không thuộc lĩnh vực được quy định bởi luật thuộc quyền
lập quy. Các văn bản về các vấn đề này có thể được sửa đổi bởi sắc lệnh theo ý
kiến của Hội đồng Hiến pháp (Sửa đổi ngày 1/6/2002).
Tổng thống có thể phản đối sự không phù hợp của tất cả các đạo luật hoặc
sửa đổi luật xâm phạm đến lĩnh vực lập quy. Tổng thống đưa vấn đề này lên Hội
đồng Hiến pháp ra phán quyết trong thời hạn tối đa 10 ngày kể từ ngày nhận
được đề nghị (Sửa đổi ngày 27/10/1997)
Điều 40
Bất kỳ công dân nào có duy nhất quốc tịch Tuynidi, theo đạo Hồi, có bố,
mẹ, ông bà nội và ngoại có quốc tịch Tuynidi liên tục, đều có thể ứng cử Tổng
thống (Sửa đổi ngày 26/7/1988).
Ngoài ra, vào ngày ứng cử Tổng thống, ứng cử viên phải ít nhất 40 tuổi và
nhiều nhất là 75 tuổi và đang được hưởngtất cả các quyền dân sự và chính trị.
1. Được ban hành năm 1959 và sửa đổi, bổ sung vào các năm 1995, 1998, 2002.
168
Ứng cử viên được giới thiệu bởi số lượng nhất định các thành viên Hạ
viện và các chủ tịch tỉnh phù hợp với các hình thức và điều kiện do Bộ luật bầu
cử quy định.
Các hồ sơ ứng cử được vào sổ trong một bộ hồ sơ đặc biệt do Hội đồng
Hiến pháp quản lý.
Hội đồng Hiến pháp kết luận về tính hợp pháp của các hồ sơ ứng cử,
tuyên bố kết quả các cuộc bầu cử và xem xét các khiếu nại lên Hội đồng Hiến
pháp về vấn đề này theo các quy định của Bộ luật bầu cử (Sửa đổi ngày
1/6/2002).
Điều 57
Trong trường hợp khuyết chức danh Tổng thống do từ trần, từ chức hoặc
mất năng lực hoàn toàn, Hội đồng Hiến pháp sẽ ngay lập tức họp và xác nhận
việc khuyết chức danh Tổng thống bằng đa số tuyệt đối của các thành viên. Hội
đồng Hiến pháp sẽ ra tuyên bố về vấn đề này để gửi cho Chủ tịch Thượng viện
và Chủ tịch Hạ viện, và Chủ tịch Hạ viện ngay lập tức được trao quyền thực
hiện các chức năng của Tổng thống lâm thời trong khoảng thời gian từ 45 ngày
đến 60 ngày. Nếu việc khuyết chức danh Tổng thống xảy ra đồng thời với giải
tán Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện sẽ tạm thời được trao quyền thực hiện chức
năng Tổng thống trong khoảng thời gian tương tự.
Chương IX. Hội đồng Hiến pháp
Điều 72
Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến pháp của các dự luật theo đệ
trình của Tổng thống. Việc đề nghị Hội đồng Hiến pháp kiểm hiến là bắt buộc
đối với các dự luật tổ chức, các dự luật được quy định tại Điều 47 của Hiến
pháp, cũng như các dự luật về phương thức áp dụng Hiến pháp, quốc tịch, vị thế
pháp lý cá nhân, các nghĩa vụ, xác định các tội phạm, vi phạm và các hình phạt
áp dụng, các thủ tục tố tụng tại tòa án, ân xá, cũng như các nguyên tắc cơ bản về
tài sản và các quyền, giáo dục, y tế công cộng, luật lao động và an sinh xã hội.
Tương tự, Tổng thống bắt buộc phải đệ trình Hội đồng Hiến pháp xem xét
các điều ước quy định tại Điều 2 của Hiến pháp.
Tổng thống cũng có thể đề nghị Hội đồng Hiến pháp xem xét bất kỳ vấn
đề nào liên quan đến tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nước (Sửa đổi
ngày 6/11/1995).
169
Hội đồng Hiến pháp phán quyết về các khiếu nại liên quan đến bầu cử các
thành viên Hạ viện và Thượng viện. Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp pháp
của các cuộc trưng cầu ý dânvà tuyên bố kết quả trưng cầu ý dân. Luật bầu cử sẽ
quy định các thủ tục về vấn đề này (Sửa đổi ngày 1/6/2002).
Điều 73
Các dự luật của Tổng thống được đệ trình Hội đồng Hiến pháp trước khi
chuyển sang Hạ viện hoặc đưa ra trưng cầu ý dân.
Trong thời hạn công bố và đăng tải theo quy định của Điều 52 của Hiến
pháp, Tổng thống đệ trình Hội đồng Hiến pháp các sửa đổi liên quan đến nội
dung các dự luật đã được thông qua bởi Hạ viện và trước đó đã được đệ trình
Hội đồng Hiến pháp theo quy định của Điều này.Tổng thống thông báo điều này
cho Chủ tịch Hạ viện.
Trong trường hợp này, thời hạn nói trên được lùi lại cho đến khi Tổng
thống nhận được ý kiến của Hội đồng Hiến pháp;thời gian tạm hoãn không được
quá một tháng (Sửa đổi ngày 6/11/1995).
Điều 74
Trong trường hợp việc đệ trình Hội đồng là bắt buộc theo quy định của
Điều 72, sau khi đã được thông qua,Tổng thống đệ trình Hội đồng Hiến pháp
các dự luật do các hạ nghị sỹ đề xuất trong khoảng thời gian công bố và đăng tải
theo quy định của Điều 52. Tổng thống thông báo điều này cho Chủ tịch Hạ
viện.
Trong trong trường hợp này, các quy định của đoạn ba Điều 73 được áp
dụng (Sửa đổi ngày 6/11/1995).
Nội quy của Hạ viện và Nội quy Thượng viện phải được đệ trình Hội
đồng Hiến pháp trước khi áp dụng để kiểm tra sự phù hợp hoặc sự tương hợp
của các quy chế này với Hiến pháp (Sửa đổi ngày 1/6/2002).
Điều 75
Ý kiến của Hội đồng Hiến pháp phải nêu lý do. Ý kiến của Hội đồng Hiến
pháp có giá trị bắt buộc đối với tất cả các cơ quan công quyền trừ các vấn đề
được quy định tại đoạn ba của Điều 72 Hiến pháp này.
Tổng thống chuyển cho Hạ viện và Thượng viện các dự luật đã được Hội
đồng Hiến pháp kiểm tra theo quy định của đoạn thứ nhất của Điều 73 Hiến
pháp, kèm theo văn bản có ý kiến của Hội đồng Hiến pháp.
170
Tổng thống chuyển cho Hạ viện văn bản có ý kiến của Hội đồng Hiến
pháp trong các trường hợp quy định tại đoạn hai Điều 73 và đoạn thứ nhất Điều
74 Hiến pháp.
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp về các vấn đề liên quan đến bầu
cử có giá trị chung thẩm và không thể bị khiếu nại.
Hội đồng Hiến pháp gồm chín thành viên có quyền hạn không phụ thuộc
tuổi tác, trong đó bốn thành viên bao gồm Chủ tịchđược Tổng thống bổ nhiệm,
và hai thành viên do Chủ tịch Hạ viện lựa chọn, có nhiệm kỳ ba năm có thể
được bổ nhiệm lại hai lần, và ba thành viên được bổ nhiệm đương nhiên: Chánh
Tòa phá án, Chánh tòa Hành chính tối cao và Chánh tòa kiểm toán.
Các thành viên Hội đồng Hiến pháp không thể thực hiện các chức năng
của Chính phủ hoặc Nghị viện. Các thành viên Hội đồng Hiến pháp cũng không
được đảm nhiệm các chức năng trong một cơ quan chính trị, công đoàn hoặc
tiến hành các hoạt động có thể ảnh hưởng đến sự trung lập và độc lập của họ.
Luật quy định ra các trường hợp không kiêm nhiệm khác nếu có.
Luật đặt ra những bảo đảm cần thiết cho các thành viên Hội đồng Hiến
pháp để họ thực thi các hoạt động, cũng như đặt ra quy chế hoạt động và thủ tục
của Hội đồng Hiến pháp (Sửa đổi ngày 1/6/2002).
8. Xênêgan
8.1. Hiến pháp1
Điều 74.
Hội đồng Hiến pháp có thể họp để xem xét tính hợp hiến của luật khi có
đề nghị của:
Tổng thống Cộng hòa, trong vòng sáu ngày sau khi đạo luật được thông
qua và chuyển đến cho Tổng thống.
Một số lượng hạ nghị sĩ tương đương với 10% tổng số thành viên của Hạ
viện, trong vòng sáu ngày sau khi đạo luật được thông qua.
Một số lượng thượng nghị sĩ tương đương với 10% tổng số thành viên của
Thượng viện trong vòng sáu ngày sau khi đạo luật được thông qua.
Điều 75.
1. Được ban hành năm 2001.
171
Trong trường hợp đạo luật được xem xét về tính hợp hiến của nó trước
khi công bố, thời gian công bố sẽ bị hoãn lại cho đến khi có kết quả của phiên
thảo luận lần thứ hai của Quốc hội về đạo luật hoặc có quyết định của Hội đồng
Hiến pháp tuyên bố đạo luật phù hợp với Hiến pháp.
Điều 83.
Nếu trong quy trình lập pháp, một dự án luật hoặc một đề nghị sửa đổi
luật không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật, Thủ tướng và các thành viên khác
của Chính phủ có thể phản đối tiếp nhận chúng. Trong trường hợp có bất đồng,
Hội đồng Hiến pháp, theo yêu cầu của Tổng thống Cộng hòa, hoặc của Quốc
hội, hoặc của Thượng viện, hoặc của Thủ tướng, sẽ đưa ra quyết định trong vòng
8 ngày.
Điều 88.
Quyền tư pháp là quyền độc lập khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Nó được thực hiện bởi Hội đồng Hiến pháp, Tòa án tối cao, Tòa án kiểm toán,
các tòa án thường và các tòa án đặc biệt.
Điều 89.
Hội đồng Hiến pháp gồm 5 thành viên, có một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch
và 3 thẩm phán, có nhiệm kỳ 6 năm. Cứ mỗi 2 năm, Chủ tịch và hai thành viên
khác của Hội đồng sẽ được thay thế theo thứ tự dựa trên ngày hết hạn nhiệm kỳ
của họ. Thành viên của Hội đồng Hiến pháp do Tổng thống Cộng hòa bổ nhiệm.
Điều kiện để được bổ nhiệm làm thành viên của Hội đồng Hiến pháp do một đạo
luật tổ chức quy định. Các thành viên Hội đồng Hiến pháp có thể được tái
nhiệm. Chức vụ thành viên Hội đồng Hiến pháp chỉ có thể bị kết thúc trước thời
hạn vì lý do mất khả năng thể chế và trong điều kiện do một đạo luật tổ chức
quy định.
Điều 92.
Hội đồng Hiến pháp sẽ quyết định về tính hợp hiến của luật, của quy chế
nội bộ của Nghị viện và của các điều ước quốc tế, tranh chấp về thẩm quyền
giữa cơ quan lập pháp và hành pháp, và những ngoại lệ về tính chất bất hợp hiến
được nêu ra ở Tòa án tối cao.
Phán quyết của Hội đồng Hiến pháp không thể bị kháng cáo. Nó có hiệu
lực đối với tất cả các cơ quan công quyền và các nhà chức trách hành chính và
tư pháp.
Điều 93.
172
Trừ trường hợp phạm tội quả tang, các thành viên của Hội đồng Hiến
pháp chỉ có thể bị bắt, truy tố, xét xử về tội phạm hình sự với sự đồng ý của Hội
đồng và với điều kiện tương tự như điều kiện của các thành viên của Tòa án tối
cao và Tòa kiểm toán.
Điều 97.
Nếu Hội đồng Hiến pháp tuyên bố một điều ước quốc tế chứa đựng điều
khoản mâu thuẫn với Hiến pháp, việc phê chuẩn hay thông qua điều ước quốc tế
đó chỉ có thể được thực hiện sau khi sửa đổi Hiến pháp.
9. Ethiopia
9.1. Hiến pháp1
Chương VI: Các viện liên bang
Phần 2: Thượng viện (Viện liên bang)
Điều 62: Quyền lực và chức năng của Thượng viện
(1) Thượng viện có thẩm quyền giải thích hiến pháp.
(2) Thượng viện tổ chức Hội đồng điều tra hiến pháp.
(3) Theo quy định của Hiến pháp, Thượng viện sẽ quyết định các vấn
đềliên quan đến các quyền tự quyết, bao gồm quyền ly khai của các dân tộc, sắc
tộc nhân dân.
(4) Thượng viện sẽ thúc đẩy sự bình đẳng của các dân tộcở Ethiopia đã
được long trọng ghi nhận trong hiến pháp và thúc đẩy sự thống nhất dựa trên sự
đồng thuận tương hỗ.
(5) Thượng viện sẽ thực thi các quyền lực và chức năng hiện đang được
trao cho Thượng việnvà Hạ viện.
(6) Thượng viện sẽ nỗ lực tìm giải pháp đối với những tranh chấp hoặc
hiểu lầm có thể phát sinh giữa các tiểu bang.
(7) Thượng viện sẽ quyết định phân chia các nguồn thu xuất phát từ
những nguồn thuế chung giữa Liên bang và tiểu bang và những trợ cấp mà chính
quyền liên bang có thể cung cấp cho các tiểu bang.
1Bản hiến pháp này được sửa đổi vào tháng 12 năm 1994 và có hiệu lực vào tháng 8 năm 1995, nên có tác giả gọi
là Hiến pháp 1995, có tác giả lại lấy ngày thông qua bản hiến pháp và gọi là Hiến pháp 1994.
173
(8) Thượng viện xác định các vấn đề dân sự cần phải có các luật do Hạ
viện ban hành.
(9) Thượng viện chấp thuận sự can thiệp của Liên bang vào bất kỳ tiểu
bang nào khi có vi phạm hiến pháp này đe dọa trật tự hiến pháp.
(10) Thượng viện sẽ thiết lập các ủy ban lâm thời và thường trực.
(11) Thượng viện sẽ bầu Chủ tịch và Phó chủ tịch Thượng viện và thông
qua các quy chế hành chính, nội quy (của Thượng viện).
Chương IX: Cấu trúc và quyền lực của các tòa án1
Điều 82: Cấu trúc của Hội đồng điều tra hiến pháp
(1) Hiến pháp này lập ra Hội đồng điều tra hiến pháp.
(2) Hội đồng điều tra hiến pháp gồm 11 thành viên, bao gồm:
(a) Chánh án Tòa án tối cao sẽ làm Chủ tịch Hội đồng điều tra hiến pháp;
(b) Phó chánh án Tòa án tối cao sẽ làm Phó chủ tịch Hội đồng điều tra
hiến pháp;
(c) Sáu chuyên gia pháp lý có trình độ chuyên môn cao, đạo đức tốt do
Tổng thống liên bang bổ nhiệm theo đề xuất của Hạ viện;
(d) Ba thành viên do Thượng viện lựa chọn trong số các thượng nghị sĩ
của mình.
(3) Hội đồng điều tra hiến pháp sẽ thành lập cơ cấu tổ chức của mình để
bảo đảm có thể thực thi kịp thời các nhiệm vụ của mình.
Điều 83: Giải thích hiến pháp
(1) Tất cả tranh chấp hiến pháp sẽ được quyết định bởi Thượng viện;
(2) Thượng viện sẽ quyết định trong vòng ba mươi ngày sau khi Hội đồng
điều tra hiến pháp đệ trình bất kỳ tranh chấp hiến pháp nào lên Thượng viện.
Điều 84: Quyền lực và chức năng của Hội đồng điều tra hiến pháp
1Hội đồng điều tra hiến pháp do Thượng viện lập ra, hỗ trợ cho chức năng giải thích hiến pháp của Thượng viện,
nhưng các điều khoản quy định về Hội đồng điều tra hiến pháp lại được đặt trong Chương IX: cấu trúc và quyền lực của các
tòa án, thay cho đặt trong Chương VI: Các viện liên bang. Hiện nay Ethiopia đang sửa đổi Hiến pháp, và theo dự thảo sửa
đổi, Hội đồng điều tra hiến pháp được đôi thành Tòa án Hiến pháp giúp Thượng viện giải thích Hiến pháp.
174
(1) Hội đồng điều tra hiến pháp có thẩm quyền xem xét các tranh chấp về
các vấn đề hiến pháp. Trong trường hợp thấy cần thiết phải giải thích Hiến pháp,
Hội đồng đệ trình các đề xuất của mình lên Thượng viện.
(2) Hội đồng điều tra hiến pháp, sau khi kiểm tra các yêu cầu (khiếu kiện
hiến pháp) được chuyển tới Hội đồng bởi tòa án hoặc một bên tranh chấp liên
quan đến việc luật pháp của liên bang hoặc tiểu bang mâu thuẫn với hiến pháp
này, sẽ đệ trình kết quả kiểm tra của mình cho Thượng viện ra quyết định cuối
cùng.
(3) Khi vấn đề giải thích hiến pháp phát sinh tại các tòa án khác, Hội đồng
điều tra hiến pháp sẽ đi theo thủ tục sau đây:
(a) Nếu cho rằng không có lý do phải giải thích hiến pháp thì Hội đồng trả
lại vụ việc tới tòa án có thẩm quyền. Tuy nhiên, nếu bên tranh chấp không thỏa
mãn với quyết định của Hội đồngcó thể kháng cáo lên Thượng viện.
(b) Nếu cho rằng cần phải giải thích Hiến pháp, Hội đồng đệ trình ý kiến
của mình lên Thượng viện quyết định chung thẩm.
(4) Hội đồng điều tra hiến pháp sẽ dự thảo thủ tục hoạt động của mình, đệ
trình dự thảo để Thượng viện phê chuẩn và thực thi theo thủ tục đã được phê
chuẩn.
10. Marốc
10.1. Hiến pháp1
Chương VI. Hội đồng Hiến pháp
Điều 78
Nay thiết lập một Hội đồng Hiến pháp
Điều 79
Hội đồng Hiến pháp có 6 thành viên do Quốc vương bổ nhiệm với nhiệm
kì 9 năm. Sau khi đã tham vấn các nhóm trong Quốc hội, 6 thành viên khác sẽ
được bổ nhiệm với một nhiệm kì tương tự, một nửa do Chủ tịch Hạ viện bổ
nhiệm, một nửa do Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm. Một phần ba số thành viên
của mỗi nhóm sẽ được bổ nhiệm mới mỗi ba năm. Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp
1. Được ban hành năm 1996.
175
do Quốc vương bổ nhiệm trong số các thành viên được lựa chọn bởi Quốc
vương.
Chủ tịch và các thành viên Hội đồng Hiến pháp không được tái bổ nhiệm.
Điều 80.
Một đạo luật tổ chức sẽ quy định về tổ chức, hoạt động của Hội đồng
Hiến pháp cũng như thủ tục mà Hội đồng áp dụng, đặc biệt là thủ tục liên quan
đến thời hạn giải quyết các tranh chấp được đệ trình đến Hội đồng. Tương tự,
Luật này cũng sẽ quy định về các chức năng có thể bị xem là xung đột với chức
năng của thành viên Hội đồng, điều kiện cho hai lần bổ nhiệm mới đầu tiên sau
mỗi ba năm, cũng như thủ tục thay thế các thành viên không còn làm việc do từ
chức hoặc do chết.
Điều 81.
Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền theo quy định của các điều khoản
trong Hiến pháp hoặc do luật tổ chức quy định. Ngoài ra, Hội đồng cũng quyết
định về giá trị các cuộc bầu cử các thành viên Nghị viện hoặc trưng cầu dân ý.
Các luật tổ chức – trước khi được ban hành và các quy định về thủ tục của mỗi
Viện – trước khi được áp dụng phải được đệ trình đến Hội đồng Hiến pháp để
xem xét tính hợp hiến. Cùng với mục đích nêu trên, các đạo luật thường trước
khi được ban hành cũng có thể được đệ trình đến Hội đồng theo yêu cầu của
Quốc vương, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện, hoặc ¼ tổng
số đại biểu của một trong hai viện. Hội đồng Hiến pháp có một tháng để ra phán
quyết về các trường hợp đặc biệt được nêu trong hai đoạn trên. Tuy nhiên, trong
trường hợp khẩn cấp, thời hạn này có thể được giảm xuống còn 8 ngày theo yêu
cầu của chính phủ. Liên quan đến các trường hợp này, khi một dự luật được đệ
trình đến Hội đồng xem xét thì thời hạn ban hành luật theo quy định cũng tạm
hoãn. Không có bất kì điều khoản vi hiến nào có thể được ban hành hay áp
dụng. Quyết định của Hội đồng Hiến pháp cũng không thể bị kháng án. Các
quyết định của Hội đồng có giá trị bắt buộc với mọi cơ quan công quyền, các cơ
quan hành chính và tư pháp.
11. Libăng
11.1. Hiến pháp1
1. Được ban hành năm 1989.
176
Điều 19.
Một Hội đồng Hiến pháp được thành lập nhằm kiểm tra tính hợp hiến của
các đạo luật và phân xử những xung đột phát sinh trong quá trình bầu cử Nghị
viện và bầu cử Tổng thống. Tổng thống, Chủ tịch Nghị viện, Thủ tướng cùng
với các thành viên trong Chính phủ có quyền tham khảo ý kiến của Hội đồng
Hiến pháp trong những vấn đề liên quan đến tính hợp hiến của các đạo luật.
Những lãnh tụ tinh thần hoặc những người đứng đầu các cộng đồng tôn giáo có
quyền tham khảo ý kiến của Hội đồng đối với các vấn đề liên quan đến các
quyền tự do công dân, tự do tính ngưỡng và giáo dục tôn giáo. Nguyên tắc và
hình thức hoạt động của Hội đồng Hiến pháp sẽ được quy định bởi một đạo luật
riêng biệt.
9.2. Luật về Hội đồng Hiến pháp của Libăng
Điều 2.
Hội đồng Hiến pháp gồm 10 thành viên.
Nghị viện sẽ cử 5 thành viên dựa trên kết quả bầu chọn theo đa số. Trong
các cuộc bầu chọn thành viên hội đồng, nếu có kết quả hòa, ứng viên lớn tuổi
hơn sẽ chiến thắng. Chính phủ cử 5 thành viên còn lại theo cơ chế bầu với tỷ lệ
hơn hai phần ba số phiếu bầu.
Điều 3.
Thành viên Hội đồng Hiến pháp được lựa chọn theo những tiêu chí sau:
- Từ những thẩm phán có kinh nghiệm xét xử trong các lĩnh vực tư pháp,
hành chính, tài chính tối thiểu là 25 năm, hoặc từ những giảng viên, giáo sư
chuyên ngành luật có kinh nghiệm giảng dạy tối thiểu 25 năm.
- Là công dân Libăng với thời hạn trên 10 năm, yêu nước và các quyền
công dân, không có tiền án, tiền sự.
- Có độ tuổi từ 50 đến 70.
Điều 4.
Từ thời điểm Luật này có hiệu lực, một phần hai số lượng thành viên Hội
đồng sẽ hết nhiệm kỳ sau 3 năm. Họ được lựa chọn ngẫu nhiên. Năm thành viên
mới được bổ nhiệm sẽ có nhiệm kỳ 6 năm và được bầu theo những quy định của
Luật này.
Trong trường hợp vị trí của một thành viên bị bỏ trống do từ chức, khuyết
tật, chết hoặc lý do khác, Hội đồng có trách nhiệm công bố chính thức vị trí bị
177
bỏ trống để tiến hành bầu chọn thay thế. Việc bầu chọn thay thế được thực hiện
trong vòng một tháng kể từ ngày thông báo. Thành viên mới sẽ tiếp tục nhiệm
kỳ còn bỏ trống. Thành viên mới sẽ được miễn trừ đối với quy định “thay mới
một nửa số lượng thành viên” nếu thời hạn nhiệm kỳ còn lại ít hơn 2 năm. Hơn
nữa, sự vắng mặt khỏi vị trí thành viên Hội đồng từ 3 năm trở lên bị xem như là
một sự từ chức chính thức.
Điều 7.
Không thành viên Hội đồng Hiến pháp nào được kiêm nhiệm các chức vụ
trong Chính phủ, Nghị viện hoặc bất kỳ một tổ chức công hay dân sự khác.
Điều 8.
Trong nhiệm kỳ của mình, thành viên Hội đồng Hiến pháp không được
tiếp tục làm việc trong cả khối công cộng và tư nhân, tuy nhiên, vai trò giảng
dạy hoặc tham gia các hội nghị quốc tế vẫn được bảo lưu. Bất kỳ thành viên nào
vi phạm cũng đương nhiên bị xem như đã tự nguyện từ bỏ tư cách thành viên và
Hội đồng Hiến pháp có quyền tuyên bố sự từ bỏ đó bằng một quyết định được
đưa ra dựa trên cơ sở biểu quyết đa số. Trong trường hợp này, việc bầu một
thành viên mới sẽ được tiến hành theo thủ tục quy định tại Điều 4.
Nếu thành viên Hội đồng Hiến pháp là một luật sư hoạt động trong một
công ty luật, tư cách thành viên công ty luật sẽ bị đình chỉ ngay lập tức và chỉ
được khôi phục lại sau khi người này chính thức rời khỏi Hội đồng Hiến pháp.
Điều 12.
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp được thông qua theo nguyên tắc
đa số với ít nhất 7 thành viên Hội đồng tham gia bỏ phiếu biểu quyết. Tỷ lệ này
được áp dụng đối với những vụ việc liên quan đến việc phê chuẩn tính hợp hiến
của một đạo luật và giải quyết các tranh chấp cũng như những khiếu nại phát
sinh từ những cuộc bầu cử Nghị viện.
Quyết định sẽ được Chủ tịch Hội đồng và các thành viên có mặt cùng ký
tên thông qua. Những ý kiến phản đối sẽ được các thành viên ghi chú và bên
dưới trước khi ký tên. Những ý kiến bất đồng, vì thế, sẽ được xem như là một
phần không thể tách rời của Quyết định và sẽ được công bố, lưu hành.
Điều 18.
Hội đồng Hiến pháp phê chuẩn tính hợp hiến của đạo luật và những văn
bản quy phạm pháp luật khác. Trong mọi trường hợp, không có một cơ chế tư
pháp nào ngoài Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền phê chuẩn thông qua các
178
khiếu nại trực tiếp hoặc những cáo buộc gián tiếp đối với những trường hợp phát
hiện sự vi hiến.
Điều 22.
Trong phán quyết của mình, Hội đồng Hiến pháp sẽ tuyên bố một đạo luật
là vi hiến một phần, vi hiến toàn bộ hoặc xung đột với Hiến pháp hiện hành.
Nếu phán quyết của Hội đồng tuyên bố một phần của đạo luật trái với
Hiến pháp, phần vi hiến đó sẽ được xác định một thời hạn nhất định để trở nên
vô hiệu. Phần vô hiệu sẽ bị xem như là không tồn tại và không ai có thể sử dụng
nó như là một sự giới hạn đối với các quyết định của Hội đồng.
Điều 23.
Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền quyết định tư cách của Chủ tịch nước,
Chủ tịch Nghị viện qua kết quả bầu cử.
Điều 24.
Hội đồng Hiến pháp sẽ quyết định tính hợp lệ và tư cách Nghị sĩ của các
ứng cử viên Nghị viện dựa trên khiếu nại của ứng viên thua cuộc. Các khiếu nại
phải được tiến hành tại địa phương bầu cử trong thời hạn tối đa là 30 ngày kể từ
ngày kết quả bầu cử chính thức được công bố.