mỤc lỤc a. thỊ trƯỜng tiỀn tỆ - srtc.org.vn filethị trường tiền tệ - tín...
TRANSCRIPT
MỤC LỤC
A. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ….......... ........................................... 2
I. Thị trường tiền tệ - tín dụng .................................................... 2
II. Thị trường ngoại hối và vàng .................................................. 8
1. Thị trường ngoại hối ................................................................. 8
B. THỊ TRƯỜNG VỐN............................................................... 13
I. Thị trường chứng khoán ........................................................ 13
II. Thị trường BĐS ...................................................................... 20
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
2
A. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
I. Thị trường tiền tệ - tín dụng
Thị trường tiền tệ - tín dụng thế giới
Nền kinh tế toàn cầu đã được hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch dự báo sẽ tăng tốc trong năm 2014
và 2015 trong bối cảnh các nền kinh tế phát triển chủ chốt hồi phục mạnh so với mức tăng trưởng 2,4%
của năm 2013, cụ thể sẽ đạt lần lượt 2,9% và 3,2%.
Mỹ được Fitch dự đoán sẽ đạt mức tăng trưởng cao nhất trong các nền kinh tế phát triển với mức
2,8% và 3,1% lần lượt trong năm nay và năm sau (năm 2013 Mỹ tăng trưởng 1,9%). Mức lãi suất thấp
kỉ lục (gần 0%) vẫn tiếp tục được áp dụng và FED đã thừa nhận kinh tế Mỹ hiện chưa đủ mạnh để tăng
lãi suất cũng như thắt chặt các chính sách. Tuy nhiên, Chủ tịch FED cũng đã công bố giai đoạn giữa việc
nâng lãi suất cơ bản và kết thúc các chương trình nới lỏng định lượng (QE) có thể là 06 tháng. Nếu QE
kết thúc vào cuối năm nay (từ tháng 10 – tháng 12) thì lãi suất cơ bản có thể sẽ bắt đầu được nâng lên
vào tháng 4/2015 và được dự báo sẽ tăng khá mạnh (đạt mức 2,25% trong năm 2016). Gói QE3 cũng
được cắt giảm từ 65 tỷ xuống còn 55 tỷ USD và FED sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch cắt giảm chương
trình này nhằm cải thiện điều kiện lao động cũng như tăng mức lạm phát lên mức mục tiêu 2%.
Trong tháng 3, Fitch đã xếp hạng AAA đối với tín dụng đồng nội tệ và ngoại tệ của Mỹ và đưa
nước này ra khỏi diện theo dõi hạ bậc tín nhiệm (được áp dụng từ tháng 10/2013) do Mỹ gặp bế tắc
trong cuộc đàm phán nâng trần nợ công (là một yếu tố quan trọng làm gia tăng rủi ro vỡ nợ). Fitch cũng
đánh giá Mỹ có khả năng kiểm soát nợ tốt hơn nhiều so với các nước đồng xếp hạng AAA khác.
Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu được Fitch đánh giá là đang có dấu hiệu phục hồi dần
và sẽ đạt mức tăng trưởng 1,1% và 1,4% lần lượt trong năm 2014 và 2015 sau khi suy giảm 0,4% trong
năm 2013. Còn Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) thì dự báo tỷ lệ này lần lượt là 1% và 1,4%.
Trong tháng 3, cơ quan Thống kê châu Âu đã công bố số liệu tỷ lệ lạm phát tại EU trong tháng 2 là
0,8%, không thay đổi so với tháng 1/2014 và thấp hơn nhiều so với lạm phát mục tiêu 2% mà ECB đã đề
ra. Mức lạm phát dự báo cho các năm 2014, 2015 và 2016 lần lượt là 1%, 1,3% và 1,5%, giảm nhẹ so với
dự báo trước đó do nhu cầu của trong và ngoài khu vực đã có sự phục hồi dần. Lạm phát thấp kéo dài có
thể đẩy nền kinh tế ra khỏi đà tăng trưởng do người tiêu dùng và doanh nghiệp sẽ trì hoãn kế hoạch mua
sắm để đợi giá giảm xuống thấp hơn nữa. Nguy cơ EU quay lại vùng thiểu phát đã được IMF cảnh báo hồi
tháng 1 vừa qua và đây chính là yếu tố đang đe dọa sự phục hồi của cả khu vực. Ngoài ra, đà tăng trưởng
của khu vực còn bị cản trở bởi tỷ lệ thất nghiệp cao, nợ công và nợ tư nhân cao.
NHTW châu Âu (ECB) đã quyết định vẫn giữ mức lãi suất tái cấp vốn ở mức thấp kỉ lục
(0,25%). Lãi suất được giữ nguyên dựa trên cơ sở nhiều số liệu tích cực của tháng 2 được công bố trong
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
3
tháng này và không xuất hiện thêm nhiều nhân tố ảnh hưởng xấu tới đà hồi phục mới bắt đầu của khu
vực. NHTW Anh (BoE) cũng duy trì mức lãi suất thấp kỉ lục 0,5% và duy trì chương trình nới lỏng định
lượng trị giá 375 tỷ bảng. BoE cho biết mức lãi suất này sẽ được duy trì cho đến khi tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống ít nhất là 7% và lạm phát giữ được ở gần mức mục tiêu 2%.
Trên thị trường liên ngân hàng London, lãi suất đồng USD của các kì hạn biến động không
nhiều, tăng nhẹ giai đoạn giữa tháng và giảm ở cuối tháng. Lãi suất đồng USD tại thời điểm ngày 31/3
so với ngày 3/3 giảm nhẹ ở các kì hạn qua đêm, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng và 6 tháng (giảm từ 0,00160%
- 0,00505%); tăng nhẹ ở hai kì hạn 1 tuần và 12 tháng (tăng từ 0,00135% - 0,00430%). Lãi suất đồng
EUR lại có xu hướng tăng ở tất cả các kì hạn. So sánh ngày 31/3 với ngày 3/3, kì hạn qua đêm có mức
tăng đột biến (tăng 0,48357%), các kì hạn còn lại tăng từ 0,01429% - 0,03214%).
Biểu đồ 1: Lãi suất đồng USD và EUR trên Thị trường liên ngân hàng London tháng 3/2014
USD
EUR
Nguồn: homefinance.nl
Biểu đồ 2: Lãi suất đồng USD và EUR trên Thị trường liên ngân hàng London 3 tháng đầu năm
2014
USD
EUR
Nguồn: homefinance.nl
Tại châu Á, Fitch cũng dự báo tăng trưởng kinh tế Nhật Bản đạt 1,7% trong năm nay và 1,2%
trong năm tới. NHTW Nhật (BoJ) đã quyết định giữ nguyên các biện pháp kích thích kinh tế, đây là
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
3/3 13/3 23/3
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
3/3 13/3 23/3
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
0.70000
1/1 1/2 1/3 1/4
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
1/1 1/2 1/3 1/4
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
4
nhân tố ảnh hưởng tới tâm lý các nhà đầu tư khiến thị trường chứng khoán châu Á có những thay đổi
tích cực và cũng khiến đồng USD và EUR tăng nhẹ trở lại so vớ
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
5
giảm từ 5% xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 8%
xuống 7,5%/năm; trần lãi suất huy động VND các kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7% xuống
6%/năm; trần lãi suất huy động USD của cá nhân giảm từ 1,25% xuống 1%/năm; lãi suất huy động USD
đối với các doanh nghiệp, tổ chức giữ nguyên tại 0,25%/năm. Đồng thời, trần lãi suất cho vay đối với 5
lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, danh nghiệp vừa và nhỏ,
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao cũng được điều chỉnh giảm từ 9% xuống 8%/năm. Trong bối
cảnh lạm phát thấp, tín dụng tăng trưởng âm (tính đến ngày 13/3 tăng trưởng đạt -1,05% so với cuối năm
2013) và chênh lệch lãi suất giữa VND và USD còn cao thì lần điều chỉnh giảm lãi suất lần này của
NHNN được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là hợp lý cả về thời điểm lẫn liều lượng, phù hợp với
diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, tình hình thị trường tài chính ngân hàng, có tác dụng thúc đẩy tín dụng
tăng trưởng mạnh hơn trong thời gian tới và nằm trong lộ trình thực hiện mục tiêu chống đô la hóa của
NHNN.
Ngay từ trước khi NHNN công bố điều chỉnh giảm lãi suất, nhiều ngân hàng đã có động thái
giảm lãi suất huy động, đặc biệt là khối ngân hàng quốc doanh, không chỉ giảm lãi suất huy động ở các
kì hạn ngắn mà các kì hạn dài từ 12 tháng trở lên cũng được điều chỉnh giảm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng
3 giảm 0,44% so với tháng trước và tăng 4,39% so với cùng kỳ năm trước. Tính bình quân cả quý I, CPI
tăng 4,83% so với bình quân cùng kì năm trước, đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.
Như vậy, với mức lãi suất huy động mới được điều chỉnh giảm xuống 6% thì lãi suất vẫn thực dương. So
sánh với các kênh đầu tư khác như bất động sản, ngoại tệ, vàng hay chứng khoán vẫn chưa thực sự hấp
dẫn và còn nhiều rủi ro thì gửi tiết kiệm vẫn là lựa chọn tối ưu và an toàn của người dân. Vì vậy, dù lãi
suất huy động giảm nhưng lượng vốn huy động vẫn tiếp tục tăng (tính đến ngày 13/3 tăng 1,92% so với
cuối năm 2013 trong đó huy động VND tăng 2,23%, huy động ngoại tệ giảm 0,09%), tuy nhiên đã có sự
dịch chuyển từ kì hạn ngắn sang kì hạn trung và dài hạn do trần lãi suất không bị khống chế (tỷ lệ vốn
ngắn hạn trong tổng lượng vốn của hệ thống ngân hàng đã giảm từ 80% xuống còn 60%).
Lãi suất huy động giảm là một trong những yếu tố quan trọng để giảm lãi suất cho vay nhưng
giảm được thêm bao nhiêu còn phụ thuộc nhiều yếu tố như nợ xấu, mức độ rủi ro của doanh nghiệp hay
trình độ quản trị của ngân hàng. Hiện nay, lãi suất cho vay vẫn được duy trì ở mức khá cao và chênh
lệch giữa hai mức lãi suất ở khoảng 4 - 5%. Tại các ngân hàng cổ phần, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 3 -
6 tháng phổ biến 10,5% -12%/năm, trong khi lãi suất huy động ngắn hạn đều ở mức dưới 7%/ năm. Tại
các ngân hàng quốc doanh, mức cho vay ngắn hạn là 9 - 10%/năm còn lãi suất huy động ngắn hạn từ 5 -
5,8%/năm. Với các kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên lãi suất cho vay còn cao hơn nữa. Thông thường, lãi
suất áp cho 1 - 3 tháng đầu ở mức thấp (từ 5 - 8%) và sau đó tăng dần lên theo lãi suất thị trường bằng
cách lấy lãi suất huy động cao nhất tại thời điểm đó cộng với biên độ khoảng 4 - 5%. Như vậy lãi suất
cho vay sẽ ở khoảng từ 11- 15% tùy từng khách hàng và giá trị từng món vay. Nhưng trên thực tế, lãi
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
6
suất cho vay hiện không phải là vấn đề quan trọng nhất ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng doanh nghiệp
của các ngân hàng. Kinh tế khó khăn, sức mua giảm khiến đầu ra của doanh nghiệp bị ảnh hưởng nên
cầu vay vốn không cao. Bên cạnh đó, dù các ngân hàng hạ lãi suất cho vay nhưng vì lo ngại nợ xấu tăng
nên tiêu chuẩn cho vay không được điều chỉnh giảm nên hiện nay có tới 70 – 80% số doanh nghiệp
muốn vay vốn không đáp ứng được yêu cầu vay vốn của ngân hàng dẫn tới tình trạng không tiếp cận
được vốn vay.
Lãi suất trái phiếu Chính phủ của các kì hạn cũng đã giảm xuống mức kỉ lục. Cụ thể, lãi suất
TPCP các kì hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm và 7 năm lần lượt là 5,3250%/năm; 5,8917%/năm; 6,2167%/năm
và 8,2417%/năm (số liệu ngày 17/3/2014). Thanh khoản của hệ thống ngân hàng dồi dào, huy động vốn
vẫn tăng, các mức lãi suất chủ chốt đều được điều chỉnh giảm nhưng tín dụng vẫn tăng trưởng âm chính
là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc lãi suất TPCP bị giảm sâu như vậy. Tuy nhiên, dù lãi suất
TPCP thấp nhưng trong bối cảnh các ngân hàng không phát triển được hoạt động tín dụng dù huy động
vốn vẫn tăng trưởng thì TPCP hiện vẫn đang là kênh đầu tư an toàn.
Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất của các kì hạn đều có xu hướng giảm nhẹ (xem biểu đồ
3).
Biểu đồ 3: Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tháng 3/2014
(Nguồn: sbv.gov.vn)
Ở tuần đầu của tháng, mặt bằng lãi suất có diễn biến trái chiều, tăng ở kì hạn ngắn và giảm nhẹ ở
kì hạn dài. Do nhu cầu nhận nguồn vốn ngắn hạn để thanh toán cũng như đáp ứng nhu cầu về an toàn
vốn ở thời điểm đầu tháng của các ngân hàng nên lãi suất kì hạn ngắn trên thị trường liên ngân hàng đã
tăng nhẹ. Tuy nhiên, biến động này chỉ mang tính tạm thời, lãi suất của tất cả các kì hạn đã giảm nhẹ ở
tuần tiếp theo. Do cung tiền tương đối dồi dào và nhu cầu về vốn ở mức thấp là những nhân tố giữ cho
mặt bằng lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tương đối ổn định cho đến hết tháng 3. Các giao dịch
trên thị trường chủ yếu ở các kì hạn ngắn như kì hạn qua đêm, 1 tuần và 2 tuần.
-0.
50
1.
00
1.
50
2.
00
2.
50
3.
00
3.
50
4.
00
4.
50
5.
00
3/3
8/3
13/3
18/3
23/3
28/3
KH
qua êm
KH
1 tu
nKH
2 tu
n
KH
1 tháng
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
7
Trên thị trường mở, NHNN đã bơm ròng trong tháng 3.
Biểu đồ 4: Diễn biến thị trường mở tháng 3/2014
(Nguồn: tổng hợp)
Trong tuần đầu của tháng, NHNN hút ròng 141 tỷ đồng. Mặc dù NHNN vẫn thực hiện chào thầu
1.000 tỷ đồng mỗi phiên với mức lãi suất 5,5% và kỳ hạn 7 ngày nhưng do thanh khoản của hệ thống
ngân hàng vẫn dồi dào và mức lãi suất cao hơn so với lãi suất liên ngân hàng và lãi suất đấu thầu sơ cấp
tín phiếu NHNN nên không có ngân hàng nào tham gia đấu thầu. 141 tỷ đồng này là khối lượng hàng
hóa trên thị trường mở đáo hạn. Do lượng vốn huy động tiếp tục tăng nhưng tín dụng tăng trưởng âm
nên nhu cầu vay vốn trên thị trường mở của các ngân hàng giảm mạnh. 03 tuần tiếp theo của tháng
không có ngân hàng nào tham gia các phiên đấu thầu của NHNN dù lãi suất đã được NHNN giảm xuống
5% (đây là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường mở kể từ năm 2008 đến nay) và cũng không có giấy tờ
có giá nào đáo hạn dẫn tới tình trạng không có giao dịch nào thành công trên thị trường mở. Vào ngày
cuối cùng của tháng, NHNN bơm ròng 1.000 tỷ đồng, dẫn tới cả tháng 3 khối lượng bơm ròng đạt 859 tỷ
đồng. Trong thời gian tới, khi hoạt động tín dụng tăng trưởng mạnh hơn thì hoạt động trên thị trường mở
mới hi vọng được cải thiện.
Nhận định: Việc giảm trần lãi suất huy động tiền đồng, giảm lãi suất tái cấp vốn… là những nỗ lực
của NHNN để hỗ trợ nền kinh tế đang còn chậm hồi phục. Đợt giảm trần lãi suất huy động lần này nhằm
thực hiện chủ trương đã được NHNN đưa ra hồi cuối năm 2013 nhằm tiếp tục cắt giảm lãi suất cho vay và
được hỗ trợ bởi nhiều yếu tố như lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và
người dân chưa cao. Động thái này của NHNN nhằm kéo mặt bằng lãi suất cho vay xuống thấp hơn, kích
thích nhu cầu vay vốn và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, lãi suất giảm là một yếu tố
tích cực nhưng không mang tính quyết định. Vấn đề quan trọng hiện nay là làm thế nào để kích cầu bền
vững, và có thể thực hiện việc nới ‘room’ TTCK để doanh nghiệp có thể thu hút thêm vốn từ nhà đầu tư, đẩy
mạnh đầu tư công…
-200
0
200
400
600
800
1000
1200
3/3 - 8/3 10/3 - 14/3 17/3 - 21/3 24/3 - 28/3 31/3/14
Khối lượng bơm/hút ròng (tỷ đồng)
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
8
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
10
trú (trừ tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) là 0,25%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với
tiền gửi của cá nhân là người cư trú, cá nhân là người không cư trú giảm từ 1,25%/năm xuống 1%/năm.
Đồng thời, lãi suất bình quân liên ngân hàng bằng USD trong tháng 3 có xu hướng tăng, đặc biệt
ở các kỳ hạn từ 1 tháng trở lên. Cụ thể, tại thời điểm cuối tháng 3, lãi suất bình quân các kỳ hạn từ 1
tháng đến 6 tháng dao động trong khoảng 0,66% - 2,05%/năm với mức tăng từ 0,12 - 1,05%/năm.
Diễn biến thị trường ngoại hối trong quý 1/2014 khá ổn đinh, giao dịch trong biên độ hẹp với xu
hướng giảm điểm nhẹ trong tháng 1 và tháng 2 sau đó duy trì thấp trong tháng 3. Nhìn chung cả quý
1/2014, tỷ giá có xu hướng giảm là do định hướng của NHNN về việc giữ tỷ giá không tăng quá 2%
trong năm 2014 đã ổn định tâm lý thị trường, tăng nhu cầu nắm giữ VND của người dân, giảm tình trạng
đô la hóa. Bên cạnh đó, NHNN đã mua vào khoảng 7,7 tỷ USD trong quý 1/2014 để tăng dự trữ ngoại tệ
cho quốc gia và không cho lạm phát tăng cao, cán cân thương mại hàng hóa 3 tháng đầu năm đạt mức
thặng dư 1 tỷ USD, cùng với mức giải ngân vốn ODA tăng 5% so với cùng kỳ năm ngoái là những yếu
tố tích cực tiếp tục hỗ trợ cho sự ổn định của thị trường ngoại hối trong nước.
2. Thị trường vàng
Thị trường vàng thế giới trong tháng 3/2014 diễn biến với xu hướng ngược chiều diễn biến đồng
USD, tức là tăng giá giai đoạn đầu tháng sau đó giảm mạnh vào nửa cuối tháng. Trong tháng, giá vàng
(giao ngay tại thị trường NewYork) lên cao nhất tại mức 1.382 USD/oz vào ngày 14/3 và thấp nhất là
1.290,3 USD/oz ngày 27/3. Tính chung cả tháng, giá vàng đã giảm 2,69%.
Biểu đồ 7: Diễn biến giá vàng thế giới tháng 3/2014
Nguồn: kitco.com
Giai đoạn đầu tháng 3, thị trường vàng diễn biến với xu hướng tăng. Yếu tố hỗ trợ đà tăng của
vàng là do vấn đề bất ổn chính trị tại Ukraine và Thái Lan. Trong bối cảnh này, vàng được giới đầu tư
mua vào như một kênh đầu tư an toàn. Tuy nhiên, đà tăng giá của vàng bị cản trở khi số liệu cho thấy
tăng trưởng việc làm của Mỹ tăng tốc trở lại, tăng kỳ vọng Fed sẽ tiếp tục cắt giảm chương trình nới
lỏng định lượng QE3 trong cuộc họp diễn ra sắp tới. Đặc biệt, váo nửa sau tháng 3, sau khi FED tuyên
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
11
bố cắt giảm thêm 10 tỷ USD/tháng chương trình mua trái phiếu và chủ tịch FED cho biết có thể sẽ tăng
lãi suất trong vòng 6 tháng sau khi gói QE3 kết thúc, giá vàng thế giới sụt giảm mạnh.
Cũng trong tháng 3, giá vàng Trung Quốc giảm cho thấy nhu cầu của nước tiêu thụ vàng lớn nhất
thế giới này đang suy yếu. Sự suy yếu của NDT trong tháng 3 đã ngăn cản các thương nhân sử dụng
vàng nhập khẩu trong các thương vụ tài chính để có được thanh khoản ngắn hạn. Nguyên nhân bởi đồng
CNY suy yếu khiến cho chi phí bảo hiểm tiền tệ đối với người dùng vàng trong thương vụ tài chính tăng
lên. Sức tiêu thụ yếu của Trung Quốc có ảnh hưởng nhất định đến sự biến động của giá vàng thế giới.
Ngược lại, tại Nhật Bản, nhu cầu tiêu thụ vàng có xu hướng tăng trong tháng 3. Nguyên nhân là các nhà
đầu tư đang đẩy mạnh hoạt động mua vàng trước đợt tăng thuế giá trị gia tăng vào ngày 1/4.
Giá vàng trong nước tháng 3/2014 biến động tăng giảm liên tục với biên độ dao động hẹp trong nửa
đầu tháng sau đó giảm dần vào cuối tháng. Giá vàng trong tháng lên cao nhất tại mức 36,53 triệu đồng/lượng
ngày 3/3, thấp nhất tại 35,52 triệu đồng/lượng ngày 28/3. Tính chung cả tháng, chỉ số giá vàng tăng lên
3,31%. Chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới hiện khoảng trên 2 triệu đồng/lượng.
Biểu đồ 8: Diễn biến giá vàng trong nước tháng 3/2014
Nguồn: sjc.com.vn
Ngày 28/3/2014, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 11/TT-NHNN quy định việc mang
vàng của cá nhân khi xuất cảnh, nhập cảnh. Theo đó, cá nhân Việt Nam và nước ngoài khi xuất cảnh,
nhập cảnh qua các cửa khẩu bằng hộ chiếu không được mang theo vàng miếng, vàng nguyên liệu, ngoại
trừ vàng trang sức, mỹ nghệ. Trường hợp cá nhân nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam mang theo vàng
miếng, vàng nguyên liệu phải làm thủ tục gửi tại kho hải quan để mang ra khi tái xuất cảnh hoặc làm thủ
tục chuyển ra nước ngoài và phải chịu mọi chi phí liên quan phát sinh; cá nhân Việt Nam và cá nhân
nước ngoài xuất cảnh, nhập cảnh bằng hộ chiếu mang theo vàng trang sức, mỹ nghệ phục vụ nhu cầu
trang sức có tổng khối lượng từ 300 gam trở lên phải khai báo với cơ quan hải quan. Thông tư này có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/5/2014, thay thế Quyết định số 1165/QĐ-NHNN ngày 12/9/2001 (Quyết
định 1165) quy định việc mang vàng của cá nhân khi xuất cảnh, nhập cảnh.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
12
Cùng chiều với xu hướng của giá vàng thế giới, thị trường vàng trong nước cũng ghi nhận mức
tăng nhẹ trong 2 tuần đầu tháng 3. Trong giai đoạn này, có thời điểm chênh lệch giữa giá vàng thế giới
và trong nước thu hẹp về mức 1,1 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên vào giai đoạn nửa cuối tháng, ảnh hưởng
từ sự sụt giảm của thị trường vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng giảm mạnh. Tuy nhiên, giá vàng
trong nước giảm chậm hơn giá vàng thế giới khiến khoảng cách giữa giá vàng thế giới và trong nước nới
rộng hơn so với giai đoạn trước đó. Nguyên nhân khiến giá vàng thế giới giảm mạnh là do sự bất ổn
chính trị tại châu Âu cùng với sự lo ngại về khả năng tiếp tục cắt giảm gói QE3 cũng như tăng lãi suất
của Fed sau những tín hiệu lạc quan của nền kinh tế Mỹ.
Nhìn chung, thị trường vàng trong nước từ đầu năm tới nay tương đối ổn định cả về giá và lượng.
Đồng thời, do nhu cầu nắm giữ vàng giảm mạnh nên 3 tháng đầu năm NHNN không tổ chức các phiên
đấu thấu vàng miếng như trước đây.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
13
B. THỊ TRƯỜNG VỐN
I. Thị trường chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán thế giới
Thị trường chứng khoán thế giới trong tháng 3 biến động khá mạnh trong bối cảnh hàng loạt
thông tin tốt xấu đan xen nhau.
Tại thị trường chứng khoán Mỹ, các chỉ số chứng khoán chính diễn biến giằng co trong suốt
tháng. Xu thế chung của thị trường là đi xuống trong nửa đầu của tháng và đảo chiều tăng nhẹ trong giai
đoạn nửa cuối tháng 3.
Bi
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
15
Biểu đồ 10: Biến động các chỉ số FTSE 100 (▬), DAX (▬),
và CAC 40 (▬) trong tháng 3/2014
Nguồn: Yahoofinance
Trong vòng 1 năm qua, kinh tế Eurozone vẫn trên đường phục hồi. GDP thực trong quý cuối
cùng của năm 2013 của Eurozone tăng 0,2% so với quý trước đó, sau đi đã tăng lần lượt 0,1% và 0,3%
trong hai quý liền trước. Số liệu điều tra quý I/2014 phù hợp với nhận định cho xu hướng tiếp tục tăng
trưởng ở mức độ vừa phải, qua đó khẳng định sự phục hồi đang diễn ra tại khu vực Eurozone, đồng thời
được hỗ trợ đáng kể bởi cầu nội địa. Thu nhập thực tế của người dân được củng cố nhờ một tỷ lệ lạm
phát vừa phải, đặc biệt giá năng lượng vẫn giữ ở mức thấp. Bên cạnh đó, hoạt động kinh tế cũng sẽ được
phát triển nhờ nhu cầu xuất khẩu đang tăng dần của khu vực Eurozone. Tuy nhiên, kinh tế châu Âu vẫn
còn tồn tại nhiều khó khăn. Thị trường lao động với tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, dẫn đến dư thừa năng
suất lao động nghiêm trọng. Bên cạnh đó, một số rủi ro từ nền tài chính thế giới, thị trường mới nổi cũng
như những biến động về địa chính trị gần đây tại khu vực châu Âu đã phần nào gây ảnh hưởng đến quá
trình đang hồi phục của kinh tế Eurozone.
Về mặt chính sách, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vẫn tin tưởng chính sách lãi suất sẽ
giải quyết các vấn đề về tăng trưởng và lạm phát thấp của Eurozone hiện nay và kiên quyết theo đuổi
mục tiêu lạm phát bằng chính sách lãi suất thấp. Tuy nhiên, ECB không điều chỉnh lãi suất cơ bản xuống
thấp hơn nữa để hỗ trợ khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone). Bởi vì, tuy tỷ lệ lạm phát khu vực
Eurozone trong tháng 3 giảm xuống 0,5% nhưng sự phục hồi vừa phải cũng đang diễn ra. Hơn nữa, tăng
dần tỷ lệ lạm phát sẽ là xu hướng chủ đạo trong trung hạn. ECB cũng cho biết trong thời gian sắp tới sẽ
giám sát một cách chặt chẽ và xem xét tất cả các công cụ tiền tệ sẵn có và không loại trừ khả năng tiếp
tục thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng hơn nữa nếu cần thiết, nhằm đáp ứng mục tiêu lạm phát trong
trung hạn của tổng thể các nền kinh tế khu vực Eurozone, thúc đẩy tăng trưởng vẫn còn yếu kém trên
diện rộng và tạo động lực sử dụng vốn cho nền kinh tế. Như vậy, việc ECB không điều chỉnh giảm lãi
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
16
suất xuống thấp hơn và chưa thực hiện các gói kích thích kinh tế đã gây thất vọng cho thị trường trong
thời gian qua.
Biểu đồ 11: Biến động các chỉ số Nikkei 225 (▬),Shanghai Composite (▬), Hang Seng (▬), và
Kospi Composite (▬) trong tháng 3/2014
Nguồn: Yahoofinance
Chứng khoán châu Á đồng loạt giảm với giá các cổ phiếu của Trung Quốc tại Hồng Kông giảm
mạnh. Giá cổ phiếu giảm mạnh trước việc đồng nhân dân tệ suy yếu và lo ngại nền kinh tế Trung Quốc
suy thoái. Nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục có dấu hiệu tăng trưởng chậm trong 2 tháng đầu năm 2014
với số liệu tăng trưởng trong đầu tư, doanh số bán lẻ và sản lượng công nghiệp giảm thấp nhiều năm.
Các báo cáo cho thấy xuất khẩu của nước này giảm mạnh nhất kể từ năm 2009. Xuất khẩu nước này
giảm 18,1% trong tháng 2, khiến cán cân thương mại thâm hụt và tăng thêm lo ngại về suy thoái tại nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới. Chứng khoán châu Á cũng biến động mạnh do thị trường bất động sản Trung
Quốc suy yếu. Vụ phá sản của công ty Zhejiang Xingrun khiến niềm tin của các nhà đầu tư vào thị
trường bất động sản Trung Quốc giảm mạnh. Giá cổ phiếu của các công ty bất động sản lớn ở Trung
Quốc giảm liên tục. Vụ phá sản của công ty Zhejiang Xingrun dấy lên lo ngại về thị trường bất động sản
suy yếu đang làm tăng rủi ro của hệ thống tài chính. Trên thị trường bất động sản, vỡ nợ là chuyện bình
thường nhưng vấn đề của công ty Zhejiang Xingrun đã làm gia tăng lo ngại về sự sụt giảm trong tăng
trưởng và ảnh hưởng của nó đến các công ty đang ngập đầu trong nợ nần những năm gần đây.
Trong khi đó, tại Nhật Bản, kinh tế tăng trưởng thấp hơn dự báo trong quý IV/2013 và thâm hụt
tài khoản vãng lai tăng lên mức kỷ lục kể từ năm 1985. Số liệu được công bố cũng cho biết, tốc độ tăng
của đầu tư kinh doanh cũng không đạt được mức kỳ vọng. Mức tăng chi tiêu tiêu dùng cũng thấp hơn
ước tính ban đầu. Hồi phục kinh tế hiện nay của Nhật Bản chủ yếu được hỗ trợ bởi chính sách, vì thế,
các doanh nghiệp liệu có thể duy trì sự hồi phục sau khi chính sách hỗ trợ kết thúc hay không là một câu
hỏi đang được đặt ra hiện này.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
18
Lạm phát trong ba tháng đầu năm được kiểm soát tốt với mức tăng thấp kỷ lục. CPI tháng 3 cả
nước giảm 0,44%, tương ứng mức tăng chỉ 4,39% so với cùng kỳ, thấp nhất kể từ năm 2010 trở lại đây.
Tính chung quý I, CPI chỉ tăng 0,8% so với cuối năm 2013. Lạm phát thấp là nền tảng để thực hiện
chính sách nới lỏng tiền tệ.
Về tăng trưởng, tuy CPI hiện tại đang ở mức thấp nhưng nhu cầu tiêu dùng cũng đã có những cải
thiện nhất định. Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng đạt mức tăng khá trong
những tháng vừa qua. GDP quý I/2014 tăng 4,96% - mức cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây. Trong
đó, khu vực Công nghiệp, xây dựng và khu vực Dịch vụ đều có mức tăng cao hơn so với cùng kỳ năm
trước.
Lĩnh vực sản xuất vẫn đang trên đà mở rộng khi mà chỉ số PMI trong tháng 2 và tháng 3 tiếp tục
vượt ngưỡng 50 điểm. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,2%; cao hơn so với con số 4,9% cùng kỳ năm
trước. Trong 3 tháng đầu năm, Việt Nam xuất siêu hơn 1 tỷ USD và tính riêng trong tháng 3 nhập siêu
300 triệu USD. Nếu như sự tăng trưởng của xuất khẩu cho thấy nhu cầu từ nước ngoài đang được cải
thiện thì việc nhập siêu trong tháng 2 và tháng 3 đi kèm với nhập khẩu tăng lên thể hiện lĩnh vực sản
xuất đang chuyển biến tích cực.
Về lãi suất, trong tháng 3, NHNN đã điều chỉnh giảm hàng loạt lãi suất chủ chốt. Trần lãi suất
huy động các kỳ hạn ngắn cũng được điều chỉnh giảm xuống. Động thái này cho thấy định hướng duy trì
mặt bằng lãi suất thấp trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát tốt ở mức thấp và thanh khoản của hệ
thống ngân hàng đang khá ổn định. Việc lãi suất huy động giảm xuống là điều kiện thuận lợi để mặt
bằng lãi suất cho vay giảm theo. Đối với thị trường chứng khoán thì đây là thông tin khá tích cực. Thị
trường được kỳ vọng có sức hấp dẫn tốt và thu hút thêm dòng tiền.
Về mặt chính sách, Thủ tướng đã chính thức phê duyệt đề án xây dựng thị trường chứng khoán
phái sinh với lộ trình và định hướng phát triển tương đối rõ ràng. Thông tin này đã đáp ứng được phần
nào kỳ vọng của nhà đầu tư vào sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và sản phẩm quản
trị rủi ro nói riêng.
Về góc độ vi mô, kỳ vọng của nhà đầu tư về lợi nhuận khả quan trong quý I của các công ty niêm
yết, đặc biệt là các công ty thuộc ngành chứng khoán và bất động sản đã phản ánh rõ nét vào giá cổ
phiếu các công ty này trong ba tháng qua và dẫn dắt thị trường tăng điểm mạnh mẽ trong quý I.
Nhận định: Như vậy, có thể thấy thị trường chứng khoán Việt Nam trong quý I/2014 đã phản ứng
rất tích cực với những thông tin vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên, bước sang quý II, thị trường có thể phải đối
mặt với khá nhiều rủi ro. Trong đó rủi ro lớn nhất là sự rút vốn của khối ngoại. Khối ngoại đã bán ròng
khá lớn trong tháng 3 và chưa có dấu hiệu dừng lại. Sự suy yếu của dòng vốn ngoại sẽ tác động tiêu cực
đến dòng vốn nội, vốn cũng đang suy yếu dần do nhiều công ty chứng khoán đã hết hạn mức cho vay
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
19
giao dịch ký quỹ. Thêm vào đó, báo cáo tài chính 2013 sau kiểm toán của nhiều doanh nghiệp cho thấy
sự sụt giảm lợi nhuận so với trước khi kiểm toán đã tác động không tốt đến tâm lý thị trường. Do đó,
việc thu hút thêm dòng tiền vào thị trường sẽ cần thêm thời gian, khi mà diễn biến kinh tế vĩ mô cũng
như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp rõ nét hơn.
Thị trường UPCoM và OTC:
Trong tháng 3 vừa qua, thị trường UPCoM diễn biến theo chiều hướng tích cực. Chỉ số UPCoM-
Index đóng cửa phiên cuối tháng ở mức 50,78 điểm; tăng 10,17% so với cuối tháng trước. KLGD bình
quân mỗi phiên trong tháng đạt 2,32 triệu cổ phiếu. GTGD bình quân ở mức xấp xỉ 13 tỷ đồng.
Biểu đồ 13: Diễn biến chỉ số UPCoM-Index tháng 3/2014
Nguồn: HNX
Thị trường sơ cấp:
Đối với hoạt động huy động vốn thông qua đấu giá cổ phần, trong tháng 3, tổng lượng vốn huy
động được từ hai sàn đạt mức 983,83 tỷ đồng. Con số này tăng gấp 2,46 lần so với lượng vốn huy động
được trong hai tháng đầu năm, như vậy hoạt động huy động vốn có xu hướng tăng mạnh.
Đối với thị trường trái phiếu, trong tháng 3 diễn ra 13 phiên đấu giá trái phiếu chính phủ cho các kỳ
hạn 2 năm, 3 năm, 5 năm, 10 năm và 15 năm. Tổng lượng tiền huy động được là 33,4 nghìn tỷ đồng.
Lượng vốn huy động được trong tháng 3 gần bằng tổng lượng vốn huy động trong hai tháng đầu năm. Lãi
suất trúng thầu có xu hướng giảm xuống so với giai đoạn đầu năm.
Nhận định: Trong tháng 3, nhờ ảnh hưởng tích cực từ thị trường niêm yết, hoạt động giao dịch
trên thị trường UPCoM khá sôi động. Có sự tăng mạnh cả về chỉ số giá lẫn thanh khoản trên thị trường.
Trên thị trường sơ cấp, hoạt động huy động vốn tiếp tục phát huy hiệu quả. Huy động vốn từ việc đấu
giá cổ phần và phát hành trái phiếu chính phủ tăng mạnh so với các tháng trước. Trong thời gian tới, dự
báo diễn biến giao dịch trên thị trường sơ cấp sẽ tích cực hơn, đặc biệt là hoạt động huy động vốn.
0
1,000,000
2,000,000
3,000,000
4,000,000
5,000,000
6,000,000
7,000,000
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
3/3 10/3 17/3 24/3 31/3
KLGD (đơn vị) UPCoM - Index (điểm)
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
20
II. Thị trường BĐS
Ngày 25/3/2014, Ngân hàng Xây dựng phối hợp cùng Tập đoàn Thiên Thanh ra mắt gói tín dụng
50.000 tỷ đồng thông qua chuỗi liên kết xây dựng 4 nhà (Ngân hàng - chủ đầu tư - nhà thầu - nhà cung
ứng, sản xuất vật liệu xây dựng) nhằm phục vụ cho các công trình xây dựng và các nhu cầu khác. Theo
đó, Ngân hàng Xây dựng là ngân hàng đầu mối cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp trong ngành xây
dựng – vật liệu xây dựng - bất động sản. Tập đoàn Thiên Thanh tổ chức cung ứng vật liệu xây dựng, chủ
trì sàn kinh doanh vật liệu xây dựng nhằm kết nối các đơn vị có nhu cầu là các chủ đầu tư, nhà thầu với
nhà sản xuất vật liệu trên cả nước. Cùng với với gói 30.000 tỷ đồng, gói tín 50.000 tỷ đồng sẽ giúp các
doanh nghiệp giải quyết một phần những vấn đề khó khăn về vốn, tìm được đầu ra cho sản phẩm, các dự
án bất động sản dở dang có cơ hội được tái khởi động, các dự án mới sẽ được triển khai, giúp thị trường
bất động sản sớm hồi phục.
Tiếp theo đà phục hồi của tháng đầu năm, thị trường bất động sản tháng 3 vừa qua có nhiều tín
hiệu khả quan ở cả 3 miền và trên nhiều phân khúc khác nhau, không chỉ tăng về số lượng người quan
tâm, tìm hiểu các dự án mà con số giao dịch thực tế cũng tăng lên rõ rệt.
Phân khúc văn phòng cho thuê tại tp. Hồ Chí Minh, giá thuê văn phòng tăng 7,8% so với cùng kỳ
năm trước, tỷ lệ trống giảm. Cụ thể, ở phân khúc văn phòng hạng A, giá thuê đạt 33 – 35
USD/m2/tháng, tăng 7,7%; hạng B là 19 - 24 USD/m2/tháng, tăng 8,5% so với; hạng C giá dao động từ
13 -19 USD/m2/tháng. Ngược lại, nhu cầu thuê BĐS ở Hà Nội có phần giảm sút so với giai đoạn cùng
kỳ năm 2013. Trong quý I, nguồn cung văn phòng ở Hà Nội tiếp tục gia tăng, cùng với việc tỷ lệ trống
sẵn có trên thị trường chưa được cải thiện, sức tiêu thụ không tăng, sức ép giảm giá trên thị trường văn
phòng cho thuê ở Hà Nội càng lớn hơn. Hiện tại giá thuê văn phòng hạng A khu vực trung tâm tại Hà
Nội, từ 30 - 38 USD/m2/tháng đã giảm 5- 7% so với cùng kỳ năm trước; hạng A khu vực phía Tây giá từ
20-25 USD/m2/tháng; hạng B giá chào thuê từ 25 - 35 USD trong năm 2013 nay giảm xuống còn 15 -
24 USD/m2/tháng. Cũng với tình hình chung, trong khi phân khúc căn hộ cho thuê tại Hà Nội đang gặp
nhiều khó khăn khi nguồn cung không ngừng tăng thì ở tp. Hồ Chí Minh, phân khúc này đang dần hồi
phục với lượng giao dịch có xu hướng tăng, với mức giá thuê dao động từ 700 - 1600 USD/căn. Điển
hình là các dự án: The Vista, Estella (quận 2), The Sunrise City, HimLam Riverside (quận 7).
Phân khúc căn hộ tại Hà Nội trong tháng 3 tiếp tục ổn định ở mức tốt đối với các dự án giá trung
bình như: CT1, CT2 Trung Văn; chung cư Thăng Long; Victoria Hà Đông. Trong đó, nhu cầu thị trường
tập trung chủ yếu là những căn có diện tích dưới 70m2, giá 12,5 - 13 triệu/m2. Còn tại tp. Hồ Chí Minh,
các căn hộ có giá từ 25 đến trên 30 triệu đồng/m2 có lượng giao dịch tăng lên trên 20% so với tháng 2.
Điển hình như dự án Him Lam Riverside, Sunrise city (quận 7), Tân Phước Tower (quận 10), Lexington,
Tropic Garden (quận 2).
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
21
Nhận định: Nền kinh tế vĩ mô phát triển ổn định, nhu cầu phát triển kinh doanh của doanh
nghiệp trong nước và nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhiều
hơn đã khiến niềm tin của thị trường được cải thiện và tác động tích cực đến thị trường Bất động sản
trong nước. Thời gian tới, khi những chính sách mới của nhà nước được triển khai, thị trưởng sẽ tiếp tục
diễn biến tốt lên.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 3/2014
22
Ghi chú
Xin vui lòng tham khảo thêm các “Báo cáo thị trường chứng khoán” định kỳ hàng quý và các
“Báo cáo chuyên đề” của phòng Phân tích dự báo thị trường để có thêm thông tin và phân tích đầy đủ.
Liên hệ
Phòng Phân tích & Dự báo Thị trường,
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN)
Số 234 Lương Thế Vinh, Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: 04-35430667; Fax: 04-35535869
Email: [email protected]
Nhóm nghiên cứu
Ông. Phạm Quang Huy (TP)
Ths. Tô Thị Thiên Nga
Cn. Phạm Thanh Phương
Cn. Lê Thị Trang