ĐẢng bỘ thÀnh phỐ hỒ chÍ minh lÃnh ĐẠo cÔng tÁc …hcma.vn/uploads/2018/4/8/la _...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ KIM NINH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ KIM NINH
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN DANH TIÊN
2. TS. HỒ XUÂN QUANG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Trần Thị Kim Ninh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Những công trình liên quan đến đề tài luận án 7
1.2. Những vấn đề các công trình khoa học đã đề cập và những vấn đề đặt
ra luận án cần tập trung giải quyết 23
Chương 2: CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI
SẢN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ
NĂM 1998 ĐẾN 2005 26
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa 26
2.2. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa những năm 1998 - 2005 54
Chương 3: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014 79
3.1. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa 79
3.2. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa 89
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 117
4.1. Nhận xét 117
4.2. Một số hạn chế 134
4.3. Một số kinh nghiệm 140
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 171
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DSVH : Di sản văn hóa
UBND : Ủy ban Nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Số lượt khách đến tham quan các bảo tàng 74
Bảng 2.2: Số cuộc trưng bày triển lãm 74
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, gắn kết cộng đồng dân tộc. Di sản văn hóa (DSVH) là minh chứng về lịch
sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, giúp cho thế hệ sau hiểu sâu sắc
cội nguồn của dân tộc và truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hóa của đất nước,
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Vì vậy, việc giữ
gìn, bảo tồn DSVH là trách nhiệm của cộng đồng, thể hiện lòng tri ân tiền nhân,
đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đây cũng là nguồn lực vô cùng quý báu, góp
phần xây dựng và phát triển đất nước.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH đã có truyền thống lâu đời
và nhận được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước. Ngay sau Cách mạng
Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ba tháng sau (ngày 23/11/1945),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL, ấn định nhiệm vụ cho Đông
phương Bác cổ học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả các cổ tích trong toàn cõi Việt
Nam. Sắc lệnh nêu rõ: “Việc bảo tồn cổ tịch là việc rất cần thiết trong công cuộc
kiến thiết nước Việt Nam” [174].
Trong giai đoạn hiện nay, nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân
hết sức quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dân tộc, coi
đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm không chỉ của ngành văn hóa mà
còn là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Di sản văn hóa dân tộc được Đảng xác định là “tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới
và giao lưu văn hóa” [44, tr.63]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm
2006), Đảng tiếp tục nhấn mạnh vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa:
2
Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng,
kháng chiến, các DSVH vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị
văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các
dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài
hóa việc bảo vệ, phát huy các giá trị DSVH với các hoạt động phát
triển kinh tế du lịch [46, tr.91].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng khẳng định: Phát triển
sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các DSVH truyền thống,
cách mạng. Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân
thật, sâu sắc lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái
đúng, cái đẹp, đồng thời, lên án cái xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm
túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH vật thể và phi vật thể của dân tộc.
Giống như các địa phương khác trên cả nước, tại Thành phố Hồ Chí Minh,
vấn đề nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH cũng được Thành ủy,
Ủy ban Nhân dân (UBND) Thành phố quan tâm chỉ đạo thực hiện.
Là một thành phố trẻ, năng động mới qua 300 tuổi, nhưng thực tế tuổi
đời của vùng đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh lên đến 3000 năm.
Biết bao giá trị DSVH đã được kết tinh và thăng hoa từ hàng nghìn năm
đến hàng trăm năm trước còn ẩn chứa trong lòng và hiện diện trên
mảnh đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh [67, tr.6].
Trong quá trình hình thành và phát triển, bên cạnh việc lưu giữ những giá
trị văn hóa cội nguồn, Thành phố đã sớm tiếp nhận và thích ứng nhanh với văn
hóa của mọi miền đất nước để hình thành nên những nét văn hóa đặc thù của
người Việt ở mảnh đất phương Nam. Hiện nay, cùng với tốc độ đô thị hóa và xu
thế giao lưu hội nhập quốc tế, trên lĩnh vực văn hóa nhiều vấn đề đặt ra cho
Thành phố những câu hỏi lớn: Làm thế nào để “xây dựng nền văn hóa tiên tiến
song vẫn giữ được bản sắc dân tộc? Làm thế nào để tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
3
văn hóa nhân loại trước xu thế toàn cầu hóa?... Làm thế nào để giữ gìn, bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH của dân tộc?... Đó chính là định hướng, đồng thời cũng
là trách nhiệm của các ngành, các cấp và toàn xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của DSVH đối với sự phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ Thành phố
lãnh đạo các cấp, các ngành bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, công tác bảo tồn, phát huy các
giá trị DSVH còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, tổng kết công tác lãnh đạo,
khái quát những thành tựu, chỉ ra hạn chế và bước đầu đúc kết một số kinh
nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn.
Vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá từ năm
1998 đến năm 2014" làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố. Bước đầu đúc kết một
số kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ Thành phố lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quá trình hoạch định chủ trương và thực tiễn chỉ đạo
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 1998 đến năm 2014.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
4
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH gồm nhiều nội dung, luận
án chỉ tập trung nghiên cứu: công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lịch sử
(DTLS) văn hóa, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật
thể, công tác bảo tồn, bảo tàng.
- Về thời gian: Từ năm 1998 đến năm 2014. Năm 1998, Hội nghị lần thứ
năm (khóa VIII) Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm 2014,
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ra Nghị quyết
Về xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước. Đây cũng là giai đoạn thực hiện Chương trình hành động
số 19 của Đảng bộ Thành phố về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
- Về không gian: Nghiên cứu công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích các yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ
Chí Minh trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của Thành phố.
- Hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
và chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH.
- Phân tích, làm rõ chủ trương và quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến
năm 2014.
- Nêu ra những nhận xét về những thành tựu, hạn chế; bước đầu đúc kết
một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cở sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp
luận biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
5
điểm của Đảng về văn hóa nói chung và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và lôgic nhằm dựng lại bức
tranh chân thực về quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Bên cạnh đó là các phương pháp: phương pháp phân tích, tổng hợp các số
liệu, tài liệu, kết quả điều tra xã hội học để làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn
thành phố từ năm 1998 đến năm 2014. Trên cơ sở đó, khái quát hóa, tổng hợp hóa
nhằm đưa ra các nhận định khách quan, khoa học về những thành tựu, hạn chế và
tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn.
Phương pháp thống kê: thống kê, phân tích số liệu từ các Báo cáo của các
cơ quan chức năng (UBND Thành phố, Sở Văn hóa - Thể thao Thành phố Hồ Chí
Minh, Sở Du lịch, Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh...).
Ngoài ra, luận án kết hợp sử dụng phương pháp điền dã để nghiên cứu và
trình bày luận án.
5.3. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu được sử dụng gồm các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Chính
phủ, các ban, bộ, ngành Trung ương; văn kiện của Đảng bộ, chính quyền Thành
phố về văn hóa và công tác bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH; các báo cáo của
Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Sở Du lịch), Viện
Nghiên cứu phát triển Thành phố và các công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến đề tài luận án.
6. Đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH (1998 - 2014); từ đó, rút ra những nhận xét, kinh
6
nghiệm qua thực tiễn lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của
Đảng bộ Thành phố.
- Góp phần nghiên cứu lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trên lĩnh
vực văn hóa, đặc biệt là công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp luận cứ, phục vụ công tác
tham mưu của các đơn vị chức năng trong việc đề xuất chủ trương, chính sách,
xây dựng kế hoạch, chương trình đối với công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn tiếp theo, nhằm giải
quyết hài hòa các mối quan hệ: bảo tồn và phát triển; phát triển kinh tế gắn với
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, tạo động lực cho sự phát triển bền vững
của Thành phố.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu chung về văn hóa, di sản văn hóa
Ở góc độ lý luận chung về văn hóa, các tác giả nước ngoài có một số
công trình khảo luận về văn hóa như: Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin do
Acnônđốp A.I [2].
Ở phương Tây, có công trình tiêu biểu như: Thập kỷ thế giới phát triển văn
hóa của Ủy ban quốc gia về Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa
Thông tin và Thể thao ấn hành [195]; Sự va chạm của các nền văn minh của
Samuel Huntingtong [124]; Cuốn sách Nghiên cứu văn hóa - Lý thuyết và thực
hành của Chris Barker [25].
Tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam của Trường Chinh [23].
Cuốn sách đề cập đến lập trường văn hóa mác xít; về ưu, nhược điểm của nền văn
hóa Việt Nam; về mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội; đồng thời, làm sáng tỏ nội
dung của Đề cương về văn hóa Việt Nam và khẳng định vai trò to lớn của văn hóa
trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước.
50 năm bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, Kỷ yếu hội thảo khoa học thực tiễn
kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bảo tồn di sản văn hóa
dân tộc (23/11/1945 - 23/11/1995) của Lưu Trần Tiêu và các cộng sự [176]. Cuốn
sách là tập hợp những tham luận, báo cáo trình bày trong Hội thảo khoa học thực
tiễn nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh bảo tồn
DSVH dân tộc (23/11/1945 - 23/11/1995).
Phạm Minh Hạc, Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc
kết hợp với tinh hoa nhân loại [65]. Cuốn sách đã nêu ra một số khái niệm cơ bản
về văn hóa, văn minh; đánh giá vai trò của văn hóa, văn minh và tác phong công
nghiệp; khẳng định vai trò của văn hóa trong việc giáo dục con người Việt Nam;
8
đồng thời, nêu rõ sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
vai trò của văn hóa trong cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình".
Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc của Hoàng
Vinh [200]. Trên cơ sở những quan niệm DSVH của quốc tế và Việt Nam, tác giả
đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH, đồng thời bước đầu vận dụng vào việc
nghiên cứu DSVH ở nước ta.
Những quy định pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa do Nguyễn Thanh Bình
[18]. Cuốn sách gồm các văn bản quy định chung về lễ nghi, lễ hội, hội diễn nghệ
thuật, xây dựng nếp sống mới. Quy định về nghệ thuật dân gian, điện ảnh dân tộc,
quy định về hương ước, quy ước, làng bản, thôn, ấp, bảo vệ văn hóa các dân tộc
thiểu số. Quy định về bản quyền tác giả.
Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc của Phạm Mai Hùng [81].
Cuốn sách phân tích vai trò của hệ thống các bảo tàng Việt Nam trong việc bảo
tồn DSVH dân tộc; công tác bảo tồn các DSVH dân tộc; công tác bảo tồn của di
tích lịch sử - văn hóa cũng như các tác phẩm và hiện vật lịch sử Việt Nam; đề
xuất một số giải pháp xã hội hóa các hoạt động bảo tồn bảo tàng.
Luật tục với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống một số
dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam của Hoàng Lương [97]. Tác giả phân tích khái niệm
chung về luật tục; vai trò của luật tục với việc bảo tồn các quan hệ xã hội và phát
huy các giá trị văn hóa, văn hóa tinh thần, bảo đảm đời sống tinh thần của một số
dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam.
Một con đường tiếp cận di sản văn hóa của Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Quốc
Hùng và Nguyễn Hữu Toàn [178]. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu, bài viết
của các cán bộ chuyên môn trong Cục DSVH, Bộ Văn hóa - Thông tin, bàn về vấn
đề bảo vệ và phát huy các giá trị DSVH Việt Nam; xác lập cơ sở khoa học, phổ
biến các quan điểm chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thực tiễn của ngành và vấn đề
xây dựng cơ sở lý luận cho ngành khoa học mới - ngành bảo tàng học.
Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Cục Di sản văn hóa [29]. Cuốn sách
giới thiệu một số văn bản pháp quy về bảo vệ DSVH phi vật thể. Bên cạnh đó là
9
những vấn đề lý luận về bảo vệ DSVH phi vật thể và những kinh nghiệm của
Việt Nam và quốc tế trong bảo vệ DSVH phi vật thể.
Di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam - Những hiện vật truyền thống và
đương đại của Cục Di sản văn hóa [30]. Cuốn sách giới thiệu tập sách ảnh về
DSVH các dân tộc Việt Nam, những hiện vật truyền thống và đương đại.
Năm 2007, với tư cách một nhà nghiên cứu lâu năm về DSVH, Nguyễn Chí
Bền viết bài nghiên cứu Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện nay
[14]. Bài báo đi sâu về nghiên cứu, phân tích cách thức bảo tồn văn hóa phi vật thể
giai đoạn hiện nay.
Ngô Phương Thảo với bài viết Bảo vệ di sản, cuộc chiến từ những góc nhìn
[165]. Bài viết đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Tác giả cho rằng:
Mỗi ngày, di sản văn hóa càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ
những hệ lụy của cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách
nhiệm phải gìn giữ các giá trị văn hóa đã tồn tại với thời gian càng lan
tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, trong mỗi cộng đồng để dẫn tới những
chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn trong việc gìn giữ các
giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể [165].
Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam của Dương Văn Sáu
[125]. Giáo trình đề cập đến những vấn đề chung về DSVH, hệ thống di tích lịch
sử - văn hóa Việt Nam; những đặc điểm chung liên quan, ảnh hưởng đến hệ thống
di tích lịch sử - văn hóa Việt Nam trong hoạt động du lịch; những loại hình di tích
khảo cổ, loại hình di tích lịch sử, loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật, loại hình
danh lam thắng cảnh...
Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển của Nguyễn Đình Thanh [151]. Cuốn
sách tập hợp những bài nghiên cứu giới thiệu về hoạt động bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa ở Việt Nam; mối quan hệ giữa DSVH và du lịch; một số kinh nghiệm
bảo tồn DSVH của một số quốc gia trên thế giới.
Công trình khoa học: Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập do Ngô Đức Thịnh [169]. Cuốn
10
sách đã phân tích những giá trị tiêu biểu mang đặc sắc riêng có của văn hóa truyền
thống Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tiêu
biểu của văn hóa truyền thống Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đổi mới và hội nhập quốc tế.
Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch (dành cho sinh viên
đại học và cao đẳng các trường văn hóa - nghệ thuật) của Lê Hồng Lý [99]. Giáo
trình cung cấp những kiến thức cơ bản về một số vấn đề liên quan đến văn hóa,
DSVH, du lịch, du lịch văn hóa và những sản phẩm du lịch văn hóa. Nội dung,
nguyên tắc, quy trình tổ chức quản lý các DSVH nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch.
Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển, chuyên đề kiến trúc của Nguyễn Đình
Thanh [152]. Cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu về di sản kiến trúc, hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các di sản này. Tiếp cận một số kinh
nghiệm bảo tồn di sản kiến trúc của một số quốc gia trên thế giới.
Quản lý di sản văn hóa, Giáo trình dùng cho sinh viên cao đẳng và đại học
ngành quản lý văn hóa của Nguyễn Kim Loan [93]. Giáo trình trình bày một số
vấn đề liên quan đến lý luận DSVH; vai trò của DSVH trong phát triển xã hội;
giới thiệu một cách hệ thống về quản lý nhà nước về DSVH, các kỹ năng nghiệp
vụ quản lý DSVH, kỹ năng khai thác các giá trị của DSVH dân tộc...
Di sản văn hóa Việt Nam - bản sắc và những vấn đề về quản lý, bảo tồn của
Nguyễn Thịnh [170]. Cuốn sách trình bày đối tượng, nội dung, nhiệm vụ, phương
pháp nghiên cứu DSVH và các khái niệm về bảo tồn phát huy giá trị, chức năng,
phân loại, quản lí, tư liệu hóa... DSVH.
Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam của Phạm Duy Đức [55]. Giáo trình phân tích khái niệm về văn hóa học,
những vấn đề về nhận thức quan điểm, đường lối văn hóa của Đảng và lý giải
những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh trong đời sống văn hóa dân tộc.
Công trình Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh [3]. Trên cơ sở
quan điểm: “Ta muốn trở nên một nước cường thịnh, vừa về vật chất, vừa về tinh
thần thì phải giữ văn hóa cũ (di sản) làm thể (gốc, nền tảng), mà lấy văn hóa mới
làm dụng nghĩa là phải khéo điều hòa tinh tuý của văn hóa phương Đông với
11
những điều sở trường về khoa học và kỹ thuật của văn hóa phương Tây”, tác phẩm
này là một trong những công trình quan trọng nhất của học giả Đào Duy Anh.
Với quan niệm “văn hóa là sinh hoạt”, tác giả đã bao quát các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, xã hội và trí thức; do đó, tác giả đã tóm tắt, phác họa và minh
định được ở chừng mực nào đó lược sử văn hóa của người Việt như một dân
tộc, một văn hóa. Hơn thế, ông còn chỉ ra cả những biến đổi của văn hóa Việt
Nam giai đoạn Âu hóa, với sự rạn vỡ hoặc biến đổi của những giá trị cũ và sự
lên ngôi của những giá trị mới. Tác phẩm được Nhà xuất bản Thế giới tái bản
năm 2014.
Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam của Trương Quốc Bình
[17]. Cuốn sách tuyển tập và giới thiệu các bài viết của tác giả về bảo vệ và phát
huy các giá trị DSVH Việt Nam: bảo vệ và phát huy giá trị các DSVH vật thể và
phi vật thể; những kiến giải về vai trò của các bộ sưu tập hiện vật trong quá trình
chuẩn bị xây dựng và tổ chức hoạt động của các bảo tàng ở Việt Nam; sắc thái văn
hóa của các địa phương trong phát triển và du lịch cùng những kỷ niệm về những
con người và địa danh mà tác giả đã từng tiếp xúc và đi qua.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam của Nguyễn Kim Loan [94].
Cuốn sách đã làm rõ những nội dung: (1) Khái quát những vấn đề lý luận về
DSVH, như khái niệm, đặc trưng, tiêu chí phân loại DSVH; phân tích, đánh giá
vai trò của DSVH trong sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay; (2) Khảo sát và mô
tả khái quát, đánh giá hệ thống DSVH dân tộc Việt Nam để thấy rõ những giá trị
nổi bật của nó; (3) Phân tích những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về DSVH; (4) Mô tả những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể trong quản
lý, bảo tồn và phát huy các giá trị của DSVH.
Phát triển văn hóa - sức mạnh nội sinh của dân tộc trong điều kiện kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế do Phùng Hữu Phú [118]. Đây là công trình nghiên
cứu của tập thể các nhà khoa học, đánh giá một cách khách quan, toàn diện những
cơ sở lịch sử, lý luận và thực tiễn để khẳng định vai trò của văn hóa là sức mạnh
nội sinh quan trọng của dân tộc trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước;
12
đánh giá và nhận thức lại thành tựu và những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình
xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, CNH,
HĐH (từ năm 1996 đến năm 2015); đề xuất hoàn thiện quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu, nhiệm vụ, những giải pháp có tầm chiến lược và tính đột phá trong việc xây
dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.
Bước sang thế kỷ XXI, đặc biệt là từ khi Luật Di sản văn hóa được Quốc
Hội thông qua năm 2001 và Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế, một số DSVH
vật thể và phi vật thể của Việt Nam được UNESCO vinh danh. Theo đó, Cục Bảo
tồn, bảo tàng được đổi thành Cục Di sản văn hóa, nhiều công trình nghiên cứu
được đăng tải trên các tạp chí, như: Tạp chí Di sản văn hóa (Cục Di sản văn hóa),
Tạp chí Thế giới di sản (Hội Di sản văn hóa), Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa của
Viện Nghiên cứu Văn hóa (Bộ Văn hóa - Thông tin).
Những công trình nghiên cứu chung về văn hóa, DSVH đã đi sâu nghiên
cứu về lý luận văn hóa, DSVH, những đặc điểm của các loại hình di sản và vấn
đề quản lý di sản trong xu thế mới; nhấn mạnh đến tính thời đại và nhu cầu của
con người trong việc khai thác, bảo tồn và phát triển bền vững các DSVH. Mặt
khác, các công trình này cũng kết hợp việc nghiên cứu di sản cùng với các môn
khoa học khác, như: Lịch sử, Nghiên cứu văn hóa, Giải trí và Du lịch, Nghệ
thuật và Địa lý… Tuy nhiên, các công trình khoa học trên chưa đi sâu nghiên
cứu về quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa trên phạm vi cả nước
Tìm hiểu di sản văn hoá dân gian Hà Nội của Trần Quốc Vượng, Nguyễn
Vinh Phúc và Lê Văn Lan [203]. Cuốn sách bao gồm tổng luận về các nghề thủ
công mỹ nghệ, làng nghề, phố nghề, dòng họ văn hiến, món ăn cổ truyền, lễ hội
dân gian, văn hóa dân gian kẻ chợ của Hà Nội.
35 năm gìn giữ và phát huy vốn di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam của
Nông Quốc Chấn, Tô Văn Đeng và Nông Viết Toại [22]. Cuốn sách khái quát
13
những nét cơ bản về lịch sử ngành bảo tàng văn hóa dân tộc Việt Nam, đúc rút
một vài kinh nghiệm về công tác bảo tàng (sưu tầm, triển lãm, trưng bày, tuyên
truyền, giáo dục khoa học...).
Một số vấn đề di sản văn hóa của Hải Phòng của Nguyễn Ngọc Thao, Lê
Thế Loan và Ngô Đăng Lợi [164]. Cuốn sách đã đề cập đến một số di chỉ khảo cổ
học tiêu biểu cho quá trình lịch sử diễn ra ở Hải Phòng; Một số di sản: đình, đền,
chùa, miếu, nhà thờ... nơi có lưu giữ và thờ phụng những danh tướng, những nhà
văn hóa có công với đất nước.
Đô thị cổ Hội An của Phạm Quang Vinh, Trần Hùng và Nguyễn Luận
[202]. Cuốn sách giới thiệu về vị trí địa lý, lịch sử, dân cư, các công trình kiến
trúc, bản sắc văn hóa, các di sản quí giá của vùng phố cổ Hội An.
Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam Thăng Long Hà Nội do Lưu Minh Trị
[180]. Cuốn sách đã giới thiệu các DSVH tiêu biểu của Thăng Long Hà Nội, như:
múa rối, cải lương, kiến trúc... và các DTLS, danh lam thắng cảnh của các tỉnh,
thành phố.
Vũ Ngọc Khánh với tác phẩm Văn hóa lễ hội truyền thống các dân tộc Việt
Nam [86]. Cuốn sách giúp người đọc nắm bắt một cách hệ thống, toàn diện những
nghi thức, nghi lễ và nội dung của các lễ hội, các hình thái tín ngưỡng dân gian
của các dân tộc Việt Nam. Qua đó, làm rõ vai trò quan trọng của lễ hội đối với đời
sống tinh thần của cộng đồng, từ đó biết trân trọng, kế thừa phát huy những cái
hay, nét đẹp của chúng, góp phần xây dựng nền văn hóa các dân tộc Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bước đầu tìm hiểu di sản Hán Nôm ở Bình Dương của Đỗ Khắc Điệp [53].
Cuốn sách trình bày lịch sử phát triển Hán - Nôm, hiện trạng, thể loại và đặc điểm
của văn tự Hán - Nôm, một di sản văn hóa ở Bình Dương; đồng thời khẳng định
giá trị của văn tự Hán - Nôm đối với đời sống văn hóa - xã hội xưa và nay.
Cuốn sách “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể Thăng Long -
Hà Nội” của Nguyễn Chí Bền, thuộc chương trình khoa học cấp Nhà nước
KX.09 “Nghiên cứu phát huy điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và giá trị lịch sử -
14
văn hoá, phục vụ phát triển toàn diện Thủ đô” [15], là cơ sở lý luận và thực tiễn
để các nhà khoa học có những khuyến nghị về giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy
giá trị những di sản văn hoá vật thể của Thăng Long - Hà Nội. Công trình đã làm
rõ cơ sở lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH. Bên cạnh đó, cuốn sách chỉ ra kinh nghiệm thực tiễn trong việc
bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội, tiếp thu
những quan điểm mới về quản lý di sản của một số nước trên thế giới để vận dụng
vào công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa vật thể của Thăng
Long - Hà Nội.
Công trình đã đưa ra được giá trị của DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội
từ góc tiếp cận DSVH, bao gồm di sản vật thể và phi vật thể trong thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; đồng thời, chỉ ra những
nguy cơ, thách thức của việc bảo tồn DSVH trong bối cảnh đô thị hóa ở Thủ đô;
vai trò của chủ thể văn hóa trong công cuộc bảo tồn DSVH Thăng Long - Hà Nội.
Các tác giả đã đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của các DSVH vật
thể tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc khuyến nghị
của UNESCO về bảo vệ DSVH và thiên nhiên; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của các nước trên thế giới và vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng và Nhà nước
vào sự nghiệp bảo tồn DSVH vật thể tiêu biểu của Thăng Long- Hà Nội.
Bộ sách “Văn hiến Thăng long” của Vũ Khiêu [89] là công trình đồ sộ
nghiên cứu về văn hiến Thăng long - Hà Nội. Các tác giả cho rằng, đây là những
đặc trưng của văn hoá và con người Thăng Long - Hà Nội, là sự hội tụ, chắt lọc và
nâng cao tinh hoa trí tuệ và tâm hồn của cả nước, sự tiếp biến thành tựu tinh thần
của nhân loại qua giao lưu văn hóa.
Công trình cũng phân tích chỉ rõ, Văn hiến Thăng Long không chỉ là sản
phẩm riêng của những con người sinh sống trên mảnh đất này, mà còn là sự tiếp
nối truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha trải qua hàng nghìn năm lịch
sử, thể hiện từ lối tư duy đến cung cách sinh hoạt hàng ngày, từ sự nhạy bén tiếp
15
thu một cách chọn lọc tinh vi các tinh hoa văn hóa dân tộc; từ đó, những phẩm
chất con người Việt Nam yêu nước, tinh thần vị tha, khí phách kiên cường, bất
khuất đã kết tinh lại và nổi bật lên ở Thăng Long - Hà Nội, khiến Hà Nội trở thành
đỉnh cao của văn hiến dân tộc và từ đó tỏa sáng ra trong toàn quốc trong quá khứ,
hiện tại và tương lai.
Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái của Nguyễn Hữu Thái [150].
Cuốn sách khái quát những nét cơ bản về người Thái, một số hình thức DSVH phi
vật thể trong vòng quay đời người, trong tín ngưỡng cổ truyền của người Thái.
Tiểu vùng văn hóa duyên hải Nam Trung bộ của Hà Nguyễn [111]. Cuốn
sách nằm trong bộ sách “Không gian Văn hóa Việt Nam” gồm 20 tập, được biên
soạn dựa trên những kết quả nghiên cứu đã được thừa nhận và công bố của ngành
văn hóa học Việt Nam từ góc nhìn địa, văn hóa. Tập sách giới thiệu về tiểu vùng
văn hóa duyên hải Nam Trung Bộ trong tổng thể văn hóa Việt Nam, được biên
soạn theo thể loại khoa học thường thức. Nội dung bao gồm các kiến thức cơ bản
về lịch sử, văn hóa đặc trưng của vùng duyên hải Nam Trung Bộ.
Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội, biên soạn và xuất bản
cuốn sách “Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, di sản văn hóa thế
giới” [182], được biên soạn trên Hồ sơ khoa học đề cử di sản văn hoá thế giới, đệ
trình Ủy ban di sản thế giới năm 2009. Cuốn sách cung cấp, giới thiệu tư liệu có
hệ thống, mang tính phổ cập về di sản quý giá của Hà Nội, của đất nước và của
nhân loại: Khu di tích khảo cổ học và trục trung tâm thành cổ Hà Nội tạo thành
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội mang tính đại diện và
tiêu biểu rất đặc trưng của lịch sử và văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong 13 thế
kỷ liên tục từ thời Đại La qua thời Thăng Long đến Hà Nội hiện nay. Đây là nơi
ghi đậm dấu ấn những giá trị biểu đạt văn hóa và những sự kiện mang tầm vóc ý
nghĩa toàn cầu - không chỉ thể hiện ở các di tích di vật hiện hữu được phát lộ mà
còn lắng đọng ở chiều sâu văn hóa phi vật thể và những giá trị tinh thần vô giá,
được bồi đắp qua hàng ngàn năm lịch sử, đồng thời mở ra những cơ hội mới trong
16
hợp tác quốc tế về nghiên cứu, bảo tồn phát huy các giá trị di sản - tài sản vô giá
của cha ông để lại sẽ được bảo vệ, gìn giữ cho muôn đời con cháu mai sau.
Những công trình khoa học trên đã khảo cứu dưới các góc độ khác nhau
những DSVH vật thể và phi vật thể của các vùng miền và ở nhiều tỉnh, thành phố
trên cả nước. Qua đó, giúp người đọc nhận diện và đánh giá toàn diện về bề dày
và vốn quý của DSVH của dân tộc; đồng thời, đề xuất phương hướng, nhiệm vụ
và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của DSVH trong tình hình mới.
Tuy nhiên, các công trình khoa học trên chưa đề cập đến vai trò của các
Đảng bộ địa phương trong việc lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh
Công trình Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh của Ban Liên lạc đồng hương
thành phố Sài Gòn [6]. Cuốn sách đã khái quát về lịch sử hình thành của vùng đất
và những năm tháng Thành phố trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ. Qua đó, làm nổi bật truyền thống đấu tranh kiên cường,
dũng cảm, quyết liệt và sáng tạo của đồng bào, chiến sĩ Sài Gòn trong cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh của các tác giả Trần Văn Giàu,
Trần Bạch Đằng [59]. Bộ sách gồm 4 tập:
Tập I, gồm các bài nghiên cứu về lịch sử như tiểu sử, sơ sử, địa lý lịch sử,
lược sử chống Pháp và chống Mỹ ở Sài gòn;
Tập II, gồm các tiểu luận về văn học, như văn học dân gian, văn học Hán
Nôm, văn học chữ Quốc ngữ trên đất Sài Gòn thế kỷ XVII, XVIII, XIX; thơ văn
yêu nước 30 năm cách mạng và kháng chiến (1945 - 1975);
Tập III, gồm các tiểu luận về nghệ thuật trên địa bàn thành phố, như hát
bội, cải lương, kịch nói, điêu khắc, hội họa, kiến trúc, âm nhạc…;
Tập IV, các bài nghiên cứu về đạo lý và ứng xử của người dânThành phố,
về giao lưu văn hóa ở Thành phố; tín ngưỡng, tôn giáo, lễ nghi phong tục…
17
Cuốn sách Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đã khái quát lịch sử
truyền thống cách mạng của người dân Thành phố, đóng góp nhiều tư liệu mới có
giá trị, góp phần khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người dân Thành phố
Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử; đồng thời, làm rõ tinh thần sáng tạo về văn
hóa vật chất và tinh thần của nhân dân Thành phố, củng cố niềm tin cho các tầng
lớp nhân dân, phát huy truyền thống "đi trước, về sau", xây dựng Thành phố ngày
càng giàu đẹp.
Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển [127]. Dựa vào cuốn Ký ức lục
khảo Sài Gòn và vùng phụ cận của học giả Trương Vĩnh Ký viết năm 1885 (tức
sau 25 năm Sài Gòn bị thực dân Pháp chiếm đóng), Vương Hồng Sển đã viết tiếp,
nhắc lại những biến đổi từ thủa đó cho đến ngày Sài Gòn trở về với dân Việt.
Cuốn sách giúp người đọc hiểu thêm về lịch sử hình thành, phát triển của Sài Gòn
- Thành phố Hồ Chí Minh.
Giữ gìn và phát huy tài sản văn hóa các dân tộc ở Đông Nam Bộ của Tô
Ngọc Thanh, Trần Quốc Vượng và Nguyễn Chí Bền [153]. Cuốn sách gồm 30 báo
cáo tại Hội thảo “Về giữ gìn và phát huy tài sản văn hóa các dân tộc ở Đông Nam
Bộ”, nhằm khẳng định nền tảng văn hóa dân gian ở vùng Đông Nam Bộ, bảo tồn
DSVH ở các vùng, sưu tầm, gìn giữ văn hóa truyền thống...
Kỷ yếu Hội thảo khoa học 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh do
Trung Tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng
Khoa học xã hội và Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh [183]. Hội
thảo đã làm rõ nhận thức về những giá trị truyền thống văn hóa và con người vùng
đất Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh với những giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Từ đó, khẳng
định vai trò của văn hóa, các giá trị của DSVH trong nhiệm vụ “đi trước và về
đích trước” của Thành phố Hồ Chí Minh trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Di tích lịch sử - văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh của Bảo tàng Cách mạng
Thành phố Hồ Chí Minh [11]. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát vị trí và đặc điểm
lịch sử - văn hóa, từng di tích tiêu biểu của Thành phố nhằm giúp bạn đọc hiểu
18
thêm về quá trình đấu tranh và xây dựng Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 300
năm, góp phần vào việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
Công trình khoa học Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX - những
vấn đề lịch sử, văn hóa do Nguyễn Thế Nghĩa, Lê Hồng Liêm[109]. Cuốn sách đã
khái quát những chặng đường lịch sử và bản lĩnh văn hóa của Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh, nơi hội tụ và giao thoa giữa văn hóa Đông Tây - Nam
Bắc...Đồng thời, cuốn sách đưa ra những nhận định, đánh giá về những vấn đề
lịch sử - văn hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX và định hướng
cho sự phát triển trong tương lai.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh của Đặng Văn Bài, Trương Quốc Bình và Nguyễn Quốc Hùng [5].
Cuốn sách tập hợp các bài tham luận của các nhà khoa học, các nhà quản lý hoạt
động văn hóa về bảo vệ và phát huy DSVH phi vật thể ở Việt Nam; tạo điều kiện
và khuyến khích việc sưu tầm, bảo tồn văn hóa phi vật thể ở Thành phố Hồ Chí
Minh; đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện Luật Di sản văn hóa (2001).
Từ điển địa danh Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh của Lê Trung Hoa
[73]. Cuốn sách gồm 9 phần với khoảng 4.700 địa danh được đưa vào từ điển.
Đây là những địa danh đã xuất hiện từ thế kỷ XVII trên địa bàn Sài Gòn - Gia
Định xưa và Thành phố Hồ Chí Minh nay, kể cả những địa danh đã bị mai một do
thăng trầm của lịch sử. Cuốn sách do TS Lê Trung Hoa và Nguyễn Đình Tư biên
soạn, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Sơn Nam khảo đính, nên độ chính xác
rất đáng tin cậy.
Miền Đông Nam Bộ con người và văn hóa của Phan Xuân Biên [16]. Tác
giả đề cập đến đặc điểm lịch sử - văn hóa của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
và những vấn đề lý luận có tính quy luật về quá trình phát triển văn hóa Thành
phố. Những vấn đề nêu ra trong cuốn sách đã gợi mở cho việc nghiên cứu đặc
điểm của DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Quang Ninh, Stephane Dovert, Sài Gòn - Ba thế kỷ phát triển và xây
dựng [116]. Cuốn sách gồm bốn phần chính: Những thông tin và số liệu của Sài
19
Gòn từ nguyên thủy đến 1859; kiến trúc và quy hoạch đô thị Pháp tại Sài Gòn; Sài
Gòn đến Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975 và điểm lại những thay đổi trong
kiến trúc từ năm 1945; nhận xét của nhà văn Sơn Nam - nhà Nam Bộ học về
những di sản của Sài Gòn theo dấu thời gian.
Tập sách tập trung giới thiệu những hình ảnh và thông tin về 63 địa điểm
nổi tiếng, công trình kiến trúc quan trọng của thành phố, như: Chùa Phước Hải,
chùa Phước Kiến, đền Hồi giáo, đền Chandaransay của người Khmer, nhà thờ
Ðức Bà, nhà thờ Huyện Sĩ, nhà thờ Tân Ðịnh... giúp người đọc có cái nhìn đầy
đủ hơn về cảnh quan kiến trúc của Thành phố, đặc biệt là kiến trúc xưa. Công
trình đã phản ánh sinh động lịch sử hình thành và phát triển Sài Gòn - Thành phố
Hồ Chí Minh, thể hiện qua nhiều địa danh, nhân vật và nét văn hóa nổi bật, mà
theo tác giả, “tất cả những gì nơi này tạo nên cá tính của thành phố và con người.
Chúng góp phần làm nên Sài Gòn - một thành phố cá biệt, với hương vị có một
không hai”.
Nam Bộ đất và người (tập 3), Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí
Minh [77]. Đây là một ấn phẩm tập hợp các bài viết của các nhà nghiên sứu hoạt
động lâu năm trên mảnh đất Nam Bộ cũng như ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh. Cuốn sách phản ánh sâu sắc những vấn đề văn hóa Nam Bộ đương đại;
vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa ngoại thành trong quá trình đô thị hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh; sự hòa hợp, giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân
tộc trong quá trình khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long; các giải pháp bảo
tồn, phát huy, phát triển các DSVH trong quá trình CNH, HĐH; yếu tố văn hóa
Việt trong nhà thờ công giáo của người Hoa Thành phố Hồ Chí Minh; sinh hoạt
văn hóa tại di tích đền thờ Bác Hồ; trống đồng Đông Sơn ở Nam Bộ Việt Nam.
Di tích lịch sử - văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Hữu Mý,
Nguyễn Văn Đường [103]. Cuốn sách gồm 100 câu hỏi về DTLS - văn hóa của
Thành phố Hồ Chí Minh được chia thành 4 phần: Di tích lịch sử (di tích lưu niệm,
sự kiện, di tích lưu niệm danh nhân); di tích kiến trúc nghệ thuật; di tích khảo cổ;
danh lam thắng cảnh. Ngoài ra, cuốn sách còn nêu rõ những giá trị nghệ thuật, đặc
điểm và các phương pháp bảo tồn các DSVH.
20
Khảo cổ học ở Thành phố Hồ Chí Minh của Lê Xuân Diệm, Nguyễn Thị
Hậu và Nguyễn Thị Hoài Hương [31]. Cuốn sách đã giới thiệu một cách hệ thống
những tri thức cụ thể, thiết thực có quan hệ với các loại hình DSVH vật thể cổ xưa
đã được phát hiện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Từ đó, giúp
người đọc có cái nhìn tổng quan về cách tiếp cận, giữ gìn, phát huy giá trị của kho
tàng văn hóa DSVH vật thể muôn hình, nhiều vẻ mà cư dân Thành phố đã tạo
dựng được.
Đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn lịch sử văn
hóa, do Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh [198]. Với mục đích
cung cấp thêm những cứ liệu khoa học cho việc nghiên cứu, hoạch định phương
hướng phát triển Thành phố trong giai đoạn tiếp theo, Viện Nghiên cứu Xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Tạp chí Người Đô thị tổ chức cuộc hội thảo
khoa học mang tên “Đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn
Lịch sử - Văn hóa” nhằm bàn thảo về những quan điểm, đặc điểm, đặc trưng, tiêu
chí của quá trình đô thị hóa; quá trình đô thị hóa Thành phố Hồ Chí Minh qua các
giai đoạn lịch sử; các xu hướng, dòng chảy, qui luật vận động, phát triển của quá
trình đô thị hóa; dấu ấn văn hóa, đặc điểm, phong cách kiến trúc; văn hóa đô thị
truyền thống và công tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống; hiện trạng, xu
hướng đô thị hóa; dân cư và lối sống đô thị; kinh nghiệm, bài học đúc kết qua thực
tiễn quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh ở Việt Nam và một
số nước trong khu vực và thế giới... Từ kết quả của cuộc hội thảo, Viện Nghiên
cứu Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyển chọn một số tham luận để in thành
cuốn sách: Đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn Lịch sử
Văn hóa. Cuốn sách được chia làm sáu phần: Đô thị hóa: những vấn đề chung; Đô
thị hóa: những vấn đề lịch sử; Đô thị hóa: những vấn đề văn hóa; Đô thị hóa: hiện
trạng và xu hướng; Đô thị hóa: cư dân và lối sống đô thị; Đô thị hóa: kinh nghiệm
và bài học. Sự sắp xếp trên chỉ mang tính tương đối, vì các vấn đề khoa học được
đề cập đều liên quan, đan xen với nhau và ngay trong một bài viết cũng không hẳn
đề cập đến một vấn đề duy nhất. Cuốn sách là sự gợi mở trong việc nghiên cứu,
21
hoạch định phương hướng phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay.
Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh do Võ Thanh Bằng [13].
Cuốn sách là công trình nghiên cứu khoa học của tập thể nhiều tác giả dựa vào
công tác khảo sát, điều tra xã hội học để phân tích chuyên sâu thực trạng, vai trò,
những tồn tại… của hoạt động tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Công trình Những giá trị văn hóa đô thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
do Tôn Nữ Quỳnh Trân [179]. Cuốn sách đã khẳng định những giá trị văn hóa của
Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay đã được định hình và phát triển; được kiểm
chứng trong suốt chiều dài hơn 300 năm lịch sử khai phá và xây dựng Thành phố.
Những giá trị cơ bản về văn hóa vật thể và phi vật thể đã làm nên một bản sắc Sài
Gòn xưa và nay. Đây cũng chính là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển
của Thành phố giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Thành Rum với cuốn sách Hành trình di sản văn hóa Thành phố
Hồ Chí Minh [123]. Cuốn sách giới thiệu khái quát các di tích được xếp hạng trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, cuốn sách khẳng định: Nhận thức
của Thành ủy và các cơ quan quản lý văn hóa Thành phố về hoạt động bảo tồn
DSVH đã có sự phát triển. Điều đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá khách
quan về quá trình Đảng bộ Thành phố lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá
trị DSVH tại địa phương.
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm (1911 - 2011) của
nhiều tác giả [114]. Cuốn sách là một khảo cứu gồm 4 phần với 10 mục nhỏ, phản
ánh tương đối đầy đủ những sự kiện tiêu biểu của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh trong 100 năm. Cuốn sách cũng góp thêm một cái nhìn tương đối có hệ
thống về những nét son từ truyền thống đến hiện đại của Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh.
Hội thảo Bản sắc dân tộc trong đời sống văn hóa, nghệ thuật Thành phố
Hồ Chí Minh với quá trình hội nhập quốc tế hiện nay do Ban Tuyên giáo Thành
ủy phối hợp với Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Thành phố [10].
22
Đây là tập hợp những tham luận của các nhà khoa học đã tập trung mổ xẻ thực
trạng đời sống văn hóa, văn nghệ của Thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, đề xuất
nhiều giải pháp, kiến nghị đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc gắn với quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Đình chùa lăng miếu - Di sản văn hóa vật thể của người Việt tại Thành phố
Hồ Chí Minh do Hồ Sơn Diệp, Nguyễn Văn Hiệp [33]. Cuốn sách đã đánh giá
thực trạng và đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị di sản vật thể trong
quá trình xây dựng nền văn hóa mới.
Tập sách Đất Gia Định - Bến Nghé Xưa và Người Sài Gòn của Sơn Nam
[106]. Tập sách giới thiệu đến bạn đọc một cái nhìn khá toàn diện về vùng đất
Nam Bộ - với một tên gọi thân thuộc: Gia Định. Dù là Gia Định phủ, Gia Định
trấn hay Gia Định thành, tên gọi vùng đất (đất Gia Định) cũng gồm cả Nam Bộ,
với trung tâm hành chính, quân sự quan trọng là Bến Nghé - Sài Gòn. Từ đất Gia
Định xưa, dẫn dắt người đọc tìm hiểu sâu hơn về Bến Nghé - Sài Gòn, vùng lãnh
thổ cơ bản đã định hình trong thế kỷ thứ XIX với ba đơn vị hành chính: Sài Gòn -
Chợ Lớn và Gia Định. Phần lớn vùng đất Bến Nghé - Sài Gòn xưa, nay thuộc
Thành phố Hồ Chí Minh. Từ không gian rộng (Đất Gia Định xưa) đến không gian
hẹp (Bến Nghé xưa), bạn đọc sẽ có dịp làm quen với người Sài Gòn - những chủ
nhân cũ và mới của vùng đất đã từ lâu trở thành một phần không thể tách rời của
Tổ quốc Việt Nam.
Sài Gòn Đất và người của Nguyễn Thanh Lợi [95]. Với Sài Gòn đất và
người, một lần nữa nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi lại đề cập đến những vấn
đề về văn hóa, lịch sử của Nam Bộ nói chung. Trong cuốn sách, tác giả đã dày
công tra cứu từ nhiều nguồn tư liệu thành văn, ghi chép điền dã để làm sáng tỏ
một số vấn đề liên quan đến Sài Gòn. Từ đó, Tác giả chỉ rõ: “Không cổ kính như
Hà Nội, trầm mặc như Huế, Sài Gòn mang trong mình cái tính năng động của một
thành phố trẻ ở đất phương Nam. Trải qua hơn 300 năm lịch sử, Sài Gòn đã để lại
trong nó nhiều dấu ấn văn hóa, đó là những địa danh, di tích, nhân vật, chợ, phố xá
cùng những nét tín ngưỡng, ẩm thực, tính cách… vừa dung dị mà cũng rất đời
23
thường. Những nét hiện đại song hành cùng với các “cổ tích”, làm nên một “hồn
cốt” Sài Gòn. Một Sài Gòn bao dung, rộng mở với những lớp cư dân đến đây từ
mọi miền qua những dòng chảy lịch sử khác nhau. Họ không còn phân biệt dân
chính gốc hay ngụ cư, tất cả chung tay xây đắp nên một “Hòn ngọc Viễn Đông”.
Khảo cổ học đô thị và việc bảo tồn di sản văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh của Nguyễn Thị Hậu. Công trình giới thiệu tổng quan vùng đất Sài Gòn
từ khi hình thành và phát triển qua các thời kỳ, kinh nghiệm bảo tồn di sản trên thế
giới và giải quyết vấn đề cơ bản cơ bản của thực tiễn đang đặt ra: Bảo tồn di sản
văn hóa đô thị trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Thành phố Hồ
Chí Minh.
Những công trình nghiên cứu về văn hóa và DSVH Thành phố Hồ Chí
Minh đã đề cập tương đối toàn diện diện mạo văn hóa và DSVH của vùng đất Sài
Gòn (xưa) - Thành phố Hồ Chí Minh (nay). Với nhiều cách tiếp cận khác nhau:
lịch sử, văn hóa học, chính trị học…những công trình khoa học trên đã làm nổi bật
những giá trị, truyền thống văn hóa tốt đẹp cũng như các DSVH vật thể và phi vật
thể trên địa bàn Thành phố; phân tích sâu sắc thực trạng công tác bảo tồn và phát
huy các DSVH; đề ra phương hướng nhiệm vụ và giải pháp, khuyến nghị nhằm
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, các DSVH của Thành phố
Hồ Chí Minh vừa hiện đại vừa mang đậm bản sắc - xứng đáng là nơi hội tụ và lan
tỏa những giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam trên mảnh đất phương Nam.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐỀ CẬP VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
1.2.1. Những nội dung các công trình khoa học đã giải quyết
Những kết quả nghiên cứu trên đây trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến
DSVH và thực trạng công tác bảo tồn phát huy các giá trị DSVH ở nhiều góc độ
lý luận và thực tiễn khác nhau; đồng thời, gợi mở, cung cấp thông tin tham khảo
phong phú, hỗ trợ nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên
cứu đề tài của luận án. Nội dung các công trình khoa học liên quan đề cập đến
vấn đề:
24
Thứ nhất, lý luận chung về văn hóa, DSVH và bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH dân tộc.
Thứ hai, làm rõ những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc như:
tinh thần yêu nước, tự lực, tự cường của dân tộc; những phong tục tập quán tốt
đẹp; tinh thần nhân văn, nhân đạo và tâm lý bao dung, độ lượng của các thế hệ
người Việt Nam; những danh lam, thắng cảnh của các vùng miền trên cả nước;
những DSVH vật thể, phi vật thể của dân tộc…
Thứ ba, thực trạng xây dựng và phát triển văn hóa nói chung, bảo tồn và
phát huy các giá trị các DSVH nói riêng trên phạm vi cả nước cũng như ở các
vùng, miền và các tỉnh, thành riêng biệt.
Thứ tư, nêu bật những truyền thống văn hóa và khối lượng DSVH đồ sộ
của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh; kết quả công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH vật thể và phi vật thể trên địa bàn Thành phố.
Thứ năm, từ thực tiễn công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên
bình diện cả nước nói chung và trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng,
các tác giả đã đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trong thời gian tới.
Những kết quả mà các công trình khoa học liên quan đã đề cập là tài liệu
tham khảo quý để nghiên cứu sinh có thể kế thừa về nội dung và phương pháp
trong quá trình viết luận án.
1.2.2. Những nội dung luận án tập trung giải quyết
Kết quả nghiên cứu của các nhóm công trình khoa học trên đã gợi mở những
vấn đề mới để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài
luận án. Mặc dù vậy, các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án là những nghiên cứu chuyên biệt. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống và quy mô về thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các công trình khoa học trên chủ yếu nghiên
cứu về vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dưới góc độ văn hóa học, chưa
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
25
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm
2014. Vì vậy, luận án tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Một là, phân tích các yếu tố tác động đến việc bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Hai là, làm sáng tỏ quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước và chủ
trương của Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
Ba là, trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh chỉ
đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể trên địa
bàn Thành phố.
Bốn là, đưa ra những nhận xét khách quan, khoa học về sự lãnh đạo của
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH (bao gồm cả những mặt đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những
thành tựu, hạn chế).
Năm là, bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình Đảng
bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
26
Chương 2
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ NĂM 1998 ĐẾN 2005
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
2.1.1. Một số khái niệm về di sản văn hóa và bảo tồn, phát huy các giá
trị di sản văn hóa
Khái niệm về DSVH và bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa, xuất
hiện ngày càng nhiều trong thời gian gần đây. Trên thực tế, có nhiều quan điểm
khác nhau của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa về những khái niệm này. Ngay
cả tổ chức UESSCO cũng đã đưa ra nhiều khái niệm cơ bản về DSVH, những vấn
đề xoay quanh DSVH như: quy định, tiêu chuẩn để xác định một di vật có phải là
DSVH không… Tuy nhiên, xét trong phạm vi nghiên cứu hẹp của đề tài, tác giả
xin được đưa ra những khái niệm liên quan tới đề tài.
* Di sản: Theo nghĩa Hán Việt di là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại;
sản là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: di sản
là cái của thời trước để lại [117, tr.2]. Như vậy, DSVH được hiểu là “chỉ chung
cho các tài sản văn hoá như văn học dân gian, các công trình kiến trúc, các tác
phẩm điêu khắc, các tác phẩm văn học… mà các thế hệ trước để lại cho thế hệ
sau” [78, tr.667].
Khái niệm di sản là một khái niệm có sự thay đổi theo thời gian và
không gian.
- Di sản văn hóa: Di sản văn hoá là những gì thế hệ trước truyền lại cho thế
hệ sau. Tuy nhiên, thực tế, không phải bất cứ tài sản gì do thế hệ trước để lại cho
thế hệ sau cũng được xem như di sản. Vì trong số các phong tục, tín ngưỡng, bên
cạnh những phong tục, tín ngưỡng được xem là di sản quý báu do tiền nhân để lại
vẫn còn nhiều phong tục, tín ngưỡng bị xem là hủ tục lạc hậu.
Theo quan niệm của UNESCO, di sản văn hóa bao gồm hai loại: Di sản
“văn hóa vật thể” (tangible culture) được hiểu là những sản phẩm văn hóa có thể
27
“sờ thấy được”. Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu dưới
dạng vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét, màu
sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. Di sản văn hóa vật
thể được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt. Di
sản văn hóa vật thể luôn chịu sự thách thức của quy luật bào mòn của thời gian,
trong sự tác động của con người thời đại sau. Hiện nay, vấn đề bảo tồn những Di
sản văn hóa vật thể lâu đời đòi hỏi công nghệ kỹ thuật cao mới có thể phục
nguyên lại như cũ.
Di sản “Văn hóa phi vật thể” (intangible culture) là dạng thức tồn tại của
văn hóa không phải chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối trong không gian và
thời gian, mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi ứng xử
của con người và thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao
tiếp xã hội mà thể hiện ra. Từ đó người ta có thể nhận biết được sự tồn tại của
“văn hóa phi vật thể”.
Luật Di sản văn hóa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt
Nam được Quốc hội khóa X thông qua trong kỳ họp thứ 9 (29/0/2001) xác định:
DSVH là “sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được
lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác” [120, tr.12].
Trong phần mở đầu của Luật Di sản văn hóa nêu rõ: "Di sản văn hóa Việt
Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của
di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của nhân dân ta" [120, tr.2]. DSVH tồn tại dưới hai dạng: DSVH vật thể và DSVH
phi vật thể.
- Di sản văn hóa phi vật thể: Tại chương 1 - điều 4 của Luật Di sản văn hóa
định nghĩa:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn
hóa khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ,
lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống,
nếp sống, lễ hội, bí quyết và nghề thủ công truyền thống, tri thức về y,
28
dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống
dân tộc và những tri thức dân gian khác [120, tr.2].
- Luật Di sản văn hóa định nghĩa DSVH vật thể: "là sản phẩm vật chất có
giá trị lịch sử văn hóa, khoa học, bao gồm DTLS văn hóa, danh lam thắng cảnh, di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [120, tr.2].
* Khái niệm bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
- Khái niệm bảo tồn DSVH: Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “bảo tồn là giữ
lại không để cho mất đi”, còn “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác
dụng và tiếp tục nảy nở thêm”. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật,
hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó. Bảo tồn là không để mai một, “không để
bị thay đổi, biến hóa hay biến thái”. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này,
không có khái niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối
tượng bảo tồn “phải được nhìn là tinh hoa”; khẳng định giá trị đích thực và khả
năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của đối
tượng được bảo tồn.
* Nội dung bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
Trong nghiên cứu, cũng như trong hoạt động thực tiễn, ta thường bắt gặp ba
từ: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn. Bảo quản mang nghĩa sử dụng những biện pháp
kỹ thuật để gìn giữ, chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn, tồn tại lâu dài. Bảo vệ
chứa đựng nội dung thực hành các hoạt động mang tính chất pháp lý hay nói cách
khác là giữ không để cho bị xâm phạm. Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là hoạt
động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, nói
cách khác là bảo quản kết cấu một địa điểm ở hiện trạng và kìm hãm sự xuống cấp
của kết cấu đó. Như vậy, bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử
hình thành, ý nghĩa của DSVH nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho
DSVH và khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn
tạo lại để khai thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội.
Công tác bảo tồn DSVH có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm các hoạt
động: bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục hồi, tái tạo - làm lại,
qui hoạch bảo tồn.
29
Phát huy được hiểu là những tác động làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt tỏa
tác dụng và tiếp tục nảy nở từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ cao đến thấp, từ
đơn giản đến phức tạp. Có thể nói, phát huy chính là việc khai thác, sử dụng sản
phẩm một cách có hiệu quả.
Giá trị là chỉ tính có ích, có ý nghĩa của những sự vật, có khả năng thỏa
mãn nhu cầu, phục vụ lợi ích của con người. Hệ thống di sản văn hóa chứa đựng
các mặt giá trị tiêu biểu sau: (1) Giá trị lịch sử, gắn với những sự kiện hay ký ức lịch
sử quan trọng, những nhân vật lịch sử và huyền thoại, những anh hùng văn hóa có
tầm ảnh hưởng lớn, có công lao với quá trình hình thành và phát triển của đất nước.
(2) Giá trị văn hóa, thể hiện tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ tạo nên bản sắc văn hóa của
cộng đồng, qua đó biểu hiện nét độc đáo về văn hóa. (3) Giá trị khoa học, gắn với
những tri thức về tự nhiên và vũ trụ, những kiến thức, hiểu biết và kinh nghiệm sống
được tích lũy trong quá trình hoạt động của con người. (4) Giá trị kinh tế, là phương
tiện giao lưu văn hóa, đồng thời là một sản phẩm văn hóa phục vụ du lịch, góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội.
Phát huy giá trị DSVH là một hoạt động có tính liên ngành, có tiêu chí
chung, mục đích là phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội, góp phần giáo dục truyền
thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời là nhịp cầu nối với bạn
bè năm châu. Cách thức phát huy của mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau,
điều đó tùy thuộc vào văn hóa của mỗi vùng, vào nhận thức của từng người.
Nhưng tất thảy các hoạt động này đều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, làm
tôn vinh vẻ đẹp và phát triển các giá trị văn hóa đó.
Bảo tồn và phát huy DSVH luôn gắn kết chặt chẽ, biện chứng. Đó là hai
lĩnh vực thống nhất, tương hỗ, chi phối, ảnh hưởng qua lại trong hoạt động giữ gìn
tài sản văn hóa. Bảo tồn DSVH thành công thì mới phát huy được các giá trị của
di sản. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản tốt nhất, lưu giữ những giá trị đó
trong ý thức cộng đồng xã hội.
Bảo tồn và phát huy DSVH cần dựa trên những nguyên tắc: tiến hành điều
tra, sưu tầm, thu thập, ghi chép lại các dạng thức văn hóa, những kỹ năng, tri thức
do nghệ nhân sử dụng trong trình diễn các loại hình nghệ thuật hay chế tác sản
phẩm bằng việc ghi chép, ghi âm, ghi hình.
30
Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể cũng có nghĩa là bảo vệ người
kế thừa DSVH - những nghệ nhân dân gian. Để bảo vệ những báu vật nhân văn
sống, ngoài việc thừa nhận tài năng, nhà nước và cộng đồng cần tôn vinh, động
viên, khuyến khích kịp thời và tạo mọi điều kiện tốt nhất về vật chất và tinh thần
để họ có thể phát huy mọi khả năng trong việc bảo tồn các DSVH. Và quan trọng
hơn là để họ có ý thức trao truyền những giá trị kết tinh trong DSVH của dân tộc
cho thế hệ tương lai.
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống lịch sử, văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.2.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở trung tâm của khu vực Nam Bộ, tiếp
giáp với nhiều vùng kinh tế - xã hội lớn của đất nước. Phía Tây Bắc giáp với
tỉnh Tây Ninh; phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình
Dương; phía Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; phía Tây và Tây Nam
giáp tỉnh Long An và Tiền Giang; phía Nam giáp biển Đông. Thành phố Hồ
Chí Minh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cận kề mật thiết với ba
vùng kinh tế - xã hội là Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, đồng bằng
sông Cửu Long. Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên đường giao lưu quốc tế từ
Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây; là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á lục
địa (bao gồm các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar) và Đông Nam Á
hải đảo (Singgapo, Philippines, Indonesia, Malayssia, Brunei, Đông Timor); là
“cửa ngõ phía Nam của Tổ quốc” - một đầu mối giao thông quan trọng trong
vùng và toàn quốc. Nằm trên điểm hội tụ các trục giao thông đường thủy, nối
liền Đông và Tây Nam Bộ, lại là cảng biển gắn với Trung Bộ và xa hơn là Bắc
Bộ, các nước Bắc và Nam Á, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nhờ địa thế đó
mà nhanh chóng mở rộng quy mô. Với đặc điểm này, vị trí địa lí của Thành
phố Hồ Chí Minh có tính chất mở chứ không khép kín, đã tác động rất lớn đến
quá trình phát triển kinh tế và văn hóa - xã hội của thành phố. Do đó, Thành
phố không chỉ là trung tâm kinh tế, đầu mối giao thương kinh tế, văn hóa, xã
hội với nhiều vùng, miền trong cả nước, mà còn là nơi giao lưu các nền văn hóa
của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tính phong phú, đa dạng và
31
tính chất mở của điều kiện địa lí là một trong những điều kiện góp phần để
Thành phố Hồ Chí Minh hình thành một nền văn hóa đa dạng, phong phú,
mang tính mở, linh hoạt và lan tỏa cao.
Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố có
diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước, với tổng diện tích khoảng 2.095 km2, chiếm
0,76% diện tích cả nước. Nơi đây có sự đa dạng về tự nhiên, tạo điều kiện thuận
lợi để con người cư trú, sinh sống. Yếu tố này làm cho sự phát triển kinh tế và văn
hóa - xã hội diễn ra trên một không gian rộng, vừa đa dạng, vừa phức tạp
Với vị trí địa lí ở ngã ba sông, nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa khác
nhau, cũng là nơi hội tụ của dòng văn hóa truyền thống và hiện đại, Thành phố
Hồ Chí Minh đã hình thành bản sắc riêng của mình trong sự trưởng thành và
phát triển.
Là điểm giao thoa và hội tụ giữa các luồng văn hóa, Sài Gòn - Thành phố
Hồ Chí Minh còn là nơi sản sinh ra những lễ hội vừa mang nét đẹp của truyền
thống dân tộc, vừa mang đậm dấu ấn sự phát triển của một thành phố hiện đại như
Đường hoa, Đường sách... Những điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tác động không
nhỏ đến đời sống sinh hoạt nhiều mặt, làm cho văn hóa của người dân nơi đây đa
dạng, phong phú. Đặc điểm về địa lí - tự nhiên đó đã tác động và tạo ra tính đa
dạng trong văn hóa cũng như tính đa dạng về nội dung, hình thức biểu đạt và sinh
hoạt tinh thần.
2.1.2.2. Đặc điểm dân cư
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là nơi nhiều dân tộc cùng nhau định cư
xây dựng cuộc sống và giao lưu văn hóa. Trước khi khu vực Sài Gòn, Đồng Nai
bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư, thì người Khmer, người Chăm đã
sinh sống rải rác ở đây [26]. Trong Gia Định thành thông chí đã ghi nhận: Năm
1658, chúa Nguyễn sai tướng vào bình định Nặc Chân, “khi ấy địa cầu trấn Gia
Định là hai xứ Mô Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán
của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Miên, để khai khẩn ruộng đất” [56, tr.76].
Đồng hành trên con đường Nam tiến là những người dân vùng Trung Bộ, hành
trang mang theo là văn hóa biển miền Trung với tinh thần năng động, với những
con người "lên non xuống biển", cần cù, nhẫn nại, dám mạo hiểm, dám nghĩ, dám
32
làm... Đó là những tố chất tích cực giúp cộng đồng người Việt đủ sức đương đầu
với mọi khó khăn, hiểm nguy của vùng đất mới.
"Khoảng cuối thế kỷ XVI, đã xuất hiện những người Việt đầu tiên từ ven
biển tới khai phá vùng đất này" [107]. Từ khoảng đầu thế kỷ XVII, những cư dân
Việt đến định cư tại đây ngày một đông, dần hình thành những khu dân cư với
những làng xóm, ruộng vườn đông đúc. Những lưu dân Việt này vốn là sản phẩm
của nền văn minh lúa nước lâu đời, do đó, hành trang mà họ mang theo chính là
kinh nghiệm sản xuất lúa nước và nhiều ngành nghề thủ công, thương nghiệp, tổ
chức cuộc sống; ý chí và nghị lực phi thường; kĩ thuật chinh phục và khai thác các
vùng đất trũng. Đó cũng là điểm xuất phát, là lí do khiến cho sau một quá trình di
dân, thì vùng đất Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh được khai phá,
dần trở nên đông đúc, trù phú.
Trên nguyên tắc “người dân đi trước, nhà nước theo sau”, bộ phận cư dân
chủ yếu là người Việt đã đến vùng đất phủ Gia Định xưa để khai phá đất hoang,
dựng nhà, lập ruộng…Khi công cuộc khai khẩn của lưu dân người Việt và một số
tộc người bản địa đã đi vào ổn định, năm 1698, chúa Nguyễn “sai Thống suất
Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ
Đồng Xoài làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức
Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm chủ),
dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay) [122, tr.111]. Đánh dấu Sài Gòn -
Gia Định được hình thành với cương vị là một đơn vị hành chính thuộc quyền
quản lí của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ đó, Gia Định (nay là Thành phố Hồ
Chí Minh) chính thức thuộc về phần lãnh thổ và chịu sự quản lý hành chính của
Việt Nam và ngày càng phát triển thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội quan trọng của khu vực Nam Bộ.
Trong quá trình mở cõi về phương Nam, lưu dân người Việt đã tìm đến
vùng đất xa xôi, là Nam Bộ ngày nay, để khai phá, làm ăn. Hành trang họ mang
theo là tình cảm quê hương và những tín ngưỡng truyền thống của quê nhà.
"Những ngôi chùa đã dần mọc lên trên vùng đất mới, do chính những lưu dân khai
phá lập nên giống như những ngôi chùa làng trên quê hương cũ ở Trung Bộ và
33
Bắc Bộ, dành cho các bậc tu hành trụ trì để sớm chiều nguyện cầu sự bình an trên
vùng đất mới" [92, tr.36].
Để kết nối con người trong cộng đồng với nhau, cư dân người Việt đã lập
ra đình làng. Đây là nơi dân làng hội họp, vui chơi, tế lễ, tạo sự gắn bó cộng đồng
dân tộc. Tóm lại, họ lập đình, chùa, miếu, võ để thờ Phật, Thành hoàng và các vị
thần đã che chở, phù hộ trong cuộc mưu sinh ở vùng đất mới, “vừa lạ lẫm, xa vời,
lại vừa thu hút, vẫy gọi” [168, tr.305].
Có thể nói, tất cả hệ thống đình, chùa, lăng, miếu tọa lạc ở khắp nơi trên
vùng đất Nam Bộ đã phản ánh sự có mặt của người Việt tụ tập về đây sinh sống;
đồng thời, phản ánh tinh thần "uống nước nhớ nguồn" của lưu dân đi mở đất.
Cũng qua hệ thống đình, chùa, lăng, miếu trên đất Gia Định - Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh, có thể thấy được dòng chảy văn hóa tín ngưỡng của những
người đi mở đất phương Nam có những nét tiếp nối văn hóa dân gian của Bắc
Bộ và Trung Bộ.
Sự xuất hiện của cư dân Việt và sự xác lập về mặt pháp lý của nhà Nguyễn
đối với vùng đất Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh như trên có ý nghĩa lịch sử
và văn hóa to lớn. Nó không chỉ có ý nghĩa là một cuộc Nam tiến để mở rộng bờ
cõi đất nước, đưa miền đất ấy thành bộ phận không tách rời của nước Việt Nam;
biến vùng đất mênh mông, hoang vắng thành trung tâm mới về kinh tế, văn hóa,
mà còn là sự mở rộng và phát triển văn hóa Việt Nam, tạo nên những nét đặc sắc,
đa dạng trong thống nhất của văn hóa dân tộc tại khu vực này.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tính đa tộc trong cộng đồng cư
dân, với sự đa dạng về tộc người và vùng miền, đây là một trong những đặc điểm
rất nổi bật, được thể hiện suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của vùng
đất Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc điểm này ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển, diện mạo của DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những lý do lịch sử và địa lý đã khiến Sài Gòn luôn là một thành phố
đa dạng về văn hóa. Ngay từ giai đoạn thành lập, dân cư của Sài Gòn đã thuộc
nhiều dân tộc khác nhau...Thời kỳ thuộc địa rồi chiến tranh, Sài Gòn chịu ảnh
hưởng bởi nền văn hóa Âu Mỹ. Cho đến giai đoạn hiện nay, những hoạt động kinh
tế, du lịch tiếp tục tác động đến thành phố có một nền văn hóa đa dạng hơn.
34
Tư liệu khảo cứu về lược sử Thành phố cho thấy, những nhóm người đầu
tiên đến miền đất này vào khoảng đầu thế kỷ XV. Những cư dân từ phía Bắc di
chuyển vào ở khu vực Đồng Nai - Bến Nghé - Cửu Long là những người đã đến
bằng thuyền và đường bộ từ các nơi, như: Đồng bằng sông Hồng, Thanh Hóa,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi… Ngoài ra, còn
có những nhóm người vừa là lính, vừa là quan, những người lao động người Hoa,
do chống triều Mãn Thanh, hoặc bị truy nã, hoặc đời sống cùng cực… chạy sang
xin cư ngụ. Trong đó, có những nhóm người được Chúa Nguyễn cho định cư ở
vùng Biên Hòa, Mỹ Tho.
Cùng với người Việt, người Hoa, trong quá trình khai phá vùng đất này
còn có một bộ phận người dân tộc thiểu số bản địa ở Nam Bộ, như Khmer,
S'tiêng, Mạ, Chăm, Châu ro… Tuy nhiên, do trình độ phát triển của các dân tộc
này còn thấp nên dấu ấn để lại trong sự phát triển của Gia Định - Sài Gòn -
Thành phố Hồ Chí Minh không đậm nét. Có thể khẳng định, Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh mang tính đa dạng văn hóa, đa chủng tộc. Ở Sài Gòn, khác với
bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam, có thể nhìn thấy, bên cạnh đình chùa
Việt là chùa miếu, hội quán của người Hoa, người Khmer; thánh đường Thiên
Chúa giáo bên cạnh chùa Chà, đền Hồi giáo, đền Chăm… và các lối sống và sinh
hoạt văn hóa đan xen lẫn nhau.
Tiếp theo các giai đoạn, thời kỳ lịch sử sau đó, vùng đất Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh luôn sôi động với nhiều sự kiện lịch sử nóng bỏng của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập dân tộc, xây
dựng, bảo vệ đất nước. Những lớp cư dân liên tục nối tiếp nhau đổ về, nhiều trào
lưu văn hóa “đông - tây” tràn vào, hội nhập, suốt từ thời kỳ cận đại đến nay, sự
giao thoa, tiếp biến văn hóa ấy làm cho hệ thống DSVH Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh thêm đông hơn về số lượng, đa dạng về kiểu dáng, phong phú về kiến
trúc và trang trí mỹ thuật.
Hiện nay, khi Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành trung tâm
kinh tế - xã hội ở phía Nam, thì hàng năm vẫn còn nhiều lao động từ khắp các
tỉnh, thành cả nước về tìm kiếm cơ hội làm ăn, lao động, sản xuất; hàng vạn học
sinh, sinh viên của cả nước về Thành phố học tập; đông đảo kiều bào về nước
35
tham quan hoặc định cư, làm ăn. Như vậy, theo xu hướng chung của sự vận động,
dân cư ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh tăng theo thời gian và có sự hội tụ
phong phú của cư dân từ tất cả các vùng miền trong cả nước.
Bên cạnh cơ cấu vùng, miền, dân cư Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh còn
có đặc điểm là địa phương nhiều thành phần dân tộc nhất cả nước. Dân tộc Kinh
chiếm khoảng 89%, còn lại các dân tộc khác, như: người Hoa (10%); người Khmer
(0,15%); người Chăm (0,07%); người Tày, Nùng, Mường, Gia Rai, Êđê, Cơ Ho,
H'mông, Dao, Ba Na… Cơ cấu thành phần dân tộc tại Thành phố Hồ Chí Minh là
cao hơn nhiều so với các tỉnh, thành khác thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Ở Tây Ninh có 27 thành phần dân tộc, ở Bình Dương là 28, Bà Rịa - Vũng Tàu là
35, Bình Phước là 41, Đồng Nai 43 và Thành phố Hồ Chí Minh là l46 [9, tr.43].
Ngoài đặc điểm vùng, miền, đa dân tộc, yếu tố dân cư tại Gia Định - Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từng là thủ phủ của thực dân, đế quốc khi đến xâm
lược. Khi người Pháp xâm lược Việt Nam, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc
địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành đô thị
quan trọng nhất Việt Nam. Năm 1860, khi cảng Sài Gòn chính thức mở cửa thì tàu
bè các nước ra vào buôn bán, thương vụ mỗi ngày một tăng, nhất là tàu buôn từ
châu Âu tới. Thời Mỹ - Diệm, Sài Gòn tiếp tục là Thủ đô của Việt Nam Cộng hòa,
yếu tố dân cư tại đây có thêm sự hiện diện của rất nhiều quan chức, lính Mỹ xâm
lược, các nhà tư bản Mỹ và châu Âu đến đầu tư và làm ăn. Sau ngày miền Nam
được giải phóng (năm 1975), đặc biệt là thời kì đổi mới, CNH, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế (năm 1986 đến nay), Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thu hút rất
nhiều người nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh, sinh sống, học tập và tham quan
du lịch. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh dần hình thành những khu người
nước ngoài sinh sống ở một số quận, như: quận 1, quận 2, quận Tân Bình… Ngoài
ra, khách vãng lai, gồm cả người trong nước và nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí
Minh ước tính mỗi ngày khoảng hơn một triệu người.
Với đặc trưng văn hóa đô thị gắn với nếp sống thị dân, văn hóa Thành phố
Hồ Chí Minh thể hiện rõ tính hội tụ và tính lan tỏa. Hội tụ là sự đa dạng về văn
hóa, tín ngưỡng, phong tục tập quán của người dân của những vùng, miền khác
nhau về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh “an cư lập nghiệp”. Hiện nay, Thành
36
phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn của cả nước, có thành phần cư dân đa dạng, có
nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống, hiện có 51 dân tộc thiểu số với 437.532
người, chiếm 6,1% dân số thành phố [154].
Sự bổ sung về thành phần tộc người diễn ra trong quá trình đô thị hóa ngày
một phát triển làm cho cấu trúc và sự phân bố cư trú tộc người có nhiều biến đổi
và những hình thái cộng cư mang nhiều nét mới. Trong số các thành phần tộc
người cư trú trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, bốn tộc người: Việt,
Hoa, Chăm, Khmer vẫn duy trì được những khu vực cư trú tộc người (có tính
cộng đồng) của mình; số còn lại thường là những nhóm gia đình, gia đình hoặc
những thành viên có tính cá nhân. Hiện trạng phân bổ cư trú tộc người tại Thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy, người Việt phân bố cư trú rộng khắp các địa bàn trên
toàn thành phố. Người Hoa phân bố cư trú trên địa bàn các quận: 1,5, 6, 8, 10, Tân
Bình. Người Chăm phân bố cư trú thành 16 khu vực thuộc địa bàn các quận: 8, 11,
4, 3, 5, 6, 10, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Thủ Đức. Người Khmer phân bố cư trú rải
rác trên địa bàn các quận 3, 5, 6, Tân Bình và huyện Bình Chánh, trong đó, tập
trung tương đối đông đúc tại miếu Candaransi (thuộc quận 3) và miếu Bodhi Vong
(thuộc quận Tân Bình). Số còn lại phân bố cư trú tản mạn trên khắp các quận,
huyện trên địa bàn Thành phố. Những địa bàn có quá trình đô thị hoá diễn ra
mạnh hơn trong những năm gần đây là những địa bàn có cấu trúc tộc người phức
tạp hơn, như quận 11, quận Tân Bình… [26].
Sự biến đổi về dân số, cấu trúc cả dân cư đa tộc, phân bố cư trú tộc người
diễn ra đồng thời với quá trình phát triển đô thị hoá, trong bối cảnh có nhiều biến
động lịch sử, có nhiều giao lưu kinh tế và giao lưu chính trị… đã tác động đến mối
quan hệ của quá trình giao lưu văn hóa tộc người ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh trong thế kỉ XX, làm cho các mối quan hệ ấy thêm phong phú, đa dạng và
phức tạp. Sự vận động, phát triển của các quan hệ tiếp xúc, trao đổi, đấu tranh, bảo
vệ… trong quá trình giao lưu văn hoá, diễn ra dưới nhiều hình thái và mang nhiều
màu sắc, phản ánh tính năng nhằm thích nghi và không ngừng thúc đẩy chính quá
trình giao lưu đó để giải quyết nhu cầu giữ gìn bản sắc và tiếp thu - hội nhập.
Đặc điểm dân cư như trên đã ảnh hưởng lớn đến sự vận động, phát triển của
đời sống văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Sự hội tụ một cách đa dạng
37
của dân cư, tất yếu dẫn đến một bức tranh văn hóa “đa sắc màu”, là cơ sở dẫn đến
sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các vùng, miền trong nước, như Bắc Bộ, Trung
Bộ, Tây Nguyên, văn hóa sông nước Nam Bộ; các nền văn hóa thế giới, như văn
hóa Trung Hoa, Ấn Độ, văn hóa châu Âu, châu Mỹ…Có thể nói, sự hội tụ dân cư
và văn hóa ở Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra ở diện rộng và
rất đa dạng. Đây là yếu tố góp phần hình thành nên tính mở, tính tiên phong và
năng động, sáng tạo trong việc tiếp nhận cái mới, thể nghiệm cái mới trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghiên cứu lịch sử Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh cho phép phác
thảo được chân dung của Sài Gòn - thành phố ngã ba đường, vùng đất mang
nhiều nét văn hóa đa chủng tộc, với lịch sử hình thành được đánh dấu bằng các
đợt nhập cư từ nhiều địa phương trong cả nước, thậm chí từ các nước khác
trong khu vực, góp phần hình thành nên một cộng đồng đa dạng. Chính vì vậy,
một trong những đặc trưng của văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là
sự đa dạng, tính linh hoạt, năng động. Bản thân Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh là một thể thống nhất, nhưng là một sự kết hợp nhiều thành tố nhỏ hơn,
không một nơi nào ở trên đất nước Việt Nam có cái thuộc tính quan trọng:
thuộc tính mở, cấu tạo theo dạng “môđum”, có thể linh hoạt dung nạp các yếu
tố, "biến chúng thành mình mà vẫn không ràng buộc ai đánh mất mình". Chính
đặc điểm này là điều kiện thúc đẩy sự hội nhập để cùng phát triển của Thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
2.1.2.3. Đặc điểm kinh tế
Xuất phát từ vị trí, điều kiện tự nhiên và phong phú nên sự phát triển kinh
tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành và phát
triển sớm. Địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiều, rộng lớn, khí hậu ôn hòa rất
thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng lúa nước ở diện tích lớn với
năng suất cao tại khu vực Nam Bộ và khu vực Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh. Sông, rạch nhiều, dòng chảy hiền hòa rất thích hợp cho giao thông
đường thủy, thông thương buôn bán trao đổi hàng hóa. Vị trí địa lí đắc địa, nằm ở
38
nơi giao lưu quốc tế từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây; là tâm điểm của khu vực
Đông Nam Á nên thúc đẩy thương mại ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển,
không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra thế giới.
Sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp xây dựng Sài Gòn thành một
trung tâm kinh tế lớn của xứ Nam Kỳ. Cùng với sự quy hoạch và xây dựng Sài
Gòn thành một thành phố kiểu phương Tây, thực dân Pháp còn đẩy mạnh việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy để phục vụ khai thác kinh tế thuộc địa. Quá trình này
khiến cho kinh tế Sài Gòn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của nền hàng hóa tư bản
phương Tây. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn thành lập phòng thương mại, đặt trụ
sở tại Sài Gòn để điều hành thương mại tại Nam Kỳ nhằm biến Nam Kỳ thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa của các nhà máy ở chính quốc.
Giai đoạn 1954 - 1975, dưới chế độ cai trị của Mỹ và chính quyền thuộc
địa, Sài Gòn tiếp tục là trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa tại miền Nam, nhất
là lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Từ năm 1954 đến năm 1975, Mỹ đổ vào
miền Nam 23,6 tỷ đô la, trong đó viện trợ kinh tế là 7,6 tỷ [83, tr.175]. Dưới tác
động của viện trợ Mỹ, kinh tế Sài Gòn phát triển khá nhanh theo hướng kinh tế
hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Nhiều nhà máy được xây dựng có thể sản xuất nhiều
mặt hàng cho thị trường trong nước. Một số ngành công nghiệp phục vụ nhu cầu
chiến tranh phát triển rất nhanh, làm thay đổi hẳn lĩnh vực kinh tế công nghiệp
miền Nam. Phần lớn các ngành công nghiệp có nhà máy đặt tại Sài Gòn, “70%
trong tổng số 12.000 cơ sở công nghiệp của toàn miền Nam tập trung tại vùng Sài
Gòn - Gia Định - Biên Hòa” [113, tr.118].
Xuất phát từ điều kiện địa lý - tự nhiên và kinh tế - xã hội khá thuận lợi, do
đó, hội nhập kinh tế quốc tế ở Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra sâu rộng, quy mô
lớn và tốc độ cao, với nhiều hình thức liên kết với các tổ chức kinh tế ở các nước
trong khu vực và trên thế giới. Kinh tế và văn hóa có mối liên hệ biện chứng với
nhau, nên những đặc điểm kinh tế như trên, tất yếu ảnh hưởng đến sự hình thành
và biến đổi đời sống văn hóa của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Kinh tế Sài
Gòn phát triển trong mối giao lưu kinh tế đa chiều, vì thế, văn hóa cũng rất đa
39
dạng, tiếp xúc được với nhiều cái mới, tạo nên tính tiên phong trong biến đổi đời
sống văn hóa - xã hội.
2.1.2.4. Đặc điểm chính trị - xã hội và truyền thống lịch sử
Một là, ảnh hưởng của chế độ phong kiến đối với các di sản văn hóa ở
Thành phố Hồ Chí Minh không đậm nét như các vùng, miền khác trong cả nước
Do đặc điểm lịch sử, nhất là quá trình khai phá vùng đất Sài Gòn - Gia
Định - Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra muộn, trong khi chế độ phong kiến Việt
Nam đang bước vào giai đoạn thoái trào, do đó, ảnh hưởng của chế độ phong kiến
đối với vùng đất này không đậm nét như những trung tâm kinh tế - văn hóa khác,
nhất là so với Hoa Lư, Thăng Long - Hà Nội hay Phú Xuân - Huế.
Vùng đất Nam Bộ, trong đó có Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, sau quá
trình khai phá, ít nhiều có sự ảnh hưởng của chế độ phong kiến, xã hội cũng có sự
phân hóa giai cấp, nhưng quan hệ giai cấp chưa đủ khốc liệt như những vùng,
miền khác của cả nước. Quá trình khai phá vùng đất mới cũng dẫn đến sự xuất
hiện của giới điền chủ, song họ chưa hoàn thành quá trình tập trung ruộng đất,
chưa thực sự có sự cấu kết với quan lại chúa Nguyễn để hình thành giai cấp địa
chủ. Nông dân ở Gia Định bị bóc lột, nhưng chưa đủ độ gay gắt để hình thành các
phong trào đấu tranh chống lại giới điền chủ.
Thời chúa Nguyễn, sinh hoạt văn hóa của vùng đất phía Nam không được
chú ý. Từ khi khai hoang lập ấp, Sài Gòn gồm đa số là lưu dân, nông dân nghèo
khổ, “đủ tinh thần thực tiễn, nhưng thiếu chữ, đủ đạo đức làm dân, làm người mà
không thuộc kinh truyện” [60, tr.246]. Vì vậy, ảnh hưởng của nho giáo đối với
vùng đất này là không đậm nét.
Hai là, các di sản văn hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh chịu sự tác
động bởi quá trình xâm lược và chính sách nô dịch của chủ nghĩa thực dân cũ và
mới trong thế kỷ XIX
Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định năm 1859, người Pháp gấp rút
quy hoạch Sài Gòn thành một đô thị lớn nhằm phục vụ cho mục đích khai thác
thuộc địa. Trong suốt thời kỳ thực dân Pháp cai trị Việt Nam, Sài Gòn trở thành
trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Vì thế, “Sài Gòn thay đổi mau
chóng thành “Hòn ngọc Viễn Đông”, cũng mau chóng trở thành vòi bạch tuộc của
40
thực dân Pháp vơ vét tài nguyên, sản vật của Việt Nam. Và cũng sớm trở thành
một trung tâm bị bóc lột, đầu độc và sa đọa…” [113, tr.68].
Văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh còn chịu sự tác động rất lớn
bởi chính sách “đồng hóa” văn hóa của thực dân Pháp. Cùng với chính sách “chia
để trị” thì chính sách “đồng hóa" văn hóa núp dưới hình thức “khai hóa văn minh”
là một chính sách hết sức cơ bản và thâm độc của thực dân Pháp.
Để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa, chính quyền thực dân Pháp
đã cho xây dựng những công trình, như: Dinh Xã Tây - UBND Thành phố Hồ Chí
Minh; Nhà thờ; chợ Bến Thành… tạo ra một khu đô thị mới, ảnh hưởng bởi kiến
trúc phương Tây... Sài Gòn được mệnh danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông” không
phải vì nhiều tòa nhà cao tầng, hay những lâu đài tráng lệ, mà vì bố cục hài hòa,
cảnh quan mang tính nghệ thuật cao. Trong di sản kiến trúc đô thị ở Thành phố Hồ
Chí Minh, in đậm dấu ấn kiến trúc đô thị theo phong cách phương Tây hiện đại.
Sài Gòn rõ ràng mang dấu ấn Pháp, nhưng “Sài Gòn chưa bao giờ là nước Pháp.
Nếu nó mang dấu ấn của các nhà kiến trúc Pháp thì ngược lại, chính các nhà kiến
trúc cũng mang nặng dấu ấn của Sài Gòn” [116, tr.4].
Trong ý tưởng quy hoạch ban đầu, các kiến trúc sư Pháp đã nhiệt đới hóa,
bản địa hóa được kiến trúc Pháp để tạo ra những kiến trúc mang phong cách Pháp
- Việt. Kiến trúc Pháp ở Sài Gòn đã trở thành một quỹ di sản kiến trúc mang ý
nghĩa lịch sử, kết hợp hài hòa các thành phần kiến trúc và cảnh quan đô thị truyền
thống, tạo nên nét hấp dẫn riêng cho nơi đây. Nét đặc trưng giao thoa đó tập trung
chủ yếu vào các công thị, hành chính, như: Tòa nhà UBND Thành phố, Tòa án,
Nhà hát lớn, Ngân hàng.
Sau giải phóng, người dân Thành phố vẫn lưu giữ những nét đẹp này của
văn hóa phương Tây để tạo nên nét riêng của mình trong đời sống đô thị nhộn
nhịp. Hiện nay, để lưu giữ được “cái hồn Sài Gòn”, trong quá trình bảo tồn cần
giữ lại không gian sống mang bản sắc Sài Gòn, thể hiện chiều sâu ký ức về văn
hóa, như: “Sài Gòn ký ức” giới hạn bởi các con phố bao quang tòa nhà UBND và
Bưu điện Thành phố; “Sài Gòn sông nước” với đường Tôn Đức Thắng, Bến Bạch
Đằng, quảng trường Mê Linh; “Sài Gòn kẻ chợ” với khu Công viên 23/9 kết hợp
với không gian chợ Bến Thành. Giữ được phần “hồn cốt”, bản sắc riêng có của
41
một đô thị thương cảng ngã ba sông sẽ là động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 1954 - 1975, Sài Gòn tiếp tục chịu sự cai trị của chế độ Mỹ -
ngụy, là thủ phủ của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Sự thống trị của đế quốc Mỹ và
chính quyền tay sai tại miền Nam và Sài Gòn kéo dài hơn 20 năm. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thành phố Hồ Chí Minh với đặc điểm là trung
tâm đô thị ở miền Nam, một địa bàn chiến lược quan trọng, là điểm quyết chiến
chiến lược. Đứng trước thử thách nguy hiểm này, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh tiếp tục trở thành nơi đối đầu giữa truyền thống yêu nước của dân tộc và sự
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh trở
thành trung tâm của phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, từ đấu tranh
chính trị đến đấu tranh vũ trang, nhằm chống lại sự thống trị của đế quốc Mỹ.
Những phong trào yêu nước ấy đã làm cho Sài Gòn trở thành “biểu tượng văn
hóa” tiêu biểu của dân tộc với những danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”, “đất thép
Củ Chi”…trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ
XX. Lịch sử đấu tranh oai hùng của Đảng bộ và nhân dân đã tạo nên những
DSVH gắn với lịch sử phát triển của Thành phố hơn 300 năm: Địa đạo Củ Chi, 18
thôn Vườn Trầu, Bến Nhà Rồng, Khám lớn Chí Hòa…
Địa đạo Củ Chi là minh chứng “sống” cho ý chí kiên cường, trí thông minh
và là niềm tự hào của người dân Việt Nam. Ngày nay, địa đạo Củ Chi trở thành
điểm đến của du khách trong và ngoài nước, là địa danh nổi tiếng được thế giới
nhắc đến.
Không mang dáng vẻ kỳ vĩ của những kỳ quan tồn tại hàng bao thế kỷ
như Kim Tự Tháp, vườn treo Babylon, Angkor Wat… nhưng địa đạo
Củ Chi là một công trình ngầm vĩ đại với trên 200km tỏa rộng như
mạng nhện dưới lòng đất. Trong chiến tranh, hàng ngàn người con đã hi
sinh, hàng vạn ngôi nhà bị đốt phá, san phẳng, nhưng vượt lên trên tất
cả những mất mát đó, Củ Chi vẫn hiên ngang đứng vững, góp phần hết
sức quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Nơi đây quả là một kỳ quan mang tầm vóc chiến tranh độc đáo,
vừa mang chiều sân thăm thẳm của lòng căm thù và ý chí kiên cường,
42
bất khuất, vừa có ý nghĩa như biểu tượng rực rỡ của Chủ nghĩa anh
hùng dân tộc Việt Nam [21].
Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức
của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa -
Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử -
Văn hóa quốc gia. Đến với Củ Chi là đến với sự bình dị, sự bình dị ấy lấp lánh
trong những trang lịch sử, nơi này đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân
dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỉ XX.
Bến Nhà Rồng trở thành địa chỉ thiêng liêng, nơi người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, mang lại
độc lập, tự do cho dân tộc. Ngày nay, bến Nhà Rồng đã có nhiều thay đổi theo thời
gian. Sài Gòn năm xưa nay là thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã trở
thành trung tâm kinh tế lớn của đất nước, năng động và không ngừng phát triển.
Với giá trị lịch sử gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, bến Nhà Rồng đã trở thành biểu tượng của Thành phố và là niềm tự hào của
nhân dân cả nước.
Ba là, các giá trị DSVH Thành phố Hồ Chí Minh là kết quả của sự định
hướng bởi đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có đường
lối văn hóa
Trong hơn 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là chiến trường tấn công địch trên tất cả các mặt
trận, là trung tâm đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang... Trong đó, phong trào
đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc được quần chúng nhân dân hưởng ứng sôi
nổi, như: phong trào văn hóa, văn nghệ của học sinh, sinh viên thành phố với
phong trào Hát sử ca, Kháng chiến ca, Hát cho đồng bào tôi nghe. Khi đất nước
được hòa bình, thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội
(CNXH), đường lối của Đảng về văn hóa tiếp tục được quan tâm, coi trọng và
phát triển.
Trên vùng đất nổi tiếng của Địa đạo Củ Chi năm xưa đánh Mỹ và ngay
giữa lòng “Tam giác sắt” một thời rền vang bom đạn, Đảng bộ và nhân dân Thành
43
phố Hồ Chí Minh đã tạo dựng nên công trình: Đền Tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược.
Đền xây dựng để tưởng nhớ công ơn to lớn của đồng bào, chiến sĩ đã chiến đấu,
hy sinh trên vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong hai cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược Pháp và Mỹ. Là một công trình dành riêng cho Thành phố
Hồ Chí Minh, cho những thế hệ mai sau nhớ mãi, tri ân và tự hào. Được sự đồng ý
của UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược - nơi
tưởng nhớ công ơn to lớn của đồng bào chiến sĩ đã chiến đấu, hy sinh trên vùng
đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ đã được xây dựng liên hoàn với Khu di tích địa đạo, tạo thành một
quần thể tham quan thống nhất.
Đến tháng 6 năm 2016, toàn thành phố đã có 167 di tích có quyết định xếp
hạng, trong đó: 02 di tích quốc gia đặc biệt (di tích lịch sử); 55 di tích quốc gia (02
- khảo cổ học, 30 - kiến trúc nghệ thuật, 23 - lịch sử); 110 di tích cấp thành phố
(65 - kiến trúc nghệ thuật, 45 - lịch sử) [147].
Di sản văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh trong chỉnh thể DSVH Việt Nam
là hiện thân của văn hóa Sài Gòn trong quá khứ, phản ánh quá trình đấu tranh sinh
tồn của cộng đồng cư dân người Việt trên mảnh đất phương Nam từ xa xưa.
Từ những đặc điểm về vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, đặc
điểm dân cư đã tạo nên sự đa dạng, phong phú của nhiều loại hình DSVH, là
nguồn lực cho kinh tế du lịch phát triển. Tuy nhiên, cũng xuất hiện những hạn chế
cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, cụ thể: hệ thống DSVH chủ
yếu được phân bố tập trung ở khu vực trung tâm Thành phố, nơi đang diễn ra các
hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội với mức độ ngày càng nhanh, phong phú, đa
dạng. Vì vậy, yếu tố “bảo tồn” và “phát triển” cùng tồn tại trong quá trình đô thị
hóa, hiện đại hóa Thành phố. Điều đó đòi hỏi trong quá trình phát triển, các cơ
quan chức năng cần có chiến lược bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, nhằm
hạn chế sự phá hủy DSVH, bảo tồn và giữ gìn cho thế hệ sau những DSVH của
tiền nhân.
Tuy nhiên, hệ thống DSVH của Thành phố dù có giá trị lớn đến đâu, vẫn là
giá trị ảo, nó chỉ thực sự có giá trị khi có ích cho con người. Vì vậy, bên cạnh sự
44
quan tâm chỉ đạo của các cơ quan chức năng, cần phải làm cho cộng đồng cảm
nhận được giá trị văn hóa truyền thống thực sự có ích cho họ thì họ sẽ tự nguyện
bảo vệ và phát huy.
2.1.3. Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa
Bước vào thời kỳ đổi mới, do nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của văn
hóa trong đó có DSVH đối với sự phát triển bền vững của đất nước, Đảng và Nhà
nước đã có nhiều quyết sách, ban hành các văn bản pháp luật về quản lý DSVH.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII của Đảng xác định: Tiếp tục
trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử và sửa chữa các công trình văn hóa. Xây dựng
nếp sống văn minh, lành mạnh. Đấu tranh có hiệu quả chống văn hóa đồi trụy, mê
tín dị đoan, đồi phong bại tục, chống các loại tuyên truyền phản động.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương này, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam (sửa đổi) năm 1992 chủ trương: Nhà nước và xã hội cần bảo tồn, phát triển
các di sản văn hoá dân tộc, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác dụng của các di
tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam thắng cảnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) của Đảng chỉ rõ:
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Kế thừa và
phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các DSVH, nghệ
thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở
rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản
sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập
quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc… Khai thác và phát triển mọi sắc
thái và giá trị văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc trên đất nước ta…
[43, tr.111].
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VIII
(7/1998), lần đầu tiên Đảng đưa ra nghị quyết riêng về Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Trung ương
5, khóa VIII đã thể hiện sự phát triển về nhận thức và tư duy lý luận về văn hóa
của Đảng.
45
Đề cập đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, Nghị quyết
khẳng định:
Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi
của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn
hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể [44, tr.63].
Ngày 12-8-1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 38-
CT/TW “Về việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII”. Tiếp đó, ngày 17-9-1998, Chính phủ ban hành
“Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Chương trình đề cập đến Đề án
bảo tồn và phát huy các DSVH dân tộc. Nội dung cơ bản của Đề án gồm:
Một là, xây dựng phương án bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH vật thể,
phi vật thể, bao gồm các DSVH dân gian truyền thống, chú trọng các DSVH quốc
gia, DSVH đã được UNESCO công nhận, di sản cách mạng tiêu biểu và di sản
cảnh quan thiên nhiên môi trường.
Hai là, tiến hành tổng điều tra DSVH, từng bước quy hoạch có phương
thức bảo tồn và biện pháp quản lý.
Ba là, có chương trình phiên dịch, giới thiệu kịp thời kho tàng văn hóa
Hán - Nôm.
Bốn là, tiếp tục triển khai chương trình về văn hóa với 4 mục tiêu: chống
xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử; phát triển điện ảnh Việt Nam; phát triển
văn hóa, thông tin cơ sở vùng cao, vùng sâu, vùng xa; điều tra, sưu tầm, nghiên
cứu và phát huy vốn văn hóa dân tộc (văn hóa phi vật thể) [24].
Đây là những định hướng lớn trong hoạt động bảo tồn, bảo tàng trên quy
mô cả nước.
Kế thừa và phát triển quan điểm của các Đại hội trước đây, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX (2001) tiếp tục nhấn mạnh:
46
Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học,
nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc;
tôn tạo các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh; khai thác các kho
tàng văn hóa cổ truyền… chú trọng gìn giữ, phát triển các di sản văn
hóa phi vật thể, tôn tạo và quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các di
tích lịch sử; nâng cấp các bảo tàng [45, tr.208].
Ngày 29/6/2001, kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa X nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam thông qua Luật Di sản văn hóa, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002. Với
các điều khoản cụ thể, rõ ràng, phạm vi điều chỉnh của bộ luật bao gồm cả văn hóa
vật thể và phi vật thể, quy định cụ thể việc kiểm kê, sưu tầm vốn văn hóa truyền
thống của người Việt và các tộc người thiểu số; bảo tồn các làng nghề truyền
thống, các tri thức về y, nghệ sỹ bậc thầy trong các ngành nghề truyền thống; về
quản lý bảo vệ và phát huy giá trị các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cùng việc
xây dựng các bộ sưu tập và tổ chức các bảo tàng; việc mở hệ thống các cửa hàng
mua bán cổ vật, lập các bảo tàng và sưu tập tư nhân; thống nhất việc sử dụng các
nguồn thu và trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp ngân sách cho hoạt
động bảo vệ và phát huy các giá trị DSVH…
Luật Di sản văn hóa được ban hành nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị
DSVH, đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tăng cường
hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia
bảo vệ và phát huy các giá trị DSVH. Luật Di sản văn hóa là một bước tiến, thể
hiện sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân về tài sản văn hóa quốc gia, là cơ sở
pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị DSVH ở Việt Nam.
Trên cơ sở những định hướng về việc xây dựng và phát triển văn hóa của
Đảng, ngày 31-7-2007, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu
quốc gia về văn hóa giai đoạn 2006 - 2010. Một trong những mục tiêu quan trọng
của Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2006 - 2010 là nhằm
ngăn chặn nguy cơ xuống cấp các di tích và sự hủy hoại văn hóa phi vật thể. Bảo
47
tồn và phát huy giá trị của các di tích, thắng cảnh và vốn văn hóa phi vật thể để trở
thành những sản phẩm văn hóa có giá trị, phục vụ công tác giáo dục truyền thống
văn hiến, phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa của toàn xã hội nói chung và nhu cầu
phát triển du lịch nói riêng. Tiếp đó, ngày 06/5/2009, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020. Chiến lược xác định phạm vi
văn hóa bao gồm 05 lĩnh vực chủ yếu, trong đó có lĩnh vực DSVH và xác định
mục tiêu phát triển văn hóa đến năm 2020 trên lĩnh vực DSVH là:
Tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt
đẹp của văn hoá dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc
độc đáo của văn hoá các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng
cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam, tập trung xây
dựng những giá trị văn hoá mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động
trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới,
làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời
đại [171, tr.16].
“Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là nhiệm vụ then chốt của
Chiến lược phát triển văn hoá” [171, tr.18]. Như vậy, Chiến lược phát triển văn
hóa của Chính phủ đã khẳng định rất rõ nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị
của di tích lịch sử - văn hóa và việc gắn kết bảo tồn với phát huy các giá trị DSVH
với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) nhấn mạnh, công tác bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa nhằm:
... Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật và sở
hữu trí tuệ về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật
thể của dân tộc... Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn
nghệ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa với phát triển du lịch và
hoạt động thông tin đối ngoại [47, tr.224].
Ngày 5-9-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1211/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn
48
2012 - 2015. Đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, mục tiêu
cụ thể của Chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2015 là: Hỗ trợ tu bổ, tôn tạo
tổng thể cho khoảng 300 di tích, khu di tích được công nhận di tích cấp quốc gia
và di tích đặc biệt quan trọng; hỗ trợ chống xuống cấp, tu bổ cấp thiết cho 1.200
đến 1.500 di tích quốc gia. Hoàn thành tổng kiểm kê giá trị văn hóa phi vật thể
trên cả nước và xây dựng bản đồ phân bố giá trị văn hóa phi vật thể; tiến hành 500
dự án sưu tầm bảo tồn lưu giữ văn hóa phi vật thể [27].
Những quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước đã chỉ ra phương
hướng cơ bản trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dân tộc trong
thời kỳ mới. Đồng thời, góp phần định hướng cho các Đảng bộ các tỉnh, thành phố
trên cả nước thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phù hợp
với điều kiện thực tế của địa phương mình.
Như vậy, có thể thấy, quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của công tác
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH. Theo quan điểm của Đảng, DSVH là kết
tinh những giá trị của bản sắc dân tộc, là "hồn cốt" của dân tộc. Do vậy, bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH góp phần phát huy năng lực nội sinh của dân tộc, tạo
động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ hai, DSVH là kho tàng văn hóa phong phú của dân tộc, bao gồm các di
tích lịch sử - văn hóa; các DSVH vật thể và phi vật thể của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam; những kiến trúc nghệ thuật và cảnh quan của đất nước; các phong tục
tập quán của đồng bào các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Tất cả những DSVH
đó tạo nên một nền văn hóa đa sắc, giầu giá trị cổ truyền và mang đậm bản sắc
dân tộc. Nếu biết khơi dậy và phát huy kho tàng DSVH đó sẽ tạo động lực thúc
đẩy kinh tế nói chung, đặc biệt là kinh tế du lịch phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là nhiệm vụ của các cấp ủy
Đảng, chính quyền các cấp, các ngành, các địa phương và toàn dân. Trong đó,
ngành văn hóa những người hoạt động văn hóa có vai trò quan trọng. Bên cạnh
đó, cần sự chung tay, góp sức của các tập thể, cá nhân và mọi người dân.
49
2.1.4. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở Thành
phố Hồ Chí Minh trước năm 1998
Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước bước vào thời kỳ mới- thời kỳ
hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước xây dựng CNXH. Trong thời kỳ mới, Đảng
chủ trương tiếp tục đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, trong đó có cách mạng về tư
tưởng - văn hóa. Đường lối văn hóa trong thời kỳ cả nước xây dựng CNXH (1975
- 1986) là xây dựng nền văn hóa XHCN, mang đậm bản sắc dân tộc.
Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử và DSVH, ngày 31-3-
1984, Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh. Tiếp đó, ngày 32-12-1985, Hội đồng Bộ trưởng
ban hành Nghị định quy định việc thi hành Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch
sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh đã đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân trong việc bảo vệ DSVH. Trong đó
qui định: Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước đối với DSVH, thông
qua việc kiểm kê, đăng ký, công nhận chế độ bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử - văn
hóa trên địa bàn cả nước, UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước DSVH theo
qui định của Hội đồng Bộ trưởng. Ngành văn hóa từ Trung ương (Bộ Văn hóa)
đến cơ quan văn hóa ở các địa phương có trách nhiệm cùng UBND các cấp thực
hiện việc bảo vệ DSVH. Pháp lệnh và Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh
xác định nhà nước bảo hộ DSVH thuộc sở hữu tập thể hoặc cá nhân và được
hướng dẫn, giúp đỡ trong việc bảo quản, sử dụng. Khi chuyển quyền sở hữu di
tích lịch sử, văn hóa thuộc sở hữu tập thể hoặc cá nhân, người chủ phải báo trước
cho UBND xã, phường, thị trấn biết và UBND xã, phường, thị trấn phải báo kịp
thời với Sở Văn hóa và Thông tin tỉnh, thành phố. Đồng thời, nghiêm cấm việc
làm hư hại, tiêu hủy, chiếm giữ trái phép di tích lịch sử, văn hóa, nghiêm cấm việc
mua bán trao đổi trái phép di tích lịch sử - văn hóa. Cấm mang di tích lịch - văn
hóa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp đặc biệt được Chủ tịch hội đồng Bộ
trưởng cho phép.
Những văn bản pháp luật nói trên còn qui định tất cả những di tích lịch sử -
văn hóa không kể thuộc sở hữu của ai đều phải được đăng ký, kiểm kê, công nhận
50
để đặt dưới quyền quản lý thống nhất của nhà nước. Để bảo vệ tốt di tích lịch sử -
văn hóa, các văn bản Pháp lệnh và Nghị định còn qui định việc khen thưởng tập
thể hoặc cá nhân có công phát hiện, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử -
văn hóa và xử phạt những người nào vi phạm những điều qui định trong pháp lệnh
bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh.
Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng
cảnh là văn bản pháp luật cao nhất được vận dụng để bảo vệ DSVH cho đến trước
khi có Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa
X kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29-6-2001.
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở vị trí trung tâm của các tỉnh phía Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Thành phố là
nơi diễn ra các cuộc đấu tranh, chiến đấu ác liệt với kẻ thù. Vì vậy, nơi đây có
nhiều địa chỉ đỏ nhất và khá nhiều di tích lịch sử - cách mạng, DSVH.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của các di tích lịch sử - cách mạng và
DSVH nên ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, quán triệt đường lối
văn hóa của Đảng, Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chủ trương
đẩy mạnh tẩy trừ những tàn tích của nền văn hóa thực dân; đồng thời, chỉ đạo các
cơ quan chức năng tiến hành công việc điều tra, sưu tầm tư liệu lịch sử về các di
tích này.
Từ năm 1976, các cơ quan chuyên môn thuộc Sở Văn hóa - Thông tin
Thành phố (nay là Sở Văn hóa - Thể thao) đã tiến hành khảo sát các di tích, điều
tra điền dã các sự kiện lịch sử để xây dựng bia tưởng niệm và bia căm thù tại một
số di tích của các quận, huyện như: cầu Bến Nọc (phường Tăng Nhơn Phú A,
Quận 9), nơi bọn thực dân Pháp đã bắn và vứt xác những người yêu nước bị chúng
giam giữ tại bót Giây Thép; Ngã Ba Giồng (ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện
Hóc Môn), nơi thực dân Pháp sát hại các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng
Lưu và nhiều chiến sĩ cách mạng tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ; cầu Thị
Nghè, nơi vào ngày 23-9-1945 quân và dân Thị Nghè cùng nhân dân thành phố vũ
trang bằng vũ khí thô sơ đã lập ra mặt trận Thị Nghè ngăn chặn quân Pháp trở lại
xâm lược; cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), nơi Nguyễn Văn Trỗi đặt
bom định ám sát tên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mac Namara nhân chuyến sang
51
thăm Việt Nam năm 1964, trên đường từ sân bay Tân Sơn Nhất về dinh Độc
Lập…Các tấm bia này ghi vắn tắt sự kiện hay nhân vật gắn với di tích để mọi
người biết, đồng thời cũng có tác dụng nhắc nhở về việc bảo vệ di tích, ngăn ngừa
các hành vi xâm hại như đập phá hay lấn chiếm di tích.
Cùng với việc điều tra, sưu tầm tư liệu lịch sử về các di tích, các cơ quan
chức năng của Thành Phố đã triển khai việc lập hồ sơ để công nhận, xếp hạng các
di tích. Việc xếp hạng di tích, một mặt, khẳng định giá trị của di tích, mặt khác,
đặt ra trách nhiệm cho chính quyền và người dân Thành phố phải giữ gìn danh
hiệu đã được công nhận bằng việc giữ gìn và phát huy giá trị di tích.
Tuy nhiên, trong giai đoạn (1975 - 1986), Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và cả nước nói chung, phải đối mặt với những khó khăn, thử thách từ công
cuộc tái thiết và phát triển đất nước sau chiến tranh. Mặt khác, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan nên giai đoạn này, công tác bảo tồn DSVH, đặc biệt
là công tác bảo tồn các di tích lịch sử - văn hóa, hầu như chỉ do Sở Văn hóa -
Thông tin phụ trách. Thêm vào đó, do tình hình khó khăn của nền kinh tế cũng
như những yếu kém về công tác quản lý Nhà nước nên một số di tích đã bị xuống
cấp; đồng thời, ý thức bảo tồn DSVH chưa cao đã làm hư hại một số công trình có
giá trị.
Bước vào thời kỳ đổi mới, sự thay đổi cơ chế quản lý bao cấp sang cơ chế
thị trường định hướng XHCN đã tạo những thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của
cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Bên cạnh sự phát triển
năng động của mô hình kinh tế thị trường, một số DTLS, văn hóa đã bị xuống
cấp, nhiều công trình tiêu biểu như các biệt thự cổ, công sở có kiến trúc đẹp,
thậm trí cả các ô phố - dãy phố đã bị phá bỏ hoặc đang đứng trước nguy cơ bị
thay đổi. Xét về mặt “Bảo tồn di sản văn hóa”, một số chuyên gia đã nhận xét:
đây là thời kỳ mà các thách thức đặt ra cho công tác bảo tồn DSVH nhiều so với
các giai đoạn trước đây.
Nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của văn hóa nói chung, các giá trị của
DSVH nói riêng, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI
(1996) nhận định: “Di tích lịch sử văn hóa bước đầu được chú ý tôn tạo” [36,
tr.30]. Trong phương hướng nhiệm vụ 5 năm (1996 - 2000), Đại hội nhấn mạnh:
52
“xây dựng quần thể công trình lịch sử - văn hóa dân tộc tại Thủ Đức theo dự án
tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận… Xây dựng thành phố theo
đúng quy hoạch, chú trọng mỹ thuật kiến trúc mang bản sắc dân tộc và sắc thái
riêng của Thành phố” [36, tr.96].
Trong giai đoạn đầu đổi mới, Thành phố đã ý thức được phải giữ gìn “diện
mạo, cốt cách” để trong quá trình phát triển, bên cạnh việc giữ gìn giá trị truyền
thống, đi đôi với việc tạo ra những giá trị hiện đại riêng cho một trung tâm kinh tế
- văn hóa của vùng Nam Bộ.
Năm 1994, Phòng Di tích của Bảo tàng Cách mạng Thành phố tiến hành
điều tra di tích trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, công việc cũng chỉ dừng lại ở
mức độ ghi tên và địa chỉ của các công trình địa điểm có dấu hiệu là di tích, trong
đó tập trung chủ yếu là các đình, miếu, chùa. Trừ di tích “Dinh Độc Lập”, “Tòa
Đại sứ Mỹ” được đặt cách xếp hạng năm 1986 và Địa đạo Củ Chi được xếp hạng
năm 1979, đến năm 1998, toàn thành phố có 47 di tích được xếp hạng di tích cấp
quốc gia, 8 di tích cấp thành phố [11, tr.45].
Bên cạnh đó, lĩnh vực tham mưu quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh đã được các cơ quan thuộc hệ thống ngành văn hóa từ
phòng, ban của Sở Văn hóa - Thông tin, đến phòng Văn hóa - Thông tin các quận,
huyện chú ý. Từ năm 1986 đến năm 1998, đã một số văn bản tham mưu, đề xuất
giải quyết những vụ việc liên quan như việc làm xâm hại, lấn chiếm di tích. Các di
tích bị xâm hại hoặc bị lấn chiếm đều bắt nguồn từ nguyên nhân: Do một số người
mới đầu xin ở tạm tại di tích với lý do để bảo vệ, hoặc do không có chỗ ở, xin ở
tạm và được các Ban Quản trị, Ban Trị sự tại các di tích giải quyết, nhưng sau đó
cho họ ở luôn (hiện tượng này phổ biến ở những di tích kiến trúc nghệ thuật: đình,
chùa, hội quán). Để giải quyết tình trạng xâm hại di tích này, nhiều nơi, Ban Quản
trị và Ban Trị sự đã tích cực phối hợp với chính quyền địa phương giải quyết chỗ
ở và hỗ trợ kinh phí di dời, như: Hội quán Ôn Lăng, Hội quán Hà Chương.
Công tác trùng tu, sửa chữa, bảo quản di tích cũng được sự quan tâm của
Nhà nước cũng như của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan đầu tư kinh phí
để tu bổ, bảo quản di tích thông qua công tác điều tra nắm thực trạng các di tích để
có kế hoạch tu bổ hàng năm. Công tác tu bổ, bảo quản di tích nhằm bảo vệ nguyên
53
trạng và sự bền vững để bảo tồn lâu dài di tích tại Thành phố Hồ Chí Minh được
thực hiện trên cơ sở ưu tiên DTLS, kết hợp với sự vận động xã hội hóa. Một số di
tích đã được trùng tu, tu bổ với tinh thần xã hội hóa cao đạt kết quả tốt. Như di
tích tiêu biểu là: “Hội quán Tuệ Thành”, đã được Ban Trị sự đầu tư gần 10 tỷ
đồng; “Hội quán Ôn Lăng”, “Tịnh xá Ngọc Phương”… đã được Ban Quản trị, Trị
sự dùng nguồn quỹ do bá tánh đóng góp hàng tỷ đồng để tu bổ, trùng tu di tích.
Nhìn chung, từ năm 1986 đến 1998, khi Pháp lệnh Bảo vệ DTLS - văn hóa
và danh lam thắng cảnh được ban hành, hoạt động bảo vệ DTLS trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh đã được đẩy mạnh và từng bước đem lại hiệu quả tích
cực trong hoạt động bảo tồn DSVH.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động bảo tồn DSVH trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh hơn 10 năm đầu đổi mới còn một số hạn chế:
Một là, một số trường hợp di tích bị xâm hại do lịch sử để lại vẫn chưa
được giải quyết dứt điểm, tình trạng di tích bị xuống cấp vẫn chưa được trùng tu,
tu bổ và sửa chữa kịp thời hoặc tình trạng sửa chữa, tu bổ làm biến dạng yếu tố
gốc và tính nguyên trạng đã làm cho một số di tích bị giảm giá trị v.v.. Tình trạng
mua bán di vật cổ vật trái phép vẫn còn diễn ra. Phương tiện bảo quản hiện vật của
một số bảo tàng vẫn chưa được trang bị hiện đại, đồng bộ. Lực lượng trực tiếp
hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ DSVH còn thiếu, trình độ còn yếu so với nhu cầu
đặt ra, đặc biệt là ở cơ sở và cấp quận, huyện và ở một số bảo tàng.
Hai là, trước sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường và xu hướng phát
triển phá vỡ quy hoạch đô thị của Thành phố Hồ Chí Minh, sẽ diễn biến phức tạp
đến hoạt động bảo vệ di sản trên địa bàn thành phố, cụ thể như:
- Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các cấp, các ngành và các
địa phương cũng như các cơ quan chức năng về vị trí, vai trò của việc bảo tồn và
phát huy các giá trị DTLS và DSVH đối với sự phát triển bền vững của Thành phố
chưa đúng mức, do vậy, chưa có sự quan tâm chỉ đạo sát sao, kịp thời, dẫn đến
tình trạng nhiều DTLS và DSVH chưa được tôn tạo, bảo tồn và trùng tu đúng
mức. Vì thế, chưa phát huy được những giá trị của di sản đối với sự phát triển kinh
tế nói chung và kinh tế du lịch nói riêng.
54
- Vấn đề giải quyết xâm hại di tích chưa được giải quyết triệt để do chưa có
giải pháp đồng bộ. Bên cạnh đó, việc phát triển đô thị, nếu không được nghiên
cứu, qui hoạch hợp lý, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan, dẫn
đến tình trạng phá vỡ cảnh quan, thậm chí dẫn đến sự xâm hại di tích một cách vô
ý thức.
- Việc mua bán di vật, cổ vật diễn ra phổ biến, trong khi đó, việc triển khai
đăng ký di vật, cổ vật nhằm giúp cho việc quản lý, bảo tồn DSVH chưa được triển
khai thực hiện, dẫn đến chảy máu cổ vật, ảnh hưởng lớn đến việc bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH.
2.2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA NHỮNG NĂM 1998 - 2005
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hội tụ văn hóa 3 miền Nam - Trung - Bắc
và giao lưu quốc tế: Văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ và văn hóa Âu Mỹ thể
hiện qua các phong tục, tập quán, văn hóa, trang phục, ẩm thực, âm nhạc… Thành
phố là tiêu biểu cho sự đa dạng văn hóa, vừa giữ được bản sắc riêng, vừa thể hiện
sự hòa đồng giao lưu văn hóa.
Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trong những trung tâm “hội tụ” và
chứa đựng nhiều DSVH dân tộc. Lịch sử phát triển của Thành phố là lịch sử đấu
tranh kiên cường trong sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước và anh dũng
chống ngoại xâm, như nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã nhận xét:
Lịch sử phát triển của Thành phố đã chứng minh rằng nhân dân
thành phố đã giữ vững và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc như: yêu nước, thương nòi, đoàn kết thống nhất, kiên cường
trong đấu tranh dựng nước và giữ nước; coi trọng nhân nghĩa; biết
hội nhập văn hóa để phát triển… Bản sắc văn hóa dân tộc ở Thành
phố như một sức sống tiềm năng, bình thường thì như tia lửa nhỏ,
khi có dịp thì bùng lên sáng chói, tiêu diệt bạo tàn, phát huy cao độ
tinh thần dân tộc [113, tr.18].
55
Trong suốt quá trình phát triển, vùng đất này luôn có sự giao lưu, tiếp biến,
hội tụ và lan tỏa văn hóa với nhiều nền văn hóa dân tộc. Hiện nay, trên địa bàn
Thành phố còn lưu giữ được những di tích và hiện vật của các nền văn hóa cổ
như: văn hóa Óc Eo, văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai và văn hóa cận đại của
người Việt, người Hoa, người Khmer và người Chăm.
Cùng với hệ thống đền chùa, miếu mạo, tại Thành phố Hồ Chí Minh còn
lưu giữ hệ thống các DTLS - văn hóa, thể hiện tinh thần dân tộc qua các thời kỳ
lịch sử: Bến Nhà Rồng, bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Chứng tích chiến tranh,
Địa đạo Củ Chi, đền thờ Bến Dược, Bưu điện Thành phố, tòa nhà UBND Thành
phố, Dinh Thống Nhất, Thảo Cầm Viên, chợ Bến Thành…
Bên cạnh việc bảo tồn và phát huy các lễ hội truyền thống, Thành phố Hồ
Chí Minh còn chú ý tạo ra bản sắc riêng, phù hợp với một trung tâm văn hóa năng
động, sáng tạo. Thành phố Hồ Chí Minh còn là thành phố đi tiên phong trong cả
nước trong các hoạt động văn hóa đọc. Đường sách vào mỗi dịp Tết cũng là một
trong những hoạt động làm nên sinh khí văn hóa của Thành phố bên cạnh không
gian rộn ràng và rực rỡ của đường hoa. Mục đích của Lễ hội nhằm tuyên truyền,
giáo dục về lịch sử, cội nguồn, văn hóa, tâm hồn và nhân cách con người Việt
Nam; hướng đến xây dựng một đô thị văn minh, hiện đại, phát triển bền vững, cân
đối, hài hòa giữa những thành quả kinh tế với tiến bộ văn hóa xã hội bằng sức
mạnh truyền thống yêu nước, bản lĩnh trí tuệ Việt Nam và sức mạnh đoàn kết
Quốc tế trong quá trình xây dựng và phát triển Thành phố.
Thành phố cũng là nơi hội tụ của văn hóa vùng sông nước Nam Bộ. Những
năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, âm nhạc tài tử ở Nam Bộ phát triển mạnh ở
cả miền Đông và miền Tây, ở Sài Gòn, phát triển sôi nổi vào cuối thập niên thứ
hai của thế kỷ XX. Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nào có thể
khẳng định loại hình nghệ thuật này đến từ đâu mà chỉ biết rằng, loại hình này
được hình thành từ nền nhạc lễ cung đình của người Việt phương Nam biến thành
“điệu tâm hồn” của những người tha phương mở cõi, mà người ta thường gọi là
nhạc tài tử Nam Bộ.
Có thể khẳng định rằng, DSVH dân tộc ở Thành phố Hồ Chí Minh đã và
đang được bảo tồn và phát huy các giá trị. Đây là cơ sở tiếp thêm sức mạnh cho
56
các thế hệ hôm nay bước tiếp vào thời kỳ phát triển mới của đất nước nói chung,
của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của văn hóa nói chung, các giá trị của
DSVH nói riêng, Thành phố đã có ý thức cần phải giữ gìn "diện mạo, cốt cách" để
trong quá trình phát triển, bên cạnh việc giữ gìn giá trị truyền thống, đi đôi với
việc tạo ra những giá trị hiện đại riêng cho Thành phố - một trung tâm kinh tế -
văn hóa của vùng Nam Bộ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa
VIII “Về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” có ý nghĩa chiến lược, đã xác định những quan điểm, phương hướng, nhiệm
vụ, giải pháp và xây dựng, phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh
đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII).
Phân tích những thành tựu đạt được, Chương trình hành động của Thành
ủy khẳng định:
Cùng với việc bảo tồn, nâng cấp các công trình kiến trúc văn hóa vốn
có trước đây, Thành phố đã xây dựng thêm một số trung tâm hoạt động
vui chơi giải trí như: Công viên Lê Văn Tám, Hoàng Văn Thụ, Nhà hát
Hòa Bình, Kỳ Hòa, Đầm Sen, Suối Tiên, Nhà văn hóa các quận,
huyện…Hệ thống các nhà văn hóa của đoàn thể Lao Động, Thanh
Niên, Phụ Nữ, Thiếu nhi và các Câu lạc bộ luôn luôn duy trì được sự
nhịp độ hoạt động sôi nổi... [155, tr.3].
Đề cập đến hạn chế trong phát triển văn hóa, Chương trình chỉ rõ:
Về giáo dục phát huy lòng yêu nước, Đảng bộ chưa xây dựng đúng
mức ý thức bảo vệ nền kinh tế độc lập và văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc… Trong giao lưu văn hóa chưa chú ý đề cao văn hóa truyền thống
Việt Nam (trong tranh phục, ăn uống, trong văn học nghệ thuật, trong
ứng xử…), còn để văn hóa phẩm nước ngoài xâm nhập tràn lan, thiếu
chọn lọc kỹ [155, tr.4].
57
Trên cơ sở phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế trong xây dựng và
phát triển văn hóa, Thành ủy xác định mục tiêu chung: Nâng cao nhận thức và tạo
được sự chuyển biến có ý nghĩa trong cán bộ, đảng viên, nhân dân về vị trí, vai trò
của văn hóa; phát động sâu rộng trong hệ thống chính trị và trong xã hội phong
trào hành động mạnh mẽ, bền bỉ thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa
VIII), làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ
giữa người với người.
Thành ủy xác định chiến lược phát triển văn hóa ở Thành phố trong những
năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là: Gắn chặt chiến lược xây dựng, phát triển
văn hóa với chiến lược xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội…Xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, đa dạng, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để xứng
đáng là một trung tâm văn hóa lớn của cả nước, bảo đảm cho công cuộc xây dựng,
bảo vệ và phát triển Thành phố với bước đi vững chắc, phù hợp với lợi ích thiết
thân và hạnh phúc của từng gia đình, từng con người gắn với cộng đồng xã hội.
Để thực hiện những mục tiêu trên, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã
xác định 5 chương trình cụ thể, trong đó có Chương trình bảo tồn và phát triển
các giá trị DSVH. Mục tiêu, nhiệm vụ được Thành ủy xác định là: Công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH phải chú ý đến đặc thù của cấu trúc cộng đồng
cư dân thành phố là sự gắn kết của cư dân nhiều địa phương trong nước, của nhiều
dân tộc với nếp sống, sinh hoạt, phong tục, tập quán, tín ngưỡng ảnh hưởng lẫn
nhau. Trong đó, đặc biệt chú trọng những vấn đề sau:
(1) Nghiên cứu truyền thống văn hóa tốt đẹp của quá trình hình thành và
phát triển Thành phố nối tiếp với chiều dài lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc
để tiếp tục phát huy trong giai đoạn phát triển mới, gắn liền với bối cảnh mới
trong khu vực và thế giới.
(2) Có kế hoạch giao lưu văn hóa, giới thiệu văn hóa của dân tộc với
nước ngoài và tiếp thu có chọn lọc cái hay, cái đẹp, tinh hoa của văn hóa cổ
kim, Đông Tây; đồng thời, ngăn ngừa sự xâm nhập của các luồng tư tưởng, các
sản phẩm văn hóa và giới thiệu văn hóa dân tộc trong hoạt động du lịch với
người Việt Nam và nước ngoài…
58
(3) Tạo điều kiện cho việc xây dựng phát triển văn hóa trong người Hoa,
Khmer, Chăm, các dân tộc khác và trong các tôn giáo, nhằm phát huy ý thức trách
nhiệm cùng tham gia xây dựng phát triển Thành phố [155, tr.8].
Cùng với việc xác định rõ chương trình cụ thể cho phát triển văn hóa, Đảng
bộ Thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng các công trình văn
hóa phù hợp với đặc điểm của một trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng đất Nam
Bộ. Đó là: Xúc tiến xây dựng Công viên lịch sử - văn hóa dân tộc Thành phố,
phấn đấu khởi công xây dựng khu tưởng niệm Vua Hùng vào dịp giỗ tổ Hùng
Vương năm 2000. Bên cạnh đó, Đảng bộ và Chính quyền Thành phố Hồ Chí
Minh đã có những nỗ lực nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, nhiệt tình cách
mạng, khôi phục truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc thông qua việc tổ chức
các lễ hội: Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Sài Gòn 300 năm, du lịch Đất Phương
Nam, Giao thừa chào đón Thiên niên kỷ - năm 2000, Hương sắc miền Nam… Các
lễ hội đã thu hút một lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân tham gia và đạt
được nhiều kết quả tích cực. Những thành công đó cho thấy tiềm năng văn hóa Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là rất lớn.
Ngày 28-10-1998, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Kế hoạch
số 30-KH/TU Triển khai quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 và Chương trình
hành động của Thành ủy. Kế hoạch xác định, xây dựng các đề án nhằm cụ thể hóa
một số nội dung chương trình hành động của Thành ủy như: Chương trình nâng
cao kiến thức lãnh đạo và quản lý về văn hóa; Chương trình bảo tồn và phát triển
các DSVH… [156].
Để triển khai Chương trình hành động của Thành ủy, thực hiện Nghị quyết
Trung ương bốn (khóa VIII), Ban Thường vụ Thành ủy đề ra Kế hoạch số 37-
KH/TU Thực hiện chương trình nâng cao kiến thức lãnh đạo và quản lý về văn
hóa cho cán bộ lãnh đạo các cấp của Thành phố nhằm giúp người học có kiến
thức cơ bản về nội dung, bản chất và quy luật phát triển của văn hóa. Qua đó, góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của cán bộ đối với các hoạt động văn
hóa nói chung, hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH nói riêng.
Là trung tâm của khu vực phía Nam và cả nước, đóng vai trò, vị trí quan
trọng trong khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh luôn chịu sự tác động
59
sâu sắc bởi bối cảnh chung của đất nước và quốc tế. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ
và nhân dân Thành phố luôn phát huy ưu thế để phát triển; đó là những giá trị văn
hóa của dân tộc, là “truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ý thức tự hào về cội nguồn
và lòng yêu nước được giữ gìn, phát huy” [37, tr.17]. Để phát huy ưu điểm đó,
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ xây dựng và phát triển thành
phố 5 năm tiếp theo (2001 - 2005) là: “Đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH, tổ chức nghiên cứu sâu những đặc trưng văn hóa truyền thống của
Thành phố…” [37, tr.51].
Bên cạnh việc xác định những nhiệm vụ về phát triển kinh tế, Đại hội đại
biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VII (năm 2000) nhấn mạnh, cần
tập trung triển khai, tổ chức thực hiện có hiệu quả 12 chương trình (và công trình)
trọng điểm. Trong đó, Chương trình trọng điểm thứ 12 có nội dung: Xây dựng
Khu tưởng niệm các Vua Hùng trong Công viên lịch sử văn hóa dân tộc [37,
tr.58]. Đây được coi là công trình tiêu biểu của khu vực phía Nam và là nơi tôn
vinh các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam.
Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII (2005) đánh giá:
“những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp được chú ý phát huy… Công trình Khu
tưởng niệm các Vua Hùng trong Công viên lịch sử văn hóa các dân tộc đã hoàn
thành những hạng mục chính” [38, tr.24]. Trên lĩnh vực văn hóa, Đại hội xác định
phương hướng, nhiệm vụ trong 5 năm (2006 - 2010) là: “phát triển văn hóa của
Thành phố theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân Thành phố” [38, tr.58].
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, bên cạnh những đột phá sáng
tạo về phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh luôn xác định văn hóa là một trong những lĩnh vực quan trọng tạo nên sự
phát triển bền vững của Thành phố.
Những chủ trương của Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh về
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là những định hướng để các cấp, các ngành,
các địa phương trên địa bàn Thành phố thực hiện hiệu quả hơn công tác này, góp
phần xây dựng Thành phố ngày càng giàu bản sắc, văn minh, hiện đại, nghĩa tình.
60
2.2.2. Quá trình chỉ đạo bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa
2.2.2.1. Công tác bảo tồn các giá trị di sản văn hóa
Quán triệt Chương trình hành động của Thành ủy, ngày 17-2-1999, UBND
Thành phố Hồ Chí Minh đã thông qua Chương trình hành động bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình xác định rõ
phương hướng mục tiêu: Thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) và
Chương trình hành động của Thành ủy, phương hướng mục tiêu bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH trên toàn Thành phố là tiến hành tổng điều tra DSVH, xây
dựng các phương án bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể, phi vật thể bao
gồm các DSVH dân gian truyền thống, chú trọng các DSVH quốc gia, DSVH tinh
thần tiêu biểu, độc đáo ở địa phương. Để thực hiện được phương hướng mục tiêu
trên, Chương trình tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu:
Thứ nhất, tạo phong trào đưa mọi người đến với DSVH và đưa DSVH đến
với mọi người, thực hiện xã hội hóa công tác bảo tồn DSVH Việt Nam tại Thành
phố Hồ Chí Minh như: Mở lớp tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên về cấu trúc bảo
tồn di tích, tuyên truyền phổ biến sâu rộng pháp lệnh bảo vệ và sử dụng DTLS,
văn hóa, danh lam thắng cảnh trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trong
nhà trường, Đoàn Thanh niên, phụ nữ… các ban quý tế, tôn giáo… nâng cao trách
nhiệm gìn giữ bảo vệ, tôn tạo di tích trong các tầng lớp nhân dân; đồng thời, phát
huy tác dụng di tích, DSVH trong giáo dục truyền thống. Có những công trình
nghiên cứu công phu giới thiệu các di tích để mọi người đến với di tích, hiểu và
trân trọng những gì di tích chứa đựng và lưu giữ cho đời sau.
Thứ hai, xây dựng hệ thống tiêu chí phân loại DSVH, cụ thể:
- Di sản văn hóa về lưu niệm sự kiện lịch sử: là các di vật, lời truyền khẩu
về lịch sử gắn với sự kiện lịch sử trọng đại hoặc những dấu mốc tiêu biểu trong
một giai đoạn lịch sử.
- Di sản văn hóa về lưu niệm danh nhân: là di tích, di vật, lời truyền khẩu
liên quan đến sự nghiệp và cuộc đời hoạt động của các vị anh hùng dân tộc, những
nhà hoạt động xuất sắc của Thành phố.
61
- Di sản văn hóa về mỹ thuật, kiến trúc, nghề thủ công: rất phong phú, đa
dạng của Thành phố.
- Di tích khảo cổ trên địa bàn Thành phố.
- Cảnh đẹp Thành phố, bao gồm các khu vực bảo tồn cảnh quan về môi
trường, môi sinh.
Thứ ba, trên cơ sở hệ thống tiêu chí phân loại di tích, tiến hành kiểm kê
khảosát sưu tầm tư liệu, lập hồ sơ thể hiện đặc trưng của di sản.
Thứ tư, lập quy hoạch tổng thể bảo tồn và khai thác di sản, trong tôn tạo
bảo tồn di tích vận dụng phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Thứ năm, xây dựng quy chế bảo tồn DSVH.
Trên cơ sở Chương trình bảo tồn cảnh quan kiến trúc, ngày 17/5/1996,
UBND Thành phố đã ban hành Thông báo số 46/TB-UB-QLĐT về việc bảo tồn
cảnh quan kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó nêu rõ “tạm xác định 108
đối tượng đã được Chương trình nghiên cứu bảo tồn cảnh quan kiến trúc đưa vào
danh mục và sớm soạn thảo quy chế (tạm thời) để thực thi công tác này trên địa
bàn Thành phổ Hồ Chí Minh”. Mặc dù chưa được pháp lý hóa, song Thông báo số
46/TB-UB-QLĐT của UBND Thành phố vẫn là văn bản chính để các cơ quan
quản lý nhà nước tham khảo trong công tác bảo tồn cảnh quan kiến trúc.
* Công tác bảo tồn các di tích lịch sử
Thực hiện chủ trương của Đảng bộ Thành phố về đẩy mạnh công tác bảo
tồn DSVH, năm 1998, Ban Quản lý DTLS văn hóa và Danh lam thắng cảnh
Thành phố thuộc Sở Văn hóa và Thông tin được thành lập theo Quyết định số
3154/QĐ-UB ngày 16-6-1998 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh và chính thức
hoạt động từ tháng 3-1999 đến tháng 5-2006.
Tháng 11-1998, UBND Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo Sở Văn hóa -
Thông tin tiến hành khảo sát thực tế tình trạng di tích nhằm đề xuất biện pháp
giải quyết.
Xuất phát từ tình hình thực tế tại Thành phố, đồng thời, thực hiện chỉ đạo
của Bộ Văn hóa - Thông tin, Cục Bảo tồn - Bảo tàng và chỉ đạo trực tiếp của Sở
Văn hóa - Thông tin Thành phố, Ban Quản lý DTLS văn hóa và danh lam thắng
cảnh Thành phố đã lập kế hoạch Tổng điều tra di tích. Công tác này được tiến
62
hành trong 4 năm (1999 - 2002), nhằm tạo cơ sở cho việc phân loại, quy hoạch di
tích, giúp cho việc quản lý, bao gồm: phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy tác
dụng của di tích, tiến tới quy hoạch di tích trên địa bàn Thành phố. Đối tượng điều
tra là tất cả các di tích cách mạng; di tích tín ngưỡng dân gian là hệ thống các
đình, chùa. Kết quả điều tra bước đầu có ý nghĩa quan trọng là nắm được những
vấn đề cơ bản liên quan đến di tích như: nội dung, hiện trạng, tình hình bảo vệ,
việc sử dụng và phát huy tác dụng của di tích đó; qua đó, đánh giá được giá trị của
di tích. Đợt tổng điều tra này đã điều tra được 733 di tích, trong đó có 239 di tích
cách mạng, 493 di tích tín ngưỡng dân gian, 01 di tích khảo cổ [132, tr.3].
Kết quả điều tra di tích đã giúp cho việc phân loại di tích, trên cơ sở đó,
nghiên cứu, đề xuất việc phân cấp quản lý, bao gồm: Những di tích có thể lập hồ
sơ đề nghị công nhận di tích cấp quốc gia (79 di tích); đề xuất UBND Thành phố
ra văn bản “Quyết định đăng ký di tích” (241 di tích); phân loại di tích do quận,
huyện trực tiếp quản lý, bảo vệ (359 di tích). Đặc biệt, đối với di tích cách mạng,
qua đợt điều tra này, Thành phố đã xác định được giá trị của di tích nhằm phục vụ
cho việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho thế hệ sau [132, tr.4].
Đợt Tổng kiểm kê di tích năm 1999 - 2002 là cơ sở để Thành phố tiếp tục hoàn
chỉnh và tiến tới quy hoạch di tích trên địa bàn Thành phố các giai đoạn tiếp theo.
Kết quả kiểm kê di tích cho thấy, các công trình, địa điểm được xếp hạng di
tích do nhiều cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý hoặc do tư nhân sở hữu, trực tiếp
quản lý; công trình kiến trúc nghệ thuật (đình, chùa, miếu) còn có các tổ chức như
Ban Quản trị, Ban Trị sự tham gia quản lý. Thực trạng đó khiến cho việc bảo vệ,
sửa chữa cũng như khai thác, phát huy giá trị DTLS văn hóa ở Thành phố Hồ Chí
Minh khó được thực hiện một cách thống nhất và đồng bộ.
Tuy nhiên, sau khi Luật Di sản văn hóa được ban hành (năm 2001), Sở Văn
hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ với các Phòng Văn
hóa - Thông tin các quận, huyện giải quyết những vấn đề liên quan về quản lý nhà
nước đối với DSVH, loại hình di tích, như: Văn bản số 228/CV-SVHTT ngày
04/02/2004 về việc chấp hành các quy định trong bảo quản, tu bổ và phục hồi di
tích - lịch sử văn hóa; Văn bản số 516/CV-SVHTT ngày 12/3/2004 về việc bảo
63
tồn công trình kiến trúc; Văn bản số 2466/CV-SVHTT ngày 13/10/2004 về việc
đề nghị UBND thành phố xem xét xếp hạng di tích.
Ngay sau khi Luật Di sản văn hóa được ban hành, hoạt động bảo tồn DSVH
đã có sự khởi sắc:
Việc xếp hạng di tích đã được thực hiện chặt chẽ, khoa học hơn, quy trình
xếp hạng và hồ sơ di tích được thực hiện theo hai bước, lập hồ sơ trích ngang để
có sự thỏa thuận bước đầu trước khi lập hồ sơ khoa học và pháp lý, nhằm giảm
bớt sự lãng phí và tránh phiền hà trong việc lập hồ sơ. Việc xác định giá trị di tích
và các khu vực bảo vệ di tích được làm kỹ hơn, số lượng di tích được xếp hạng
cấp thành phố tăng lên, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Việc đầu tư tu bổ di tích được thực hiện bằng ngân sách nhà nước. Bên
cạnh đó, còn có sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước; do
đó, nhiều DSVH (chủ yếu là cơ sở tín ngưỡng - tôn giáo) được hồi sinh, nhiều
hoạt động sinh hoạt văn hóa truyền thống được phục hồi và tổ chức tại di tích, góp
phần thúc đẩy phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Năm 2004, Ban Quản lý dự án của Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ
Chí Minh đã kết hợp với các phòng, ban chức năng lập kế hoạch phối hợp và xin
chủ trương của UBND Thành phố về việc tu bổ, bảo quản, phục hồi một số di tích,
như di tích Giồng Cá Vồ (huyện Cần Giờ) đã được Bộ Văn hóa - Thông tin thẩm
định và cho ý kiến; di tích Trụ sở Phái đoàn liên lạc Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội
Nhân dân Việt Nam cạnh Phân ban quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến tại Sài
Gòn (1955-1958) đã được UBND Thành phố quyết định thành lập Ban chỉ đạo việc
phục hồi di tích và Ban Quản lý Dự án Sở tiến hành khảo sát thiết kế để lập dự án
tôn tạo, tu bổ; di tích Lăng Lê Văn Duyệt, di tích chùa Phụng Sơn trong quá trình
lập dự án riêng; Lăng Võ Tánh cũng đã được UBND Thành phố phê duyệt dự án.
Để phục vụ công tác quy hoạch di tích và quản lý di tích trên địa bàn Thành
phố, Ban Quản lý di tích và danh lam thắng cảnh Thành phố đã lập bản đồ di tích,
trong đó có chấm điểm các di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia và cấp thành
phố; đồng thời, có bảng chú thích các công trình, địa điểm dự kiến lập hồ sơ xếp
hạng di tích quốc gia và cấp thành phố dựa trên kết quả của công tác điều tra di
64
tích đã được Ban Quản lý di tích và danh lam thắng cảnh phối hợp với Phòng Văn
hóa - Thông tin các quận, huyện thực hiện.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện các văn bản qui
phạm pháp luật đã được thực hiện ở một số nơi. Cụ thể là: Huyện Củ Chi chủ
động tổ chức lớp học Luật Di sản văn hóa cho các đối tượng là cán bộ các xã. Ban
Quản lý di tích và danh lam thắng cảnh thành phố thuộc Sở Văn hóa - Thông tin
đã phối hợp với Phòng Văn hóa - Thông tin quận 5 mở lớp tập huấn về Luật Di
sản văn hóa và những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ và phát huy tác dụng di
tích. Quận Bình Thạnh tổ chức mở lớp tập huấn Luật Di sản văn hóa cho toàn thể
Ban Quản trị, nhân viên làm việc tại Lăng Lê Văn Duyệt tham dự.
Trong giai đoạn (2000 - 2005), sau đợt tổng điều tra di tích năm 1999 -
2002, Ban Quản lý di tích và danh lam thắng cảnh Thành phố đã phối hợp với các
quận, huyện hoàn thành hồ sơ 4 di tích cấp quốc gia. Đến năm 2004, Bộ Văn hóa -
Thông tin ban hành Quyết định số 101/2004/QĐ-BVHTT ngày 15/12/2004 Về
việc xếp hạng 04 di tích quốc gia: “Khu căn cứ rừng Sác” huyện Cần Giờ; “Địa
đạo Bến Đình” huyện Củ Chi; “Đình Xuân Hiệp” quận Thủ Đức và “Lăng Trương
Tấn Bửu” quận Phú Nhuận. Bên cạnh đó, Ban Quản lý di tích và danh lam thắng
cảnh Thành phố tiếp tục hoàn tất công tác lập hồ sơ xếp hạng di tích với các di
tích cấp thành phố đủ điều kiện.
Công tác bảo quản, tu bổ di tích cũng được các ngành chức năng của Thành
phố đặc biệt quan tâm. Hoạt động này còn nhận được sự quan tâm của các đơn vị,
tổ chức đang trực tiếp quản lý di tích, nhất là đối với di tích kiến trúc nghệ thuật.
Trong đó, có di tích đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho công việc tu bổ. Bên cạnh
ngân sách nhà nước cấp cho việc tu bổ, chống xuống cấp di tích thì việc xã hội
hóa công tác bảo tồn di tích được thực hiện khá tốt. Tiêu biểu là: Ban Quản trị ở
một số di tích (chủ yếu là cơ sở tín ngưỡng tôn giáo) đã chủ động thực hiện việc tu
bổ, bảo tồn. Hội quán Ôn Lăng đã chi 1,2 tỷ đồng để di dời các hộ dân lấn chiếm
ao cá và đã tiến hành chỉnh trang lại toàn bộ khu vực ao cá. Hội quán Nghĩa An,
Hội quán Lệ Châu tích cực hỗ trợ di dời các hộ dân ra khỏi di tích, với số tiền ước
tính hàng trăm triệu đồng. Di tích Lăng Lê Văn Duyệt đã chủ động trong việc
chống xuống cấp di tích trong khi chờ đợi dự án tu bổ được phê duyệt [133, tr.6].
65
Tháng 2-2005, trên toàn địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 54 di tích quốc
gia (trong đó, DTLS là 26; di tích kiến trúc nghệ thuật: 26; 02 di tích khảo cổ); có
13 di tích cấp Thành phố [133].
Nhờ bảo tồn được nhiều giá trị nguyên gốc của di tích nên trong những
năm 2000 - 2005, Thành phố đã thu hút được một số lượng lớn du khách trong
nước và quốc tế đến tham quan. Để có cơ sở vững chắc cho việc bảo tồn và phát
huy các giá trị DTLS, văn hóa trên địa bàn Thành phố, Sở Văn hóa - Thông tin
Thành phố phối hợp với các cấp chính quyền các quận, huyện xác định định
hướng chiến lược cho các năm tiếp theo là: Quán triệt Quyết định số
1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24-7-2001 của Bộ Trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin
phê duyệt về việc Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị DTLS - văn hóa
và danh lam thắng cảnh đến năm 2020. Trong Quyết định đó có một số quan điểm
và giải pháp quan trọng là “bảo tồn phải gắn với việc phát huy những giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể của di tích, ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho các
DTLS, di tích cách mạng và kháng chiến. Các di tích khác đầu tư bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác” [133, tr.5]. Bên cạnh đó, Thành phố
chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa theo tinh thần Nghị quyết số 90/CP của
Chính phủ. Kế hoạch bảo tu, tu bổ DTLS cũng được thực hiện theo phương châm
xã hội hóa và nhận được sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân.
* Bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị
Với vị trí địa lý thuận lợi về phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa nên đô
thị hóa là một quá trình tất yếu, góp phần tạo ra sự phát triển vượt bậc về kinh
tế - xã hội cho Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình đô thị hóa và chỉnh trang đô
thị diễn ra như một tất yếu, khách quan. Do vậy, để việc bảo tồn DSVH không
bị ảnh hưởng của quá trình chỉnh trang đô thị, đòi hỏi các ngành chức năng
phải quan tâm sâu sát; đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên
quan nhằm kịp thời đề ra giải pháp phù hợp để bảo tồn hệ thống DSVH trên địa
bàn Thành phố.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này, chính quyền Thành phố đã sớm cân nhắc
giữa phát triển, xây dựng thành phố văn minh, hiện đại và bảo tồn giá trị DSVH.
Kết quả thực hiện đường lối đổi mới đã tạo ra những thay đổi bộ mặt kinh tế - xã
66
hội của cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Từ những năm
1990, mở cửa kinh tế đã và đang tác động mạnh đến quá trình phát triển đô thị ở
Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Tốc độ đô thị hóa nhanh,
đến lượt nó đặt ra những vấn đề cần quan tâm đối với việc cân bằng, hài hòa giữa
phát triển kinh tế và bảo tồn giá trị DSVH đô thị. Ngay ở trung tâm Thành phố Hồ
Chí Minh, sức ép tăng trưởng dẫn đến hiện tượng xây dựng dồn nén nhiều công
trình cao tầng, tạo nên những tác động lớn đối với hệ thống DSVH, danh lam
thắng cảnh của Thành phố. Quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở Thành
phố Hồ Chí Minh khiến cho các di sản kiến trúc bị xâm hại, làm cho vấn đề bảo
tồn gặp nhiều khó khăn; đồng thời, áp lực về kinh tế làm cho các khu vực có di
sản trở thành một món hàng bất động sản hơn là di sản của đô thị. Vì vậy, việc tìm
kiếm giải pháp phù hợp để duy trì, bảo tồn các giá trị DSVH trong bối cảnh phát
triển trở thành yêu cầu mang tính cấp bách của Thành phố.
Đáp ứng yêu cầu đó, nhân dịp kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển,
Thành phố Hồ Chí Minh đã sớm triển khai Chương trình Nghiên cứu bảo tồn
cảnh quan kiến trúc đô thị. Chương trình do TS. KTS Lê Quang Ninh làm chủ
nhiệm và Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố là cơ quan chủ trì.
Đây là chương trình nghiên cứu có quy mô lớn nhất về bảo tồn cảnh quan kiến
trúc Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình kéo dài 5 năm (1993 - 1997), trong
khuôn khổ hợp tác giữa thành phố Lyon (Pháp) và Thành phố Hồ Chí Minh, với
mục tiêu nghiên cứu gồm: đánh giá, phân loại, hệ thống các cảnh quan kiến trúc
tiêu biểu của Thành phố. Chương trình đề xuất cách phân loại, xếp hạng theo các
tiêu chí; qua đó, đã phân hệ thống bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị Thành phố
Hồ Chí Minh gồm 04 loại hình: (1) Mảng cảnh quan đô thị tiêu biểu, (2) Tuyến
cảnh quan tiêu biểu, (3) Cụm cảnh quan tiêu biểu, (4) Điểm cảnh quan kiến trúc.
Chương trình nghiên cứu đã đề xuất danh mục 108 đối tượng bảo tồn cảnh quan
kiến trúc đô thị trên địa bàn Thành phố. Từ nghiên cứu này, ngày 17-5-1999,
UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Thông báo số 46/TB-UB-QLĐT Về
việc bảo tồn cảnh quan kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh. Thông báo nêu rõ “tạm
xác định 108 đối tượng đã được Chương trình nghiên cứu bảo tồn cảnh quan kiến
67
trúc đưa vào danh mục và sớm soạn thảo quy chế (tạm thời) để thực thi công tác
này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” [187].
Danh sách 108 công trình bảo tồn là danh sách đầu tiên đề cập đến việc bảo
tồn cảnh quan kiến trúc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Để danh sách này
có hiệu lực thi hành thì Thành phố cần ban hành quy chế nhằm pháp lý hóa các
công trình cần bảo tồn. Tuy nhiên, sau Thông báo số 46, Thành phố vẫn chưa ban
hành quy chế cụ thể nào. Theo Lê Quang Ninh, chủ nhiệm Chương trình, năm
2013, chỉ còn khoảng 70% trong danh mục 108 công trình đã được đề xuất [148].
Hiện tượng trên đã và đang phản ánh nguy cơ về sự “bào mòn ký ức lịch sử” trong
quá trình phát triển của Thành phố.
Trong bối cảnh của sự phát triển, các di sản của Thành phố Hồ Chí Minh
đang chịu nhiều thách thức của quá trình hội nhập kinh tế và đô thị hóa. Vấn đề đặt
ra là, làm thế nào để Thành phố vừa phát triển hiện đại vừa bảo tồn được DSVH?
Nhận thức được vấn đề này, Thành phố đã nghiên cứu thực hiện Đồ án quy hoạch
chung Thành phố Hồ Chí Minh năm 1993 [196]. Tính chất đô thị vẫn là trung tâm
đa chức năng, thương mại, dịch vụ, công nghiệp, khoa học - kỹ thuật, văn hóa, giáo
dục và là đầu mối giao thông của toàn miền Nam, cả nước và khu vực.
Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh năm
1998 [197]. Tính chất đô thị của Thành phố là trung tâm đa chức năng, đóng vai
trò ngày càng quan trọng, là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước, thể hiện ngày
càng rõ qua định hướng phát triển kinh tế - xã hội và Trung ương giao cho Thành
phố Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn 1998 - 2005, Đồ án năm 1998 đã xác định 14 nội dung chủ
yếu trong quy hoạch Thành phố. Đặc biệt, Đồ án đã lưu ý và đặt vấn đề bảo tồn
DSVH. Trong đó, nội dung thứ 5 là: “Chỉnh trang đô thị khu vực nội thành là khu
vực giới hạn phát triển, chủ yếu cải tạo chỉnh trang kết hợp với việc giữ gìn, bảo
vệ các di sản văn hóa, các công trình kiến trúc có giá trị” [197]; Nội dung thứ 6 là
“phát triển khu đô thị mới cần được xây dựng theo hướng hiện đại, kết hợp giữ gìn
di tích, cảnh quan thiên nhiên, đảm bảo môi trường sống với chất lượng cao [197].
68
Như vậy, Đồ án năm 1998 đã xác định đúng định hướng, chú trọng vào thế
mạnh của Thành phố Hồ Chí Minh, như: (1) khẳng định vai trò quan trọng, vị trí
hàng đầu của Thành phố trong mối quan hệ vùng; (2) hài hòa giữa phát triển
không gian đô thị mới có cơ sở hạ tầng hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội bền vững với bảo tồn, chỉnh trang khu lõi trung tâm của Thành phố.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH bước đầu được Thành phố
quan tâm. Các cơ quan quản lý di tích đã có nhiều cố gắng trong việc điều tra, sưu
tập, phân loại, công nhận các loại hình di tích. Các cơ quan chức năng và các địa
phương bước đầu đã đầu tư để bảo quản, sửa chữa, nâng cấp, phát huy hiệu quả
hoạt động của các DTLS, văn hóa, truyền thống.
Tuy nhiên, công tác lập hồ sơ xếp hạng di tích giai đoạn 1998 - 2005 còn
nhiều bất cập:
- Một số quận, huyện chưa thật sự quan tâm công tác này, nhiều quận,
huyện thiếu cán bộ chuyên môn hoặc thiếu tính chủ động nên không tiến hành
được công tác nghiên cứu bước đầu để phối hợp với Ban Quản lý di tích và danh
lam thắng cảnh Thành phố thực hiện việc hoàn thành lý lịch khoa học về di tích
cũng như hồ sơ xếp hạng di tích.
- Đối với DTLS, việc lập được một lý lịch khoa học cho di tích gặp rất
nhiều khó khăn do chủ sở hữu thuộc nhiều thành phần, khó có sự thống nhất trong
nội bộ và phải đầu tư nhiều thời gian. Công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích,
một số các khu di tích, khu tưởng niệm được đầu tư tôn tạo nhưng còn chắp vá;
tình trạng lấn chiếm, xâm hại các khu di tích thường xuyên xảy ra nhưng chưa
được xử lý triệt để.
- Hoạt động bảo tồn di sản kiến trúc đô thị ở khu vực trung tâm Thành phố
chỉ dừng lại ở công đoạn lập danh mục các công trình cần được bảo tồn. Các bước
nghiên cứu và thực hiện tiếp theo của quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH chưa được khởi động một cách có hệ thống. Trong bối cảnh này, việc triển
khai các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành
phố trở thành nhu cầu cấp bách [115].
69
Tóm lại, giai đoạn 1998 - 2005, công tác bảo tồn DSVH trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh chỉ dừng lại ở công việc điều tra, kiểm kê, xếp hạng di tích. Tuy
nhiên, kết quả bước đầu trong việc bảo tồn các DSVH là cơ sở để các ngành chức
năng của Thành phố tiếp tục điều chỉnh và tiến tới xây dựng kế hoạch dài hạn cho
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn tiếp theo.
2.2.2.2. Công tác phát huy các giá trị di sản văn hóa
Phát huy các giá trị DSVH qua hệ thống bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị và
văn hóa lớn nhất cả nước, cũng là một trong hai địa phương (Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh) có số lượng bảo tàng nhiều nhất trong cả nước, với sự đa dạng
về loại hình bảo tàng là một ưu thế lớn trong việc tuyên truyền các giá trị của
DSVH đến với người dân. Các bảo tàng tổng hợp, khảo cứu giúp cho công chúng
tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh gắn liền với lịch sử - văn hóa đất nước và con người Việt Nam.
Trong những năm 1998 - 2005, các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã
phát huy công tác nghiên cứu khoa học, sưu tầm, trưng bày, kiểm kê bảo quản tài
liệu hiện vật. Đặc biệt, để đưa các giá trị di sản đến với công chúng, các bảo tàng
luôn quan tâm đổi mới nội dung và hình thức trưng bày sinh động, hấp dẫn. Nội
dung trưng bày thường gắn với công tác giáo dục, tổ chức cho các em học sinh,
sinh viên tham quan, học tập tại bảo tàng.
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là bảo tàng đầu tiên xây dựng các chương
trình dành cho công chúng từ năm 2000 và cũng là bảo tàng đầu tiên áp dụng mô
hình trải nghiệm mới cho công chúng. Nhân ngày Gia đình Việt Nam 28/6 hàng
năm, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh đã thể nghiệm chương trình "Ông bà cháu
cùng đến bảo tàng" để trải nghiệm về những gì đã đi qua trong chiến tranh, về
những câu chuyện gắn bó với từng hiện vật nơi đây. Với hình ảnh trực quan,
những câu chuyện sinh động của chính ông bà đã giúp thế hệ con cháu học hỏi
nhiều điều quý báu từ chính những câu chuyện của ông bà.
70
Bằng những tư liệu, hình ảnh, hiện vật hiện có tại kho cơ sở Bảo tàng
Chứng tích chiến tranh đã trưng bày phục vụ khách với nhiều chuyên đề khác
nhau, mỗi chuyên đề tạo sự liên kết nhằm nêu bật nội dung truyền thống anh
hùng dân tộc. Không thể hiện rõ nét, chi tiết bản anh hùng ca đất nước như các
bảo tàng cách mạng, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh đã phần nào thể hiện được
truyền thống anh hùng của lịch sử để lại. Nội dung trưng bày là một trong những
hoạt động mang tính chất bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, mặc dù hình thức
thể hiện trưng bày chưa được đầu tư triệt để, giải pháp chưa ứng dụng được các
hình thức trực quan sinh động để tạo dấu ấn sâu sắc trong lòng công chúng
nhưng với mọi khả năng có được, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh cố gắng đưa
“Truyền thống anh hùng của đất nước” đến với khách tham quan thông qua các
buổi giao lưu, đối thoại nhằm góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng, tình cảm
của công chúng đối với loại hình DSVH này. “Truyền thống anh hùng của dân
tộc Việt Nam” là DSVH phi vật thể được lưu giữ trong trí nhớ của người chiến sĩ
cách mạng, là nguồn tài sản vô hình, nó rất khó được định lượng, nhưng là kho
tàng quý báu của dân tộc Việt Nam. Nếu chúng ta không giữ gìn, kho tàng ấy sẽ
ngày càng bị mai một và đến thời gian nào đó, các nhân chứng lịch sử mất đi,
các câu chuyện kể về những truyền thống cách mạng sẽ bị chìm vào quên lãng.
Việc bảo tồn DSVH phi vật thể đã được Nhà nước Việt Nam dành riêng chương
III với 11 điều trong Luật Di sản văn hóa đã nói lên được tầm quan trọng của
việc giữ gìn và phát huy các giá trị DSVH thuộc loại hình này. Trong những năm
1998-2005, bên cạnh sưu tầm lưu trữ những thước phim tư liệu quý, Bảo tàng
Chứng tích chiến tranh đã phỏng vấn các nhân chứng chiến tranh và đặc biệt là
tổ chức giao lưu các nhân chứng với khách tham quan. Những câu chuyện kể,
những buổi trò chuyện, những cuộc giao lưu đã đưa “lịch sử” đến với mọi người.
Không văn bản, không chữ nghĩa, không sử sách, mà bằng giọng nói chân tình,
chứng kiến thực tế, các nhân chứng chiến tranh đã đưa công chúng trở về quá
khứ một cách tự nhiên, cuốn hút và đầy thiện cảm. Người nghe không thể tránh
được xúc động khi chính người kể là người đã tham gia vào các trận chiến chống
kẻ thù và chính họ chứng kiến cảnh đồng đội mình ngã xuống vì Tổ quốc.
71
Đó là những câu chuyện mang tính lịch sử và chân thật rất dễ đi vào lòng
người, những buổi giao lưu với sinh viên đã giúp cho các em tự hào về dân tộc và
có những nghĩa cử rất cao đẹp là sẵn sàng chăm sóc các cô chú bệnh tật khi biết
được hoàn cảnh cô chú khó khăn. Những buổi trò chuyện giữa cựu chiến binh
Việt Nam và cựu chiến binh các nước tham chiến đã làm cho đối phương rất khâm
phục và họ tỏ ra hối hận khi đã tham gia vào cuộc chiến phi nghĩa này.
Trong một thế giới phát triển mạnh và đầy biến động nhiều giá trị mới được
sinh ra song song với sự mất đi của một số giá trị truyền thống. Bảo tàng Chứng
tích chiến tranh mong muốn giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống anh hùng dân
tộc thông qua những câu chuyện của chính nhân chứng lịch sử kể lại. Tùy theo đối
tượng khách yêu cầu mà Bảo tàng chọn nội dung phù hợp, ví dụ sinh viên Trường
Đại học Văn hóa thường sẽ giao lưu với các văn công thời chiến, học sinh giao
lưu với nhà giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Ký, bộ đội giao lưu với các cô chú cựu tù
chính trị,… Trong quá trình tổ chức, đơn vị cũng đã quay phim, chụp ảnh, ghi
chép và lập “ngân hàng dữ liệu” để gìn giữ cho mai sau.
Bảo tàng Tôn Đức Thắng đã có những hình thức và phương pháp đạt hiệu
quả và mang lại nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong việc xã hội hóa là việc bảo tàng
vận động, mời gọi nhiều thành phần của xã hội, các cơ quan, đơn vị, các tổ chức
hội đoàn, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, các cá nhân tham gia vào công
tác tuyên truyền, giới thiệu về Chủ tịch Tôn Đức Thắng với những hình thức
phong phú, đa dạng phù hợp với từng đối tượng, lứa tuổi của công chúng ở thành
phố. Đây là phương pháp để Bảo tàng Tôn Đức Thắng thực hiện “đưa Bảo tàng
đến với công chúng”, “Bảo tàng đến với công nhân”, “Bảo tàng với học đường”.
Trong công tác phát huy các giá trị truyền thống, Bảo tàng phối hợp với
Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tọa đàm về “Thân thế và sự nghiệp
Chủ tịch Tôn Đức Thắng” nhân kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam và Ngày Truyền thống Thanh niên công nhân Thành phố 15/10; phối
hợp với Liên đoàn Lao động thành phố tổ chức Hội thi “Chủ tịch Tôn Đức Thắng
- Một nhân cách lớn” trong cán bộ, công nhân viên chức, người lao động, học
sinh, sinh viên, các lực lượng vũ trang và cán bộ hưu trí nhân kỷ niệm ngày thành
72
lập Công đoàn Việt Nam và kỷ niệm 115 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng
(20/8/1888 - 20/8/2003). Hội thi này thu hút trên 100.000 bài tham gia dự thi. Có
thể nói, hội thi đã tạo một phong trào học tập, tìm hiểu về Chủ tịch Tôn Đức
Thắng; đồng thời, là đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ, viên chức và công nhân
lao động tại khắp các công đoàn cơ sở thuộc Liên đoàn Lao động Thành phố.
Với chức năng nhiệm vụ là nghiên cứu sưu tầm, trưng bày giới thiệu về
lịch sử hình thành và phát triển của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh; phát huy
các giá trị DSVH thông qua tài liệu hiện vật, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
đã xây dựng định hướng phát triển từng giai đoạn với những chương trình, giải
pháp cụ thể như xây dựng các nội dung trưng bày chuyên đề mang tính chuyên
sâu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách tham quan, gắn với nhiệm vụ
chính trị của Ngành và của Thành phố như: “Đảng Cộng sản Việt Nam - 70 năm
xây dựng và trưởng thành”, “70 năm Công đoàn Việt Nam”, “Thành phố Hồ Chí
Minh năng động - sáng tạo”, “54 năm Ngành Văn hóa -Thông tin”, “Âm vang
Điện Biên”, “Kỷ vật của những người đi B”, “Việt Nam qua các kỳ SEA
Games”, “Thành phố Hồ Chí Minh đô thị hóa”, “Đồng chí Trần Phú - Tổng Bí
thư đầu tiên của Đảng”, “50 năm Đề cương cách mạng miền Nam”, “1000 năm
Gốm Việt”, “Mỹ thuật cổ trong DSVH Nam Bộ”, “45 năm Xuân Mậu Thân -
Hồi ức từ những hiện vật bảo tàng”…
Đẩy mạnh xã hội hóa trong hoạt động chuyên môn, dịch vụ bổ trợ nhằm
làm đa dạng và phong phú thêm hoạt động của Bảo tàng, phát huy tiềm năng trí
tuệ và vật chất của mạng lưới cộng tác viên, các đồng chí lão thành cách mạng,
các nhà khoa học, sưu tập tư nhân như phối hợp tổ chức trưng bày nhiều chuyên
đề đạt hiệu quả cao: “Gốm Sài Gòn và các vùng phụ cận”, “Tượng thờ dân gian
Nam Bộ”, “Văn hóa dân gian Nam Bộ”, “Tiền Việt Nam”, “Nét văn hóa Tây
Nguyên”, “Sài Gòn xưa”, “Đảng Cộng sản Việt Nam - Từ Đại hội đến Đại hội”…
Các cuộc trưng bày này đã bổ sung các sưu tập hiện vật có giá trị cho Bảo tàng.
Bên cạnh đó, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh còn tổ chức các hoạt động giao
lưu sinh hoạt chuyên đề và trình diễn nghệ thuật dân tộc, như: Vấn đề bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH phi vật thể, về nhạc khí dân tộc Việt Nam, tính ước lệ
73
trong nghệ thuật hát bội, Đờn ca tài tử và sân khấu cải lương, các điệu hò, lý Nam
Bộ; giao lưu kỷ niệm 50 năm Đường Trường Sơn huyền thoại, giao lưu kỷ niệm
60 năm ngày Truyền thống học sinh - sinh viên 9/1… Nhiều cuộc hội thảo, tọa
đàm được tổ chức về các đề tài: Nam Bộ kháng chiến, Nhà trí thức cách mạng
Nguyễn An Ninh, Sĩ phu yêu nước Phan Châu Trinh, về Cách mạng Tháng Mười
Nga, về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Sơn - Một thời nhớ mãi, 30/4
- Nhớ mùa Xuân lịch sử, Khảo cổ học Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đô
thị hóa... Bên cạnh đó, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh còn hỗ trợ, giúp các đơn
vị và cá nhân trong việc xây dựng nhà truyền thống như Nhà truyền thống Liên
đoàn Lao động Thành phố, Nhà truyền thống Bộ Tư lệnh Thành phố, Nhà trưng
bày Nguyễn An Ninh, Nhà truyền thống Học viện Chính trị khu vực II, Bảo tàng
Văn hóa - Lịch sử (thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố),
kiểm kê phân loại trên 30.000 ảnh tư liệu của Giáo sư Trần Văn Khê…
Để phát huy hiệu quả của nội dung trưng bày, Bảo tàng luôn gắn với công
tác giáo dục, tổ chức cho học sinh tham quan, triển khai chương trình “Học lịch sử
tại Bảo tàng”, tổ chức cho học sinh - sinh viên giao lưu với nhân chứng lịch sử;
tập huấn cho giáo viên về công tác bảo tàng và giới thiệu các ngành nghề thủ công
truyền thống; phối hợp tổ chức câu lạc bộ “Em yêu lịch sử”... Đẩy mạnh và đi vào
chiều sâu các hoạt động giáo dục bằng cách tổ chức các hoạt động tuyên truyền
gắn kết với sự kiện lịch sử, các cuộc trưng bày mới. Đặc biệt là việc triển khai
thực hiện kế hoạch liên tịch “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
v.v… nhằm tạo một môi trường giáo dục trong bảo tàng.
Năm 2004, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu đưa vào hoạt động
phòng khám phá với mục đích tạo ra những trưng bày nhỏ và những hoạt động
dành cho các em học sinh, phù hợp với lứa tuổi và khả năng, giúp các em dễ hiểu
và dễ nhận biết kiến thức về cuộc sống. Chương trình phòng khám phá của Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên được thay đổi, bổ sung những nội
dung mới, nhưng theo chủ đề cụ thể, như: Nhạc cụ Việt Nam, ngành nghề truyền
thống, tự thiết lập các địa danh tỉnh, thành trên bản đồ đất nước Việt Nam hoặc
Thành phố Hồ Chí Minh.
74
Bảng 2.1: Số lượt khách đến tham quan các bảo tàng
ĐVT: lượt người
Đơn vị 1998 2000 2005
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh 34,565 143,418 241,250
Bảo tàng Mỹ Thuật 58,450 62,460 86,900
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh 340.988 335,162 398,076
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh 197,275 220,417 377,895
Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ 101,427 374,000
Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh 115,000 133,329 146,298
Bảo tàng Tôn Đức Thắng 225,082 98,874 59,947
Nguồn: [160]
Bảng 2.2: Số cuộc trưng bày triển lãm
Đơn vị 1998 2000 2005
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh 4 14 14
Bảo tàng Mỹ Thuật 5 7 2
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh 10 12 13
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh 5 11 12
Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ 5 7
Bảo tàng Hồ Chí Minh-Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh 9 8 6
Bảo tàng Tôn Đức Thắng 2 2 3
Nguồn: [160]
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, yêu cầu cảm thụ khi đến với bảo tàng của
công chúng ngày càng gia tăng, họ muốn được trải nghiệm, giao tiếp, vì thế, các
bảo tàng trên địa bàn Thành phố thường xuyên đổi mới theo hướng năng động, tổ
chức nhiều hoạt động mang tính giáo dục với những chương trình phù hợp cho
từng đối tượng. Bên cạnh việc tham quan bảo tàng để cảm nhận, du khách còn
được trực tiếp ngắm nhìn những hiện vật được lưu giữ và được tìm hiểu một cách
tường tận. Việc tiếp cận với các hiện vật gốc, những tài liệu gốc và nhân vật lịch
sử đã tạo ra những mối liên kết chặt chẽ giữa cộng đồng và xã hội, giữa công
chúng với bảo tàng.
75
Do DSVH có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con người Việt
Nam hiện đại, các bảo tàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua nhiều
hình thức để DSVH của dân tộc Việt Nam đến được với công chúng trong và
ngoài nước, nhất là đối với thế hệ trẻ Việt Nam.
Phát huy các giá trị DSVH qua du lịch
Là thành phố nằm ở trung tâm Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh có mạng
lưới giao thông đường bộ, hàng không và đường thủy; là một trong những cầu nối
giữa Việt Nam và quốc tế. Thành phố còn là nơi tập trung của nhiều thành phần
tộc người cư trú, với sự đa dạng của văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội và lối
sống. Hơn nữa, ở vùng đất này, do lịch sử phát triển, còn chứa đựng nhiều tiềm
năng du lịch. Đặc biệt là tài nguyên du lịch nhân văn như: DTLS địa đạo Củ Chi,
Dinh Thống Nhất, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, cảng Nhà Rồng, Nhà thờ Đức
Bà, UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà hát Thành phố, Bưu điện và các trung
tâm giải trí, như công viên văn hóa Đầm Sen, khu du lịch Suối Tiên. Bên cạnh đó,
Thành phố còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên như các khu du lịch sinh thái, về
đặc điểm sinh thái, văn hóa Thành phố chứa đựng trong nó văn hóa đô thị và văn
hóa nông thôn, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển.Thành phố là điểm giao nhau
giữa văn hóa Đông Nam Bộ bán bình nguyên và văn hóa Tây Nam Bộ sông nước.
Đây là lợi thế cho phát triển du lịch của Thành phố.
Với tiềm năng du lịch phong phú, từ năm 1998 đến năm 2005, ngành du
lịch Thành phố có nhiều chuyển biến tích cực. Năm 2002, trên cơ sở đề xuất của
Sở Du lịch Thành phố, Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định
thành lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch. Vì vậy, năm 2003, do ảnh hưởng của dịch
SARS, lượng khách đến Thành phố giảm, nhưng với tinh thần sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, Thành phố đã có những đột phá nhằm phát triển du lịch. Năm 2004, Sở
Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thành phố phối hợp với khu du lịch Văn hóa Suối
Tiên nâng tầm Hội Trái cây truyền thống Suối Tiên thành sự kiện văn hóa, du lịch
của Thành phố với tên gọi Lễ hội Trái cây Nam Bộ. Cũng trong năm 2004, Thành
phố chính thức nâng "hồn" đường hoa Nguyễn Huệ trở thành biểu tượng văn hóa
Tết Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Thành phố tổ chức thường
niên Ngày hội Du lịch (kế thừa từ sự kiện Liên hoan du lịch Đất Phương Nam giai
76
đoạn 1999-2003). Những hoạt động này như điểm nhấn thúc đẩy ngành du lịch
Thành phố phát triển, mang lại hiệu quả cao trong việc thu hút khách du lịch đến
với Thành phố.
Vì vậy, mặc dù trong từng giai đoạn khác nhau, tình hình khác nhau và trên
thế giới có nhiều biến động cả về kinh tế, chính trị, ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả thực hiện các chỉ tiêu của ngành du lịch. Tuy nhiên, doanh thu ngành du lịch
Thành phố vẫn đạt trung bình từ 8-11% trong GDP của Thành phố và 40-45%
doanh thu toàn ngành du lịch cả nước. Trong nhiều năm, lượng khách quốc tế đến
Thành phố Hồ Chí Minh luôn chiếm tỉ lệ trên 50% khách quốc tế đến Việt Nam
[193]. Theo số liệu thống kê từ Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng du
khách đến Thành phố tăng dần qua các năm: năm 2001 có 1.226.400 lượt người;
năm 2002 có 1.433.000 lượt; năm 2003 là 1.302.000; năm 2004 tăng 1.580.000;
năm 2005 là 2.350.000 lượt [193].
Năm 2000 là năm đầu tiên của Chương trình hành động quốc gia về du lịch,
khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh là 1.100.000 lượt, thì đến năm 2005
đạt 2.000.000 lượt [193]. Khách du lịch nội địa tăng đều đặn hàng năm, ngay cả
trong thời kỳ chịu tác động của suy thoái kinh tế, với tỉ lệ 20-30%/năm. Với lượng
khách đông như vậy, nên Thành phố Hồ Chí Minh luôn đóng vai trò là trung tâm
du lịch của cả nước, ngành du lịch Thành phố đã và đang góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố, bảo tồn và phát huy được các giá trị
DSVH, tài nguyên thiên nhiên, tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, giai đoạn 1998 - 2005, lượng khách đến Thành phố kết hợp du
lịch và tham gia sự kiện, chứ chưa xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc đang hiện diện ở hệ thống DSVH của Thành phố Hồ Chí
Minh. Đây chính là vấn đề mà du lịch Thành phố cần hướng tới, chứ không đơn
thuần là tăng số lượng khách mỗi năm, sản phẩm du lịch của Thành phố tuy phong
phú, nhưng chưa có sản phẩm đặc trưng. Nguồn tài nguyên để phát triển du lịch đa
dạng, phong phú nhưng ngành du lịch Thành phố chưa phát triển mạnh, bởi chưa
dành nhiều ưu tiên cho lĩnh vực này. Để thúc đẩy ngành du lịch phát triển, Thành
phố cần đầu tư khai thác và khai thác để bảo tồn các giá trị DSVH, tạo ra sản
phẩm cho du lịch. Đồng thời, ngành du lịch Thành phố cần thay đổi cách làm du
77
lịch và có đột phá. Đây là một trong những giải pháp hiệu quả cần được xem xét
và thực hiện. Nghĩa là, phát triển du lịch cần phải liên kết với các ngành khác để
cùng phát triển, chẳng hạn như, làm du lịch gắn với làng nghề truyền thống, gắn
với du lịch sinh thái... để tạo ra nhiều sản phẩm du lịch mới, mô hình du lịch hấp
dẫn nhằm thu hút khách du lịch. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cũng cần
được chú trọng, nhất là đối với các tầng lớp nhân dân để người dân thấy được vai
trò của mình trong việc tham gia phát triển du lịch, nhằm phát triển kinh tế - xã
hội và nâng cao đời sống của chính họ.
Tiểu kết chương 2
Trong những năm 1998-2005, nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH đối với việc xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng và Nhà nước đã chú trọng giữ gìn và phát
huy các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể. Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng và
các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về văn hóa luôn nhấn
mạnh đến vấn đề này. Nhà nước ban hành Luật Di sản văn hóa, Chính phủ xây
dựng Đề án về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH. Sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước đối với công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH đã góp phần định
hướng cho các địa phương trong cả nước thực hiện hiệu quả công tác này phù hợp
với tình hình thực tiễn tại địa phương mình.
Sài Gòn - Gia Định là nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hóa, vì hơn 300 năm
trước, Bến Nghé - Sài Gòn xưa là nơi tiếp nhận các nguồn lưu dân từ Bắc, Trung
đến lập nghiệp, rồi các di dân người Hoa vào định cư ở Biên Hòa, Mỹ Tho cùng
hội tụ với dân cư bản địa. Sau đó, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh trở thành
một trong những trung tâm của cả nước đón nhận những ảnh hưởng của văn hóa
Pháp, Mỹ. Vì vậy, nơi đây là địa điểm giao thoa giữa các nền văn hóa; mảnh đất
này chứa đựng nhiều DSVH mang đậm dấu ấn phát triển của vùng đất trẻ. Đó là
những công trình kiến trúc cổ như Bến Nhà Rồng, đến Quốc Tố, Dinh Xã Tây
(Trụ sở UBND Thành phố), Nhà hát lớn, Bưu điện, hệ thống các ngôi chùa cổ
(chùa Giác Lâm, chùa Bà Thiên Hậu, Tổ Đình Giác Viên); hệ thống các nhà thờ
78
cổ (Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức…); các di tích lịch sử - cách
mạng gắn với những chiến công hiển hách của cách mạng Việt Nam, như: Địa đạo
Củ Chi, Dinh Độc lập.
Nhận thức rõ tiềm năng, thế mạnh và nguồn di sản quý báu của Thành phố;
đồng thời, quán triệt Nghị quyết Trung ương năm Khóa VIII của Đảng, Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh đã kịp thời hoạch định những chủ trương, chương trình
đúng đắn về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phù hợp với tình hình thực tế
của của Thành phố, góp phần vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo chính quyền các cấp, Sở Văn hóa
- Thông tin và ngành Văn hóa, cũng như các địa phương xây dựng các chương
trình, kế hoạch hoạt động góp phần làm cho công tác bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH. Công tác bảo tồn các DSVH đã góp phần giữ gìn báu vật DSVH đặc sắc
của Thành phố, hệ thống DTLS - cách mạng, các DSVH vật thể và phi vật thể
từng bước được quy hoạch, sưu tầm, xây dựng kế hoạch trùng tu, bảo tồn. Hệ
thống DSVH từng bước được phát huy nhằm giáo dục truyền thống cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân, thúc đẩy phát triển du lịch Thành phố.
Tuy nhiên, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH mới đạt kết quả
bước đầu, chưa khai thác triệt để các tiềm năng, thế mạnh của các giá trị DSVH,
phục vụ sự phát triển bền vững của Thành phố.
79
Chương 3
QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014
3.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
3.1.1. Những nhân tố mới tác động đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị các di sản văn hóa
Tình hình thế giới: Những năm 2006-2010, tình hình thế giới diễn biến hết
sức phức tạp. Hòa bình và hợp tác là xu thế chung của tất cả các quốc gia, dân tộc.
Quá trình toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các nước đang phát triển tranh thủ vốn,
kỹ thuật và công nghệ của nước ngoài để phát triển kinh tế song cũng chứa đựng
nguy cơ phụ thuộc vào các nước phát triển. Đó là những yếu tố tiềm ẩn gây mất
ổn định, đe dọa sự phát triển bền vững.
Toàn cầu hóa tạo điều kiện mở rộng không gian giao lưu văn, góp phần bổ
sung các giá trị văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Thông qua quá trình này mà
văn hóa của mỗi dân tộc - quốc gia có dịp khuyếch trương các giá trị văn hóa của
dân tộc mình; đồng thời, tiếp nhận những giá trị mới từ các nền văn hóa khác. Quá
trình đó cũng khiến cho sự đa dạng văn hóa tại mỗi quốc gia - dân tộc ngày càng
phát triển, góp phần vào sự phát triển chung của văn hóa toàn nhân loại. Quá trình
giao lưu, hợp tác văn hóa cũng là quá trình thử thách bản lĩnh văn hóa của mỗi
quốc gia - dân tộc, là quá trình bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý của nền văn
hóa dân tộc. Bản chất tốt đẹp của giao lưu văn hóa là sự đối thoại bình đẳng và
rộng mở. Chính sự đối thoại cởi mở và bình đẳng là nguồn lực tạo ra sự phong
phú và tính độc đáo của mỗi nền văn hóa. Thông qua hoạt động giao lưu, hợp tác
văn hóa, con người Việt Nam đã tạo được những dấu ấn sâu sắc với bạn bè quốc
tế. Thế giới biết đến khí phách, tinh thần quật khởi đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc của dân tộc Việt Nam; tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động; bản tính hiền
hòa, trọng nghĩa tình; văn hóa - nghệ thuật truyền thống và ẩm thực Việt Nam.
80
Tuy nhiên, toàn cầu hóa là con dao hai lưỡi, là quá trình khó tránh khỏi sự
xung đột văn hóa. Toàn cầu hóa về kinh tế dẫn đến sự xâm lấn về thông tin, hình
thành thế giới phẳng, không biên giới về văn hóa. Trước sự du nhập văn hóa mang
tính toàn cầu, nhiều giá trị tốt đẹp trong nếp sống, phong tục tập quán, lễ nghi của
dân tộc bị mai một; sự lai căng trong ngôn ngữ, giao tiếp, kiểu mẫu thời trang và
nếp sinh hoạt lại trở thành thời thượng. Những điều đó đang tạo ra sự đồng nhất các
hệ thống giá trị và đe dọa làm cạn kiệt khả năng sáng tạo của văn hóa dân tộc. Nguy
cơ nhất thể hóa về văn hóa ngày càng hiện hữu đối với các quốc gia - dân tộc.
Ở trong nước: những thành tựu đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ IX và sau 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đã tạo cơ hội
để nước ta phát triển kinh tế với nhịp độ nhanh và chất lượng cao hơn. Tuy nhiên,
đất nước cũng phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và thế giới.
Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4-2006) đề ra
phương hướng tổng quát 5 năm 2006-2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước.
Trên lĩnh vực văn hóa, Đại hội chủ trương: "Tiếp tục phát triển sâu rộng và
nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn
chặt và đồng bộ hơn với kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội" [46, tr.106].
Đại hội xác định những định hướng phát triển văn hóa đến năm 2010, trong
đó, một trong những định hướng quan trọng là: Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn,
tôn tạo các DTLS cách mạng và kháng chiến; các DSVH vật thể và phi vật thể;
các giá trị văn hóa - nghệ thuật, văn nghệ dân gian, tiếng nói, chữ viết, thuần
phong mỹ tộc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh toàn cầu hóa, trước tình trạng bản sắc
dân tộc đang "mờ dần", thì việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH và giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trở thành vấn đề
cấp thiết cùng với việc chống lại các trào lưu tư tưởng văn hóa phản tiến bộ, trái
81
với những truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và những giá trị cao quý của loài người. Mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của sự
nghiệp văn hóa là xây dựng con người Việt Nam hội tụ và kết tinh những giá trị
truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Đó là những chuẩn mực văn hóa mới,
đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới.
Vấn đề cấp thiết đặt ra là đẩy mạnh chấn hưng nền văn hóa dân tộc trên cơ
sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với không ngừng tiếp biến
văn hóa toàn nhân loại. Trong đó, yếu tố nội sinh về văn hóa phải giữ vai trò
quyết định. Bởi lẽ, nội lực của dân tộc càng mạnh thì càng có nhiều cơ hội và khả
năng tiếp nhận, chọn lọc các giá trị văn hóa nhân loại, đồng thời có đủ bản lĩnh,
trình độ để "đồng hóa" các yếu tố ngoại sinh trở thành chất xúc tác cho sự phát
triển hiện đại hơn nền văn hóa dân tộc. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn
hóa, DSVH và bản sắc dân tộc đóng vai trò quyết định như là "bộ lọc" để chiết
xuất muôn vàn vòng sáng đa sắc văn hóa toàn nhân loại. Thông qua hội nhập và
giao lưu văn hóa sẽ góp phần làm phong phú, hiện đại, làm đậm đà và bền vững
thêm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tình hình Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,
du lịch lớn của đất nước. Với vị thế như vậy, Thành phố cần tăng tốc phát triển và
chủ động hội nhập sâu rộng kinh tế thế giới nhằm phấn đấu đến năm 2010, đạt
mục tiêu: Đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa; phát huy dân chủ và sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi nguồn lực, nắm bắt thời cơ, vượt
qua thách thức, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh ngày
càng văn minh, hiện đại, từng bước trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ,
khoa học - công nghệ của khu vực Đông - Nam Á; góp phần quan trọng vào sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Là một thành phố trẻ, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh luôn có sự năng
động trong quá trình phát triển và ẩn sâu trong lòng Thành phố lại chứa đựng
82
nhiều giá trị văn hóa nhân văn, chiều sâu lịch sử được kết tinh từ sự giao lưu của
nhiều nền văn hóa khác nhau trên nền tảng văn hóa dân tộc. Vì vậy, Thành phố có
thế mạnh về du lịch đô thị, văn hóa lịch sử, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái
(như khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ) và du lịch MICE (là loại
hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen
thưởng của công ty dành cho nhân viên, đối tác, khách hàng).
Trong những năm 2002 - 2012, thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa X Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2010, trong bối cảnh vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách
thức, với tinh thần “vì cả nước, cùng cả nước”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Thành phố đã quán triệt, cụ thể hóa và thực hiện sáng tạo các nghị quyết, chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trên nhiều lĩnh vực, trong đó, lĩnh vực văn hóa nói chung, bảo tồn DSVH có
sự chuyển biến tích cực.
Bên cạnh các công trình văn hóa được bảo tồn và xây dựng thì chất lượng
công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được nâng lên cùng với việc phát triển
các khu đô thị mới, chỉnh trang các khu đô thị theo hướng văn minh, hiện đại.
Khắp nơi trong Thành phố, các dự án, công trình tiếp tục được xây dựng và đưa
vào sử dụng, góp phần đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, góp phần không chỉ
cải thiện môi trường sống cho nhân dân mà còn tạo ra một diện mạo kiến trúc đô
thị mới. Song song với việc tập trung phát triển đô thị, Thành phố cũng tập trung
nghiên cứu bảo tồn các DSVH, lịch sử, kiến trúc trên địa bàn thành phố, như thành
lập Ban Chỉ đạo bảo tồn kiến trúc và cảnh quan đô thị nhằm bảo tồn và phát huy
giá trị hệ thống các công trình kiến trúc và cảnh quan đô thị cần bảo vệ.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, do áp lực phát triển kinh tế và đô thi hóa nên
việc cân bằng giữa yếu tố bảo tồn và phát triển đang là một bài toán khó đối với
Đảng bộ, chính quyền Thành phố. Là trung tâm giao lưu kinh tế, văn hóa; là đô thị
trẻ đầy năng động, sáng tạo, Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời phải giải quyết mâu
thuẫn giữa đô thị hóa, hiện đại hóa và bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH. Trong
quá trình phát triển, do không kiểm soát tốt nên đã xảy ra tình trạng rất nhiều
83
công trình có giá trị văn hóa, lịch sử biến mất. Ví dụ: Công viên Chi Lăng
được xây dựng năm 1890 bị thay đổi tính chất là công viên công cộng vào
năm 2010; Cây cầu sắt bắc qua kênh Thị Nghè trong Thảo Cầm Viên xây
dựng năm 1927 bị dỡ bỏ năm 1990. Trong qua trình xây dựng đại lộ Đông -
Tây, nay là đại lộ Võ Văn Kiệt thì hàng loạt dãy nhà cổ mang phong cách
kiến trúc Nam Trung Hoa cũng bị phá bỏ hoàn toàn, không còn dấu tích, gần
đây nhất là trường hợp di tích Ba Son, thương xá Tax. Điều đó cho thấy, công
tác bảo tồn DSVH trong quá trình cải tạo nâng cấp ở Thành phố Hồ Chí Minh
còn nhiều bất cập.
Là một trong những địa phương diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh mẽ với
những con đường được mở rộng, những ngôi nhà cao tầng mới mọc lên, dân số
gia tăng..., nếu Thành phố không có chính sách quy hoạch tốt sẽ ảnh hưởng đến
cảnh quan, môi trường, hệ thống DSVH. Trong cơn lốc đô thị hóa, nhiều công
trình kiến trúc lịch sử bị mất đi, thay cho những tòa cao ốc hiện đại. Từ đó đặt ra
vấn đề: làm thế nào để tạo sự hài hòa giữa tư duy hiện đại và quá khứ hoài niệm?
làm thế nào để chuyển tải một quá khứ đô thị vào thành phố hiện đại và hướng
đến tương lai? bảo tồn và phát triển là hai vấn đề có mối quan hệ hết sức mật
thiết. Vì vậy, để phát triển Thành phố Hồ Chí Minh hiện đại, giàu bản sắc thì đòi
hỏi trong quá trình phát triển đô thị, Chính quyền Thành phố cần quan tâm đến
công tác bảo tồn DSVH.
Bên cạnh đó, khí hậu nhiệt đới gió mùa cùng côn trùng, mối mọt cũng là
những nhân tố thường xuyên tác động mạnh đến công tác bảo tồn DSVH của
Thành phố. Nếu không có những biện pháp cụ thể để bảo tồn thì nhiều DSVH, đặc
biệt là DSVH vật thể, hệ thống di tích của Thành phố sẽ bị biến dạnh, thậm chí bị
xóa sổ.
Kinh tế và dân số gia tăng nhưng hạ tầng cơ sở không theo kịp đã khiến
môi trường sống ở Thành phố Hồ Chí Minh bị xuống cấp; việc bảo tồn DSVH
ngày càng trở nên bất cập. Trong quá trình phát triển kinh tế, những giá trị DSVH
thường bị khai thác quá mức, thậm chí làm sai lệch, biến dạng các giá trị đó, ví dụ
rõ nhất là lễ hội. Những lễ hội truyền thống được khai thác để phát triển du lịch,
84
dẫn đến tình trạng thương mại hóa, nguyên bản dân gian của lễ và nhất là phần hội
bị cải biến, mê tín dị đoan phát triển, gây ô nhiễm môi trường văn hóa và môi
trường sinh thái.
Công tác quản lý di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố còn nhiều bất cập.
Do thiếu quy định phân cấp, nên các ban quản lý di tích mang tính chất liên
ngành được thành lập hoạt động chưa ổn định, chưa thực sự đạt hiệu quả trong
quản lý, điều hành các công việc tại di tích.
Việc quản lý và khai thác di tích chưa thực hiện đồng bộ, dẫn đến tình trạng
công trình di tích bị xuống cấp không kịp thời được bảo quản, tu bổ; còn trông
chờ, ỷ lại vào kế hoạch tu bổ di tích của Thành phố và kinh phí đầu tư tu bổ từ
nguồn ngân sách Nhà nước. Do thiếu quy định về phân cấp bảo quản, tu bổ di tích
nên các địa phương chưa thật sự chủ động áp dụng các quy định về phân cấp đầu
tư của quận, huyện để giải quyết các trường hợp cấp bách như tu sửa khẩn cấp di
tích nhằm tránh khả năng sập đổ, bảo quản, tu bổ di tích ở quy mô nhỏ.
Từ thực tiễn nêu trên, cần thiết phải thực hiện phân cấp quản lý di tích, với
mục tiêu là đưa ra được các quy định về giao quản lý di tích cho cơ sở, quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp cơ sở trong quản lý và phối hợp quản
lý di tích trên địa bàn Thành phố; phát huy sự chủ động của các cấp cơ sở, của
cộng đồng trong bảo tồn, tôn tạo di tích; kịp thời đề ra những giải pháp phù hợp
trong hoạt động quản lý di tích theo đúng quy định pháp luật về DSVH và các quy
định pháp luật có liên quan.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, do áp lực của
quá trình phát triển kinh tế và đô thị hóa nên việc cân bằng giữa yếu tố bảo tồn và
phát triển đang là bài toán khó cho các nhà quản lý đô thị.
Trên quan điểm toàn diện nhìn nhận về DSVH, cần phải nhận thức rõ:
DSVH ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ của riêng cộng đồng cư
dân Thành phố hay của miền Nam, mà di sản này cần được coi là của cả nước. Vì
vậy, các cấp chính quyền Thành phố cần có chính sách và thực thi chính sách
quản lý đô thị và quản lý văn hóa đô thị cho phù hợp, khoa học để giữ gìn được
“hồn đô thị” trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa.
85
3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII (năm 2005)
diễn ra vào lúc toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân Thành phố đã tổ chức kỷ niệm
30 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đón nhận danh hiệu
“Thành phố Anh hùng”.
Đại hội đã đánh giá khái quát 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới tại
Thành phố Hồ Chí Minh: Kết quả đạt được sau 20 năm đổi mới không chỉ khôi
phục và phát triển kinh tế, chính trị mà còn giữ vững sự ổn định, góp phần quan
trọng vào giữ vững ổn định chung của đất nước. Trên cơ sở đó, Đại hội chủ
trương: “Đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa” để “xây dựng Thành phố Hồ
Chí Minh ngày càng văn minh, hiện đại… góp phần quan trọng trong sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [38, tr.48-49].
Đề cập đến những thành tựu phát triển văn hóa, Đại hội Đảng bộ Thành phồ Hồ
Chí Minh lần thứ VIII khẳng định: Đời sống văn hóa của nhân dân Thành phố
từng bước được nâng lên. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
như lòng nhân ái, nghĩa tình, giúp đỡ người nghèo, năng động, sáng tạo được chú
ý phát huy… Công trình Khu tưởng niệm các Vua Hùng trong Công viên lịch sử
văn hóa các dân tộc đã hoàn thành những hạng mục chính [38, tr.24]. Đặc biệt,
Thành phố là nơi khởi xướng và thực hiện tốt nhiều phong trào xã hội - từ thiện:
xóa đói giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa; xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương;
đem lại nụ cười cho trẻ thơ; phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng… Đó là
những kết quả thiết thực, “có ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội rộng lớn và
có sức lan tỏa, thể hiện sinh động bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa” [38, tr.16-17].
Đại hội xác định nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa những năm
(2006 - 2010) là:
Phát triển văn hóa của Thành phố theo hướng văn minh, hiện đại, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần manh
nét đặc trưng của nhân dân Thành phố… Tập trung đầu tư cho những
công trình văn hóa tiêu biểu, có vai trò quan trọng trong đời sống văn
hóa của Thành phố và các tỉnh phía Nam [38, tr.58-59].
86
Để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã đề
ra các giải pháp trọng tâm, mang tính đột phá trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, đề
ra giải pháp về văn hóa:
Tập trung xây dựng môi trường văn hóa nhằm tạo lập môi trường văn
hóa lành mạnh từ gia đình, thôn ấp, khu phố, phường - xã. Đầu tư thích
đáng và coi trọng công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa
để qua đó giữ gìn bản sắc văn hóa, giáo dục truyền thống yêu nước, tự
hào và tự tôn dân tộc [38, tr.84].
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX (2010) diễn
ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước vừa có những thuận lợi và cơ hội, vừa
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức đan xen. Đặc biệt, sự tác động tiêu
cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cuối năm 2007
đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cả nước nói chung và Thành phố nói
riêng. Trước những thách thức đó, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh chủ trương tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới.
Đánh giá về những kết quả đã đạt được trên lĩnh vực văn hóa những năm
2005 - 2010, Đại hội khẳng định: "Đời sống văn hóa của nhân dân Thành phố
được nâng lên một bước, những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
của con người Thành phố tiếp tục được khơi dậy, phát huy; các thiết chế, công
trình văn hóa được đầu tư, nâng cấp" [35, tr.141].
Phát huy những thành quả đó, Đại hội xác định nhiệm vụ về văn hóa trong
những năm 2010 - 2015 là:
Phát triển văn hóa theo hướng văn minh, giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân
Thành phố;… đầu tư xây dựng Nhà hát giao hưởng - nhạc vũ kịch, Bảo
tàng Thành phố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế, công
trình văn hóa… [39, tr.55].
Đại hội tiếp tục khẳng định mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2010 - 2015
và tầm nhìn chiến lược đến năm 2020 là:
87
Tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy dân chủ và sức mạnh
đại đoàn kế toàn dân tộc;…đóng góp ngày càng lớn cho cả nước; từng
bước trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á [39, tr.44].
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố lần thứ 12 Về
nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội năm 2013, đề ra phương hướng,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa cho Thành phố, trong đó, chỉ rõ: Tập trung
đầu tư những công trình văn hóa trọng điểm, mang tính biểu trưng, thực hiện tốt
việc bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH dân tộc.
Bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH luôn đồng hành trong sự phát triển
của Thành phố. Để phát huy các giá trị DSVH, các cơ quan chức năng của
Thành phố đã xác định rõ thế mạnh của Thành phố Hồ Chí Minh là du lịch
cùng với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, như: Các khu
DTLS; hệ thống bảo tàng, như: Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, Bảo tàng Lịch
sử; các công trình kiến trúc có niên đại 100 năm về trước: Bưu điện Thành phố
Hồ Chí Minh, Nhà thờ Đức Bà, Dinh Thống Nhất, Bến Nhà Rồng, Chợ Bến
Thành. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh còn có hệ thống các Chùa kiến
trúc Việt - Hoa như Chùa Giác Lâm, Chùa Vĩnh Nghiêm, Chùa Bà Thiên Hậu.
Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các sản phẩm du lịch, loại hình du lịch
đặc sản và độc đáo cao.
Xác định rõ tiềm năng to lớn của các DSVH, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh luôn quan tâm gắn phát triển du lịch với việc khai thác các giá trị văn hóa
đặc sắc, đặc biệt là hệ thống DTLS - văn hóa. Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ
X (2015) nhấn mạnh chủ trương xây dựng và phát triển văn hóa:
Xây dựng môi trường văn hóa để con người phát triển toàn diện… Bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc, các
giá trị văn hóa mang nét đặc trưng của Nhân dân thành phố; tập trung xây
dựng một số công trình văn hóa tiêu biểu, mang tầm vóc khu vực, tương
xứng với lịch sử, vai trò, vị trí của một đô thị đặc biệt [40, tr.136-137].
88
Nhận thức của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công
tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa được nâng lên một bước. Thể hiện rõ
trong chủ trương của các kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố. Nếu như, Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX xác định 6 chương trình đột phá, nhưng chưa
có chương trình liên quan đến văn hóa, đến Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lần thứ X, Thành ủy xác định 7 chương trình đột phá, trong đó, bổ sung
chương trình thứ bảy:
Chỉnh trang và phát triển đô thị. Mục đích của chương trình này nhằm
tổ chức lại cuộc sống của dân cư, cải thiện điều kiện sống của nhân dân,
tạo môi trường sống tốt hơn, hài hòa với không gian kiến trúc, cảnh
quan xung quanh; phù hợp với sự phát triển chung của đô thị đặc biệt
nhưng vẫn lưu giữ được bản sắc văn hóa dân tộc qua hệ thống DSVH
[40, tr.166-167].
Khi xác định nhiệm vụ để phát triển du lịch, khai thác lợi thế tài nguyên du
lịch, phát triển du lịch xanh, bền vững gắn với giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa đặc trưng của thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình, Ban Thường
vụ Thành ủy yêu cầu: Xây dựng hệ thống sản phẩm du lịch liên hoàn, đồng bộ,
đặc sắc, hấp dẫn, giá trị gia tăng cao và có khả năng cạnh tranh với các quốc gia
trong khu vực và thế giới, hướng đến các thị trường mục tiêu, tiềm năng; đẩy
mạnh các loại hình du lịch có thế mạnh của Thành phố như du lịch ẩm thực,
chương trình homestay để du khách tìm hiểu lịch sử, văn hóa truyền thống của
thành phố… [162].
Như vậy, trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế và sự
giao thoa văn hóa mang tính toàn cầu, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã kịp
thời hoạch định chủ trương về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phù hợp với
tình hình thực tế của Thành phố và xu thế phát triển của thời đại. Chủ trương đó
được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, xây dựng và phát triển văn hóa nói chung, bảo tồn các DSVH nói
riêng có tầm quan trọng đặc biệt, nhằm xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh phát
triển toàn diện, bền vững, hướng đến những giá trị nhân văn, dân chủ, văn minh.
89
Đây là chủ trương phù hợp với quan điểm của Đảng: Văn hóa là mục tiêu và là
động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ hai, chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh như: các DTLS, các di sản kiến trúc, các lễ hội truyền
thống gắn với phát triển du lịch, nhằm quảng bá văn hóa, giá trị văn hóa, truyền
thống tốt đẹp của nhân dân Thành phố đối với nhân dân cả nước và bạn bè quốc
tế, góp phần nâng cao giá trị kinh tế của các tua, các tuyến du lịch, thúc đẩy sự
phát triển của ngành du lịch nói riêng và kinh tế thành phố nói chung; đồng thời,
phát huy tiềm năng DSVH, góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương đối
với nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH. Trên cơ sở đó, khắc phục tình
trạng xâm lấn di tích, phá hoại các DSVH trên địa bàn Thành phố. Qua đó, nâng
cao ý thức bảo vệ những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của mỗi người dân
Thành phố.
3.2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
3.2.1. Công tác bảo tồn di sản văn hóa
3.2.1.1. Công tác điều tra và xếp hạng di tích
Nhằm tạo điều kiện cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh đạt kết quả tốt và mang lại những hiệu quả thiết
thực, năm 2006, Ban Quản lý di tích lịch sử - văn hóa và Danh lam thắng cảnh
Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Trung tâm Bảo tồn và Phát huy giá trị di tích lịch
sử - văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã
thực hiện Đề án “Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 - 2020” với nội dung:
- Đối với di tích đã được xếp hạng, khảo sát, nghiên cứu tình hình quản lý,
sử dụng, phát huy giá trị di tích; tình trạng di tích bị xuống cấp, tình trạng di tích
bị xâm hại, lấn chiếm nhằm đề xuất hướng giải quyết và phân kỳ việc thực hiện.
- Đối với công trình, địa điểm có dấu hiệu di tích, khảo sát, nghiên cứu từng
công trình, địa điểm, nếu xét thấy có đủ tiêu chí sẽ lập danh mục kiểm kê di tích.
90
- Mục tiêu của Đề án là: Giữ gìn nguyên vẹn và đầy đủ các di tích đã và
đang được xếp hạng. Nâng cao nhận thức, phát huy các giá trị của di tích trong
việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc cho nhân dân, đặc biệt là
thế hệ trẻ.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Đề án, UBND Thành phố Hồ Chí Minh
ra Quyết định số 5360/QĐ-UBND ngày 25 tháng 11 năm 2010 về thực hiện kiểm
kê DTLS - văn hóa trên địa bàn Thành phố, ban hành kèm theo danh mục kiểm kê
di tích 168 công trình, địa điểm. UBND Thành phố giao cho Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các sở ngành chức năng liên
quan và UBND các quận, huyện tổ chức nghiên cứu, khảo sát, nhận diện, xác định
giá trị, lập hồ sơ xếp hạng di tích đối với các công trình, địa điểm đủ tiêu chí xếp
hạng DTLS, văn hóa; báo cáo Hội đồng xét duyệt công nhận DTLS - văn hóa và
danh lam thắng cảnh thành phố xem xét, trình Chủ tịch UBND Thành phố ban
hành quyết định công nhận di tích cấp thành phố, hoặc đề xuất Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch xét duyệt công nhận nếu đủ tiêu chuẩn di tích cấp quốc gia.
Tiếp đó, đầu năm 2012, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiến hành lập, trình
Quy hoạch tổng thể ngành văn hóa đến 2020, tầm nhìn 2025, trong đó, có các
DTLS cách mạng. Việc lập quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích
nhằm đặt cơ sở pháp lý và khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành và địa phương.
Đối với, di sản văn hóa phi vật thể, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là
nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hóa, là nơi tiếp nhận các nguồn lưu dân từ các
miền Trung, miền Bắc và những di dân người Hoa vào định cư. Sau đó, Sài Gòn
trở thành một trong những trung tâm của cả nước đón nhận ảnh hưởng của văn
hóa phương Tây qua các giai đoạn thăng trầm của đất nước. Sự giao thoa ấy là tác
nhân khiến văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh (từ văn hóa vật thể như kiến trúc,
đến phong tục tập quán, lễ hội…) thành một phức thể - đa văn hóa [139].
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển nhanh của kinh tế - xã hội,
quá trình đô thị hóa..., những DSVH (đặc biệt là DSVH phi vật thể) đang có nguy
91
cơ biến dạng, mai một. Một số lễ hội truyền thống, làng nghề truyền thống do tác
động của hoạt động kinh tế, bị biến đổi hoặc hoạt động cầm chừng.
Trước tình hình đó, nhằm tổng kiểm kê DSVH phi vật thể trên địa bàn
Thành phố, Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì phối hợp với
Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh triển khai dự án “Tổng điều tra DSVH
phi vật thể tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Đây là dự án thuộc chương trình mục
tiêu Quốc gia những năm (2007-2009). Mục đích của dự án là tổng kiểm kê số
lượng các DSVH phi vật thể đang tồn tại ở Thành phố Hồ Chí Minh; đánh giá,
phân loại từng hình thái văn hóa phi vật thể còn tồn tại ở địa phương như lễ hội cổ
truyền, phong tục tập quán, trò chơi dân gian, nghệ thuật dân gian, làng nghề,
nghệ nhân… Trên cơ sở kết quả đạt được, dự án sẽ đề cập đến những nguyên nhân
dẫn đến thực trạng về các DSVH, đề ra các giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa phi vật thể tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Quy hoạch và bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị. Quá trình bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đặt ra vấn đề: Bảo tồn
và phát triển. Với vị trí là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục - đào tạo
của cả nước và trong xu thế hội nhập quốc tế thì quá trình phát triển, đô thị hóa đặt
ra vấn đề là làm thế nào để bảo tồn được giá trị di sản dân tộc được hình thành hơn
300 năm với xu hướng phát triển thành phố văn minh, hiện đại? Ngay từ thời kỳ
đầu đổi mới, Đảng bộ và Chính quyền Thành phố đã nhận thức được vấn đề này
và trong quá trình đổi mới thì đây là thách thức đặt ra cần giải quyết.
Tuy nhiên, do trình độ quản lý đô thị chưa tốt, nhận thức chưa đầy đủ về
các giá trị DSVH thời thuộc địa; đồng thời, quá trình đô thị hóa nhanh, ào ạt đã
dẫn đến nhiều giá trị của kiến trúc cổ đô thị vốn có dần mất đi, cảnh quan tự nhiên
bị thay thế bởi các công trình dân sinh, phần nhiều là mang tính “tự phát”.
Trước thực trạng biến đổi nhanh của hệ thống cảnh kiến trúc cổ và yêu cầu
cần nhanh chóng xây dựng những quy định cho công tác bảo tồn cảnh quan kiến
trúc, năm 2008, UBND Thành phố Hồ Chí Minh giao cho Viện Nghiên cứu phát
triển Thành phố lập danh mục các công trình kiến trúc cần bảo tồn. UBND Thành
phố cũng chủ trương ban hành kế hoạch thực hiện chương trình hành động bảo tồn
92
cảnh quan kiến trúc trên địa bàn và quy định về tách thửa các biệt thự cũ để tránh
có thêm nhiều công trình bị mai một.
Ngày 21/8/2010, UBND Thành phố ban hành Quyết định số 3691/QĐ-
UBND thành lập Ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch và chương trình hành động bảo
tồn cảnh quan kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, Ban Chỉ đạo có nhiệm
vụ xây dựng đề án, chương trình tổng thể, kế hoạch hành động, mục tiêu nhằm cụ
thể hóa những nội dung, yêu cầu trong công tác bảo tồn kiến trúc, cảnh quan đô
thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, chỉ đạo, điều hành việc xây
dựng các quy định chung về bảo tồn kiến trúc, cảnh quan đô thị; xác định các khu
vực cần bảo tồn, chỉ đạo điều hành việc nghiên cứu xây dựng quy chế bảo tồn cho
một số khu vực trọng điểm, trước mắt tập trung tại các quận 1, quận 3, quận 5.
Tiếp đó, ngày 12-7-2011, UBND Thành phố ban hành Quyết định số
50/2011/QĐ-UBND về việc lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch đô thị trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Quyết định được áp dụng đối với các tổ chức, cá
nhân liên quan đến công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Quyết định cũng xác định rõ các khu vực có ý nghĩa
quan trọng của Thành phố, trong đó có các khu DTLS - văn hóa; khu vực bảo tồn
có trong danh mục bảo tồn hoặc khu vực có giá trị về di sản kiến trúc được cơ
quan có thẩm quyền công nhận.
Quyết định nêu rõ: Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, có vị trí
giao lưu giữa các nền văn hóa… thể hiện rõ nét hội nhập và phát triển. Trong xu
thế đó, để giữ được “hồn đô thị”, Thành phố cần có kế hoạch tổng thể và chi tiết
về bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị để trong sự phát triển hướng đến tính hiện
đại nhưng vẫn lưu giữ trong đó giá trị của truyền thống, lưu giữ những di tích
đánh dấu bước đi mang tính lịch sử của Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình
phát triển.
Để có cái nhìn tổng thể về cảnh quan đô thị trong quá trình phát triển và
giao lưu, theo yêu cầu của Sở Quy hoạch kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2010, Trung tâm dự báo nghiên cứu đô thị Pháp đã thực hiện chương trình
“Bảo tồn di sản kiến trúc và chiến lược quản lý di sản trong khu trung tâm lịch
93
sử của Thành phố Hồ Chí Minh”. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đúc
kết hiện trạng di sản và các vấn đề liên quan đến bảo tồn di sản; đề xuất năm
chiến lược trọng điểm để nâng cao hiệu quả bảo tồn di sản đô thị, gồm: quy
hoạch chung, quy hoạch khu vực di sản, lập và quản lý dự án, triển khai thực
hiện, xây dựng DSVH… Trên cơ sở kết quả Chương trình nghiên cứu này,
UBND Thành phố Hồ Chí Minh thành lập Ban chỉ đạo chương trình bảo tồn di
sản giai đoạn 2013 - 2014.
Ngày 25/9/2013, Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết
định số 2751/QĐ-UBND về Chương trình hành động “Bảo tồn cảnh quan kiến
trúc đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”, nhằm xác định các nội dung,
tiêu chí, nhiệm vụ cụ thể để các sở - ngành, quận, huyện tổ chức, thực hiện.
Chương trình xác định chín nhóm nội dung cần được triển khai thực hiện, trong
đó, nội dung cơ bản gồm: xác định danh mục các công trình kiến trúc nghệ thuật,
quần thể kiến trúc và các công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị; xác định các đối
tượng kiến trúc cảnh quan đô thị cần được bảo tồn; xây dựng các quy định chung
trong công tác bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị; xây dựng quy chế bảo tồn cảnh
quan kiến trúc đô thị đối với các đối tượng khu vực, công trình; nghiên cứu cơ chế
chính sách hỗ trợ trong công tác bảo tồn…Tất cả nội dung trong chương trình
hành động này đang được các cơ quan, đơn vị có liên quan khởi động thực hiện.
Ngày 28-8-2014, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số
29/2014/QĐ-UBND về Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị chung Thành
phố Hồ Chí Minh. Việc ban hành Quy chế nhằm quản lý về thực hiện theo đồ án
quy hoạch đô thị được duyệt, kiểm soát theo định hướng phát triển kiến trúc, bảo
vệ cảnh quan đô thị trên phạm vi toàn thành phố; kiểm soát việc xây dựng mới, cải
tạo chỉnh trang đô thị; quy định cụ thể trách nhiệm quản lý quy hoạch, kiến trúc
của các cấp chính quyền thành phố. Quy chế là cơ sở để cơ quan quản lý kiến trúc,
quy hoạch, xây dựng xây làm căn cứ quản lý đầu tư xây dựng, cấp phép xây dựng,
cải tạo chỉnh trang các công trình kiến trúc, thiết kế cảnh quan trong đô thị và làm
căn cứ để xác lập nhiệm vụ quy hoạch, thiết kế đô thị đối với khu vực chưa có quy
hoạch, thiết kế đô thị được duyệt.
94
Tiếp đó, ngày 20-3-2014, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số
1340/2014/QĐ-UBND quy định quản lý quy hoạch chung đô thị theo đồ án điều
chỉnh quy hoạch chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025. Quy
định xác định rõ đối với mạng lưới văn hóa: Xây dựng Thành phố thành một trung
tâm văn hóa lớn của cả nước và khu vực. Kế thừa văn hóa truyền thống và giao
lưu quốc tế, giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Phát
triển văn hóa theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc và
các giá trị văn hóa tinh thần mang nét đặc trưng của người Việt và của nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh. Phát triển mạnh các ngành văn hóa giải trí, kết hợp với
du lịch, xây dựng Thành phố thành một trung tâm du lịch nhiều loại hình của cả
nước và khu vực.
Những nghiên cứu và dự án trên nhằm mục tiêu: Bảo tồn di sản gắn với
việc phát huy giá trị di sản qua du lịch văn hóa, đưa cộng đồng tham gia và trực
tiếp được lợi từ việc bảo tồn di sản thông qua việc nâng cao kiến thức và sự hiểu
biết cho người dân.Xây dựng nếp sống văn minh đô thị cho cư dân là một yếu tố
quan trọng làm cho người dân có ý thức bảo tồn DSVH, đồng thời với việc đào
tạo nguồn nhân lực quản lý văn hóa đô thị có tri thức và kỹ năng.
Như vậy, có thể thấy, trong những năm 2005 - 2014, hoạt động bảo tồn di
sản ở Thành phố Hồ Chí Minh đạt được kết quả bước đầu. Mặc dù đã có nhiều
cố gắng, song, các cơ quan chức năng mới dừng lại ở việc lập danh mục các
công trình cần được nghiên cứu bảo tồn; tập hợp những mô tả sơ bộ về hình thức
kiến trúc và tình trạng kỹ thuật của công trình cùng với những kiến nghị triển
khai công tác bảo tồn. Các bước nghiên cứu và thực hiện tiếp theo của quá trình
bảo tồn vẫn chưa được khởi động một cách hệ thống. Trọng tâm của công tác
bảo tồn chỉ giới hạn ở quy mô di tích, chưa chỉ rõ giá trị của đối tượng ở quy mô
di sản đô thị. Thành phố chưa xác định và lập được kế hoạch mang tính chiến
lược để làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách tổng hợp - đa ngành -
đồng bộ về các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội nhằm hiện thực hóa công tác
bảo tồn di sản đô thị.
95
3.2.1.2. Công tác trùng tu, bảo tồn và tôn tạo các di tích
Di tích khảo cổ: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII của
Đảng, nhiều chương trình nghiên cứu khảo cổ học được triển khai ở Thành phố
Hồ Chí Minh, đem lại nhiều phát hiện mới, cung cấp và bổ sung thêm nhiều tư
liệu về lịch sử văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan, khảo cổ học ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa thực hiện tốt nhiệm
vụ của mình.
Phát huy những kết quả đạt được ở giai đoạn trước năm 2006, Chương
trình “Điều tra khảo sát khảo cổ học phục vụ nhu cầu quy hoạch, xây dựng và
phát triển huyện Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn 2006 - 2020)” do
TS Nguyễn Thị Hậu chủ trì được thực hiện. Cuối năm 2012, hoạt động khảo cổ
học Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu trở lại với việc Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh phối kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ học (Viện Khoa học xã hội
vùng Nam Bộ) tiến hành nghiên cứu, khai quật di tích Bến Đò. Kết quả của đợt
khai quật đã cung cấp và bổ sung nhiều nguồn tư liệu mới về giai đoạn tiền, sơ sử
ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Đông Nam Bộ nói chung; đồng thời, đem
lại những nhận thức mới về quá trình hình thành và phát triển của chùa Hội Sơn -
DTLS văn hóa cấp quốc gia, một trong những ngôi chùa cổ xưa và lưu giữ nhiều
hiện vật giá trị về Phật giáo.
Năm 2013 và đầu năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiến hành lập
Dự án Quy hoạch khảo cổ học Thành phố Hồ Chí Minh trình UBND Thành phố.
Trong Dự án có nhiều loại hình di tích khảo cổ học được quy hoạch nghiên cứu,
khai quật và bảo tồn, đặc biệt, đã có những di tích thuộc loại hình DSVH đô thị
như hệ thống cảng cổ...
Từ các kết quả nghiên cứu, nhiều công trình chuyên khảo về khảo cổ học
ở Thành phố Hồ Chí Minh đã được công bố như: “Tiền sơ sử Thành phố Hồ Chí
Minh”, “Gốm Việt Nam tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí
Minh”, “Cổ vật tiêu biểu Thành phố Hồ Chí Minh”, “365 bước chân dạo quanh
bảo tàng lịch sử Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh”, “Cổ vật thời Tây Sơn”;
bên cạnh đó là nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, các bài thông báo,
96
các tham luận tại các hội thảo khoa học và nhiều diễn đàn trên các phương tiện
thông tin đại chúng… góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam, đặc biệt
là lịch sử vùng đất phía Nam của Tổ quốc.
Tuy nhiên, việc bảo tồn di tích khảo cổ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh vẫn còn một số hạn chế: Kể từ sau các hoạt động khảo cổ học năm 2000,
khảo cổ học Thành phố có rất ít hoạt động, mặc dù tiềm năng khảo cổ học của
Thành phố là rất lớn. Trước tốc độ đô thị hóa ở Thành phố diễn ra mạnh mẽ, nhiều
di tích khảo cổ học đã bị xuống cấp, mai một và có nguy cơ xóa sổ, nhất là những
khu vực ngoại thành như Cần Giờ, Bình Chánh, Hóc Môn, Thủ Đức, Quận 9,
Quận 2 và ngay cả ở các quận trung tâm của Thành phố… Đặc biệt, Thành phố
Hồ Chí Minh có 2 di tích Khảo cổ học đã được công nhận là di tích cấp quốc gia
là Giồng Cá Vồ và Khu lò gốm cổ Hưng Lợi. Tuy nhiên, do thiếu quan tâm, chăm
sóc, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích nên cả hai di tích quan trọng này đều
đang ở trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, chưa phát huy được những giá trị
lịch sử, văn hóa. Điều hệ trọng hơn là, nếu không có sự quan tâm, đầu tư kịp thời
thì cả hai di tích sẽ có nguy cơ biến mất.
Việc điều tra cơ bản các di tích khảo cổ học không được tiến hành nên
việc quy hoạch tổng thể các di tích khảo cổ và các chương trình nghiên cứu hầu
như không được triển khai. Thực tế đó cho thấy, công tác khảo cổ học ở Thành
phố Hồ Chí Minh đã qua rồi một giai đoạn “dần dần hình thành một trung tâm
nghiên cứu khảo cổ và nghệ thuật cổ Việt Nam, đặc biệt là vùng đất phía Nam
của đất nước… ” [149, tr.1]. Nguyên nhân của tình trạng đó là do thiếu lực lượng
cán bộ nghiên cứu. Thực tế cho thấy, đa số cán bộ làm công tác khảo cổ học dày
dạn kinh nghiệm trước đây đều nhận nhiệm vụ mới ở cơ quan khác. Mặt khác,
các hoạt động khảo cổ không được triển khai thường xuyên do chưa có sự đầu
tư, quan tâm đúng mức và nguồn kinh phí đầu tư còn rất hạn hẹp. Thậm chí, có
quan niệm còn cho rằng, việc nghiên cứu những vấn đề lịch sử, nghệ thuật là
nhiệm vụ của các Viện nghiên cứu, các trường Đại học…, còn đội ngũ cán bộ
làm công tác khảo cổ học trong một số bảo tàng chỉ là nơi áp dụng những thành
tựu nghiên cứu đó vào hoạt động nghiệp vụ của mình.
97
Do thiếu những chương trình nghiên cứu và hoạt động khảo cổ học không
được triển khai thường xuyên nên việc tuyên truyền về ý thức, trách nhiệm của
toàn dân trong công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH thông qua các
cuộc khai quật khảo cổ học chưa đạt được hiệu quả.
Công tác nghiên cứu khảo cổ học không chỉ để tìm ra hệ thống di tích, di vật
dưới lòng đất, mà còn để nghiên cứu bảo tồn các di tích trên mặt đất, chủ yếu là các
di tích khảo cổ học thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, đô thị, cảng thị… Vì vậy,
việc quản lý, bảo tồn và phát huy tác dụng di tích lịch sử - văn hóa không thể không
có sự tham gia nghiên cứu dưới góc độ khảo cổ học Đô thị. Để hạn chế sự phá hủy
di tích, nhằm bảo tồn và gìn giữ lại cho thế hệ sau những DSVH của tiền nhân, cần
thiết phải có một đề án bảo tồn và phát huy, trong đó chương trình khảo sát điều tra
Quy hoạch khảo cổ học và triển khai hoạt động khai quật các di tích khảo cổ là
bước đi ban đầu cần thiết, nhằm giúp cho các nhà lãnh đạo và quản lý thành phố và
các quận, huyện có được những cơ sở khoa học để hoạch định, đề ra chủ trương chỉ
đạo và triển khai thực hiện các kế hoạch bảo tồn và phát giá trị lịch sử văn hoá hệ
thống các di tích, di chỉ khảo cổ học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Để công việc trên đi vào thực hiện và đạt kết quả, ngành khảo cổ học rất
cần các cấp lãnh đạo của thành phố, lãnh đạo Sở Văn hoá, Thể thao Thành phố Hồ
Chí Minh quan tâm, chỉ đạo, tạo điều kiện hơn nữa để cho tập thể các cơ quan và
cán bộ làm công tác khảo cổ hoạt động theo đúng tính chất và chức năng của
mình. Tạo điều kiện định hướng hoạt động, xây dựng các kế hoạch, đề tài nghiên
cứu, cung cấp kinh phí hoạt động và cơ chế hoạt động để công tác khảo cổ ở
Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động một cách hiệu quả, góp phần vào việc bảo tồn,
phát triển và phát huy các giá trị văn hóa.
Bảo tồn các di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng: bên cạnh việc nghiên cứu,
điều tra, khảo sát, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng Di tích cấp quốc gia và Di tích cấp
Thành phố, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ và phát huy giá trị các di tích,
việc trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử - cách mạng trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh đã được Bộ Văn hóa - Thông tin và UBND Thành phố quan tâm.
98
Trong những năm 2005 - 2014, bên cạnh nguồn kinh phí của Bộ Văn hóa,
Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Thành phố đã quan tâm đến
việc đầu tư tu bổ, tôn tạo và chống xuống cấp các di tích lịch sử - cách mạng. Từ
năm 2007 đến 2011, trong số 119 tỷ đồng đầu tư cho việc tu bổ, tôn tạo cũng như
chống xuống cấp các loại hình di tích ở Thành phố, có 112 tỷ dành cho các di tích
lịch sử - cách mạng. Trong đó: Đầu tư cho di tích Ngã Ba Giồng ở huyện Hóc
Môn 63,8 tỷ đồng, di tích Bến Dược ở huyện Củ Chi 17 tỷ đồng, khu di tích Dân
công hỏa tuyến Vĩnh Lộc A ở huyện Bình Chánh 8,46 tỷ đồng, di tích Trụ sở Phái
đoàn liên lạc của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Nhân dân Việt Nam cạnh Phân ban
quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến Sài Gòn (1955-1958); các di tích ở quận
Phú Nhuận 6,4 tỷ đồng, địa đạo Phú Thọ Hòa ở quận Tân Bình 2,5 tỷ đồng, di tích
nhà số 5, Châu Văn Liêm, quận 5 (nơi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành ở, trước khi ra đi tìm đường cứu nước) 1 tỷ đồng… [145, tr.5].
Chủ trương của chính quyền Thành phố là trong những năm 2011 - 2015, tập
trung đầu tư, tu bổ và tôn tạo một số di tích lịch sử - cách mạng, như: Cơ sở in ấn
của Hội ủng hộ Vệ Quốc đoàn ở Quận 10, với tổng số tiền hơn 2 tỷ đồng; Căn cứ
rừng Sác ở huyện Cần Giờ 14 tỷ đồng… [146, tr.6]. Ngoài ra, để tạo điều kiện tốt
cho việc bảo vệ di tích, từ năm 2004 đến năm 2014, Thành phố đã miễn thuế sử
dụng đất đối với các di tích đã được xếp hạng. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
tham mưu cho lãnh đạo Thành phố chỉ đạo UBND các quận, huyện có di tích hoán
đổi nhà khác cho các chủ sở hữu là tư nhân. Cụ thể là: UBND Quận 10 hoán đổi
cho chủ sở hữu căn nhà là di tích hầm bí mật chứa vũ khí thời kháng chiến chống
Mỹ, di tích Cơ sở in ấn của Hội ủng hộ Vệ Quốc đoàn; UBND Quận 3 hoán đổi căn
nhà trên đường Điện Biên Phủ để thu hồi căn nhà là di tích Ban Tuyên huấn Xứ ủy
Nam Kỳ - di tích là cơ sở giấu vũ khí của biệt động Sài Gòn đánh Dinh Độc Lập
trong Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968. Việc hoán đổi như vậy đã
tạo thuận lợi cho công tác quản lý, trùng tu, tôn tạo di tích và phục vụ việc tham
quan của du khách.
99
Để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích trên
địa bàn Thành phố, ngày 11-12-2007, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành
Quyết định số 5487/QĐ-UBND thành lập Trung tâm Bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử - văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Trung tâm Bảo tồn di
tích), trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trước đây, việc bảo tồn và phát
huy giá trị di tích do Ban Quản lý di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
Thành phố thực hiện. Theo Quyết định, Trung tâm Bảo tồn di tích có chức năng:
Nghiên cứu khoa học về bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa; sưu
tầm, phát hiện, kiểm kê, phân loại, lập hồ sơ di tích trên địa bàn Thành phố để đề
xuất xếp hạng di tích và công nhận DSVH; tổ chức thăm dò, khai quật di tích khảo
cổ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ chính của Trung tâm là: Nghiên cứu, sưu tầm, phát hiện, kiểm
kê, phân loại các công trình các công trình địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa để
làm cơ sở đề xuất xếp hạng di tích; làm chủ đầu tư các công trình tu bổ, tôn tạo,
phục hồi và phát huy giá trị di tích thuộc nguồn vốn Nhà nước khi được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giao; đề xuất để Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đề nghị UBND Thành phố xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nghiên cứu đề
xuất các giải pháp bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh và thực hiện các giải pháp khi được cấp thẩm quyền phê duyệt,… Với
chức năng và nhiệm vụ như trên, Trung tâm Bảo tồn di tích đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - cách mạng trên
địa bàn Thành phố.
Được sự quan tâm của UBND Thành phố, UBND huyện Củ Chi đã ban
hành Quyết định số 8434/QĐ-UBND phê duyệt nhiệm vụ QHCT1/500 Khu
truyền thống Cách mạng Sài Gòn - Gia Định tại xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi.
Theo quy hoạch, nơi đây sẽ là khu công viên văn hóa với cảnh quan thiên nhiên
của vùng đất thép Củ Chi, là không gian hồi tưởng đến lịch sử mở cõi và tái hiện
hình ảnh của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; đồng thời, là không
gian tri ân và tưởng niệm những người đã khuất trong 2 cuộc kháng chiến.
100
Để thu hút nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về làm việc tại các di
tích, kỳ họp thứ 20, Hội đồng nhân dân Thành phố, khóa VII ban hành Nghị quyết
số 01/2011/NQ-HĐND (ngày 28 tháng 4 năm 2011) Về chế độ hỗ trợ hoạt động
cho các di tích và trợ cấp thường xuyên cho cán bộ viên chức bảo tàng, thư viện.
Mức chi áp dụng chung cho mỗi di tích lịch sử - văn hóa đã có quyết định xếp
hạng (đối tượng không hưởng lương từ ngân sách nhà nước), hàng tháng là 02 lần
lương tối thiểu. Chế độ trợ cấp khuyến khích người có trình độ đại học công tác tại
phường - xã, thị trấn nhằm ổn định đội ngũ và thu hút đối với các viên chức, người
lao động có trình độ chuyên môn cao. Cụ thể:
- Đối với người có trình độ tiến sĩ: 2.000.000 đồng/người/háng.
- Đối với người có trình độ thạc sĩ: 1.500.000 đồng/người/tháng.
- Đối với người có trình độ đại học chính quy: 750.000 đồng/người/tháng.
- Đối với người có trình độ đại học các hệ còn lại: 500.000 đồng/người/tháng.
Sự quan tâm đầu tư của chính quyền Thành phố đã phần nào giảm bớt khó
khăn cho đội ngũ những người làm công tác bảo tồn di tích; đồng thời, thu hút
những người có chuyên môn, nghiệp vụ về làm việc ở lĩnh vực này, nhất là ở các
đơn vị cơ sở.
Đối với việc trùng tu các di tích lịch sử - văn hóa: Trong những năm 2005-
2009, trên địa bàn Thành phố có 09 di tích được tiến hành tu bổ, tôn tạo từ nguồn
vốn xã hội hóa, với tổng mức đầu tư là 47,0897 tỷ đồng (trong đó, có 01 di tích
chuẩn bị khởi công tu bổ trong năm 2009 (Hội quán Nghĩa An - quận 5) [160,
tr.9]. Đồng thời, các tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý di tích cũng đã chủ động
thực hiện công tác bảo quản, chống mối mọt cho các công trình kiến trúc gỗ.
Ngoài việc đầu tư tu bổ di tích, các tổ chức trực tiếp quản lý di tích trên địa
bàn Quận 5 còn vận động, hỗ trợ di dời 07 hộ dân cư ngụ tại di tích (Hội quán
Nghĩa An: 01 hộ, Hội quán Hà Chương: 2 hộ, Hội quán Lệ Châu: 01 hộ, Hội quán
Ôn Lăng: 03 hộ), với tổng chi phí là 1,8 tỷ đồng [160, tr.12].
Ủy ban Nhân dân một số quận - huyện ra Quyết định công nhận Ban Quý
tế, Ban Quản trị các di tích là đình, miếu - thuộc hình thức sở hữu cộng đồng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc xác định quyền và trách nhiệm của tổ chức trực tiếp
101
quản lý di tích, cũng như thuận lợi cho việc vận động nhân dân đóng góp chăm
sóc, tu bổ di tích. Điển hình cho công tác này là các quận, huyện: Quận 5, Quận
10, Quận Phú Nhuận, huyện Bình Chánh.
Từ năm 2006 đến năm 2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố
Hồ Chí Minh đã tham mưu thiết thực đến việc trùng tu, tôn tạo: Bố trí kinh phí
cho việc chống xuống cấp nhiều di tích đạt 150 tỷ đồng. Trong đó, có 20 di tích
lịch sử được đầu tư tu bổ, chỉnh lý trưng bày bổ sung tại di tích. Riêng nguồn vận
động xã hội hóa trong tu bổ di tích (2002 - 2014) đạt hơn 62 tỷ đồng, với 14 di
tích được đầu tư tu bổ, chủ yếu là cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo [145, tr.6].
Năm 2008, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư tu bổ, tôn tạo Lăng Tả
quân Lê Văn Duyệt (quận Bình Thạnh), với tổng mức đầu tư là 13,7 tỷ đồng, thời
gian thực hiện (từ tháng 3/2008 đến tháng 01/2009); tôn tạo chùa Phụng Sơn
(quận 11) với mức đầu tư 85 tỷ đồng [137]. Hồ sơ thiết kế kỹ thuật đã được Bộ
Văn hóa, Thể thao và du lịch thẩm định. Đây là công trình đặc thù, UBND Thành
phố đã có chủ trương tách riêng dự án đền bù, giải phóng mặt bằng, giao UBND
Quận 11 chỉ đạo cơ quan, đơn vị chức năng của quận thực hiện.
Bên cạnh đó, công tác xã hội hóa trong tu bổ, tôn tạo di tích được thực hiện
khá tốt. Di tích Hội quán Tuệ Thành, di tích Hội quán Ôn Lăng, di tích Miếu Nhị
Phủ, di tích Hội quán Nghĩa An... đã quyên góp được số kinh phí đầu tư hàng chục
tỷ đồng. Một số di tích khác đã thực hiện tu sửa cấp thiết như: đình Chí Hòa, đình
Khánh Hội, đình Phú Xuân…
Thực tiễn bảo tồn, tôn tạo các di tích ở Thành phố cho thấy, nhiều di tích là
đình, chùa thường do Ban Quí tế, Ban Trị sự quản lý trực tiếp, thực hiện bảo quản,
chăm sóc tốt các di vật, cổ vật hoành phi, khám thờ, tượng thờ... Sau khi được
trùng tu, các di tích, như: Lăng Lê Văn Duyệt; Đình Phú Nhuận; Điện Ngọc
Hoàng; Hội quán Ôn Lăng; Hội Quán Tuệ Thành; Miếu Nhị Phủ… đã thu hút
đông đảo khách thập phương tham quan, chiêm bái. Một số di tích đã thực hiện
được vai trò tiếp đón, đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu, góp phần
giáo dục truyền thống và giáo dục thẩm mỹ cho các đối tượng tham quan. Nhiều
di tích đã được Ban Quản trị, Ban Trị sự thực hiện tốt Chỉ thị số 27 của Chính phủ
trong việc tổ chức các lễ hội, như: không tổ chức cúng lễ gây mê tín, thắp nhang
102
không hợp lý gây ô nhiễm môi trường… Tuy nhiên, trên địa bàn Thành phố vẫn
còn không ít cơ sở tín ngưỡng tôn giáo đã sử dụng khuôn viên không đúng mục
đích, như: cho thuê mặt bằng hoặc đưa tượng mới vào không phù hợp với di tích,
ảnh hưởng đến giá trị di tích.
Mặc dù còn hạn chế, song, số lượng các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo tại
Thành phố Hồ Chí Minh khá ổn định. Các cơ sở ngày càng được sửa chữa, nâng
cấp khang trang hơn nhờ vào kinh phí hỗ trợ của cộng đồng và các nguồn tài trợ
trong và ngoài nước.
Cùng với việc chú trọng bảo tồn các DSVH, Đảng bộ, chính quyền Thành
phố Hồ Chí Minh chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý các hành vi xâm hại di
tích, như lấn chiếm đất đai di tích, sử dụng sai chức năng, tùy tiện sửa chữa hoặc
xây dựng các công trình mới trong di tích,…
Với chức năng tham mưu cho Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về DSVH, có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, đôn
đốc việc thực hiện các quy định của pháp luật về DSVH, Phòng Quản lý DSVH
đã thường xuyên kiểm tra việc thi hành những quy định pháp luật về quản lý và
bảo vệ di tích. Phòng cũng thường xuyên liên hệ chặt chẽ với các đơn vị có liên
quan, các địa phương để giải quyết kịp thời những vướng mắc có liên quan đến
công tác quản lý di tích, góp phần đưa hệ thống di tích trên địa bàn Thành phố vào
phục vụ khách tham quan.
Để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong việc phát
hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hành vi xâm hại di tích, Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch thường xuyên mở các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước về DSVH cho các đối tượng: Cán bộ, công chức Phòng Văn hóa và Thông tin
quận, huyện phụ trách công tác quản lý về DSVH; cán bộ, viên chức Trung tâm
Văn hóa, Trung tâm Văn hóa - Thể dục thể thao quận, huyện làm công tác nghiệp
vụ về DSVH. Ngoài ra, Sở cũng mở các lớp tập huấn cho đối tượng là cán bộ các
cơ quan ban ngành liên quan đến công tác bảo vệ DSVH như: Công an Thành phố,
Công an quận/huyện; Chi cục quản lý thị trường Thành phố, các Đội quản lý thị
trường; Cục thuế Thành phố, Chi cục thuế quận/huyện; Hội viên các hội, chi hội có
hoạt động liên quan đến sưu tầm cổ vật (Hội DSVH Thành phố, Hội Cổ vật Thành
103
phố); tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý di tích đã xếp hạng trên địa bàn Thành phố.
Trung tâm Thông tin triển lãm Thành phố cũng đã phối hợp với một số địa phương
mở lớp tập huấn công tác tuyên truyền cổ động về bảo tồn các DSVH. Đối tượng
học là cán bộ thị trấn/xã, ấp của các huyện (Nhà Bè, Hóc Môn, Cần Giờ).
Với các hoạt động nêu trên, nhiều di tích lịch sử - cách mạng đã được trùng
tu, tôn tạo nhằm chống xuống cấp và kéo dài tuổi thọ, những hành vi xâm hại di
tích được phát hiện và xử lý. Vì vậy, phần lớn các di tích trên địa bàn Thành phố
đã được bảo tồn hiệu quả.
3.2.2. Công tác phát huy các giá trị di sản văn hóa
3.2.2.1. Phát huy các giá trị di sản văn hóa qua hệ thống bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong số những địa phương có nhiều bảo
tàng nhất trong cả nước. Hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Thành phố Hồ Chí
Minh có 13 bảo tàng, trong đó, tiêu biểu là 7 bảo tàng công lập trực thuộc Sở Văn
hóa và Thể thao quản lý, gồm: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh; Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh; Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh; Bảo
tàng Chứng tích chiến tranh; Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ; Bảo tàng Tôn Đức Thắng;
Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
Điều 47 và 48 Luật Di sản văn hóa xác định: "Bảo tàng là thiết chế văn hóa
có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu DSVH, bằng
chứng vật chất về thiên nhiên, con người, môi trường sống của con người nhằm
phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quam và hưởng thụ văn hóa của công
chúng". Như vậy, để thực hiện tốt các chức năng này, một trong những nhiệm vụ
quan trọng của bảo tàng là tổ chức phát huy các giá trị DSVH phục vụ xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, các nhu cầu hưởng thụ về đời sống vật chất và
tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên, đòi hỏi các bảo tàng phải quan
tâm, tự đổi mới để đáp ứng nhu cầu của công chúng. Xuất phát từ những nhu cầu
của cuộc sống, các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh đang hướng đến mục tiêu
trở thành địa chỉ sinh hoạt văn hóa, giáo dục, vui chơi, giải trí thường xuyên của
du khách trong và ngoài nước.Thông qua công tác giáo dục, các bảo tàng phát huy
các giá trị DSVH, góp phần hình thành lối sống lành mạnh...
104
Với nhiều hình thức giáo dục phong phú, các bảo tàng trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh đã tổ chức nhiều loại hình chương trình phục vụ đa dạng đối
tượng du khách trong nước và nước ngoài. Cụ thể:
Bảo tàng và học đường
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục, phát huy các giá trị DSVH
trong các bảo tàng, từ năm 2008, Sở Giáo dục - đào tạo Thành phố, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch và Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện
phong trào "Trường học thân thiện, học sinh tích cực", nhằm khuyến khích học
sinh, sinh viên tìm hiểu về văn hóa, lịch sử dân tộc. Chương trình không chỉ mang
lại những trải nghiệm thú vị cho học sinh, sinh viên mà còn giúp họ có được giờ
học ngoại khóa bổ ích.
Tiếp đó, năm 2011, Sở Giáo dục - đào tạo Thành phố, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch và Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp xuất bản
cuốn sách "Hành trình di sản văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh" (Nguyễn Thành
Rum chủ biên), nhằm giới thiệu các DTLS - văn hóa trên địa bàn Thành phố.
Cuốn sách là nguồn tư liệu quý, giúp nhân dân nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử -
văn hóa Thành phố, đặc biệt là học sinh, sinh viên có điều kiện thuận lợi khi tìm
hiểu về lịch sử - văn hóa của Thành phố, nhằm nâng cao ý thức bảo vệ bản sắc,
tinh hoa và phát huy truyền thống của các bậc tiền nhân, phát huy các giá trị của
DSVH; đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống đạo lý "uống nước nhớ nguồn",
"ăn quả nhớ người trồng cây".
Năm 2013, thực hiện Công văn liên bộ của Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc sử dụng DSVH trong dạy học ở các trường
phổ thông nhằm nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy các giá trị DSVH;
rèn luyện tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập;
góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng tài năng
của học sinh, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai sâu
rộng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Nhờ vậy, hàng năm, số học sinh học tập,
tham quan các bảo tàng không ngừng tăng lên.
105
Đưa bảo tàng đến với công chúng
Với tư cách là một thiết chế văn hóa, các bảo tàng trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh thực hiện đồng thời hai chức năng quan trọng là: nghiên cứu khoa
học và giáo dục khoa học. Để thực tốt hai chức năng trên, các bảo tàng tập trung
thực hiện các nhiệm vụ như: nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản các DSVH
nhằm phục vụ các lợi ích của xã hội. Tuy nhiên, bảo quản và giữ gìn tốt các
DSVH là việc làm cần thiết nhưng chưa đủ, quan trọng hơn là phải làm thế nào
để mọi người hiểu được giá trị của các DSVH. Do vậy, công tác trưng bày, giáo
dục là một trong những chức năng cơ bản và quan trọng của mỗi bảo tàng. Có
thể ví công tác trưng bày giống như chiếc cầu nối giữa bảo tàng với công chúng,
là hình thức cơ bản để đưa DSVH đến với công chúng. Nếu không có hoạt động
trưng bày, tuyên truyền, DSVH sẽ không phát huy được giá trị đích thực của nó
trong đời sống xã hội. Vì vậy, trong hoạt động bảo tàng, công tác trưng bày có ý
nghĩa vô cùng quan trọng - đó chính là hình thức, biện pháp để phát huy các giá
trị của DSVH.
Ngoài các trưng bày thường xuyên và theo chuyên đề tại bảo tàng, các bảo
tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh rất chú trọng việc thực hiện các cuộc trưng bày
lưu động để đưa thông tin đến với công chúng. Đặc biệt, các bảo tàng còn đưa các
chuyên đề trưng bày, triển lãm lưu động đến các khu công nghiệp, các khu chế
xuất, thậm chí là các địa phương khác trong cả nước. Cụ thể như: Bảo tàng Lịch
sử Thành phố Hồ Chí Minh đưa trưng bày "Lịch sử Việt Nam qua các tư liệu và
hình ảnh" tại Khu công nghiệp Tân Tạo, tỉnh Bến Tre; Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ
với bộ triển lãm "Những bông hoa bất tử" tại Công ty Vietronic Bình Hòa tại tỉnh
Long An; Bảo tàng Chứng tích chiến tranh có bộ triển lãm chuyên đề "Áo dài phụ
nữ Việt Nam đi qua khói lửa chiến tranh", giao lưu "Tình yêu trong chiến tranh
qua bài bản đờn ca tài tử", biểu diễn nghệ thuật nhạc gõ dân tộc với chủ đề "Xuân
thanh bình"; Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh với các
bộ triển lãm "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
"Bác Hồ với thiếu nhi", "Một số hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh với biển, đảo Việt
Nam". Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh với bộ triển lãm lưu động chuyên đề
106
"Hoàng Sa, Trường Sa - Biển, đảo của Việt Nam" đã được đem đi triển lãm ở các
địa phương trong cả nước, đặc biệt là các trường học, nhằm mục đích tuyên truyền
về lòng yêu nước, giáo dục lòng tự hào dân tộc, nâng cao ý thức đấu tranh để bảo
vệ chủ quyền biển, đảo...
Thành phố Hồ Chí Minh có tỉ lệ dân lao động nhập cư rất đông, trong đó
không ít người lao động có trình độ dân trí thấp. Vì vậy, các bảo tàng ở Thành phố
Hồ Chí Minh đã chú trọng đưa các hoạt động triển lãm lưu động đến với họ, góp
phần động viên tinh thần, giáo dục và chia sẻ về những giá trị trong cuộc sống, tạo
động lực cho họ phấn đấu vươn lên.
Kết quả hoạt động của các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy,
năm 2014, đã tổ chức được 150 cuộc trưng bày, triển lãm lưu động tại các địa
phương trên cả nước; trong đó, có 50 cuộc trưng bày, triển lãm ở các trường học
(chiếm 35%) tổng số các cuộc trưng bày. Các cuộc triển lãm lưu động đã nhận
được sự hưởng ứng nhiệt tình của các đối tượng tham gia, góp phần tích cực phát
huy các giá trị di sản và nâng cao đời sống tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân.
Các chương trình dành cho công chúng
Nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ công chúng, phát huy các giá trị DSVH,
các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh luôn đa dạng hóa các hoạt động, xây dựng
nhiều chương trình bổ ích, hấp dẫn để đưa bảo tàng đến gần hơn với công chúng.
Từ năm 2005, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh đã thực hiện hiệu quả việc
xây dựng "Phòng khám phá" để phục vụ công chúng tham quan. Đây là hoạt động
giáo dục mang tính sáng tạo, hấp dẫn, được đông đảo khách tham quan thích thú,
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục của các bảo tàng. Tiếp đó, từ năm 2009, Bảo
tàng Phụ nữ Nam Bộ tổ chức chương trình "Những người bạn của bảo tàng"
nhằm bồi dưỡng kiến thức lịch sử, truyền thống dân tộc và nét đẹp văn hóa của
phụ nữ Nam Bộ nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung.
Bắt đầu từ năm 2011, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thi
"Tìm hiểu về di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh",
nhằm tạo điều kiện cho du khách, đặc biệt là học sinh, đoàn viên thanh niên tìm
107
hiểu về lịch sử Thành phố, góp phần gắn kết giữa trường học và địa phương. Năm
2014, Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng
"Không gian khám phá", tạo môi trường hoạt động mang tính học tập bằng những
trò chơi, giúp học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức. Qua "Không gian khám phá"
làm cho lịch sử trở nên sống động, truyền tải được quá khứ vào các hoạt động cụ
thể; đồng thời khơi dậy sự tò mò và chủ động khai thác tư liệu của du khách.
Bên cạnh đó, hàng năm, các bảo tàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
đều tổ chức hội thảo, tọa đàm khoa học, nói chuyện chuyên đề nhằm giới thiệu các
giá trị DSVH đến với công chúng. Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ thường xuyên tổ
chức các hoạt động giao lưu nhân chứng lịch sử, giao lưu với các bà Mẹ Việt Nam
anh hùng, tổ chức thi viết cảm nhận về Mẹ Việt Nam anh hùng Thành phố Hồ Chí
Minh... Tất cả những hoạt động đó nhằm giáo dục công chúng, đặc biệt là thế hệ
trẻ về lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, phẩm chất đạo đức của phụ nữ Việt
Nam cho các thế hệ mai sau.
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt
truyền thống về văn hóa, lịch sử dân tộc, như: "Tìm hiểu về nghệ thuật múa rối
nước", "Văn hóa ẩm thực Nam Bộ"... Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề,
bảo tàng gửi thông điệp đến công chúng về những giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay cần giữ gìn và phát huy
những giá trị tốt đẹp đó.
Trong những năm 2005 - 2014, các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh có
sự chuyển biến đáng kể trong công tác tuyên truyền, trưng bày, triển lãm... nhằm
tạo dấu ấn và nét hấp dẫn khách tham quan. Các chương trình của hệ thống bảo
tàng công lập Thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện tính giáo dục cao, thiết thực,
nhằm kết nối mối liên hệ giữa con người và hiện vật, giúp cho các câu chuyện gắn
với hiện vật trở nên sống động hơn. Những chương trình ấy đã tạo được tình cảm
giao lưu hai chiều của công chúng đối với bảo tàng và mối quan hệ ngày càng sâu
rộng giữa các bảo tàng với công chúng. Các cuộc trưng bày, triển lãm chuyên đề
của các bảo tàng thu hút sự tham gia đông đảo của các cá nhân, các nhà sưu tập tư
108
nhân ở các địa phương trong cả nước và du khách nước ngoài tham gia. Số lượng
khách tham quan ngày càng tăng theo từng năm cho thấy công chúng đã có sự
quan tâm đến hoạt động của bảo tàng. Năm 2010, các bảo tàng ở Thành phố Hồ
Chí Minh được khách tham quan bình chọn là điểm tham quan thú vị, hấp dẫn của
Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh còn được
trang Web TripAdvisor bình chọn là 1 trong 5 điểm tham quan hấp dẫn nhất châu
Á do khách tham quan bình chọn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được,
hoạt động của các bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn hạn chế. Số lượng
hiện vật còn nghèo nàn; hình thức trưng bày hiện vật chưa phong phú, đa số chưa
đáp ứng các nhu cầu vui chơi, giải trí ngày càng cao của quần chúng. Thực trạng
đó, đòi hỏi các bảo tàng phải nâng cấp, đổi mới, đa dạng sản phẩm, cần có định
hướng, mục tiêu để nâng cao vai trò, vị trí nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày
càng cao của công chúng.
Thông qua các hoạt động trên cho thấy, các bảo tàng đã tích cực, chủ động
làm tốt vai trò giữ gìn và phát huy các giá trị DSVH của dân tộc. Tuy nhiên, trước
nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng đa dạng của du khách, đòi hỏi các bảo tàng
ở Thành phố Hồ Chí Minh phải luôn chủ động làm mới các hoạt động của bảo
tàng với nhiều hình thức giáo dục phong phú, tạo sức hấp dẫn với du khách; qua
đó, góp phần nâng cao vai trò bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
3.2.2.2. Phát huy các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch
Hiện nay, trong bối cảnh các thành phố lớn của Việt Nam đều phát triển
kinh tế theo hướng thương mại - dịch vụ, du lịch đóng vai trò là động lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển. Do đó, DSVH là nhân tố quan trọng trong chiến lược
phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế bền vững nói chung. Với vai trò là
đô thị đầu tàu của cả nước về kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá là
đầu tàu trong lĩnh vực khai thác du lịch của Việt Nam. Năm 2015, Thành phố đón
hơn 4,6 triệu lượt khách quốc tế (chiếm gần 50% tổng lượng khách quốc tế đến
Việt Nam) và 19,3 triệu lượt khách nội địa (gần gấp đôi tổng số dân địa phương),
đem lại nguồn thu 94,600 tỷ đồng. Nhằm thu hút khách quốc tế và trong nước đến
với Thành phố, trong số các loại hình du lịch thì du lịch di sản, hay nói cách khác,
109
DSVH được xem như một yếu tố chiến lược trong phát triển du lịch. Di sản đóng
vai trò cốt lõi, tạo nên giá trị của ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh. Đây
cũng chính là nền tảng để phát triển du lịch đường thủy và du lịch MICE.
Tuy nhiên, trong thực tế, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn bị du khách đánh
giá là các sản phẩm du lịch nghèo nàn, không có điểm tham quan mới và không
có dấu ấn đặc trưng. Hầu hết là những điểm tham quan quen thuộc như: Dinh
Thống Nhất, Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố. Những công trình DSVH và
tín ngưỡng dân gian như: đình, đền, chùa, miếu hầu như không tìm được nguồn
kinh phí để bảo tồn, vì ngân sách Thành phố không thể bảo đảm được đầy đủ
cho tất cả các di tích, khiến cho ngành du lịch khó xây dựng được những sản
phẩm mới. Thực trạng này dẫn đến mâu thuẫn: Thành phố Hồ Chí Minh được
đánh giá là địa phương có hàng trăm di sản, nhưng lại không thể tìm ra những
sản phẩm du lịch mới, mang dấu ấn của Thành phố. Một trong những khó khăn
trong khai thác di sản ở Thành phố Hồ Chí Minh là các di sản, di tích không thể
hiện được nội dung giá trị để giới thiệu với du khách. Bên cạnh đó, sự phát triển
đô thị không đồng bộ với phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm cả cơ sở hạ tầng của
chính các điểm di tích nên khó thu hút khách du lịch. Những điểm hạn chế này
dẫn đến tình trạng công tác quản lý, bảo tồn di sản chưa thực sự gắn kết với việc
khai thác phục vụ du lịch và phát huy các giá trị của DSVH. Nói cách khác,
ngành du lịch Thành phố chưa thực sự có mối liên kết trong hoạt động bảo tồn
DSVH với các ngành chức năng. Hay nói cách khác, hoàn toàn đứng ngoài các
hoạt động bảo tồn. Du lịch chỉ đơn thuần là đơn vị hưởng lợi nhờ khai thác các
giá trị DSVH, nhưng ở thế bị động.
Tuy vậy, không thể phủ nhận, Thành phố Hồ Chí Minh là tâm điểm của
khu vực Đông Nam Á, là đầu mối giao thông quan trọng cả về đường bộ, đường
thủy và đường hàng không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là cửa ngõ quốc tế.
Thành phố hiện có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn và hệ thống điểm đến đa
dạng, phong phú.
Với tiềm năng du lịch phong phú, trong những năm 2011-2015, ngành du
lịch Thành phố có nhiều chuyển biến tích cực:
110
Lượng khách quốc tế đến Thành phố luôn chiếm tỉ lệ trên 50% lượng
khách quốc tế đến Việt Nam. Cụ thể:
Giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 12,7%/năm;
Giai đoạn 2006-2010 tăng bình quân 9,2%/năm;
Giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 8,23%/năm [194].
Bên cạnh đó, cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Thành ủy,
UBND Thành phố, Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những trung
tâm du lịch hàng đầu của cả nước. “Theo đánh giá của Tổ chức Du lịch Thế giới
(UNWTO) thì Việt Nam hiện nằm trong top 5 điểm đến hàng đầu khu vực
ASEAN và top 100 điểm đến hấp dẫn của du lịch thế giới, trong đó Thành phố Hồ
Chí Minh là lựa chọn ưu tiên hàng đầu" [128].
Nhằm khai thác hiệu quả và phát huy các giá trị DSVH phục vụ phát triển
du lịch, giai đoạn 2005 - 2014, ngành du lịch Thành phố đã đề ra nhiều giải pháp
tích cực. Trong đó, điểm đáng chú ý là, Thành phố từng bước tạo ra sự thay đổi
tích cực về đời sống tinh thần của người dân Thành phố: Các di tích là nơi người
dân lựa chọn là địa điểm đến cho những dịp lễ, Tết…
Du lịch văn hóa - lịch sử được ngành du lịch Thành phố nhận thức là thế
mạnh của điểm đến trong hoạt động du lịch. Trong bối cảnh suy giảm kinh tế của
năm 2009, để nâng cao hình ảnh điểm đến, ngành du lịch Thành phố đã chủ động
xây dựng Chương trình Thành phố Hồ Chí Minh - 100 điều thú vị, nhằm giới thiệu
đến du khách những giá trị văn hóa - lịch sử độc đáo của thành phố. Đây là sản
phẩm du lịch đầu tiên xuất hiện trong cả nước. Điểm nhấn của công tác quảng bá
xúc tiến du lịch là tổ chức các sự kiện mang tính định kỳ tại Thành phố Hồ Chí
Minh nhằm kích cầu du lịch, quảng bá hình ảnh điểm đến của Thành phố.
Có thể nói, với nhiều biện pháp tích cực, trong những năm 2005 - 2014,
Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng được một chuỗi sự kiện du lịch. Trên cơ sở
thành quả bước đầu của các Lễ hội Văn hóa du lịch Liên hoan Gặp gỡ Đất Phương
Nam (năm 1999); hàng năm, Thành phố tổ chức Lễ đón khách đầu năm mới
dương lịch nhằm tạo ấn tượng tốt về một điểm đến thân thiện và mến khách. Bên
cạnh đó, từ năm 2004, Thành phố còn tổ chức Lễ hội đường hoa Nguyễn Huệ
111
nhằm giới thiệu nét đẹp văn hóa truyền thống, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí
của cư dân thành phố và khách du lịch đến thành phố vào dịp Tết cổ truyền; đồng
thời, tổ chức Lễ hội Trái cây Nam Bộ nhằm tôn vinh và quảng bá giá trị trái cây
Việt Nam gắn với thu hút khách du lịch. Ngoài ra, Thành phố còn tổ chức nhiều
hoạt động, như: Lễ hội Áo dài; Liên hoan ẩm thực đất Phương Nam; Lễ hội
Nghinh Ông Cần Giờ...
Những hoạt động văn hóa đó góp phần thu hút khách du lịch quốc tế đến
Thành phố tăng bình quân 15%/năm. Khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh
tăng từ 1.100 nghìn lượt năm 2000 lên 2.350 nghìn lượt năm 2006 và đạt 3,1 triệu
lượt khách vào năm 2010, chiếm hơn 60% tổng lượt khách quốc tế đến Việt Nam.
Doanh thu du lịch Thành phố tăng bình quân 26%/ năm: năm 2006 đạt 16.200 tỷ
đồng, đến năm 2010 đạt 44.918 tỷ đồng, chiếm 47% tổng doanh thu du lịch cả
nước và đóng góp 10 % GDP của Thành phố. Trong những năm 2009 - 2010, mặc
dù chịu tác động suy thoái toàn cầu, khách du lịch nội địa vẫn tăng bình từ 20 đến
30%/ năm [192].
Để phát triển du lịch theo hướng bền vững, năm 2008, UBND Thành phố
Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 06/2008/QĐ-UBND về Chương trình
phát triển du lịch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007 - 2010 và những
năm tiếp theo, bao gồm 06 chương trình. Mục tiêu của Chương trình khẳng
định: “Phát triển du lịch gắn với liền với phát triển thương mại và gìn giữ bản
sắc văn hóa dân tộc, làm cho “Du lịch thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn” để
đóng góp cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố và phát
triển bền vững” [189, tr.1].
Chương trình 1: Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
Du lịch xác định: Hoàn thành giai đoạn 1 Công viên Văn hóa Lịch sử dân tộc,
quận 9 theo hướng công viên chuyên đề về lịch sử văn hóa 54 dân tộc. Tích cực
triển khai dự án xây dựng Bảo tàng Lịch sử thiên nhiên tại quận 9.
Chương trình 2: Phát triển và đa dạng hóa sản phẩm du lịch, nhằm tăng
cường củng cố và cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch, xác định: tiếp tục
nâng cao chất lượng các điểm tham quan có sức thu hút khách du lịch cao như:
112
Khu DTLS Địa đạo Củ Chi, Hội trường Thống Nhất, Bảo tàng Chứng tích chiến
tranh, Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh; các công trình kiến có niên đại 100 năm về trước như: Bưu điện Thành phố,
Nhà thờ Đức Bà. Hệ thống chùa: Chùa Giác Lâm, Lăng Ông - Bà Chiểu, Chùa
Vĩnh Nghiêm, Chùa bà Thiên Hậu…
Chương trình 3: Hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch, nội dung chương
trình nhấn mạnh: Tăng cường nội dung và hình thức hoạt động quảng bá phát triển
du lịch thông qua việc xác định rõ những lễ hội du lịch trên địa bàn Thành phố,
như: Lễ hội Tết Nguyên đán với hoạt động đường hoa, đường sách; Lễ hội Nghinh
Ông Cần Giờ, Lễ hội trái cây nhiệt đới, Lễ hội 30/4…
Năm 2010, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Viện Nghiên
cứu Phát triển Thành phố và Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch, Tổng cục Du
lịch tiếp tục hoàn chỉnh dự thảo đề cương Quy hoạch phát triển du lịch Thành
phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn đến 2025. Nhằm hoàn tất việc
tổ chức xây dựng 04 đề tài khoa học cấp Sở gắn với ứng dụng vào công tác
chuyên môn của ngành, trong năm 2010 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
nghiệm thu các đề tài: “Khai thác và phát huy giá trị DSVH trong xây dựng sản
phẩm du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh”, “Thực trạng và một số giải pháp phát
triển du lịch hội nghị tại Thành phố Hồ Chí Minh”, “Điều tra nghiên cứu thị
trường khách du lịch Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Đây là hướng đi
đúng nhằm phát huy chất xám, khả năng nghiên cứu của đội ngũ cán bộ công
chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham gia xây dựng và phát triển
ngành du lịch Thành phố.
Với sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của các cấp chính quyền và cơ quan
chức năng, vị trí của du lịch Thành phố Hồ Chí Minh trên bản đồ thế giới đã có
bước chuyển tích cực: Xếp hạng 18 trong các thành phố có tốc độ phát triển du
lịch nhanh nhất trên thế giới giai đoạn 2009-2016 (theo điều tra khảo sát của
Mastercard). Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong Top 23 điểm đến tốt nhất trên
thế giới về ẩm thực đường phố (theo CNN).
113
Để phát triển du lịch, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều hành
động quan trọng mang tính chiến lược, định hướng cụ thể, như “Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 - 2020 và tầm nhìn
đến 2025” với những định hướng quan trọng về phát triển du lịch:
Một là, du lịch nhân văn với sản phẩm chính là các DTLS - văn hóa là một
bộ phận quan trọng trong phát triển chiến lược của Thành phố.
Hai là, phát triển du lịch theo hướng bền vững, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ
giữa khai thác các giá trị DSVH và phát triển thương mại - dịch vụ, nhằm tạo
chuyển biến mạnh về chất lượng dịch vụ, sản phẩm du lịch trên cơ sở tăng cường
quảng bá xúc tiến, hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập và cạnh tranh có hiệu quả
với du lịch của các nước trong khu vực.
Theo đó, Thành phố Hồ Chí Minh tập trung khai thác, tận dụng lợi thế của
Thành phố về các loại hình du lịch mua sắm, du lịch sinh thái, du lịch hội nghị và
du lịch văn hóa - lịch sử, phục vụ cho hoạt động phát triển du lịch. Đến lượt nó, du
lịch trở thành một kênh quan trọng để quảng bá hình ảnh của Thành phố và thu
hút các nhà đầu tư đến với Thành phố. Bên cạnh đó, Thành phố còn tích cực, chủ
động tham gia các sự kiện văn hóa để quảng bá du lịch, hình ảnh của Thành phố
và thu hút khách du lịch đến với Thành phố, như “Liên hoan ẩm thực, món ngon
các nước”, “Lễ hội bánh kẹo” lần đầu tiên được tổ chức tại Thành phố vào đầu
năm 2013, Hội chợ du lịch quốc tế WTM tại Anh và Hội chợ du lịch CITM.
Du lịch được xem là ngành "công nghiệp không khói", không chỉ đem lại
nguồn lợi về kinh tế mà còn góp phần quảng bá hình ảnh của đất nước, con
người Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đến với bạn bè
thế giới. Với những thế mạnh vượt trội so với các thành phố khác trong cả nước
và trong khu vực, Thành phố Hồ Chí Minh - nơi từng được mệnh danh là "Hòn
ngọc Viễn Đông", có nhiều cơ hội phát triển ngành du lịch với đa dạng các loại
hình du lịch, trong đó du lịch gắn với DSVH là loại hình du lịch hấp dẫn du
khách. Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh cần tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng
bá đầu tư, thương mại để giới thiệu hình ảnh Thành phố với các nước trên thế
114
giới, nhằm thu hút khách du lịch đến với Thành phố. Đặc biệt là, cần chú trọng
phát triển du lịch bền vững gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH;
giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường...; bảo đảm hài hòa tương tác giữa khai
thác, phát triển du lịch với bảo vệ giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn để vừa
làm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, vừa tạo cơ sở động lực cho sự phát
triển kinh tế của Thành phố.
Tiểu kết chương 3
Trước những tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa và tình hình
trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc, quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh lãnh đạo công tác bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH từ năm 2006 đến
năm 2014 phải đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức như các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc là những giá trị tinh thần; những tư tưởng, tính cách,
lối sống, cách ứng xử tốt đẹp được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài
của dân tộc, các lễ nghi, phong tục, tập quán tốt đẹp dần bị mai một, không
được quan tâm,chú trọng, thay vào đó là sự lai căng, biến chất; tiếp thu văn
hóa thế giới, du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực, không phù hợp thuần
phong, mỹ tục của dân tộc. Không ít các DSVH xuống cấp; bị thương mại
hóa, lễ hội bị đưa ra khỏi không gian, thời gian thiêng để phục vụ nhu cầu du
lịch, hình ảnh của một số lễ hội đã bị hiểu sai…Để lãnh đạo hiệu quả công tác
bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo các Nghị quyết, chủ trương của Đảng về bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH vào điều kiện thực tế địa phương.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII (năm
2005) và Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX (năm
2010) đều nhấn mạnh đến vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác xây
dựng đời sống văn hóa, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
115
của dân tộc; khởi xướng và thực hiện tốt nhiều phong trào nổi bật như xóa đói
giảm nghèo; xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương; phụng dưỡng bà mẹ Việt
Nam anh hùng. Đặc biệt chú trọng xây dựng, phát triển văn hóa của thành phố
theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
và các giá trị tinh thần mang đặc trưng của nhân dân Thành phố. Để đáp ứng
trước những yêu cầu trong tình hình mới trong bối cảnh đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh đã có những chủ trương cấp thiết như: coi trọng việc
xây dựng và phát triển văn hóa nói chung và bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH của Thành phố nói riêng; đặc biệt là nâng cao trách nhiệm của các cấp,
các ngành, địa phương.
Quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH thông qua việc thực thiện công tác điều tra và
xếp hạng các di tích trên địa bàn Thành phố, thực hiện khảo sát, nghiên cứu
từng công trình, địa điểm của các DTLS; thực hiện quy hoạch và bảo tồn
cảnh quanh kiến trúc đô thị. Đối với DSVH phi vật thể, tiến hành đánh giá,
phân loại từng hình thái văn hóa phi vật thể còn tồn tại ở địa phương như lễ
hội cổ truyền, làng nghề, nghệ thuật dân gian…Công tác trùng tu, bảo tồn và
tôn tạo các DTLS - cách mạng, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu; chú
trọng phát huy các giá trị DSVH qua hệ thống bảo tàng và gắn với phát triển
du lịch.
Sự quan tâm lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh cũng đạt được những kết quả tích cực,
như nâng cao sự hiểu biết và nhận thức cho người dân thành phố, xây dựng
nếp sống văn minh đô thị, nâng cao ý thức bảo tồn DSVH, đồng thời với việc
đào tạo nguồn nhân lực quản lý văn hóa. Thành phố còn chú trọng việc đẩy
mạnh các hoạt động nghiên cứu, phát hiện, kiểm tra, phân loại, sưu tầm, khai
quật các di vật đem lại nhiều tư liệu quý, góp phần làm sáng tỏ các nền văn
116
hóa cổ, thúc đẩy giao lưu văn hóa ở Việt Nam và khu vực. Đồng thời, kịp thời
phát hiện, xử lý các hành vi xâm hại di tích, sử dụng sai chức năng, tùy tiện
sửa chữa. Khai thác hiệu quả và phát huy các giá trị DSVH phục vụ phát triển
ngành du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, quảng bá hình ảnh điểm
đến của Thành phố đến bạn bè thế giới.
Trong tình hình hiện nay, nâng cao chất lượng lãnh đạo công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng và khả
năng linh hoạt của Đảng bộ, chính quyền Thành phố trong việc vận dụng các
nguyên tắc khoa học để lựa chọn phương án xử lý thích hợp cho từng DSVH
cụ thể. Mục tiêu đặt ra là phải gắn DSVH với đời sống đương đại, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường giao lưu văn hóa trong quá
trình hội nhập quốc tế.
117
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT
4.1.1. Thành tựu
Một là, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, tầm quan
trọng của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH đối với sự phát triển bền
vững của Thành phố
Là vùng đất nằm ở vị trí trung tâm phía Nam của đất nước, với quá trình
hàng nghìn năm mở đất, đấu tranh, xây dựng và vượt qua bao khó khăn, gian khổ,
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh đã viết nên những trang sử hào hùng, góp phần
tô thắm lịch sử của dân tộc.
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, trung tâm kinh tế lớn về kinh
tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ... của đất nước, có sức hút
và sức lan tỏa lớn trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Để tránh nguy cơ bị
“hòa tan” trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh xác định, một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững của
Thành phố là xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và bảo tồn, phát huy các
giá trị DSVH nói riêng. Các kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh đều nhấn mạnh “xây dựng môi trường văn hóa đô thị lành mạnh, nếp sống
thị dân… làm cho văn hóa thẩm thấu vào trong từng gia đình, từng con người…”
[36, tr.24]. Để văn hóa thẩm thấu vào từng gia đình, từng con người, Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác bảo tồn DSVH dân tộc và
sáng tạo những giá trị văn hóa hiện đại, phù hợp với đặc điểm và con người
Thành phố Hồ Chí Minh.
Thực tiễn tiến hành sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước đã chứng tỏ:
Trong quá trình phát triển, nếu không giữ gìn, phát huy được bản sắc văn hóa dân
tộc, chắc chắn sẽ bị "xâm lăng" bởi các nền văn hóa lớn, dẫn đến làm chệch hướng
nền tảng và động lực xây dựng, phát triển đất nước. Nói cách khác, mỗi một quốc
gia - dân tộc chỉ có thể phát triển bền vững bằng chính nguồn nội lực của mình,
118
trong đó, nguồn lực về văn hóa, về những giá trị DSVH đóng vai trò quan trọng,
tạo nên sự khác biệt trong sự phát triển hài hòa, bền vững.
Do đặc điểm lịch sử và vị trí địa lý thuận lợi, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí
Minh đã có nhiều cộng đồng cư dân đến an cư lạc nghiệp trong suốt diễn trình lịch
sử hình thành và phát triển. Quá trình lao động sáng tạo, đấu tranh, xây dựng và
phát triển Thành phố, các cộng đồng cư dân ở đây đã tạo ra những dấu ấn về lịch
sử và sắc thái văn hóa phong phú, đa dạng, kết thành những DSVH đặc sắc.
Những giá trị DSVH ấy cần phải được trân trọng, bảo tồn và phát huy tác dụng
trong công cuộc đổi mới đất nước và Thành phố trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của văn hóa, của công tác bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH, ngay sau khi Nghị quyết Trung ương năm (khóa
VIII) của Đảng được ban hành, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã thông qua
Chương trình hành động số 19-CTHĐ/TU ngày 24-10-1998.
Chương trình hành động của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh đến sự phát triển hài hòa, bền vững trên cơ sở giải quyết thỏa đáng mối quan
hệ giữa kinh tế và văn hóa nói chung, giữa bảo tồn và phát triển nói riêng. Đó là
vấn đề mang tính tất yếu khách quan, đặc biệt là đối với Thành phố Hồ Chí Minh -
thành phố có vị trí giao thoa giữa các nền văn hóa. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc
về vị trí, tầm quan trọng của DSVH, Thành ủy, UBND Thành phố Hồ Chí Minh
đã xây dựng chương trình, kế hoạch bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dân tộc.
Đó là: Chương trình nâng cao kiến thức lãnh đạo và quản lý về văn hóa; Chương
trình bảo tồn và phát triển các DSVH; Chương trình nghiên cứu bảo tồn cảnh
quan kiến trúc đô thị Thành phố Hồ Chí Minh…
Chương trình hành động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH tại Thành
phố Hồ Chí Minh của UBND Thành phố xác định rõ phương hướng, mục tiêu:
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên toàn Thành phố là tiến hành tổng điều
tra DSVH, xây dựng các phương án bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật thể,
phi vật thể, bao gồm: các DSVH dân gian truyền thống, chú trọng các DSVH quốc
gia, DSVH tinh thần tiêu biểu, độc đáo ở địa phương.
119
Những nhận thức đúng đắn của Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hồ Chí
Minh là cơ sở để Đảng bộ Thành phố chỉ đạo Sở Văn hóa - Thông tin và các quận,
huyện trong toàn Thành phố triển khai công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Hai là, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào
điều kiện thực tế của địa phương
Nghị quyết Trung ương năm (khoá VIII) đánh dấu sự phát triển trong
đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam; là định hướng quan trọng trong
việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương năm, khóa VIII và Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần VI, VII, VIII về mục tiêu phát triển
văn hóa theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc và các
giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân Thành phố, các cấp, các địa
phương và ngành văn hóa đã tập trung chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương năm, khóa VIII, Hội nghị lần thứ 11 Ban
Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, khóa VI (tháng 10-1998) tập trung
kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ. Trước hết là sự lãnh đạo của Thành ủy trên
mặt trận văn hóa. Hội nghị nhất trí thông qua Chương trình hành động với mục
tiêu chung là: Tạo ra sự chuyển biến và nâng cao nhận thức đối với cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân, trước hết là cán bộ lãnh đạo các cấp về vị trí, vai trò
của văn hóa; phát động trong toàn Đảng bộ, hệ thống chính trị và trong xã hội
phong trào hành động mạnh mẽ và bền bỉ thực hiện Nghị quyết Trung ương năm
(khóa VIII); xác định chiến lược phát triển văn hóa lâu dài của Thành phố theo
hướng gắn chặt chiến lược xây dựng phát triển kinh tế - xã hội. Hội nghị xác định
nhiệm vụ trong tâm cấp bách đến năm 2000 là: Tạo sự chuyển biến tích cực trên
các mặt tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa; đồng thời, góp phần thúc
120
đẩy và hoàn thành các nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống dân tộc…, góp phần định hướng
công chúng và xã hội trong việc bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc trong xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa VI; đồng thời, căn cứ
vào thực trạng lãnh đạo của Đảng bộ trên lĩnh vực văn hóa, Thành ủy đề ra
Chương trình hành động (ngày 24-10-1998), xây dựng kế hoạch nghiên cứu,
quán triệt và xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung
ương năm, khóa VIII trong toàn Đảng bộ và tuyên truyền rộng rãi trong các tầng
lớp nhân dân.
Quán triệt chương trình hành động của Thành ủy, nhằm phát huy các giá trị
văn hóa, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh chủ trương: Xúc tiến xây dựng Công
viên lịch sử - văn hóa dân tộc, phấn đấu khởi công xây dựng khu tưởng niệm Vua
Hùng vào dịp giỗ Tổ Hùng Vương năm 2000. Đây là công trình tiêu biểu của khu
vực phía Nam, là nơi ghi lại và tôn vinh những giá trị truyền thống văn hóa của
dân tộc Việt Nam ở vùng đất phương Nam.
Bên cạnh đó, ngành văn hóa Thành phố đã có những nỗ lực hoạt động
nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, nhiệt tình cách mạng, khôi phục truyền thống
văn hoá tốt đẹp của dân tộc thông qua việc tổ chức những lễ hội: Đường hoa,
Đường sách; Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam; Lễ hội Sài Gòn 300 năm, lễ hội
du lịch Đất Phương Nam, Giao thừa chào đón Thiên niên kỷ - năm 2000, Hương
sắc miền Nam… thu hút một lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân tham gia
và đem lại nhiều kết quả tốt đẹp.
Sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố có vai trò quyết định đến thành công
trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị DTLS, văn hóa. Đây là cơ sở quan trọng
để biến nhận thức thành hành động, đưa chủ trương, nhiệm vụ này vào kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân
về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hóa và DSVH từng bước được nâng
121
lên. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan chức năng đã quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương năm, khóa VIII về văn hóa
với nhiều giải pháp sáng tạo, phù hợp và hiệu quả.
Dưới sự lãnh, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền Thành phố, căn cứ
Chương trình hành động số 19-CTHĐ/TU của Thành ủy, Sở Văn hóa - Thông tin
đã xây dựng Chương trình hành động, xác định 7 nhiệm vụ, trong đó, nhiệm vụ
thứ 4 là: Xây dựng Đề án Bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dân tộc; chống
xuống cấp và tôn tạo các DTLS; điều tra, sưu tầm, nghiên cứu và phát triển vốn
văn hóa dân gian (văn hóa phi vật thể) [129].
Mục tiêu của Đề án bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc
là: “Tiến hành tổng điều tra di sản văn hóa, xây dựng các phương án bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, bao gồm các di sản văn hóa dân
gian truyền thống, chú trọng các di sản văn hóa quốc gia, di sản văn hóa tinh thần
tiêu biểu, độc đáo ở địa phương”. Đề án xác định rõ một số định hướng, nhiệm vụ
cụ thể trong việc bảo tồn DSVH dân tộc.
Văn hóa vật thể
- Di tích: Tiến hành tổng điều tra về số lượng và loại hình di tích, lập quy
hoạch di tích. Trên cơ sở đó, có kế hoạch dài hạn, ngắn hạn cho việc trùng tu, tôn
tạo, bảo vệ di tích theo hướng xã hội hóa, phát huy nguồn nhân - tài - vật lực trong
nhân dân, của các ngành kinh tế đặc biệt là ngành Du lịch để bảo tồn và đưa giá trị
văn hóa của di tích đến với nhân dân. Những di tích không phát huy được tác
dụng, kiến nghị chuyển thành dạng bia - bảng ghi dấu sự kiện - lưu niệm, đặc biệt
là những di tích đang tồn tại trong nhà dân. Tiếp tục đẩy mạnh việc khảo sát -
nghiên cứu lập hồ sơ khoa học cho việc công nhận DTLS - văn hóa; kiểm kê, đánh
giá phân loại các di vật gắn với di tích để giao trách nhiệm quản lý cụ thể.
- Hoạt động bảo tàng: Tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống
bảo tàng trên địa bàn Thành phố, không phân biệt cấp chủ quản. Củng cố hệ thống
bảo tàng hiện có. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của
từng bảo tàng có những đặc trưng riêng, tránh sự trùng lặp. Đầu tư kinh phí thỏa
đáng cho việc cải tạo hoặc mở rộng mặt bằng; nâng cấp, đổi mới trưng bày; bổ
122
sung các thiết bị và phương tiện kỹ thuật cho các hoạt động của bảo tàng; tăng
cường tổ chức sưu tầm (hoặc mua) thêm các sưu tập DSVH vật thể. Đầu tư cơ sở
vật chất, hiện đại hóa công tác trưng bày, nâng cao tính khoa học trong công tác
nghiên cứu sưu tầm, các hoạt động bảo tàng nhằm thu hút ngày càng nhiều du
khách tham quan đến với bảo tàng, đồng thời tăng cường đưa bảo tàng đến với
công chúng, nhất là vùng sâu, vùng xa.
Xây dựng thêm một số bảo tàng mới mang tính khu vực: Bảo tàng nghệ
thuật dân tộc, Bảo tàng nghề thủ công… Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bảo tàng về mọi mặt (chuyên môn nghiệp
vụ, ngoại ngữ, công tác quản lý…) nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của sự nghiệp
bảo tàng trong tương lai. Tạo điều kiện cho các bảo tàng thực hiện và ngày càng
mở rộng việc giao lưu với bảo tàng cùng loại hình ở các trên thế giới, nhất là khu
vực châu Á nhằm học hỏi kinh nghiệm, tuyên truyền, giới thiệu lịch sử văn hóa
của Việt Nam thông qua các hoạt động bảo tàng và tranh thủ sự ủng hộ của ngành
bảo tàng học cũng như đồng nghiệp bảo tàng ở các nước.
- Ngành nghề truyền thống: Nhà nước cần có chính sách bảo trợ đặc biệt
để các ngành truyền thống mang tính thủ công có thể tồn tại được trong cơ chế thị
trường gồm: nghề đan (mây - tre - lá), nghề sơn mài, thêu, làm bánh tráng. Có
chính sách khuyến khích đối với nghề gốm, nghề chạm khắc gỗ, nghề kim hoàn
truyền thống. Nhà nước cần có quy định về việc sử dụng tay nghề bậc cao, nghệ
nhân nghề thủ công mỹ nghệ nhằm phát huy tài năng và khuyến khích việc truyền
nghề. Các trường đào tạo nghề của Nhà nước cần mở các lớp dạy nghề truyền
thống với các chính sách khuyến khích thanh niên học các nghề truyền thống.
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể
- Lễ hội: Định hướng tổ chức lễ hội ở Thành phố Hồ Chí Minh là chú ý
đến những yếu tố tích cực cần được bảo lưu của các lễ hội truyền thống, cần thiết
cải biến những yếu tố rườm rà lạc hậu, mê tín dị đoan. Cùng với quá trình cải biến
và đưa thêm các yếu tố mới vào các lễ hội truyền thống cần làm cho lễ hội truyền
thống có nét phù hợp với đời sống xã hội hiện đại nhưng vẫn giữ được chiều sâu
của bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với lễ hội mới, khai thác những nghi lễ truyền
123
thống đã được định hình chứ không nên đưa vào yếu tố lai căng không phù hợp
với nếp sống, nếp nghĩ của truyền thống người Việt. Trong hoạt động tổ chức lễ
hội, chú ý đến phần vui chơi giải trí hiện đại, lành mạnh để tạo sự cộng cảm, giao
lưu cho dân cư đô thị. Hệ thống hóa lại toàn bộ hoạt động lễ hội trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh và phân loại từng lễ hội để có phương án quản lý thích
hợp. Tiến hành các chương trình trọng điểm ở cấp thành phố nhằm điều tra, sưu
tầm, nghiên cứu đánh giá, phân loại tất cả các thiết chế văn hóa hiện có. Từ đó,
quy hoạch và có kế hoạch phát huy vốn DSVH phi vật thể (trong đó có lễ hội)
hiện đang có nguy cơ bị lai tạp hoặc mất dần đi do không thích nghi được với đời
sống hiện đại.
Triển khai thực hiện Đề án, trong ba năm (2007 - 2009), Sở Văn hóa -
Thông tin Thành phố đã phối hợp với trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh thực hiện công tác tổng điều tra DSVH phi vật thể (theo Chương trình mục
tiêu quốc gia về văn hóa) với sự hỗ trợ về chuyên môn của Cục Di sản văn hóa,
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam. Công tác tổng điều tra kết thúc vào năm
2009 đã bước đầu đưa ra những dự báo, đề xuất đối với công tác bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH phi vật thể của Thành phố như: Tiến hành điều tra sâu đối với
các phong tục, tập quán, lễ hội tiêu biểu và có nguy cơ bị mai một; đề xuất chế độ
ưu đãi đối với các nghệ nhân; ứng dụng hệ thống thông tin địa lý về DSVH phi vật
thể của Thành phố; bồi dưỡng kiến thức về quản lý DSVH phi vật thể cho công
chức, viên chức làm công tác quản lý;...
Sự nỗ lực của ngành văn hóa và các cấp, các ngành, các địa phương trên
toàn Thành phố đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân,
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của con người thành phố được khơi
dậy, phát huy. Các thiết chế, công trình văn hóa được tăng cường đầu tư, nâng
cấp; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng lên một bước. Thành phố đã
tổ chức nhiều chương trình, loại hình hoạt động văn hóa, giải trí lành mạnh và các
dịp Lễ hội lớn và sự kiện trọng đại hàng năm, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc,
được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng.
124
Ba là, sự lãnh đạo sát sao của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo nên
sự chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 1986 đến trước khi có Luật Di sản văn hóa và Nghị định hướng dẫn
thi hành được ban hành và vận dụng từ cuối năm 2002, việc bảo tồn di sản của
Thành phố nói riêng và cả nước nói chung chủ yếu dựa vào Pháp lệnh Bảo vệ di
tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh và các văn bản hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh. Đó là Nghị định của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn của Bộ Văn
hóa - Thông tin. Từ khi có Luật Di sản văn hóa (năm 2002), công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả
tích cực.
Hoạt động bảo tồn các DSVH từng bước đi vào nề nếp
Công tác kiểm kê di tích thông qua điều tra, phân loại giúp cho việc thống
kê tổng thể di tích tại Thành phố Hồ Chí Minh được xác định là công tác qui
hoạch, bảo vệ di tích nhằm từng bước lập hồ sơ khoa học tuỳ theo giá trị của mỗi
di tích để đề nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định xếp hạng. Bởi vì, chỉ khi nào di
tích được xếp hạng thì di tích ấy mới có đủ cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý cho
việc bảo vệ. Bước sang năm 1998, việc kiểm kê di tích chỉ dừng lại ở mức độ ghi
tên và địa chỉ của các công trình, địa điểm có dấu hiệu là di tích, trong đó tập trung
chủ yếu là các đình, miếu, chùa.
Năm 1999, Ban Quản lý DTLS văn hóa và danh lam thắng cảnh Thành
phố chính thức đi vào hoạt động. Ban đã phối hợp với phòng Văn hóa và Trung
tâm Văn hóa các quận, huyện tiến hành công tác tổng điều tra di tích trên toàn
thành phố, công tác này được tiến hành liền trong bốn năm (từ 1999 - 2002).
Đến năm 2014, các công trình, địa điểm có dấu hiệu là di tích cơ bản đã được
điều tra, được Ban Quản lý di tích và danh lam thắng cảnh Thành phố phân loại
bước đầu, trong đó, có việc phân loại về loại hình di tích; đồng thời, phân loại
các di tích có đủ tiêu chí xếp hạng di tích cấp quốc gia, di tích cấp thành phố.
Các di tích đã được dự kiến có đủ tiêu chí lập hồ sơ xếp hạng di tích đã được
125
Ban Quản lý di tích thông báo cho các quận, huyện có di tích đã được đưa vào
danh sách dự kiến (qui hoạch) để các quận, huyện có cơ sở trong việc bảo vệ
trong khi chờ đợi các bước lập hồ sơ xếp hạng cho từng di tích.
Để DSVH dạng hình DTLS, văn hóa có đầy đủ cơ sở khoa học và cơ sở
pháp lý, yêu cầu đặt ra là di tích phải được xếp hạng. Công tác này đã được các
cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Văn hóa - Thông tin hết sức quan tâm và
tích cực đẩy mạnh.
Theo thống kê ban đầu, trên toàn Thành phố có 2 di tích được đặt cách
xếp hạng năm 1986 là: “Dinh Độc Lập”, “Tòa Đại sứ Mỹ” cùng với Địa đạo Củ
Chi được xếp hạng năm 1979, đến tháng 6-2016, toàn Thành phố có 167 di tích
đã được quyết định xếp hạng: 02 di tích quốc gia đặc biệt (di tích lịch sử); 55 di
tích quốc gia (02 - khảo cổ học, 30 - kiến trúc nghệ thuật, 23 - lịch sử); 110 di
tích cấp thành phố (65 - kiến trúc nghệ thuật, 45 - lịch sử) [147].
Để thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, công tác
tham mưu quản lý nhà nước nhằm bảo vệ di tích và công tác trùng tu sửa chữa,
bảo quản di tích có một ý nghĩa hết sức quan trọng:
Lĩnh vực tham mưu quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh đã được các cơ quan thuộc hệ thống ngành văn hóa từ phòng, ban
của Sở Văn hóa - Thông tin, đến phòng Văn hóa - Thông tin các quận, huyện
quan tâm. Đến năm 2014, đã có hàng nghìn văn bản tham mưu đề xuất giải quyết
những vụ việc liên quan như việc làm xâm hại, lấn chiếm di tích. Trong thực tế,
còn nhiều di tích bị xâm hại hoặc bị lấn chiếm. Để giải quyết tình trạng xâm hại
di tích, tại nhiều nơi, Ban Quản trị và Ban Trị sự đã tích cực phối hợp với chính
quyền địa phương giải quyết chỗ ở và hỗ trợ kinh phí di dời, như: Hội quán Ôn
Lăng, Hội quán Hà Chương...
Công tác trùng tu, sửa chữa, bảo quản di tích luôn nhận được sự quan
tâm của Nhà nước cũng như của các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan về kinh
phí để tu bổ, bảo quản di tích thông qua công tác điều tra, nắm thực trạng các di
tích để có kế hoạch tu bổ hàng năm. Công tác tu bổ, bảo quản di tích nhằm bảo
vệ nguyên trạng và sự bền vững để bảo tồn lâu dài di tích tại Thành phố Hồ Chí
126
Minh được thực hiện trên cơ sở ưu tiên các DTLS và kết hợp sự vận động xã hội
hóa. Một số di tích đã được trùng tu, tu bổ với tinh thần xã hội hóa cao đạt kết
quả tốt. Tiêu biểu là di tích “Hội quán Tuệ Thành”, đã được Ban Trị sự đầu tư
gần 10 tỷ đồng, “Hội quán Ôn Lăng”, “Tịnh xá Ngọc Phương”… được đầu tư
hàng tỷ đồng. Những di tích này đã được Ban Quản trị, Ban Trị sự dùng nguồn
quỹ do bá tánh đóng góp hàng tỷ đồng để tu bổ, trùng tu di tích.
Từ năm 1998, khi Pháp lệnh Bảo vệ DTLS - văn hóa và danh lam thắng
cảnh, đặc biệt là Luật Di sản văn hóa được ban hành (2002), hoạt động bảo tồn
DTLS trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã được đẩy mạnh và từng bước
mang lại hiệu quả tích cực.
Tuy nhiên, sự ra đời của Luật Di sản văn hóa nhằm đáp ứng với sự đổi mới
chung của đất nước trong cơ chế nền kinh tế thị trường cũng đặt ra nhiều thách
thức. Bên cạnh đó, Điều 28 và điều 29, chương V của Nghị định 92/2002/NĐ-CP
ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ Qui định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Di sản văn hóa đề cập đến việc mua bán di vật cổ vật, bảo vật quốc gia
tại các di tích. Thực thi vấn đề này sẽ gây khó khăn trong việc bảo vệ các DSVH
vật thể. Nhằm bảo vệ các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tại các di tích, Ban Quản
lý Di tích và Danh lam thắng cảnh Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp với
Phòng Văn hóa - Thông tin tại các quận, huyện tiến hành kiểm kê. Đến năm 2014,
cổ vật tại các di tích đã được xếp hạng, cơ bản đã được kiểm kê. Để làm căn cứ
cho việc bảo vệ và qui trách nhiệm vụ thể, việc kiểm kê đã được thực hiện tương
đối kỹ với việc chụp ảnh, đo kích thước, miêu tả, định niên đại cho từng hiện vật.
Sau đó, sẽ làm thành 03 bộ để giao cho người có trách nhiệm trực tiếp quản lý di
tích 01 bộ, Phòng Văn hóa - Thông tin quận huyện 01 bộ, Ban Quản lý Di tích và
Danh lam thắng cảnh 01 bộ để nắm và có cơ sở để kiểm tra giúp cho việc bảo vệ
các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được chặt chẽ.
Mặt khác, Thành phố Hồ Chí Minh đang trong quá trình phát triển với
việc chỉnh trang đô thị và đô thị hóa mạnh mẽ, nếu không có những giải pháp
đồng bộ, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan trong việc qui
hoạch phát triển sẽ có nguy cơ ảnh hưởng đến việc bảo vệ cảnh quan, tính
nguyên trạng của di tích cũng như giá trị của DTLS - văn hóa nói chung.
127
Nhằm giải quyết tình trạng di tích bị xâm hại và có kế hoạch tốt hơn trong
việc chống xuống cấp di tích, Ban Quản lý Di tích và Danh lam thắng cảnh thuộc
Sở Văn hóa và Thông tin đã và đang tiến hành xây dựng Đề án chống xuống cấp
và di tích bị xâm hại để Sở Văn hóa và Thông tin trình UBND Thành phố chỉ
đạo việc giải quyết.
Hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trong lĩnh vực bảo tàng
có bước chuyển biến tích cực
Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với các lĩnh vực khác về văn hóa, hoạt
động sưu tầm, bảo quản và trưng bày hiện vật, dưới góc độ văn hóa vật thể có
giá trị lịch sử - văn hóa của các bảo tàng trong cả nước nói chung, ở Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng từng bước đổi mới, góp phần bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH dân tộc.
Để thực hiện tốt chức năng là nơi lưu giữ, bảo quản và xử lý các hiện vật
của bảo tàng, các bảo tàng tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc xây
dựng và cải tạo kho hiện vật bảo đảm sự kiên cố để bảo vệ an toàn hiện vật.
Cùng với sự phát triển kinh tế, các bảo tàng đã có điều kiện đầu tư kinh phí,
trang thiết bị để bảo quản hiện vật một cách an toàn. Nhiều thiết bị hiện đại được
thiết kế, lắp đặt để bảo vệ an toàn hiện vật, chống mất cắp hiện vật. Vấn đề ánh
sáng, độ ẩm cũng được xử lý để hiện vật giảm sự hư hại do sự biến đổi của thời
tiết. Các kỹ thuật xử lý, bảo quản hiện vật cũng được áp dụng không để hiện vật
bị hư hại do thiếu kiến thức khoa học và nghiệp vụ.
Công tác sưu tầm tư liệu, hiện vật về bảo tàng cũng là hoạt động mang
tính tích cực và chủ động trong việc bảo vệ các DSVH vật thể và là một chức
năng và nhiệm vụ quan trọng của các bảo tàng. Vì nhiều hiện vật nếu không
được phát hiện sớm để đưa về bảo tàng xử lý và bảo quản sẽ bị hủy hoại. Hoạt
động sưu tầm hiện vật của các bảo tàng tại Thành phố từ năm 1998 đến nay
thường xuyên được quan tâm thực hiện và được định hướng khá cụ thể. Ngoài
việc tổ chức các cuộc khai quật khảo cổ, việc sưu tầm trong nhân dân cũng được
đẩy mạnh, nhất là những hiện vật có giá trị lịch sử. Không ít các hiện vật có giá
trị lịch sử - văn hóa được coi là vô giá đã được nhân dân - bao gồm tổ chức, cá
128
nhân hiến tặng cho bảo tàng với mục đích nhằm bảo tồn lâu dài và phát huy tốt
nhất những giá trị và ý nghĩa của những di sản này.
Nhằm tạo sự phong phú, đa dạng các DSVH cho bảo tàng, góp phần bảo
quản các di vật, cổ vật lâu dài, thông qua các giải pháp nghiệp vụ bảo quản của
bảo tàng, nhiều bảo tàng đã tích cực, chủ động tìm mua các hiện vật khi có điều
kiện. Những năm gần đây, nhiều bảo tàng của Thành phố đã chủ động và tích
cực xây dựng kế hoạch và dự trù kinh phí đề nghị cấp có thẩm quyền phê duyệt
nhằm mua những DSVH có giá trị, không để cho những di sản quý giá bị tuồn ra
nước ngoài hoặc vào tay kẻ xấu.
Thông qua các hình thức khác nhau như sưu tầm, tiếp nhận các hiện vật
do các ngành chức năng như hải quan, công an, bộ đội biên phòng… thu được do
kẻ mua bán, vận chuyển trái phép bàn giao các bảo tàng, các hiện vật do các bảo
tàng mua hoặc do tổ chức cá nhân hiến tặng, hầu hết các bảo tàng đã có những
sưu tập và số lượng hiện vật vô cùng phong phú, đa dạng, nhiều hiện vật có giá
trị là bảo vật quốc gia đã được các bảo tàng gìn giữ, bảo quản tốt, bảo vệ an toàn.
Đến năm 2010, hầu hết các bảo tàng của Thành phố đang giữ gìn và bảo
quản các di vật cổ vật là các DSVH vật thể có giá trị lịch sử, văn hóa với số
lượng đơn vị hiện vật hàng chục nghìn. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ: Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh đang bảo quản và trưng bày 44,591 hiện vật; Bảo
tàng Mỹ Thuật khoảng 20,714 hiện vật; Bảo tàng Chứng tích chiến tranh có
khoảng 14,842 hiện vật; Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh
khoảng 38,707 hiện vật; Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ khoảng 32,958 hiện vật; Bảo
tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 18,724 hiện vật;
Bảo tàng Tôn Đức Thắng có 13,508 hiện vật [160].
Trong hoàn cảnh hiện nay, khi Luật Di sản văn hóa được thực thi, Nghị
định 92/2002/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Di sản văn hóa và các văn bản qui phạm pháp luật khác được ban hành nhằm
thực hiện tốt Luật Di sản văn hóa, trong đó có bảo tàng tư nhân, hình thành thị
trường mua bán di vật, cổ vật v.v… Trước tình hình đó, nếu Nhà nước không có
sự đầu tư thích đáng, các bảo tàng không đủ năng động thì nhiều DSVH sẽ khó có
129
điều kiện được bảo vệ hay bảo quản, giữ gìn tại hệ thống bảo tàng nhà nước, thậm
chí có những di sản sẽ được trao đổi, mua bán ra nước ngoài.
Hoạt động bảo tồn các DSVH vật thể đạt được kết quả tích cực
Theo thống kê của Sở Văn hóa - Thông tin, tại Thành phố Hồ Chí Minh có
260 ngôi đình, 933 ngôi chùa, 53 ngôi đền, 7 lăng mộ, 458 ngôi miếu và 27 cơ sở
tín ngưỡng dân gian người Hoa [7] cùng nhiều nhà thờ ki tô giáo, cơ sở tín ngưỡng
tôn giáo khác rải rác khắp các quận, huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Chính sách “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của Nhà nước tạo điều kiện củng
cố niềm tin tôn giáo của cư dân, riêng số lượng tu viện của Phật giáo đã có sự
biến động tăng, giảm qua thời gian. Đến năm 2014, số lượng các cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo khá ổn định, các cơ sở ngày càng được sửa chữa, nâng cấp
khang trang hơn nhờ nguồn kinh phí hỗ trợ của cộng đồng và các nguồn tài trợ
trong và ngoài nước
Các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo gắn liền với từng cộng đồng cư dân đặc
thù. Người Việt với tín ngưỡng thờ nhân thần (đền thờ các anh hùng, nhân vật
lịch sử,…) đình làng, chùa Phật giáo Bắc tông; người Hoa với các miếu thờ,
chùa Phật giáo và các hội quán; người Khmer gắn với hai cộng đồng chính cư
dân sống quanh khu vực chùa Chandarangsay (Quận 3) và chùa Bodhivamsa
Pothivong (quận Tân Bình); người Chăm gắn liền với các thánh đường Hồi giáo
(quận Phú Nhuận, Quận 1). Riêng các tín đồ Công giáo, họ luôn gắn bó, sinh
sống gần khu vực các nhà thờ thành từng cụm cư dân theo họ đạo (Quận 3, quận
Tân Bình, quận Thủ Đức…). Chính yếu tố lịch sử hình thành cộng đồng và sinh
hoạt tín ngưỡng tôn giáo này qua thời gian đã tạo nên sự gắn kết, bản sắc văn
hóa trong cư dân đô thị Thành phố Hồ Chí Minh mà khó tìm thấy ở những địa
phương khác.
Với tốc độ phát triển nhanh của Thành phố, dù các khu vực cư dân có
nhiều biến động về quy hoạch kiến trúc đô thị nhưng các cơ sở tôn giáo nhìn
chung ít có sự biến động, xâm hại.
Hoạt động bảo tồn các DSVH phi vật thể được quan tâm
Về lĩnh vực hoạt động lễ hội dân gian truyền thống: Lễ hội người Việt ở
Nam Bộ nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng như một dòng chảy liên
130
tục, nhiều màu sắc, là biểu hiện sinh động của nền văn hóa dân gian Việt Nam:
Từ những lễ hội về các danh nhân lịch sử, các anh hùng có công dựng nước đến
lễ hội truyền thống tưởng nhớ các anh hùng cách mạng thời đại ngày nay. Những
ngày lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương, lễ hội Đống Đa Quang Trung, lễ húy kỵ Đức
Thánh Trần Hưng Đạo, lễ hội Hai Bà Trưng… trên địa bàn Thành phố không chỉ
là những hoạt động kỷ niệm mà còn là những ngày hội gắn liền với sinh hoạt của
nhân dân có màu sắc tín ngưỡng dân gia mang ý nghĩa tôn thờ, tưởng nhớ những
bậc thánh nhân có công với đất nước.
Lễ hội Nghinh Ông, huyện Cần Giờ được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch quyết định đưa vào Danh mục DSVH phi vật thể thuộc loại hình Lễ hội
truyền thống (theo Quyết định số 3084/QĐ-BVHTTDL ngày 09 - 9 - 2013). Đây
là lễ hội dân gian truyền thống của ngư dân huyện Cần Giờ nói riêng và cư dân
Nam Bộ nói chung, diễn ra vào dịp rằm tháng 8 âm lịch hằng năm. Nghinh Ông
là một trong những lễ hội thờ cúng cá Ông hay còn gọi là lễ hội cầu ngư lớn nhất
Nam bộ thể hiện tấm lòng thành kính, tưởng nhớ công ơn cá Ông và cầu an cho
nghề đi biển của ngư dân huyện đảo Cần Giờ. Hàng năm, Lễ hội được tổ chức
nhằm duy trì và phát huy các giá trị văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp trong
hoạt động sản xuất ngư nghiệp của cư dân địa phương. Ước tính, huyện Cần Giờ
đón khoảng 15.000 - 20.000 du khách đến tham gia lễ hội mỗi năm.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì Lễ hội Nghinh Ông (Cần Giờ) có nét tương
đồng với một số nghi thức lễ chính của các lễ hội cầu ngư và lễ hội Nghinh Ông
khác trong khu vực, nhưng lại có nét khác biệt ở một số nghi lễ diễn ra trong
ngày hội cộng với nhiều huyền thoại, chuyện kể dân gian về lịch sử hình thành
và phát triển của vùng đất rừng ngập mặn Cần Giờ, đã tạo nên một lễ hội mang
màu sắc riêng biệt của cư dân địa phương.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương có tốc độ đô thị
hóa nhanh. Điều đó dẫn đến việc cần thiết xác định lối sống đô thị trong toàn
bộ hoạt động văn hóa, trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi, vui chơi của người
dân đô thị. Nắm bắt được xu thế chung đó, ngành văn hóa Thành phố từng
bước nghiên cứu thể nghiệm, điều chỉnh các hoạt động lễ hội theo hướng: các
sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống được điều chỉnh sao cho phù hợp với
131
thời kỳ mới. Các lễ hội kỷ niệm ngày truyền thống được điều chỉnh để vừa bảo
đảm nội dung chính trị, vừa mang màu sắc lễ hội văn hóa dân gian dân tộc (Lễ
hội kỷ niệm Ngày Nam Kỳ khởi nghĩa 23-11, Lễ hội kỷ niệm Ngày Toàn quốc
kháng chiến). Đặc biệt, một số sự kiện lễ hội đã được định hình và gây ấn
tượng sâu đậm trong lòng người dân, trở thành sản phẩm văn hóa đặc trưng của
Thành phố như Đường hoa Nguyễn Huệ, Hội Hoa Xuân Tao Đàn, Lễ hội áo
dài, Lễ hội trái cây...
Đồng thời, nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, hưởng thụ văn hóa lành mạnh
của người dân, Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các
doanh nghiệp, với chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để tổ chức
nhiều sự kiện lễ hội, sự kiện văn hóa - du lịch đặc sắc, độc đáo nhằm tôn vinh
thành quả lao động của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, thể hiện sự quan tâm,
chăm lo của Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đối với đời sống
văn hóa, tinh thần của các tầng lớp nhân dân thành phố.
Có thể nói, hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố
Hồ Chí Minh từ năm 1998 đến năm 2014 đã đạt được kết quả tích cực, hoạt động
bảo tồn DSVH đi vào chiều sâu. Công tác bảo tồn di tích và hiện vật bảo tàng
được quản lý và thực hiện tốt.
4.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu
Sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trên lĩnh vực bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH những năm 1998 - 2004 đạt được những kết quả
quan trọng như trên là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế, nhằm xây dựng và phát triển đất nước bền vững,
Đảng xác định: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt cùng với phát văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Với
chủ trương đó, cùng với việc quan tâm hoạch định đường lối phát triển kinh tế,
Đảng và Nhà nước đã từng bước hoàn thiện đường lối văn hóa nhằm chấn hưng
văn hóa dân tộc trong bối cảnh mới. Trên lĩnh vực bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm xây dựng hành
lang pháp lý cho hoạt động này. Tiêu biểu là Pháp lệnh Bảo vệ di tích lịch sử,
132
văn hóa và danh lam thắng cảnh; Luật Di sản văn hóa và các văn bản qui
phạm pháp luật khác. Điều đó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà
nước với việc với sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dân tộc.
Những văn bản pháp quy của Nhà nước là cơ sở pháp lý để các địa phương
trong cả nước đẩy mạnh hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phù
hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương.
Thứ hai, do sự quan tâm lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền Thành phố
đối với công tác này. Trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ về vai trò, vị trí của DSVH trong sự phát triển của văn hóa nói riêng,
sự phát triển của đất nước nói chung; đồng thời, căn cứ vào điều kiện thực tiễn
của địa phương, Đảng bộ, chính quyền Thành phố đã kịp thời hoạch định chủ
trương về bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phù hợp với điều kiện cụ thể của
Thành phố Hồ Chí Minh - một thành phố vừa truyền thống, vừa hiện đại và có
độ mở lớn trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó, thực hiện mục tiêu quốc gia về văn
hóa, Đảng bộ và chính quyền Thành phố đã xác định, bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH là một trong những chương trình trọng tâm trong chiến lược phát
triển văn hóa của Thành phố. Nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vật
thể và phi vật thể; bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị..., triển khai chương trình
mục tiêu quốc gia về văn hóa, Đảng bộ Thành phố đã kịp thời đề ra những chủ
trương phù hợp cho các cấp, ngành văn hóa và các địa phương trên địa bàn
Thành phố triển khai, thực hiện.
Thứ ba, được sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành liên quan và
sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Từ những định hướng của Đảng bộ, chính
quyền Thành phố, Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Sở
Văn hóa - Thể thao) xây dựng chương trình, kế hoạch và các đề án về tôn tạo và
giữ gìn các DTLS - văn hóa, các lễ hội truyền thống, cảnh quan, môi trường…
Sở Văn hóa, Thể thao Thành phố phối hợp với UBND các quận, huyện xây dựng
quy hoạch, kế hoạch bảo tồn các DSVH; đồng thời, tập trung khai thác các thế
mạnh, tiềm năng của DSVH để phát triển du lịch nhằm đưa du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của Thành phố, đưa Thành phố Hồ Chí Minh trở thành
trung tâm dịch vụ, du lịch của vùng và cả nước. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí
133
Minh là địa phương dẫn đầu cả nước về doanh thu du lịch, thu hút khách du lịch
quốc tế, số đơn vị nữ hành và dịch vụ lưu trú.
Bên cạnh đó, để tranh thủ các nguồn vốn xã hội hóa cho hoạt động bảo
tồn các DTLS, các DSVH vật thể và phi vật thể (nhà thờ, lăng tẩm, chùa chiền),
ngành văn hóa đã vận động sự đóng góp về kinh phí và nhân công của các doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp nhân dân. Trong những năm
1998 - 2014, tại Thành phố Hồ Chí Minh, nguồn vốn xã hội hóa phục vụ công
tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Thứ tư, chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nên đã góp
phần nâng cao chất lượng công tác bảo tồn, tu bổ DSVH và phát huy mạnh mẽ
các giá trị của các di sản. Là địa phương có khối lượng đồ sộ các di sản vật thể
và phi vật thể, với những nét đặc trưng riêng là gắn liền với quá trình người Việt
hành hương đi mở đất cũng như cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, Thành
phố Hồ Chí Minh chú trọng đầu tư khai thác các thế mạnh về tài nguyên nhân
văn để phát triển du lịch. Bên cạnh hệ thống DTLS - văn hóa - danh thắng và các
DSVH vật thể, phi vật thể, Thành phố Hồ Chí Minh còn có những tài nguyên du
lịch nhân văn khá phong phú và có giá trị phục vụ du lịch cao như lễ hội, làng
nghề truyền thống, ẩm thực... Đó là những điều kiện tốt để đưa du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, bước đột phá trong phát triển kinh tế của Thành phố
Trong những năm 1998 - 2014, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự chỉ đạo
của chính quyền Thành phố và sự phối hợp của các cấp, các ngành liên quan,
công tác tuyên truyền được đẩy mạnh. Hàng loạt các hoạt động tuyên truyền
nhằm nâng cao ý thức bảo vệ di tích của người dân được tiến hành như: Kết hợp
với các trường học tổ chức cho học sinh, sinh viên tham gia học tập ngoại khóa
với nhiều chủ đề khác nhau qua từng năm; xã hội hóa công tác bảo vệ di tích với
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; đưa vấn đề bảo vệ và phát huy
các giá trị di tích vào tiêu chí xây dựng cơ quan, đơn vị, khối phố và làng văn
hóa, nếp sống văn hóa ở các địa phương; cam kết bảo vệ môi trường di tích đối
với các đơn vị kinh doanh khai thác DTLS phục vụ du lịch.
Công tác giáo dục truyền thống cho học sinh, sinh viên có sự chuyển biến
tốt, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà
134
trường. Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Thành đoàn chỉ đạo đẩy mạnh
công tác giáo dục truyền thống trong các trường phổ thông và trong đoàn viên,
thanh niên. Các tổ chức chính trị - xã hội của Thành phố đã phối hợp tổ chức các
cuộc thi sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân như: Tìm hiểu 300 năm Sài Gòn -
Thành phố Hồ Chí Minh, tuyên truyền ca khúc cách mạng, kể chuyện về tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh…
Sở Văn hóa, Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với: Đài Tiếng
nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam; Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố;
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh; Báo Sài Gòn Giải phóng; Tạp chí du
lịch... triển khai công tác tuyên truyền, giới thiệu về hình ảnh, văn hóa, con
người Thành phố đến bạn bè trong và ngoài nước.Thông qua việc tuyên truyền,
quảng bá các DTLS, văn hóa, danh thắng, các lễ hội truyền thống của Thành phố
Hồ Chí Minh đã phát huy được tiềm năng, vị thế của một Thành phố năng động,
giàu bản sắc đến với nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Nhìn chung, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng được chú trọng, góp phần vào việc giáo dục
truyền thống lịch sử, văn hóa cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân,
nhất là thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu tốt hơn về sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của
nhân dân; đồng thời, DSVH là tài nguyên quan trọng trong việc phát triển du lịch
củaThành phố, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
4.2. MỘT SỐ HẠN CHẾ
4.2.1. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH vẫn còn
một số hạn chế, khuyết điểm.
Một là, trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh tuy đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong chiến lược
phát triển chung của Thành phố, song công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ
nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH;
trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây
135
dựng; trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế, văn hóa và chính trị. Từ những hạn chế về nhận thức và lý luận chung
về văn hóa nên truớc khi có Luật Di sản văn hóa (2002), Đảng bộ Thành phố
chưa xây dựng được chiến lược bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Mặc dù có khung pháp lý là hệ thống các bộ luật liên quan đến công tác
bảo tồn cảnh quan kiến trúc như Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Di
sản... nhưng việc áp dụng vào thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Thành phố còn
chậm trễ trong việc xây dựng và ban hành Quy chế quản lý cảnh quan kiến trúc,
dẫn đến sự “biến mất”, thay đổi cảnh quan kiến trúc nhanh chóng. Các cấp chính
quyền, các ngành chức năng vẫn còn phải giải quyết từng trường hợp cụ thể do
chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh như các trường hợp: Ụ tàu Ba Son, Trường
Lê Quý Đôn, Cụm Nhà khách Chính phủ số 1 Lý Thái Tổ...
Hai là, bên cạnh sự chậm trễ trên phương diện lý luận, trong chỉ đạo thực
tiễn, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu các biện pháp cần
thiết trên cả hai lĩnh vực "xây" và "chống" trên lĩnh vực văn hóa và bảo tồn các
giá trị DSVH. Cơ chế lãnh đạo, quản lý văn hóa chậm đổi mới và chưa theo kịp
thực tiễn sinh động của cuộc sống. Vì thế, mặc dù Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh đã đề ra Chương trình hành động về văn hóa, song chưa tạo ra sự chuyển
biến lớn trong các hoạt động văn hóa và đời sống tinh thần của nhân dân. Từ
năm 1998 đến năm 2010, Đảng bộ Thành phố chưa có nghị quyết chuyên đề về
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Ba là, cơ chế,chính sách về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
còn thiếu, chưa đồng bộ. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số lượng di
tích lớn. Tuy nhiên, trong tổng số các di tích được xếp hạng cũng như chưa được
xếp hạng, chỉ có một số rất ít được UBND Thành phố giao cho các địa phương
quản lý, sử dụng di tích, số còn lại chưa được phân cấp quản lý, khai thác. Việc
phân cấp trách nhiệm tổ chức quản lý di tích chưa thống nhất, còn chồng chéo.
Ví dụ như, có nhiều di tích Sở Văn hóa - Thông tin và UBND các quận, huyện
đồng quản lý; có di tích thì UBND các quận, huyện trực tiếp quản lý... Đây là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng: Nhiều di tích bị xâm hại lấn chiếm; các di vật,
cổ vật tại đền chùa bị mất cắp; việc tổ chức bảo tồn và khai thác các di tích do
136
cấp quận, huyện, phường, xã quản lý có vi phạm, song Sở Văn hóa - Thông tin
không nắm được; nguồn thu di tích không được quản lý chặt chẽ để tái đầu tư
cho di tích; việc bảo tồn các di tích không có nguồn thu được đẩy trách nhiệm
cho cấp trên; tình trạng tu bổ một cách chồng chéo, tràn lan hoặc vượt quá thẩm
quyền cho phép.
Việc phân cấp quản lý di tích chưa rõ ràng. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, có 19 di tích được UBND Thành phố hoặc UBND quận, huyện quyết định
thành lập, công nhận Ban quản lý di tích, trong đó có 02 ban quản lý hoạt động
theo cơ chế đơn vị sự nghiệp công lập (Ban Quản lý Khu DTLS Địa đạo Củ Chi
trực thuộc Bộ Tư lệnh Thành phố, Ban Quản lý Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã Ba
Giồng trực thuộc UBND huyện Hóc Môn). Các ban quản lý di tích khác có hoạt
động mang tính liên ngành, với đại diện của các cơ quan, đơn vị ở quận/huyện,
phường/xã; các di tích còn lại do tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc các cơ quan,
đơn vị được giao quản lý công trình trực tiếp quản lý, cá biệt có 02 di tích khảo cổ
học (Lò gốm Hưng Lợi - Quận 8, Giồng Cá Vồ - huyện Cần Giờ) vẫn chưa được
quyết định giao cho tổ chức, cơ quan nào trực tiếp quản lý.
Hầu hết các ban quản lý di tích trên địa bàn Thành phố chủ yếu được
thành lập, công nhận để quản lý trực tiếp di tích, đồng thời là cơ sở tín ngưỡng
và cơ sở tôn giáo. Tuy nhiên, cũng có trường hợp một ban quản lý phụ trách
nhiều di tích, như Ban Quản lý Khu DTLS Địa đạo Củ Chi (trực tiếp quản lý 04
di tích: Địa đạo Bến Dược, Địa đạo Bến Đình, 87A Trần Kế Xương quận Phú
Nhuận và Căn cứ Rừng Sác Cần Giờ - bàn giao 2015); Ban Quản lý di tích liên
ngành của Quận 11 quản lý 02 di tích chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn. Ban
Quản lý DTLS, văn hóa huyện Củ Chi quản lý các di tích trên địa bàn huyện.
Từ thực trạng đó, việc phân cấp quản lý cho các địa phương, đơn vị trực
tiếp khai thác, sử dụng di tích là một giải pháp cấp thiết nhằm bảo vệ, phát huy
di tích một cách hiệu quả.
Bốn là, việc lập hồ sơ di tích còn nhiều khó khăn, như: di tích thuộc sở
hữu tư nhân và di tích thuộc sở hữu của các tổ chức tôn giáo, không đồng ý xếp
hạng; di tích vướng về dự án, đất đai, tranh chấp, khoanh vùng bảo vệ; di tích
không có người quản lý, không phát huy giá trị. Bên cạnh đó, ý thức của cộng
137
đồng trong việc bảo tồn di tích chưa cao. Một số di tích của người Hoa đã thay
tên đổi chủ, những nhà cổ của người Hoa được giao bán cho người Việt hay các
hộ gia đình trông coi. Các hộ gia đình này thường là không đủ khả năng để giữ
gìn một di tích vì thiếu cả kiến thức chuyên môn lẫn điều kiện kinh tế. Hiện
tượng “bỏ rơi”, không quan tâm nhiều đến di tích như các nhà cổ, các miếu:
miếu Quan Thánh - Quận Phú Nhuận, miếu Phú Nghĩa - quận 5. Cùng với đó là
những biểu hiện không lành mạnh trong việc thực thành tín ngưỡng trong một số
miếu như tục mê tín, xin xăm, bói quẻ, cầu đảo... cũng đã tạo nên những ảnh
hưởng không tốt đến di tích, đến hoạt động văn hóa du lịch. Công tác bảo quản
cổ vật trong các di tích còn nhiều hạn chế.
Năm là, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh chưa ban hành
được cơ chế, chính sách phát huy nội lực của nhân dân, chưa tạo được phong
trào quần chúng mạnh mẽ tham gia bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
cũng như bảo vệ và giữ gìn văn hóa dân tộc; chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo
dục và phát huy khả năng của tuổi trẻ tham gia xây dựng và phát triển văn
hóa. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm công tác văn
hóa nói chung, công tác bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH nói riêng còn
nhiều bất hợp lý. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa từ phường, xã, quận,
huyện đến Thành phố còn hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, chưa ngang
tầm với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là trong tình hình đời sống kinh tế - xã hội
ngày càng phát triển, nhu cầu phát triển văn hóa và hưởng thụ văn hóa của
nhân dân ngày càng cao.
Sáu là, chính sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quản lý bảo tồn, tôn
tạo di tích, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về
khoa học bảo tàng, cán bộ tổ chức khai thác di tích còn nhiều bất cập. Bộ máy
chỉ đạo và quản lý văn hóa còn nhiều hạn chế, bất cập. Đội ngũ cán bộ làm
công tác văn hóa và công tác bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH vừa thiếu vừa
yếu. Một bộ phận cán bộ chỉ đạo hoạt động này vừa thiếu tri thức, vừa thiếu
hiểu biết pháp luật, vừa hữu khuynh, buông lỏng. Cơ cấu tổ chức và hoạt động
của các hội sáng tạo chuyên ngành chưa hoàn thiện và chưa theo kịp yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới.
138
Bên cạnh đó, còn thiếu chính sách sử dụng cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ
giỏi trong quản lý và khai thác các di tích, DSVH. Vì vậy, trong quá trình tổ
chức các hoạt động bảo tồn, tôn tạo đã làm cho nhiều di tích mất đi các giá trị
nguyên gốc, phá vỡ cảnh quan môi trường. Cán bộ phục vụ tại di tích chưa thực
sự am hiểu tường tận về truyền thống của dân tộc cũng như địa phương làm ảnh
hưởng đến việc truyền tải những giá trị văn hoá của Thành phố, giảm sức hấp
dẫn và thu hút đến khách du lịch.
4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa và nhiệm vụ xây dựng,
phát triển nền văn hóa theo tinh thần và nội dung của Nghị quyết Trung ương
năm, khóa VIII trong các cấp ủy và cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, chưa sâu sắc
và chưa đồng đều. Tư duy lãnh đạo, phát triển văn hóa chưa theo kịp những biến
đổi nhanh chóng, phức tạp, đa dạng của đời sống văn hóa, nhất là những chuyển
động và tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với chiến lược xây dựng con
người, phát triển văn hóa, giáo dục, văn học - nghệ thuật. Công tác lãnh đạo, chỉ
đạo về xây dựng, phát triển văn hóa và bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH còn
bộc lộ một số bất cập, lúng túng; phương thức lãnh đạo chậm đổi mới; coi trọng
kinh tế hơn văn hóa; việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên
và nhân dân về tầm quan trọng của văn hóa và trách nhiệm xây dựng, phát triển
văn hóa, bảo tồn DSVH chưa thường xuyên, liên tục. Một số quy định trên lĩnh
vực văn hóa được áp dụng chung cho cả nước, Thành phố chưa chủ động cụ thể
hóa cho sát hợp với điều kiện đô thị đặc biệt nên gặp khó khăn trong áp dụng,
thực hiện.
Một số tổ chức, đơn vị và cán bộ, đảng viên chưa thực sự trở thành tấm
gương cho quần chúng noi theo; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống làm suy giảm lòng tin của nhân
dân, tác động xấu đến xây dựng con người, xây dựng đời sống văn hóa.
Thứ hai, quản lý nhà nước về văn hóa có lúc, có nơi còn thiếu chủ động,
thậm chí buông lỏng; công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ làm công tác văn
hóa, bảo tồn DSVH còn bất cập, hụt hẫng. Thành phố chưa có chiến lược đào
139
tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ văn hóa và tài năng sáng
tạo lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
Thứ ba, nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước
chưa được triển khai tích cực. Bên cạnh đó, trong khi tập trung vào nhiệm vụ
phát triển kinh tế, chưa đặt đúng vị trí của văn hóa và công tác bảo tồn, phát huy
các giá trị DSVH; chưa coi trọng công tác giáo dục về tư tưởng đạo đức và lối
sống, thiếu các biện pháp cần thiết về “xây” và “chống” trên lĩnh vực văn hóa.
Thứ tư, nhiều yếu tố khách quan tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH. Tốc độ đô thị hóa nhanh, dân số cơ học tăng
nhanh, trong khi công tác quy hoạch quản lý đô thị và bảo tồn DSVH chưa được
quan tâm thỏa đáng, dẫn đến phá vỡ kiến trúc cảnh quan đô thị và các di tích,
DSVH vật thể, phi vật thể bị xâm hại.
Những hạn chế của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh
đạo văn hóa đã ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển bền vững của Thành phố.
Văn hóa chưa đủ sức tác động, chi phối cũng như thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm
của từng con người. Sự nghiệp bảo vệ và phát huy các DSVH - tài sản vô giá của
cha ông để lại chưa được các cấp, các ngành ý thức đúng mức nên một phần bị tàn
phá bởi thiên tai, phần khác bị xuống cấp do sự vô trách nhiệm của các thế hệ hậu
sinh. Những hạn chế, bất cập trong lĩnh vực văn hóa phần nào làm giảm thành tựu
chung của công cuộc đổi mới. Vấn đề đặt ra là, để phát triển Thành phố bền vững
thì bên cạnh việc phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt phải
đẩy mạnh phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Vì vậy, trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí
Minh cần xây dựng Nghị quyết chuyên về văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH để làm rõ những vấn đề cơ bản sau:
Một là, bảo tồn văn hóa là vấn đề rất quan trọng, nhưng không phát huy,
đổi mới văn hóa truyền thống sẽ không có phát triển. Vấn đề là Nghị quyết cần
chỉ đạo rõ phương pháp biện chứng: cần vừa bảo tồn vừa loại bỏ, vừa cải cách,
vừa phát huy, phát triển văn hóa.
140
Hai là, bảo tồn làm nền tảng nhưng quan trọng hơn là phát triển văn hóa
trên cơ sở kết hợp nội và ngoại lực để tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại và làm
giàu văn hóa dân tộc. Nhưng loại bỏ, bảo tồn hay phát huy và phát triển phải
xuất phát từ yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội và con người trong tiến trình
phát triển và hội nhập. Văn hóa nói chung hay các DSVH nói riêng nếu tách khỏi
quan niệm phát triển là sai lầm. Dù DSVH đều chứa đựng giá trị riêng của nó,
nhưng các giá trị đều có tính lịch sử. Vì vậy, bảo tồn, phát huy và phát triển là
quy luật khách quan. Cần phát triển, tạo nên các giá trị mới, hình thức mới chứ
không chỉ phát huy những giá trị cũ; tiếp theo là phải đa dạng hóa về văn hóa.
4.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Từ thực tiễn công tác công tác bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1998 đến 2014, có thể rút ra một số kinh
nghiệm chủ yếu sau:
Một là, nắm vững và vận dụng sáng tạo các quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kịp thời hoạch định chủ trương và xây
dựng những chương trình, kế hoạch phù hợp với tình hình thực tế của địa phương
Sự thành công của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phụ
thuộc rất nhiều vào sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định, DSVH là tài sản vô giá của dân tộc,
tài sản tinh thần quý báu của nhân dân, là cội nguồn và động lực của sự phát
triển đất nước. Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo tồn và
phát huy giá trị các DSVH, trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng
luôn quan tâm đến vấn đề này.
Cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng, Thành phố Hồ Chí Minh kịp
thời hoạch định những chủ trương và xây dựng chương trình, kế hoạch và giải
pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố. Đó là:
Chương trình hành động của Thành ủy và những văn bản của UBND, Sở Văn
hóa và Thể thao, Sở Du lịch về những quy định về bảo tồn các DSVH, đầu tư
nhiều nguồn lực cho công tác này. Để các chủ trương, chính sách đi vào đời sống
thực tiễn, Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hướng
141
dẫn nhân dân thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH; đồng
thời, giáo dục lòng yêu nước, ý thức giữ gìn DSVH cho các tầng lớp nhân dân.
Từng bước đổi hoạt động bảo tồn DSVH trên cơ sở kiện toàn bộ máy tổ chức,
thiết chế văn hóa, tăng cường vai trò lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của các
cấp ủy Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, rà soát các di tích văn hóa, phát
hiện kịp thời các di tích mới có giá trị cần bảo vệ và các hoạt động sai phạm; từ
đó, có biện pháp xử lý phù hợp. Từng bước xã hội hóa các hoạt động về bảo tồn
DSVH; ban hành nhiều quy định tại các lễ hội, nơi thờ tự, tín ngưỡng tôn giáo;
khoanh vùng bảo vệ, quy hoạch đô thị gắn với việc bảo tồn DSVH; phát triển du
lịch trên cơ sở khai thác các giá trị của DSVH…Coi trọng việc cụ thể, thể chế
hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng vào cuộc sống; đồng thời, quan tâm chỉ đạo,
tổ chức kiểm tra đánh giá sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm đối với từng nội dung
cụ thể.
Hai là, có chính sách đầu tư thích hợp, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, đồng bộ
giữa phát triển bền vững và bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH
Hiện nay, ở Việt Nam khái niệm “Phát triển bền vững” khá phổ biến, nhất
là khi đề cập đến quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa ở các thành phố lớn như Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Khái niệm này từ lâu được thế giới sử dụng cho
nhiều loại hình bền vững khác nhau trong đời sống xã hội, nhưng hiện nay
thường được sử dụng cho sự bền vững của môi trường và tài nguyên tự nhiên,
rộng hơn là sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với xã hội và văn hóa.
Trong lĩnh vực bảo tồn DSVH, khái niệm “phát triển bền vững” được đặt
ra như là một nhu cầu khách quan, nhằm giải quyết mâu thuẫn tất yếu giữa công
tác bảo tồn di tích và phát triển đô thị. Trên cơ sở khái niệm chung về phát triển
bền vững thì đô thị phát triển bền vững phải dựa trên nguyên tắc: Kinh tế đô thị -
môi trường đô thị và văn hoá xã hội đô thị. Trong thời kỳ đổi mới, Thành phố
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và đề ra những mục tiêu xây dựng và hướng đến mô
hình: thành phố sống tốt, thành phố đáng sống, thành phố văn minh, hiện đại,
nghĩa tình… Những mục tiêu này đều dựa trên hệ thống tiêu chí đánh giá nhiều
lĩnh vực, trong đó có tiêu chí bảo tồn DSVH. “Bộ tiêu chí Thành phố Hồ Chí
Minh xã hội chủ nghĩa văn minh hiện đại” do Viện Nghiên cứu phát triển Thành
142
phố xây dựng năm 2010 có nhóm tiêu chí về Môi trường văn hóa xã hội gồm 4
yếu tố, bao gồm những nội dung: Bảo tồn các di tích di sản lịch sử, văn hóa đặc
thù; bảo vệ tốt các di tích khảo cổ học, DTLS - văn hóa, lịch sử cách mạng, các
khu phố cổ, di tích kiến trúc, nghệ thuật; bảo vệ môi trường và không gian tự
nhiên của đô thị như cây xanh, kênh rạch; thực hiện tốt Luật Di sản văn hóa
trong công tác trùng tu, tôn tạo, bảo vệ và phát huy các giá trị DSVH vật thể, phi
vật thể của Thành phố; tổ chức tốt các sinh hoạt văn hóa hiện đại, lễ hội truyền
thống, tín ngưỡng; xây dựng hệ thống bảo tàng hiện đại, đa dạng về loại hình và
nội dung: lịch sử, văn hóa, dân tộc, tự nhiên, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật…
của nhà nước và tư nhân. Vấn đề cấp thiết trong quy hoạch phát triển đô thị là
cùng một lúc phải quan tâm đến việc duy trì, tái tạo, bảo vệ và phát huy cả hai
loại tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa [66, tr.131].
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có nhiều DTLS và các di tích lại
phong phú về loại hình, từ di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ, di tích
danh thắng, di tích cách mạng. Đó là lợi thế, đồng thời cũng là bài toán đặt ra
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH một cách có hiệu quả hệ thống di
tích và DSVH với việc phát triển đô thị. Nhằm giải quyết mâu thuẫn đó, trong
quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển Thành phố, Đảng bộ và chính quyền
Thành phố Hồ Chí Minh từng bước đưa chiến lược bảo vệ di sản đô thị vào
chiến lược văn hóa nói riêng và chiến lược phát triển kinh tế, xã hội nói chung,
hướng tới xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh phát triển bền vững.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, của các tầng
lớp nhân dân trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
Để văn hóa thực sự là nguồn nội lực quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, cần có sự phối hợp của cả hệ thống
chính trị. Trong quá trình lãnh đạo bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, Thành
ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã kịp thời hoạch định chủ trương phù hợp với điều
kiện thực tiễn địa phương, UBND Thành phố cần xây dựng các chương trình, kế
hoạch; đồng thời từng bước hoàn thiện các văn bản pháp qui về quản lý các hoạt
động liên quan đến văn hóa nói chung và bảo tồn, phát huy các giá trị DTLS, văn
hóa và DSVH nói riêng. Trong đó, các cấp ủy đảng đóng vai trò lãnh đạo, chính
143
quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận và các đoàn thể vận động thuyết phục quần
chúng chung tay, góp sức. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH đạt hiệu quả cao.
Bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là sự nghiệp của toàn dân, muốn
hoạt động này có hiệu quả cần huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị. Không được khoán trắng công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH là công việc của ngành Văn hóa. Có như vậy thì mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa và bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH
mới được triển khai thực hiện hiệu quả. Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, các cơ quan, tổ chức chính trị -xã
hội (Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh...)
một mặt tích cực tham gia vào các phong trào hoạt động cụ thể; mặt khác tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân tự giác, tích cực tham gia vào các phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Thực hiện phương châm
“Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhằm kêu gọi, động viên mọi tầng lớp nhân
dân và các tổ chức xã hội đóng góp tài chính, sức lực và sự sáng tạo cho hoạt
động bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH.
Bên cạnh đó, để công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH thực sự là
công việc của cả hệ thống chính trị, đòi hỏi cấp ủy đảng, chính quyền, các cấp
phải nhận thức sâu sắc đúng đắn để chỉ đạo sâu sát, kịp thời; xác định đúng nội
dung trọng tâm, trọng điểm để tập trung chỉ đạo thực hiện. Đồng thời, thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc, giám sát công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH, định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm; đề ra phương hướng, giải pháp
cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn và các công việc cụ thể; kịp thời khen thưởng,
động viên các tập thể, cá nhân có thành tích trong bảo tồn DSVH; chú trọng xây
dựng, phổ biến những mô hình, điển hình tiên tiến. Mặt khác, kiên quyết xử lý
nghiêm các tổ chức, cá nhân xâm phạm đến DTLS văn hóa.
Bốn là, đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
DSVH và hoạt động văn hóa nói chung
Muốn thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác bảo tồn di tích, phát huy
tối đa các giá trị DSVH, cần chú trọng công tác tuyên truyền đến các tầng lớp
144
nhân dân, vì bảo tồn di tích gắn với cuộc sống thường nhật của người dân. Do
chủ sở hữu các công trình là người dân, vì vậy bảo tồn các công trình này cần
tránh ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó,
Đảng bộ và chính quyền Thành phố đã chú ý giải quyết hài hòa giữa lợi ích của
di tích và quyền lợi của người dân. Việc bảo tồn, giữ gìn công trình kiến trúc có
giá trị nhưng phải bảo đảm tốt nhu cầu sống và phát triển kinh tế, xã hội của
người dân. Khi những di tích đó là nguồn tài nguyên mang lại lợi nhuận thì
người dân (chủ sở hữu) sẽ có ý thức, trách nhiệm cao trong việc bảo tồn DSVH.
Thực tiễn đã chứng minh, không ai có thể giữ gìn DSVH tốt hơn, hiệu quả hơn
chính chủ nhân của các loại hình di sản. DSVH không thể đứng ngoài sinh hoạt
của cộng đồng dân cư. Vì vậy, các di tích, DSVH phải được người dân thừa nhận
ngay trong chính đời sống của cộng đồng.
Đối với các di tích tôn giáo, gắn bảo tồn với hoạt động tín ngưỡng. Một
thực tế dễ thấy là khi các hoạt động tín ngưỡng càng được thực hành một cách
lành mạnh thì giá trị của di sản càng được trân trọng. Giáo dục cộng đồng hiểu
được những giá trị lịch sử của di tích cũng là một vấn đề cần thiết bên cạnh việc
phục vụ nhu cầu tín ngưỡng cho cộng đồng. Chỉ có như thế thì cộng đồng mới
hiểu rõ và tích cực tham gia bảo vệ di tích.
Với vị trí địa lý thuận lợi, là nơi giao lưu giữa các dòng chảy văn hóa,
DSVH của Thành phố là nguồn tài nguyên của ngành du lịch. Để DSVH có thể
đóng góp tích cực vào quá trình phát triển du lịch, thì ngành du lịch của thành
phố phải bảo tồn được DSVH của một đô thị. Thành phố Hồ Chí Minh cần xây
dựng chiến lược bảo tồn DSVH trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài
hạn, hướng đến mục tiêu bảo tồn những DSVH quý giá cho những thế hệ sau.Vì
vậy, bảo tồn di tích cần gắn với hoạt động du lịch. Vai trò quan trọng của du lịch
là quảng bá giá trị những DSVH, qua đó, giới thiệu về lịch sử - con người của
một quốc gia đến với thế giới, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa. Du lịch là một
phương thức để đưa di sản đến với công chúng, vì vậy, bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH để phát triển du lịch là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
145
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, khai thác các giá trị văn hóa để tạo thành những
sản phẩm du lịch mới là cần thiết, nhằm tăng giá trị cho các di sản, đa dạng hóa
các loại hình du lịch và có thể mang lại lợi ích cho cộng đồng. Phát triển du lịch
là một trong những giải pháp trụ cột nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH,
hướng tới sự phát triển bền vững. Quan điểm chủ đạo này đã được đề ra trong
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030:
"Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa của dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ văn hóa môi trường; bảo đảm an
ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội" [173]. Quán triệt quan điểm phát triển
này, Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang tập trung triển khai các chương trình,
kế hoạch nhằm thúc đẩy phát triển du lịch, đồng thời tạo động lực và nguồn lực
cho bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Hiện nay, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH nhận được nhiều
sự quan tâm hơn từ các ngành, các cấp. Những nỗ lực trong công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH không chỉ góp phần gìn giữ kho tàng văn hóa tiềm
tàng của dân tộc mà còn có tác dụng góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, góp phần giáo dục truyền thống, ý thức cội nguồn của giới trẻ, thu
hút sự quan tâm ngày càng nhiều của giới nghiên cứu cũng như khách du lịch
trong và ngoài nước.
Thực tế cho thấy, để thực hiện có hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH cần phải thực hiện tốt công tác xã hội hóa. Chỉ khi người dân
sở tại thực sự tham gia công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích, DSVH thì
công việc đó mới đạt kết quả. Bởi họ chính là chủ thể của những sáng tạo văn
hóa và hiểu rõ những giá trị văn hóa đó hơn ai hết. Vì thế, cần giúp họ nắm vững
quy luật, tìm ra phương thức, hoạch định chiến lược, giải quyết những khó khăn,
có hệ thống giải pháp cụ thể… với DSVH, để họ trở thành lực lượng vừa trực
tiếp tham gia bảo vệ, phát huy giá trị, vừa trực tiếp được hưởng thụ thành quả
của các hoạt động đó. Làm tốt công tác xã hội hóa thì các DSVH của dân tộc
mới có được sự phát triển, trở thành động lực của sự phát triển bền vững.
146
Năm là, gắn công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố
Hồ Chí Minh với công tác quản lý đô thị, quản lý văn hóa đô thị. Thành phố Hồ
Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, có vai trò là đầu tàu không chỉ
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, mà có trách nhiệm đóng góp đến 77%
nguồn thu của Thành phố cho ngân sách nhà nước; bên cạnh đó, Thành phố còn
luôn chịu ảnh hưởng của thị trường bất động sản. Những ảnh hưởng này tác
động rất tiêu cực đến DSVH của Thành phố Hồ Chí Minh, như: cảnh quan và
kiến trúc đô thị bị cuốn theo quá trình đô thị hóa, tình trạng bị xâm lấn “đất
vàng” ở khu trung tâm Thành phố để chạy theo lợi ích kinh tế, dễ làm mất bản
sắc văn hóa của đô thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh cần quan tâm sâu sắc và cần thiết có nghị quyết chuyên
đề riêng về bảo tồn DSVH đô thị, quản lý văn hóa nhằm giữ lại giá trị truyền
thống, lịch sử, văn hóa, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của Thành phố.
Chính sách quản lý đô thị cần có sự liên kết và phối hợp chặt chẽ của các sở:
Văn hóa, Thể thao, Xây dựng, Quy hoạch, kiến trúc và Du lịch để có bài toán
hợp lý giải quyết vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển kinh tế. Các cấp chính
quyền Thành phố cần có hiểu biết sâu rộng về giá trị DSVH đô thị, có chính sách
quản lý đô thị, quản lý văn hóa đô thị cho phù hợp, khoa học; từ đó coi trọng
đúng mức công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Đặc biệt khi chính quyền Thành phố hoạch định chính sách quản lý đô thị
cần quan tâm đến tiếng nói của cộng đồng, bao gồm người dân, người có chuyên
môn, các nhà khoa học… để có những đóng góp xác đáng cho việc hoạch định
chính sách quản lí văn hóa đô thị, nhằm đưa cộng đồng tham gia vào việc quản lí
DSVH. Mục tiêu cao nhất đặt ra cho công tác quản lí DSVH là bảo tồn lâu dài
các yếu tố gốc cấu thành giá trị di sản và phát huy giá trị di sản phục vụ cho việc
phát triển kinh tế, xã hội của Thành phố, trong đó có phát triển cộng đồng cư dân
nơi có di sản, đặc biệt là góp phần thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, đây cũng
là một trong những mũi nhọn kinh tế của Thành phố.
147
Tiểu kết chương 4
Sau 14 năm (1998 - 2014) thực hiện Nghị quyết Trung ương năm khóa
VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc” cùng với những thành tựu trong lãnh đạo xây dựng và phát triển
kinh tế, xã hội, Thành phố đã đạt được những thành tựu bước đầu trong việc
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH. Thành tựu nổi bật nhất là Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH đối với sự phát triển bền vững của Thành
phố.Từ sự đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của DSVH đối với sự phát triển
của Thành phố; đồng thời, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH, Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo vào điều kiện thực tế của địa phương. Sự lãnh đạo sát sao của Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo nên sự chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo
tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu. Đó là: nắm vững
và vận dụng sáng tạo các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, kịp thời hoạch định chủ trương và xây dựng những chương trình, kế
hoạch phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Có chính sách đầu tư thích
hợp, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa phát triển bền vững và bảo tồn,
phát huy các giá trị DSVH. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị,
của các tầng lớp nhân dân trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH và hoạt
động văn hóa nói chung. Gắn bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH ở Thành phố
Hồ Chí Minh với công tác quản lý đô thị, quản lý văn hóa đô thị.
Những thành tựu và kinh nghiệm của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh
trong những năm 1998 đến 2014 lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH là tiền đề quan trọng cho sự phát triển bền vững của Thành phố Hồ
Chí Minh trong quá trình CNH, HĐH.
148
KẾT LUẬN
1. Việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo tồn
và phát huy các giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có ý nghĩa và
tính cấp thiết cao. Bởi vì, mặc dù có khá nhiều các nhà khoa học đã có nhiều công
trình nghiên cứu về DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng chưa có công trình
nào nghiên cứu trực tiếp quá trình “Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo và
phát huy các giá trị di sản văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014”. Đóng góp và
điểm mới của luận án chính là ở chỗ trình bày, phân tích một cách có hệ thống
các yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trong
việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH của Thành phố.
- Hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
và chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH.
- Phân tích, làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm
1998 đến năm 2014.
- Nêu ra những nhận xét về những thành tựu, hạn chế; bước đầu đúc kết
một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH từ năm 1998 đến năm 2014.
2. Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của
cả nước, là đô thị trẻ đầy năng động, sáng tạo và đang vươn lên mạnh mẽ trong
quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa theo hướng văn minh, hiện đại và phát triển bền
vững. Song song với quá trình đó, Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang chịu nhiều
thách thức và cần giải quyết được mâu thuẫn: Làm thế nào để Thành phố vừa hiện
đại, vừa bảo tồn được nhiều DSVH truyền thống?
Có thể nói, từ sau ngày được giải phóng đến nay, đặc biệt là từ năm 1998,
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm đến công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị DSVH, hàng loạt DTLS, văn hóa được quy hoạch, bảo vệ; công tác quy
149
hoạch đô thị đã chú ý đến nội dung bảo tồn DSVH trong quá trình phát triển
Thành phố văn minh, hiện đại. Những thành tựu nêu trên đã khẳng định tính đúng
đắn trong chủ trương, chính sách phát triển văn hóa của các cấp bộ Đảng, chính
quyền và cách thức bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH trong quá trình xây dựng
nền văn hóa mới của cơ quan chức năng và người dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa, công tác bảo tồn và phát
huy các giá trị DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều bất cập, đó là: tình
trạng xâm lấn đất đai, cảnh quan di sản; áp lực toàn cầu hóa cả về địa - kinh tế lẫn
áp lực của “nghệ thuật kiến trúc hiện đại” dễ làm biến mất bản sắc văn hóa của
mỗi đô thị; sự biến tướng của các lễ hội...Việc quy hoạch và phát triển không gian
xung quanh các khu vực di sản vật thể của Thành phố cũng trở thành một thách
thức lớn với chính quyền. Những bất cập trên chính là thách thức lớn đặt ra cho
toàn xã hội, cho các cấp chính quyền và đặt ra cho các cơ quan chức năng cần giải
quyết mâu thuẫn đô thị hóa, hiện đại hóa và vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị
DSVH trong quá trình xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng sống tốt,
văn minh, nghĩa tình, hiện đại.
3. Di sản văn hóa có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội
ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay; song do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khách nhau, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH
còn nhiều bất cập. Vì vậy, việc rút ra nhận xét, kinh nghiệm và phân tích rõ
nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ này giai đoạn
tiếp theo.
Thực tiễn 14 năm (1998 - 2014) lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh của Đảng bộ Thành phố đã để
lại những kinh nghiệm quý báu: nắm vững và vận dụng sáng tạo các quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kịp thời hoạch định chủ
trương và xây dựng những chương trình, kế hoạch phù hợp với tình hình thực tế
của địa phương; có chính sách đầu tư thích hợp, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, đồng
150
bộ giữa phát triển bền vững và bảo tồn, phát huy các giá trị DSVH; đẩy mạnh xã
hội hóa công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH và hoạt động văn hóa nói
chung; phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, của các tầng lớp nhân
dân trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.
Hệ thống các DSVH ở Thành phố Hồ Chí Minh vừa phong phú về số
lượng, lại đa dạng về loại hình. Mỗi DSVH chứa đựng trong mình những câu
chuyện huyền thoại và giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là nguồn tài nguyên cho phát
triển kinh tế của Thành phố, là niềm tự hòa của người dân Thành phố về truyền
thống lịch sử - văn hóa. Do đó, việc gìn giữ, tôn tạo và phát huy các giá trị DSVH
là việc làm mang đậm tính nhân văn sâu sắc, là biểu hiện của sự đền ơn đáp nghĩa,
thế hiện truyền thống “yêu nước - nhớ nguồn”.
Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành đô thị hiện đại, văn minh, nhưng
vẫn lưu giữ trong nó quá khứ hào hùng là trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân Thành phố, hướng tới xây dựng thành phố có chất lượng sống tốt, văn
minh, hiện đại, nghĩa tình, xứng đáng là thành phố mang tên Chủ tịch Hồ Chí
Minh - Thành phố Anh hùng./.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Danh Tiên, Trần Thị Kim Ninh (2015), "Đảng lãnh đạo thực hiện
chính sách văn hóa - xã hội (1961-1965)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (4),
tr.70-74.
2.Trần Thị Kim Ninh (2015), Văn hóa là động lực của sự nghiệp đổi mới, NXB
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, tr.483-490.
3. Nguyễn Thị Hoài Hương, Trần Thị Kim Ninh (2017), "Công tác bảo tồn di
sản văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay", Tạp chí Khoa học
chính trị, (4), tr.60-66.
4. Trần Thị Kim Ninh (2017), "Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công
tác bảo tồn văn hóa đô thị (1998 - 2015)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (8),
tr.90-94.
5. Trần Thị Kim Ninh, Trần Thị Thúy Vân (2017), Giá trị của tư tưởng Đời sống
mới trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, tr.623-tr.633.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Trần Văn An (2012), Nghề truyền thống ở Hội An, NXB Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
2. Acnônđốp A.I (Chủ biên) (1976), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, NXB
Mátxcơva.
3. Đào Duy Anh (2014), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Thế giới, Hà Nội
4. Nguyễn Thị Kim Anh (2013), Di sản kiến trúc đô thị Sài Gòn thời cận đại,
Nam Bộ đất và người, NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Đặng Văn Bài, Trương Quốc Bình và Nguyễn Quốc Hùng (2002), Bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ban Liên lạc đồng hương thành phố Sài Gòn (1976), Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh, NXB Sài Gòn giải phóng, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Ban Quản lý di tích lịch sử văn hóa và danh làm thắng cảnh (2001), Di tích
lịch sử văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Một số cơ sở tín ngưỡng dân
gian, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Thành phố Hồ Chí
Minh hai mươi năm (1975 - 1995), NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Ban Tư tưởng Văn hóa Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Những tư
liệu cần biết về 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
10. Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng Lý luận, phê
bình văn học, nghệ thuật (2014), Kỷ yếu Hội thảo Bản sắc dân tộc trong
đời sống văn hóa, nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với quá trình hội
nhập quốc tế hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh.
153
11. Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Di tích lịch sử - văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Thành phố Hồ Chí
Minh (1998), Khảo cổ học tiền sơ sử Thành phố Hồ Chí Minh, NXB
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Võ Thanh Bằng (chủ biên) (2008), Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ
Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Chí Bền (2007), "Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện
nay", Báo Văn hóa.
15. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa
vật thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
16. Phan Xuân Biên (2004), Miền Đông Nam Bộ, con người và văn hóa, NXB
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Trương Quốc Bình (2014), Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt
Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
18. Nguyễn Thanh Bình (2002), Những quy định pháp luật về bảo vệ di sản văn
hóa, NXB Lao động, Hà Nội.
19. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 10/8/2012 về Phương
hướng nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020,
Hà Nội.
20. Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch (2007), Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể,
Hà Nội.
21. Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (2016), "Địa đạo Củ Chi - Điểm hẹn tìm
về lịch sử", tại trang http://Cinet.vn, [truy cập ngày 22-5-2017].
22. Nông Quốc Chấn, Tô Văn Đeng và Nông Viết Toại (1995), 35 năm giữ gìn
và phát huy vốn di sản văn hóa dân tộc, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
23. Trường Chinh (1975), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, NXB Sự thật,
Hà Nội.
154
24. Chính phủ (1998), Chương trình hành động số 1109/CP-VX thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII)
về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc", ngày 17/9/1998, Hà Nội.
25. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa - Lý thuyết và thực hành, NXB
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
26. Cổng thông tin điện tử Thành phố Hồ Chí Minh (2011), "Giao lưu văn hoá
tộc người ở đô thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh", tại trang
http://tphcm.chinhphu.vn, [truy cập ngày 27/10/2017].
27. Cổng thông tin điện tử (2017), "Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu
quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2015", tại trang http://chinhphu.vn,
[truy cập ngày 22-12-2017].
28. Cục Di sản văn hoá, Bộ Văn hoá Thông tin (2006), Một con đường tiếp cận
di sản văn hoá, tập 3, Hà Nội.
29. Cục Di sản văn hóa (2007), Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, tập 1, NXB
Thế giới, Hà Nội.
30. Cục Di sản văn hóa (2007), Di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam - Những
hiện vật truyền thống và đương đại, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
31. Lê Xuân Diệm, Nguyễn Thị Hậu và Nguyễn Thị Hoài Hương (2007), Khảo
cổ học ở Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa Sài Gòn, Thành phố
Hồ Chí Minh.
32. Hồ Sơn Diệp (1999), Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm hình thành
và phát triển, Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
33. Hồ Sơn Diệp, Nguyễn Văn Hiệp (Đồng chủ biên) (2014), Đình chùa lăng
miếu - Di sản văn hóa vật thể của người Việt tại Thành phố Hồ Chí
Minh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
34. Thành Duy (1996), Văn hóa trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
155
35. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Thành tựu của Đảng bộ Thành
phố Hồ Chí Minh, từ đại hội đến đại hội, Nxb Tổng hợp Thành phồ Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, lưu hành nội bộ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, lưu hành nội bộ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, lưu hành nội bộ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, lưu hành nội bộ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, lưu hành nội bộ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1970), Văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về văn
hóa, văn nghệ (từ 1943 đến 1968), NXB Sự thật, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Trần Bạch Đằng (1998), Văn hóa động lực phát triển kinh tế - xã hội, chuyên
đề "Văn hóa và phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh", NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
49. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ lục tỉnh, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
51. Nguyễn Quang Điển, Lê Hồng Liêm và Nguyễn Thế Nghĩa (1999), Bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Đoàn Thị Hồng Điệp (2014), “Con đường lập nghiệp của cha ông để có Sài
Gòn - Gia Định” (2014), tại trang https://nslide.com, [truy cập ngày
22/5/2017].
53. Đỗ Khắc Điệp (Biên soạn và dịch) (2007), Bước đầu tìm hiểu di sản Hán
nôm ở Bình Dương, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Phạm Văn Đồng (1995), Xây dựng nền văn hóa, văn nghệ mang tầm vóc dân
tộc ta, thời đại ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2013), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối
văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
56. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, Phủ Quốc khanh Đặc
trách văn hóa, tr.76
57. Diêm Thị Đường (1998), Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hoá
truyền thống Việt Nam, Viện Văn hóa, NXB Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
58. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng và Nguyễn Công Bình (Chủ biên) (1987),
Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 3, NXB Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
157
59. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1987), Địa chí văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh, tập 4, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh, tập 2, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
62. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh, tập 3, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
63. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh, tập 4, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
64. Nguyễn Hồng Hà (2004), "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh
toàn cầu hóa", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (6), tr.14-18.
65. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
66. Nguyễn Thị Hậu (2010), Xây dựng môi trường văn hóa đô thị Thành phố
Hồ Chí Minh theo hướng văn minh hiện đại, Đề tài nghiên cứu khoa
học, Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
67. Nguyễn Thị Hậu, Đề tài NAFOSTED (2016), Khảo cổ học đô thị và việc
bảo tồn di sản văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
68. Lý Tùng Hiếu (2012), Ngôn ngữ văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ, NXB
Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
69. Lý Tùng Hiếu (2013), "Tiểu vùng văn hóa Sài Gòn: Trái tim của vùng đất
Phương Nam", Tạp chí Khoa học văn hóa và Du lịch, (10).
158
70. Lê Như Hoa (1998), Bản lĩnh văn hóa Việt Nam - một hướng tiếp cận, NXB
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
71. Lê Như Hoa (2000), Quản lý văn hóa đô thị trong điều kiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
72. Lê Trung Hoa (1991), Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
73. Lê Trung Hoa (Chủ biên) (2003), Từ điển địa danh Sài Gòn - Thành phố Hồ
Chí Minh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
74. Nguyễn Trọng Hòa (2011), "Thực trạng công tác bảo tồn cảnh quan kiến trúc
đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Sài Gòn đầu tư và
xây dựng, (6).
75. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa
(2004), Văn hóa và phát triển ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
76. Hội đồng Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Địa chí văn hóa
Thành phố Hồ Chí Minh, tập IV: Tư tưởng và tín ngưỡng, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
77. Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Nam Bộ đất và
người, tập 3, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
78. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ
điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, Trung tâm biên soạn từ điển Bách
khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
79. Peter Howard (2010), Di sản: quản lý, diễn giải và bản sắc, Bản dịch của
Khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
80. Phạm Mai Hùng, Lê Thúy Hoàn (1998), "Thử nêu giải pháp góp phần bảo
vệ, sử dụng có hiệu quả di tích lịch sử - văn hóa trong bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (5).
159
81. Phạm Mai Hùng (2003), Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, NXB
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
82. Đoàn Thanh Hương, Lê Trung Khá (1997), Công tác khảo cổ Thành phố Hồ
Chí Minh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh
83. Đoàn Thanh Hương, Hồ Hữu Nhật (Chủ biên) (1998), Lược sử 300 năm Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1968-1998), NXB Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
84. Đinh Gia Khánh (1994), Lễ hội truyền thống trong đời sống xa hội hiện đại,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
85. Nguyễn Khắc Khánh (1996), "Giữ gìn bản sắc dân tộc - một vấn đề của xã
hội", Tạp chí Cộng sản, (8).
86. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
87. Phạm Văn Khánh (1998), "Một số suy nghĩ về phương thức lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực văn hóa", Tạp chí Lịch sử Đảng, (8).
88. Vũ Khiêu (1998), "Nội sinh và ngoại sinh trong giao lưu văn hóa ngày nay",
Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (2).
89. Vũ Khiêu (Chủ biên) (2011), Văn hiến Thăng long, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
90. Trương Khởi, Vũ Đoan (2013), "Vẻ đẹp Sài Gòn xưa và nay", tại trang
http://vietnamnet.vn, [truy cập ngày 22-12-2016].
91. Phan Huy Lê (1996), "Truyền thống và hiện tại - suy nghĩ và đề xuất", Tạp
chí Cộng sản, (8).
92. Trần Hồng Liên (1996), Phật giáo Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến 1975, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
93. Nguyễn Kim Loan (Chủ biên) (2012), Quản lý di sản văn hóa, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
94. Nguyễn Kim Loan (Chủ biên) (2014), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
95. Nguyễn Thanh Lợi (2015), Sài Gòn đất và người, NXB Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
160
96. Huỳnh Lứa (Chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
97. Hoàng Lương (2004), Luật tục với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
truyền thống một số dân tộc Tây Bắc Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
98. Phương Lựu (1984), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
99. Lê Hồng Lý (2010), Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch,
Giáo trình dành cho sinh viên đại học và cao đẳng các trường văn hóa -
nghệ thuật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
100. Lê Hồng Lý (2010), Tìm hiểu lễ hội ở Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận, NXB Văn
hóa, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (1997), Về công tác văn hóa văn nghệ, NXB Sự thật, Hà Nội.
103. Phạm Hữu Mý, Nguyễn Văn Đường (Chủ biên) (2007), Di tích lịch sử - văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ
Chí Minh.
104. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người văn hoá Việt Nam,
NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
105. Sơn Nam (1992), Đình miếu và lễ hội dân gian, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
106. Sơn Nam (2014), Đất Gia Định - Bến Nghé xưa và Người Sài Gòn, NXB
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
107. Nguyễn Thị Tuyết Ngân (2012), "Các bình diện của văn hóa" tại trang
http://www.vanhoahoc.edu.vn, [truy cập ngày 22-10-2017].
108. Quang Nghị, Lê Doãn Hợp và Đặng Văn Bài (2006), Một con đường tiếp cận
di sản văn hóa. NXB Thế giới, Hà Nội.
109. Nguyễn Thế Nghĩa, Lê Hồng Liêm (Đồng chủ biên) (2000), Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử, văn hóa, NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
110. Thích Bảo Nghiêm (2003), Hà Nội danh lam cổ tự, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
161
111. Hà Nguyễn (2013), Tiểu vùng văn hóa duyên hải Nam Trung Bộ, NXB
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
112. Nhiều tác giả (1997), Thành phố Hồ Chí Minh 20 năm (1975 - 1995) (1997),
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
113. Nhiều tác giả (1998), Góp phần tìm hiểu lịch sử - văn hóa 300 năm Sài Gòn -
Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
114. Nhiều tác giả (2012), Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, hành trình 100 năm
(1911- 2011), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh.
115. Lê Quang Ninh (1993), Chương trình nghiên cứu bảo tồn cảnh quan kiến
trúc đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Khoa học xã hội và
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
116. Lê Quang Ninh, Stephane Dovert (2004), Sài Gòn - ba thế kỷ phát triển và
xây dựng, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
117. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
118. Phùng Hữu Phú (Chủ biên) (2016), Phát triển văn hóa - sức mạnh nội sinh
của dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, NXB
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
119. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Di sản văn
hoá và văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Di sản văn
hoá và văn bản hướng dẫn thi hành, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Di sản văn
hóa, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
122. Quốc sử quán triều Nguyễn (2001), Đại Nam thực lục tiền biên, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
123. Nguyễn Thành Rum (2011), Hành trình di sản văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
124. Samuel Huntingtong (2005), Sự va chạm của các nền văn minh, NXB Lao
động, Hà Nội.
162
125. Dương Văn Sáu (2008), Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam,
Giáo trình dành cho sinh viên đại và cao đẳng ngành Du lịch, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
126. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Chủ biên) (2001), Cộng đồng làng xã Việt
Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Vương Hồng Sển (1994), Sài Gòn năm xưa, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
128. Sở Du lịch (2015), Báo cáo số 1232 /DL-VP ngày 10-12-2015 về tình hình
phát triển du lịch Thành phố giai đoạn 2011-2015 và phương hướng
trọng tâm thời gian tới, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh
129. Sở Du lịch (2015), Báo cáo số 1067/ BC-SDL, ngày 20-12-2015 về tình hình
phát triển du lịch Thành phố giai đoạn 2011 - 2015 và phương hướng,
một số nhiệm vụ trọng tâm cho giai đoạn tới, lưu tại Văn phòng Ủy ban
Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
130. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Chương trình hành
động của Đảng ủy - Ban Giám đốc sở Văn hóa - Thông tin thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, ngày 06-11-1998, lưu
tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
131. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (2000), "25 năm bảo tồn và
phát huy tác dụng di sản văn hóa vật thể trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh", Kỷ yếu Hội thảo, Thành phố Hồ Chí Minh.
132. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Quản lý di tích và
danh lam thắng cảnh (2003), Báo cáo tổng kết công tác tổng điều tra di
tích (1999 - 2002) ngày 17/01/2003, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh.
133. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Báo cáo công tác bảo
vệ và phát huy tác dụng di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2004 và phương hướng hoạt động năm 2005, ngày 9-
12-2005, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
163
134. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Báo cáo các hoạt
động văn hóa - thông tin Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001 -
2005, số 1427/BC-SVHTT, ngày 25-2-2006, lưu tại Văn phòng Ủy ban
Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
135. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Báo cáo tổng kết
hoạt động năm 2006, số 1553/BC-SVHTT, ngày 21-11-2006, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
136. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Báo cáo tổng kết
hoạt động năm 2007, số 1650/BC-SVHTT, ngày 02-12-2007, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
137. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo tổng kết
hoạt động năm 2008, số 1878/BC-SVHTT, ngày 19-12-2008, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
138. Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Báo cáo tổng kết
hoạt động năm 2009, số 1819/BC-SVHTT, ngày 20-10-2009, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
139. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Báo cáo
khoa học: Tổng điều tra văn hóa phi vật thể ở Thành phố Hồ Chí Minh
(giai đoạn 1), Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
140. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Báo cáo
tóm tình hình bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009, số 1945/BC-SVHTTDL,
ngày 15-11-2010, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh.
141. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Báo cáo
hoạt động năm 2010, số 1989/BC-SVHTTDL, ngày 15-11-2010, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
164
142. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Báo cáo
hoạt động năm 2011, số 1896/BC-SVHTTDL, ngày 05-12-2011, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
143. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Báo cáo
hoạt động năm 2012, số 2051/BC-SVHTTDL, ngày 25-10-2012, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
144. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Báo
cáo hoạt động thể thao, văn hóa, du lịch năm 2013 và phương
hướng năm 2014, số 2172/BC-SVHTTDL, ngày 25-12-2013, lưu tại
Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
145. Sở Văn hóa, Thể thao (2015), Báo cáo tổng kết hoạt động văn hóa thể thao
năm 2014 và phương hướng năm 2015, số 1091/BC-SVHTT, ngày 20-1-
2015, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
146. Sở Văn hóa, Thể thao (2015), Báo cáo kế hoạch hoạt động văn hóa thể thao
năm 2015 và phương hướng năm 2016, số 1520/BC-SVHTT, ngày 15-
12-2015, Thành phố Hồ Chí Minh.
147. Sở Văn hóa, Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh (2015), "Danh sách các di
tích lịch sử - văn hóa đã được xếp hạng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh đến tháng 6-2016", tại trang http://svhtt.hochiminhcity.gov.vn,
[truy cập ngày 22-2-2017].
148. Trung Sơn (2013), "Thành phố Hồ Chí Minh lập danh mục bảo tồn kiến trúc
đô thị", tại trang http://vnexpress.net, [truy cập ngày 22-5-2017].
149. Hà Văn Tấn (1994), "Lời đề dẫn", Tạp chí Khảo cổ học, (1), tr.1.
150. Nguyễn Hữu Thái (2012), Di sản văn hóa phi vật thể của người Thái, NXB
Lao động, Hà Nội.
151. Nguyễn Đình Thanh (Chủ biên) (2008), Di sản văn hóa bảo tồn và phát
triển, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
152. Nguyễn Đình Thanh (Chủ biên) (2011), Di sản văn hóa bảo tồn và phát
triển, chuyên đề kiến trúc, NXB Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
165
153. Tô Ngọc Thanh, Trần Quốc Vượng và Nguyễn Chí Bền (1997), Giữ gìn và
phát huy tài sản các dân tộc ở Đông Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
154. Thành phố Hồ Chí Minh (2012), "Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thành
phố Hồ Chí Minh: Hộ nghèo giảm, hộ khá - giàu tăng" tại trang,
http://voh.com.vn, [truy cập ngày 12-11-2017].
155. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Chương trình hành động của
Thành ủy thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 5 (Khóa VIII), số 19-CTHĐ/TU, ngày 24/10/1998, lưu tại Văn
phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
156. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1998), Kế hoạch số 30-KH/TU ngày 28-
10-1998 triển khai và quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 và Chương
trình hành động của Thành ủy, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố
Hồ Chí Minh.
157. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1999), Kế hoạch thực hiện chương trình
nâng cao kiến thức lãnh đạo và quản lý văn hóa, số 37-KH/TU, ngày
20-01-1999, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
158. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1999), Thông báo kết luận của Ban Thường
vụ Thành ủy về một số đề án nhằm cụ thể hóa nội dung Chương trình hành
động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, ngày
26-2-1999, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
159. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tiếp
tục xây dựng, phát triển văn hóa theo Kết luận Hội nghị Trung ương 10
(khóa IX), số 184-BC/TU, ngày 01/11/2004, lưu tại Văn phòng Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh.
160. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Báo cáo kết quả 15 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, số 160-BC/TU, ngày
12/7/2013, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
166
161. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, số 45-CTr/TU,
ngày 21-6-2015, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
162. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Chỉ thị số 07-CT/TU ngày 16-9-
2016 về nhiệm vụ phát triển ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
163. Thành phố Hồ Chí Minh (2016), "Bản đồ hành chính Thành phố Hồ Chí
Minh", tại trang http://cungcapbando.com, [truy cập ngày 20-10-2017].
164. Nguyễn Ngọc Thao, Lê Thế Loan và Ngô Đăng Lợi (2001), Một số vấn đề di
sản văn hóa của Hải Phòng, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.
165. Ngô Phương Thảo (2008), "Bảo vệ di sản, cuộc chiến từ những góc nhìn",
Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (289), tr.7-11.
166. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
167. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
168. Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
169. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
170. Nguyễn Thịnh (2012), Di sản văn hóa Việt Nam - bản sắc và những vấn đề
về quản lý, bảo tồn, NXB Xây dựng, Hà Nội.
171. Thủ tướng Chính phủ (2009), Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg) ngày 06-5-2009,
Hà Nội.
172. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định về phê duyệt điều chỉnh quy hoạch
chung trong xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025, Hà Nội.
167
173. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 2473-QĐ/TTg ngày 30-12-2011
phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
174. Thư viện pháp luật (1945), "Sắc lệnh của chủ tịch chính phủ lâm thời số 65
ngày 23/11/1945 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa",
tại trang https://thuvienphapluat.vn, [truy cập ngày 22-2-2017].
175. Nguyễn Danh Tiên (2013), Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa
trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
176. Lưu Trần Tiêu và các cộng sự (1996), "50 năm bảo tồn di sản văn hóa dân
tộc", Kỷ yếu Hội thảo khoa học thực tiễn kỷ niệm 50 năm Ngày Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bảo tồn di sản văn hóa dân tộc (23-11-1945 -
23-11-1995), Cục Bảo tồn Bảo tàng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
177. Lưu Trần Tiêu (2002), "Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Việt Nam", Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, tr.25-30.
178. Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Quốc Hùng và Nguyễn Hữu Toàn (2005), Một con
đường tiếp cận di sản văn hóa, NXB Thế giới, Hà Nội.
179. Tôn Nữ Quỳnh Trân (2010), Những giá trị văn hóa đô thị Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
180. Lưu Minh Trị (Chủ biên) (2002), Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam Thăng
Long Hà Nội, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
181. Lưu Minh Trị (Chủ biên) (2010), Hà Nội - Danh thắng và di tích, tập 2, Nxb
Hà Nội, Hà Nội.
182. Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội (2014), Khu trung tâm
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, di sản văn hoá thế giới, Nxb Hà
Nội, Hà Nội.
183. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng
Khoa học xã hội và Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh
(1998), "300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh", Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh.
168
184. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2002),
Bảo tồn và phát huy Di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
185. Nguyễn Đình Tư (1997), Đường phố nội thành Thành phố Hồ Chí Minh,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
186. UNESCO (2004), “Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể”, Thông
báo khoa học Viện văn hóa - Thông tin, (9).
187. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (1999), Thông báo số 46/TB-UB-
QLĐT ngày 17/5/1999 về việc bảo tồn cảnh quan kiến trúc Thành phố Hồ
Chí Minh, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
188. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (1999), Đề cương chương trình
"bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc" thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5, ngày 14-01-1999, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
189. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Chương trình Phát triển
du lịch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007 - 2010 và những năm
kế tiếp, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
190. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Quyết định số
06/2008/QĐ-UBND, ngày 24-01-2008 ban hành chương trình phát triển
du lịch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2007 - 2010 và những năm kế
tiếp, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
191. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Quyết định số 5360, ngày
25-11-2010 về việc thực hiện kiểm kê di tích lịch sử - văn hóa trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh, lưu tại Văn phòng ủy ban nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh.
192. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Ban Chỉ đạo phát triển du
lịch, Báo cáo 5 năm 2006 - 2010, phương hướng nhiệm vụ năm 2011
ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03-3-2011, lưu tại Văn
phòng ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
169
193. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Báo cáo số 1448/UBND,
ngày 19-8-2016 về tình hình phát triển du lịch Thành phố giai đoạn 2000
- 2015, lưu tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
194. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Báo cáo số 1488/UBND
ngày 19-8-2016 về nội dung Đề án “Định hướng phát triển du lịch Việt
Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”, lưu tại Văn phòng Ủy ban
Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
195. Ủy ban quốc gia về Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa Thông
tin và Thể thao (1992), Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Hà Nội.
196. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (1991), Thuyết minh
tổng hợp đồ án: Quy hoạch xây dựng đợt đầu và các chương trình đầu
tư trọng điểm 5 năm, giai đoạn 1991 - 1995, lưu tại Viện Nghiên cứu
phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
197. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (1997), Điều chỉnh quy
hoạch chung Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010 - 2020, Báo cáo
Thường trực Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, lưu tại Văn
phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
198. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Đô thị hóa ở Sài
Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn lịch sử, văn hóa, NXB Tổng
hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
199. Viện Văn hoá và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2000), Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
200. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hoá
dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
201. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở
nước ta hiện nay, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
202. Phạm Quang Vinh, Trần Hùng và Nguyễn Luận (2002), Đô thị cổ Hội An,
NXB Kim Đồng, Hà Nội.
203. Trần Quốc Vượng, Nguyễn Vinh Phúc và Lê Văn Lan (Đồng chủ biên),
(1994), Tìm hiểu di sản văn hóa dân gian Hà Nội, NXB Hà Nội, Hà Nội.
170
Tài liệu nước ngoài
204. Pierre Brocheux và Daniel Hémery (2009), Indochina, An Ambiguous
Colonization 1858-1954. Berkeley, CA: University of California Press.
205. Sully, F., (1969), South Vietnam’s Urban Revolution, News Week, Jan, (20).
206. Seitel, Peter, ed (2001), Safeguarding Traditionnal Cultures: A Global
Assessment of th 1989, UNESCO Recommendation on the Safeguarding
of Traditional Culture anh Folklore, Center for Floklife and Cultural
Heritage, Smithsonian Institution Press, Washington DC.
171
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐỊA ĐIỂM ĐÃ XẾP HẠNG DI TÍCH
(ĐẾN HẾT THÁNG 02 NĂM 2005)
TT Tên di tích Địa chỉ
Quyết định công
nhận hoặc xếp
hạng
Tổ chức, cá nhân là
chủ sở hữu hoặc
quản lý trực tiếp
I. DI TÍCH QUỐC GIA: 54
1. DI TÍCH LỊCH SỬ: 26
Quận 1
01 Dinh Thống Nhất 135 Nam Kỳ Khởi
Nghĩa, phường
Bến Thành
Số 77A/VHQĐ
ngày 25 tháng 6
năm 1976
Văn phòng Chính
phủ quản lý
02 Tòa Đại sứ quán Mỹ 4 Lê Duẩn.
phường Bến Nghé
Số 77A/VHQĐ
ngày 25 tháng 6
nă 1976
Nay là Tổng Lãnh
sự quán Hợp
chủng quốc Hoa
Kỳ tại Thành phố
Hồ Chí Minh
03 Nơi thành lập Kỳ bộ
Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí
Hội - năm 1928
Phòng 5 số 88 Lê
Lợi, phường Bến
Thành
Số 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1988
Sở hữu tư nhân -
trước năm 1975
04 Nơi thành lập An
Nam Cộng sản Đảng
năm 1929
Phòng 1 lầu 2 số 1
Nguyễn Trung
Trực phường Bến
Thành
Số 1288- VH/QĐ
ngày 16 tháng 11
năm 1988
Sở hữu tư nhân -
được bố trị cư ngụ
từ năm 1978
05 Trụ sở báo Dân
Chúng
43 Lê Thị Hồng
Gấm, phường
Nguyễn Thái Bình
Số 1288- VH/QĐ
ngày 16 tháng 11
năm 1988
Sở hữu tư nhân -
chuyển quyền sở
hữu vào năm 1995
172
06 Địa điểm lưu niệm
Chủ tịch Tôn Đức
Thắng
323 đường 12 - Xí
nghiệp Liên hiệp
Ba Sơn - Số 2 Tôn
Đức Thắng,
phường Bến Nghé
Số 1034-QĐ/BT
ngày 12 tháng 8
năm 1993
Xí nghiệp Liên
Hiệp Ba Sơn
Quận 3
07 Cơ sở Ban Tuyên
Huấn Xứ ủy Nam bộ
51/10/14 Cao
Thắng, phường 3
Số 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1988
Bà Trần Thị Ngọc
Sương
08 Cơ sở giấu vũ khí của
Biệt động Thành
đánh Dinh Độc Lập
287/70 Nguyễn
Đính Chiểu,
phường 5
Số 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1988
Ông Trần Văn
Bình
09 Sở Chủ huy tiền
phương Phân khu 6
trong chiến dịch Mậu
Thân 1968
7 Lý Chính
Thắng, phường 8
Số 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1988
Ông Ngô Toại
Quận 5
10 Khu trại giam bệnh
viện Chợ Quán - nơi
đồng chí Trần Phú hi
sinh
190 Bến Hàm Tử,
phường 1
Só 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1988
Trung tâm Văn
hóa quận 5
11 Nơi đồng chí Nguyễn
Tất Thành ở trước
khi ra đi tìm đường
cứu nước
Số 5 Châu Văn
Liêm, phường 14
Số 1288 VH/QĐ
ngày 16 tháng
năm 1988
Trung tâm Văn
hóa quận 5
Quận 6
12 Hầm bí mật in tài liệu
Ban Tuyên huấn
Hoa vận thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước
341/10 đường Gia
Phú, phường 1
Số 2009/1998 Q
Đ- BVHTT ngày
26 tháng 9 năm
1998
Ban Công tác
người Hoa
Quận 8
13 Bình Đình Đông Cù lao Bà Tàng,
Phường 7
Số 2890 -
VH/QĐ ngày 27
tháng 9 năm
1997
Ban Quí tế
173
Quận 9
14 Bót Dây Thép Đường Lê Văn
Việt - khu phố 2,
phường Tăng Nhơn
Phú A
Số 57- VH/QĐ
ngày 18 tháng 01
năm 1993
Ban chỉ Huy QS
quận 9, Viện
KSND quận 9,
Đội Thi hành án
quận 9, TAND
quận 9
15 Đình Phong Phú Đường đình Phong
Phú, khu phố 3,
phường Tăng Nhơn
Phú B
Số 57 - VH/QĐ
ngày 18 tháng 01
năm 1993
Ban Quí tế
Quận 10
16 Cơ sở in ấn của Hội
Ủng hộ Vệ quốc
đoàn
122/351 đường
Ngô Gia Tự,
phường 9
Số 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1998
Trung Tâm Văn
hóa quận 10
17 Hầm bí mật chứa vũ
khí thời kháng chiến
chống Mỹ
183/4 đường Ba
Tháng Hai, phường
11
Số 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1998
Đỗ Mạnh Hồng
Quận Gò Vấp
18 Tịnh xá Ngọc
Phương
498/1 Lê Quang
Định,phường 1
Số 2754/QĐ -
BT ngày 15
tháng 10 năm
1994
Thích nữ Ngoạt
Liên
Quận Phú Nhuận
19 Trụ sở Phái đoàn liên
lạc của Bộ Tổng tư
lệnh Quân đội Nhân
dân Việt Nam cạnh
Phân ban Quốc tế
giám sát và kiểm soát
đình chiến tại Sài
Gòn(1955-1958)
87A Trần Kế
Xương, phường 7
Số 1288 -
VH/QĐ ngày 16
tháng 11 năm
1988
Bộ Chỉ huy Quân
sự Thành phố Hồ
Chí Minh
174
Quận Tân Bình
20 Mộ Phan Châu Trinh Số 9 Phan Thúc
Duyện, phường 4
Số 3211 -
QĐ/BT ngày 12
tháng 12 năm
1994
Bà Lệ Thị Sáu
(Tự Sương)
21 Địa đạo Phú Thọ Hòa Đường Phú Thọ
Hòa, phường 18
Số 1460 -
QĐ/VH ngày 28
tháng 6 năm
1996
Trung tâm Văn
hóa quận Tân
Bình
Huyện Củ Chi
22 Khu địa đạo Củ Chi Xã Phú Mỹ Hưng Số 54/VHQĐ
ngày 29 tháng 4
năm 1979
Bộ Chỉ huy Quân
sự Thành phố Hồ
Chí Minh
23 Địa đạo Bến Đình Xã Nhuận Đức Số101/2004/QĐ-
BVHTT ngày 15
tháng 12 năm
2004
Bộ Chỉ huy Quân
sự Thành phố Hồ
Chí Minh
Huyện Cần Giờ
24 Căn cứ Rừng Sác Xã Long Hòa Số101/2004/QĐ-
BVHTT ngày 15
tháng 12 năm
2004
UBND xã Long
Hòa
Huyện Hóc Môn
25 Địa điểm Dinh Quận
Hóc Môn (Kỷ niệm
sự kiện Nam kỳ khởi
nghĩa)
Số 1 Lý Nam Đế,
thị trấn Hóc Môn
Số 2015 QĐ/BT
ngày 16 tháng 11
năm 1993
Trung tâm Văn
hóa huyện Hóc
Môn
26 Ngã Ba Giồng Xã Xuân Thới
Thượng
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT ngày 30
tháng 12 năm
2002
Trung tâm Văn
hóa huyện Hóc
Môn
2. DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT: 26
Quận 1
01 Điện Ngọc Hoàng 73 Mai Thị Lựu,
phường Đa Kao
Số 2745/QĐ-BT
ngày 15 tháng 10
năm 1998
Ban Quản trị
175
02 Miến Thiên Hậu
(Quảng Triệu hội
quán)
122 Bến Chương
Dương, phường
Nguyễn Thái
Bình
Số 722/QĐ-
BVHTT ngày 25
tháng 4 năm 1998
Ban Quản trị
Quận 5
03 Hội quán Nghĩa
Nhuận
27 Phan Văn
Khỏe, phường 13
Số 43 -VH/QĐ
ngày 27 tháng 01
năm 1993
Ban Quản trị
04 Hội quán Tuệ Thành
(Chùa Bà)
710 Nguyễn Trãi,
phường 11
Số 43 -VH/QĐ
ngày 27 tháng 01
năm 1993
Ban Quản trị
05 Hội quán Nghĩa An
(Miếu Quan Đế hay
Chùa Ông)
676 Nguyễn Trãi,
phường 11
Số 43 -VH/QĐ
ngày 27 tháng 01
năm 1993
Ban Quản trị
06 Đình Minh Hương
Gia Thạnh
380 Trần Hưng
Đạo, phường 11
Số 43 -VH/QĐ
ngày 27 tháng 01
năm 1993
Ban Quản trị
07 Miếu Nhị Phủ (Chùa
Ông Bổn)
264 hải Thương
Lãn Ông, phường
16
Số 722/QĐ-
BVHTT ngày 31
tháng 8 năm 1998
Ban Quản trị
08 Nhà thờ tổ thợ bạc
(Lệ Châu hội quán)
586 Trần Hưng
Đạo, phương 14
Số 1811/1998/QĐ-
BVHTT ngày 31
tháng 8 năm 1998
Ban Quản trị
09 Quỳnh Phủ Hội quán Số 276 Trần
Hưng Đạo B,
phường 11
Số 52/2001/QĐ-
BVHTT ngày 28
tháng 12 năm 2001
Ban Quản trị
10 Hà Chương Hội quán Số 802 Nguyễn
Trãi, phường 14
Số 52/2001/QĐ-
BVHTT ngày 28
tháng 12 năm 2001
Ban Quản trị
11 Hội quán Ôn Lăng 12 Lão Tử,
phường 11
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT ngày 30
tháng 12 năm 2002
Ban Quản trị
Quận 9
12 Chúa Hội Sơn 1A1 Nguyễn
Xiển, Phường
Long Bình
Số 43 -VH/QĐ
ngày 07 tháng 01
năm 1993
Hòa thượng Thích
thiện Hảo
176
13 Chùa Phước Tường 13/32 Lã Xuân Oai, Phường Tăng Nhơn Phú A
Số 43 - VH/QĐ ngày 07 tháng 01 năm 1993
Đại đức Thích Nhật An
Quận 10
14 Đình Chí Hòa 475 Cách Mạng Tháng 8, phường 13
Số 1460 - QĐ/VH ngày 28 tháng 6 năm 1996
Ban Quí tế
Quận 11
15 Chùa Phụng Sơn 1480 đường Ba Tháng Hai, phường 2
Số 1228 - VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1998
Hòa thược Thích Trí Định
16 Chùa Giác Viên 161/35/20 Lạc Long Quân, phường 3
Số 43 - VH/QĐ ngày 07 tháng 01 năm 1993
Hòa thượng Thích Huệ Viên
Quận Bình Thạnh
17 Lăng Lê Văn Duyệt Số 1 Vũ Tùng, phường 1
Số 228-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988
Trung tâm Văn Hóa quận Bình Thạnh
18 Đình Bình Hòa 15/77 Chu Văn An, phường 12
Số 43- VH/QĐ ngày 07 tháng 01 năm 1993
Ban Quí tế
Quận Gò Vấp
19 Đình Thông Tây Hội 107/1 Nguyễn Văn Lượng, phường 11
Số 2009/1998/QĐ - BVHTT ngày 26 tháng 9 năm 1998
Ban Quí tế
20 Chùa sắc tứ Trường Thọ
53/524 Phan Văn Trị, phường 7
Số 06/2000/QĐ - BVHTT ngày 13 tháng 4 năm 2000
Hòa thượng Thích Tâm Giác
Quận Phú Nhuận
21 Lăng Võ Di Nguy 19 Cô Giang, phường 2
Số 43 - VH/QĐ ngày 07 tháng 01 năm 1993
Ban Quí tế
22 Đình Phú Nhuận 18 Mai văn Ngọc, phường 10
Số 3774 - QĐ/VHTT ngày 29 tháng 01 năm 1997
Ban Quí tế
23 Lăng Trương Tấn Bửu
41 Nguyễn Thị Huỳnh, phường 8
Số 101/2004/QĐ - BVHTT ngày 15 tháng 12 năm 2004
Bà Võ Thị Tám
177
Quận Tân Bình
24 Chùa Giác Lâm 118 Lạc Long
Quân, phường 10
Số 1288-VH/QĐ
ngày 16 tháng 11
năm 1988
Hòa thương Thích
Huệ Trung
Quận Thủ Đức
25 Đình Trường Thọ Tổ 5, khu phố 8,
phường Trường
Thọ
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT ngày 30
tháng 12 năm 2002
Ban Quí tế
26 Đình Xuân Hiệp Phường Linh
Xuân
Số 101/2004/QĐ-
BVHTT ngày 15
tháng 12 năm 2004
Ban Quí tế
3. DI TÍCH KHẢO CỔ: 02
Quận 8
01 Lò gốm cổ Hưng Lợi Phường 16 Số 722/QĐ-
BVHTT ngày 25
tháng 4 năm 1998
UBND phường
16, Phòng VHTT-
TDTT quận 8
Huyện Cần Giờ
02 Giồng Cá Vồ Xã Long Hòa Số 2000/QĐ-
BVHTT ngày 13
tháng 4 năm 2000
Trung tâm Văn
hóa huyện Cần
Giờ
II. DI TÍCH CẤP THÀNH PHỐ: 13
01 Đình Xuân Hòa Số 129 Lý Chính
Thắng, phường 7,
quận 3
Số 137/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
Ban Quí tế
02 Láng Le - Bàu Cò Ấp 1, xã Tân
Nhật, huyện Bình
Chánh
Số 138/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
Trung tâm Văn hóa
huyện Bình Chánh
03 14 - Cách Mạng
Tháng Tám, phường
Bến Thành, quận 1
(Trụ sở Liên đoàn Lao
động TP Hồ Chí
Minh)
14 - Cách Mạng
Tháng Tám,
phường Bến
Thành, quận 1
Số 138/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
Liên đoàn Lao
động Thành phố
Hồ Chí Minh
04 Nhà cổ dân dụng
truyền thống của ông
Vương Hồng Sển
9/1 Nguyễn Thiện
Thuận, phường
14, quận Bình
Thạnh
Số 140/2003/QĐ-
UB ngày 05 tháng 8
năm 2003
178
05 Đình Tân Túc Âp 2, xã Tân Túc,
huyện Bình Chánh
Số 325/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
Ban Quí tế
06 Đình Tân Thới Tứ Ấp Tân Thới Tứ,
xã Thới Tam
Thôn, huyện Hóc
Môn
Số 326/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
07 Đền thờ ông Phan
Công Hớn
Ấp Tây Bắc Lân,
xã Bà Điểm,
huyện Hóc Môn
Số 327/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
08 Đình Thần Linh Tây Khu phố 2,
phường Linh Tây,
quận Thủ Đức
Số 328/2003/QĐ-
UB ngày 31 tháng
12 năm 2003
09 Đình An Nhơn 72/999 Lê Đức
Thọ, phường 17,
quận Gò Vấp
Số 20/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
Ban Quí tế
10 Đình Bình Trường Ấp 1, xã Bình
Chánh, huyện
Bình Chánh
Số 21/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
Ban Quí tế
11
Kho bom Phú Thọ Công viên Tân
Phước, đường
Nguyễn Thị Nhỏ,
phường 9, quận
Tân Bình
Số 22/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
12 Đình Tân Thới Nhì 2 Lý Nam Đế, thị
trấn Hóc Môn,
huyện Hóc Môn
Số 23/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
13 Chùa Thiên Phước 37/217 Khu phố 8,
phường Trường
Thọ, quận Thủ
Đức
Số 24/2005/QĐ-UB
ngày 01 tháng 02
năm 2005
Nguồn: Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh,
Báo cáo các hoạt động văn hóa - thông tin Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2001 - 2005, số 1427/BC-SVHTT, ngày 25-2-2006 [134]
179
Phụ lục 2
SỐ LIỆU 15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5
KHÓA VIII LĨNH VỰC DI SẢN (1998 - 2013)
TT Chỉ tiêu Năm 1998
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
Năm 2012
1 Hoạt động Bảo tàng
- Số Bảo tàng công lập 11 11 11 11 11
- Số Bảo tàng công lập thuộc Sở
07 07 07 07 07
- Số cuộc trưng bày, triển lãm 35 59 67 163 214
- Số lượt người tham quan bảo tàng (công lập)
630.372 1.095.087 1.684.366 2.335.170 2.787.746
- Số hiện vật được sưu tập 5.753 4.771 4.043 4.366 15.615
- Tổng số hiện vật 184.044 496.360
- Số bảo tàng tư nhân 01
2 Hoạt động quản lý di tích (tính đến thời điểm báo cáo)
- Tổng số di tích được công nhận 45 45 76 125 144
+ Cấp quốc gia 45 54 54 58
+ Cấp Thành phố 22 71 86
Phân loại theo tính chất
+ Số di tích kiến trúc nghệ thuật 20 38 68 80
+ Số di tích lịch sử 23 36 54 61
+ Số di tích khảo cổ 02 02 02 02
- Số di tích đã tu bổ, tôn tạo 36
- Số lượng văn hóa phi vật thể truyền thống được bảo tồn
4
Nguồn: Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh(2013), Báo cáo kết quả 15 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, số 160-BC/TU, ngày 12/7/2013 [160]
180
Phụ lục 3
DANH SÁCH
CÁC CÔNG TRÌNH, ĐỊA ĐIỂM ĐÃ ĐƯỢC QUYẾT ĐỊNH XẾP HẠNG DI
TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (ĐẾN THÁNG 6/2016)
167 di tích đã quyết định xếp hạng:
- 02 di tích quốc gia đặc biệt (di tích lịch sử);
- 55 di tích quốc gia (02 - khảo cổ học, 30 - kiến trúc nghệ thuật, 23 - lịch sử);
- 110 di tích cấp thành phố (65 - kiến trúc nghệ thuật, 45 - lịch sử).
TT Tên di tích Địa chỉ,
điện thoại/fax, e-mail
Quyết định
xếp hạng
Tổ chức, cá nhân
là chủ sở hữu
hoặc trực tiếp
quản lý
1. DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT: 02
1 Di tích lịch sử Dinh
Độc Lập - Nơi ghi
dấu thắng lợi hoàn
toàn cuộc kháng
chiến chống Mỹ
cứu nước, giải
phóng miền Nam,
thống nhất đất
nước.
135 Nam Kỳ Khởi
Nghĩa Phường Bến
Thành.
Số 1272/QĐ-TTg
12/08/2009
(Quyết định đặc
cách: Quyết định
số 77A/VHQĐ
25/6/1976).
Cục Hành chính
quản trị II - Văn
phòng Chính phủ
2 Di tích lịch sử Địa
đạo Củ Chi
Xã Phú Mỹ Hưng, xã
Phạm Văn Cội, xã
Nhuận Đức, huyện
Củ Chi
Số 2367/QĐ-TTg
ngày 23/12/2015
Khu di tích lịch sử
địa đạo Củ Chi
2. DI TÍCH QUỐC GIA: 55
2.1. DI TÍCH KHẢO CỔ HỌC: 02
HUYỆN CẦN GIỜ
3 Giồng Cá Vồ Xã Long Hòa Số 2000/QĐ -
BVHTT
13/4/2000
UBND huyện,
Trung tâm Văn hoá
huyện Cần Giờ
181
QUẬN 8
4 Lò gốm cổ Hưng
Lợi
Phường 16 Số 722/QĐ-
BVHTT
25/4/1998
UBND phường 16,
Phòng VH&TT
quận 8
2.2. DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT: 30
QUẬN 1
5 Điện Ngọc Hoàng 73 Mai Thị
Lựu Phường Đa
Kao
Số 2754/QĐ -
BT 15/10/1994
Đại đức Thích Minh
Thông
6 Miếu Thiên Hậu
(Quảng Triệu hội
quán)
122 Bến Chương
Dương Phường
Nguyễn Thái Bình
Số 722 /QĐ -
BVHTT
25/4/1998
Ban Quản trị
7 Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí
Minh
131 Nam Kỳ Khởi
Nghĩa, Phường Bến
Nghé
Số 1208/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí
Minh
8 Bảo tàng Lịch sử
Thành phố Hồ Chí
Minh
02 Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phường Bến
Nghé
Số 1207/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Bảo tàng Lịch sử
Thành phố Hồ Chí
Minh
9 Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh
65 Lý Tự Trọng,
Phường Bến Nghé
Số 1206/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Bảo tàng Thành phố
Hồ Chí Minh
10 Nhà hát Thành phố
Hồ Chí Minh
07 Công Trường Lam
Sơn, Phường Bến
Nghé
Số 1209/QĐ-
BVHTTDL
Ngày 29/3/2012
Trung tâm Tổ chức
Biểu diễn và Điện
ảnh Thành phố
QUẬN 10
11 Đình Chí Hoà 475 Cách Mạng
Tháng 8 Phường 13
Số 1460 -
QĐ/VH
28/6/1996
Ban Quản lý di tích
đình Chí Hòa (Thành
lập theo quyết định
số 1407/QĐ-UBND
ngày 21/1/2011 của
UBND quận 10).
182
QUẬN 11
12 Chùa Giác Viên 161/35/20 Lạc Long
Quân Phường 2
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản lý di tích
chùa Giác Viên và
Phụng Sơn tự (theo
Quyết định 926/QĐ-
UBND-NV ngày
21/9/2012 của
UBND Quận 11).
13 Chùa Phụng Sơn 1408 đường Ba
Tháng Hai Phường 3
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Ban Quản lý di tích
chùa Giác Viên và
Phụng Sơn tự
QUẬN 5
14 Đình Minh Hương
Gia Thạnh
380 Trần Hưng
Đạo Phường 11
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
15 Hà Chương Hội
quán
802 Nguyễn
Trãi Phường 14
Số 52/2001/QĐ-
BVHTT
28/12/2001
Ban Quản trị
16 Hội quán Nghĩa
An (Miếu Quan Đế
hay Chùa Ông)
676 Nguyễn
Trãi Phường 11
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
17 Hội quán Nghĩa
Nhuận
27 Phan Văn
Khoẻ Phường 13
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
18 Hội quán Ôn Lăng 12 Lão Tử Phường
11
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT
30/12/2002
Ban Quản trị
19 Hội quán Tuệ
Thành (Chùa Bà)
710 Nguyễn
Trãi Phường 11
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản trị
20 Miếu Nhị Phủ
(Chùa Ông Bổn)
264 Hải Thượng Lãn
Ông Phường 16
Số 722 /QĐ -
BVHTT
25/4/1998
Ban Quản tri
21 Nhà thờ tổ thợ bạc
(Lệ Châu hội quán)
586 Trần Hưng
Đạo Phường 14
Số
1811/1998/QĐ -
BVHTT
31/8/1998
Ban Quản trị
22 Quỳnh Phủ Hội
quán
276 Trần Hưng Đạo
Phường 14
Số 52/2001/QĐ-
BVHTT
28/12/2001
Ban Quản trị
183
QUẬN 9
23 Chùa Hội Sơn 1A1 Nguyễn
Xiển Phường Long
Bình
Số 43-VH/QĐ
7/1/1993
Thượng tọa Thích
Thiện Hảo
24 Chùa Phước
Tường
13/32 Lã Xuân
Oai, Phường Tăng
Nhơn Phú A
Số 43-VH/QĐ
7/1/1993
Đại đức Thích Nhật
Ấn
QUẬN BÌNH THẠNH
25 Đình Bình Hòa 15/77 Chu Văn
An Phường 13
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 2618/QĐ-UBND
ngày 13/4/2010 của
UBND Quận Bình
Thạnh).
26 Lăng Lê Văn
Duyệt
1 Vũ Tùng Phường
13
ĐT: 38412517 -
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Ban quản lý di tích
Lăng Lê Văn Duyệt
(thành lập theo
Quyết định số
344/QĐ-UBND ngày
10/1/2011 của
UBND quận Bình
Thạnh)
QUẬN GÒ VẤP
27 Chùa sắc tứ
Trường Thọ
53/524 Phan Văn Trị
Phường 7
Số 06/2000/QĐ-
BVHTT
13/4/2000
Hòa thượng Thích
Tâm Giác
28 Đình Thông Tây
Hội
107/1 Nguyễn Văn
Lượng Phường 11
Số
2009/1998/QĐ-
BVHTT
26/9/1998
Ban Quí tế
QUẬN PHÚ NHUẬN
29 Đình Phú Nhuận 18 Mai Văn
Ngọc Phường 10
Số 3744 -
QĐ/VHTT
29/1/1997
Ban Quí tế
184
30 Lăng Trương Tấn
Bửu
41 Nguyễn Thị
Huỳnh Phường 8
Số
101/2004/QĐ-
BVHTT
15/12/2004
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 523/QĐ-UBND
ngày 16/6/2006 của
UBND Quận Phú
Nhuận).
31 Lăng Võ Di Nguy 19 Cô
Giang Phường 2
Số 43 - VH/QĐ
7/1/1993
Ban Quí tế
QUẬN TÂN BÌNH
32 Chùa Giác Lâm 118 Lạc Long
Quân Phường 10
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Đại đức Thích Từ
Tánh
QUẬN THỦ ĐỨC
33 Đình Trường Thọ Tổ 5 Phường
Trường Thọ
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT
30/12/2002
Ban Quý tế
34 Đình Xuân Hiệp Phường Linh Xuân Số
101/2004/QĐ-
BVHTT
15/12/2004
Ban Quý tế
2.3. DI TÍCH LỊCH SỬ: 23
HUYỆN CẦN GIỜ
35 Căn cứ Rừng Sác Xã Long Hòa Số
101/2004/QĐ-
BVHTT
15/12/2004
Khu di tích lịch sử
địa đạo Củ Chi (nhận
bàn giao quản lý từ
Công ty Du lịch Sinh
thái Cần Giờ, từ
tháng 12/2012).
HUYỆN HÓC MÔN
36 Dinh Quận Hóc
Môn
1 Lý Nam Đế Thị
trấn Hóc Môn
Số 2015 -
QĐ/BT
16/11/1993
Trung tâm Văn hoá
huyện Hóc Môn
185
37 Ngã Ba Giồng Xã Xuân Thới
Thượng
Số 39/2002/QĐ-
BVHTT
30/12/2002
Ban Quản lý khu
tưởng niệm Liệt sĩ
Ngã Ba Giồng (trực
thuộc UBND huyện
Hóc Môn), thành lập
theo QĐ của UBND
TP. Hồ Chí Minh.
QUẬN 1
38 Địa điểm lưu niệm
Chủ tịch Tôn Đức
Thắng tại khu vực
Ba Son, gồm: Ụ tàu
nhỏ và triền nề
Phường Bến Nghé,
Quận 1
Quyết định về
việc điều chỉnh
tên gọi và khoanh
vùng bảo vệ di
tích quốc gia, số
1269/QĐ-
BVHTTDL, ngày
30/3/2016 của Bộ
Văn hóa, Thể
thao và Du lịch.
(Quyết định công
nhận di tích quốc
gia số 1034 -
VHQĐ, ngày
12/8/1993 của Bộ
Văn hóa:
Địa điểm lưu
niệm Chủ tịch
Tôn Đức Thắng
Số 323 đường 12
- Xí nghiệp Liên
hiệp Ba
Son Phường Bến
Nghé)
Tổng Công ty Ba
Son
39 Nơi thành lập An
Nam Cộng sản
Đảng năm 1929
phòng 1 lầu 2 số
1 Nguyễn Trung
Trực Phường Bến
Thành
Số 1288 -
VHQĐ
16/11/1988
Sở hữu tư nhân
186
40 Nơi thành lập Kỳ
bộ Việt Nam Thanh
niên đồng chí Hội
phòng 5 số 88 lê
lợi Phường Bến
Thành
Số 1288 -
VHQĐ
16/11/1988
Sở hữu tư nhân
41 Tòa đại sứ quán
Mỹ
04 Lê Duẩn Phường
Bến Nghé
Số 77A/VHQĐ
25/6/1976
Nay là Tổng Lãnh sự
quán Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ tai Tp.
Hồ Chí Minh
42 Trụ sở báo Dân
Chúng
Số 43 đường Lê Thị
Hồng Gấm Phường
Nguyễn Thái Bình
Số 1288 - VHQĐ
16/11/1988
Sở hữu tư nhân
QUẬN 10
43 Cơ sở in ấn của
Hội Ủng hộ Vệ
quốc đoàn
122/351 Ngô Gia
Tự Phường 9
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hoá
quận 10
44 Hầm bí mật chứa
vũ khí thời kháng
chiến chống Mỹ
183/4 Ba Tháng
Hai Phường 11
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Gia đình ông Đỗ
Mạnh Hồng
QUẬN 3
45 Cơ sở Ban Tuyên
huấn Xứ ủy Nam
Bộ
51/10/14 Cao
Thắng Phường 3
số 1288 -
VH/QD
16/11/1988
Ủy ban Nhân dân
quận 3 (được giao
trách nhiệm trực tiếp
quản lý theo văn bản
số 2037/UBND-VX
ngày 11/5/2009 của
UBND Thành phố)
46 Cơ sở giấu vũ khí
của Biệt động
Thành đánh dinh
Độc Lập
287/70 Nguyễn Đình
Chiểu Phường 5
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hóa
Quận 3
47 Sở Chỉ huy tiền
phương Phân khu 6
trong chiến dịch
Mậu Thân 1968
7 Lý Chính
Thắng Phường 7
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Gia đình ông Ngô
Toại
187
QUẬN 5
48 Khu trại giam bệnh
viện Chợ Quán -
nơi đồng chí Trần
Phú hy sinh
190 Bến Hàm
Tử Phường 1
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hoá
Quận 5
49 Nơi đồng chí
Nguyễn Tất Thành
ở trước khi ra đi tìm
đường cứu nước
5 Châu Văn
Liêm Phường 14
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Trung tâm Văn hoá
Quận 5
QUẬN 6
50 Hầm bí mật in tài
liệu Ban Tuyên
huấn Hoa vận thời
kỳ chống Mỹ cứu
nước
341/10 Gia
Phú Phường 1
Số
2009/1998/QĐ -
BVHTT
26/9/1998
Ban Dân tộc Thành
phố
QUẬN 8
51 Đình Bình Đông Cù lao Bà
Tàng Phường 7
Số 2890 -
VH/QĐ
27/9/1997
Ban Quí tế
QUẬN 9
52 Bót Dây Thép Đường Lê Văn
Việt, Phường Tăng
Nhơn Phú A
Số 57 - VH/QĐ
18/1/1993
Phòng Văn hóa và
Thông tin Quận 9
53 Đình Phong Phú Đường đình Phong
Phú, khu phố
3, Phường Tăng
Nhơn Phú B
Số 57 - VH/QĐ
18/1/1993
Ban Quí tế
QUẬN GÒ VẤP
54 Tịnh xá Ngọc
Phương
498/1 Lê Quang
Định Phường 1
Số 2754/QĐ -
BT 15/10/1994
Thích nữ Ngoạt Liên
188
QUẬN PHÚ NHUẬN
55 Trụ sở Phái đoàn
liên lạc của Bộ
Tổng tư lệnh Quân
đội Nhân dân Việt
Nam cạnh Phân ban
Quốc tế giám sát và
kiểm soát đình
chiến tại Sài Gòn
(1955-1958)
87 A Trần Kế
Xương Phường 7
Số 1288 -
VH/QĐ
16/11/1988
Khu di tích lịch sử
địa đạo Củ Chi
QUẬN TÂN BÌNH
56 Mộ Phan Châu
Trinh
9 Phan Thúc
Duyện Phường 4
Số 3211 -
QĐ/BT
12/12/1994
Bà Lê Thị Sáu (Tư
Sương)
QUẬN TÂN PHÚ
57 Địa đạo Phú Thọ
Hòa
Đường Phú Thọ
Hòa Phường 1
Số 1460 -
QĐ/VH
28/6/1996
Trung tâm Văn hoá
Quận Tân Phú
3. DI TÍCH CẤP THÀNH PHỐ: 110
3.1. DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT: 65
HUYỆN BÌNH CHÁNH
58 Đình Bình Trường Ấp 1, Xã Bình
Chánh
Số 21/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 1695/QĐ-UBND
ngày 22/3/2006 của
UBND Huyện Bình
Chánh)
59 Đình Phú Lạc số E7/717 ấp 5, xã
Phong Phú
Số 3267/QĐ-
UBND
20/8/2007
Ban Quí tế
60 Nhà cổ dân dụng,
Thành phố Hồ Chí
Minh
số 107A/4 ấp 1, xã
An Phú Tây, huyện
Bình Chánh
số 1520/QĐ-
UBND
28/3/2014
189
HUYỆN CỦ CHI
61 Chùa Linh Sơn ấp Phú Lợi Xã Phú
Hòa Đông
4347/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Trị sự
62 Đình Xóm Huế Xã Tân An Hội Quyết định số
5511/QĐ-UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
HUYỆN CẦN GIỜ
63 Đình Cần Thạnh Lê Văn Thương Thị
trấn Cần Thạnh
Số 4837/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quí tế
64 Lăng Ông Thủy
Tướng
Khu phố Hưng
Thạnh, thị trấn Cần
Thạnh
ĐT: 38740283;
0909320909
Số 4966/QĐ-
UBND
27/09/2012
Hội Vạn Lạch
HUYỆN HÓC MÔN
65 Đình Tân Thới Nhì 2 Lý Nam Đế Thị
trấn Hóc Môn
Số 23/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Quí tế
66 Đình Tân Thới Tứ Ấp Tân Thới Tứ Xã
Thới Tam Thôn
Số
326/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Ban Quí tế
67 Đình Tân Thới
Nhứt
Đường Phan Văn
Hớn, xã Bà Điểm
Số 1521/QĐ-
UBND
28/3/2014
Ban Quí tế
HUYỆN NHÀ BÈ
68 Đình Phú Xuân Đường Huỳnh Tấn
Phát, tổ 16, khu phố
5, thị trấn Nhà Bè
Số 2232/QĐ-
UBND
02/5/2012
QUẬN 1
69 Đình Nam Chơn 29 Trần Quang Khải
Phường Tân Định,
Quận 1
Số 4841/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quản trị
190
70 Đình Nhơn Hòa 27-29 Cô
Giang Phường Cầu
Ông Lãnh, Quận 1
4346/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Quí tế
71 Khách sạn
Continental
132 - 134 đường
Đồng Khởi, phường
Bến Nghé, Quận 1
2210/QĐ-UBND
28/04/2012
Tổng công ty Du lịch
Sài Gòn TNHH Một
thành viên
(Saigontourist)
72 Bảo tàng Mỹ thuật
Thành phố Hồ Chí
Minh
97 - 97A đường Phó
Đức Chính và 54
đường Nguyễn Thái
Bình, phường
Nguyễn Thái Bình,
Quận 1
2212/QĐ-UBND
28/04/2012
Bảo tàng Mỹ thuật
Thành phố Hồ Chí
Minh
73 Cầu Mống Đường Võ Văn Kiệt,
Phường Nguyễn Thái
Bình, Quận 1 và
đường Bến Vân Đồn,
Phường 12, Quận 4
Số 1518/QĐ-
UBND
28/3/2014
Khu Quản lý giao
thông đô thị số 1
74 Mộ cổ họ Lâm Số 55C đường
Nguyễn Thị Minh
Khai, phường Bến
Thành
Số 1760/QĐ-
UBND
10/4/2014
75 Đền thờ Hùng
Vương
Số 02 đường Nguyễn
Bỉnh Khiêm, phường
Bến Nghé, Quận 1
Số 3083/QĐ-
UBND
25/6/2015
Bảo tàng Lịch sử -
Thành phố Hồ Chí
Minh
76 Bệnh viện Nhi đồng
2
Số 14 đường Lý Tự
Trọng, phường Bến
Nghé, Quận 1
Số 2438/QĐ-
UBND ngày
16/5/2016
QUẬN 3
77 Đình Xuân Hòa 129 Lý Chính
Thắng Phường 7
Số
137/2003/QĐ-UB
5/8/2003
Ban Quí tế
78 Miếu Thánh Mẫu 284 Nguyễn thị
Minh Khai Phường
5
Số 4836/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quản trị
191
79 Đình Phú Thạnh 199 Cách Mạng Tháng
Tám Phường 4
1768/QĐ-UBND
27/04/2009
Ban Quí tế
80 Trường THPT
Nguyễn Thị Minh
Khai
275 đường Điện Biên
Phủ, phường 7
2211/QĐ-UBND
28/04/2012
Trường THPT
Nguyễn Thị Minh
Khai
81 Thủy Đài số 01 Công trường
Quốc tế, Phường 6
Số 1519/QĐ-
UBND
82 Viện Pasteur Số 167 đường
Pasteur, Phường 8,
Quận 3
Số 3087/QĐ-
UBND
25/5/2015
83 Trường THPT
Marie Curie
Số 159 đường Nam
Kỳ Khởi Nghĩa,
Phường 7, Quận 3
Số 3088/QĐ-
UBND
25/5/2015
84 Trường Trung học
Lê Quý Đôn
Số 110 đường
Nguyễn Thị Minh
Khai, Phường 6,
Quận 3
Số 2439/QĐ-
UBND ngày
16/5/2016
QUẬN 4
85 Đình Khánh Hội 71-73 Nguyễn Tất
Thành Phường 13
Số 4842/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quí tế
86 Đình Vĩnh Hội 240 Bến Vân
Đồn Phường 5
Số
118/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban Quí tế
87 Bảo tàng Hồ Chí
minh - Chi nhánh
Thành phố Hồ Chí
Minh
1 đường Nguyễn Tất
Thành, Phường 12
2671/QĐ-UBND
31/5/2011
Bảo tàng Hồ Chí
minh - Chi nhánh
Thành phố Hồ Chí
Minh
88 Nhà cổ đô thị 236 Bến Vân
Đồn Phường 5
Số 3949/QĐ-
UBND
18/8/2011
Trung tâm Văn hóa
Quận 4
192
QUẬN 5
89 Hội quán Tam Sơn Số 118 đường Triệu
Quang Phục, Phường
11, Quận 5
Số 3084/QĐ-
UBND
25/5/2015
90 Trường THPT
chuyên Lê Hồng
Phong
Số 235 đường
Nguyễn Văn Cừ,
Phường 4, Quận 5
Số 3089/QĐ-
UBND
25/5/2015
91 Trường THCS
Hồng Bàng
Số 132 đường Hồng
Bàng, Phường 12,
Quận 5
Số 3090/QĐ-
UBND
25/5/2015
QUẬN 6
92 Đình Bình Tiên 122 đường Minh
Phụng, phường 6
3038/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Quí tế
93 Chùa Giác Hải Số 1017/3 đường
Hồng Bàng, Phường
12, Quận 6
3085/QĐ-UBND
25/5/2016
QUẬN 7
94 Đình Tân Quy
Đông
đường Lê Văn
Lương, KP 1, phường
Tân Phong
3132/QĐ-UBND
25/6/2009
Ban Quí tế
QUẬN 5
95 Đình Tân Kiểng 718 Trần Hưng Đạo
Phường 2
Số 4838/QĐ-
UBND 27/10/2006
Ban Quí tế
96 Hội quán Phước An 184 Hồng
Bàng Phường 12
1767/QĐ-UBND
27/04/2009
Ban Quí tế
97 Từ đường họ Lý 292 Hải Thượng Lãn
Ông Phường 14
ĐT: 38567132
1769/QĐ-
UBND 27/04/2009
Bà Nguyễn Thị Thủy
98 Từ đường Phước
Kiến
314 đường Nguyễn
Trãi, phường 8
3037/QĐ-UBND
20/6/2009
Bệnh viện Nguyễn
Trãi, Ban Quản trị
hội quán Ôn Lăng,
Ban Quản trị Hội
quán Miếu Nhị Phủ.
193
QUẬN 8
99 Chùa Sắc tứ Huệ
Lâm
154 Tùng Thiện
Vương Phường 11
186/2005/QĐ-
UBND
12/10/2005
Ban trị sự
100 Đình Hưng Phú 617/19 Bến Ba
Đình Phường 9
Số
187/2005/QĐ-
UBND
12/10/2005
Ban Quí tế
101 Đình Vĩnh Hội 46 Đinh Hòa, Phường
13
4345/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Quí tế
102 Đình Phong Phú 46 Phong
Phú, Phường 12
1766/QĐ-
UBND
27/04/2009
Ban Quí tế
QUẬN 9
103 Đình Tăng Phú 236 Khu phố
3 Phường Tăng Nhơn
Phú A
4840/QĐ-
UBND
27/10/2006
Ban Quí tế
104 Chùa Bửu Sơn 341 đường Nguyễn
Văn Tăng, phường
Long Thạnh Mỹ
2209/QĐ-UBND
28/04/2012
105 Mộ ông Nghị viên
địa hạt Đặng Tân
Xuân
(trong khuôn viên
Học viện Chính trị -
Hành chính khu
vực II)
Số 99 đường Man
Thiện, phường Hiệp
Phú, Quận 9
Số 3134/QĐ-
UBND
26/6/2015
QUẬN BÌNH THẠNH
106 Chùa Sắc tứ Tập
Phước
Số 233, đường Phan
Văn Trị, Phường 11
Số
188/2005/QĐ-
UBND
12/10/2005
Hòa thượng Thích
Thiện Bảo
194
107 Chùa Văn Thánh số 115/9 đường Ngô
Tất Tố Phường 22
Số 3262/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban trị sự
108 Đình Bình Quới
Tây
đường Xô Viết Nghệ
Tĩnh, Khu phố
3 Phường 28
Số 3263/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Quí tế
109 Nhà cổ dân dụng
truyền thống của
ông Vương Hồng
Sển
9/1 Nguyễn Thiện
Thuật Phường 14
Số
140/2003/QĐ-UB
5/8/2003
QUẬN GÒ VẤP
110 Đình An Nhơn 72/999 Lê Đức
Thọ Phường 17
Số 20/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Quản trị
111 Hội quán Quần
Tân
số 2 Lý Thường Kiệt
Phường 7
Số 5512/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quản trị
112 Chùa An Lạc 73/16 Nguyễn Thái
Sơn Phường 4
Số 1765/QĐ-
UBND
27/04/2009
Ban trị sự
113 Miếu Thất phủ
Thiên Hậu
128 đường Nguyễn
Thái Sơn, phường 4
3130/QĐ-UBND
25/6/2009
Ban Quản trị
114 Miếu Nổi Phường 5, quận Gò
Vấp
Số 1761/QĐ-
UBND
10/4/2014
QUẬN PHÚ NHUẬN
115 Chùa Phú Long số 58 đường Huỳnh
Văn Bánh Phường
15
3265/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban trị sự
QUẬN TÂN BÌNH
116 Miếu Tân Kỳ, Miếu
Ông Bổn
1A/13, tổ 13, KP 2
đường Trường Chinh,
phường 14
3039/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Quí tế
195
QUẬN TÂN PHÚ
117 Mộ ông Lý Tường
Quang và bà
Nguyễn Thị Lâu
Đường Nguyễn Sơn,
phường Phú Thọ Hoà
(ĐT: 0903663780)
3131/QĐ-UBND
25/6/2009
Ông Lý Thanh Liêm
QUẬN THỦ ĐỨC
118 Chùa Thiên Phước 37/217 KP
8 Phường Trường
Thọ
Số 24/2005/QĐ-
UB 1/2/2005
Ban Trị sự
119 Đình Thần Linh
Tây
KP 2 Phường Linh
Tây
Số
328/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Ban Quí tế
120 Mộ Tiền hiền Tạ
Dương Minh
số 10 đường số
10 khu phố 4 Phường
Linh Chiểu
3266/QĐ-
UBND
27/7/2007
UBND phường Linh
Chiểu
121 Đình Bình Thọ đường số 2, KP 7,
phường Trường Thọ
3036/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Quí tế
122 Chùa Sùng Đức 50 đường số 3, KP 6,
phường Trường Thọ
3040/QĐ-UBND
20/6/2009
Ban Trị sự
3.2. DI TÍCH LỊCH SỬ: 45
HUYỆN BÌNH CHÁNH
123 Đình Tân Túc Ấp 2 Thị Trấn Tân
Túc
Số
325/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Ban Quí tế
124 Khu di tích dân
công hỏa tuyến
Vĩnh Lộc Mậu thân
1968
Ấp 4 Xã Vĩnh Lộc
A
Số
119/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban Quản lý (thành
lập theo Quyết định
số 3345/QĐ-UBND
ngày 14/6/2006 của
UBND Huyện Bình
Chánh).
125 Láng Le - Bàu Cò Xã Tân Nhựt Số
138/2003/QĐ-UB
5/8/2003
Ban Quản lý (hoạt
động theo Quy chế
ban hành kèm theo
Quyết định
5547/QĐ-UBND
ngày 26/9/2012 của
UBND Huyện Bình
Chánh).
196
126 Rạch Già ấp 6, Xã Hưng
Long
4344/QĐ-
UBND
13/10/2008
Tổ quản lý khu di
tích xã Hưng Long
(công nhận theo
quyết định số
2117/QĐ-UB ngày
01/9/2004 của
UBND huyện Bình
Chánh)
HUYỆN CẦN GIỜ
127 Đình Dương Văn
Hạnh
đường Đương Văn
Hạnh, tổ 37, ấp Lý
Thái Bửu, xã Lý
Nhơn
3129/QĐ-UBND
25/6/2009
Ban Quí tế
128 Đình Bình Khánh
và Mộ Tiền hiền
Trần Quang Đạo
ấp Bình An - Bình
Phước, xã Bình
Khánh
2231/QĐ-UBND
02/5/2012
Ban Quản trị (thành
lập theo Quyết định
795/QĐ-UBND ngày
28/9/2012 của
UBND huyện Cần
Giờ)
HUYỆN CỦ CHI
129 Đình Cây Sộp ấp Cây Sộp, Xã Tân
An Hội
Số 5513/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
HUYỆN HÓC MÔN
130 Chùa Thiên Quang số 53/3 ấp Mỹ
Huề Xã Trung
Chánh
Số 3268/QĐ-
UBND
20/8/2007
Ban trị sự
131 Đền thờ ông Phan
Công Hớn
Ấp Tây Bắc Lân Xã
Bà Điểm
Số
327/2003/QĐ-UB
31/12/2003
Dòng tộc ông Phan
Công Hớn
132 Nơi họp Hội nghị
Xứ ủy Nam kỳ
tháng 9/1940
20 Trần Văn Mười,
ấp Xuân Thới Đông
3, xã Xuân Thới
Đông.
Số 5167/QĐ-
UBND
19/11/2010
197
QUẬN 1
133 Nhà số 14 Cách
Mạng Tháng Tám,
phường Bến Thành,
quận 1, TP. Hồ Chí
Minh
14 Cách Mạng
Tháng Tám Phường
Bến Thành
Số
139/2003/QĐ-UB
5/8/2003
Liên đoàn Lao động
Thành phố Hồ Chí
Minh
134 Quán Nhan Hương số 02 đường Nguyễn
Bỉnh Khiêm, phường
Bến Nghé
số 1515/QĐ-
UBND
28/3/2014
135 Cột cờ Thủ Ngữ Bến Bạch Đằng,
Phường Nguyễn Thái
Bình, Quận 1
Số 2440/QĐ-
UBND ngày
16/5/2016
QUẬN 10
136 Chùa Ấn Quang 243 Sư Vạn
Hạnh Phường 9
Số
120/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban Trị sự Thành hội
Phật giáo
137 Chùa Từ Nghiêm 415-417 đường Bà
Hạt, phường 4
3128/QĐ-UBND
25/6/2009
QUẬN 12
138 Chùa Khánh An -
Cơ sở cách mạng
trong thời kỳ kháng
chiến chống thực
dân Pháp
số 1055/3D Quốc lộ
1A khu phố
3, Phường An Phú
Đông
Số 3269/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Trị sự
139 Chùa Tường
Quang - Trụ sở Hội
Phật giáo cứu quốc
tỉnh Gia Định, cơ
sở của Tỉnh ủy Gia
Định, Chi bộ xã An
Phú Đông
số 518/5C đường
Vườn Lài, Khu phố
2, Phường An Phú
Đông
Số 3271/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Trị sự
140 Đình Hanh Phú -
Kho lương thực của
Ban Tiếp tế tỉnh
Gia Định ở Căn cứ
An Phú Đông
đường Vườn Lài,
Khu phố 2, Phường
An Phú Đông
Số 3270/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ban Quí tế
198
141 Miếu Cây Quéo Tổ 33, Khu phố 2,
Phường Trung Mỹ
Tây
Số 5514/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
142 Đền thờ Nguyễn
Ánh Thủ
Tổ 60, khu phố 5,
phường Tân thới
Nhất
Số 3948/QĐ-
UBND
18/8/2011
Ông Lê Phùng Thuận
143 Đình Tân Hội Khu phố 3, phường
Tân Hưng Thuận
số 1517/QĐ-
UBND
QUẬN 2
144 Căn cứ vùng bưng
6 xã
Khu Đồng Miếu khu
phố 3 Phường An
Phú
4302/QĐ-UBND
10/10/2008
145 Đình An Phú Khu phố 3 P. An
Phú
Số 5515/QĐ-
UBND
30/11/2006
Ban Quí tế
QUẬN 3
146 Chùa Xá Lợi 89 Bà Huyện Thanh
Quan Phường 7
Số
116/2005/QĐ-
UBND
12/7/2005
Ban trị sự
QUẬN 5
147 Chùa Thiên Tôn 117/3/2 đường An
Bình, phường 6
Số 696/QĐ-
UBND
17/02/2011
Ban trị sự
QUẬN 6
148 Cơ sở bí mật của
Thành ủy Sài Gòn -
Gia Định
91 Phạm Văn Chí
Phường 1 Quận 6
4377/QĐ-
UBND
15/10/2008
Ban Dân tộc Thành
phố
149 Mộ và đền thờ ông
Phạm Văn Chí
703 Phạm Văn
Chí Phường 7 Quận
6
4301/QĐ-
UBND
13/10/2008
Ban Quí tế đình Bình
Hoà
QUẬN 7
150 Gò Ô Môi Khu phố 1 Phường
Phú Thuận Quận 7
Số 4839/QĐ-
UBND
27/10/2006
UBND quận 7
199
151 Chùa Long Hoa số 1250/41 đường Huỳnh Tấn Phát, phường Phú Mỹ
Số 1761/QĐ-UBND
10/4/2014
Hòa thượng Thích Viên Giác - Trụ trì
QUẬN 8
152 Chùa Thiên Phước Số 1581 đường Phạm Thế Hiển, phường 6.
Số 1763/QĐ-UBND 27/4/2009
Ban trị sự
153 Chùa Pháp Quang - cơ sở cách mạng của liên quận 7-8 trong giai đoạn 1963-1975
71 đường Liên tỉnh số 5 Phường 5 Quận 8
Số 1764/QĐ-UBND 27/4/2009
Ban Trị sự
QUẬN 9
154 Căn cứ vùng bưng 6 xã
Phường Tăng Nhơn Phú B và Phường Phú Hữu Quận 9
4303/QĐ-UBND
13/10/2008
155 Chùa Bửu Thạnh Số 50 D Nguyễn Duy Trinh, Phường Long Trường Quận 9
Số 5513/QĐ-UBND
30/11/2006
Ban trị sự
QUẬN BÌNH THẠNH
156 Đình Cầu Sơn 218/1 Xô Viết Nghệ Tĩnh Phường 26 Quận Bình Thạnh
Số 117/2005/QĐ-UBND
12/7/2005
Ban Quản lý di tích
QUẬN BÌNH TÂN
157 Chùa Long Thạnh 1756 Tỉnh lộ 10 Phường Tân Tạo Quận Bình Tân
Số 185/2005/QĐ-UBND
12/10/2005
Thượng tọa Thích Nhựt Ấn
158 Đình Tân Khai Khu phố 6, đường Đình Tân Khai, phường Bình Trị Đông
Số 2230/QĐ-UBND 02/5/2012
Ban Quí tế
QUẬN GÒ VẤP
159 Đình Hanh Thông
Số 125 đường Nguyễn Thái Sơn, Phường 7
Số 1516/QĐ-UBND
28/3/2014
200
QUẬN PHÚ NHUẬN
160 Chùa Từ Vân số 62 đường Phan
Xích Long Phường
1 Quận Phú Nhuận
Số 3264/QĐ-
UBND
27/7/2007
Ni sư Thích nữ Như
Nhàn
161 Chùa Quán Thế Âm Số 90 đường Thích
Quảng Đức, Phường
5, Quận Phú Nhuận
Số 3086/QĐ-
UBND
25/5/2015
QUẬN TÂN BÌNH
162 Kho bom Phú Thọ Công viên Tân
Phước, đường
Nguyễn Thị
Nhỏ Phường 9
Số 22/2005/QĐ-
UB 01/02/2005
Ban QL Công viên
Tân Phước - Công ty
Công ích & Dịch vụ
đô thị Tân Bình
QUẬN TÂN PHÚ
163 Mộ ông Nguyễn
Quý Anh và bà Lý
Thu Liên
Khu phố 1 đường
Thoại Ngọc Hầu,
phường Phú Thọ Hòa
Số 697/QĐ-
UBND
17/02/2011
Bà Nguyễn Thị Bích
Lan (trú tại số 59/7A
Phạm Viết Chánh, P
Nguyễn Cư Trinh, Q
1 - ĐT: 0909372266)
164 Đình Phú Thạnh 111 Trần Quang Cơ,
khu phố 5, phường
Phú Thạnh
Số 3947/QĐ-
UBND
18/8/2011
Ban Quản trị
165 Đình Tân Hòa Tây 17/14 đường Lương
Minh Nguyệt,
phường Tân Thới
Hòa
Số 2719/QĐ-
UBND
28/5/2013
Ban Quí tế
166 Đình Hòa Thạnh 396 đường Lũy Bán
Bích, phường Hòa
Thạnh
Số 2720/QĐ-
UBND
28/5/2013
Ban Quí tế
QUẬN THỦ ĐỨC
167 Chùa Châu Hưng 37 đường Cây Keo,
Khu phố 1, phường
Tam Phú.
Số 3946/QĐ-
UBND
18/8/2011
Hòa thượng Thích
Tắc Lãnh
Nguồn: http://svhtt.hochiminhcity.gov.vn/ [147]
201
Phụ lục 4
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguồn: Thành phố Hồ Chí Minh (2016), "Bản đồ hành chính
Thành phố Hồ Chí Minh", tại trang http://cungcapbando.com [163].
204
Nhà thờ Ðức Bà còn gọi là nhà thờ Chánh tòa Sài gòn được xây dựng 1863 - 1865
Nhà thờ Đức Bà hiện nay