mỤc lỤc - d · pdf fileđúng có thể đưa tới kết quả và...

50
1 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 2 PHẦN I MỘT SỐ KIẾN THỨC CẦN CHUẨN BỊ TRONG THỰC HÀNH MÔ HỌC 3 I. Cấu tạo và cách sử dụng kính hiển vi 3 II. Vài phương pháp thông thường dùng trong mô học và giải phẫu bệnh 6 PHẦN II NỘI DUNG THỰC TẬP 8 Bài 1. Biểu mô 8 Bài 2. Mô liên kết 11 Bài 3. Mô sụn 12 Bài 4. Mô xương 13 Bài 5. Mô máu 14 Bài 6. Mô cơ 17 Bài 7. Hệ thống thần kinh 17 Bài 8. Hệ thống tuần hoàn và cơ quan tạo huyết 19 Bài 9. Hệ thống nội tiết 26 Bài 10. Hệ thống hô hấp 27 Bài 11. Hệ thống tiêu hóa 30 Bài 12. Hệ thống tiết niệu 40 Bài 13. Hệ thống sinh dục đực 42 Bài 14. Hệ thống sinh dục cái 43 Bài 15. Da 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO 50

Upload: phungdang

Post on 04-Feb-2018

212 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

1

MỤC LỤC Trang

MỞ ĐẦU 2

PHẦN I MỘT SỐ KIẾN THỨC CẦN CHUẨN BỊ TRONG THỰC HÀNH MÔ HỌC 3

I. Cấu tạo và cách sử dụng kính hiển vi 3

II. Vài phương pháp thông thường dùng trong mô học và giải phẫu bệnh 6

PHẦN II NỘI DUNG THỰC TẬP 8

Bài 1. Biểu mô 8

Bài 2. Mô liên kết 11

Bài 3. Mô sụn 12

Bài 4. Mô xương 13

Bài 5. Mô máu 14

Bài 6. Mô cơ 17

Bài 7. Hệ thống thần kinh 17

Bài 8. Hệ thống tuần hoàn và cơ quan tạo huyết 19

Bài 9. Hệ thống nội tiết 26

Bài 10. Hệ thống hô hấp 27

Bài 11. Hệ thống tiêu hóa 30

Bài 12. Hệ thống tiết niệu 40

Bài 13. Hệ thống sinh dục đực 42

Bài 14. Hệ thống sinh dục cái 43

Bài 15. Da 48

TÀI LIỆU THAM KHẢO 50

Page 2: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

2

MỞ ĐẦU

Tài liệu thực hành Mô Học này dùng cho sinh viên ngành Chăn Nuôi và Thú Y, trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Trong phòng thực tập, sinh viên tự học là chính nên giáo trình này có mục đích hướng dẫn cho sinh viên tự trang bị cho mình phương pháp quan sát, tư duy hình ảnh, và ghi nhận lại hình ảnh.

Mục tiêu thực tập:

1. Củng cố các kiến thức đã học trong giờ giảng lý thuyết bằng cách xem hình minh họa và quan sát tiêu bản.

2. Giúp cho sinh viên tự rèn luyện thói quen quan sát, miêu tả, so sánh cấu trúc mô học một cách chính xác và đầy đủ.

3. Biết sử dụng, điều chỉnh và bảo quản kính hiển vi.

4. Sau khóa học, sinh viên phải có khả năng nhận dạng được một cơ quan và nắm vững cấu tạo mô học của nó dưới kính hiển vi.

5. Giáo trình cũng giúp cho sinh viên có thể so sánh phân biệt một số cấu trúc mô và cơ quan trên những loài động vật khác nhau.

Page 3: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

3

PHẦN I MỘT SỐ KIẾN THỨC CẦN CHUẨN BỊ TRONG THỰC HÀNH MÔ HỌC

I. CẤU TẠO VÀ CÁCH SỬ DỤNG KÍNH HIỂN VI

Kính hiển vi là một dụng cụ rất hữu ích trong việc học tập và nghiên cứu. Phần lớn các bài thực tập mô học đều cần sử dụng kính hiển vi, do đó sinh viên cần phải làm quen với các cơ cấu của kính, các công dụng, cách điều chỉnh và bảo quản.

1. Những bộ phận của kính hiển vi.

Sơ đồ cấu tạo của kính hiển vi quang học

Kính hiển vi gồm có các phần chính như sau:

1. Đế kính

2. Thân kính

3. Bàn mang vật, ở giữa có lỗ để ánh sáng chiếu lên.

4. Kẹp giữ tiêu bản, nằm trên bàn mang vật, giúp giữ chặt tiêu bản tại chỗ.

5. Ốc điều chỉnh bàn mang vật.

6. Ốc điều chỉnh tụ quang.

7. Ốc vi cấp và ốc vĩ cấp .

8. Ống kính có mang các thị kính (có 2 hoặc 1 ống kính).

9. Vòng mang vật kính có gắn các vật kính với nhiều độ phóng đại khác nhau.

8

2

4

7

1

12

11 10

3

9

5 6

Page 4: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

4

Vật kính có độ phóng đại lớn dài và nhỏ, vật kính có độ phóng đại nhỏ lớn và ngắn.

10. Thấu kính để hội tụ ánh sáng.

11. Màng chắn sáng dùng để điều chỉnh cường độ ánh sáng.

12. Đèn hoặc giá mang gương ánh sáng.

13. Ốc điều chỉnh cường độ ánh sáng của đèn hoặc tắt mở đèn.

2. Công dụng.

Mục tiêu chính của kính hiển vi là phóng đại hình ảnh của vật hay tiêu bản khảo sát giúp ta nghiên cứu được cấu trúc chi tiết của các tế bào, mô, cơ quan mà không thể thấy được bằng mắt thường.

Độ phóng đại của kính tùy thuộc vào các thấu kính của thị kính và vật kính.

Thấu kính của thị kính thường có độ phóng đại là: 6X, 8X, 10X, 12X

Thấu kính của vật kính thường có độ phóng đại là: 4X, 10X, 40X, 63X, và 100X.

Khi ta gọi thị kính 10X nghĩa là vật xem được phóng đại kích thước gấp 10 lần. Độ phóng đại của tiêu bản hay chi tiết thấy được qua sự kết hợp giữa các thấu kính được biểu diễn như sau:

Thị kính Vật kính Độ phóng đại (lần)

6X 10X 60

8X 10X 80

10X 10X 100

10X 40X 400

10X 100X 1000

3. Cách điều chỉnh ánh sáng.

Sự chiếu sáng thích hợp vào vật cần quan sát rất quan trọng. Vật không được chiếu sáng đúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi. Nhưng kết quả thích hợp tùy thuộc vào việc sử dụng gương sáng và nhất là sử dụng màng chắn sáng để điều chỉnh cường độ ánh sáng đi qua. Gương chiếu sáng thường có hai mặt: mặt lõm và mặt phẳng. Không được dùng ngón tay chạm vào mặt gương vì sẽ làm ố gương.

Ánh sáng phản chiếu qua gương, xuyên qua tiêu bản và các thấu kính đến mắt. Khi xem ở ngoài trời và làm việc ở ngoài dùng mặt cong hay mặt phẳng cũng không ảnh hưởng tới chiếu sáng. Khi dùng ánh sáng đèn trong phòng thí nghiệm phải luôn luôn sử dụng gương lõm, che bớt ánh sáng khi cần xem với độ phóng đại nhỏ và tăng ánh sáng khi xem với độ phóng đại lớn.

Vì thường sử dụng màng chắn sáng nên ta cần phải hiểu rõ cấu trúc của màng. Trước hết nên xác định hướng di chuyển của cần điều khiển làm tăng và giảm ánh sáng. Không nên đẩy cần điều khiển tới sát mức giới hạn để tránh hư hỏng.

Cần điều chỉnh hình ảnh thế nào để mối liên hệ giữa các thấu kính đối với vật xem cho tốt và qua thị kính, nhìn thấy được ảnh của vật rõ ràng. Ảnh của vật sẽ không thấy được nếu vật kính ở cách vật

Page 5: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

5

một khoảng không thích hợp. Do đó ta phải vặn ốc điều chỉnh vật kính. Không để vật kính chạm vào tiêu bản vì có thể làm hư tiêu bản, hư thấu kính hoặc cả hai.

4. Thực hành điều chỉnh kính hiển vi để xem tiêu bản.

1. Đặt kính hiển vi ngay ngắn trước mặt, tay cầm hướng về phía sinh viên (một số kính hiển vi có tay cầm quay về phía trước).

2. Xoay vật kính có độ phóng đại nhỏ (10 X) vào vị trí ngay giữa bàn mang vật. Nhìn một bên vật kính vặn ốc điều chỉnh vật kính để hạ thấp vật kính xuống cách bàn mang vật khoảng 1.25 cm.

3. Mơ màn chắn sáng.

4. Hướng mặt lõm của gương về nguồn phát ánh sáng và nhìn qua thị kính, điều chỉnh gương cho tới khi thấy được một thị trường rõ. Trường hợp kính hiển vi sử dụng điện thì mở công tắc đèn và điều chỉnh cường độ dòng điện tăng dần cho đến khi thấy rõ thị trường.

5. Đặt tiêu bản lên mâm, dùng kẹp để giữ chặt tiêu bản ở vị trí cố định. Điều chỉnh vật kính cho tới khi nhìn thấy rõ ảnh trong tiêu bản. Nếu muốn quan sát kỹ một bộ phận nào của tiêu bản dưới độ phóng đại lớn, ta xê dịch bàn mang vật để phần đó nằm ngay thị trường ta quan sát.

6. Xoay sang vật kính có độ phóng đại lớn, điều chỉnh ánh sáng và vặn ốc vi cấp để thấy rõ hình ảnh tuyệt đối. Không nên vặn ốc điều khiển vật kính vì dễ làm vỡ tiêu bản. Bộ phận cần quan sát đôi khi lệch sang trái hay sang phải của thị trường do đó phải điều chỉnh để lấy lại hình.

7. Nếu kính hiển vi chỉ có một thị kính thì khi nhìn ta vẫn phải mở cả hai mắt. Mắt nhắm lại khi dùng để xem không thấy rõ hình ảnh và mau mệt. Để bớt mệt khi xem kính nên đổi mắt trong trường hợp kính có một thị kính. Tuy nhiên hai mắt không hoàn toàn giống nhau. Khi mắt này nhìn rõ thì mắt kia nhìn lại mờ. Thông thường nên dùng mắt trái để xem và mắt phải nên dùng để vẽ hình hay làm việc khác.

Nếu kính có hai ống nhìn, ta phải nhìn tiêu bản bằng cả hai mắt. Một bên thị kính ta thấy có sợi tóc, bịt mắt đó lại, nhìn vào ống kia và điều chỉnh tầm nhìn của kính đến khi mắt hoa cũng nhìn thấy rõ sợi tóc. Lúc đó ta nhìn ảnh vật ở cả hai mắt rất rõ.

8. Trước tiên nên quan sát tiêu bản qua mắt thường để biết các điều cần chú ý, xong mới nghiên cứu qua kính hiển vi và cần phải quan sát trên tiêu bản với ống kính có độ phóng đại thấp vì phạm vi quan sát trên tiêu bản sẽ rộng, ở độ phóng đại cao vùng quan sát sẽ hẹp hơn, nhưng dĩ nhiên là ta sẽ thấy chi tiết tế bào rõ hơn.

Một số sinh viên vẫn thường quan sát với độ phóng đại lớn ngay, đây là điểm không tốt vì rất khó xác định vị trí mà mình muốn quan sát so với việc sử dụng ống kính có độ phóng đại nhỏ. Hơn nữa lại rất dễ làm vỡ tiêu bản.

Chỉ dùng vật kính dầu (100X) khi cần thiết và chỉ nhỏ một hai giọt dầu soi kính (immersion oil) lên đúng phần muốn xem trên tiêu bản. Dùng xong lau dầu ngay bằng giấy lau kính tẩm vài giọt dung dịch lau kính, sau đó lau phần dầu còn lại trên tiêu bản.

Sau khi xem xong, lấy tiêu bản ra và đặt vào hộp chứa tiêu bản.

Page 6: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

6

5. Bảo quản kính hiển vi

1. Kính hiển vi là một dụng cụ chính xác có các bộ phận tinh xảo, phải được giữ gìn cẩn thận, không được mạnh tay đối với bất cứ bộ phận nào. Khi di chuyển kính thì sinh viên nên cầm kính hiển vi cẩn thận, một tay nắm chặt tay cầm, tay kia đỡ dưới đế kính.

2. Nếu kính có trục trặc kỹ thuật, nên nhờ người phụ trách phòng thí nghiệm xem và điều chỉnh.

3. Không được để các chất lỏng, nhất là acid và alcool tiếp xúc với bất cứ bộ phận nào của kính, nhất là thấu kính.

4. Luôn luôn sử dụng phiến kính mỏng khi khảo sát các vật hay vi sinh vật trong nước hoặc trong các chất lỏng khác.

5. Lau các thấu kính bằng giấy lau kính hiển vi đặc biệt và các bộ phận còn lại bằng vải mềm sạch.

6. Không bao giờ dùng ngón tay chạm vào thấu kính. Một ít mồ hôi trên tay có thể làm hỏng thấu kính.

II. VÀI PHƯƠNG PHÁP THÔNG THƯỜNG DÙNG TRONG MÔ HỌC VÀ GIẢI PHẪU BỆNH

Muốn nghiên cứu về mô học hay bệnh học thì tiêu bản vi thể (vi mẫu) là cột trụ chính của vấn đề.

Vậy tiêu bản vi thể là gì Đó là một miếng cắt mỏng gần như trong suốt từ một mẫu nhỏ của mô đặt lên trên kính dày được nhuộm màu thích hợp, cho thêm chất lỏng có chiết suất tương tự, cuối cùng là một phiến kính mỏng được ép chặt lên hàn keo xung quanh rìa. Với tiêu bản, chúng ta khảo sát được cơ cấu tạo vi thể của mô.

Phương pháp tiêu bản vi thể này cũng áp dụng được trong cơ thể bệnh học nhằm mục đích xác định phần nào nguyên nhân gây ra bệnh hoặc chết, nhất là các loại tân bào độc.

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CẮT MỎNG MẪU MÔ

Làm sao có thể cắt được một miếng mô mềm và chỉ mỏng vài micrometre (m) (1m = 1/1000 mm). Với máy cắt lát mỏng (microtome) vấn đề đã được giải quyết bằng hai phương pháp, một là làm đông đặc các mô mềm với dung dịch cố định, sau đó ngâm với chất thấm vào mô và làm nó cứng để cắt thành lát mỏng. Hai là làm đông lạnh phần mô muốn cắt.

1. KỸ THUẬT PARAFFIN

Đây là phương pháp thường dùng nhất trong phòng thí nghiệm. Kỹ thuật này gồm các giai đoạn:

1. Lấy mẫu: Nên lấy ngay sau khi thú chết hay ngay khi cơ quan được lấy khỏi cơ thể để tránh sự biến hóa sau khi chết. Bề dày của mẫu mô không quá vài mm với mục đích làm cho chất cố định ngấm vào nhanh.

2. Cố định mẫu: giai đoạn này có tác dụng:

a. Ngăn chặn sự thoái hóa của tế bào.

b. Làm cho mẫu mô cứng rắn để dễ cắt thành miếng mỏng

c. Tiêu diệt vi khuẩn hay tác nhân gây bệnh chứa trong mẫu.

Page 7: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

7

Có thể cố định mẫu bằng nhiệt (ví dụ luộc chín trứng với nước nóng) hay bằng hóa chất như dung dịch chứa formol 10% và các hóa chất khác (dung dịch Bouine).

3. Làm mất nước: Nước chiếm khoảng 65% thành phần của mô do đó làm mất nước sẽ giúp cho paraffin lỏng ngấm vào mô dễ hơn trong giai đoạn vùi mẫu. Thực hiện bằng cách ngâm mẫu mô vào dịch cồn có nồng độ 70% rồi tăng dần nồng độ cồn, sau cùng chuyển sang cồn nguyên chất, cồn sẽ thay thế nước trong mô.

4. Làm trong mẫu: giai đoạn này cần vài hóa chất đặt biệt hòa tan cả trong cồn và paraffin nóng chảy như xylene để vừa thay thế cồn và sẽ được paraffin thay thế.

5. Đúc khuôn mẫu: Tiếp theo đem mẫu ngâm vào paraffin nóng chảy và chất này sẽ ngấm vào mô thay cho xylene. Lấy mẫu mô đặt vào khuôn và đổ paraffin nấu chảy lỏng vào để đúc thành khối.

6. Cắt mẫu: sau khi paraffin nguội và cứng lại lấy ra khỏi khuôn, đưa vào cắt từng miếng thật mỏng bằng microtome.

7. Dán vi mẫu lên phiến kính dày: tách rời các miếng mô cắt mỏng và đặt lại trên phiến kính dày, tránh không để gấp nếp, nhăn nheo và dùng lòng trắng hột gà hay keo gelatin để dán dính nó vào kính.

8. Nhuộm màu: Trước tiên phải khử paraffin trong vi mẫu vì nó không hòa tan trong nước nên nhuộm màu không thấm vào miếng mô cắt mỏng được. Muốn làm mất paraffin thì làm ngược lại các giai đoạn 4 và 3 trên, nghĩa là ngâm vào xylene, cồn tinh chất dung dịch cồn pha nước và cuối cùng là nước. Vi mẫu được làm khô và nhuộm hóa phẩm thích hợp với cấu tạo của mô. Nếu đem quan sát vi mẫu vừa cắt xong, sự tương phản giữa các những phần tử của mô sẽ không thấy rõ dưới kính hiển vi quang học. Sự dùng hóa chất màu để nhuộm vi mẫu giúp cho sự quan sát rõ ràng hơn.

Hầu hết vi mẫu dùng để giảng dạy được nhuộm lần lượt với thuốc nhuộm base và thuốc nhuộm acid. Ví dụ như nhuộm hematoxylin và eosin. Nếu cấu trúc của tế bào bắt màu eosin thì sẽ có màu từ hồng đến đỏ và nếu bắt màu thuốc nhuộm hematoxylin thì sẽ có màu xanh chàm đến tím.

9. Hoàn thành tiêu bản: sau khi nhuộm xong lại ngâm vào cồn tăng dần độ tinh và xylene để làm mất cồn đi, cuối cùng đặt lên đó một miếng kính mỏng (lammel, chú ý tránh nhốt bọt không khí và dán kín bằng keo Canada (baume de Canada).

2. KỸ THUẬT ĐÔNG LẠNH:

Dùng máy cắt đặc biệt trang bị dụng cụ chứa và xịt tuyết CO2 dưới áp suất cao vào mẫu mô và làm đông lạnh mẫu ấy. Phương pháp này nhanh và tránh được sự hòa tan chất béo nếu dùng cồn và xylene, tuy vậy phương pháp này bất lợi vì vi mẫu dày, không quan sát rõ dưới kính hiển vi.

3. KỸ THUẬT CELLOIDIN:

Phương pháp này tương tự như kỹ thuật dùng paraffin thường dùng để cắt các cơ quan có kích thước lớn như não hoặc cơ quan cứng như sụn, gân và vi mẫu ít nhăn nheo. Bất lợi là làm lâu hơn và vi mẫu cắt dày hơn.

Page 8: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

8

PHẦN II NỘI DUNG THỰC TẬP

Bài 1. BIỂU MÔ

Yêu cầu: sau khi hoàn tất bài thực hành này, sinh viên phải có khả năng:

Phân biệt các dạng biểu mô khác nhau dưới kính hiển vi.

Nhận dạng được các tế bào đài.

Biểu mô đơn tế bào có nhiều hình dạng khác nhau, đặc điểm để xác định chính là nó chỉ có một lớp tế bào.

Biểu mô lát đơn (hình 1)

Trên tiêu bản là hình của gan cắt ngang ở độ phóng đại lớn, có thể dễ dàng thấy được lớp biểu mô lát đơn bao phủ bên ngoài (1). Tế bào chất thì gần như không quan sát được vì quá mỏng, chỉ có nhân là rõ do nhô lên trên. Bên dưới biểu mô là một lớp mô liên kết mỏng (2).

Hầu như ở bất kỳ tiêu bản nào cũng đều có thể thấy được phần nhu mô bao bên ngoài, do đó lúc nào cũng sẽ thấy được loại biểu mô này.

Biểu mô khối đơn (hình 2)

Quan sát mặt cắt dọc của một ống góp thận ta thấy một lớp tế bào hình vuông với chiều rộng và chiều cao bằng nhau. Nhân tròn nằm giữa tế bào.

Biểu mô trụ đơn (hình 3)

Trong hình là niêm mạc của một đoạn ruột non ở độ phóng đại lớn (x 40) với các tế bào hình trụ cao (3) và một dải vi nhung mao phía trên (4). Bên cạnh những tế bào trụ ta còn thấy các “tế bào đài”(5) nằm xen lẫn với các tế bào trụ. Tế bào có dạng hình giống cái chén với nhân nằm bên dưới, phần phình lớn phía trên chứa các hạt tiết dịch nhờn không bắt màu.

Hình 1. Biểu mô lát đơn Hình 2. Biểu mô vuông đơn

1: Biểu mô lát đơn 2: Mô liên kết

Page 9: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

9

Hình 3. Biểu mô trụ đơn

3: Tế bào trụ 4: Vi nhung mao 5: Tế bào đài

Biểu mô kép

Biểu mô kép có nhiều hơn một lớp tế bào. Người ta xếp loại căn bản chỉ dựa vào hình dạng của lớp tế bào trên cùng.

Biểu mô lát kép (hình 4 – 5)

Trong hình là một lát cắt ngang thực quản mèo, độ phóng đại 100 lần. Biểu mô là dạng lát kép không hóa sừng (1), và chỉ có lớp tế bào đáy mới tiếp xúc với màng đáy. Giữa hai lớp biểu mô là lòng thực quản (Lu).

Hình 5 minh họa cho biểu mô lát kép hóa sừng (2), với lớp tế bào trên cùng (3) trở nên cứng, chết đi và bong ra.

Hình 4. Biểu mô lát kép không hóa sừng Hình 5. Biểu mô lát kép hóa sừng

1: Biểu mô lát kép không hóa sừng 2: Biểu mô lát kép hóa sừng

Lu: Lòng thực quản 3: Lớp sừng

Page 10: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

10

Biểu mô vuông tầng (hình 6)

Gồm hai lớp tế bào hình khối, nhân tròn nằm giữa tế bào, thường thấy khá rõ ở các ống tuyến lớn, chẳng hạn như tuyến vú, ống dẫn của tuyến thực quản chó (4),….

Biểu mô trụ kép (hình 7)

Quan sát trong hình mặt cắt ngang lòng ống thoát tiểu dê, ta thấy biểu mô lót bên trong là dạng trụ kép khá rõ (5) với nhiều hàng tế bào đơn, đặc biệt lớp trên cùng là dạng trụ đơn.

Hình 6. Biểu mô vuông tầng Hình 7. Biểu mô trụ kép

4: Biểu mô vuông tầng 5: Biểu mô trụ kép

Biểu mô trụ giả kép (hình 8)

Hình 8 là dạng biểu mô trụ giả kép có lông rung. Đa số các ống dẫn khí ở hệ hô hấp là loại biểu mô này. Nó thường được xếp thành một loại riêng biệt, mặc dù sự thật nó chỉ là tập hợp của 1 lớp tế bào mà thôi. Tất cả các tế bào đều nằm trên một màng đáy (6), nên thực sự đây chỉ là dạng trụ đơn. Trong tiêu bản ta quan sát thấy các tế bào trụ (7), các tế bào đáy (8), một số tế bào đài (9) chứa đầy dịch nhày nên đẩy nhân xuống phía dưới.

Biểu mô chuyển tiếp (hình 9)

Quan sát mặt cắt ngang của bàng quang ở độ phóng đại 100 lần. Biểu mô lót bên trong là dạng chuyển tiếp (10), với lớp tế bào dưới cùng có dạng khối hay trụ; trong khi lớp trên cùng tế bào có vẻ lớn hơn, nhạt màu và nhân nhỏ.

Hình 8. Biểu mô trụ giả kép có lông rung Hình 9. Biểu mô chuyển tiếp

6: Màng đáy 7: Tế bào trụ 10: Biểu mô chuyển tiếp

8: Tế bào đáy 9: Tế bào đài

Page 11: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

11

Bài 2. MÔ LIÊN KẾT

Mô mỡ (hình 10 – 11)

Chức năng chính là dự trữ mỡ, tế bào chứa đầy những giọt lipid. Có 2 dạng mỡ trắng và mỡ nâu.

Trong hình là mô mỡ trắng ở vùng khẩu cái bò. Những giọt lipid chứa trong các tế bào mỡ đơn thùy (1), nhân nằm ở vùng ngoại vi nên đôi khi rất khó phân biệt với nhân của các tế bào liên kết khác xung quanh.

Quan sát mặt cắt ngang vùng chân bì ở gang bàn chân gà ở độ phóng đại thấp. Đây là loại mỡ nâu, nằm rải rác, rất thường gặp trên những loài gặm nhấm ngủ đông. Chúng là những tế bào mỡ đa thùy (2), một nhân ở trung tâm và chứa nhiều không bào lipid.

Hình 10. Mô mỡ Hình 11. Mô mỡ

1: Tế bào mỡ đơn thùy 2: Tế bào mỡ đa thùy

Các tế bào liên kết

Đại thực bào (hình 12)

Trong hình là một đoạn vách ống kết tràng heo ở độ phóng đại 250 lần. Bên cạnh những tế bào mỡ (1) là các đại thực bào lang thang có dạng hình oval (4). Tế bào chất thường chứa những hạt không tiêu hóa được và có vẻ dơ. Bao bên ngoài là mô liên kết chủ yếu là sợi colagen (3).

Tương bào (hình 13)

Rất thường gặp trong mô liên kết. Quan sát ở độ phóng đại 625 lần lớp đệm vách không tràng chó, ta thấy có nhiều tương bào (5), một số bạch cầu lympho (6) và các tế bào sợi (7). Tương bào là thành phần thường gặp nhất trong niêm mạc dạ dày – ruột. Tế bào chất bắt màu kiềm, nhân lớn với nhiễm sắc thể dễ bắt màu.

Tế bào Mast (hình 14)

Các hạt trong bào tương đổi màu và bắt màu tím với toluidine xanh (8). Rất khó quan sát thấy chúng khi nhuộm H&E bình thường. Trong tiêu bản ta còn thấy được một số tế bào sợi non (7).

Page 12: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

12

Hình 12. Tế bào liên kết Hình 13. Tế bào liên kết

1: Tế bào mỡ 3: Sợi colagen 5: Tương bào 6: Lympho bào

4: Đại thực bào 7: Tế bào sợi

Hình 14. Tế bào liên kết

8: Tế bào Mast 7: Tế bào sợi

Bài 3. MÔ SỤN

Sụn trong (hình 15)

Quan sát mặt cắt ngang của khí quản. Phần màu tím ở giữa chứa các tế bào sụn (1), chúng có thể đứng riêng lẻ hay thành nhóm trong chất căn bản (2). Tế bào nhỏ, có một hoặc hai nhân hình trứng. Phần bắt màu hồng đậm ở ngoại vi là màng sụn, gồm hai lớp: lớp ngoài (3) chủ yếu là các tế bào sợi và mạch máu, lớp trong (4) hay còn gọi là lớp sinh sụn.

Sụn đàn hồi (hình 16)

Quan sát tiêu bản sụn tiểu thiệt ở độ phóng đại 250 lần, ta thấy ngoài các tế bào sụn (1) thì nó chỉ khác sụn trong ở bản chất của loại sợi trong chất căn bản. Đó là những sợi đàn hồi (5) bắt màu hồng chạy khắp xung quanh các tế bào sụn.

Page 13: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

13

Sụn sợi (hình 17)

Trong hình là mặt cắt ngang phần hàm dưới gà. Các tế bào sụn (1) nằm rải rác xen giữa các sợi tạo keo(6). Chất căn bản xanh nhạt xung quanh một số tế bào sụn.

Hình 15. Sụn trong Hình 16. Sụn đàn hồi

1: Tế bào sụn 2: Chất căn bản 5: Sợi đàn hồi

3: Lớp ngoài 4: Lớp trong

Hình 17. Sụn sợi

6: Sợi collagen

Bài 4. MÔ XƯƠNG

Quan sát tiêu bản màng xương mũi chó ở độ phóng đại thấp. Các tế bào xương (1) có hình thoi, nằm trong chất căn bản (2). Tạo cốt bào (3) là những tế bào có nhân bắt màu tím đậm, nằm dọc theo rìa của chất căn bản. Trong hình ta cũng quan sát thấy hủy cốt bào (4) là những tế bào đa nhân khổng lồ.

Page 14: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

14

Hình 18. Mô xương

1: Tế bào xương 2: Chất căn bản

3: Tạo cốt bào 4: Hủy cốt bào

Bài 5. MÔ MÁU

Yêu cầu: sinh viên phải biết nhận dạng và vẽ lại các thành phần tế bào trong máu gia súc, gia cầm.

Máu loài có vú (ngựa, bò, thỏ) (hình 19 - 24)

Trong tiêu bản mô máu ta có 3 loại tế bào: hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu:

- Hồng cầu hình tròn, kích thước trung bình, không có nhân, ăn màu hồng, chiếm đa số trong tiêu bản.

- Tiểu cầu kích thước rất nhỏ, thường tụ thành đám (mũi tên).

- Bạch cầu là loại tế bào lớn nhất và được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa vào đặc tính của nhân và loại hạt có trong tế bào chất.

+ Bạch cầu đa nhân có nhiều hạt trong tế bào chất và nhân có nhiều thuỳ.

Trong số này, bạch cầu ưa acid (E) có hạt lớn màu đỏ, bạch cầu ưa base (B) có các hạt nhuộm màu tím đậm, kích thước khác nhau, nhân chia ít thùy nhất, bạch cầu trung tính (N) có các hạt mịn ăn màu tía hồng.

+ Bạch cầu đơn nhân: trong tế bào chất của bạch cầu đơn nhân chỉ có ít hay không có hạt và có một nhân tròn hay hình quả thận. Bạch cầu đơn nhân gồm 2 loại chính: lympho bào (L) và bạch cầu đơn nhân lớn (M).

+ Lympho bào có hình tròn hoặc hình trứng, nhuộm màu đậm, tế bào chất ăn màu kiềm, thường không có hạt.

+ Bạch cầu đơn nhân lớn có nhân hình tròn, trứng hoặc hình quả thận, nhuộm màu lợt hơn. Tế bào chất hơi ăn màu kiềm và có nhiều hạt mịn, kích thước lớn hơn lympho bào.

Page 15: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

15

Hình 19. Máu gia súc Hình 20. Máu gia súc

N: Bạch cầu trung tính N: Bạch cầu trung tính

L: Bạch cầu lympho E: Bạch cầu ưa acid (ái toan)

M: Bạch cầu đơn nhân lớn

Hình 21. Máu gia súc Hình 22. Máu gia súc

N: Bạch cầu trung tính E: Bạch cầu ưa acid (ái toan)

L: Bạch cầu lympho

Hình 23. Máu gia súc Hình 24. Máu gia súc

B: Bạch cầu ưa base (ái kiềm) Mũi tên: Tiểu cầu

Page 16: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

16

Máu Gà (hình 25 - 28)

Quan sát các hồng cầu hình bầu dục, có nhân, bào tương bắt màu cam lợt hay hồng lợt. Bạch cầu trung tính (3) của gia cầm được gọi là bạch cầu dị nhiễm hay bạch cầu giả toan vì chứa những hạt bắt màu acid giống như bạch cầu ưa acid (2). Tuy nhiên hạt của bạch cầu dị nhiễm có hình que hoặc hình thoi, bào tương trong suốt trong khi bạch cầu ưa acid có hình tròn, bào tương bắt màu xanh dương nhạt. Bạch cầu ưa base (1), lympho bào (5) và bạch cầu đơn nhân lớn (6) giống như của gia súc. Trong tiêu bản còn quan sát được các hồng cầu chưa trưởng thành (4) hay bạch cầu bị vỡ (7).

Hình 25. Máu gia cầm Hình 26. Máu gia cầm

5: Bạch cầu lympho 2: Bạch cầu ưa acid

2: Bạch cầu ưa acid 7: Bạch cầu trung tính bị vỡ

3: Bạch cầu trung tính

Hình 27. Máu gia cầm Hình 28. Máu gia cầm

6: Bạch cầu đơn nhân lớn 6: Bạch cầu đơn nhân lớn

3: Bạch cầu trung tính 1: Bạch cầu ưa base

4: Hồng cầu chưa trưởng thàn

Page 17: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

17

Bài 6. MÔ CƠ

Mô cơ vân (hình 29)

Trong hình có thể thấy một bắp cơ vân bị cắt ngang, trong đó chứa vài bó cơ ngăn cách nhau bởi mô liên kết (CT). Trong mỗi bó cơ chứa các sợi cơ bắt màu hồng (S) nằm song song nhau bị cắt ngang. Giữa các sợi cơ có các mao mạch nhỏ (mũi tên). Trong mô liên kết có thể thấy rõ các tế bào sợi (F) nằm xa nhau. Cũng có thể quan sát thấy một động mạch nhỏ bị cắt dọc (A).

Mô cơ tim (hình 30)

Trong hình là một lát cắt cơ tim theo chiều dọc , độ phóng đại 344 lần. Có thể quan sát rõ các sợi cơ tim có hình trụ dài, hai đầu sợi cơ nối nhau theo cách gảy khúc tạo thành vân bậc thang (I). Nhân (N) của tế bào cơ tim có hình trứng và nằm giữa sợi cơ, các tiểu sợi cơ cũng sắp xếp theo chiều song song tạo thành vân ngang (S) rất rõ.

Hình 29. Mô cơ vân Hình 30. Mô cơ tim

S: Sợi cơ vân F: Tế bào sợi S: Vân ngang I: Vân bậc thang

CT: Mô liên kết A: Động mạch N: Nhân

Mũi tên: Mao mạch

Bài 7. HỆ THỐNG THẦN KINH

Tiểu não (hình 31-32)

Tiểu não gồm 2 lớp, lớp chất trắng (15) ở trong và chất xám ở ngoài, bọc phía ngoài có màng não tủy (10 & 14). Chất trắng có cấu tạo đồng nhất gồm các sợi thần kinh có myelin, phân nhánh làm cho tiểu não có nhiều nếp nhăn. Chất xám là vùng vỏ tiểu não, phân làm 3 lớp:

+ Lớp chấm(lớp phân tử) (7) : tương đối có ít tế bào và có nhiều sợi chạy nằm ngang. Ta có thể thấy được thân các tế bào hình sao và một số thụ trạng của tế bào Purkinje (3).

+ Lớp tế bào Purkinje (11) : những tế bào Purkinje hình giống trái đào và có nhiều thụ trạng mọc xuyên vào trong lớp chấm.

Page 18: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

18

+ Lớp hạt (5) : có rất nhiều tế bào hạt nhỏ của tiểu não, một số tế bào hình sao lớn hơn và có nhiều tế bào chất hơn, có những vùng tế bào thần kinh thưa hoặc không có, đó là nơi tiếp hợp của thần kinh.

Hình 31. Tiểu não

7: Lớp chấm 5: Lớp hạt

11: Lớp tế bào Purkinje 15: Chất trắng

10,14: Màng não tủy

Hình 32. Tiểu não

3: Thụ trạng

Page 19: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

19

Võ não (hình 33 – 34)

Hình 33 là lát cắt ngang của bán cầu não, độ phóng đại 200 lần. Đa số những tế bào trong hình là những tế bào thần kinh chính thức hình tháp (mũi tên lớn), rải rác có thể quan sát được các tế bào thần kinh đệm (mũi tên nhỏ).

Bào tương của tế bào thần kinh chính thức thường chứa rất nhiều lưới nội bào có hạt (ribosome) nên thường bắt màu tím của thuốc nhuộm. Trong khi đó bào tương của tế bào thần kinh đệm rất ít, và được phân bố thành các nhánh nên thường chỉ quan sát thấy nhân của nó.

Hình 34 (độ phóng đại 400 lần) cho thấy một tế bào thần kinh đa cực tiêu biểu trong vỏ não. Ở một cực của tế bào ta có thể thấy một sợi trục (A), phía đối diện là một nhánh bào tương đi về hướng khác, đây là một phần của sợi gai, sau đó sẽ chia nhánh thành thụ trạng.

Nhân của tế bào thần kinh chính thức thường rất trong. Ơ phía trái và bên dưới của sợi trục ta có thể thấy sự tích tụ của những hạt màu đỏ đậm, đó là các hạt lipofuscin (L), thường gặp ở phần lớn tế bào thần kinh với những mức độ khác nhau. Bên cạnh là hạt nhân khá rõ(Nu).

Hình 33. Vỏ não Hình 34. Vỏ não

Mũi tên lớn: Tế bào thần kinh hình tháp A: Sợi trục Nu: Nhân L: Hạt lipofucin

Mũi tên nhỏ: Tế bào thần kinh đệm

Bài 8. HỆ THỐNG TUẦN HOÀN VÀ CƠ QUAN TẠO HUYẾT

Động mạch - tĩnh mạch - dây thần kinh - mô mỡ (hình 35 – 37)

Trong tiêu bản, ta thấy có một nhánh động mạch cỡ trung bình, 1 tĩnh mạch trung bình và 1 dây thần kinh. Ngoài ra còn thấy mô mỡ ở một góc của tiêu bản.

Động mạch trung bình (MA) còn gọi là động mạch cơ. Trái với tĩnh mạch, động mạch có thành tương đối dày, lòng nhỏ, tròn đều. Một động mạch thường có các lớp sau đây kể từ trong ra ngoài:

+ Lớp áo trong (I) : gồm có lớp nội mạc, là loại biểu mô lát đơn, kế đó là một lớp liên kết, rất mỏng, khó quan sát và bên ngoài là lớp đàn hồi trong màu tím(IEL), thường uốn khúc quanh lòng mạch máu.

Page 20: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

20

+ Lớp áo giữa (M) : gồm phần chính là các sợi cơ trơn (Sm), ăn màu hồng sậm, có nhân tím bao vòng quanh. Xen kẽ các sợi cơ trơn là mô liên kết chứa nhiều sợi đàn hồi.

+ Lớp áo ngoài (A) : cấu tạo bởi mô liên kết dày đặc, trong có thần kinh và mạch máu. Các mạch máu này được gọi là mạch máu nuôi mạch máu (vasa vasorum) nhiệm vụ chủ yếu là để nuôi mạch máu lớn.

Giữa áo ngoài và áo giữa có một lớp đàn hồi ngoài (EEL).

Các động mạch có khoảng 25 lớp cơ vòng hay hơn trong lớp giữa, ta gọi đó là động mạch cỡ trung bình, các sợi đàn hồi nhiều hơn nhưng vẫn ở dạng các sợi mỏng và hệ thống chùm.

Trong tiêu bản còn có một tĩnh mạch trung bình (MV). Tĩnh mạch có vách tương đối mỏng, lòng rộng và không tròn đều bên trong còn sót lại một ít máu đã đông.

- Tĩnh mạch có cấu tạo như sau:

+ Lớp áo trong: chỉ gồm một lớp nội mạc thuộc loại biểu mô lát đơn (mũi tên). Đôi khi lớp trong của tĩnh mạch cũng có một lớp mỏng các sợi tạo keo và sợi đàn hồi.

+ Lớp áo giữa(M): ở giữa gồm một lớp mỏng các sợi cơ trơn bao quanh.

+ Lớp áo ngoài(A): là lớp mô liên kết rộng.

Ngoài ra còn có một dây thần kinh bị cắt ngang (N), mô mỡ (F), một số tiểu động mạch (A) và tiểu tĩnh mạch (V).

Hình 35. Mạch máu

MA: Động mạch trung bình

MV: Tĩnh mạch trung bình

N: Dây thần kinh

A: Động mạch nhỏ

V: Tĩnh mạch nhỏ

F: Mô mỡ

Page 21: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

21

Hình 36. Động mạch Hình 37. Tĩnh mạch

I: Áo trong I: Áo trong

M: Áo giữa M: Áo giữa

A: Áo ngoài A: Áo ngoài

Sm: Cơ trơn Sm: Cơ trơn

IEL: Lớp đàn hồi trong Mũi tên: Biểu mô lát đơn

EEL: Lớp đàn hồi ngoài

Tuyến ức (hình 38 – 40)

Trong hình là một lát cắt của tuyến ức, phần nhu mô tím đậm nằm phía ngoại vi là phần vỏ (Co), phần hồng lợt phía trong là phần tủy (M). Phần vỏ tuyến ức chứa phần lớn các lympho bào T ở các giai đoạn phát triển khác nhau, nằm xen lẫn đại thực bào (M). Vùng tủy chứa chủ yếu tế bào biểu mô tuyến ức (mũi tên), là những tế bào có nhân lớn, nhạt màu, bào tương bắt màu hồng. Những tế bào biểu mô tuyến ức tạo thành một sường chống đỡ cho các lympho T bám vào. Nó cũng có vai trò trong việc chọn dòng lympho T. Vùng tủy có rất ít tế bào lympho T vì phần lớn chúng đã di chuyển vào dòng máu.

Page 22: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

22

Hình 38. Tuyến ức Hình 39. Tuyến ức

Cortex: Vùng vỏ Medulla: Vùng tủy Lymphocytes: Tế bào lympho Macrophage: Đại thực bào

Hình 40. Tuyến ức

Mũi tên: Tế bào biểu mô tuyến ức

Hạch bạch huyết (hình 41 – 43)

Hạch bạch huyết cấu tạo bởi một khối lympho bào trưởng thành và lympho bào non chen lẫn với các xoang bạch huyết và bên ngoài được bọc bằng một bao mô liên kết (mũi tên, C). Trong vùng vỏ (Co) của hạch, các tế bào lympho tạo thành các nốt nhỏ. Trong các nốt này có những trung tâm nhuộm màu lợt, đó là các trung tâm sinh trưởng (G).

Trong vùng tủy (M) của hạch, các tế bào lympho hợp thành hình chuỗi gọi là dây bạch huyết (Mc). Những xoang bạch huyết vùng tủy (Ms) bao quanh các chuỗi tế bào kể trên. Ngay dưới bao liên kết ta có các xoang vùng vỏ (Ts). Các nhánh mô liên kết (T) từ vỏ liên kết trải rộng vào nằm xen kẽ giữa các nốt bạch huyết nhỏ ở vùng vỏ. Trong vùng tủy, các vách này phân nhánh và nối nhau quanh các chuỗi tế bào lympho và các xoang. Phía ngoài hạch bạch huyết là một vùng mô liên kết lỏng lẻo (C) trong đó có mạch máu và mô mỡ.

Bên tay trái, gần vùng trung tâm của hạch bạch huyết là rốn hạch (H). Tại đây có mạch bạch huyết mang bạch huyết ra khỏi mạch. Tĩnh mạch và động mạch (V) cung cấp máu cho hạch cũng thường tụ ơ vùng rốn hạch.

Page 23: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

23

Hình 41. Hạch bạch huyết

Co: Vùng vỏ Mũi tên: Bao mô liên kết

M: Vùng tủy H: Rốn hạch

Pc: Vùng cận vỏ G: Trung tâm sinh trưởng

Mc: Dây bạch huyết miền tủy

Hình 42. Hạch bạch huyết Hình 43. Hạch bạch huyết

C: Bao mô liên kết Ms: Xoang bạch huyết

G: Trung tâm sinh trưởng Mũi tên: Dây bạch huyết miền tủy

Pc: Vùng cận vỏ V: Mạch máu

Lách (hình 44 – 47)

Từ vỏ mô liên kết (C) bọc bên ngoài, các vách mô liên kết (T) phân nhánh đi lan vào trong nhu mô của lách tạo thành các vết cắt ngang. Các vách này là những khối mô liên kết có màu hồng. Vách này lan vào trong và có chứa các động mạch và tĩnh mạch. Phân tán khắp lách là các nốt bạch huyết, còn gọi là thể lách hay thể Malpighi (N), tạo thành tủy trắng của

Page 24: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

24

lách. Ở thú non, chúng có chứa các trung tâm sinh trưởng (G). Mỗi thể lách đều có chứa một tiểu động mạch (mũi tên) đi xuyên qua và nằm hơi lệch về phía rìa của thể lách.

Bám quanh các nốt bạch huyết và lẫn với vách liên kết là một khối các tế bào tản mác, phối hợp lại tạo thành vùng tủy đỏ (R). Khối tủy đỏ có chứa các xoang tĩnh mạch (S) và dây lách (C ). Các dây này tạo nên một hệ thống thưa trải rộng trên một lưới các sợi mạng, thường không thấy rõ khi nhuộm màu. Xung quanh đông mạch, các tế bào lympho thường tập trung dày đặc tạo thành chuỗi lympho quanh động mạch (PALS).

Hình 44. Lách Hình 45. Lách

C: Bao mô liên kết R: Tủy đỏ

R: Tủy đỏ N: Tủy trắng

N: Tủy trắng G: Trung tâm sinh trưởng

G: Trung tâm sinh trưởng PALS: Chuỗi lympho quanh động mạch

Mũi tên: Tiểu động mạch

Hình 46. Lách Hình 47. Lách

C: Dây lách C: Dây lách

S: Xoang tĩnh mạch S: Xoang tĩnh mạch

Page 25: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

25

Túi Fabricius (hình 48 – 50)

Khi cắt ngang, túi Fabricius tạo thành các nếp gấp lồi vào xoang (1). Đỉnh của các nếp gấp che phủ bởi biểu mô trụ đơn cao (4), các chỗ khác biểu mô này được thay bằng biểu mô trụ giả kép có lông rung (10). Lớp đệm (6) của các nếp gấp chứa đầy các nốt bạch huyết (5), mỗi nốt gồm có 2 vùng: vùng ngoại vi (3) và vùng trung tâm sinh trưởng (7). Vùng ngoại vi chứa các lympho bào trưởng thành bắt màu đậm. Vùng trung tâm chứa các lympho bào non nhuộm màu nhạt. Xen giữa vùng ngoại vi và vùng trung tâm sinh trưởng có một lớp tế bào biểu mô chưa biệt hóa (13), và một mạng lưới mao mạch (2). Trong hình cũng thấy lớp cơ niêm (8) nằm ở đáy của nếp gấp.

Hình 48. Túi Fabricius Hình 49. Túi Fabricius

1: Nếp gấp 4: Biểu mô trụ đơn

10: Biểu mô trụgiả kép có lông rung 7: Trung tâm sinh trưởng

5: Nốt bạch huyết 6: Lớp đệm

8: Cơ niêm

Hình 50. Túi Fabricius

13: Lớp biểu mô chưa biệt hóa

2: Mao mạch

3: Vùng ngoại vi

Page 26: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

26

Bài 9. HỆ THỐNG NỘI TIẾT

Tuyến thượng thận (hình 51 – 52)

Mỗi tuyến thượng thận được bao trong mô liên kết (C), trong đó có nhiều mạch máu và sợi thần kinh không có myelin. Nhu mô tuyến thượng thận được chia thành vùng vỏ (Co) và vùng tủy (M). Trong vùng vỏ ta thấy có ba lớp xếp chồng lên nhau. Lớp ngoài cùng là vùng cầu (G). Nhân của tế bào thường có khuynh hướng nhỏ và ăn màu đậm. Tế bào chất chứa các hạt mỡ nhỏ nhìn vào trông giống các không bào. Kế đó là vùng dậu (F), trong lớp này có các tế bào xếp thành từng cột vì các không bào trong tế bào rất rõ nên còn được gọi là các bọt biển. Giữa các trụ tế bào có các xoang mao mạch. Trong cùng là vùng lưới (R), các tế bào này xếp thành từng dây, chạy theo đủ mọi chiều hướng và nối tiếp nhau. Những tế bào thường mang sắc tố màu hơi vàng.

Tế bào trong vùng tủy (M) ăn màu lợt và nằm thành từng cụm. Vùng tủy cũng chứa các tế bào thần kinh giao cảm nằm riêng lẻ hay tụ thành đám ăn màu sậm hơn. Vùng tủy thường chứa các tĩnh mạch (V) khá lớn.

Hình 51. Tuyến thượng thận Hình 52. Tuyến thượng thận

C: Bao mô liên kết G: Vùng cầu

Co: Vùng vỏ F: Vùng dậu

M: Vùng tủy R: Vùng lưới

V: Mạch máu

Tuyến giáp trạng (hình 53 – 54)

Tuyến giáp trạng được bọc trong một vỏ liên kết (C ) chứa mạch máu và mô mỡ.

Nhu mô của tuyến giáp trạng gồm chủ yếu các nang tuyến (F). Những nang tuyến được lát bởi biểu mô khối đơn hay trụ đơn thấp. Chất keo nằm đầy trong các xoang của tuyến, bắt

Page 27: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

27

màu hồng. Trong chất keo có thể thấy một số không bào hấp thụ, không bắt màu hoặc bắt màu hồng rất lợt. Một nhóm tế bào dày đặc nằm giữa các bao nguyên là vách của bao bị cắt xuyên qua. Mạch máu và mô liên kết nằm chen giữa các nang tuyến. Xen kẽ các nang tuyến còn quan sát được tế bào C (C).

Hình 53. Tuyến giáp trạng Hình 54. Tuyến giáp trạng

C: Bao mô liên kết F: Nang tuyến

C: Tế bào C

Bài 10. HỆ THỐNG HÔ HẤP Khí quản (hình 55 – 57)

Trong hình là một khí quản bị cắt ngang. Ống khí quản được lát bằng một lớp niêm mạc (M), bên trên có biểu mô trụ giả kép có lông rung và có nhiều tế bào đài (mũi tên, E). Đỉnh của các tế bào trụ thấy rõ lông rung (C) nếu được quan sát ở độ phóng đại cao. Đáy của biểu mô có một loại tế bào đáy (B) có khả năng sinh sản cao.

Trong lớp đệm (LP) có nhiều nang tiết chất nhờn (M), nang tiết chất trong (SM) và mạch máu (V). Ống dẫn (D) của các tuyến này mở vào lòng khí quản và lát bằng biểu mô khối đơn. Lớp mô chống đỡ khí quản được cấu tạo bởi sụn trong (HC) xếp thành hình chữ U nếu cắt hết vòng khí quản. Sụn khí quản được bao quanh bằng một màng sụn (PC) là mô liên kết có mạch máu, mô mỡ (F), và dây thần kinh. Ở một góc của tiêu bản có thể thấy một nốt bạch huyết (L).

Page 28: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

28

Hình 55. Khí quản

M: Niêm mạc SM: Lớp dưới niêm HC: Lớp sụn PC: Màng sụn L: Nốt bạch huyết

Hình 56. Khí quản Hình 57. Khí quản

E: Biểu mô trụ giả kép có lông rung C: Lông rung B: Tế bào đáy

LP: Lớp đệm SM: Nang tiết chất trong

M: Nang tiết chất nhờn D: Ống dẫn

Phổi gia súc (hình 58 – 62)

Trong tiêu bản phổi, quan sát các cấu tạo sau: phế quản bậc 2, tiểu phế quản, tiểu phế quản tận cùng, tiểu phế quản hô hấp, ống phế nang, và phế nang .

Phế quản bậc 2 hay phế quản tiểu thùy: biểu mô (E) thuộc loại trụ giả kép có lông rung (mũi tên), bên dưới là lớp đệm mô liên kết (LP) rất mỏng, có một lớp cơ trơn (SM) dẹp, lớp dưới niêm có vài tuyến (Gl), các tấm sụn trong (C) và lớp áo ngoài. Thường có nhiều mạch máu (V) đi kèm theo phế quản.

Tiểu phế quản: biểu mô thuộc loại trụ giả kép hay trụ đơn có lông rung và một ít tế bào đài (G). Màng niêm thường xếp nếp và lòng ống có hình sao khi cắt ngang.

Page 29: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

29

Tiểu phế quản tận: biểu mô của là loại trụ đơn có lông rung nhưng không có các tế bào đài. Loại này vẫn có lớp đệm, lớp cơ trơn và lớp ngoài.

Tiểu phế quản hô hấp: là những ống nhỏ, nối trực tiếp với ống phế nang và phế nang. Biểu mô loại trụ đơn thấp hay khối đơn, có rất ít mô liên kết, các dãy cơ trơn dài và các sợi đàn hồi của lớp đệm.

Mỗi tiểu phế quản hô hấp nối với 2 hay nhiều ống phế nang, tuy nhiên trong tiêu bản ít khi ta thấy được cấu tạo này.

Vách các ống phế nang được cấu tạo bởi một loạt phế nang nằm cạnh nhau. Các phế nang tạo nên 1 khối mô chính của phổi trông như viền đăng ten. Nếu phóng đại lớn ta thấy sự liên quan của phế nang đối với mao quản. Các mao quản nằm trong vách phế nang.

Ở các đầu phế nang vách thường dày lên vì có các vòng cơ trơn.

Hình 58. Phổi gia súc Hình 59. Phổi gia súc Hình 60. Phổi gia súc

E: Biểu mô LP: Lớp đệm G: Tế bào đài

SM: Lớp cơ trơn V: Mạch máu Mũi tên: Lông rung

GL: Tuyến C: Lớp sụn

Hình 61. Phổi gia súc Hình 62. Phổi gia súc

E: Biểu mô Mũi tên: Lớp cơ trơn

CT: Lớp mô liên kết LP: Lớp đệm

Page 30: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

30

Phổi gia cầm (hình 63 – 65)

Trong hình là một nhánh phế quản của gia cầm MB (độ phóng đại 20 lần), ngoài lớp biểu mô trụ giả kép thì nó cũng có những mảnh sụn trong (C) và các bó cơ trơn (SM) chạy vòng. Phế quản dẫn không khí vào đến vùng giữa của phổi và chia nhánh tạo thành phế quản bậc II (SB). Phế quản bậc II tương đương với tiểu phế quản của các loài gia súc, vách chủ yếu cấu tạo bởi cơ trơn.

Phế quản bậc II tạo những nhánh phế quản nhỏ PB (còn gọi là phế quản bậc III) chạy song song theo hình xương cá với nó. Vách của phế quản nhỏ phồng ra tạo thành các phế nang (AV), nơi xảy ra sự trao đổi khí.

Hình 65 cho thấy phế quản nhỏ được mở rộng thành các phế nang. Miệng của các phế nang có các bó cơ trơn rất phát triển. Trên vách phế nang có một mạng lưới mao mạch rất dồi dào.

Hình 63. Phổi gia cầm Hình 64. Phổi gia cầm Hình 65. Phổi gia cầm

MB: Phế quản SB: Phế quản bậc II AV: Phế nang

Cartilage: Lớp sụn Parabronchus: Phế quản nhỏ SM: Cơ trơn

Bài 11. HỆ THỐNG TIÊU HÓA

Thực quản (hình 66 – 67)

Thực quản giống như một cấu trúc hình ống với lòng ống thường gấp nếp lồi vào trong. Vách thực quản gồm các lớp:

- Màng niêm thực quản (M) gồm một lớp biểu mô lát kép không hoá keratin (SS), bên dưới là lớp đệm liên kết (LP) và lớp cơ niêm(MM). Trong lớp đệm có các mạch máu nhỏ. Lớp cơ niêm cấu tạo bởi các sợi cơ trơn chạy dọc.

- Lớp dưới niêm mạc (SM) có nhiều nang tuyến tiết dịch nhờn (GL) thuộc tuyến thực quản. Các ống bài xuất (D) sẽ dẫn chất tiết từ tuyến lên bề mặt của thực quản. Trong lớp dưới niêm mạc có nhiều mạch máu và tế bào mỡ.

- Ngay cạnh lớp dưới niêm mạc là lớp cơ dày (ME) gồm 2 lớp rõ rệt: trong là lớp cơ vòng và ngoài là lớp cơ dọc, thường là cơ vân bị cắt ngang nên nhân thường thấy nằm sát rìa.

- Lớp ngoài cùng là mô liên kết bao bọc(A), trong đó ta thấy các mạch máu, thần kinh và mỡ.

Page 31: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

31

Hình 66. Thực quản Hình 67. Thực quản

M: Niêm mạc LP: Lớp đệm

SS: Biểu mô lát kép không hóa keratin MM: Lớp cơ niêm

SM: Lớp dưới niêm GL: Tuyến

ME: Lớp cơ D: Ống bài xuất

A: Lớp áo ngoài

Dạ dày đơn (hình 68 – 70)

+ Vùng trung gian giữa thực quản và vùng thượng vị.

Trong tiêu bản ta quan sát thấy những rãnh dạ dày (GP), tuyến dạ dày vùng thượng vị (CG), tuyến thực quản - thượng vị (ECG), cơ niêm (mũi tên) và lớp dưới niêm(SM).

+ Vùng thân vị

Trong hình là vách của dạ dày ở vùng thân vị, chủ yếu chỉ quan sát được lớp niêm mạc. Các lớp khác (lớp dưới niêm, lớp cơ ngoài và lớp liên kết ngoài=màng tương) không nằm trong vi trường.

Biểu mô lát mặt trong dạ dày là loại trụ đơn. Biểu mô này chạy liên tục và lát cả những lỗ châm kim = rãnh dạ dày(P) ăn sâu vào lớp niêm mạc khoảng 1/3 hay 1/4 bề dày niêm. Ở đáy của lỗ châm kim này là các tuyến dạ dày và lớp tuyến trải dài xuống dưới tới lớp cơ niêm. Lớp đệm là phần mô liên kết nâng đỡ cho niêm mạc. Lớp cơ niêm phân nhánh các sợi cơ trơn đi vào giữa lớp đệm và các tuyến dạ dày.

Các tuyến dạ dày ở vùng này gồm 2 loại tế bào, tế bào chính (C) nhuộm màu hồng lợt với nhân tím đậm và các tế bào viền (mũi tên) có hình tròn, nhuộm màu đỏ sậm nằm ở rìa các ống tuyến hay chồng lên các tế bào chính. Ở vùng cổ tuyến có những tế bào phụ (MN).

+ Vùng hạ vị.

Trong vùng hạ vị, các nếp uốn dạ dày (P) sâu hơn là ở thân vị. Hạ vị cũng có đủ các lớp như ở thân vị.

Các tuyến (GL) ở hạ vị chỉ có một loại tế bào. Mỗi tế bào tuyến có tế bào chất ăn màu hồng và nhân dẹp nằm sát đáy. Bề sâu nếp uốn so với niêm mạc là 1/1.

Page 32: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

32

Biểu mô vùng này cũng là loại trụ đơn.

Hình 68. Vùng thực quản-thượng vị Hình 69. Vùng thân vị Hình 70. Vùng hạ vị

GP: Rãnh dạ dày P: Rãnh dạ dày P: Rãnh dạ dày

CG,ECG: Tuyến dạ dày MN: Tế bào phụ GL: Tuyến hạ vị

Mũi tên: Cơ niêm C: Tế bào chính

Mũi tên: Tế bào viền

+ Dạ dày trước loài nhai lại (hình 71 – 72)

Dạ tổ ong (hình 71)

Dạ tổ ong của loài nhai lại tạo thành các nếp gấp. Trên nếp gấp chính (1) nhô ra những nếp gấp phụ (2). Cơ niêm (MM) rất phát triển, tạo thành những bó chạy dọc lên đến đỉnh của nếp gấp chính. Biểu mô phủ bề mặt của dạ tổ ong là biểu mô lát kép hóa keratin.

Dạ lá sách (hình 72)

Trong tiêu bản là một nếp gấp niêm mạc dạ lá sách của bò.

Quan sát biểu mô thuộc loại lát kép hoá keratin (6). Lớp dưới niêm (7) chạy liên tục theo các gấp nếp của dạ dày. Cơ niêm rất phát triển (5) tạo thành bó chạy dọc theo gấp nếp.

Lớp đệm (3) không chứa tuyến. Bên phải của tiêu bản có thể thấy một phần của áo cơ (4).

Page 33: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

33

Hình 71. Dạ tổ ong Hình 72. Dạ lá sách

1: Nếp gấp chính 6: Biểu mô lát kép hóa keratin

2: Nếp gấp phụ 3: Lớp đệm

MM: Lớp cơ niêm 5: Lớp cơ niêm

7: Lớp dưới niêm

4: Lớp áo cơ

+ Dạ dày gia cầm (hình 73 – 76)

Hình 73 – 74: dạ dày tuyến gia cầm

Trong hình là lát cắt dạ dày tuyến gia cầm ở độ phóng đại thấp (20 x). Bề mặt dạ dày tuyến có những nếp gấp giống như hình ngón tay. Những nếp gấp này bao quanh miệng của một ống bài xuất của các tuyến nằm bên dưới. Biểu mô của nếp gấp thuộc loại trụ đơn. Bên dưới các nếp gấp có lớp đệm (LP). Trong lớp này có những nang lympho nằm rải rác. Phần thùy tuyến nằm trong lớp dưới niêm, chứa đầy các nang tuyến (adenomer). Mỗi nang tuyến là một đơn vị tách biệt, cách nhau bởi mô liên kết.

Hình tiếp theo cho thấy dạ dày tuyến ở độ phóng đại lớn hơn (40X). Ta có thể quan sát rõ một kênh (C) dẫn chất tiết từ nang tuyến ra lòng của dạ dày tuyến (Lu). Trong hình cũng có thể quan sát rõ các nếp gấp của niêm mạc (P), có chiều cao và hình dạng tương tự nhau. Phần dưới của hình bộc lộ cấu trúc cắt ngang của một nang tuyến (A). Mỗi nang có một xoang, được bao phủ bởi những tế bào biểu mô viền hình trụ đơn.

Page 34: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

34

Hình 73. Dạ dày tuyến Hình 74. Dạ dày tuyến

LP: Lớp đệm Lu: Lòng dạ dày

L: Nang lympho C: Kênh dẫn

Adenomer: Nang tuyến P: Nếp gấp niêm mạc

A: Nang tuyến

E: Biểu mô trụ đơn

Hình 75 – 76: dạ dày cơ gia cầm

Trong hình ta có thể thấy xoang của dạ dày cơ ( Lu ) ở lớp trên cùng với độ phóng đại thấp (20). Dạ dày cơ được viền bởi một lớp sừng dày ( P ), lớp này được tiết ra bởi những tế bào tuyến nằm trong lớp niêm mạc là loại biểu mô khối đơn (secretory region of mucosa). Lớp niêm mạc gấp nếp tạo thành những rãnh hình ống.

Phía dưới vùng chế tiết của niêm mạc là lớp dưới niêm ( SM ), đây là mô liên kết thưa không chứa tuyến.

Phần lớn tiêu bản được chiếm bởi lớp áo cơ rất dày ( TM ), có ít nhất 2 lớp. Phía ngoài của áo cơ có một lớp mô liên kết sợi nhưng ta không thấy được trong tiêu bản.

Page 35: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

35

Hình 75. Dạ dày cơ Hình 76. Dạ dày cơ

Lu: Xoang dạ dày P: Lớp sừng SM: Lớp dưới niêm

TM: Lớp áo cơ

Ruột non (hình 77 – 82)

Ruột non là một cơ quan hình ống với niêm mạc được gấp nếp tạo thành van (P) và sự hiện diện của các lông nhung (V). Hình dạng và chiều cao của van và các lông nhung thay đổi tùy đoạn ruột non.

Biểu mô lát ruột non là biểu mô trụ đơn, có riềm hút (vi nhung mao) và dính sát nhau tạo thành một mâm khía và có chứa các tế bào đài tiết chất nhờn.

Lớp đệm ngay dưới các lông nhung chứa các tuyến Lieberkuhn (mũi tên), thường bị cắt ngang và bắt màu tím đậm. Nằm bên dưới niêm mạc là 2 lớp cơ vòng và cơ dọc (ME). Bên ngoài là màng tương, thường phát triển thành màng treo ruột (M).

Tá tràng (hình 77 – 78)

Lông nhung của tá tràng cao và gấp nếp nhiều. Đặc điểm của tá tràng là có các tuyến Brunner (B). Nang tiết của tuyến này được tạo bởi những tế bào nhờn và trong ăn màu hồng rất lợt. Các tuyến này có rất nhiều ở lớp dưới niêm (S). Chúng cũng được tìm thấy ở phần sâu của lớp đệm ngay trên lớp cơ niêm. Lớp cơ niêm ở vùng này đôi khi phân nhánh.

Page 36: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

36

Hình 77. Tá tràng Hình 78. Tá tràng

P: Van ruột B: Tuyến Brunner S: Lớp dưới niêm

V: Lông nhung ME: Lớp áo cơ Mũi tên: Tuyến Lieberkuhn

M: Màng treo ruột

Không tràng (hình 79 – 80)

Ở không tràng, biểu mô sắp xếp gần giống như tá tràng, nhưng các lông nhung không nhọn bằng, các nốt bạch huyết bắt đầu tụ nhiều ở lớp đệm. Tuyến Brunner biến mất.

Hình 79. Không tràng Hình 80. Không tràng

V: Lông nhung M: Màng treo ruột S: Lớp dưới niêm

ME: Lớp áo cơ Mũi tên: Tuyến Lieberkuhn

Page 37: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

37

Hồi tràng (hình 81 – 82)

Ở hồi tràng, các lông nhung còn rất ít, màng niêm ruột thấp và tương đối bằng phẳng, các nốt bạch huyết tụ lại rất nhiều , nối tiếp nhau tạo thành mảng Peyer (L). Các cấu tạo khác giống các đoạn khác của ruột non.

Hình 81. Hồi tràng Hình 82. Hồi tràng

P: Van ruột L: Mảng Peyer

V: Lông nhung Mũi tên: Tuyến Lieberkuhn

ME: Lớp áo cơ S: Lớp dưới niêm

M: Màng treo ruột

Gan (hình 83 – 85)

Phần chính tạo nên gan là các tiểu thùy gan và những mô liên kết. Ranh giới giữa các tiểu thùy rất rõ rệt, nơi có 2-3 tiểu thùy chập lại tạo thành khoảng liên kết tiểu thùy hay khoảng Kiernan (T). Ngoài khoảng Kiernan, vùng mô liên kết (CT) nối liền 2 cạnh của tiểu thùy gan rất khít nhau gọi là khe Kiernan. Ở vài vùng ranh giới giữa các tiểu thùy không rõ, các tiểu thùy gan nằm kế cận trông như dính vào nhau. Trong mô liên kết của khoảng Kiernan ta có thể thấy nhánh của các ống mật gian thùy (D), nhánh của các động mạch gan (A) và tĩnh mạch gan (V). Giữa mỗi tiểu thùy ta thấy có một khoảng trống, đôi khi còn ứ 1 số huyết cầu đó là tĩnh mạch giữa tiểu thùy (C). Từ trung tâm mỗi tiểu thùy ta thấy tia ra các dãy tế bào gan với các xoang mao mạch nằm ở giữa (S).

Tế bào gan hình nhiều cạnh và có nhân tròn ở giữa. Một số tế bào gan chứa 2 nhân.

Trong khoảng Kiernan có nhiều ống mật gian thùy, các ống mật này được lót bởi biểu mô khối đơn và một lớp liên kết mỏng. Ngoài ra ta còn thấy 1 số tế bào Kupffer nằm ở rìa các xoang gan.

Page 38: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

38

Hình 83. Gan Hình 84. Gan Hình 85. Gan

T: Khoảng Kiernan A: Động mạch gan S: Mao mạch

CT: Mô liên kết V: Tĩnh mạch gan

C: Tĩnh mạch trung tâm D: Ống mật

Tuyến tụy (hình 86 – 88)

Tuyến tụy cấu tạo bởi các nhóm nang tiết lỏng sắp xếp thành các thùy nhỏ rõ rệt, các sườn mô liên kết trong tiểu thùy và gian tiểu thùy, hệ thống ống bài xuất và các đảo Langerhans.

Quan sát một nang tiết nước lỏng (A) của tuyến tụy, ta thấy các tế bào tiết bao chung quanh, nhân tròn màu tím đậm và bên trong là chất tiết có hạt mịn, trong lòng nang có tế bào trung tâm tuyến nang, đôi khi có thể thấy các tế bào viền nằm giữa tế bào tuyến và màng đáy của nang.

Ống Boll (D) cấu tạo bởi nhiều biểu mô khối đơn thường gồm từ 6 tế bào. Các ống gian tiểu thùy lớn hơn và được lát bằng biểu mô trụ đơn.

Đảo Langerhans (I) là những cấu tạo dạng tròn, ăn màu hồng, kích thước lớn nhỏ khác nhau, nhưng thường lớn hơn các nang tiết nước lỏng. Với ống kính có độ phóng đại lớn ta thấy đao được cấu tạo bởi các cột tế bào nối nhau và lẫn lộn bên trong là các mao mạch.

Mạch máu và thần kinh thường nằm ở mô liên kết trong vùng giữa tiểu thùy. Xen giữa các nang có thể thấy các tế bào mỡ (F) có kích thước thật lớn và một số mạch máu (V).

Page 39: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

39

Hình 86. Tụy

A: Nang tiết nước lỏng

I: Đảo Langerhans D: Ống Boll

Hình 87. Tụy Hình 88. Tụy

V: Mạch máu F: Tế bào mỡ

Page 40: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

40

Bài 12. HỆ THỐNG TIẾT NIỆU

Thận (hình 89 – 94)

Bao ngoài thận là mô liên kết (C ). Nhu mô thận được phân chia thành 2 vùng, vùng vỏ (CO) và vùng tủy (M).

Trong vùng vỏ ta thấy có những khối tròn, đó là các tiểu thể thận (tiểu thể Malpighi) (RC). Mỗi tiểu thể thận gồm một quản cầu thận (G) được bao bên ngoài bởi bao Bowmann. Quản cầu là một khối các nhánh mao mạch xoắn lại, bao bởi các tế bào biểu mô và một vài tế bào liên kết. Trong mao mạch có thể thấy được hồng cầu. Bao Bowmann gồm 2 lớp, lá thành (mũi tên) gồm những tế bào biểu mô chạy liên tục và lá tạng gồm những tế bào biểu mô rời nhau nằm sát vào thành của quản cầu thận, 2 lá này cách nhau bởi xoang Bowmann (U). Các chất lỏng tích tụ trong xoang Bowmann được thoát qua các ống thận.

Trong tiêu bản ta thấy có rất nhiều ống nằm sát cạnh các tiểu thể thận. Những ống này ăn màu hồng sậm và gồm có 2 loại: ống lượn gần (P) và ống lượn xa (D). Các ống lượn gần nhiều và có lòng ống hẹp. Ống này được bao bởi biểu mô khối đơn lớn và có viền riềm hút bên trong. Các ống lượn xa có ít hơn, có lòng rộng hơn, các tế bào biểu mô đơn khối nhỏ hơn và không có viền riềm hút. Ở xa các tiểu thể hơn là các tế bào khối đơn cao nhuộm màu hông lợt, màng tế bào rõ ràng, đó là các ống góp (T, CT). Các ống này có nhiều ở giữa vùng vỏ và vùng tủy. Trong vùng này còn có ống xuống (D) của quai Henlé lót bởi biểu mô lát đơn và ống lên (A) dày lát bởi biểu mô khối đơn thấp.

Các ống góp lớn (ống thẳng) (CD) nằm trong vùng tủy có đường kính lớn, lòng rất rộng, lát bằng biểu mô trụ đơn cao và lợt màu. Vùng tủy có nhiều mạch máu (V) và mô liên kết. Đỉnh của các nhú thận và bồn thận (C ) được che phủ bởi biểu mô chuyển tiếp (E, EC).

Hình 89. Thận

C: Bao mô liên kết Co: Vùng vỏ

M: Vùng tủy RC: Tiểu thể thận

Page 41: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

41

Hình 90. Thận

G: Quản cầu thận U: Xoang Bowmann

P: Ống lượn gần D: Ống lượn xa

Hình 91. Thận Hình 92. Thận

CT: Ống góp CD: Ống thẳng

Page 42: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

42

Hình 93. Thận Hình 94. Thận

A: Ống lên E,EC: Biểu mô chuyển tiếp

D: Ống xuống C: Bồn thận

T: Ống góp V: Mạch máu

Bài 13. HỆ THỐNG SINH DỤC ĐỰC

Tinh hoàn (hình 95 – 96) Toàn thể dịch hoàn được bọc trong một bao liên kết sợi dày được gọi là màng trắng (tunica albuginea). Trong tiêu bản ta thấy có nhiều ống sinh tinh. Các ống sinh tinh cấu tạo bởi nhiều lớp tế bào nằm trên một màng đáy mỏng, bọc ngoài bởi những tế bào cơ - biểu mô (M).

Giữa các ống này là mô liên kết (CT) gọi là mô kẻ chứa tế bào sợi non (F), mạch máu thần kinh và một loại gian bào đặc biệt (tế bào Leydig) (L). Tế bào Leydig thường nằm thành từng nhóm hay có thể nằm đơn độc. Các tế bào này thường lớn tròn hay có nhiều cạnh, ăn màu sậm và có 1 nhân hình trứng nằm ở giữa.

Mỗi ống sinh tinh được bao quanh bởi một màng đáy mỏng, màng này là một tầng biểu mô sinh tinh gồm 2 loại tế bào: các tế bào dòng tinh và tế bào Sertoli(Sc). Đặc tính sắp xếp các loại này được thấy rõ nhất ở một ống sinh tinh cắt ngang.

Các tế bào Sertoli là những tế bào chống đỡ, thường mỏng manh, dài chiếm từ màng bao ngoài tới gần sát lòng ống. Tế bào chất thường có các khía dài. Nhân hình trứng, hơi có vẻ tam giác, nhuộm màu lợt.

Các tế bào dòng tinh gồm nhiều loại. Các tinh bào nguyên thủy (Sg) thường nằm sát màng đáy. Đó là những tế bào hình tròn với nhân hình cầu ăn màu tím sậm. Các tế bào này có khả năng phân bào để tạo ra các tinh bào nguyên thủy mới. Sau một thời gian tăng trưởng, một số sẽ biến thành tinh bào bậc I (Ps) nằm ở ngay trên lớp tế bào nguyên thủy. Nhân của chúng có nhiều dạng khác nhau vì nhiễm sắc chất ở nhiều trạng thái phát triển. Mỗi tinh bào I sẽ gián phân giảm nhiễm để tạo ra tinh bào II.

Tinh bào II thường nhỏ hơn tinh bào I, chúng phân bào ngay khi được thành lập và do đó thường rất ít thấy trong tiêu bản mô dịch hoàn. Mỗi tinh bào II sẽ phân ra thành 2 tiền tinh trùng (St). Tiền tinh trùng là những tế bào rất nhỏ thường nằm từng nhóm sát lòng của ống

Page 43: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

43

sinh tinh và sau đó sẽ biến hình thành tinh trùng (Lst). Tinh trùng thường thấy ở lòng ống, đầu ăn màu sậm và đuôi hướng vào lòng ống. Có thể thấy chất cặn bã do các tinh bào thoái hóa ở sát bên tinh trùng.

Hình 95. Tinh hoàn Hình 96. Tinh hoàn

Sg: Tinh nguyên bào L: Gian bào Leydig

Ps: Tinh bào bậc 1 Sc: Tế bào Sertoli

St: Tinh tử M: Tế bào cơ-biểu mô

Lst: Tinh trùng F: Tế bào sợi

Bài 14. HỆ THỐNG SINH DỤC CÁI

Buồng trứng (hình 97 – 102)

Ở thú trẻ, bề mặt buồng trứng được phủ bởi biểu mô khối đơn (mũi tên, E), lớp biểu mô này sẽ dẹp lại khi thú già. Dưới lớp biểu mô là màng trắng (A). Nhu mô buồng trứng gồm 2 vùng:

Sườn vỏ (C) là loại mô liên kết chứa các tế bào sợi non có hình thoi, giữa các tế bào này là vùng dày đặc các sợi lưới và sợi keo. Sườn của vùng tủy (M) là mô liên kết thưa chứa nhiều mạch máu (V) , đặc biệt ở vùng cuống buồng trứng.

Nhiều noãn bao ở các giai đoạn phát triển khác nhau nằm trong sườn của buồng trứng. Nhiều nhất là noãn bao nguyên thủy (P) nằm ở vùng vỏ, thường tập trung thành chùm. Các noãn bao này có cơ cấu nhỏ nhất và đơn giản nhất. Ở độ phóng đại lớn, ta thấy mỗi noãn bao nguyên thủy gồm một noãn bào và được bọc bằng một lớp tế bào phẳng. Mỗi noãn bào

Page 44: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

44

có một nhân lớn nằm hơi lệch về một phía. Xung quanh noãn bào có một màng trong suốt (mũi tên) bắt màu hồng nhạt.

Những noãn bao có kích thước trung bình là noãn bao bậc I. Chúng có thể có một lớp tế bào nang (UF) hay nhiều lớp tế bào nang (MF) bao quanh một noãn bào (O). Những cái lớn hơn loại này là noãn bao bậc II hay noãn bao tăng trưởng. Những cái nhỏ không có xoang, những cái lớn có xoang (A) lớn nhỏ tùy mức phát triển nên còn được gọi là noãn bao có hốc hay bao noãn tăng trưởng (SF). Các noãn bao này nằm ở phần sâu của vỏ và ngăn cách với sườn mô chung quanh bằng một màng bao gọi là màng bao noãn (TF).

Loại noãn bao lớn nhất có một xoang rộng chứa đầy chất nước màu hồng (A), đó là nang Graaf trưởng thành (GF). Tế bào noãn trưởng thành được bọc bởi các tế bào nang nhô vào trong dịch nang tạo nên một vùng gọi là đĩa trứng . Các tế bào nang bao quanh noãn bào tạo thành một lớp màng hạt (CR).

Một số noãn bao không trưởng thành, bị thoái hóa và được gọi là bao noãn chai.

Hình 97. Buồng trứng

Mũi tên: Biểu mô khối đơn A: Màng trắng

C: Vùng vỏ M: Vùng tủy

F: Nang noãn V: Mạch máu

Page 45: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

45

Hình 98. Buồng trứng

E: Biểu mô khối đơn Mũi tên: Màng trong suốt

P: Nang noãn nguyên thủy O: Noãn bào

UF: Nang noãn bậc 1 MF: Nang noãn bậc 1

Hình 99. Buồng trứng Hình 100. Buồng trứng

Page 46: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

46

Hình 101. Buồng trứng Hình 102. Buồng trứng

SF: Nang noãn bậc 2 GF: Nang noãn trưởng thành

A: Xoang CR: Màng hạt

Tử cung trước giai đoạn tiền động dục (hình 103 – 105)

Trong hình là một phần của vách tử cung cắt ngang và ở giữa là xoang của tử cung (L). Vách của tử cung gồm ba lớp: màng tương ở ngoài cùng (chỉ thấy được khi ta cắt đầy đủ các phần của vách), lớp cơ tử cung (M) và lớp trên là màng niêm (niêm mạc) (E) của tử cung. Màng niêm có thể được phân thành hai lớp: lớp hẹp ở dưới gọi là lớp căn bản (B) và lớp rộng trên mặt gọi là lớp chức năng (F).

Niêm mạc cấu tạo bởi biểu mô trụ đơn nằm bên trên lớp đệm mô liên kết. Tuyến tử cung (tuyến ống) nằm bên trong lớp đệm. Ở bề mặt tử cung, các tuyến này thường thẳng và không uốn éo, nhưng ở sâu dươí lớp niêm mạc thì các tuyến này xoắn lại. Ở phần sau của màng niêm, ta còn thấy các động mạch xoắn, phần trên chỉ có tĩnh mạch và mao quản. Mô liên kết giữa các tuyến có nhiều hơn biểu mô tuyến tử cung.

Cấu tạo chính của lớp cơ tử cung là những sợi cơ trơn, cách nhau bởi mô liên kết nằm theo đủ mọi chiều hướng. Trong lớp cơ cũng có nhiều mạch máu.

Hình 103. Tử cung Hình 104. Tử cung Hình 105. Tử cung

L: Xoang tử cung F: Lớp chức năng M: Lớp cơ

E: Lớp nội mạc B: Lớp căn bản

Page 47: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

47

Tử cung lúc tiền động dục và động dục (hình 106)

Trong lúc thú động dục, có những biến đổi xảy ra ở hầu hết vùng chức năng của niêm mạc. Lúc này lớp chức năng có thể được chia thành hai vùng:

- vùng rắn, hẹp, nằm ngay dưới lớp biểu mô, nơi này ít có phù thủng, các tuyến khá nhỏ và thẳng.

- bên dưới là lớp xốp rất rộng và có các biến đổi như sau: lớp mô liên kết niêm mạc dày lên, phần lớn là do lượng dịch chất tiết tăng và các tuyến tử cung lớn ra, uốn cong queo. Lòng tuyến dãn ra và chứa đầy chất tiết. Những tế bào tuyến thấp và lớn chiều ngang. Ở giai đoạn này, các động mạch xoắn thấy xuất hiện ở khắp vùng niêm mạc.

Tử cung giai đoạn sau động dục (hình 107)

Trong giai đoạn này tuyến tử cung dãn ra, mạch máu giảm xung huyết , niêm mạc có cấu tạo thành 2 lớp: mô đặc (C ) và mô xốp (S).

Hình 106. Tử cung Hình 107. Tử cung

F: Lớp chức năng C: Lớp mô đặc

B: Lớp căn bản S: Lớp mô xốp

Page 48: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

48

Bài 15. DA

Da (hình 108 – 112)

Bên ngoài da là lớp biểu mô lát kép hóa sừng rất mạnh (E). Có thế thấy vết tích của một lông bị cắt ngang (H). Lớp biểu mô thường lồng vào mô liên kết tạo thành nhú biểu bì (EP) và nhú chân bì (DP).

Tận cùng của biểu mô là lớp mầm (B) gồm những tế bào trụ hay khối đơn nằm trên màng đáy. Kế là lớp tế bào gai (S) , lớp tế bào dẹp (G) và những tế bào sừng hoá. Lớp sừng (C) phía trên dày hay mỏng tùy vị trí của da.

Lớp bì (D) ở ngay sát dưới biểu mô tạo bởi mô liên kết thưa và dày có nhiều mạch máu, mạch bạch huyết, dây thần kinh.

Lớp hạ bì (Hy) cấu tạo bởi mô liên kết thưa và một số tế bào mỡ bên trong.

Các nang lông nhiều và nằm san sát nhau. Các tuyến bã (S) có hình túi, tập hợp các tế bào bắt màu lợt và có ống dẫn.

Cơ dựng lông (APM) là cơ trơn, bắt nguồn từ lớp bì và đi vào trong lớp bao liên kết của nang lông.

Các tế bào tiết và ống dẫn của tuyến mồ hôi (Sg) nằm ở vùng mô liên kết chung quanh. Các tế bào tiết lớn hơn và bắt màu lợt hơn tế bào ống dẫn.

Cũng có thể quan sát thấy các dây thần kinh (N).

Hình 108. Da Hình 109. Da

D: Lớp bì APM: Cơ dựng lông

S: Tuyến bã nhờn Sg: Tuyến mồ hôi

Hy: Hạ bì

Page 49: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

49

Hình 110. Da

C: Lớp sừng G: Lớp tế bào dẹp

S: Lớp tế bào gai B: Lớp tế bào đáy

EP: Nhú biểu bì DP: Nhú chân bì

Hình 111. Da Hình 112. Da

E: Biểu mô lát kép hóa sừng Sg: Tuyến mồ hôi

H: Nang lông Sg: Tuyến mồ hôi S: Phần chế tiết

S: Tuyến bã nhờn N: Dây thần kinh D: Phần bài xuất

Page 50: MỤC LỤC - d  · PDF fileđúng có thể đưa tới kết quả và kết luận không chính xác cũng như làm cho mắt mau mỏi

50

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Irwin Birman, 1993. Color Atlas of Basic Histology. Nhà xuất bản Appleton & Lange, Norwalk, Connecticut, USA.

2. William J. Bacha & Linda M. Bacha, 2000. 2nd edition. Nhà xuất bản Lippincott Williams & Wilkins, USA

3. Ownby C, 1999. Histology, http://www.cvm.okstate.edu

4. http://www.calnet/vetrep

5. http://udel.edu