mỘc bẢn trƯỜng hỌc phÚc giang ĐƯỢc vinh danh di … xn dvn_01.pdf · mộc bản...

4
Tạp chí KH-CN Nghệ An SỐ 7/2016 [37] XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI 1. Nguyễn Huy Oánh, húy Xuân, hiệu Lựu Trai, Thạc Đình, tự Kính Hoa, sinh ngày 17/9/1713 tại làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là con trai đầu của Nguyễn Huy Tựu (1690-1750) và bà Phan Thị Trìu (1694-1775); thi Hương đỗ Giải nguyên, khoa Long Đức 1 (1732) năm 20 tuổi; thi đỗ Đình nguyên Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa) khoa thi Hội Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748). Ông làm quan trải các chức: Hàn lâm viện Đãi chế, Tham mưu đạo Thanh Hoa, Hiệp đồng Nghệ An, Đông các Hiệu thư, Thượng bảo Tự khanh, Tán trị thừa chính sứ xứ Sơn Nam, Đông các Học sĩ, Tri binh phiên, Nội giảng kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm Tân Tỵ (1761), ông được nâng hàng Tam phẩm và đi đón tiếp Sứ Thanh; năm Ất Dậu (1765) được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc), khi về được phong Hữu Thị lang bộ Công, tước Bá; năm Giáp Ngọ (1774) được cử làm Hiệp lý, lo việc binh lương cho quân chúa Trịnh đi đánh dẹp phương Nam. Năm Ất Mùi (1775), mẹ mất, ông xin về chịu tang. Hết tang, ông lại được cử làm Tán lý các đạo Thanh Hoa, Sơn Nam, Hải Dương, thăng Đô Ngự sử, rồi Tán lý Thái Nguyên, Cao Bằng. Ông xin về nghỉ ở quê nhà để mở trường dạy học, được tặng phong Thượng thư bộ Công. Ông từng được cử làm Đề điệu các trường thi Hương ở Hải Dương, Yên Quảng và làm Phúc khảo thi Hội ở triều đình. Trước tác tiêu biểu của ông có: Bắc dư tập lãm, Hoàng hoa sứ trình đồ, Phụng sứ Yên Kinh tổng ca, Sơ học chỉ nam, Quốc tử toản yếu, Dược tính ca quát, Thạc Đình di cảo, Huấn nữ tử ca, Hy tổ nhân vươngKhi nghỉ hưu, Nguyễn Huy Oánh cho xây dựng Phúc Giang Thư viện để lưu giữ sách vở, rồi tổ chức MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANG ĐƯỢC VINH DANH DI SẢN TƯ LIỆU KÝ ỨC THẾ GIỚI THU C C U Á - TH ÁI B ÌNH DƯƠ NG n Đào Tam Tỉnh Mộc bản Trường học Phúc Giang là bộ ván gỗ khắc chữ Hán ngược dùng để in sách, phục vụ cho việc dạy và học tại Phúc Giang Thư viện do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh tổ chức từ thế kỷ XVIII. Bìa sách Ngũ kinh toản yếu đại toàn do Nguyễn Huy Oánh biên soạn Mộc bản Trường học Phúc Giang tại triển lãm “Di sản tư liệu thế giới tại Việt Nam” (Huế - 5/2016)

Upload: others

Post on 25-Oct-2019

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANG ĐƯỢC VINH DANH DI … XN DVN_01.pdf · Mộc bản Trường học Phúc Giang là bộ ván gỗ khắc chữ Hán ngược dùng để

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 7/2016 [37]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

1. Nguyễn Huy Oánh, húy Xuân, hiệu Lựu Trai,Thạc Đình, tự Kính Hoa, sinh ngày 17/9/1713 tại làngTrường Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là xãTrường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông là contrai đầu của Nguyễn Huy Tựu (1690-1750) và bà PhanThị Trìu (1694-1775); thi Hương đỗ Giải nguyên, khoaLong Đức 1 (1732) năm 20 tuổi; thi đỗ Đình nguyênĐệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa) khoathi Hội Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 9 (1748). Ônglàm quan trải các chức: Hàn lâm viện Đãi chế, Thammưu đạo Thanh Hoa, Hiệp đồng Nghệ An, Đông cácHiệu thư, Thượng bảo Tự khanh, Tán trị thừa chính sứxứ Sơn Nam, Đông các Học sĩ, Tri binh phiên, Nộigiảng kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm Tân Tỵ(1761), ông được nâng hàng Tam phẩm và đi đón tiếpSứ Thanh; năm Ất Dậu (1765) được cử làm Chánh sứsang nhà Thanh (Trung Quốc), khi về được phong HữuThị lang bộ Công, tước Bá; năm Giáp Ngọ (1774) đượccử làm Hiệp lý, lo việc binh lương cho quân chúa Trịnhđi đánh dẹp phương Nam. Năm Ất Mùi (1775), mẹ mất,ông xin về chịu tang. Hết tang, ông lại được cử làm Tánlý các đạo Thanh Hoa, Sơn Nam, Hải Dương, thăng ĐôNgự sử, rồi Tán lý Thái Nguyên, Cao Bằng. Ông xin vềnghỉ ở quê nhà để mở trường dạy học, được tặng phongThượng thư bộ Công. Ông từng được cử làm Đề điệucác trường thi Hương ở Hải Dương, Yên Quảng và làmPhúc khảo thi Hội ở triều đình. Trước tác tiêu biểu củaông có: Bắc dư tập lãm, Hoàng hoa sứ trình đồ, Phụngsứ Yên Kinh tổng ca, Sơ học chỉ nam, Quốc tử toản yếu,Dược tính ca quát, Thạc Đình di cảo, Huấn nữ tử ca,Hy tổ nhân vương…

Khi nghỉ hưu, Nguyễn Huy Oánh cho xây dựngPhúc Giang Thư viện để lưu giữ sách vở, rồi tổ chức

MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANGĐƯỢC VINH DANH DI SẢN TƯ LIỆU KÝ ỨC THẾ GIỚITHUỘC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG

n Đào Tam Tỉnh

Mộc bản Trường học Phúc Giang là bộ ván gỗ khắc chữ Hán ngượcdùng để in sách, phục vụ cho việc dạy và học tại Phúc Giang Thư việndo Thám hoa Nguyễn Huy Oánh tổ chức từ thế kỷ XVIII.

Bìa sách Ngũ kinh toản yếu đại toàn do Nguyễn Huy Oánh biên soạn

Mộc bản Trường học Phúc Giang tại triển lãm “Di sản tư liệu thế giới tại Việt Nam” (Huế - 5/2016)

Page 2: MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANG ĐƯỢC VINH DANH DI … XN DVN_01.pdf · Mộc bản Trường học Phúc Giang là bộ ván gỗ khắc chữ Hán ngược dùng để

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 7/2016 [38]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

khắc ván in sách (mộc bản) để phục vụ cho việcnghiên cứu và dạy học cho các nhà nho và nho sinh.Thư viện là một trường học có tiếng ở xứ Nghệ vàmiền Bắc, với hàng nghìn nho sinh đến học, đào tạođược hơn 30 Tiến sĩ và hàng trăm Hương cống,Hiệu sinh. Triều đình biết tiếng đã có sắc chỉ phongcho chủ nhân ngôi trường là “Uyên phổ Hoằng dụĐại vương”. Công lao đóng góp cho sự nghiệp giáodục của Nguyễn Huy Oánh qua Trường học PhúcGiang là rất lớn, nên ông được triều đình ban tặngsắc phong là vị Thần đền Thư viện(1):

Chữ Hán:敕福江書院長恩會魁星斗坐阮恩台長生祿位

芳流孔水派續尼山博我以文樹人贊百年之計使民也惠醫國高千古之勳同人稔協推保大有正宜用享為嗣王進封王位臨居正府禮有登秩應褎封美字二字可封福江書院長恩會魁星斗坐阮恩台長生祿位淵普弘裕大王故敕

景興四十四年七月二十六日Phiên âm: Sắc: Phúc Giang Thư viện, Trường Ân hội, Khôi

tinh đẩu tọa, Nguyễn Ân Thai (Đài), trường sinh lộcvị. Phương lưu Khổng thủy, phái tục Ni sơn, bácngã dĩ văn, thụ nhân tán bách niên chi kế, sử dândã huệ, y quốc cao thiên cổ chi huân, đồng nhânnhẫm hiệp, suy bảo đại hữu, chính nghi dụnghưởng, vị tự vương tiến phong vương vị, lâm cưchính phủ. Lễ hữu đăng trật. Ưng bao phong mỹ tựnhị tự, khả phong: Phúc Giang Thư viện, TrườngÂn hội, Khôi tinh Đẩu tọa, Nguyễn Ân Thai. Trườngsinh lộc vị, Uyên phổ Hoằng dụ Đại vương. Cố sắc!

Cảnh Hưng tứ thập tứ niên, thất nguyệt, nhị thậplục nhật.

Tạm dịch:Sắc cho thần là Khôi tinh Đẩu tọa Nguyễn Ân

Thai (Đài), Trường Sinh Lộc ở Hội Trường Ân PhúcGiang Thư viện: Tiếng thơm lưu chảy từ sôngKhổng, chi phái nối tiếp ở núi Ni, lấy văn học màlàm uyên bác cho ta, tỏ rõ kế sách trăm năm trồngngười, việc lợi cho dân thì dùng ân huệ, có công laohộ quốc, như bậc cao niên nghìn năm, cùng ngườigiúp đỡ đã lâu, lo việc bảo vệ cũng nhiều, chínhđáng được phụng thờ. Triều đình tiến phong tướcvương, quản trong chính phủ, lễ có thêm phẩm trật,ban khen phong cho mỹ tự hai chữ Đại vương. Nayxứng đáng được phong: Khôi tinh Đẩu tọa, NguyễnÂn Thai (Đài), Trường sinh lộc, Uyên phổ Hoằngdụ Đại vương ở hội Trường Ân Thư viện PhúcGiang. Vậy Ban sắc!

Ngày 26 tháng 7 năm Cảnh Hương thứ 44

(1783).2. Phúc Giang Thư viện vừa là trung tâm giáo

dục với ý nghĩa là một trường học, còn gọi làTrường Lưu học hiệu, vừa là Đồ thư quán, nơi lưutrữ số lượng lớn các thư tịch của riêng dòng họNguyễn Huy. Nơi đây, tương truyền có tới hàng vạncuốn sách và người đọc đến rất đông. Trường họcPhúc Giang là nơi giảng dạy, học tập các sách kinhđiển và đào tạo cho nho sinh thụ nghiệp tham giaứng thí các trường thi Hương, thi Hội do triều đìnhtổ chức. Sức hút nho sinh của Trường học PhúcGiang cũng nhờ dòng họ Nguyễn Huy nổi tiếng cónhiều thế hệ khoa bảng, có tài về văn học, hìnhthành nên một dòng phái “Văn phái Hồng Sơn”, tiêubiểu như: Nguyễn Huy Tựu (1690-1750), NguyễnHuy Oánh, Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785),Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Nguyễn Huy Hổ(1783-1841)...

Trường Lưu cũng nổi tiếng có nhiều thầy giáodạy giỏi: Nguyễn Uyên Hậu là người dạy Ngũ kinhở Quốc Tử Giám từ giữa thế kỷ XV; con và cháu làNguyễn Hàm Hằng và Nguyễn Thừa Nghiệp đều làGiám sinh Quốc Tử Giám, đậu Tam trường thi Hộivà làm nghề dạy học. Nguyễn Huy Tựu từng là thầydạy học ở Kinh đô, về nhà biên tập lại sách Tính lýđại toàn để dạy cho con cháu và học trò. NguyễnHuy Oánh sau khi đỗ đầu thi Hương đã về dựng nhàở phía Nam làng tụ tập hàng trăm người theo học.Sau khi cụ đỗ Đình nguyên Thám hoa, về quê dạyhọc thì học trò theo học ngày càng đông. Theo tàiliệu thì trường học Phúc Giang đã đào tạo được trên30 Tiến sĩ. Trong số các Tiến sĩ là học trò của thầyNguyễn Huy Oánh ghi tên trên bảng mừng thọ thânmẫu thầy có tên các Tiến sĩ người Nghệ An nhưPhạm Nguyễn Du (ở Thạch Động, Nghi Lộc) vàNguyễn Trọng Đường (ở Trung Cần, Nam Đàn)…Do nhu cầu về tài liệu học tập và phát triển văn hóalà rất lớn, nên thầy Thám hoa đã phải tổ chức biênsoạn sách và cho khắc bản âm (Mộc bản) để in sách.

3. Vốn sách được in từ Mộc bản ở nước ta cònlại đến nay đều rất quý hiếm. Đó là các bộ sử ký củaquốc gia; các bộ kinh Phật; các sách về nho, y, lý,số; kho tư liệu Ngự chế của triều Nguyễn… Vốn disản Mộc bản lại càng quý hơn, do khó bảo quản, dễhư hỏng, mất mát, nên còn lại rất ít đến ngày nay,trở thành vốn di sản quý của nhân loại, được UN-ESCO vinh danh trong Chương trình Di sản Tư liệuký ức Thế giới thuộc Châu Á - Thái Bình Dương:Kho Mộc bản triều Nguyễn được cất giữ ở Cục Lưutrữ Trung ương 4 tại Đà Lạt; Kho Mộc bản của chùa

Page 3: MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANG ĐƯỢC VINH DANH DI … XN DVN_01.pdf · Mộc bản Trường học Phúc Giang là bộ ván gỗ khắc chữ Hán ngược dùng để

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 7/2016 [39]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang; Kho Trường học PhúcGiang Thư viện của Thám hoa Nguyễn Huy Oánhcòn lưu giữ 379 tấm Mộc bản.

Vốn di sản Mộc bản của Trường học PhúcGiang, Hà Tĩnh là khá lớn và quan trọng, vì là sáchvề giáo khoa giáo dục. Toàn bộ các sách trong khonày có nội dung thuộc các bộ: Ngũ kinh toản yếuđại toàn, Tính lý đại toàn và Thư viện lệ quy. Nổibật trong các sách thuộc bộ Ngũ kinh gồm 5 loại:Ba kinh (tức Kinh thi) - 2 quyển; Bích kinh (tứcKinh thư) - 2 quyển; Lễ kinh (tức Kinh lễ) - 2quyển; Hi kinh (tức Kinh dịch); Lân kinh - 2 quyển.Riêng bộ Tính lý đại toàn gồm quyển Thượng,quyển Hạ. Nội dung các bộ sách của Trường họcPhúc Giang nói chung là các tài liệu giáo khoa thưtinh giản hướng vào thực tiễn Việt Nam thời đại LêTrung Hưng, được biên soạn từ “khối óc uyên bác,con tim nhiệt tình yêu dân, yêu nước” của nhữnghọc giả họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu. Khi làmsách để khắc vào Mộc bản, cụ Thám hoa NguyễnHuy Oánh có ghi trong Ngũ kinh toản yếu tự (bàitựa toàn yếu Ngũ kinh) như sau:

“Oánh tôi từ lúc nhỏ tuổi theo thầy học, thườngđược học theo cách nắm cái chính yếu, lược bỏ điềuphần tạp, đi theo con đường dẫn tới thành công,hướng vào thực tiễn cuộc sống, dùng cách thứcphát vấn nhận xét, khẳng định, phủ định, hiệuchỉnh, ròng rã mười năm mà đạt tới thành công.Tuy nói rằng vừa làm quan, vừa nghiệm xét mà rútra kết luận, ghi lại một cách không tận hết, khôngđủ để lấy làm thư tịch, nghĩa lý tinh vi. Thế nhưngđệ tử, môn sinh trường tư thục cần tiến thân thì lạirất đông đúc. Những điều tốt đẹp bổ ích cho nhữngngười hạ học này thì thật là không ít vậy. Những kẻnghìn sau bắt lỗi tôi là theo học chương cú. Nhữngngười hiểu biết tôi một cách đích thực thì cho tôi làngười học vì thực tiễn”(2).

Các sách kho Mộc bản Trường Lưu được cácthành viên Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ An in ra vàphiên âm gồm:

- Tính lý đại toàn, quyển Thượng: 34 tấm ván =68 mặt = 136 trang (tr).

- Tính lý đại toàn, quyển Hạ: 33 tấm = 66 mặt =132 tr. Bộ sách (gồm cả quyển Thượng và quyểnHạ) do Nguyễn Huy Tựu biên soạn trước năm1718, Nguyễn Huy Oánh chỉnh lý và viết chữ,Nguyễn Huy Tự khảo duyệt và cùng Nguyễn HuyVượng trông coi việc khắc in.

- Bích kinh đại toàn: 26 tấm = 51 mặt khắc chữ= 102 tr.

- Tịch kinh đại toàn: 37 tấm = 74 mặt = 148 tr.- Lân kinh đại toàn: 51 tấm = 101 mặt = 202 tr.- Hy kinh đại toàn: 32 tấm = 64 mặt = 128 tr.- Ba kinh đại toàn: 54 tấm = 108 mặt = 216 tr.- Bích kinh đại toàn: 12 tấm = 24 mặt = 48 tr.- Lễ kinh đại toàn: 42 tấm = 84 mặt = 168 tr.- Thư viện quy lệ: Còn 5/6 tấm.- Các mộc bản thuộc Dịch kinh như: Tử đồ

thuyết: còn 2 tấm = 3 tr; Quân phương vị: 1 tấm;Chu dịch ngũ tân: 1 tấm; Dịch kinh tự thuyết: 1 tấm;Dịch kinh cương lĩnh: 1 tấm; Dịch kinh đại toàn: 1tấm.

- Một số tấm là lời bạt, đề từ: Ngũ kinh toát yếutự: còn 6 tấm = 11 mặt; Ngũ kinh toát yếu đại toàn:còn 1 tấm, 1 trang tên sách; Ngũ kinh phàm lệ: 1tấm; Tính lý toản yếu toàn thư: 1 tấm; Tính lý toảnyếu bạt: 1 tấm; Tính lý toát yếu tự: 1 tấm; Gia bảotổng quát: còn 1 tấm, 1 trang tên sách; Tính lý toátyếu đại toàn: còn 1 tấm, 1 trang tên sách.

- Còn lại là chưa rõ tên vì mất chữ tên sách: 23tấm = 46 mặt và các bản bị hỏng mất đầu đuôi, mấttrang...: còn 16 tấm = 35 mặt.

4. Nội dung một số bộ sách tiêu biểu còn nhiềutrang và nét độc đáo của chúng qua nghiên cứu tìmhiểu của các thành viên Câu lạc bộ Hán Nôm NghệAn như sau:

- Thư viện quy lệ (các quy định ở Thư viện):Hiện còn 5/6 ván, thiếu ván thứ 2, chỉ còn ván thứ3 là nguyên vẹn, rõ nét các chữ, các ván 4, 5 mấtvà hỏng nhiều chữ. Mỗi ván có khổ: 20x30cm, dày2cm. Ở ngay chính giữa của mỗi ván, bên trên khắc4 chữ Thư viện quy lệ, chính giữa khắc số thứ tự tờ(trang ván in); bên dưới khắc 4 chữ Thạc Đình lưu(Thạc Đình giữ bản in). Ván thứ 6 có ghi về tác giảthảo ra quy lệ và thời gian khắc in: Thời, Hoàngtriều Cảnh Hưng cường ngữ Đại uyên hiến, phụngSứ đại Bồi thần Nguyễn Lựu Trai thư vu Bắc KinhHội đồng quán (Đương triều năm Cảnh Hưng[Đinh Hợi - 1767] Đại Bồi thần vâng lệnh đi sứ làNguyễn Lựu Trai viết ở Quán hội đồng Bắc Kinh)[Quy lệ này do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh viếtkhi đi sứ, ở Sứ quán tại Bắc Kinh](3); người khắc inlà Đệ tử Nguyễn Huy Vượng. Nội dung: ghi lại cácquy định về tổ chức các ghi thức hành lễ của TrườngPhúc Giang mà người học phải tuân theo (Lễ pháp),tức người xin vào học phải có lễ, làm lễ; khi vàohọc rồi phải tuân theo các nghi lễ của trường (Thưviện) dưới sự dẫn dắt của các viện sư.

Về học trò: “Học trò lấy phẩm hạnh làm đầu,mọi việc phải hợp với quy định, phải đúng mực

Page 4: MỘC BẢN TRƯỜNG HỌC PHÚC GIANG ĐƯỢC VINH DANH DI … XN DVN_01.pdf · Mộc bản Trường học Phúc Giang là bộ ván gỗ khắc chữ Hán ngược dùng để

Tạp chíKH-CN Nghệ An

SỐ 7/2016 [40]

XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI

thước, muốn giữ mình cho được vẹn toàn thì phải cóđủ các đức hiếu, đễ, hòa mục […] làm người màkhông hổ thẹn với chính mình. Giữ khí chất liêm sỉ,thì có thể giáo hóa được kẻ thô lậu thành người độlượng, kẻ đức mỏng thành người đôn hậu, đó là côngnăng của tố chất bên trong. Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân(Thu) […] người học không phụ công lao sinh thànhcủa cha mẹ…”.

Trong quy định có cách thức viết báo tiệp, giấy yếttên người thi đỗ để tôn vinh, để mọi người noi theo.Phần quy định về báo tiệp thi đậu: “Mỗi khoa thi màhọc trò học trong Thư viện được dự trúng kỳ thiHương, thì cả trò và thầy viết giấy báo tiệp dán ở trêntường của Thư viện, để tuyên dương (Giấy viết thìdùng loại giấy nhuộm hùng hoàng của Trung Quốc)…

Nếu trong chi phái và trong hội nào mà có conem cùng với học trò trong Viện dự trúng kỳ thi Hội(Hội bảng) thì dùng loại giấy chu sa (đỏ) của TrungQuốc viết giấy báo tiệp, dán lên tường của Viện, rồiở phía bên ngoài cổng Viện lại dựng một cây cờ (đậuTam khôi thì cờ cao 30 thước, đậu Tiến sĩ thì cờ cao20 thước) để tỏ sự vinh diệu…”(4).

- Tính lý toát yếu đại toàn, quyển Thượng: ĐượcNguyễn Huy Tựu chắt lọc tinh hoa và trích dẫn cácdanh ngôn từ bộ sách của Trung Quốc do vua MinhThánh Tổ lệnh cho các đại nho đương thời thu tómhọc thuyết của 120 nho gia hàng đầu thời nhà Tống,để làm thành cuốn sách giáo khoa truyền dạy chonho sinh của mình và truyền bá nho học đại chúng.

- Tính lý toát yếu đại toàn, quyển Hạ, có 4 phần,mỗi phần có đề mục riêng. Phần Lịch đại (38,5 tờ =77 trang in): Lịch đại đế vương ghi chép về các đếvương Trung Quốc từ Nghiêu - Thuấn đến Đường -Tống. Đặc biệt, hết phần đế vương Trung Quốc cóPhần lịch đại đế vương là các vị vua nước ta (NamViệt), từ 2 vị vua triều Đinh đến 12 vị vua triều Trần.Việc đưa các triều đại Nam Việt vào sách này chứngtỏ được lòng tự tôn dân tộc của người làm sách, đểdạy cho nho sinh biết rằng dân tộc ta với các triềuđại độc lập, thịnh vượng có thể sánh vai cùng các

triều đại Trung Quốc cùng thời.- Thi kinh toản yếu đại toàn: Sách được Thám hoa

Nguyễn Huy Oánh toản yếu, là những câu khái quátvà những lời dạy của thầy giáo giúp cho học sinhhiểu biết sâu khi bước vào một vườn hoa văn chươngthiên cổ muôn màu, muôn sắc. Sách trích thơ phongvà tiểu nhã cùng với những lời chú thích về xuất xứ,những lời bình của người xưa và của ngay tác giảcủa tập sách này.

- Bích kinh toản yếu đại toàn: Gồm các thiên Nguthư, Hạ thư, Thương thư, Chu thư… Hậu họcNguyễn Huy Oánh hiệu chỉnh, Gia đệ Nguyễn HuyQuýnh thủ thư. Sách ghi lại các truyền thuyết, biếncố ở các đời vua trước Khổng Tử. Nội dung chủ yếucủa Kinh thư là ghi chép lịch sử Trung Quốc thờithượng cổ, với 3 triều đại Hạ, Thương, Chu.

- Hi kinh toản yếu đại toàn: Nêu lên quá trình luânhồi của thuật bát quái và các đạo đức kinh của cácNho gia, như Khổng Tử, Chu Tử, Ngiêu - Thuất hayThang - Vũ…

Hầu hết các ván khắc Mộc bản đều có khắc 4chữ: Thạc Đình tàng bản (Bản lưu trữ của ThạcĐình - tên hiệu của Nguyễn Huy Oánh); ThạcĐình chính bản (Bản chính của Thạc Đình); ThạcĐình lưu bản, đồng thời một số ván có khắc ấntriện, gia huy, phù hiệu lá đề của dòng họ và ngườitham gia làm Mộc bản.

Toàn bộ số Mộc bản Trường học Phúc Giang đãđược Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ An(5) in, sắp xếp,phiên âm đóng thành 12 tập sách. Thư viện Khoa họckỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp chụpvà số hóa cũng đóng thành 12 tập. UBND tỉnh HàTĩnh đã giao cho Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh cùng SởKhoa học và Công nghệ Hà Tĩnh làm đề án khoahọc, viết/lập hồ sơ khoa học trình Hội đồng khoa họccủa UNESCO để vinh danh. Ngày 19/5/2016, UN-ESCO đã cấp Bằng công nhận Di sản Mộc bảnTrường học Phúc Giang là Di sản Tư liệu Thế giới -thuộc Chương trình ký ức Tư liệu Thế giới Châu Á- Thái Bình Dương./.

Chú thích: (1) Tham khảo Sắc phong trong sách: Các tác giả dòng văn Nguyễn Huy Trường Lưu cuộc đời và tác phẩm. H., Lao

động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2012.(2) Nguyễn Thanh Hải, Kinh Xuân Thu trong Mộc bản Phúc giang Thư viện/Nghiên cứu bảo tồn Mộc bản Trường Lưu,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học, tháng 10/2015, tr. 170.(3), (4) Hoàng Ngọc Cương, Về sách thư viện quy lệ của Thư viện Phúc Giang: niên đại ở đây không ghi theo lịch Can

chi mà theo lịch Tuế dương, tức lịch Thái tuế: Cường ngữ tương ứng với can Đinh, đại uyên hiến tương ứng với chi Hợi,Kỷ yếu Hội thảo khoa học, tháng 10/2015, tr. 175.

(5) Các thành viên Câu lạc bộ Hán nôm Nghệ An tham gia in và phiên âm Mộc bản: Nguyễn Thanh Hải, Thái Huy Bích,Nguyễn Đình Vân, Nguyễn Thế Đạt, Lê Văn Chín, Trần Mạnh Cường, Đào Văn Khôi, Hoàng Thị Nguyệt.