n i thi n n - kinhsamthatson.files.wordpress.com · niên như điển, nguyệt như thoi, vần...

22
Sm Truyền Đức Pht Thy Tây An cho biết cui HNguơn gn ngày Tn Thế Hi Long Hoa scó mt Người Thin Nhc hành chưa thông dt chviết không rành văn tng khu thuyết pháp lthiên cơ; Sm Kim CKQuan ca ông Ba Nguyễn văn Thới tiên tri cui HNguơn sẽ có mt vBTát vi hành trng dkxưng Đức Cu; Sm Ging Đức Hunh Giáo Chtiên tri cui HNguơn sẽ có vBTát mượn xác N{Hng Nga}. Nay Thin Tnh Bửu Sơn Sydney đăng bài Tự Thuật do Đức Cu Bần Sĩ Vô Danh ng khu thuyết nói vhành trng của Đức Ngài. Để biết rõ hơn về hành trạng Người Thin Nxưng Đức Cu Bần Sĩ Vô Danh, mi quý vđạo hữu đọc thêm bài “Đức Hunh Giáo Chtrvề” đăng trên trang Blog Kinh Sm Tht Sơn & trang facebook Mõ Tre.

Upload: others

Post on 13-Sep-2019

9 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An cho

biết cuối Hạ Nguơn gần ngày Tận Thế

Hội Long Hoa sẽ có một Người Thiện

Nữ học hành chưa thông dốt chữ viết

không rành văn tự ứng khẩu thuyết pháp

lộ thiên cơ; Sấm Kim Cổ Kỳ Quan của

ông Ba Nguyễn văn Thới tiên tri cuối Hạ

Nguơn sẽ có một vị Bồ Tát với hành

trạng dị kỳ xưng Đức Cậu; Sấm Giảng

Đức Huỳnh Giáo Chủ tiên tri cuối Hạ

Nguơn sẽ có vị Bồ Tát mượn xác Nữ

{Hằng Nga}.

Nay Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney

đăng bài Tự Thuật do Đức Cậu Bần Sĩ

Vô Danh ứng khẩu thuyết nói về hành

trạng của Đức Ngài.

Để biết rõ hơn về hành trạng Người

Thiện Nữ xưng Đức Cậu Bần Sĩ Vô

Danh, mời quý vị đạo hữu đọc thêm

bài “Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về”

đăng trên trang Blog Kinh Sấm Thất

Sơn & trang facebook Mõ Tre.

Niên như điển, nguyệt như thoi,

Vần xây thế giới luân hồi chẳng chơi.

Có Người Thiện Nữ truyền lời,

Nhứt vân thiên lộ máy trời thinh thinh. ……………………………………………………………

Non đoài giữ dạ tín thành,

Thầy cho CƯ SĨ học hành chưa thông.

Anh em ai có phục tòng,

Theo TÔI học đạo phải dùng tai nghe. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 103 & 109,

lưu ở đình Tòng Sơn năm 1849, Nguyễn văn Hầu

biên khảo ấn tống năm 1973)

Đức Thầy tái thế mượn xác Người

Thiện Nữ học hành chưa thông, dốt viết

không rành văn tự, xưng Đức Cậu Bần Sĩ

Vô Danh dụng thần thông ứng khẩu thuyết

pháp thiên cơ đạo lý thao thao bất tuyệt, ai

muốn theo Ngài học đạo phải dùng tai

nghe. Thời đại văn minh có phương tiện

máy ghi âm cassette, băng đĩa… Khi Bồ

Tát thuyết, bạn đạo dùng máy ghi âm đưa

lên trang mạng quảng bá rộng rãi cho bá

tánh nghe. (Cuc Nguyen đăng những mp3

trên youtube do Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh

ứng khẩu thuyết)

Thơ xướng. (Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940)

Khen ai cắc cớ bấm trời tây, *

Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày. *

Một phiến linh đinh trôi mặt biển,

Nửa vừng lửng đửng dán trên mây.

Cá ngờ câu thả tơi bời lội,

Chim tưởng cung trương sập sận bay.

Nên một nên hai còn bé tuổi,

Mười lăm mười bảy bốn phương hay.

Thơ họa. (Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1940)

Mây hồng năm sắc ở phương Tây,

Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày. * Ô Kim=Kim Ô

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, là mặt trời

Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây.

Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội,

Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay.

Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi, Thức giấc đời mê phải được hay.

Trong bài thơ xướng, cụm từ cắc cớ có cái lý

đặc biệt là Đức Thầy tái thế thay vì như xưa nhiều

lần mượn xác Nam, thì nay cắc cớ mượn xác Nữ,

khiến phần đông bổn đạo không thể nào ngờ,

không dè, mượn xác Cô mà tại sao xưng Cậu?

{Kim Ô mà nói đảo ngược là Ô Kim}. Vì vậy họ

lo sợ Ngài là tà ma và xa lánh, ví như cá sợ mắc

lưỡi câu và chim sợ cung tên bắn.

Cá ngờ câu thả tơi bời lội,

Chim tưởng cung trương sập sận bay.

Những chữ cá chim là những từ ám chỉ người

trong bổn đạo. Vì nghịch cảnh, tà ma lộng hành,

cắc cớ Đức Thầy về phải mượn xác nữ nhằm tạo

điều kiện tiếp cận người đạo, nhưng lại khiến

người đạo vô cùng bàng hoàng lo sợ, không những

họ tránh xa Ngài, mà họ còn chê bai, khinh bỉ nhún

trề…Chỉ có những ai đại căn mới hiểu được

chuyện cắc cớ này! Đây là cơ sàng lọc tuyển chọn:

Chấp tướng chấp danh là rớt!

Cụm từ “pháo nổ lầu đài” ám chỉ tòa tháp đôi

WTC & Ngũ Giác Đài ở Mỹ bị quân khủng bố al

Qaeda đánh sập ngày 11-9-2001, chết 3000 người,

dân Mỹ & châu Âu hoảng sợ kinh hoàng.

Thầy TIÊN môn đệ tục, Tiên Trưởng

Đạo chánh tín đồ tà;

Cha hiền sanh con dữ,

Tức bụng chị HẰNG NGA. HẰNG NGA bóng vẫn sáng,

Mặc dù nhiều mây áng;

Khi ngọn gió thổi qua,

Ánh TRĂNG huờn tỏ rạng.

Tỏ rạng là ánh TRĂNG,

Mây không thể cản ngăn;

Cản ngăn chỉ phí sức,

Không thắng nổi CHỊ HẰNG.

CHỊ HẰNG soi thế gian,

Cho kẻ tối thấy đàng;

Không vì câu danh lợi,

Vạn cổ vẫn minh quang.

Minh quang tánh của TRĂNG,

Như minh quang đạo HẰNG;

Khoảng thế gian càng tối,

Ánh quang minh càng tăng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr.132, Bồ Tát Thanh

Sĩ viết ở Tokyo ngày 10-6-1964)

Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược,

Bịnh căn vô dược được thọ trường.

Dị thế dị thường tường dị lộ,

Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời.

Dị cư dị thời lời dị thuyết,

Dị đoan dị tiếc kiết dị minh.

Dị sự dị ninh linh dị pháp,

Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.

Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu,

Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.

Phép phép linh linh ninh quốc sự,

Nhơn dân vô lự tự an khương.

An quốc an Vương khương thới nhạc,

Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô. (Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn

Thới viết năm 1915)

Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế

và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát xưng

ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc

điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị thuyết, dị pháp,

dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị

đoan tà giáo, nhưng mà có phép mầu dị linh

khiến người dân được an khương thời Di Lạc

Phật Vương sắp tới. Thánh địa Di Lạc ở miền

Nam VN.

Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời

ma chướng hoành hành; Dị thường là Bồ Tát có

hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng

là Đức Cậu; Dị thuyết là thuyết pháp khác

thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi

rao giọng lôtô; Dị pháp là pháp khác thường, kỳ

lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh

nhiệm mầu khó nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết

pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng

khùng điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ

Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư

thực thực… Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức

Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu nhiệm.

Dị sự dị ninh linh dị pháp,

Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.

Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, *

Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.

Phụ lục: Minh họa hành trạng Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ trở về.

Tưởng rằng CẬU ở lầu son,

Con tìm gặp CẬU thon von châu mày.

Tưởng rằng CẬU ở lầu đài,

Ai dè CẬU tợ ăn mày tả tơi.

Tưởng rằng CẬU ở ngôi trời,

Xác thân đẹp đẽ tuyệt vời xa xa.

Ai ngờ như quỷ như ma,

Nói đây đồng đạo cả nhà mến thương.

Tưởng rằng CẬU ở tòa chương,

Đâu ngờ CẬU lại phơi xương biển hồ.

Tưởng rằng má phấn đắp tô,

Ai dè ngó CẬU trầm trồ biết bao !

Ăn xin thân phận ngạt ngào,

Xin ân xin đức đồng bào ráng cho.

Xin Thầy độ bữa cơm no,

Thân Này khổ sở biển gò sang qua.

Tưởng rằng CẬU ở cung nga,

Dè đâu không cửa không nhà dân ơi.

Tưởng rằng CẬU đã ngao chơi,

Dè đâu vâng lịnh ngôi Trời phải lâm.

Tưởng rằng đeo đẳng vàng râm,

Ai dè CẬU lại giả câm giả khùng.

Tưởng rằng CẬU lại anh hùng,

Dè đâu CẬU khổ Cậu khùng ngày nay.

Bá gia bá tánh an bài,

Nhắc cho đồng đạo ngày nay đặng nhờ.

Tưởng rằng CẬU hãy tôn thờ,

Ai dè trôi dạt bên bờ sông dương.

Thôi thôi từ giã muôn đường,

CẬU cười ba tiếng dân nhường cùng nhau.

Cười rằng cơm đói cháo rau,

Một ngày một bữa chùi lau vui vầy.

Cười rằng mất chức mất thầy,

Mất nhà mất cửa giờ này tan hoang.

Cười rằng dân chúng trần gian,

Thật là ngu muội giang san trôi rồi.

Cười rằng dân chúng ôi thôi,

Tại đời bạc bẽo như vôi kia kìa.

Cười rằng dân tộc rẽ chia,

Cười rằng không thức canh khuya sưu tầm.

Cười rằng dân chúng còn lầm,

Lầm TA xuống thế tay cầm ngọc châu.

Lầm TA ở chốn đảnh đầu,

Dè đâu mượn xác công hầu bày khai.

Lầm TA lại hỡi con trai, *

Hay là con gái ngày mai rồi tường.

Lầm TA phải chịu oan ương,

Nói đây cô bác đoạn trường biết bao !

Ô Kim - Cậu hồn Nam

Hằng Nga - Cô xác Nữ

Để hiểu rõ hơn cụm từ Hằng Nga

& Ô Kim, mời quý vị đọc thêm bài

xướng họa Hằng Nga của Đức

Huỳnh Giao Chủ.

Thôi thôi kính chúc đồng bào,

Buổi chiều CẬU nói ngạt ngào vô biên.

Ở đây kính chúc đạo hiền,

Chúc cầu anh chị bốn miền âu lo.

Thôi thôi đừng sợ đói no,

Ráng tu ráng sửa qua đò nay mai.

Biết rằng đời tục không lai,

Đời Tiên gần đến nay mai rồi tường.

Thôi nghe CẬU ráng nhẫn nhường,

Nhẫn người qua được đoạn đường thoát nguy.

Nhường người mở lối ta đi,

Đừng sợ ai có khinh khi chi mình.

Cứ tu CẬU lại cầu xin,

Cầu xin cho chúng rửa mình sạch trong.

Đừng tưởng CẬU ở non bồng,

Cậu ở dưới thế toại lòng cùng nhau.

Tu xin bá tánh ngạt ngào,

Gởi thơ thăm hết đồng bào bốn phương.

Thôi thôi bút mục phô trương,

Khùng Điên tỏ hết đoạn trường canh thâu.

Nói ra bút mực đôi câu,

Gởi cùng Bần Sĩ ngõ hầu tâm nao.

Kính thưa anh chị Kinh Đào,

Buổi chiều CẬU viếng đồng bào CẬU thăm.

Thấy người cũng được thâm tâm,

Vui mừng CẬU lại nhiều năm tuyệt vời.

Nay mai CẬU sẽ xa vời,

Giã từ đồng đạo đôi lời cậu khuyên.

Giã từ ĐỨC CẬU Khùng Điên,

Đặng mà CẬU lái con thuyền ra đi.

Giã từ đôi khúc ai bi,

Chừng nào trở lại ra thi bớ trò.

Thi rằng nơi chốn ráng lo,

Ráng lo cầu nguyện CẬU cho sau này.

Ráng cầu nguyện Phật nguyện Thầy,

Đặng CẬU về tới sửa xây cho mình.

CẬU đi bá tánh chúng sinh,

Không cầu đi mãi rung rinh cửa trời.

Giã từ đồng đạo nơi mơi,

Cậu đi nơi khác tuyệt vời kính khuyên.

Giã từ đồng đạo vô biên,

Đến thăm một chút sĩ hiền rõ chưa ?

Rõ rồi sớm muối chiều dưa,

Rõ rồi ĐỨC CẬU mới đưa thơ đề.

Rõ rồi ĐỨC CẬU mới về,

Rõ rồi ĐỨC CẬU mới kề thi văn.

Giã từ sự khổ khó khăn,

Lui thuyền trở lại sáng trăng trong lòng.

CẬU về nơi cõi rừng tòng,

Hay là ven biển mênh mông đại ngàn.

Thuyền kia qua lại rước ngang,

Thôi thôi từ giã đạo tràng bình yên.

Chúc cho bá tánh thị thiềng,

Thật là vô lượng vô biên chỗ này. (trích mặt B băng cassette ghi âm Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết pháp ở Kinh Đào, kết tập sách Phật Di Lạc

Giáng Thế tr. 119-123, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1998)

Sydney, 17-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/