người phụ nữ thái trong truyện thơ của dân tộc thái ở tây bắc
DESCRIPTION
Khoá luận tốt nghiệp đại học của Phạm Thị Huyền Đăng trên vanhien.vnTRANSCRIPT
Khóa luận tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN THƠ
CỦA DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC
(Khoá luận tốt nghiệp đại học)
Sinh viên: Phạm Thị Huyền
Người hướng dẫn: ThS. Đỗ Thị Kiều Nga
Người chỉnh lý trước khi công bố: TS. Phạm Việt Long
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A1
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, ngoài sự cố gắng, nổ lực của bản
thân, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa
Văn hóa dân tộc thiểu số. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô
giáo - ThS Đỗ Thị Kiều Nga – người đã trực tiếp hướng dẫn em trong quá
trình thực hiện đề tài.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến Phòng văn hóa huyện Triệu Sơn, Ban
văn hóa xã Thọ Sơn và đồng bào Thái xã Thọ Sơn đã nhiệt tình cung cấp
những tư liệu quý báu cho khóa luận.
Do thời gian cũng như kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên khóa
luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận được
đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Phạm Thị Huyền
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A2
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC
1.1 Đặc điểm tự nhiên, dân cư vùng Tây Bắc
1.1.1 Đặc điểm tự nhiên
1.1.2 Đặc điểm dân cư
1.2 Khái quát về người Thái ở Tây Bắc
1.2.1 Tên gọi, dân số và phân bố dân cư.
1.2.2 Lịch sử cư trú
1.2.3 Xã hội truyền thống
1.2.4 Đặc điểm mưu sinh
1.2.5 Văn hóa vật chất
1.2.6 Văn hóa tinh thần
Tiểu kết
Chương 2: NGƯỜI PHỤ NỮ THÁI QUA TRUYỆN THƠ
2.1. Khái quát về truyện thơ của dân tộc Thái
2.1.1 Khái niệm truyện thơ
2.1.2 Đặc trưng của truyện thơ
2.1.3 Truyện thơ trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc Thái
2.2. Người phụ nữ được miêu tả trong truyện thơ của dân tộc Thái
2.2.1 Chân dung của người phụ nữ
2.2.1.1 Ngoại hình và tài năng
2.2.1.2 Phẩm chất
2.2.1.3 Tính cách
2.2.2 Số phận của người phụ nữ
2.2.3 Vai trò của người phụ nữ
Tiểu kết chương 2
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A3
Khóa luận tốt nghiệp
Chương 3 : NGƯỜI PHỤ NỮ THÁI VÀ TRUYỆN THƠ CỦA NGƯỜI
THÁI TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN NAY
3.1 Người phụ nữ Thái trong cuộc sống hiện nay
3.2 Truyện thơ Thái trong đời sống hiện nay
3.3 Một vài nhận xét
3.3.1 Về người phụ nữ Thái trong truyện thơ và trong cuộc sống hiện nay
3.3.2 Giá trị của truyện thơ và thực trạng bảo tồn, phát huy truyện thơ
3.4 Một số khuyến nghị và giải pháp
3.4.1 Giữ gìn và phát huy văn học dân gian nói chung, truyện thơ Thái nói
riêng trong cuộc sống hiên nay
3.4.2 Giữ gìn và phát huy những nét đẹp của người phụ nữ Thái trong
cuộc sống hiện nay
Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em chung sống
với nhau suốt từ Bắc chí Nam tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng, phong
phú và giàu bản sắc. Trong đó dân tộc Thái là một trong những tộc người có
dân số đông trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Do có lịch sử cộng cư lâu
đời nên nền văn hóa của dân tộc Thái có nhiều nét đặc trưng riêng. Trong nền
văn hóa đặc sắc ấy phải kể tới văn hóa văn nghệ dân gian Thái với điệu khắp,
điệu xòe, với một kho tàng văn học dân gian đồ sộ về số lượng, phong phú về
thể loại. Đó là những giá trị tiêu biểu cần được lưu giữ, bảo tồn và phát huy.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A4
Khóa luận tốt nghiệp
Trong kho tàng văn học dân gian Thái, truyện thơ được biết đến như
một trong những thể loại tiêu biểu và đặc sắc nhất. Qua truyện thơ, chúng ta
có thể tìm hiểu về nếp sống, phong tục tập quán của các dân tộc này và từ đó
rút ra những bài học bổ ích cho việc xây dựng nếp sống mới hiện nay.
Truyện thơ Thái về người phụ nữ thể hiện rất rõ quan niệm sống, phẩm
chất, tâm tư, tình cảm của người phụ nữ Thái. Tìm hiểu những vấn đề này,
chúng ta có thể phát huy được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ và
hạn chế được những mặt tiêu cực trong đời sống hiện nay.
Mặc dù có tính chất quan trọng như vậy nhưng truyện thơ của các dân
tộc thiểu số nói chung và truyện thơ của dân tộc Thái nói riêng vẫn chưa được
nghiên cứu nhiều và hình tượng người phụ nữ được thể hiện qua truyện thơ
chưa được nghiên cứu một cách cụ thể, rõ ràng. Lựa chọn đề tài nghiên cứu
này, người viết muốn giới thiệu những nét phẩm chất tốt đẹp của người phụ
nữ được thể hiện qua các tác phẩm văn học dân gian, cụ thể là truyện thơ, từ
đó rút ra những vấn đề liên quan đến nếp sống và vai trò của người phụ nữ
hiện nay.
Ngày nay dưới sự tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự phát triển
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là ảnh hưởng của quá trình giao
lưu văn hóa, thì người phụ nữ đã có nhiều thay đổi, nhiều trường hợp không
giữ được những nét phẩm chất tốt đẹp như trong truyền thống. Vì vậy bảo tồn
và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyện thơ về người phụ nữ là một trong
những biện pháp hữu hiệu góp phần xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng gia
đình hạnh phúc.
Là sinh viên năm thứ tư của khoa Văn hóa dân tộc thiểu số, tương lai
sẽ trở thành người cán bộ văn hóa ở cơ sở, nên từ lâu em đã muốn đi sâu tìm
hiểu về vấn đề nói trên. Vì vậy em quyết định chọn đề tài: “Người phụ nữ
trong truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây Bắc” để làm khóa luận tốt nghiệp của
mình với mong muốn sẽ giới thiệu những nét phẩm chất tốt đẹp của người
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A5
Khóa luận tốt nghiệp
phụ nữ Thái được thể hiện qua truyện thơ và vận dụng những nét đẹp đó trong
việc xây dựng nếp sống mới hiện nay. Nghiên cứu đề tài này, người viết còn
muốn góp một phần nhỏ của mình vào việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc Thái, theo tinh
thần của nghị quyết Trung ương 5 khóa 8 đã đề ra: “Xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về văn học dân gian Thái đã có rất nhiều công trình như:
Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nguyễn Xuân Kính
(chủ biên), Viện KHXHVN, viện NCVH, NXB KHXH, Hà Nội, 2008; Tổng
tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập 4: Truyện thơ. Đặng Nghiêm
Vạn (chủ biên), Trung tâm KHXH&NVQG, viện văn học, NXB Đà Nẵng,
2002; Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập V: Truyện thơ- sử thi, Đặng
Văn Lung, Sông Thao, Trung tâm KH&NVQG, Viện văn học, NXB Giáo
dục, 1999; Giáo trình văn học dân gian, PGS.TS Phạm Thu Yến (chủ biên),
NXB ĐHSP, 2002; Tìm hiểu văn học dân tộc Thái ở Việt Nam, Cầm Cường,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
Viết về truyện thơ của dân tộc Thái thì có: “ Giá trị truyện thơ Xống
Chụ Xôn Xao”, Mạc Phi, (NCVH,HN 1961, số5); Truyện thơ, trường ca dân
tộc Thái, Hội văn nghệ Sơn La, Sở VH-TT, 2007; Bước đầu tìm hiểu một vài
đặc điểm của truyện thơ Thái “ Chàng Lú – Nàng Ủa”, Lô Xuân Dừa, Luận
văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSPHN, 2002; Tiễn dặn người yêu, Bùi Văn
trọng Cường, (Văn nghệ dân tộc và miền núi, Hà Nội, số 9, 2000.
Viết về người phụ nữ Thái trong truyện thơ có: Số phận người phụ nữ
Thái qua một số truyện thơ tiêu biểu của người Thái Tây Bắc, Hoàng Thị
Hương Loan, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội, 2006
Nhìn chung những tài liệu trên đã cung cấp một nguồn tài liệu khá toàn
diện về văn học dân gian Thái nói chung và truyện thơ Thái nói riêng, đã có
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A6
Khóa luận tốt nghiệp
đề tài viết về người phụ nữ Thái trong truyện thơ nhưng chỉ mới chỉ đề cập tới
số phận người phụ nữ chứ chưa đề cập đến những khía cạnh khác như ngoại
hình, tài năng, tính cách, phẩm chất của người phụ nữ và vai trò của người
phụ nữ Thái trong tình yêu, trong gia đình và ngoài xã hội. Do đó, đề tài
“Người phụ nữ qua truyện thơ của người Thái Tây Bắc” sẽ tập trung giải
quyết những vấn đề trên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Truyện thơ và những nhân vật nữ trong truyện thơ của dân tộc Thái ở
Tây Bắc
- Người phụ nữ nói riêng, cộng đồng người Thái nói chung ở xã Thọ
Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu
Về văn bản:
- Các truyện thơ của dân tộc Thái ở Tây Bắc đã được sưu tầm, giới
thiệu, xuất bản
Về địa điểm:
Để thấy được sự thay đổi giữa người phụ nữ Thái truyền thống trong
truyện thơ và người phụ nữ Thái trong đời sống hiện nay cũng như tìm hiểu
thực trạng truyện thơ trong đời sống của đồng bào Thái làm cơ sở cho việc
đưa ra các giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị của truyện thơ nói chung,
giữ gìn và phát huy những nét đẹp của người phụ nữ Thái nói riêng, khóa luận
lựa chọn xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa là địa điểm khảo sát
thực tế.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát truyện thơ của dân tộc Thái, thông qua sự miêu tả của các
tác giả dân gian, có thể khái quát được vẻ đẹp truyền thống người phụ nữ Thái
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A7
Khóa luận tốt nghiệp
(chân dung, số phận, vai trò). Từ đó so sánh để thấy được những thay đổi của
người phụ nữ Thái trong cuộc sống hiến nay, nguyên nhân của những thay đổi
đó là gì? Đó là những thay đổi tích cực hay tiêu cực?
- Bước đầu đưa ra những khuyến nghị và giải pháp nhằm giữ gìn và
phát huy những nét đẹp của người phụ nữ Thái và những giá trị của truyện
thơ Thái trong cuộc sống hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan tài liệu và lý thuyết nghiên cứu về văn học dân gian nói
chung, truyện thơ của dân tộc Thái nói riêng để làm rõ các khái niệm công cụ
có liên quan đến đề tài.
- Một mặt kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước về
văn học dân gian của dân tộc Thái, đặc biệt truyện thơ…mặt khác, nghiên cứu
các truyện thơ cụ thể để thấy được vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ
Thái.
- Khảo sát thực tế một vùng đồng bào dân tộc Thái cụ thể để thấy được
sự thay đổi của người phụ nữ Thái trong đời sống hiện nay, nguyên nhân dẫn
đến những biến đổi.
- Đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy
những nét đẹp của người phụ nữ và của truyện thơ Thái trong cuộc sống hiện
nay.
5. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu thực hiện đề tài
- Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp luận chung là phương pháp luận Mac- LêNin, bài
viết còn sử dụng các phương pháp cụ thể là:
Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn học- văn hóa học- dân tộc
học)
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A8
Khóa luận tốt nghiệp
Phương pháp điền dã dân tộc học là phương pháp chủ yếu để tiến hành
thu thập tư liệu với các kỹ thuật như quan sát, mô tả, phỏng vấn, điều tra bảng
hỏi, chụp ảnh...
Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: tìm đọc những tác phẩm
nghiên cứu về truyện thơ của người Thái và những tài liệu địa phương viết về
những vấn đề mà đề tài quan tâm.
Cuối cùng là các phương pháp miêu tả, phân tích, so sánh, tổng hợp...
để hoàn thành bài viết.
- Nguồn tư liệu thực hiện đề tài
Tài liệu điền dã, phỏng vấn do người viết sưu tầm được qua các đợt
khảo sát, thực tập tại xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bên
cạnh đó đề tài còn tham khảo một số tài liệu có liên quan.
Tài liệu thư tịch, các tư liệu về người Thái trong các thư viện và từ
mạng Internet.
6. Đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện về người phụ nữ Thái
trong truyện thơ và trong đời sống, đề tài sẽ đóng góp thêm tư liệu trong
nghiên cứu về người Thái, làm rõ thêm chân dung dân tộc Thái ở Việt Nam.
- Các khuyến nghị về giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy những nét
đẹp của người phụ nữ và của truyện thơ Thái trong cuộc sống hiện nay có thể
góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác trong xây dựng đời sống văn hóa
cơ sở; đề xuất khoa học cho việc sưu tầm, nghiên cứu, giữ gìn, phát huy giá
trị di sản văn hóa dân gian của người Thái ở xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn,
tỉnh Thanh Hóa nói riêng, người Thái ở Tây Bắc nói chung.
- Bên cạnh đó, bài nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ cho
những ai mong muốn tìm hiểu về văn hóa truyền thống của dân tộc Thái, đặc
biệt là truyện thơ. Đây cũng là nguồn tư liệu giúp những nhà quản lý địa
phương có một cái nhìn toàn diện hơn về người phụ nữ Thái, từ đó có thể vận
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A9
Khóa luận tốt nghiệp
dụng những nét phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ vào việc xây dựng nếp
sống văn hóa, xây dựng gia đình hạnh phúc.
7, Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, Khóa luận
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về dân tộc Thái ở Tây Bắc
Chương 2: Người phụ nữ Thái qua truyện thơ
Chương 3: Người phụ nữ Thái và Truyện thơ của người Thái trong
cuộc sống hiện nay (Khảo sát ở xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh
Hóa)
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC
1.1 Đặc điểm tự nhiên, dân cư vùng Tây Bắc
1.1.1 Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lí, địa hình
Nằm ở phía tây – bắc lãnh thổ Việt Nam, Tây Bắc có diện tích vào
khoảng 36.000 km2, chiếm ¼ diện tích miền Bắc với 700 km đường biên
giới. Tây Bắc có vị trí địa lí như sau:
Phía Bắc giáp Trung Quốc
Phía Tây giáp CHDCND Lào
Phía Nam giáp Thanh Hóa, Hà Tây
Gianh giới phía đông giữa Tây Bắc với Đông Bắc và vùng trung du
Bắc Bộ là sông Hồng và dãy Hoàng Liên Sơn.
Về địa hình, Tây Bắc là phức hợp của các bồn địa lớn, nhỏ nằm xen
kẹp giữa các dãy núi bao bọc xung quanh. Phía đông là dãy Hoàng Liên Sơn,
giáp biên giới với CHDCND Lào là dãy núi sông Mã, phía Bắc là dãy Pu La
San, phía Nam là dải núi đá vôi hình cánh cung chạy từ biên giới Việt – Lào
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A10
Khóa luận tốt nghiệp
tới tận Suối Rút (Hòa Bình) và lượn lên đến tận Bắc Yên (Sơn La). Xen giữa
các dãy núi lớn là các bồn địa, các cánh đồng Mường Than (Than Uyên, Lai
Châu), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Tấc (Phù Yên, Bắc Yên), Mường
Muổi (Thuận Châu), Mường Vạt (Yên Châu), Mường Sang (Mộc Châu)
thuộc tỉnh Sơn La, Mường Ẳng, Mường Then (Điện Biên), Mường Lay (Lai
Châu), Mường Bi, Muường Vang, Mường Thàng, Muờng Đông thuộc tỉnh
Hòa Bình…Ngoài các bồn địa lớn, nằm xen giữa các vùng núi đồi Tây Bắc
còn có hàng trăm cánh đồng thuộc loại nhỏ và trung bình khác. Tất cả những
cánh đồng bồn địa đó chính là những vùng tụ cư, lập làng, khai phá đất đai
thành ruộng nước và sinh sống bằng nghề trồng lúa nước của các dân tộc nói
ngôn ngữ Tày – Thái, Việt – Mường, Hoa – Hán. Trên sườn các dãy núi cao
là nơi sinh tụ, lập làng, khai phá đất dốc thành nương rẫy và canh tác cây
lương thực trên nương rẫy của các cư dân nói ngôn ngữ Môn – Khơme
(Mảng, Kháng, Xinh Mun, Khơ Mú), người Dao và cộng đồng dân tộc La Ha.
Và trên các đỉnh núi là nơi sinh tụ của cư dân thuộc dân tộc Hmông – Dao,
Tạng Miến…Điều này ngày nay vẫn còn hiện diện ở rất nhiều nơi ở Tây Bắc.
Khí hậu
So với các vùng khác ở Việt Nam, Tây Bắc là xứ sở của các hiện tượng
tự nhiên tương đối cực đoan. Khí hậu vùng này ấm hơn ở Đông Bắc nhờ có
dãy Hoàng Liên Sơn chặn bớt gió lạnh thổi từ đông – bắc xuống vào mùa
đông. Tuy vậy mùa đông ở Tây Bắc vẫn tương đối khắc nghiệt, nhất là các
vùng có độ cao trên 1000m. Nhìn chung Tây Bắc thuộc vùng nhiệt đới ẩm với
chế độ mưa theo mùa.
Mùa mưa thường kéo dài từ tháng tư đến tháng mười dương lịch. Mưa
nhiều nhất vào tháng sáu, tháng bảy âm lịch (tháng tám dương lịch) với tổng
lượng mưa trung bình vào khoảng 1.500 – 2.300 mm. Nhiệt độ trung bình vào
mùa mưa thường ở mức 25 – 35 độ C.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A11
Khóa luận tốt nghiệp
Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau (dơng lịch). Khí hậu
mùa này thường khô, hanh và kèm theo lạnh buốt, lượng mưa chỉ đạt 5mm –
20mm. Vào những đợt rét nhất, có nơi nhiệt độ trung bình xuống tới 4 hoặc 5
độ C. Kèm theo lạnh là sương mù dày đặc, gió bấc và sương muối.
Khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và tập quán của cư dân Tây
Bắc đặc biệt là nông lịch sản xuất. Mùa mưa chính là mùa canh tác chính
trong năm, mùa khô là mùa nông nhàn, là khoảng thời gian dành cho cưới xin,
làm nhà mới, tổ chức lễ hội và thăm hỏi lẫn nhau…Đặc điểm này của tự nhiên
cũng in đậm trong các tập quán sinh hoạt : ăn, mặc, ở, lễ tết, hội hè… của họ.
Đất đai
Đất đai ở Tây Bắc chia ra làm hai loại chính: Đất nguyên sinh và đất
phù sa chua. Đất nguyên sinh ở vùng thấp, có độ ẩm lớn chứa nhiều mùn thực
vật, có màu xám hoặc nâu vàng. Đất phù sa chua thường ở lưu vực các sông,
suối lớn. Các loại đất này thường thích hợp với canh tác cây lương thực và
hoa màu.
Với kinh nghiệm hàng ngàn năm của mình, cư dân các dân tộc Tây Bắc
chia đất đai ra thành các loại đất như sau: Đất cát, sỏi: canh tác các loại ngô,
đậu; Đất bãi vùng cao nguyên: trồng lạc, vừng, bông.. Đất ở các khe núi:
trồng ngô, đậu; Đất mùn: khai phá thành các chân ruộng nước để canh tác lúa
nếp, hoặc khai phá thành bãi, vườn để trồng rau xanh và cây ăn quả; Đất bùn:
khai phá thành ruộng để canh tác các loại lúa nước.
Hệ sông suối và nguồn nước
Có thể nói, không nơi nào ở Việt Nam có hệ thống sông suối dày đặc
như ở Tây Bắc. Sông suối ở Tây Bắc không chỉ dày đặc mà còn vô cùng khúc
khuỷu và nhiều thác ghềnh. Đây là nguồn năng lượng sức nước vô tận và là
cơ sở quan trọng hàng đầu để xây dựng các nhà máy thủy điện với công suất
phát điện cực lớn.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A12
Khóa luận tốt nghiệp
Sông suối Tây Bắc giữ vai trò quan trọng trong vận chuyển, đi lại của
nhiều tộc người trong vùng. Việc dùng thuyền độc mộc, dùng mảng, dùng bè
đi lại, vận chuyển trở thành hình tượng văn hóa của nhiều tộc người trong
vùng. Không những thế, sông suối cũng góp phần không nhỏ vào việc cung
cấp thực phẩm nuôi sống con người Tây Bắc.
1.1.2 Đặc điểm dân cư
- Dân số
Theo Kết quả điều tra dân số của Tổng cục thống kê năm 2009,ở Tây
Bắc có khoảng trên 5.000.000 người đang sinh sống. Trong đó phân bố ở các
tỉnh: Lào Cai: 598.069 người; Yên Bái: 679.775 người; Lai Châu (cũ):
590.758 người; Sơn La: 880.752 người; Hòa Bình: 756.014 người; Miền tây
Thanh Hóa, Nghệ An…
- Thành phần dân tộc
Vào những năm 60 của thế kỷ XX dân cư Tây Bắc thuộc 23 dân tộc
khác nhau. Đó là: Thái, Tày, Pu Nà, Giáy, Lào, Lự, Hmông, Dao, Hà Nhì, Lô
Lô, La Hủ, Si La, Cống, Phù Lá, Khơ Mú, La Ha, Mảng, Kháng, La Ha, Xinh
– mun, Hoa, Mường,Việt (Kinh)
Cư dân Tây Bắc hiện nay thuộc 26 cộng đồng dân tộc chính, ngoài ra
còn lại một bộ phận rất ít (không đáng kể) thuộc các dân tộc khác.
1.2 Khái quát về người Thái ở Tây Bắc
1.2.1. Tên gọi, dân số và phân bố dân cư.
Từ trước đến nay, người Thái vẫn tự gọi mình là Côn Tay hay Phủ Tay
đều có nghĩa là người (trong đó Côn và Phủ là người, còn Tay nghĩa là Thái),
cũng giống như người Tày ở vùng Đông Bắc tự gọi mình là Cần Tày (người
Tày). Có hai ngành Thái: Thái Đen (Táy Đăm) và Thái Trắng (Táy Khao, Táy
Đón), bao gồm 6 nhóm địa phương. Còn có một bộ phận khác gồm nhiều
nhóm địa phương phức tạp cư trú chủ yếu ở Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu
(Hòa Bình) và các huyện miền núi thuộc hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A13
Khóa luận tốt nghiệp
Ở Việt Nam, người Thái có số dân đông thứ 3 sau người Kinh và người
Tày. Theo số liệu điều tra năm 1999, dân số của người Thái có 1.328.725
người, sống tập trung ở vùng Tây Bắc thuộc các tỉnh Điện Biên, Lai Châu,
Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An. Từ sau
năm 1954, họ còn sống rải rác ở một số huyện thuộc các tỉnh vùng Tây
Nguyên.
Ở Tây Bắc, người Thái cư trú chủ yếu ở vùng thung lũng chân núi,
ngoài người Kinh (Việt) thì dân tộc Thái là tộc người chiếm đa số và có vai
trò quan trọng trong vùng. Người Thái ở đây là cư dân bản địa, họ đã sinh
sống và làm ăn trên mảnh đất này từ nhiều đời nay nên những phong tục tập
quán và hoạt động sản xuất của họ ảnh hưởng nhiều đến tộc người khác sống
bên cạnh.
1.2.2 Lịch sử cư trú
Nguồn gốc lịch sử của người Thái nói chung và người Thái Tây Bắc
nói riêng là vấn đề hết sức phức tạp và đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Cho
đến nay vẫn còn tồn tại hai loại ý kiến: ý kiến thứ nhất cho rằng, ngành Thái
Trắng và cả một bộ phận Thái Đen có ngồn gốc bản địa. Vào đầu thiên niên
kỷ I, tổ tiên Tày – Thái cổ, đã từng tham gia vào việc xây dựng quốc gia Âu
Lạc của Thục Phán An Dương Vương, sau đó một bộ phận di cư sang phía
Tây, tách khỏi bộ phận gốc là người Tày hiện nay. Loại ý kiến thứ hai cho
rằng, người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam vốn di cư từ miền Tây Nam của
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) sang vào nhiều giai đoạn khác nhau. Loại ý kiến
này được soi sáng bởi những ghi chép trong các tập sử thi như “Quám tô
mương” (kể chuyện bản mường), “Tay pú xấc” (chuyện cha ông đánh giặc)
của người Thái Tây Bắc. Theo những ghi chép trong hai tập sử thi này, chúng
ta biết được người Thái di cư vào vùng Tây Bắc Việt Nam làm nhiều đợt khác
nhau bắt đầu từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A14
Khóa luận tốt nghiệp
Theo tập sử thi “Quám tô mương”, bộ phận Thái Đen có mặt ở Mường
Thanh – Điện Biên vào thế kỷ thứ X. Thời ấy có một vị tướng tên là Khun Bó
Rôm, được sinh ra tại bản Na Nọi (bản ruộng bé, thuộc xã Nà Tấu, huyện
Điện Biên, tỉnh Điện Biên), nơi có một phiến đá lớn tên là Đá Ang Nàng (Hin
Chong Nang) vốn được người đời cho là “cái ang” của mẹ Then tắm rửa cho
chủ tướng kho mới sinh nở. Lớn lên, Khun Bó Rôm phát hiện ra đất Mường
Thanh rộng lớn, bằng phẳng, ngài lập tức cho dân xuống khai khẩn thành
cánh đồng lớn. Về sau, thấy đất Mường Thanh màu mỡ, người Lự mới di cư
đến đây xây đắp mương Viêng Sam Mứn (thành “ba vạn”). Tương truyền
trong vòng thành có 30.000 chiếc cối giã gạo. Đến thế kỷ XVIII, di tích này
được ghi trong sử sách Việt Nam gọi là Tam vạn thành. Khun Bó Rôm có 7
người con trai, anh cả là Khun Lò đã đưa người Thái Đên từ đất Mường
Thanh theo đoàn chinh chiến xâm nhập nước Lào. Người Thái Đen do Khun
Lò chỉ huy đã đánh bại sức kháng cự của người Khạ tại nơi sông Nậm U đổ
vào sông Mê Công do Khun Cán Hạng cầm đầu, chiếm được Mường Sao
(Thái Đen gọi là Mường Sao Va), lập ra mường Xiêng Đông – Xiêng Thong
phát triển thành mường Luông Pra Băng, nghĩa tiếng Thái là “Mường lớn có
núi thiêng che chở”. Người Thái Đen nơi đây chuyển thành người Lào và
quên hẳn gốc Thái Đen của mình trước kia.
Theo Khun Bó Rôm, còn có một bộ phận Thái Đen di cư đến vùng
Mường Xang (Mộc châu – Sơn La) vào thế kỷ XIV, theo sự dẫn dắt của vị thủ
lĩnh tên là Pha Nha Nhọt Chom Khăm. Khi đến đây có người Thái Trắng (Táy
Khao) cư trú đông đúc. Chính bộ phận Thái Trắng này đã làm hậu thuẫn để
thủ lĩnh Chom Khăm đánh bại người Xá lếm xá lẻ và giành quyền làm chủ đất
này. Hai bộ phận Thái này về sau hòa nhập thành Thái Trắng.
Một bộ phận Thái Đen khác cũng hình thành xã hội bản – mường ở
vùng Nặm Lài – Nong Se, Mường Tung Hoàng, Mường Ôm – Mường Ai, lưu
vực thượng nguồn sông Hồng thuộc huyện Tây Nam, tỉnh Vân Nam, Trung
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A15
Khóa luận tốt nghiệp
Quốc. Theo các tập sử thi Quám tô mương, Tay pú xấc và nhiều tập sử thi
khác, vào khoảng thế kỷ XI, có hai thủ lĩnh tên là Tạo Xuông và Tạo Ngần
thuộc dòng dõi quý tộc Mường Ôm – Mương Ai đất Tum Hoàng (Vân Nam –
Trung Quốc) đã chỉ huy đội quân chinh chiến va dẫn dắt người Thái Đen gồm
12 họ gốc di cư xuôi dọc sông Thao (sông Hồng) đên Trái Hút (nay thuộc tỉnh
Lào Cai) rồi rẽ vào Mường Min (Gia Hội – Tú Lệ) để rồi đến Mường Lò
(huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái).
Sau khi ổn định cư trú, Tạo Ngần trở lại Mường Ôm- Mường Ai, rồi
chuyển sang Mường Bo Té để nhường đất Mường Lò cho Tạo Xuông chỉ huy
người Thái Đen khai phá thành cánh đồng ruộng lớn. Về sau, Mường Lò phát
triển thành mường trung tâm, quy tụ dân Thái cúng các tộc người khác ở mọi
nơi. Từ đó Mường Lò thành một chặng quê tổ của người Thái Đen.
Từ Mường Lò một bộ phận Thái tiếp tục thiên di ngược trở lại đầu
“sông Thao nước đỏ”, một hướng khác tiếp tục xuôi theo sông Hồng, lập ra
Mường Hồng – Mường Hằng (huyện Trấn Yên – Yên Bái). Một hướng họ đi
vào cánh đồng Mường Tấc để cộng cư và hòa nhập với người Thái Trắng đã
có mặt từ trước.
Sang thế kỷ XII, đoàn quân chinh chiến dưới sự chỉ huy trực tiếp của
thủ lĩnh Lạn Chượng (Lò Lạn Chượng) con út của Tạo Lò, cháu đích tôn của
Tạo Xuông mở đường đưa người Thái Đen từ Mường Lò và các vùng hữu
ngạn sông Thao, tràn vào miền lưu vực sông Đà, sông Mã và sông Nậm U.
Sau 20 năm chinh chiến và di cư, đội quân Lạn Chượng đã chiếm được cánh
đồng Mường Thanh. Đến đây người Thái Đen mới đến hào nhập với bộ phận
Thái Đen và người Lự vốn làm chủ nơi này từ trước đó.
Nhìn chung, bắt đầu từ thế kỉ XII trở đi, các vùng người Thái ở Việt
Nam đã ổn định nơi cư trú và bắt tay vào việc xây dựng bản mường của mình.
Buổi đầu, khi mới làm chủ và xây dựng bản mường, miền Tây Bắc Việt Nam
phân thành ba vùng: Phía Bắc, các mường của người Thái Trắng kiên kết với
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A16
Khóa luận tốt nghiệp
người Lự quy tụ vào trung tâm Mường Lay. Phía nam các mường Thái Đen
và Thái Trắng cũng hình thành và quy tụ vào trung tâm Mường Xang (Mộc
Châu) và vùng giữa là các mường của người Thái Đen quy tụ vào trung tâm
Mường Muổi (Thuận Châu).
1.2.3. Xã hội truyền thống
- Thiết chế xã hội:
Xã hội của người Thái nói chung và người Thái Tây Bắc nói riêng
được hình thành trong lịch sử tộc người. Thiết chế tự quản cơ bản của người
Thái là Bản Mường. Đứng đầu bản là Tạo Bản, trên bản là Tạo Luông (cai
quản một số bản). Bản là một tổ chức cư dân ổn định có ranh rới đất đai rõ
rệt. Cộng đồng lãnh thổ như thế đã in hằn thành khái niệm trong ý thức hệ
truyền thống nên mới có thuật ngữ biểu thị là “đất bản” (đin bản)..
Bản của người Thái thường được lập ở chân núi, đối, xung quanh các
thung lũng, cánh đồng và phần lớn đều là những điểm tụ cư đông đúc, có bản
tới hàng trăm nóc nhà.
Mỗi bản thường có tên gọi riêng. Có tên bản gọi theo tên ruộng (bản Nà
Pán), tên khe suối (Nâm Pố, Nậm San, Huổi Cọ, Huổi Con), cây cỏ (Co
Kham), thú vật có nhiều quanh (Huổi Luông)...
Làng bản của người Thái được cấu trúc theo lối mật tập, trong bản
thường có đường đi chính, to, rộng và hệ thống ngõ, lối. Làng bản thường
được tạo lập trong các thung lũng lòng chảo,men theo các sườn đồi, dọc theo
hai bên sông suối. Phía trước thường là cánh đồng, con suối, phía sau tựa lưng
vào đồi núi. Quy mô làng bản to nhỏ khác nhau. Bản lớn có đến 100 nóc nhà,
bản nhỏ cũng trên 50 nóc.
Trong xã hội cũ, Mường thường có lãnh địa là cả một vùng hoặc nhiều
thung lũng rộng lớn, các bản trong vùng đều chịu sự quản lí của mường.
Đứng đầu Mường là Tạo Mường. Mường xưa kia do dòng họ quý tộc, bao
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A17
Khóa luận tốt nghiệp
gồm họ gốc: Lò, Cầm, phân chia thành Cầm, Bạc Cầm, Điêu, Hoàng…cai
quản.
- Tổ chức dòng họ:
Trong một mường, một bản của người Thái có nhiều dòng họ cùng cư
trú. Dòng họ quý tộc của người Thái bao gồm họ gốc là Lò Cầm. Họ Lò Cầm
được chia thành các họ: Cầm, Bạc, Điêu và Hoàng.Ngoài ra, dòng dõi người
Thái còn có họ Vi Khăm (có nơi gọi là Sầm), Kha Khăm (có nơi Hóa, Nghệ
gọi là Cầm), từ các dòng họ này phân ra thành các họ: Hà, Sa. Ở Thanh Hóa,
Nghệ An có những dòng họ gốc dần trở thành quý tộc, mang thêm chức vị
được phong bên cạnh tên họ,ví dụ như các họ Hùn Vi, Mứn Quàng.
Các dòng họ bình dân bao gồm: Lò, Lộc, Lự, Quàng,Vi, Cà …và các
họ của các tộc người khác sống chung với người khác như Nguyễn, Phùng,
Lý, Lâm..Các dòng họ bình dân được chia thành 3 đẳng cấp: Nông dân tự do
(páy,táu), nông dân bán tự do (cuông, nhuốc) và gia nô (côn, hươn, khỏi)
Quan hệ dòng họ của người Thái được biểu hiện ở hai khía cạnh:
Khía cạnh tô tem giáo: Tức những dòng họ gốc Thái thường có một
hèm liên quan đến một sinh vật, một vật vô tri hay một hành động trùng tên
với dòng họ. Ví dụ: họ Lò không ăn thịt chim táng Lò, không ăn măng lò; họ
Quàng kiêng ăn, giết thịt hổ; họ Cà kiêng ăn, giết chim cốt ca (bìm bịp).
Khía cạnh quan hệ dòng họ liên minh biểu hiện ra:
Quan hệ Ải nọng là những thành viên nam của dòng họ, cùng một tổ
tiên, người Thái gọi là Đẳm, có “ải nọng huôm po” (anh em cùng cha), ải
nọng huôm pú” (anh em cùng ông), “ải nọng huôm pẩu” (anh em cùng cụ)…
Quan hệ Lúng ta là các thành viên nam bên vợ (gọi là “lun ta phạ
bóm”), các thành viên nam bên mẹ( lung ta me), các thành viên nam bên bà
nội (lung ta da)…
Quan hệ Nhính xao là các thành viên nam bên anh/em rể( nhinh xao”
hay “nhinh xao chảu”), các thành viên nam bên con rể ( nhinh xao mang lujk)
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A18
Khóa luận tốt nghiệp
… quan giữa “lung ta” và “nhính xao” là quan hệ thông gia, nhưng được phân
cấp rõ ràng.
Ba hình thái này xuất phát từ quan hệ hôn nhân thuận chiều, tàn tích
của liên minh thị tộc. Trong ba quan hệ đó quan hệ của những người Ải nọng
là cơ bản, quan hệ của những người có trách nhiệm duy trì sự trường tồn của
dòng họ, chăm lo đến sự phát triển của dòng họ ngày thêm hưng thịnh. quan
hệ Lúng ta rất quan trọng biểu thị chủ yếu là vị trí của ông cậu đối với cháu
ngoại.
- Gia đình
Trong xã hội thái gia đình là một tế bào của xã hội quan trọng với tính
chất phụ quyền rõ rệt, người chồng là đại diện của gia đình trong mọi quan hệ
xã hội, là người quyết định cuối cùng mọi công việc của gia đình. Nếu trong
nhà bố chồng còn sống thì quyền chủ nhà thuộc về bố chồng (ông nội), khi
cha chết thì con trai cả sẽ làm chủ nhà.
Ngoài các gia đình nhỏ vẫn tồn tại trong cộng đồng, người Thái còn
sinh hoạt gia đình dưới dạng đại gia đình. Trong đại gia đình, người đứng đầu
chịu trách nhiệm điều khiển mọi công việc về kinh tế, sinh hoạt, cưới xin, ma
chay, thờ cúng…Các thành viên trong đại gia đình thường chung sống hòa
thuận, con cái chăm sóc chung, không phân biệt con anh con em. Đại gia đình
người Thái sống có nề nếp, có tôn ti, hiếm thấy có xung đột hầu hết là yêu
thương đùm bọc nhau.
- Hôn nhân và cưới xin
Ngày xưa, do xã hội Thái là một xã hội khá phát triển vì vậy việc hôn
nhân của con cái là do bố mẹ định đoạt và có mang tính chất mua bán. Tiêu
chuẩn chọn cô dâu, chú rể phải xứng đáng với đẳng cấp của dòng họ, địa vị
của gia đình. Có sự ngăn cách giữa kẻ giàu, người nghèo, giữa quý tộc và
bình dân. Con trai bình dân có chức quyền và giàu sang vẫn được lấy con gái
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A19
Khóa luận tốt nghiệp
quý tộc, còn những chàng trai bình dân nghèo thì không được lấy con gái quý
tộc. Con gái bình dân có thể lấy con trai quý tộc nhưng chỉ được làm vợ lẻ.
Ngày nay trai gái yêu nhau và đi đến hôn nhân là do tự nguyện sau khi
đã xin phép sự đồng ý của gia đình.
Trong cưới xin của người Thái có nhiều điều thú vị và trải qua các trình
tự : ôm chóm (đánh tiếng), mai(đặt dấu), vay(ăn hỏi) duông vịa(thử thách rể),
cáo, xống khơi (cưới, tiễn rể), xú phả (nhập phòng), pau máư dam hươn (dâu
mới đến thăm nhà chồng), cưới đong (cưới xin dâu về nhà chồng), tỏn
pạu( đón dâu về nhà chồng).
- Sinh đẻ và nuôi dạy con cái
Sinh đẻ và nuôi dạy con cái là bổn phận tự nhiên của con người. bất cứ
ai, dân tộc nào cũng đều trú trọng đến tập quán này, nhưng mỗi dân tộc sẽ có
cách thức sinh đẻ và nuôi dạy con cái khác nhau. Với người Thái khi biết con
dâu có thai, cả gia đình có trách nhiệm và tìm mọi cách cho người có thai
mạnh khỏe và thoải mái nhất. việc tiếp theo là người có thai phải ăn kiêng
một số thức ăn nhất định như thịt cá, và một số việc làm có hại cho mẹ và cái
thai trong bụng.
Người Thái có tập quán đẻ ngồi ngay cạnh bếp lửa, lúc này người
chồng không được rời vợ một bước, người chồng phải ngồi sau lưng bà vợ để
vừa làm chỗ dựa vừa chia sẻ sự đau đớn của người vợ lúc vượt cạn. Đây là
một tập quán đầy tính nhân văn của người Thái.
Người Thái rất chú trọng đến việc dạy dỗ con cái. Con gái theo mẹ làm
nghề của phụ nữ từ 8 đến 10 tuổi. cũng ở tuổi này bắt đầu tập lao động, làm
nương dệt vải…con trai làm các công việc đồng áng để khi lớn lên các em
vững trãi trong cuộc sống. đặc biệt sau khi lấy vợ, trong thời gian ở rễ , bố vợ
có trạch nhiệm dạy dỗ con rể lao động, làm những việc từ mài dao đan gùi…
đến các tập quán, lễ nghi trong ứng xử hàng ngày.
- Tang ma
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A20
Khóa luận tốt nghiệp
Tang ma của người Thái được thực hiện theo quy trình tuân thủ nghiêm
túc những tục lệ đã hình thành từ lâu đời. họ quan niệm chết đi là sống ở thế
giới bên kia nên người chết khi đem chôn được chia của như người sống.
người ta làm nhà mồ ngay trên mộ người chết và trong nhà (nhà sàn) có cả
các dụng cụ sinh hoạt như chăn, đẹm, cuốc, dao…thậm chí còn thả cả gà, lợn
cho người chết sau đó lại bắt về. Có nơi, người Thái thực hiện hỏa táng.
1.2.4. Đặc điểm mưu sinh
- Trồng trọt
Người Thái Tây Bắc vốn là cư dân nông nghiệp và là cư dân sinh sống
lâu đời nhất ở đây, họ sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và trồng
lúa nương. Vì vậy, ngay từ đầu đặt chân đến mảnh đất này, người Thái đã tập
trung đến việc khai phá ruộng đất ở những thung lũng thành những cánh đồng
rộng lớn. Trong vốn tri thức dân gian của người Thái, những kinh nghiệm
canh tác ruộng nước, nhất là những kinh nghiệm liên quan đến việc “dẫn thủy
nhập điền” rất phong phú và ảnh hưởng đến các anh em trong vùng. Hệ thống
“Mương, phai, lái, lịn” đã trở thành biểu tượng nông nghiệp Thái nói riêng và
văn hóa Thái nói chung.
Ngoài ra việc canh tác trồng trọt trên nương rẫy của người Thái cũng
có sự kết hợp của nhiều loại hình kỹ thuật khác nhau như: có nương cày,
nương cuốc, nương phát – đốt – gieo trồng…Trong khai thác nương rẫy họ đã
có những tiến bộ nhất định trong việc xen canh gối vụ trên nương. Ngoài cây
lúa nếp, người Thái còn trồng các loại cây ngô, sắn, dâu tằm, chàm, bầu bí…
Trong đó cây bông được chú trọng nhiều hơn vì là cây nguyên liệu chính
phục vụ cho sản xuất nguyên liệu đáp ứng nhu cầu dệt thổ cẩm làm trang
phục. Đã từ lâu người Thái Tây Bắc đã biết trồng bông, dệt vải để làm chăn
ấm, đệm êm, biết thêu thùa đồ dùng cá nhân hằng ngày, đặc biệt là biết tự tay
cắt may nên bộ trang phục truyền thống của mình, những sản phẩm đó có thể
trao đổi mua bán với các tộc người khác trong vùng.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A21
Khóa luận tốt nghiệp
- Chăn nuôi
Chăn nuôi gia đình của người Thái cũng được chú trọng trong cơ cấu
kinh tế của người Thái. Các loại vật nuôi chủ yếu là trâu, bò, lợn, gà…nhằm
cung cấp sức kéo cho sản xuất nông nghiệp và đáp ứng nhu cầu thực phẩm
cho đời sống hằng ngày cũng như phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn hóa
cộng đồng. Điều đáng chú ý trong chăn nuôi của người Thái là chăn nuôi tằm
rất phát triển để đáp ứng nguyên liệu cho may mặc.
- Ngành nghề thủ công
Nghề thủ công của người Thái rất phong phú, phát triển đến trình độ
cao. Trong các nghề thủ công, nghề dệt là phát triển nhất. Sản phẩm dệt bao
gồm: chăn, màn, đệm, gối, quần áo, túi đeo, khăn piêu…Để làm ra những
chiếc váy áo, khăn piêu thổ cẩm hoàn chỉnh thì người Thái phải trải qua rất
nhiều công đoạn: kéo sơi, nhuộm màu, dệt vải, cắt may, thêu…Đó là công
việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự khéo léo, cần cù, chăm chỉ của người phụ
nữ Thái. Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm với những hoa văn
đặc sắc, màu sắc hài hòa, bền đẹp.
Nghề đan lát là công việc của đàn ông, họ thường đan những vật dụng
hằng ngày như nong, nia, dần, sàng. Ngoài ra, còn có nghề thủ công mang
tính chuyên nghiệp như nghề rèn công cụ: xẻng, cuốc, lưỡi cày, dao, kéo…Họ
còn biết dùng bàn xoay trong nghề gốm với độ nung cao tạo thành những
chum, vò, nồi, chõ đất, bát đĩa đạt trình độ cao về kĩ thuật và mỹ thuật.
Nói đến săn bắt hái lượm, ta không thể không nhắc đến vai trò của
người phụ nữ và người đàn ông trong gia đình. Người phụ nữ Thái rất giỏi hái
măng, mộc nhĩ, củi và các loại rau rừng, còn đàn ông sau mỗi ngày đi làm
ruộng, làm nương về thì vào rừng săn thú để cải thiện bữa ăn cho gia đình.
Như vậy có thể thấy đặc trưng cơ bản trong nền kinh tế của người Thái
là: Trồng lúa nước và lúa nương giữ vai trò chủ đạo, còn các hoạt động kinh
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A22
Khóa luận tốt nghiệp
tế khác như trồng nương sắn, nương ngô, lạc, chăn nuôi, săn bắn, hái lượm
đều là nghề phụ.
1.2.5 Văn hóa vật chất
- Nhà ở
Người Thái Tây Bắc thường ở nhà sàn. Nhà sàn người Thái gồm hai
loại: nhà mái tròn hình mai rùa có khau cút ở hai đầu của người Thái Đen và
nhà có bốn mái phẳng của người Thái Trắng. Nhà của người Thái được làm từ
những nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên như tre, gỗ, nứa, lá và là nhà vì cột.
Con số ưa thích được dùng cho số đòn tay, bậc thang lên xuống, số lượng cửa
chính, cửa sổ…là số lẻ vì đồng bào quan niệm số lẻ là số phát triển cần được
thêm vào. Nhà có cầu thang bên đầu hồi, bên quản dành cho nam giới và
khách, bên chan dành cho gia đình và phụ nữ, Nhà được chia làm 3 tầng:
Tầng thứ nhất dưới gầm sàn (lang) là chỗ ở của gia súc hoặc để củi.
Tầng thứ hai là mặt sàn (hạn hươn) là không gian sinh hoạt của gia đình. Tầng
thứ ba là gác trên quá giang (khứ hươn hay thạn) là nơi cất những đồ vật quý.
Hiện nay, do nhiều lý do khác nhau, nhiều gia đình Thái đã chuyển
sang ở nhà nền đất, nhất là những vùng gần trung tâm thị trấn hay gần đường
quốc lộ. Hiện nay cũng có một số gia đình ở nhà đất hoặc nhà xây.
- Trang phục
Tất cả các ngành, các nhóm địa phương Thái đều có trang phục cơ bản
giống nhau về đường nét tạo dáng đến cách ăn mặc; khác nhau ở chỗ mỗi
ngành, mỗi nơi có một kiểu cách trang trí các chi tiết hoặc chọn màu sắc khác
nhau.
Trong trang phục của người Thái, đặc sắc hơn cả là trang phục nữ,
vừa đẹp, gọn nhưng không cầu kỳ, vừa làm nổi bật những đường nét của thân
hình phụ nữ. Màu sắc được sử dụng rất khéo, trên nền đen hay trắng, áo điểm
hàng huy bạc đơn giản nhưng trạm chỗ tinh vi. Nó đã trở thành niềm tự hào
không chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn hóa rất đặc sắc trong
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A23
Khóa luận tốt nghiệp
kho tàng văn hóa vật thể của dân tộc Việt Nam. Về cơ bản trang phục nữ của
dân tộc Thái gồm:
Váy: (xỉu hoặc nôổng): Váy Thái được tạo bởi bốn tấm vải khổ 0,4
m, dài từ ngang thắt lưng tới chấm gót, phía trên có cạp váy hay đầu váy (hua
nịu) cao khoảng 10 cm bàng vải xanh hoặc đỏ, gấu váy cũng khâu nẹp thường
là màu đỏ cao khoảng 3 cm. Váy có lót bên trong, thường là màu trắng, may
ngắn hơn váy ngoài độ 15 cm. Váy phổ biến là màu đen, đôi khi là màu chàm,
khi mặc váy có thể gấp trước bụng hay bên sườn. Ở nhà người Thái thường
mặc váy để dài, lao động trên ruộng nương thì xắn váy lên theo cách túm một
góc gấu váy nâng ngược lên cài vào cạp váy một cách khéo léo, váy ôm khép
kín từ hai đầu gối trở lên. Ngày nay nhiều người phụ nữ Thái có thói quen
mặc váy ngắn ngang bọng chân để tiện dụng khi lao động, sinh hoạt, ngỉ ngơi.
Váy mặc lao động thường ngày may bằng vải thường, váy mặc ngày lễ tết,
váy cưới may bằng lụa, lanh, sa tanh, nhung.
Thắt lưng: (xai ẻo) thường bằng lụa tơ tằm nhuộm màu xanh lá cây, hai
đầu can thêm hai mảnh vải đỏ thêu thùa có rua ba phía. Khi xai ẻo quắn vào
giữ chặt cạp váy, hai miếng vải để hai đầu được giắt vào trước bụng hoặc lệch
sang bên hông, thắt lưng không có trang trí trừ hai đầu có tua.
Áo: (xửa) gồm có:
Xửa hổm nôm là cái áo lót bên trong, may bằng một tấm vải khoét lỗ
chiu đầu, phủ trùm hai vai xuống trước ngực, đính khuy hai bên sườn. Ngày
nay họ đã bỏ kiểu áo này, dùng áo lót như phụ nữ kinh.
Xửa cỏm là cái áo ngắn, áo may dài tay hẹp, thân cũng hẹp, bó sát
người. Áo chỉ ngắn đến thắt lưng, khi mặc gấu áo giấu trong thắt lưng. Áo
phụ nữ Thái nổi bật là hàng khuy dọc trước bụng. Khuy có thể tết bằng vải
hoặc bàng bạc hình con bướm, ve sầu… gọi là măk pém, ngày nay hiếm bạc
thì làm bằng nhôm. Giải thích về măk pém có nhiều cách; măk là quả, nghĩa
bóng là nhành cây, bông hoa mà phụ nữ là đại diện cho sự sinh nở nên măk là
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A24
Khóa luận tốt nghiệp
khai hoa kết quả, còn pém là bám vào, mà theo quan niệm của người Thái
chiếc áo là nơi trú ngụ của hồn người cho nên sự sinh sôi bám vào áo người
phụ nữ. Măk pém còn được giải thích như sau: bên khuyết là giống cái (nữ),
bên khuy là giống đực (nam), con gái chưa chồng hàng cúc mang số lẻ như
còn chờ đợi cặp đôi; có chồng hàng cúc mang số chẵn như mong ước cuộc
sống hạnh phúc trọn vẹn. Áo ngắn dùng khi lao động may bằng vải thường;
áo lễ hội, cưới xin may bằng lụa, sa tanh. Áo thường màu trắng, màu đen,
màu xanh lam hoặc màu lá cây. Bộ váy áo thắt lưng của người phụ nữ Thái
vừa kín đáo vừa phô bày những đường cong tuyệt mỹ làm nên nét quyến rũ
của người phụ nữ.
Khăn piêu: Phụ nữ chưa chồng búi tóc thả xuống sau gáy, khi có chồng
búi tóc chổng ngược đỉnh đầu sau đó đầu đội chiếc khăn piêu. Piêu là một tấm
vải bông nhuộm tràm hai đầu có nhiều hoa văn, chỉ màu phối hợp sặc sỡ.
Khăn piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông giá
lạnh. Khăn piêu không những là vật trang sức quan trọng trong lúc đi chơi
hay trong lễ hội mà còn là tín vật của tình yêu: Khi người con gái tặng piêu
cho người yêu là trao cả tấm chân tình.
Xà cạp (pe păn kha) là miếng vải như cờ đuôi nheo nhuộm tràm. Phụ
nữ Thái quắn xà cạp quanh bắp chân khi đi làm đồng vừa để chống giá lạnh
vừa để bảo vệ da ở bắp chân.
Trang sức của phụ nữ Thái có: Trâm cài tóc (may khắt cẩu), đôi hoa tai
(cóng ku), vòng cổ (pok cô), đôi vòng đeo hai cổ tay (pok khẻn), bộ xà tích
(pua sỏoi) đều được làm bằng bạc, trạm chỗ đẹp, công phu. Đó là những đồ
trang sức quý giá nhất.
Đàn ông Thái thì mặc quần dài màu đen, trắng bằng vải dệt, được may
theo kiểu quần ống “chân qùe”. Áo nam giới ngắn, xẻ ngực cài băng nút vải
(thắt nút), có hai túi dưới và túi ngực, đầu chít khăn mỏ rìu.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A25
Khóa luận tốt nghiệp
Ngày nay nam giới người Thái mặc âu phục khá phổ biến, nhưng phụ
nữ vẫn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang sức theo truyền thống dân
tộc.
- Ẩm thực
Lương thực chính của người Thái là gạo nếp. Người Thái thích ăn gạo
nếp hơn gạo tẻ. Csơm nếp thơm ngon ăn cùng với các món ăn được chế biến
từ thịt thú rừng, hay các món cá và các loại rau rừng là các bữa ngon và thú vị
của người Thái Tây Bắc.
Các món ăn Thái được chế biến rất ngon, họ thường thích ăn luộc, đồ,
nướng, ăn sống hoặc tái chín cùng các loại gia vị chua, cay, chát… từ thịt của
một số động vật nuôi như lợn, gà, bò hay là các loại thịt thú rừng họ săn bắt
được có thể chế biến ra nhiều món đặc sản.
Cá là món ăn hằng ngày và không thể thiếu trên các mâm cúng hay
mâm cơm mời khách.Người dân Thái có câu nói cửa miệng “Pay kin pa, má
kin lẩu” (Đi ăn cá, về uống rượu)
Đặc biệt từ các loại cá, người Thái có những món cá đặc sản như món
cá gỏi, món cá hấp, cá pỉnh tộp, cá sấy, cá ướp chua… Món nặm pịa là sữa
bột đắng ở ruột non trâu, bò, hưu, nai… là món không thể thiếu được trong
các bữa ăn của người Thái. Trong ăn uống người Thái thích uống rượu đặc
biệt là rượu cần và rượu nếp, ngày thường đồng bào Thái uống nước đun từ lá
cây và uống nước lã.
Đồng bào ưa hút thuốc lào và phụ nữ thích ăn trầu.
- Phương tiện vận chuyển
Người Thái Tây Bắc vận chuyển bằng gánh đôi dậu đựng các thứ, đi
rừng đi núi thì đeo gùi, dùng ngựa cưỡi, thồ hàng. Dọc các dòng sông thì đi
bằng thuyền đuôi én.
1.2.6. Văn hóa tinh thần
- Ngôn ngữ và chữ viết
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A26
Khóa luận tốt nghiệp
Người Thái là một trong số ít các dân tộc thiểu số ở nước ta có chữ viết
từ lâu đời, chữ Thái có nguồn gốc từ chữ Phạn- văn tự ấn độ cổ đại. Từ nhiều
thế kỷ trước, chữ Thái cổ đã được dùng để sáng tác văn học, ghi chép văn học
dân gian.
Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày – Thái, cùng hệ ngôn ngữ với tiếng
Tày, Nùng gần với tiếng Lào và tiếng Thái Lan, đây cũng là thứ tiếng phổ
biến ở vùng Tây Bắc.
- Tôn giáo, tín ngưỡng
Người Thái cũng như các tộc người ở Tây Bắc đều theo tín ngưỡng đa
thần. Người Thái tin rằng, trên trời có Then Luông là đấng tối cao cai quản
trời đất, muôn loài, Then Luông được các thần cai quản giúp việc. Dưới trần
gian đều có các ma (phi) cai quản. Bất kỳ làm việc gì từ lập bản, khai ruộng,
phát mương đến đánh cá, săn thú đều phải xin phép ma ruộng, ma nương, ma
rừng, ma suối…Những vị thần trên trời, các ma dưới trần gian cùng với ma
nhà (phi hươn), ma họ (phi đẳm) những ông bà cụ kị đã khuất (pú pẩu) là
những lực lượng phù hộ, bảo vệ người Thái.
Từ quan niệm như vậy nên người Thái có những nghi thức và tập tục
cúng theo cách của riêng mình. Thông qua các lễ hội trong năm, họ tổ chức lễ
cúng bản (xên bản), cúng mường (xên mường), cúng nhà (xên hươn)…hoặc
cúng tế một cái gì đó rất cụ thể như một hòn núi thiêng, một tảng đá lớn, một
khúc sông…mà họ cảm thấy ở đó xuất hiện sự linh thiêng, huyền bí để cầu
mong được sự bao dung, che chở của các đấng siêu nhiên.
Cũng từ quan niệm về cái thực, cái hư như vậy, nên khi có người chết,
ông mo sẽ dẫn hồn về nhập “Đẳm” tức là tổ tiên ở thế giới bên kia, và được
mang theo một số của cải, bởi vậy đối với họ chết là tiếp tục “sống” ở cõi hư
vô, về với sự vĩnh hằng nơi “Mường trời”.
- Lễ hội truyền thống
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A27
Khóa luận tốt nghiệp
Trong một năm, người Thái Tây Bắc có rất nhiều lễ, tết khác nhau như:
Xên bản xên mường (cúng thần bản, thần mường), lễ tỏn cộ (lễ đón cỗ), Xến
Xó Phốn (lễ cầu mưa), Kin khảu mớ (lễ cơm mới)…
Trong các dịp lễ, tết người Thái thường tổ chức múa, hát:xòe, múa
khăn, múa nón hay trai gái “Khắp báo xao” (hát trai gái giao duyên). Các trò
chơi thú vị như: Tót cón (ném còn), Tót én cáy (chơi cầu lông bằng tay), Tó
Mak Lẹ (chơi trò chơi bằng quả Lẹ)…Đó là các sinh hoạt văn hóa đậm đa bản
sắc dân tộc, vừa vui chơi, vừa mang ý nghĩa giáo dục truyền thống.
- Văn nghệ dân gian
Sinh sống hàng ngàn năm trên dải đất Việt Nam, thừa hưởng một nền
văn minh lớn lao của cha ông, người Thái Tây Bắc đã góp phần không nhỏ
vào kho tàng văn hóa chung của dân tộc Việt Nam. Nhờ có văn tự, cư dân
Thái đã lưu lại cho đến nay nhiều sách, truyện ghi lại trên giấy bản, trên lá
cây. Đó là những cuốn sách sử chép tay dài hàng trăm trang, ngững bộ luật,
những tập quán pháp tương đối hoàn chỉnh phản ánh tình hình xã hội đương
thời, những bản trường ca đọc cả hai, ba đêm dòng xúc động lòng người,
những truyện thơ tuy khuyết danh nhưng đầy chất trữ tình nói lên cảm xúc
mãnh liệt của cả dân tộc với thiên nhiên tươi đẹp, với con người, với tình yêu
đôi lứa, nói lên khát vọng của cả dân tộc hướng đến các thiện, cái đẹp, những
tập tục ngữ, dân ca Thái phản ánh quá trình chinh phục tự nhiên, tích lũy kinh
nghiệm của cuộc sống nhưng qua đó cũng thấy được tính cách, tâm hồn và
nghệ thuật phong phú, đặc sắc.
Nổi tiếng nhất trong kho tàng văn học dân gian Thái là các tác phẩm:
Xống chụ xôn xao, Khun Lú Nàng Ủa, Hiến Hom- Cầm Đôi, Khăm Panh…
Bên mỗi bếp lửa mỗi nóc nhà, người già kể chuyện cho lũ trẻ, những câu
chuyện trong kho tàng dân gian Thái có thể kể hết đêm này sang đên khác, hết
tháng này sang tháng khác mà vẫn không hết.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A28
Khóa luận tốt nghiệp
Nói đến nghệ thuật Thái không thể không nói tới hát khắp, múa xòe.
Vào các dịp tết, lễ hội, sau một vài tuần uống rượu vui, mọi người tay cầm tay
cùng múa vui trong không khí nhộn nhịp của tiếng trống, tiếng cồng chiêng.
Cuộc xòe vui không biết bắt đầu từ bao giờ và khi nào kết thúc, chỉ biết là hơi
men của rượu, hơi ấm của bàn tay cùng ân vang thôi thúc giòn giã của tiếng
cồng chiêng làm ấm lòng người, mọi người gần gũi nhau hơn và như muốn
cùng nhau hòa vào khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ.
- Tri thức dân gian
Nói đến kho tàng tri thức dân gian đầu tiên phải kể đến lịch pháp vì đó
là tri thức quan trọng nhất của một dân tộc về sự vận hành vũ trụ, nó không
chỉ là cơ sở để tính thời gian mà còn là cơ sở để nhận biết các chu kỳ sinh
hoạt văn hóa, hoạt đọng kinh tế …của cộng đồng.
Hiện nay, dân tộc Thái Tây Bắc dùng lịch Thái trong đời sống hằng
ngày. Hầu hết những người từ trung niên đến cao tuổi đều nắm chắc lịch Thái,
người Thái ở đây vẫn thờ cúng theo ngày Can của lịch Thái, nên cứ mười
ngày cúng một lần. Ở các bản đều có các ông mo hay po mự để xem ngày tốt
xấu cho những ai có nhu cầu, như ngày cưới vợ, gả chồng, khởi công hoặc lên
nhà mới…Các ông này thường có cuốn sổ cổ làm căn cứ cho việc tính toán và
chọn ngày, đồng thời họ tự soạn ra những nội dung lịch hằng năm để cung
cấp cho nhân dân trong vùng.
Tiểu kết
Tại chương 1 người viết đã khái quát những vấn đề cơ bản liên quan
đến người Thái Tây Bắc bao gồm đặc điểm tự nhiên, đặc điểm dân cư, thành
phần dân tộc vùng người Thái cư trú. Khái quát về tên gọi, dân số, đặc điểm
mưu sinh, xã hội truyền thống, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của người
Thái. Đặc điểm cơ bản rút ra từ vấn đề này là: Người Thái Tây Bắc sống chủ
yếu ở khu vực miền núi, nơi gặp nhiều khó khăn hơn các vùng khác về giao
thông, giao lưu, phát triển kinh. Nhìn về góc độ kinh tế đây là những hạn chế
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A29
Khóa luận tốt nghiệp
gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, đời sống
tinh thần của người dân trong vùng. Tuy nhiên, nhìn về góc độ văn hóa, chính
những khó khăn đó lại là điều kiện thuận lợi giúp cho đồng bào Thái bảo lưu
được vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình trong đó có văn học dân
gian, hạn chế sự du nhập ồ ạt của văn hóa ngoại lai làm biến dạng văn hóa
bản địa
Dân tộc Thái là một trong số các dân tộc thiểu số ở nước ta có chữ viết
từ lâu đời. Do người Thái có chữ vết nên kho tàng văn học dân gian như
truyền thuyết, ca dao, truyện thơ, văn học, dân ca và một số luật lệ còn được
lưu giữ và truyền lại khá nguyên vẹn qua các bản ghi chép trên giây bản và
trên lá cây. Một số tác phẩm truyện thơ nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay
như: Xống chụ xôn xao, Khun Lú – Nàng Ủa, Khăm panh, Hiến Hom – Cầm
Đôi…
Dân tộc Thái có số dân đông thứ ba sau người Kinh và người Tày. Dân
số đông cộng với có chữ viết là những điều kiện thuận lợi để bảo lưu và phát
triển nền văn học dân gian trong đó có truyện thơ.
Chương 2
NGƯỜI PHỤ NỮ THÁI QUA TRUYỆN THƠ
2.1. Khái quát về truyện thơ của dân tộc Thái2.1.1. Khái niệm
“Truyện thơ”
Trong lịch sử văn học Việt Nam, từ trước đến nay khi nói đến thể loại
truyện thơ, các nhà nghiên cứu biên soạn thường nói nhiều đến mảng “truyện
nôm khuyết danh” (hoặc “truyện thơ bình dân”) của người Việt, ít người nói
đến thể loại truyện thơ trong văn học các dân tộc ít người.
Trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị
Bích Hà đã đưa ra định nghĩa về truyện thơ như sau: “Truyện thơ là những
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A30
Khóa luận tốt nghiệp
truyện kể bằng thơ có số lượng câu chữ lớn, có sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu
tố tự sự và yếu tố trữ tình, phản ánh số phận của những người nghèo khổ và
khát vọng đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh cho tình yêu tự do, cho
chính nghĩa”. [8, 288.]
Trong các tài liệu chuyên khảo về văn học dân gian các dân tộc thiểu
số, “truyện thơ” được các nhà nghiên cứu định nghĩa như sau:
1. Truyện thơ dân gian là sản phẩm tinh thần của các dân tộc ít người,
là những sáng tác dân gian truyền miệng đậm bản sắc văn hóa, giàu phong tục
tập quán, phản ánh tâm hồn các dân tộc trong đó. [14, 170]
2. “Truyện thơ các dân tộc thiểu số là một thể loại văn học dân gian
thuộc loại hình tự sự, bao gồm những tác phẩm có hình thức văn vần, được
kể, được hát, được ngâm, đọc (kể cả trước khi được ghi chép) và thường có
nội dung thể hiện thân phận con người và cuộc sống lứa đôi”. [12, 15]
Như vậy, có thể khái quát: Truyện thơ là một thể loại văn học dân gian
đặc sắc của các dân tộc thiểu số. Đó là những truyện kể bằng thơ thường có
nội dung phản ánh số phận của những người nghèo khổ và khát vọng đấu
tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh cho tình yêu tự do, cho chính nghĩa”.
2.1.2. Đặc trưng của truyện thơ
Truyện thơ có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình
Truyện thơ là những truyện kể dài bằng thơ, có cốt truyện, có nhân vật,
có những tình tiết phong phú phản ánh tư tưởng, tình cảm, quan điểm của
cộng đồng các dân tộc. Phần lớn cốt truyện của truyện thơ lấy từ truyện cổ
tích, có tình tiết, nhân vật cụ thể. Chẳng hạn: Khun Lú – Nàng Ủa là truyện
thơ Thái mượn ở truyện cổ tích Kháng cùng tên.
Truyện thơ cũng sử dụng nhiều câu ca dao, nhiều bài dân ca nói lên tâm
tình, ước vọng của nhân dân, nhất là thanh niên các dân tộc. Ví dụ như truyện
thơ Xống chụ xôn xao lấy rất nhiều từ Tản chụ xiết xương và Tản chụ xống
xương là những lời dân ca của người Thái
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A31
Khóa luận tốt nghiệp
Nghệ thuật tự sự kết hợp với trữ tình khiến cho truyện thơ vừa có khả
năng phản ánh sâu sắc đời sống, vừa thấm đẫm tâm trạng, tình cảm, tâm hồn
con người các dân tộc trong đó. Bên cạnh đó, các mối quan hệ giữa con người
với con người trên nền xã hội phân hóa giai cấp và việc giải quyết các mối
quan hệ đó theo quan điểm đạo đức lý tưởng của nhân dân cũng được trình
bày khá rõ nét trong truyện thơ
Truyện thơ đậm tính chất văn hóa các dân tộc
Khác với truyện thơ của dân tộc Kinh có văn bản bằng chữ Nôm, được
coi là thể loại của văn học viết, truyện thơ các dân tộc thiểu số chủ yếu là
sáng tác truyền miệng, phần lớn không phải để đọc mà để hát kể hoặc kể gần
với ngâm. Diễn xướng truyện thơ vì vậy gần gũi và trở thành món ăn tinh
thần không thể thiếu của đồng bào dân tộc thiểu số.
Truyện thơ tham gia nhiều hoạt động văn hóa, phong tục tập quán, tín
ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số. Xét về bộ phận văn hóa dân gian,
truyện thơ như là một bộ phận không thể tách rời, những phong tục dàng cho
người chết, phong tục ở rể, những kiêng kị…đều được thể hiện trong truyện
thơ. Người dân tộc có ý thức hoặc ngẩu nhiên đã đưa vào truyện thơ khá
nhiều nét sinh hoạt văn hóa dân giã của cộng đồng mình, khiến truyện thơ
như một bách khoa toàn thư về sinh hoạt văn hóa cộng đồng dân tộc.
Kết cấu của truyện thơ
Các truyện thơ mang đậm tính tự sự, có kết cấu tương tự kết cấu truyện
cổ tích. Nếu kết cấu của truyện cổ tích là: Gặp gỡ - tai biến – đoàn tụ, thì cốt
truyện phổ biến của truyện thơ là: Gặp gỡ - tai biến – chia li (hoặc cùng chết).
Kết thúc có hậu, nhân vật sau bao gian nan cách trở lại trở về sống hạnh phúc
bên nhau là kết thúc phổ biến trong truyện cổ tích thì lại vô cùng hiếm trong
truyện thơ các dân tộc. truyện thơ các dân tộc thường kết thúc bằng cái chết
của cả hai người. Chie riêng truyện thơ Tiễn dặn người yêu là có kết thúc
đoàn tụ, hai người sau bao trắc trở lại trở về sống hạnh phúc bên nhau
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A32
Khóa luận tốt nghiệp
Nhân vật trong truyện thơ
Nhân vật trong truyện thơ không nhiều, khác với truyện cổ tích nhân
vật phần lớn có tính chất phiếm chỉ thì nhân vật trong truyện thơ có tên tuổi,
địa chỉ, hoàn cảnh xuất thân khá rõ ràng. Nhân vật trong truyện thơ không có
những yếu tố biến hóa kì ảo như nhân vật trong truyện cổ tích, cũng không có
tầm vóc hay hành trạng hoàng tráng như trong sử thi mà nó gần gũi với những
người bình thường trong sinh hoạt xã hội, sinh hoạt cộng đồng làng bản của
các dân tộc. Đó cũng là nét khác biệt giữa truyện thơ với các thể loại khác.
2.1.3. Truyện thơ trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc
Thái
Mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa, văn học nghệ thuật của riêng
mình, tuy có sự khác nhau về bề dày, về trình độ phát triển nhưng đều thể
hiện bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ, phong tục tập quán, cách tổ chức lễ hội,
cưới xin, ma chay, cách ứng xử giữa người với người….Dân tộc Thái cũng có
vốn văn hóa, nghệ thuật phong phú và đặc sắc - đây là một bộ phần quan
trọng cấu thành nên nền văn hóa Việt Nam, làm nên bản sắc riêng của văn
hóa Việt Nam - đa dạng mà thống nhất. Trong kho tàng văn học nghệ thuật
phong phú đó, văn học dân gian có thể xem là thành tố tiêu biểu nhất chuyển
tải cả đời sống vật chất, tinh thần lẫn lịch sử phát triển của dân tộc.
Truyện thơ Thái ra đời do nhu cầu lịch sử - xã hội của thời đại của nó.
Lúc bấy giờ trong xã hội Thái có sự phân chia giàu nghèo, giai cấp, từ đó đã
xuất hiện nhiều mâu thuẫn xã hội trong đó có mâu thuẫn giữa những người
nghèo khổ và kẻ giàu sang, mâu thuẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, mâu
thuẫn giữa tình yêu chân chính của lứa đôi với những đòi hỏi khắt khe, lạnh
lùng, nhiều khi tàn bạo của gia đình và xã hội. Lúc này vấn đề thân phận con
người được đặt ra và đòi hỏi phải đáp ứng thỏa đáng. Với nhu cầu như vậy,
các loại hình như cổ tích, dân ca… không đủ sức đáp ứng, do đó tất yếu phải
có một thể loại mới ra đời đó là truyện thơ.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A33
Khóa luận tốt nghiệp
Có thể nói, dân tộc Thái có một kho tàng truyện thơ phong phú và đa
dạng về số lượng cũng như đề tài, dựa vào đề tài thì truyện thơ Thái có thể
chia làm các loại:
- Truyện thơ về tình yêu : kể về tình yêu thiết tha và ngang trái của các chàng
trai, cô gái dân tộc Thái cùng khát vọng đấu tranh cho đấu tranh cho tình yêu
tự do, cho hạnh phúc. Tiêu biểu là các truyện: Tiễn dặn người yêu, Chàng Lú
– Nàng Ủa, Hiến Hom – Cầm Đôi, Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm
- Truyện thơ về người nghèo khổ: kể về thân phận hẩm hiu, đau khổ của
những người lao động nghèo bị áp bức bóc lột và khát vọng có một cuộc sống
sung túc, bình yên.
- Truyện thơ về chính nghĩa: kể về cuộc đấu tranh giữ đất, giữ mường của
người đồng bào dân tộc Thái. Tiêu biểu là truyện Khăm Panh
Mỗi đề tài đều xây dựng kiểu nhân vật mang đặc trưng riêng của nó,
song dù thuộc đề tài nào, chúng ta vẫn thấy ẩn hiện trong đó là bóng dáng của
những người phụ nữ. Người phụ nữ có khi là trung tâm của câu chuyện, cũng
có khi làm nền cho câu chuyện, nhưng dù ở vị trí nào thì qua sự miêu tả của
các tác giả dân gian, chúng ta có thể thấy hình ảnh người phụ nữ rất rõ nét cả
về diện mạo, tài năng, tính cách, phẩm chất…
2.2. Người phụ nữ được miêu tả trong truyện thơ của dân tộc Thái
2.2.1. Chân dung của người phụ nữ
2.2.1.1. Ngoại hình và tài năng
Người Thái quan niệm: Người phụ nữ phải có vẻ đẹp dịu dàng, nhân
hậu, phải thành thạo, khéo léo trong công việc nội trợ gia đình, phải biết thêu
thùa, may vá… Đó mới là người phụ nữ đẹp, người phụ nữ tốt . Trong truyện
thơ cũng vậy, hầu hết các nhân vật nữ đều được miêu tả là những cô gái vừa
có vẻ đẹp ngoại hình, vừa có vẻ đẹp tâm hồn và tài năng.
Có thể thấy điều đó qua nhân vật “em yêu” trong truyện thơ Tiễn dặn
người yêu; nhân vật Nàng Ủa trong truyện thơ Chàng Lú – Nàng Ủa và nàng
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A34
Khóa luận tốt nghiệp
Hiến Hom trong Hiến Hom – Cầm Đôi, nàng Mứn trong truyện thơ Khăm
Panh, nàng Ỏn La trong truyện thơ Chim yểng, Náng Ông Piềm trong truyện
thơ Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm. Trong truyện thơ Khăm Panh, nàng Mứn
được miêu tả là một người phụ nữ đẹp, từ khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, nước
da, giọng nói, dáng đi đều được so sánh với những gì đẹp nhất:
Nàng đi đẹp như nai lượn
Nàng nói vui hơn suối reo
Tóc nàng dài, bước mỗi bước, tóc leo lên gót
Tóc nhảy theo chân váy phập phồng
Khuôn mặt hình lá trầu không
Lá trầu không còn thua mềm mỏng
Da cổ trắng rơi nước bọt vào còn thấy bọt
Nàng Mứn được miêu tả là một thiếu nữ rất đỗi dịu dàng. Vẻ đẹp và sự
dịu dàng của nàng có thể khiến cho mọi vật đều dừng lại, ngơ ngẩn:
Nàng đến bên suối, suối bỏ đường đi,
Nàng đến bên lửa, lửa quên reo cháy”.
Nàng vào rừng nai quên chạy tìm đàn
Hoẵng thôi chạy lang thang
Gấu lạc rừng quấn quýt bên chân cô gái
Nàng mở miệng hát bên núi
Voi đội ngà đến nghe
Nàng hát bên khe đá con, đá mẹ
Cá khếnh quên bơi
Cá trôi bỏ đàn vơ vẩn
Nàng đến hát bên rừng
Để chim quên ăn trái xanh trái chín
Môi nàng đỏ tựa máu cây phang
Không những đẹp, nàng Mứn còn giỏi giang, khéo léo lo toan mọi việc:
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A35
Khóa luận tốt nghiệp
Khăm Panh. Giao cho nàng việc khó
Đặt cho nàng Mứn việc hay
Việc khéo tay, khéo chân mới đủ
Bụng biết lo xa
Lòng biết nghĩ điều lành, điều tốt
Đó là việc cầm quân đi vỡ đất
Khai phá rừng rậm trồng lúa, trỉa ngô
Người trong mường kéo về đủ một xen
Nàng Mứn còn dạy cả mường vỡ ruộng, làm nương, làm đăng, làm đó:
Mứn tôi được mở lời
Muốn ăn cơm xôi, cơm lam thì lo vỡ ruộng
Muốn có gạo ăn tháng ăn năm ta lo làm nương
Muốn ăn cá ốt treo ta phải làm đăng làm đó
Muốn ăn cá pộc, cá pui lại nên quăng chài úp nơm
….
Nàng Ỏn La trong truyện thơ Chim Yểng cũng được miêu tả là một
người phụ nữ rất đẹp và có tài năng lại cần cù, chăm chỉ:
Nhìn đằng sau, xinh tựa bạc năm
Trông đằng trước, đẹp như bạc sáu
Mắt sáng trong như trăng mồng ba
Sáng long lanh, càng ngắm càng đẹp
Tấm lưng eo và khuôn ngực nở
Đôi mắt ướt và bắp chân tròn
Nàng Ỏn La biết nấu cơm, dệt vải, thạo các công việc ngoài ruộng, trên
nương:
Chị Ỏn La đi cấy ruộng Hở Buộc
Chị còn đi làm cỏ rẫy núi cao
Trưa nghe tiếng nàng về lanh canh vòng bạc
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A36
Khóa luận tốt nghiệp
Nàng bày mâm dọn ăn
Bữa trưa, ăn món cá “tết” nén trong ống nứa
Món chua cá “mọn”, cá “khỉnh” ướp trong ống luồng
Ăn rồi, nàng nhai trầu
Nàng ngồi vào khung cửi dệt tơ
Dệt chăn, nàng dệt sắp xong
Vẻ đẹp của Náng Ông Piềm trong truyện thơ Tào Hủn Lu – Náng Ông
Piềm đã làm cho Tào Hủn Lu phải thốt lên:
Náng Ông Piềm ơi!
Náng Ông Piềm hỡi!
Sao mày đẹp như hoa cánh kiến?
Sao mày đẹp như ngà voi?
Sao mày đẹp như con chim trĩ?
Tao đã ngất ngây Náng Ông Piềm này.
Náng Ông Piềm còn là người giỏi việc:
Náng Ông Piềm hái bông trồng kê
Tay nhanh như con thoi dệt cửi
Không những thế, nàng còn là người biết ứng xử. Khi biết mẹ Hủn Lu
cưới nàng Nầu Hặc cho chàng, nhưng chàng không thích và kiên quyết lấy
nàng làm vợ, lúc đó náng Ông Piềm đã không nghĩ cho bản thân mình mà đã
nghĩ cho Nầu Hặc, và nàng đã lặng lẽ ra đi, trả lại tổ ấm cho Nầu Hặc
Náng Ông Piềm nghĩ:
Nầu Hặc cũng là con cu mái
Ta phá cái tổ là ta làm hại
Ta phải đi thôi. Ta đi Nầu Hặc hè!
……
Và Náng hóa thành con chim bay mất.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A37
Khóa luận tốt nghiệp
Trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, “Em yêu” được miêu tả từ khi
còn ở trong bào thai đến khi lớn lên thành một thiếu nữ xinh đẹp như “gốc cải
xanh, như tàu rong mượt” - đó là một vẻ đẹp khỏe mạnh, tươi tắn, làm bao
chàng trai say đắm và muốn lấy làm vợ. Không những thế, em còn là người
rất khéo léo, tài năng, từ bé đã được tiếp xúc với công việc gia đình:
Tuổi còn thơ ôm cổ mẹ chăn gà
Bám vai mẹ chăn lợn
Đeo cổ bác ăn cơm
Đòi hái dâu theo mẹ
….
Mười hai tuổi em đã lớn thành gái
Mười ba em biết bắt cá suối
Biết may áo che vú
Biết dành tóc làm độn
Nàng Ủa trong truyện thơ Chàng Lú – Nàng Ủa, khi vừa mới sinh ra đã
được miêu tả là một người rất xinh đẹp:
Một vẻ hình hài muôn vạn trong sáng..
Mặt hồng tươi như vừa đúc khuôn
Thời gian trôi qua, nàng Ủa đã trở thành một nàng thiếu nữ xinh đẹp,
thông minh “mưu giỏi nghề hay không hề chịu kém”
Nàng lớn lên mười bốn đến thời
Như hoa đào rộ nở đẹp tươi
Rằng chọn kén người tình lịch sự
Song chẳng ai sánh nổi với nàng
Trong, tinh thông mọi đường khôn ngoan
Ngoài, mưu giỏi nghề hay không hề chịu kém
Nàng Hiến Hom, một cô gái thường dân xinh đẹp, nết na như hoa thơm
tỏa khắp Mường. Tuổi 14, Hiến Hom đã biết giúp mẹ lo toan mọi việc trong
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A38
Khóa luận tốt nghiệp
nhà, biết tập ra sàn khuống, biết quay sa kéo sợi…Trai khắp vùng tìm đến vây
quanh.
“Trai bản xa ướm nàng làm vợ
Trai cùng mường cũng ngỏ lời thương”
Như vậy, qua các truyện thơ Thái về người phụ nữ ta có thể thấy, người
phụ nữ trong xã hội xưa không những xinh đẹp về diện mạo mà còn rất tài
năng, khéo kéo, biết ứng xử, thành thạo công việc nội trợ gia đình, biết thêu
thùa, khâu vá, làm nương, hái củi, họ còn có thể làm được cả những công việc
của đấng nam nhi như: cầm binh đánh giặc như nàng Mứn…Đây là một nét
rất đáng quý của người phụ nữ Thái mà qua truyện thơ chúng ta có thể thấy
được.
2.2.1.2. Phẩm chất
Thủy chung, son sắt là một phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam từ
xưa đến nay. Đây cũng chính là phẩm chất nổi bật nhất của người phụ nữ
Thái được thể hiện qua truyện thơ. Qua những câu chuyện tình yêu - một đề
tài đặc sắc trong truyện thơ của dân tộc Thái, những người phụ nữ Thái đã
được xây dựng với những biểu hiện tuyệt vời nhất của lòng chung thủy.
Trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, lòng chung thủy của cô gái đã
được họ thề nguyện và chứng minh:
Đôi ta yêu nhau, duyên bản duyên đừng úa
Tình mường tình chớ phai
Rẽ đi và qua lại
Cùng sánh vai vòng đi và thẳng tới
……
Đôi ta yêu nhau tình Lú - Ủa mặn nồng
Lời đã trao thương không lạc mất
Như trâu bán ngoài chợ
Như thu lúa muôn bông
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A39
Khóa luận tốt nghiệp
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng
Bền chặt như vàng như đá
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển
Người xiểm xui không ngoảnh, không nghe
Họ yêu nhau:
Đã yêu nhau xin chớ phụ tình
Đôi ta yêu nhau, yêu đến khi tóc ngả hoa râm
Yêu đến khi đầu bạc
Họ thề nguyện:
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông
Không lấy được nhau lúc trẻ ta sẽ lấy nhau lúc góa bụa về
già
Và trong suốt những năm dài đằng đẵng sống xa nhau, họ vẫn luôn gìn
giữ ngọn lửa tình yêu được nồng đượm và tìm mọi cách để được về với nhau.
Trong truyện thơ Khun Lú – Nàng Ủa, chàng Lú và nàng Ủa yêu nhau
từ thưở nhỏ và họ thề nguyện:
Bằng phải xa nhau muôn dặm nghìn ngày
Mỗi kẻ mỗi nơi chín phương trời đất
Đôi ta yêu nhau xin chớ quên tình nặng nghĩa đầy
…..
Khi Lú và Ủa phải xa nhau, đôi trai gái đau buồn chia ly và hẹn ước
mãi mãi chung thủy:
Bữa sáng, bữa chiều em đừng quên gọi vọng tên anh
Đừng vui cùng quan mường khác phụ tình
Lời hẹn thương tự xa kia còn nhỏ
Thực dạ yêu anh, xin đừng sai lỡ
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A40
Khóa luận tốt nghiệp
Mùa ban rộ, vông tươi chi chít
Dưới gầm trời, muôn vật sống đua kêu
Chớ lấy cảnh chòng mình đeo thêm bối rối
Đợi anh em ơi, đợi anh tới kết lứa vui đôi
….
Càng xa nhau, càng bền chắc một lòng em ạ
Em yêu anh chớ để rơi quên, dù là chút xíu, em ơi
Tình đôi ta dẫu bằng dây tơ nhện cũng đừng sai, em nhé
…..
Dù ruổi mường xa hơn hai mươi ngày dặm dài
Đôi ta không thành bạn thì, em ơi, ta tự chết cả hai
Không được ở bên chàng Lú, nàng Ủa đau đớn và đã thắt cổ tự vẫn,
mong được cùng chàng Lú sum họp nơi mường Trời
Chàng tạo trai, chồng hỡi em chào
Chàng chết theo em nhé, khi tin vừa tới
Đừng chần chừ lâu, em lầm quên mặt nhau
Ta lên trời tâu với Then cao, chàng nhỉ
Then sinh thành chẳng gây oán trái đâu
Trong truyện thơ Hiến Hom – Cầm Đôi, đôi trai gái yêu nhau xuất phát
từ tình yêu chân thành, thủy chung. Họ yêu nhau sáu năm ròng mà không ai
hay biết, nàng Hom phải ôm mối tình trong câm lặng, bao niềm thương nổi
nhớ chàng Đôi đành phải dấu kín trong lòng. Rồi thời gian cứ thế trôi qua,
“lại mấy mùa hoa nở hoa tàn”, Hiến Hom mỗi ngày thêm lớn, bao chàng trai
trong mường hò hẹn nhưng Hiến Hom vẫn mãi chối từ. Lời thề nguyện với
Cầm Đôi xưa nàng vẫn còn giữ nguyên vẹn chẳng mờ phai:
“Em vẫn một lòng sắt son đợi”
Và cứ thế, Hiến Hom đã đợi người thương hết mùa chơi khuống này
đến mùa chơi khuống khác, thời gian “đến nay đúng bốn mùa măng mọc tre
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A41
Khóa luận tốt nghiệp
già”, các bạn của mình nhiều người đã thành lứa thành đôi. Rồi cái gì đến
cũng sẽ đến, Hiến Hom đã mang thai với Cầm Đôi, nàng đã phải đấu tranh
với bản thân, âm thầm chịu đựng bao điều tiếng bên ngoài, giữ vững niềm tin
vào mối tình đã bao năm cùng Cầm Đôi vun đắp:
Bạn cùng lứa nói em nhẹ dạ
Người trong mường chê em không biết xấu mặt
Chính lòng chung thủy, tình yêu mãnh liệt đối với Cầm Đôi đã giúp
nàng có thêm niềm tin trước hiện thực cuộc đời và miệng lưỡi thế gian:
Yêu nhau thật lòng, ai bảo xấu anh nhỉ
Ai chê mặc họ chê
Ai cười mặc họ cười
Con ta khôn lớn sẽ là người chứng giám
Nhưng rồi không chịu được sự dè bửu của thế gian, nàng Hom phải tự
vẫn. Xác nàng Hom vẫn bám chặt vào chõng chờ Cầm Đôi về cũng do qua
yêu Cầm Đôi mà nàng đã phải chết lần thứ hai.
Trong truyện thơ Khăm Panh, lòng thủy chung của nàng Mứn lại được
biểu hiện ở một khía cạnh khác. Đó là khi Khăm Panh chết, chính nàng Mứn
đã tập hợp anh em, quân sĩ giết giặc Khun Ha giữ đất giữ Mường và trả thù
cho người chồng của mình. Rồi nàng chết, hồn nàng tìm đến Khăm Panh hóa
thành đôi bướm bay đi, tìm được nàng dâu thứ tư và dẫn đường cho nàng ẩn
nấp. Khi Khăm Khoong khôn lớn chính nàng Mứn đã báo mộng cho quần
chúng vô danh tìm đến cháu mình, nàng đã đi khắp các khe động , kêu gọi
nhân dân quy tụ dưới cờ Khăm Khoong. Cuối cùng thì họ cũng đã giết được
tên giặc Khun Ha, giành lại được đất, được mường.
Qua truyện thơ chúng ta thấy, người phụ nữ khi họ đã yêu thì rất trong
sáng, thủy chung và thật lòng. Có những cô gái mãi mãi không được ở bên
người mình yêu như nàng Ủa, Náng Ông Piềm, có những cô gái đã phải mất
đi cuộc sống con người ở thế giới trần tục của mình như nàng Hiến Hom,
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A42
Khóa luận tốt nghiệp
nàng Mứn nhưng trái tim họ vẫn luôn hướng về người mà họ yêu thương, trao
cho người mình yêu những tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất. Đó là những
nét rất đáng quý của người phụ nữ Thái được thể hiện trong truyện thơ.
Một điều cần lưu ý khi nghiên cứu truyện thơ Thái về người phụ nữ đó
là quan niệm về sự trinh tiết của người phụ nữ rất khác với lội suy nghĩ truyền
thống. Nhiều trường hợp hợp hai người yêu nhau từ khi còn trinh trắng, do
hoàn cảnh họ không lấy được nhau, nhưng khi đến được với nhau họ không
hề băn khoăn việc người yêu mình đã trải qua một, hai đời chồng/vợ. Lúc
này, tình yêu, lòng chung thủy là quan trọng hơn hết, họ không quan tâm đến
sự trinh tiết nữa. Nói cách khác, chính lòng chung thủy của người phụ nữ
được coi là sự trinh tiết, thay thế cho lối nghĩ về trinh tiết có tính chất khuôn
mẫu của chế độ phong kiến. Tiêu biểu là trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu,
cô gái do bị cha mẹ ép duyên nên đã phải rời xa người yêu để đi lấy chồng,
nhưng sau khi bị gia đình chồng bán đi, cô gặp lại người yêu cũ, với tình yêu
chung thủy bấy lâu nay, hai người không suy nghĩ đến chuyện đã qua, không
hề coi trọng hay quan tâm đến sự trinh tiết của cô gái hay việc cô gái đã đi lấy
chồng, hai người lại cùng đoàn tụ và sống hạnh phúc bên nhau.
Trong truyện thơ Khun Lú – Nàng Ủa, chàng Lú đã được cha mẹ cưới
nàng Mành làm vợ nhưng vẫn ngày đêm thương nhớ nàng Ủa, nàng Ủa đã bị
gả cho tạo mường Khun Chai nhưng vẫn không thôi nghĩ đến chàng Lú.
Không hề suy nghĩ việc mình đã có chồng hay có vợ, hai người vẫn lén hẹn
hò nhau trên hạn khuống và lén chung chăn gối với nhau. Nàng Ủa đã thắt cổ
tự vẫn để mong được cùng chàng Lú sum họp nơi mường Trời, chàng Lú đau
buồn thương nhớ nàng Ủa và cũng cứa cổ chết theo nàng.
Như vậy, có thể nói rằng, các chàng trai cô gái trong truyện thơ, một
khi đã yêu nhau họ không quan tâm đến sự trinh tiết của người phụ nữ, không
coi trọng hai người đã có vợ hoặc chồng, đối với họ sự thủy chung trong tình
yêu mới là sự trinh tiết dù cho họ không được sống bên nhau.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A43
Khóa luận tốt nghiệp
2.2.1.3. Tính cách
Qua khảo các truyện thơ của người Thái, chúng ta có thể thấy rằng có
hai nét tính cách ở người phụ nữ được các tác giả dân gian miêu tả rõ nét đó
là: Ý chí, lòng kiên định và hành động mạnh mẽ, quyết liệt.
Trong truyện thơ, những người phụ nữ đều là những người chung thủy
với tình yêu, kiên định với tình yêu, với người yêu mà mình đã lựa chọn, dù ở
bất cứ hoàn cảnh nào. Lòng chung thủy tuy chưa được miêu tả bằng lối văn
“mổ xẻ tâm lý” như ở văn học viết hay ở dân ca, song những hành động của
người phụ nữ hướng về tình yêu bằng bất cứ giá nào, cho phép chúng ta
khẳng định đây là một nét phẩm chất cao quý nhất của người phụ nữ trong
truyện thơ.
Hướng tới tình yêu tự do, người con gái trong truyện thơ phải đối mặt
với những rào cản của xã hội. Ở vào hoàn cảnh ấy chỉ có hai lựa chọn: hoặc là
từ bỏ tình yêu hoặc là quyết tâm vượt khó khăn để gìn giữ tình yêu đến cùng.
Trong truyện thơ Thái, tất cả các cô gái đang yêu đều lựa chọn con đường bảo
vệ, gìn giữ tình yêu của mình.
Để đến được với nhau dù là lúc xế chiều, đôi trai gái trong truyện thơ
“Tiễn dặn người yêu” đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, vất vả, trải qua bao
lần trắc trở:
Chàng trai bị bố mẹ cô gái từ chối ngay từ đầu:
“Người như kia và mặt như vậy
Chẳng đáng đội nón giấy Mường Púa ven sông
Không đáng ở nhà ta nằm quản đan chài
Quay về với họ nội, họ ngoại
Quay về với nhà cũ đi đi
Rồi chàng trai tự trách bản thân mình
Anh đã tính mà tính không đủ
Anh đã lo mà lo chẳng tròn
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A44
Khóa luận tốt nghiệp
Tay trái cầm gói cau lau mắt
Tay phải sách giỏ cá thẹn thùng
Cúi mặt nước mắt rõ
Ngẩng lên hàng lệ rưng
Cô gái vô cùng đau khổ và tuyệt vọng khi cha mẹ ép duyên
Em bỗng thành vợ người, nghĩa nặng
Bỗng thành rau của người, nghĩa dày
Để rồi khi về nhà chồng, cô cảm thấy cô đơn và bi quan
Em đã tính mà tính không đủ
Em đã lo mà lo chẳng tròn
Làm không nổi sống coi như chết
Như ăn lá ngón lìa đời
......
Về nhà chồng, cô gái đã trải qua những trạng thái tâm lý tưởng chừng
như không thể vượt qua, cô cảm thấy muốn cười nhưng không cười được,
muốn khóc cũng không xong:
Khóc vùi giữa bản không nên
Gào giữa ban ngày sượng mặt
Sẽ khóc ư? Cười ư
Khóc, người trong bản sẽ cười
Cười, người trong mường sẽ nói
Còn chàng trai vô cùng đau khổ, tưởng chừng điên loạn khi không lấy
được người mình yêu thương:
Không lấy được nàng ta làm giặc giữa phủ
Không lấy được em, anh làm loạn giữa mường
Cha mẹ ngăn dây tình dằng dặc
Cha mẹ giữ đường tình không nghe
Chết trong lòng người đẹp
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A45
Khóa luận tốt nghiệp
Chết trong lòng người yêu
Được chết cùng em không hề tiếc hận
Cô gái cảm thấy kiệt sức khi về nhà chồng, nơi cô không có tình yêu
thương, không được sống hạnh phúc, nơi cô phải làm việc vất vả, cực nhọc
mà không có ai động viên:
Quá sức con, kiệt sức rồi, mẹ hỡi
Làm được người mới chuộng
Làm đến rách áo cho nhà ông
Ăn cơm như cát
Nuốt vào như nuốt cám
Không ăn đói cào ruột
Ăn thì rát lưỡi không trôi
Làm thì không nên, người xô, người chửi
Làm không giỏi, người xô, người chê
Càng đau khổ hơn khi nhà chồng cô chửi mắng, chê cười cô và đã coi cô như
một món hàng nên đã đem ra chợ bán:
Người mới đem em ra chợ dưới đổi muối
Lên chợ trên đổi gạo
Đổi gạo chẳng ai màng
Đổi muối chẳng ai buồn ngó
Và như số trời đã định, cô lại được bán cho người tình cũ chỉ bằng một
cuộn lá dong:
Một cuộn lá dong đổi lấy người
Đổi em cho bạn tình cũ
Được về nhà người tình cũ, cô càng tuyệt vọng hơn khi thấy người tình
cũ ôm ấp người khác. Nhưng rồi người tình cũ cũng nhận ra cô và hồi tưởng
ngày xưa, không hề suy nghĩ về chuyện cô đã đi lấy chồng hay anh đã đi lấy
vợ, hai người lại mừng vui hớn hở như ngày mới yêu nhau.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A46
Khóa luận tốt nghiệp
Nhận ra em, mừng vui dựng nhà
Gặp bạn tình, ăn làn thỏa dạ
Không vấn vương bằng sợi tơ nhện
Mười đêm chuyện nhỏ to êm đềm
Như đôi uyên ương cửa hang ngấp nghé
Hoa khẳm cuối dòng nảy lá non tươi
Trải qua bao khó khăn, thử thách, đôi trai gái trong truyện thơ Tiễn dặn
người yêu lại được sống hạnh phúc bên nhau:
Đã nên duyên xin chớ phụ tình
Đôi ta yêu nhau, yêu đến khi tóc ngã hoa râm
Yêu đến khi đầu bạc.
Trong truyện thơ Khun Lú – Nàng Ủa: Chuyện tình của đôi trai gái
Khun Lú – Nàng Ủa bắt đầu gặp trắc trở từ khi ông phìa Chiềng Ly chia
mường cho các con rể lập ấp, hai nhà Cầm Xôm và Ngân Liêng phải xa rời
nhau và Chàng Lú và nàng Ủa từ đó phải chịu cảnh ly biệt:
Ngẫm lại lúc hai bên mẹ hiền trao hẹn
Quyết rằng cho đôi trẻ lấy nhau
Mà nay thành chia biệt đớn đau
Lú khóc cùng em, cùng với dặn, cùng bước xa
“Đôi ta biệt nhau đằng đẳng bao ngày buồn bã”
Xa nàng Ủa, chàng Lú ngày đêm thương nhớ, bồn chồn trong dạ, quyết
“giữ khăng khăng một tấm chung tình”
Chàng Lú bồn chồn nhớ bạn
Giữ khăng khăng một tấm chung tình
Sao gặp nhau đây, hỡi em yêu dấu
Còn nàng Ủa, ngày ngày khóc than, héo hắt, nhìn đâu cũng thấy bóng
hình chàng Lú, đêm ngắm sao cũng tưởng đấy là người tình, lúc ăn, ngủ cũng
gọi vía người yêu cùng ăn, cùng ngủ:
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A47
Khóa luận tốt nghiệp
Lú ơi, em chỉ có một anh, sao nay cách biệt
Nàng ngước nhìn trời, ngôi sao lấp lánh
Ngắm nhìn sao tưởng thấy mặt chàng
Lú được mẹ cho sang thăm nàng Ủa, hai người mừng vui không xiết,
họ cùng chung chăn gối mặn nồng, nhưng rồi đôi trai gái lại phải xa nhau, hai
người quấn quýt bên nhau, rầu rĩ buồn thương, họ dặn dò nhau:
Rằng: “Anh thương em xin ủ áo thay người anh hỡi”
Thương Ủa xinh tươi khóc than khản tiếng
Lú mới dặn dò an ủi:
“Ở lại em ơi, xin đừng nóng lạnh ốm đau
Anh vượt đường xa về nhà, thôi đành ta lại biệt nhau
Thực bụng yêu anh, em hãy rầu lòng ở đợi
Đừng quá buồn thắt cổ, một giấc ngàn thu ngủ mãi”
Sau đó, Ủa lại cùng mẹ sang nhà Lú thăm hỏi và được mẹ cho ở lại nhà
Lú chơi, hai người lại sát cánh bên nhau, kề má ôm vai. Ở nhà, cha nàng Ủa
đã nhận lời người ta gả Ủa cho Tạo mường Khun Chai:
Họ mới lạy thưa hết lẽ,
Nghe xuôi tai mà dạ cũng thầm ưa,
Bái Hương bấy giờ ưng lòng thuận gả
Hai gã trai kia bèn lạy tạ:
“Tôi xin quay về báo lại chủ nhân”
Phải xa Lú, Ủa ngã chết ngất trên đống rơm, mẹ nàng Ủa phải nhờ
chim én bay đi gọi Lú đến để cứu Ủa sống lại:
“Dậy đi em, dậy di, Uả đẹp vợ yêu anh hỡi!
Sống lại em, sống lại đi người thương anh ơi!
Sao em nỡ hoài đời nằm trên rơm rác?
Tóc em bối rối để Lú anh đây búi hộ,
Bạn tình ơi, người đẹp buồn thương vợ quý anh ơi”
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A48
Khóa luận tốt nghiệp
Ủa mới giật mình choàng tỉnh,
“ Không thể dằn lòng sống nổi, anh ơi!
Thà chết ra ma cho rảnh tội!”
Tuy bị ngăn cản nhưng chàng Lú và nàng Ủa vẫn tìm gặp nhau trên hạn
khuống, rồi lến chung chăn gối với nhau, cha mẹ Ủa bắt được rút gươm dọa
giết Lú, chàng đành phải trở về. Xa chàng Lú, nàng Ủa ngày đêm mong
ngóng chàng Lú, chốn sang thăm chàng nhưng lại bị mẹ tìn thấy bắt về. Trở
về nhà, Ủa héo hắt lòng đau, nàng mặc xiêm y, trang điểm lộng lẫy rồi đến
bên cây tùng thắt cổ tự vẫn, mong được cùng xum họp cùng chàng Lú nơi
mường Trời:
Chàng tạo trai, chồng hỡi, em chào
Chàng chết theo em nhé, khi tin vừa tới,
Đừng chần chừ lâu, em lầm quên mặt nhau
Ta lên trời tâu với then cao, chàng nhỉ
Then sinh thành chẳng gây oán trái đâu.
Những tưởng, Then cao sẽ không gây oan trái cho đôi bạn tình này nữa,
nào ngờ Then lại tranh nàng Ủa làm tỳ thiếp, nạt chàng Lú làm cho oan hồn si
tình lẫn khuất không tan. Vĩnh viễn chàng Lú và nàng Ủa chịu cảnh chia ly.
Trong truyện thơ Hiến Hom – Cầm Đôi, Hiến Hom và Cầm Đôi yêu
nhau mà không ai hay biết. Hiến Hom có mang với Cầm Đôi nhưng do nhà
nghèo nên cha mẹ Cầm Đôi không cho chàng lấy Hiến Hom, chàng đành phải
đi tha phương mong rằng thời gian trôi qua, cha mẹ sẽ ưng thuận. Hiến Hom
không khỏi lo lắng, sợ hãi, nàng buồn bã căn dặn Cầm Đôi:
Đừng để lửa tắt mới đổ thêm than
Hãy nhớ lời hứa trở về quê quán
Nàng Hom ở nhà thủy chung chờ đợi Cầm Đôi, nhưng càng chờ càng
không thấy:
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A49
Khóa luận tốt nghiệp
Sáu tháng ròng
Nàng đợi tin Cầm Đôi – Đợi vắng
Nước mắt nàng tuôn rơi “tràn như mưa ngày hạ”. Cái thai trong bụng
Hiến Hom ngày càng thêm lớn thì nỗi lo lắng, sợ hãi, nỗi buồn đau cũng dần
lớn theo, thân nàng mỗi ngày thêm tàn tạ héo hắt, không chịu nơi những lời
nói dè bỉu, những thái độ khinh bỉ, miệt thị của bao người dân trong bản ngoài
mường, Hiến Hom đã tự vẫn. Nàng Hom chết, xác nàng vẫn bám chặt vào
chiếc chõng chờ Cầm Đôi về. Cầm Đôi trở về phát hiện ra nàng là ma, chàng
sợ hãi kiếm cớ lừa nàng để chạy chốn, nàng Hom cố đuổi theo và tha thiết
gọi:
Người thương ơi
Chồng chưa cưới hỡi
Nhớ thương, nhớ lời hẹn ước
Bước chầm chậm đợi em
Nàng trách: Chạy theo người chạy chốn
Không phải sợi tơ mới không cuộn vào guồng
Không phải chồng mới chạy bỏ nhau
Ghét em, mới không ngoái lại
Cha mẹ Cầm Đôi bàn với dân làng, chẻ nan kết hình người có cắm đầy
chông nhọn rồi lấy áo Cầm Đôi mặc vào đem ra ruộng. Hiến Hom bay xuống,
hát mãi mà không thấy “Cầm Đôi trả lời, nàng liền ghì chặt Cầm Đôi vào
lòng và bị những mũi chông sắc nhọn đâm vào người, máu chảy đỏ mặt
ruộng. Hiến Hom chết lần thứ hai:
Những mũi chông nhọn hoắt
Găm tất thảy thân nàng
….Và nàng Hom tắt thở
Máu phun ra đỏ đất cỏ
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A50
Khóa luận tốt nghiệp
Qua ba truyện thơ ta thấy, người phụ nữ đều gặp phải những thế lực
ngăn cản, chia rẽ tình yêu đôi lứa. Thế lực ấy có thể là thần linh, có thể là xã
hội và có thể là do chính bố mẹ. Ở vào hoàn cảnh đó, người phụ nữ có thể có
những hành động khác nhau: hoặc phản kháng tức thì như nàng Ủa, Hiến
Hom, hoặc chấp nhận tạm thời để tìm cách phản kháng như nhân vật em yêu
trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Nói chung dù hành động như thế nào,
người phụ nữ cũng thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ tình yêu đến cùng cho
dù phải mất đi cuộc sống con người nơi thế giới trần tục.
Một đặc điểm nữa trong tính cách của người phụ nữ Thái có thể thấy
trong truyện thơ đó là hành động mạnh mẽ, quyết liệt. Qua khảo sát các
truyện thơ của người Thái ta thấy: người phụ nữ Thái xưa, họ không chỉ dịu
dàng, nết na mà họ còn rất mạnh mẽ, quyết liệt cả trong cuộc sống và trong
tình yêu.
Nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh không chỉ giỏi các công việc
gia đình như bao phụ nữ khác mà nàng còn làm được cả những công việc của
những người đàn ông như cầm binh đánh giặc, dạy dân mường phát nương
làm rẫy, vỡ ruộng:
Nàng bảo mường phát nương
Để lo cơm cho bảy bản
Nàng dạy dân nên vỡ đất
Để cả mường có ăn
…..
Mường cho tôi đi rèn búa năm gang
Rèn búa phang lên bổ xuống
Để cho nàng Mứn cầm binh giữ mường
Khi chồng Khăm Panh chết, nàng Mứn đã tập hợp anh em, quân sĩ trả
thù cho Khăm Panh, giữ lấy đất, giữ mường.
Nàng Mứn
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A51
Khóa luận tốt nghiệp
Đứng giữa gian nhà nói to
Đứng giữa gian nhà hỏ lớn
Rằng:
Thằng giặc Khun Ha còn đó
Đất giàu mường ta còn khổ
Đất có mường ta còn đau
Các em đã đúc sung mài dao
Các con đã tròng ngô, cấy lúa
Nếu không biết run biết sợ
Không biết cái cúi đầu
Thì hãy cùng nhau
Gọi các mường về
Lột xác thằng Khun Ha
Nàng Mứn chỉ huy quân đánh giặc
Nói lệnh truyền ra:
- “Khăm Khiền kéo quân đường Pha Háng
Khăm Lụa kéo mường qua Pha Meo
Còn Khăm Kéo đi theo
Ta đưa binh về mường Khòong
……
Nàng cưỡi con ngựa sắc hồng
Hai tay cầm hai thanh kiếm bạc
Mắt nàng sáng quắc
Đầu đội khăn tang
Thắt lưng lá mạ
Ngựa qua rừng bước đi hối hả
Binh qua suối bước đi rào rào
Nàng Mứn đi đầu
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A52
Khóa luận tốt nghiệp
Đưa binh về mường Khòong đánh giặc.
Nàng Hiến Hom trong truyện thơ Hiến Hom – Cầm Đôi đã một mình
mang trong mình đứa con của Cầm Đôi giữa bao điều đàm tiếu của thế gian,
một mình chờ đợi người mình yêu mà không biết bao giờ gặp mặt, không phải
người phụ nữ nào cũng có thể chịu được những lời nói dè bỉu, những thái độ
khinh bỉ, miệt thị của bao người dân trong bản ngoài mường khi mà không có
chồng mà lại có con, phải mạnh mẽ lắm thì nàng Hiến Hom mới có thể làm
được như vậy.
Nhân vật “em yêu” trong Tiễn dặn người yêu bị gả về nhà chồng rồi
nhưng không chấp nhận, nàng cố tình làm hư làm biếng, giã gạo quăng chày,
phơi thóc chửi sàn mắng cót, về nhà khoắng chân đẩy củi đổ nồi, dỡ xôi, quật
mâm vỡ, chải tóc thì chải ngược, ngồi ghế lật ngữa ghế…tất cả những việc
làm đó của “em yêu” là muốn để nhà chồng thấy em không phải vợ hiền dâu
thảo và đuổi em đi để em có thể đi tìm người yêu cũ. Hành động của “em”
chứng tỏ người phụ nữ dù hiền dịu, hiếu nghĩa nhưng khi cần, họ cũng có
những ý thức và hành động phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số phận,
quyết đấu tranh đến cùng để có thể được ở bên cạnh người mình yêu.
2.2.2. Số phận của người phụ nữ
Người phụ nữ Thái trong xã hội phong kiến xưa, họ bị coi thường, bị
xem khinh rẻ rúm, họ không có quyền được quyết định số phận của mình, mà
người quyết định số phận của họ là những người Tạo, Phìa (Là những người
đứng đầu, cai quản các bản, mường, họ thuộc tầng lớp thống trị, có quyền lực,
nhân dân trong mường phải phục tùng họ), cũng có khi lại chính là những
người bố, người mẹ của mình. Qua khảo sát các truyện thơ của người Thái ta
thấy, người phụ nữ thường có chung một số phận: trải qua rất nhiều đau khổ,
oan trái, bất công… và hầu hết họ đã lựa chọn cái chết để giải thoát.
Trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, cô gái Thái đau khổ bởi phải chịu
sự ép duyên, gả bán của cha mẹ; nhẫn nhục cam chịu cảnh đời làm dâu trâu
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A53
Khóa luận tốt nghiệp
ngựa, khổ ải khôn cùng, bị nhà chồng đánh đập, hắt hủi để rồi cô phải thốt lên
rằng:
Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa
Bằng con chẫu chuộc thôi
Thân phận cô như một món hàng rẻ mạt, quăng vào tay kẻ nọ, vứt vào
tay kẻ kia để rồi cuối cùng cô xót xa tủi hờn khi vô tình trở thành kẻ hầu
người hạ trong nhà người tình cũ.
Cũng là cảnh ngộ bị cha mẹ phũ phàng ép duyên, nàng Ủa trong truyện
thơ Khun Lú – Nàng Ủa đã phải đau đớn tìm đến cái chết để mong gặp lại
người yêu ở kiếp sau. Nhưng cuộc đời nàng không chỉ oan trái dưới cõi trần
mà oan trái cả ở trên trời cao, phải chia lìa bạn tình, Ủa đành âm thầm cam
chịu làm kẻ mua vui cho Then Chăng Tế - ba- la dâm đãng.
Còn trong truyện thơ Hiến Hom – Cầm Đôi, số phận của nàng Hom tuy
không bị cha mẹ đẻ ép duyên nhưng vì nghèo hèn mà nàng đã bị cha mẹ
người yêu cấm. Bởi chót mang thai với bạn tình, không chịu nổi lời chê cười
của mọi người trong bản, nàng Hom đành phải thắt cổ mà chết. Chết rồi
nhưng nàng vẫn bị mẹ Cầm Đôi hãm hại, bà đã bàn với dân làng chẻ nan kết
hình người có cắm đầy chông nhọn rồi lấy quần áo Cầm Đôi mặc vào rồi đem
đặt ra ruộng. Hiến Hom bay xuống, hát mãi mà không thấy “Cầm Đôi” trả lời,
nàng liền ghì chặt “Cầm Đôi” vào lòng. Nàng đã bị những mũi chông nhọn
sắc đâm vào người, máu chảy đỏ mặt ruộng, Hiến Hom chết lần hai. Dù sống
ở kiếp người hay kiếp ma thì số phận nàng Hom vẫn không tránh khỏi nỗi
đắng cay oán trái, người phụ nữ Thái kia bởi quá yêu mà nàng phải chết hai
lần vì tình.
Náng Ông Piềm và Tào Hủn Lu yêu nhau nhưng không được mẹ Hủn
Lu chấp nhận và đã cưới nàng Nầu Hặc cho chàng. Ông Piềm đau khổ, không
muốn phá hoại hạnh phúc của Hủn Lu và Nầu Hặc nên nàng chọn cách ra đi,
nàng hóa thành chim bay mất, Tào Hủn Lu tìm nàng nhưng nàng không chịu
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A54
Khóa luận tốt nghiệp
gặp, ức quá Tào Hủn Lu đã phóng dao vào nàng, nàng chết, Tào Hủn Lu cũng
đập đầu chết theo, một người thành mặt trăng, một người thành mặt trời, vĩnh
viễn không được ở bên nhau.
Nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh, những tưởng có thể được sống
hạnh phúc cùng chồng và các con nơi mường Khoòng, nào ngờ lại xuất hiện
tên giặc Khun Chai muốn cướp đất, cướp mường. Con nàng là Khăm Xao
phải tự tử, chồng Khăm Panh chết ở dọc đường, nàng Mứn tập hợp tàn quân
đánh trả thù cũng bị Khun Ha bắn chết, Khăm Kéo tử trận, Khăm Khiền bị bắt
sống, Khăm Lụa bỏ chạy, cả gia đình Nàng Mứn tan rã. Cuối cùng thì họ giết
được tên giặc Khun Ha, giữ được đất, được mường nhưng họ đã phải trải qua
rất nhiều cay đắng, hi sinh.
Cũng trong xã hội phong kiến Thái, quan niệm giai cấp được đề cao,
người phụ nữ bình dân không được lấy con trai tạo, chàng trai bình dân nghèo
không được lấy con gái Phìa, điều này đã trở thành một thông lệ bao đời nay
trong xã hội. Chính những định kiến khắt khe, cổ hủ đó đã làm tan vỡ biết bao
mối tình đẹp, đẩy người phụ nữ vào tình cảnh khốn cùng nhất và họ phải tìm
đến cái chết. Điều này được thể hiện rõ nét qua truyện thơ. Trong truyện thơ
Hiến Hom- Cầm Đôi, Hiến Hom một cô gái nết na, xinh đẹp, nàng yêu Cầm
Đôi- chàng trai con nhà tạo và đã có mang với chàng, nhưng do nhà Hiến
Hom nghèo nên chuyện hôn nhân không được nhà Cầm Đôi chấp nhận. Cầm
Đôi đành phải đi tha phương, Hiến Hom ở nhà vò võ ngóng trông, hắt hiu, tủi
nhục rồi cuối cùng nàng phải tự vẫn.
Trong truyện thơ Khun Lú – Nàng Ủa, cha Ủa thấy tạo mường Khun
Chai là người lắm vàng nhiều của nên đã gả nàng Ủa cho tạo mường Khun
Chai làm cho đôi bạn tình Lú - Ủa phải chia lìa đôi ngã kết cục là nàng Ủa
chết, chàng Lú cũng cứa cổ tự vẫn.
Trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, vì anh yêu nghèo khó nên cha mẹ
em yêu không gả em yêu cho anh mà gả em yêu cho một người giàu có khác.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A55
Khóa luận tốt nghiệp
Anh yêu đành phải đi buôn làm giàu để giành lại người yêu, em yêu ở nhà
phải theo người ta về nhà chồng, đúng lúc đó anh trở về nhưng tình thế đã trở
thành tuyệt vọng, đôi bạn tình chỉ còn cách kéo dài thời gian bên nhau bằng
cách anh đi theo tiễn, anh yêu và em yêu lại phải xa nhau.
Qua truyện thơ, chúng ta có thể thấy rằng: xã hội phong kiến Thái rất
coi trọng vật chất và địa vị, bởi lẽ trong các truyện thơ, các đôi trai gái yêu
nhau do bị cha mẹ phản đối để rồi họ phải chịu đau khổ đều có mặt của điều
kiện vật chất hay địa vị. Lúc này tình yêu chân chính chỉ tồn tại ở những
người trong cuộc, còn bên ngoài thì dường như không hề biết đến, họ chỉ biết
đến những cái lợi trước mắt mà không hề suy nghĩ về tương lai của con em
mình phải chịu những nỗi khổ, nỗi tủi nhục nơi cao sang, quyền quý. Đây là
những vấn đề đã tồn tại từ lâu và cho đến ngày nay vấn đề đó vẫn còn tồn tại
nhưng ở một khía cạnh khác hay một mức độ khác.
Tóm lại, mỗi người phụ nữ - mỗi cuộc đời, số phận – mỗi cảnh ngộ éo
le, ngang trái khác nhau. Song, họ đều là nạn nhân của chế độ phìa tạo trong
xã hội phong kiến Thái. Sống dưới bầu trời của Then, sống dưới cường quyền
áp chế, thân phận người phụ nữ chẳng khác gì kiếp trâu ngựa, phận kiến đỏ.
“Ý Then” cho họ sống thì được sống, bắt họ chết thì phải chết, chết một lần
chưa đủ, chết đến hai lần. Số phận người phụ nữ Thái cũng là số phận chung
của những người phụ nữ các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
2.2.3. Vai trò của người phụ nữ
- Vai trò xã hội:
Người phụ nữ trên thực tế có vai trò to lớn đối với sự phát triển và ổn
định trật tự xã hội, song theo quan niệm truyền thống của người Thái thì vị trí
và vai trò của người phụ nữ trong xã hội không được thừa nhận, ở nhà thì phụ
thuộc vào bố mẹ, bố mẹ gả cho ai thì phải lấy người đó, lấy chồng thì lại phải
theo gia đình nhà chồng. Các vị trí chủ chốt của xóm, bản, mường phải là
người đàn ông nắm giữ. Quan niệm này cũng thể hiện rõ trong truyện thơ.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A56
Khóa luận tốt nghiệp
Người phụ nữ trong truyện thơ (em yêu, nàng Ủa, nàng Hiến Hom…) ngoài
việc là người nội trợ, lo toan việc nhà, lao động sản xuất thì không tham gia
vào bất kể công việc gì của làng bản, cộng đồng.
- Vai trò trong gia đình:
Qua truyện thơ chúng ta thấy, người phụ nữ Thái có vai trò rất quan
trọng trong việc chăm lo cuộc sống gia đình, lao động tạo ra của cải vật chất.
“Em yêu” trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, từ bé đã được tiếp xúc với
công việc gia đình, theo mẹ chăn gà, chăn lợn, hái dâu… lớn lên, em đi làm
nương, làm ruộng, đi hái củi cho mẹ ninh xôi, nấu rượu, giã gạo làm cơm
chiều, cơm sáng. Có thể nói em rất thành thạo công việc nội trợ trong gia đình
và là lực lượng lao động chính tạo ra của cải vật chất duy trì cuộc sống.
Nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh là người con gái mồ côi cha
mẹ, sống ở nơi “đất đồi đất lạ”, nơi mường người, nàng Mứn phải đi gặt lúa,
đi trỉa ngô cho nhà giàu để sinh sống. Khi theo Khăm Panh về mường
Khòong, nàng Mứn đi phát nương trồng lúa, trỉa ngô, nàng thạo các công việc
gia đình như dệt chăn, ủ men, làm rượu… không những thế nàng Mứn còn
dạy dân làng vỡ đất trồng lúa, làm đăng làm đó bắt cá. Dù ở đâu, nàng Mứn
cũng là một người cần mẫm, chịu khó, chăm lo cho cuộc sống, tạo ra cái ăn
cho gia đình và cho dân bản.
Nàng Ỏn La trong truyện thơ Chim Yểng là người biết nấu cơm, dệt vải,
thạo các công việc ngoài ruộng, trên nương, giúp đỡ cha mẹ, trong gia đình
nàng cũng là người lao động chính để tạo ra của cải vật chất:
Chị Ỏn La đi cấy ruộng Hở Buộc
Chị còn đi làm cỏ rẫy núi cao
Trưa nghe tiếng nàng về lanh canh vòng bạc
Nàng bày mâm dọn ăn
Bữa trưa, ăn món cá “tết” nén trong ống nứa
Món chua cá “mọn”, cá “khỉnh” ướp trong ống luồng
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A57
Khóa luận tốt nghiệp
Ăn rồi, nàng nhai trầu
Nàng ngồi vào khung cửi dệt tơ
Dệt chăn, nàng dệt sắp xong
Nàng Hiến Hom trong truyện thơ Hiến Hom – Cầm Đôi, tuổi 14 đã biết
giúp mẹ lo toan mọi việc trong nhà, biết tập ra sàn khuống, biết quay sa kéo
sợi, biết dệt vải, lên nương lấy củi… trai bản xa ai cũng muốn ướm hỏi nàng
làm vợ, trai cùng mường cũng ngỏ lời thương.
Như vậy, người phụ nữ Thái trong truyện thơ là những người lao động
chính tạo ra của cải vật chất nuôi sống gia đình, hơn nữa họ còn giúp bố mẹ
chăm lo cho cuộc sống của gia đình. Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy
nhưng người phụ nữ lại không được quyền quyết định các công việc của gia
đình. Gia đình của người Thái là gia đình phụ quyền, người đàn ông Thái là
người chủ gia đình, có vai trò quan trọng trong nhiều mặt của cuộc sống, có
quyền hành lớn quyết định mọi công việc, từ công việc làm ăn, cưới xin đến
các công việc liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng.
Trong gia đình Thái truyền thống, người phụ nữ không có quyền hành
gì lớn. Ở nhà họ chịu sự quản lý của gia đình cụ thể là cha mẹ, khi lấy chồng,
họ sống phụ thuộc hoàn toàn vào chồng, thậm chí họ không có quyền được
quyết định số phận của mình. Bố mẹ gả cho ai thì phải lấy người đó, không
cho lấy thì không được lấy, mang đi bán đổi thì cũng phải chịu. Người phụ nữ
cuối cùng đành phải ngậm ngùi chấp nhận và hứng chịu nỗi đau.
Trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, cha mẹ không cho em yêu lấy
anh yêu và gả em cho người khác. Tuy rất đau khổ nhưng em yêu đành phải
chấp nhận cho ở rể ngoài, rồi ở rể trong cùng chung chăn gối với mình, rồi
tìm mọi cách để kéo dài thời gian nhưng cuối cùng em vẫn phải theo người ta
về nhà chồng. Về nhà chồng, em cố tình làm hư, làm biếng, bị nhà chồng trả
về, bố mẹ em lại bán đứt em cho một gia đình cửa quan, em cũng đành phải
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A58
Khóa luận tốt nghiệp
chịu, để rồi nhà quan mang em ra chợ bán và đổi em chỉ bằng một cuộn lá
dong.
Trong truyện thơ Khun Lú – Nàng Ủa, cha mẹ Ủa ham giàu sang,
không cho Ủa lấy Lú và gả Ủa cho một người khác. Biết chuyện Ủa tìm cách
không về, nhưng vẫn bị mẹ bắt về, hai người chia ly nhưng vẫn tìm gặp nhau
trên hạn khuống, lén chung chăn gối với nhau. Phải lấy người khác, Ủa không
chịu nên đã thắt cổ tự vẫn trên cây tùng mong được cùng người yêu sum họp
nơi mường trời. Nào ngờ, Then trời lại cướp Ủa làm tì thiếp, nạt chàng Lú
làm cho oan hồn lẫn khuất không tan, vĩnh viễn chàng Lú và nàng Ủa không
được ở bên nhau.
Trong truyện thơ Hiến Hom – Cầm Đôi, tuy không phải là hiện tượng
ép gả, nhưng mẹ Cầm Đôi không cho chàng lấy Hiến Hom vì chê nhà Hiến
Hom nghèo. Cầm Đôi đành phải chịu và đi tha phương mong có ngày cha mẹ
đổi ý. Hiến Hom phải chịu cảnh có con mà không có chồng, rồi không chịu
được miệng lưỡi người đời, cô đành phải tự vẫn.
Chàng Hủn Lu trong truyện thơ Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm đã bị
mẹ không cho lấy Náng Ông Piềm và cưới vợ Nầu Hặc cho chàng. Náng Ông
Piềm không nỡ phá hại tổ ấm của Nầu Hặc nên đã chọn cách ra đi, nàng hóa
thành chim bay mất, bị Tào Hủn Lu phóng giao đâm chết, nàng biến thành
mặt trăng, Hủn Lu thành mặt trời, vĩnh viễn họ không được gặp nhau.
Người Thái vốn đề cao phẩm hạnh của người phụ nữ trong đời sống. Mặc
dù quan niệm và luật tục xã hội Thái đều thể hiện rõ thái độ coi thường, khinh
thị người phụ nữ nhưng với vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống gia đình,
xã hội, người phụ nữ dần dần đã khẳng định được mình.
- Vai trò trong tình yêu và hôn nhân
Trong tình yêu, người phụ nữ Thái luôn có sự chủ động. Họ được tự do
tìm hiểu người mình yêu và tự do lựa chọn bạn tình của mình. Tuy nhiên, hôn
nhân của họ luôn bị những hủ tục, những lễ giáo phong kiến bủa vây, bóp
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A59
Khóa luận tốt nghiệp
nghẹt. Họ không được quyết định hạnh phúc của mình mà người quyết định
hôn nhân của họ chính là những người bố, người mẹ. Cuối cùng người hứng
chịu nỗi đau vẫn là người phụ nữ. Điều này được thể hiện khá rõ nét trong
truyện thơ.
Trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, em yêu đã gắn bó với người yêu
của mình từ thưở ấu thơ:
Rồi đôi ta ra đào đất san nền
Cưỡi bông lau phi ngựa
Quấy mẹ vòi nằm bên
Thưở đôi ta còn vầy cá trên mâm
Còn bắt cá trong chậu
Đuôi cá đập tay trái, ta rủ nhau cười
Đuôi cá đập tay phải, ta rủ nhau cùng khóc
Khi lớn lên, người phụ nữ được chung vui, chung buồn với người mình
yêu và tình yêu đến với họ như một lẽ tự nhiên:
Yêu nhau thưở mới ra đời
Trao duyên gửi nghĩa từ hồi còn thơ
Họ yêu nhau nhưng rồi bố mẹ “em yêu” chê anh yêu nghèo nên đã gả
“em yêu” cho người khác. Khi về nhà chồng, “em yêu” bị đối xử tệ bác nên
đã bỏ về nhà bố mẹ, bố mẹ cô lại bán đứt cô cho một gia đình cửa quan, cuối
cùng cô bị nhà chồng bán đi đổi lấy cuộn lá dong.
Trong truyện thơ Chàng Lú – Nàng Ủa, Nàng Ủa cùng Chàng Lú quấn
quýt với nhau từ thưở ấu thơ:
Nàng Ủa nhỏ cùng anh Khun Lú
Hai anh em như đôi ngọc đôi vàng
Nũng nịu vui đùa như một cặp uyên ương
Kề vai sát mặt yêu thương
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A60
Khóa luận tốt nghiệp
Lớn lên, họ yêu nhau nhưng cha mẹ Ủa ham giàu sang đã gả Ủa cho
tạo mường Khun Chai, không lấy được Chàng Lú nàng Ủa đã thắt cổ tự vẫn
trên cây tùng mong được cùng chàng Lú sum họp nơi mường Trời, nào ngờ
Then trời lại cướp Nàng Ủa làm vợ, nạt Chàng Lú làm oan hồn si tình lẫn
khuất không tan, vĩnh viễn Nàng Ủa không được ở bên cạnh người mình yêu.
Trong truyện Hiến Hom – Cầm Đôi, Hiến Hom gặp Cầm Đôi trên sàn
hạn khuống, rồi họ yêu nhau sáu năm ròng nhưng không ai hay biết, HIến
Hom có mang với Cầm Đôi nhưng mẹ Cầm Đôi chê nhà cô nghèo nên không
cho họ lấy nhau, Cầm Đôi phải đi tha phương, Hiến Hom ở nhà không chịu
được sự dè bửu của thế gian nên nàng đã thắt cổ tự vẫn
Trong truyện Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm, Ông Piềm gắn bó với Hủn
Lu từ nhỏ, hai người được mẹ cho đóng bè thả trôi về nơi Kẻ Chợ và được vợ
chồng ông lão người Kinh mang về nuôi. Hai người lớn lên bên nhau, cùng
nhau vui đùa, rồi họ yêu nhau, mẹ Hủn Lu không cho chàng lấy Ông Piềm
làm vợ và đã cưới Nầu Hặc cho chàng, Ông Piềm không nỡ phá hại tổ ấm của
Nầu Hặc nên đã ra đi, nàng hóa thành chim bay mất.
Như vậy, người phụ nữ Thái trong các truyện thơ đã có sự chủ động trong
tình yêu, dám đứng lên để bảo vệ tình yêu của mình nhưng đa phần họ không
lấy được người mình yêu, nếu có thì chỉ là lúc xế chiều hoặc ở kiếp khác.
Tiểu kết chương 2
Có thể khái quát, truyện thơ của dân tộc Thái không có loại truyện
riêng về đề tài người phụ nữ. Song như đã nói ở trên, trong hầu hết các truyện
thơ, dù viết về các đề tài khác nhau, chúng ta đều thấy có bóng dáng của
những người phụ nữ. Và qua đó, các tác giả dân gian đã cho chúng ta thấy
một cái nhìn khá đầy đủ về người phụ nữ Thái truyền thống. Đó là những
người phụ nữ vừa có ngoại hình đẹp như hoa, vừa khéo léo, tài năng. Ở họ hội
đủ các phẩm chất tốt đẹp hiếu nghĩa với cha mẹ, thủy chung, son sắt trong
tình yêu. Họ có ý chí kiên định, phản kháng quyết liệt với xã hội, với lễ giáo
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A61
Khóa luận tốt nghiệp
để bảo vệ hạnh phúc của bản thân. Tuy nhiên, số phận của hầu hết các nhân
vật nữ trong truyện thơ lại phải trải qua nhiều đau khổ, ngang trái. Trong gia
đình cũng như trong xã hội, họ không được quyền quyết định bất kể việc gì,
ngay cả những việc liên quan đến hạnh phúc, cuộc đời của bản thân.
Những điểm cốt lõi về người phụ nữ được thể hiện nhất quán, bằng
hình tượng sinh động qua tất cả các truyện thơ đã được khảo sát. Thông qua
số phận của người phụ nữ Thái, truyện thơ cũng gián tiếp lên án xã hội phong
kiến của người Thái xưa: một xã hội bất công, ngang trái đã bóp nghẹt quyền
sống, quyền yêu, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ.
Chương 3
NGƯỜI PHỤ NỮ THÁI VÀ TRUYỆN THƠ CỦA DÂN TỘC
THÁI TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN NAY (KHẢO SÁT Ở XÃ THỌ SƠN,
HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA)
3.1. Người phụ nữ Thái trong cuộc sống hiện nay
Những năm qua, nhờ thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ đồng bào dân
tộc thiểu số của Đảng và Chính phủ, đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào Thái đã có nhiều thay đổi.
Cuộc sống tuy còn nhiều khó khăn, song đồng bào Thái vẫn một lòng
theo Đảng, theo Bác Hồ, luôn đoàn kết, vươn lên xóa đói giảm nghèo, xây
dựng cuộc sống mới. Cần cù, chịu khó, đồng bào siêng năng học hỏi, áp dụng
kỹ thuật mới trong trồng trọt, chăn nuôi, mở rộng các hình thức sản xuất….để
nâng cao đời sống vật chất. Ngoài các công việc đồng áng, nương rẫy…đồng
bào cũng có đời sống tinh thần phong phú, tích cực tham gia các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, vui chơi, giải trí sau những ngày tháng lao động mệt nhọc
đồng thời góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A62
Khóa luận tốt nghiệp
Trong bối cảnh mới, sự phát triển về kinh tế, văn hóa, giáo dục; sự tăng
cường giao lưu, mở rộng quan hệ với thế giới bên ngoài đã khiến cho cuộc
sống của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào Thái nói riêng
thay đổi từng ngày. Trong đó, yếu tố con người chính là trung tâm của sự thay
đổi.
Người phụ nữ Thái ngày nay vẫn xinh đẹp, tài năng, vẫn giữ được tính
nết na, chịu thương chịu khó, ở nhà thì lo cho gia đình, lấy chồng thì lo cho
gia đình nhà chồng. Điều khác là, người phụ nữ Thái của ngày hôm nay bên
cạnh việc khéo léo nội trợ, thêu thùa, họ còn khẳng định mình trong lao động
sản xuất, trong các công việc xã hội nhiều hơn. Sự đảm đương tốt nhiều công
việc như vậy đã khiến cho đồng bào dần thay đổi quan niệm về người phụ nữ,
về vị trí và vai trò của người phụ nữ trong xã hội hiện nay.
Để có cái nhìn cụ thể hơn đối với người phụ nữ Thái trong cuộc sống
hiện nay, người viết đã khảo sát tình hình đời sống của xã Thọ sơn, một xã
miền núi của huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa và thấy có những nét chính
như sau:
Xã Thọ Sơn nằm gần quốc lộ 47, chạy theo hướng Đông - Tây nối
thành phố Thanh Hóa với các huyện phía Tây của tỉnh. Trong xã, hệ thống
giao thông liên thôn, liên xã được mở rộng, nâng cấp và làm mới giúp cho
việc giao lưu buôn bán của người dân diễn ra thuận lợi.
Tổng số dân của xã Thọ Sơn là 3770 người với 762 hộ gia đình. Trên
địa bàn xã có ba dân tộc cùng sinh sống: Thái, Mường, Kinh. Các dân tộc nơi
đây tuy không cùng nguồn gốc hay quá trình hình thành nhưng lại tập trung
sinh sống trên địa bàn xã, cùng nhau đoàn kết xây dựng cuộc sống mới. Hiện
nay, các dân tộc sinh sống gần gũi và luôn giúp đỡ lẫn nhau, do cùng sinh
sống trong một môi trường đã tạo nên một nền văn hóa giao thoa đa dạng và
phong phú. Xét về góc độ văn hóa thì sự giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau về
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A63
Khóa luận tốt nghiệp
phong tục cũng như lối sống tuy phức tạp nhưng lại tạo nên những nét đẹp
trong nền văn hóa phong phú mà thống nhất nơi đây.
Bên cạnh đó, Thọ Sơn là nơi có vị trí thuận lợi, đất đai màu mỡ, nhiều
tài ngyên khoáng sản (mỏ quặng, mỏ đá…) khiến cho nơi đây luôn thu hút
được nhiều dân cư từ nơi khác đến sinh sống và làm ăn, điều này càng tạo nên
sự đa dạng về thành phần dân tộc cũng như phong tục tập quán của đồng bào
nơi đây.
Mấy năm gần đây được sự quan tâm của các cấp các ngành, nền kinh tế
của xã đã có nhiều bước chuyển biến, đời sống của bà con dân tộc Thái ngày
càng được cải thiện. Ngày nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đưa Việt
Nam thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, nhanh chóng hội nhập với xu thế phát
triển chung của các nước trên thế giới. Cùng với sự phát triển đó của đất
nước, đời sống của người Thái ở Thọ Sơn cũng đã và đang từng bước được
thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây chính là điều kiện thuận lợi để
những người phụ nữ có thể khẳng định mình ở mọi mặt của đời sống. Và vì
thế vai trò của họ trong gia đình, xã hội đã thay đổi rất nhiều.
Thứ nhất là vai trò trong xã hội:
Trước đây, sống dưới chế độ phong kiến trong sự kiềm tỏa của chế độ
Tạo Phìa, người phụ nữ Thái bị khinh thường, rẻ rúm, trong nhà cũng như
ngoài bản họ không bao giờ được góp tiếng nói, tất cả mọi việc to nhỏ đều do
đàn ông quyết định. Vì còn nhiều hạn chế trong nhận thức nên người phụ nữ
Thái tin vào số phận, tin vào “ý Then”. Họ chấp nhận và cam chịu cuộc sống
với những gì mà số phận đã định, không giám ước mơ gì hơn ngoài cuộc sống
bình dị. Nhưng ngày nay, mọi suy nghĩ, nhận thức sai lầm trước kia của người
dân Thái đặc biệt là người phụ nữ đã có nhiều thay đổi. Mặc dù, vẫn là người
phụ nữ đảm đang, hiền dịu trong gia đình, nhưng suy nghĩ của họ không chỉ
dừng lại ở vườn rau, xó bếp, ruộng lúa mà họ đã có những ước mơ hoài bão
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A64
Khóa luận tốt nghiệp
cao đẹp, lớn lao. Ngày nay, nhiều phụ nữ Thái đã khẳng định được vị trí, vai
trò của mình ngoài xã hội, họ tham gia rất nhiều công việc ở mọi lĩnh vực
khác nhau, luôn có niềm tin vào sự hiểu biết và khả năng của bản thân. Nhiều
người phụ nữ có học vị cao, hiểu biết rộng, họ đảm đương những chức vụ
trong bản, xã, huyện, tỉnh và một số người phụ nữ Thái còn đảm trách những
chức vụ cao ở trung ương.
Điều này thể hiện rõ qua kết quả khảo sát ở xã Thọ Sơn về trình độ văn
hóa, nghề nghiệp, công việc của những người phụ nữ Thái. Cụ thể như sau:
Trình độ văn hóa Tỷ lệ ( %)Mù chữ 0%Tiểu học 100%Cấp 2 90%Cấp 3 55%Đại học, cao đẳng, trung cấp 25%
Bảng 1: Trình độ văn hóa của nữ giới
Trường mầm non 10 người 8%
Trường tiểu học 6 người 5%
Trường trung học cơ sở 5 người 4%
Trường trung học phổ thông 3 người 2,5%
Trường trung cấp 1 người 0,8%
Bảng 2: Số phụ nữ là giáo viên các cấp
Tổng số người Thái trong xã 251 người TL:100%
Số nữ giới 119 người 47%
Số phụ nữ tham gia chính quyền cấp
xã 10 người 8,5%
Số phụ nữ tham gia các đoàn thể, mặt
trận cấp thôn, xã 18 người 15%
Bảng 3: Số phụ nữ tham gia chính quyền và các tổ chức đoàn thể cấp xã
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A65
Khóa luận tốt nghiệp
Những số liệu này cho thấy, phụ nữ Thái hiện nay không những thông
minh mà còn rất ham học, hầu hết đã xóa được nạn mù chữ, phổ cập tiểu học,
trung học cơ sở, nhiều người đã có học vị cao, hiểu biết rộng. Họ là lực lượng
chính tham gia giảng dạy ở các trường mầm non, tiểu học trong xã và một số
là giáo viên các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp
chuyên nghiệp.
Không những thế, những người vừa có trình độ học vấn, vừa có uy tín
đã được bầu vào các vị trí cao trong chính quyền, các tổ chức đoàn thể như:
ủy viên thường vụ xã, chủ tịch hội phụ nữ, chủ tịch công đoàn xã, phó chủ
tịch mặt trận tổ quốc, phó chủ tịch hội khuyến học, văn phòng ủy ban, trưởng
ban văn hóa. Đây là minh chứng cụ thể nhất về sự thay đổi trong vai trò xã
hội của người phụ nữ Thái.
Thứ 2 là vai trò trong gia đình:
Xã hội ngày càng phát triển, vai trò của người phụ nữ cũng được đề
cao. Ngoài xã hội họ tham gia vào việc xây dựng làng bản, xây dựng chính
quyền ... Trong gia đình họ cũng có vai trò quan trọng, có rất nhiều phụ nữ Thái hiện nay
là chủ gia đình hoặc cùng làm chủ gia đình, họ cũng tham gia làm kinh tế, nắm tài chính
của gia đình, có phụ nữ trở thành doanh nhân, là chủ xưởng sản xuất, chủ trang trại...
Vai trò của người phụ nữ Số người Tỷ lệ (%)
Tổng số phụ nữ xã 119 người 100%
Phụ nữ làm chủ gia đình 45 người 38%
Phụ nữ nắm tài chính trong gia
đình60 người 50%
Phụ nữ là doanh nhân 5 người 4 %
Phụ nữ là chủ xưởng sản xuất,
chủ doanh trại10 người 8,5 %
Bảng 4: Thống kê của hội phụ nữ xã Thọ Sơn
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A66
Khóa luận tốt nghiệp
Người phụ nữ Thái còn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục con
cái, xây dựng hạnh phúc gia đình. Theo thống kê của xã năm 2011 có 98 hộ
trong xã đạt gia đình văn hóa. Bên cạnh đó người phụ nữ Thái còn tham gia
các phong trào phụ nữ làm kinh tế giỏi, phụ nữ giúp nhau xóa đói giảm
nghèo...Năm 2011, có 15 phụ nữ đạt phụ nữ làm kinh tế giỏi, có 8 phụ nữ đã
thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Đây là điều rất đáng khích lệ trong cuộc
sống hiện nay, đã và đang tạo nên sự phát triển chung của xã.
Thứ 3 là vai trò của người phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân:
Nếu như trước đây, xã hội phong kiến Thái là xã hội của những “phép
thiêng, phép cả, phép lớn” với tục lệ cưới mua gả bán, với những định kiến
khắt khe, cổ hủ, người phụ nữ sống trong xã hội đó họ không có quyền được
tự do lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của mình, thì bây giờ những điều ấy đã
dần được xóa bỏ, người phụ nữ Thái ngày nay được sống bình đẳng như tất cả
mọi người, họ có quyền được tự do trong tình yêu và hôn nhân.
Những năm gần đây, nền kinh tế của xã Thọ Sơn đã có những bước
chuyển biến rõ rệt, kinh tế phát triển, đời sống vật chất, đời sống tinh thần
được nâng cao kéo theo nhiều sự thay đổi trong đời sống của đồng bào Thái.
Một điều quan trọng đã thay đổi trong quan niệm hôn nhân của người Thái là
vấn đề bất bình đẳng trong hôn nhân. Tình yêu là cơ sở quan trọng quyết định
kết quả hôn nhân nhưng trong quan niệm của người Thái truyền thống, quan
trọng là phải môn đăng hộ đối, cùng với đó là hiện tượng ép gả và hôn nhân
có tính chất mua bán. Những hiện tượng đó được phản ánh rõ ràng trong
truyện thơ Tiễn dặn người yêu, Hiến Hom- Cầm Đôi, Khun Lú – Nàng Ủa,
Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm của người Thái. Hiện nay phụ nữ Thái được tự
do tìm hiểu và gây dựng hạnh phúc gia đình cùng sự tham gia góp ý quan
trọng của bố mẹ . Tình yêu trong hôn nhân và sự tự nguyện đã được chú trọng
trong việc kết hôn và trong quá trình chung sống. Chính nhận thức thay đổi đã
tạo nên dư luận xã hội mới, nếu như ngày xưa môn đăng hộ đối là tiếng tốt
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A67
Khóa luận tốt nghiệp
của gia đình, là niềm tự hào của dòng họ thì nay người Thái không còn quá
chú trọng và ngăn cản việc kết hôn của con cái. Đây là sự thay đổi tích cực
trong nhận thức của người Thái hiện nay.
Hiện nay, khi quá trình giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ, tình trạng
hôn nhân ngoại tộc giữa giữa phụ nữ Thái với các tộc người khác xảy ra rất
nhiều, hôn nhân ngoại tộc trên cơ sở tự nguyện đã tạo ra những gia đình hạnh
phúc. Đây là một hiện tượng mới trong đời sống xã hội Thái. Trước đây
người Thái không kết hôn với người ngoại tộc, nếu có kết hôn cũng không lập
gia đình với người khác huyện. Nhưng hiện nay, do quá trình chuyển cư của
người Kinh, hình thái cư trú “xôi đỗ”, cộng với sự phát triển của giao thông
vận tải, thông tin liên lạc thì người Thái không chỉ kết hôn với những người
đồng tộc. Hiện nay việc kết hôn với người ngoại tộc đã trở nên quen thuộc với
tâm lý của đồng bào. Qua buôn bán, trao đổi, giao lưu...họ tìm hiểu nhau và
tiến đến hôn nhân. Các cặp vợ chồng này tuy khác nhau về ngôn ngữ, nếp
sống sinh hoạt, phong tục tập quán nhưng họ vẫn tạo dựng được hạnh phúc
gia đình bền vững. Có được điều đó là do người phụ nữ Thái vẫn luôn luôn
giữ được những nét phẩm chất đáng quý như sự thủy chung trong tình yêu, sự
cần cù, chịu thương chịu khó, chăm lo cho gia đình và quan trọng là đức hi
sinh của người phụ nữ Thái.
Thống kê về tỷ lệ giữa đám cưới của những người cùng dân tộc và những người
khác dân tộc của phụ nữ Thái ở xã Thọ Sơn từ năm 2008 – 2011 như sau:
Năm Kết hôn cùng dân tộc Kết hôn khác dân tộc
2008 83,5% 16,5%
2009 71% 29%
2010 57% 43%
2011 45,7% 54,3%
Bảng 5: Thống kê của ban tư pháp xã Thọ Sơn
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A68
Khóa luận tốt nghiệp
Qua bản thống kê ta thấy, tỷ lệ người phụ nữ kết hôn khác dân tộc ngày
càng tăng lên.
Ngoài những biến đổi tích cực trên, trong xã hội Thái ngày nay vẫn còn
tồn tại những biến đổi tiêu cực.
Trong không khí dân chủ, hiện tượng ép duyên, gả bán không còn
nhưng phụ nữ Thái lại bị ảnh hưởng của xu hướng mới đó là sự tự do quá đà,
buông thả bản thân gây nên những hậu quả đáng tiếc cho chính bản thân
người phụ nữ , cho gia đình và cho xã hội. Một trong những xu hướng đó là
hiện tượng sống thử. Hiện nay, tình trạng sống thử trước hôn nhân là lối sống
du nhập từ phương Tây, bắt đầu phát triển ở thành thị nước ta, nay cũng đã
ảnh hưởng tới những người miền núi xa xôi trong đó có người phụ nữ. Người
viết đã thực hiện điều tra xã hội học đối với phụ nữ Thái có độ tuổi từ 17 – 22 tuổi, đang
học từ lớp 11/12 đến đại học ở xã Thọ Sơn về quan niệm của họ về việc sống thử trước hôn
nhân và thu được kết quả như sau:
Coi “Sống thử” là lối
sống
không lành mạnh, không
phù hợp với truyền thống
của dân tộc mình
Sống thử là một cách để
hiểu hơn về người mình
yêu, để an ủi, cùng nhau
vượt qua khó khăn trong
cuộc sống
Phải qua sống thử
thì hôn nhân mới có
hạnh phúc
SP TL SP TL SP TL
13/20 65% 6/20 30% 1/20 5%
Bảng 6: Quan niệm của phụ nữ Thái về việc sống thử
Như vậy có thể thấy, người phụ nữ Thái hiện nay phần đa vẫn giữ được
những nét phẩm chất trong truyền thống, tuy nhiên cũng còn có một bộ phận
bị ảnh hưởng trào lưu của thời đại, họ có quan niệm khá “thoáng” trong việc
sống thử đã dẫn tới những hậu quả như nạn nạo phá thai ngoài hôn nhân, bỏ
học để kết hôn…
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A69
Khóa luận tốt nghiệp
Đất nước ta đang bước vào hội nhập, nó thúc đẩy con người chạy theo
vòng xoáy của đồng tiền, làm suy thoái dần tố chất con người trong đó có cả
người phụ nữ. Người phụ nữ Thái hiện nay đã có nhiều thay đổi, nhiều trường
hợp không giữ được những nét phẩm chất tốt đẹp. Đây đang là một biểu hiện
tiêu cực, là rào cản cho sự phát triển của xã hội.
Người phụ nữ hiện nay không còn giữ được nét thủy chung như trong
truyền thống, tình trạng yêu một lúc nhiều người, yêu thử, yêu chọn lọc đang
trở thành trào lưu của giới trẻ, người phụ nữ ngày nay sống thực dụng hơn, họ
có thể sẵn sàng từ bỏ người mình yêu vì những mục đích khác như tiền bạc,
địa vị, do kết hôn không dựa trên cơ sở tình yêu chân chính nên có rất nhiều
phụ nữ kết hôn rồi lại li hôn. Tính riêng năm 2011, trên địa bàn xã Thọ Sơn
đã xảy ra 3 vụ kết hôn rồi lại ly hôn , hiện tượng này chắc chắn vẫn còn tiếp
diễn trong những năm sau.
Một sự thay đổi nữa trong tính cách của người phụ nữ Thái so với
truyền thống, nếu như trước đây người phụ nữ Thái trong truyện thơ luôn luôn chiến đấu
để bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc của mình thì ngày nay tính cách ấy không còn nhiều
nữa, rất ít người phụ nữ có thể vượt qua sự ngăn cấm của gia đình để sống cùng với người
mình yêu, đa phần là họ nghe theo gia đình, nghe theo bố mẹ. Người viết đã tìm hiểu cách
giải quyết của người phụ nữ khi tình yêu bị bố mẹ ngăn cản và thu được kết quả như sau:
Chấm dứt tình yêu Tìm mọi cách
vượt qua
Tìm đến cái chết
để bảovệ tình yêu
của mình
SP TL (%) SP TL
(%)
SP TL (%)
8/20 40 12/20 60 0 0
Bảng 7: Cách giải quyết của người phụ nữ khi tình yêu bị ngăn cản
Qua khảo sát ta thấy, khi tình yêu bị ngăn cản, đa phần cách giải quyết
của người phụ nữ vẫn là tìm mọi cách để vượt qua, tuy nhiên cách giải quyết
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A70
Khóa luận tốt nghiệp
chấm dứt tình yêu của mình cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Đây là sự thay
đổi rõ rệt trong tính cách của người phụ nữ trong xã hội hện nay.
Có thể nói, khi quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đang
phát triển một cách nhanh chóng, con người luôn phải hội nhập để bắt kịp
nhịp sống chung, việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống là một việc làm hết sức cần thiết. Phụ nữ Thái hiện nay thông
minh, năng động, duyên dáng song vẫn là những người con của bản Thái chân
chất, mộc mạc, họ luôn tự hào và có ý thức, trách nhiệm trong việc giữ gìn
bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Qua việc nhìn nhận về người phụ nữ Thái
trong đời sống xã hội ngày nay, chúng ta đã thấy được phần nào những đổi
thay trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân Thái. Có thể nói, đó là
bước chuyển mình rất cần thiết để mang lại cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp cho
mọi người. Đây không chỉ là niềm vui của riêng người dân Thái mà còn là
niềm vui chung của cả đất nước.
3.2. Truyện thơ Thái trong đời sống hiện nay
Văn hóa dân gian cũng như văn học dân gian đều là một kho tàng quý
giá của dân tộc, nhưng trên những chặng đường phát triển không phải nó
được bảo tồn hoàn toàn, khi nền kinh tế ngày càng phát triển kéo theo một xã
hội ngày càng hiện đại, văn minh hơn thì con người có xu hướng dần dần xa
rời truyền thống văn hóa xa xưa của dân tộc mình. Như vậy, văn hóa là thành
tố bị ảnh hưởng không nhỏ.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh
những giá trị đã và đang trở thành giá trị văn hóa của nhân loại vẫn còn nhiều
giá trị đang dần phai mờ mà nếu không được lưu giữ kịp thời sẽ rất dễ bị lãng
quên, thậm chí biến mất hẳn. Bởi vậy, nghiên cứu, tìm hiểu, duy trì truyền
thống văn học dân gian của các dân tộc trong đó có truyện thơ đang là sự
quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A71
Khóa luận tốt nghiệp
Hiện nay, truyện thơ Thái đã được cố định ra văn bản, nhiều tác phẩm
được dịch ra tiếng Việt và được lưu truyền rộng rãi không chỉ ở trong xã hội
Thái mà còn được lưu truyền trong cả nước. Đây là một cơ sở quan trọng cho
việc bảo tồn truyện thơ trong đời sống hiện nay.
Trong cộng đồng Thái Tây Bắc có Khắp Thái, là hình thức hát kể
chuyện thơ. Đây là một hình thức sinh hoạt tinh thần không thể thiếu được
trong cuộc sống người Thái. Trong đám cưới, các ngày lễ tết, lễ hội, lúc lao
động người ta đều có thể hát Khắp. Vì vậy, duy trì được Khắp trong đời sống
cũng là một hình thức lưu giữ truyện thơ Thái.
Đảng và Nhà nước ta hiện nay đang quan tâm đến việc khôi phục lại
môi trường diễn xướng cho truyện thơ, phục dựng lại các lễ hội truyền thống,
tổ chức các cuộc thi hát Khắp, thi kể truyện thơ… Đây là một hướng bảo tồn
truyện thơ rất hiệu quả.
Hiện nay, truyện thơ của các dân tộc thiểu số vẫn được lưu giữ, truyền
bá qua cách kể, cách nói hằng ngày của những người có tuổi hay những nghệ
nhân trong vùng đồng bào Thái. Cùng với nhiều cuốn sách được xuất bản,
Truyện thơ Thái vẫn được lưu truyền và ngày càng gần gũi với người dân
Thái. Gần đây, một số bài thơ thể kể truyện, các truyện thơ hiện đại, các thể
truyện ký bằng văn xuôi của các tác giả Thái ít hoặc nhiều đã tiếp thu và phát
huy những tinh hoa trong Truyện thơ của dân tộc mình. Đây là một hướng kế
thừa truyền thống rất đáng khuyến khích.
Tuy vậy, trong cuộc sống hiện nay, truyện thơ Thái hầu như ít được
mọi người biết đến, người viết đã thực hiện điều tra xã hội học ở vùng người
Thái xã Thọ Sơn ở tất cả các lứa tuổi người già, trung niên, thanh niên về sự
hiểu biết về truyện thơ và thu được kết quả như sau:
Lứa tuổi Người già Trung niên Thanh niên
Tỷ lệ người SP TL SP TL SP TL
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A72
Khóa luận tốt nghiệp
biết và kể
được truyện
thơ
13/20 65% 7/20 35% 2/20 10%
Bảng 8: Tỷ lệ người biết và kể được truyện thơ
Thực tế khảo sát ở xã Thọ Sơn người viết nhận thấy rằng: số lượng
người biết đến truyện thơ và có thể kể được truyện thơ không còn nhiều, chủ
yếu ở tầng lớp người già tuy nhiên số đó cũng ít, chỉ chiếm 65%, tầng lớp
trung niên chỉ chiếm 35%, đặc biệt, thế hệ trẻ khi hỏi ai cũng nói là không
biết, số người biết đến truyện thơ chỉ chiếm 10%. Điều này đang đe dọa sự
tồn tại của truyện thơ, bởi tầng lớp trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước mà
hầu hết không biết đến truyện thơ thì truyện thơ khó mà bảo tồn được.
Để truyện thơ có thể tồn tại đúng với ý nghĩa của nó thì phải được đặt
trong môi trường diễn xướng của nó, tuy nhiên khi khảo sát người viết nhận
thấy, khi mà kinh tế phát triển thì sinh hoạt dân gian còn diễn ra rất ít do đó
truyện thơ không có môi trường để tồn tại. Khi hỏi các cụ già thuộc truyện thơ
ở đâu, đa phần họ trả lời là thuộc qua cách kể của những thế hệ trước chứ
không được đọc trong cuốn sách nào. Hiện nay thì họ vẫn kể lại cho con cháu
nghe nhưng không được rộng rãi như trước, có chăng là vào các dịp lễ hội
hoặc các dịp lễ tết chứ trong cuộc sống hằng ngày thì hầu như không kể
truyện thơ. Khi khảo sát người viết còn nhận thấy hầu hết ở các bản Thái sách
in về truyện thơ không về đến nơi, các sách truyện thơ cổ thì bị thất truyền vì
thế mà truyện thơ dần dần bị mại một, và ít được biết đến đặc biệt là thế hệ
trẻ.
Tuy vậy, trong đời sống người dân Thái vẫn dùng truyện thơ để răn dạy
con cháu, và họ luôn luôn có ý thức giữ gìn và lưu truyền truyện thơ. Người
viết đã tiến hành khảo sát ở giới trẻ người Thái và thu được kết quả như sau:
20/20 phiếu trả lời sẽ áp dụng những kinh nghiệm của cha ông trong truyện
thơ vào đời sống của bản thân, 100% ý kiến cho rằng đưa truyện thơ vào
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A73
Khóa luận tốt nghiệp
chương trình giáo dục ở các trường học, hoặc vào các chương trình giao lưu
văn nghệ , truyền thông, hoặc các hoạt động xã hội.
Trong xã hội hiện nay, khi mà các phương tiện thông tin đại chúng, đài,
ti vi đang dần chiếm lĩnh đời sống của đồng bào Thái, thì rất ít sinh hoạt văn
hóa dân gian được diễn ra, đặc biệt là sự tác động to lớn của văn học dân gian
người Việt đến thế hệ trẻ người Thái làm cho truyện thơ đang đứng trước
nguy cơ bị mất hẳn.Với tình hình trên, để bảo tồn và phát huy được truyện thơ
Thái trong đời sống hiện nay thì cần phải tiếp tục cho in ấn nhiều truyện thơ
bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, cần phải tổ chức lại các sinh hoạt văn hóa
dân gian để tạo môi trường sống cho truyện thơ, tổ chức nghiên cứu, sưu tầm
các truyện thơ và cố định trong văn bản. Có như thế thì truyện thơ mới có thể
tồn tại và lưu truyền được.
3.3. Một vài nhận xét
3.3.1 Về người phụ nữ Thái trong truyện thơ và trong cuộc sống hiện
nay
Truyện thơ Thái về người phụ nữ đã đề cập đến những nét phẩm chất
đáng quý của người phụ nữ: đó là những người phụ nữ rất đẹp, rất tài năng,
họ có những tình yêu trong sáng, khi đã yêu thì yêu rất chung thủy và rất kiên
cường trong đấu trong bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc của mình. Mặc dù
cuộc đời của họ phải trải qua rất nhiều cay đắng nhưng họ vẫn luôn hướng tới
hạnh phúc của mình dù là lúc xế chiều, dù trong thực tại hay trong tâm tưởng.
Đó chính là giá trị đạo đức, nhân văn, tính hướng thiện của truyện thơ.
Sống dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ luôn bị những “phép
thiêng, phép cả. phép lớn” ngự trị, bủa vây, họ bị khinh thường, rẻ rúm, trong
nhà cũng như ngoài bản họ không được góp tiếng nói, thậm chí họ không có
quyền được quyết định số phận của mình mà người quyết định số phận của họ
là những Tạo, phìa, cũng có khi là chính bố mẹ của mình. Vì còn nhiều hạn
chế trong nhận thức cho nên người phụ nữ tin vào số phận, tin vào “y then”.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A74
Khóa luận tốt nghiệp
Họ chấp nhận và cam chịu cuộc sống với những gì mà số phận đã định, không
dám ước mơ gì ngoài một cuộc sống bình dị.
Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, các cấp chính
quyền nên đời sống của đồng bào Thái ngày càng được cải thiện, kinh tế phát
triển kéo theo sự thay đổi về đời sống vật chất, đời sóng tinh thần đặc biệt là
sự thay đổi trong nhận thức của người phụ nữ. Người phụ nữ ngày nay không
chỉ dừng lại ở vườn rau, xó bếp mà họ đã có những ước mơ, hoài bão cao đẹp
lớn lao. Ngày nay, người phụ nữ đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình
ngoài xã hội, họ không chỉ thông minh mà còn rất ham học, nhiều người đã có
học vị cao, hiểu biết rộng, họ đảm đương những công việc có vị trí xứng đáng
trong xã, huyện, tỉnh, một số phụ nữ còn đảm trách cả những chức vụ cao ở
trung ương.
Xã hội ngày càng phát trển giàu mạnh, văn minh hơn, những tục lệ cưới
mua gả bán với những định kiến khắt khe, cổ hủ đã bị xóa bỏ, người phụ nữ
Thái ngày nay được sống một cách bình đẳng như mọi người, họ có quyền
được tự do trong tình yêu và trong hôn nhân.
Trong không khí dân chủ, hiện tượng ép duyên, gả bán không còn
nhưng lại xảy ra tình trạng tự do quá đà, buông thả, dễ dãi trong quan hệ nam
nữ. Hiện nay, tình trạng sống thử trước hôn nhân là lối sống du nhập từ
phương Tây, bắt đầu phát triển ở thành thị nước ta, nay cũng đã ảnh hưởng tới
những người miền núi xa xôi trong đó có người phụ nữ. Chính vì những quan
niệm quá “thoáng” như vậy mà người phụ nữ Thái đã xa rời chuẩn mực
truyền thống dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như bỏ học để kết hôn, nạn
phá thai ngoài ý muốn.
Trước thực trạng đáng lo ngại trên, các cơ quan có trách nhiệm ở huyện
Triệu Sơn đã áp dụng nhiều biện pháp để khắc phục. Cụ thể là phòng Văn
hóa-thông tin kết hợp cùng đội An ninh trật tự đề ra những quy định như: Vào
nhà nghỉ phải có giấy tờ tùy thân, đăng ký kết hôn thì mới được phép ngủ
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A75
Khóa luận tốt nghiệp
chung…Trong công tác thông tin lưu động luôn luôn có nội dung tuyên
truyền về vấn đề nếp sống, lối sống lành mạnh, chống lại lối sống buông thả,
…
Giờ đây, khi đến với các bản Thái, chúng ta đã thấy nhiều đổi thay về
kinh tế, xã hội, văn hóa trong đó sự biến đổi tích cực đóng vai trò chủ đạo. Có
được điều này bởi người dân tộc Thái vẫn giữ được truyền thống của dân tộc
mình, luôn luôn học hỏi và tìm hiểu những vốn kiến thức trong dân gian qua
những câu tục ngữ, thành ngữ, truyện cổ tích và truyện thơ. Có thể nói, truyện
thơ Thái về người phụ nữ cực kỳ phong phú và đa dạng, những phẩm chất tốt
đẹp của người phụ nữ trong truyện thơ vẫn luôn tồn tại trong tâm trí người
dân tộc nơi đây, họ luôn ý thức được những suy nghĩ và hành động của mình
trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng: những phẩm chất tốt đẹp của
người phụ nữ cũng đang dần mất đi bởi tầng lớp trẻ hiện nay đang dần dần
tiếp cận với những nền văn hóa nơi phồn hoa đô thị, có nguy cơ xa rời văn
hóa truyền thống. Vậy nên, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các ngành, các cấp là
phải chú trọng trong việc bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống quý
giá của dân tộc trong đó có truyện thơ.
3.3.2. Giá trị của truyện thơ và thực trạng bảo tồn, phát huy truyện
thơ
- Giá trị hiện thực
Truyện thơ về người phụ nữ của đồng bào dân tộc Thái đã phản ánh
chân thực đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào. Qua truyện thơ về
người phụ nữ, có thể hiểu rõ hơn về đời sống mọi mặt của đồng bào Thái từ
lao động sản xuất đến sinh hoạt văn hóa – nghệ thuật, phong tục tập quán….
Truyện thơ khắc họa rõ cuộc sống của dân tộc Thái ở những thế hệ
trước khi còn nghèo nàn, lạc hậu, con người lệ thuộc nhiều vào tự nhiên và
nhất là lệ thuộc vào uy lực của những kẻ có quyền thế. Chính vì vậy mà trong
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A76
Khóa luận tốt nghiệp
đời sống riêng tư của mình, người dân không có quyền lựa chọn con đường
hạnh phúc cho bản thân, họ phải chịu áp đặt của những kẻ có quyền thế, mà
những người đó có khi lại chính là những người thân tròn gia đình, dòng họ.
Trong hoàn cảnh ấy, tình yêu chung thủy của người phụ nữ đã giúp họ vượt
qua được mọi trở ngại, giành được hạnh phúc của mình. Truyện thơ đã giúp
những người đời nay, hiểu rõ tâm tư, tình cảm của người phụ nữ, tình yêu và
cách thức bảo vệ tình yêu của họ, qua đó nhận thức sâu sắc hơn về đạo đức,
lối sống của thế hệ đi trước.
Truyện thơ Thái về người phụ nữ là một tiếng nói phản kháng của
người phụ nữ trước các thế lực và luật lệ phong kiến đang bao trùm lên xã hội
lúc bấy giờ. Nó không chỉ “ phản ánh chân thực số kiếp người phụ nữ dưới
chế độ phong kiến, nó còn thể hiện những khát vọng, những ước mơ chân
chính và cũng rất đơn giản của người phụ nữ: được tự do yêu đương xây
dựng hạnh phúc.
- Giá trị thẩm mỹ
Truyện thơ Thái về người phụ nữ đã góp phần tôn vinh và truyền bá
những nét đẹp của người phụ nữ nói riêng và cuộc sống của đồng bào Thái
nói chung. Phạm trù cái đẹp được khẳng định qua hàng loạt các nhân vật phụ
nữ và cách xử lý tình huống trong truyện thơ. Người phụ nữ không chỉ xinh
đẹp, nết na mà họ còn có lòng thủy chung đối với tình yêu, tính chiến đấu để
bảo vệ tình yêu của mình, tuy khó khăn vất vả, tưởng chừng không còn hy
vọng nhưng cuối cùng họ đã được đền đáp, họ được sống bên nhau dù là lúc
xế chiều, dù chỉ là bên nhau trong giấc mơ hay là ở một thế giới không có
thực. Truyện thơ về người phụ nữ thắp sáng khát vọng dân chủ, ca ngợi lối
ứng xử khoan hòa, giàu nhân tính. Cái đẹp về hình thức được coi trọng nhưng
cao quý hơn là cái đẹp về tính nết, tấm lòng, những giá trị vật chất được đề
cao nhưng cao hơn là những giá trị về tinh thần.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A77
Khóa luận tốt nghiệp
Ẩn chứa trong truyện thơ là một kho tàng phong phú về tài liệu ngôn
ngữ dân tộc. Mỗi truyện thơ bao gồm hàng nghìn từ ngữ có thể diễn đạt hay
miêu tả về phong cảnh, đồ dùng, vật nuôi, hay những từ ngữ thể hiện tình cảm
của đồng bào dân tộc Thái. Bản thân truyện thơ cũng là một vẻ đẹp về ngôn
ngữ, nó vừa kết tinh nhiều đặc điểm của tiếng nói dân tộc vừa in dấu được
những quan niệm, lối nghĩ của đồng bào dân tộc Thái về người phụ nữ, về
cách thức ứng xử giữa người với người. Đó là một vẻ đẹp được nhân lên gấp
đôi, bởi bản thân truyện thơ đã đẹp, lại còn miêu tả được vẻ đẹp của con
người, cảnh vật, đạo đức, lối sống, trở thành tấm gương sáng cho đời sau học
tập.
- Giá trị giáo dục
Truyện thơ Thái về người phụ nữ còn có giá trị giáo dục, đào tạo người
phụ nữ mới, đó là người phụ nữ đẹp, tài năng, khéo léo, giỏi công việc gia
đình, có lòng thủy chung, sự hy sinh cho gia đình, luôn luôn vượt lên khó
khăn để bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc của mình. Đó là những phẩm chất
rất đáng coi trọng. Bởi lẽ, trong cuộc sống hiện nay, khi xã hội ngày càng
phát triển với sự hội nhập quốc tế, nó thúc đẩy mọi người chạy theo vòng
xoáy của đồng tiền và làm suy thoái dần tố chất con người, những nét phẩm
chất tốt đẹp của người phụ nữ không còn giữ được nguyên vẹn như trong
truyền thống. Như vậy, trong trường hợp này, truyện thơ có vai trò khuyên
răn, dạy bảo con người đặc biệt là lối sống và cách ứng xử của người phụ nữ
trong cuộc sống hiện nay.
Không chỉ dừng lại ở vai trò khuyên răn con người mà truyện thơ còn
giữ gìn được những nét phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Thái để có thể
vận dụng vào việc xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Đồng thời, truyện thơ còn có vai trò giới thiệu và truyền bá với lớp trẻ hiện
nay cũng như với bạn bè quốc tế về cuộc sống và con người của những người
dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Thái nói riêng.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A78
Khóa luận tốt nghiệp
Giá trị văn hóa
Truyện thơ Thái nói chung và truyện thơ Thái về người phụ nữ nói
riêng nó góp phần làm rõ thêm chân dung văn hóa tộc người, bên cạnh đó nó
còn có vai trò to lớn trong việc lưu giữ và truyền bá vốn quý báu về văn hóa –
nghệ thuật của dân tộc Thái
Truyện thơ Thái phản ánh đời sống vật chất cũng như đời sống tinh
thần của người dân Thái từ xa xưa, trải qua nhiều năm phát triển của đất nước
nhưng nó vẫn giữ nguyên được giá trị và cho đến ngày nay, truyện thơ Thái
vẫn còn có vai trò rất to lớn. Đặc biệt là những truyện thơ về người phụ nữ,
thông qua những truyện thơ đó, ta thấy được cuộc sống của đồng bào Thái nói
chung và người phụ nữ nói riêng. Khi cuộc sống còn nghèo nàn, lạc hậu, phải
lao động vất vả để có cái ăn, cái mặc, tuy vậy họ vẫn luôn sống vui vẻ, đoàn
kết xây dựng bản làng quê hương. Hơn thế, về tinh thần họ còn trao cho người
mình yêu thương những tình cảm trong sáng, chân thành và thủy chung.
Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng truyện thơ Thái về
người phụ nữ hiện nay rất ít được mọi người biết, chỉ có một bộ phận người
già có thể kể lại truyện thơ, tầng lớp trung niên thì biết rất ít, còn giới trẻ hầu
như không biết đến. Thực trạng trên đang đe dọa sự tồn tại của truyện thơ.
Vấn đề đặt ra là phải có biện pháp bảo tồn truyện thơ đồng thời làm cho các
giá trị của truyện thơ đi sâu vào đời sống của người đồng bào Thái. Có như
thế thì truyện thơ của người Thái mới có thể tồn tại và phát huy được giá trị
của nó.
3.4. Một số khuyến nghị và giải pháp
3.4.1. Giữ gìn và phát huy văn học dân gian nói chung, truyện thơ
Thái nói riêng trong cuộc sống hiện nay
Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc, văn hóa bắt rễ sâu trong đời sống
nhân dân. Qua từng thời kỳ lịch sử, văn hóa dân tộc là căn cước, là chững chỉ
của một dân tộc.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A79
Khóa luận tốt nghiệp
Vậy bảo vệ và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc chính là bảo vệ,
phát huy những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần cảu dân tộc. Để
thực hiện điều đó, trước hết cần phải đề ra những phương hướng và có nhứng
biện pháp cụ thể.
Khi thực hiện đề tài này, người viết đã tiến hành điều tra xã hội học ở
xã Thọ Sơn và thu được kết quả như sau:
- 13/20 phiếu trả lời đã có lần nghe kể hoặc tìm hiểu về truyện thơ Thái
- 20/20 phiếu trả lời sẽ áp dụng những kinh nghiệm tốt của cha ông thể
hiện trong truyện thơ vào đời sống của bản thân
- 100% số phiếu tán thành với việc đưa truyện thơ vào chương trình
giáo dục ở các trường học, hoặc vào các chương trình giao lưu văn nghệ ,
truyền thông, hoặc các hoạt động xã hội.
Từ căn cứ thực tế nói trên, kết hợp với việc nghiên cứu các văn bản chỉ
đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và tình hình đời sống tinh thần của đồng
bào Thái trong thời kỳ đổi mới, người viết mạnh dạn đề xuất như sau:
Phương hướng
Bảo tồn và phát huy toàn diện văn học dân gian nói chung và truyện
thơ của dân tộc Thái nói riêng.
Biện pháp
- Sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian nói chung, đặc biệt là truyện
thơ của dân tộc Thái
- Phổ biến và tuyên truyền cho đồng bào dân tộc Thái biết được thêm
nhiều về truyện thơ của dân tộc mình, đồng thời giúp người dân hiểu được ý
nghĩa cũng như những giá trị đích thực của truyện thơ Thái về người phụ nữ
để từ đó có thể vận dụng vào cuộc sống hiện nay.
- Cần cố định truyện thơ trong văn bản, tiếp tục cho in ấn truyện thơ
Thái ra nhiều thứ tiếng khác nhau cho lưu hành rộng rãi trên phạm vi cả nước.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A80
Khóa luận tốt nghiệp
- Cần tổ chức lại các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian, phục dựng
lại các lễ hội truyền thống để tạo môi trường sống cho truyện thơ.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về truyện thơ trên quy mô rộng, tổ chức
các buổi liên hoan, văn nghệ có sự tham gia của đồng bào như hát Khắp để
bảo tồn truyện thơ
- Trong chương trình giáo dục của con em vùng miền núi nên đưa
truyện thơ vào chương trình giảng dạy, đưa vào các hoạt động giao lưu hoặc
là tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn học dân tộc, trong đó có truyện
thơ….để cho những thanh thiếu niên người dân tộc từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường đã biết đến những vốn văn học dân gian của dân tộc và biết giữ
gìn những giá trị văn hóa truyền thống mà cha ông ta đã để lại.
Từ những câu chuyện hay và đầy ý nghĩa nhân văn trong truyện thơ,
lớp trẻ hiện nay sẽ vận dụng vào cuộc sống mới và như thế sẽ góp phần vào
việc lưu giữ, truyền bá và phát huy những nét đẹp của người phụ nữ trong
truyện thơ Thái trong cuốc sống hiện nay.
3.4.2. Giữ gìn và phát huy những nét đẹp của người phụ nữ Thái
trong cuộc sống hiện nay
Ngày nay, người phụ nữ Thái được tiếp cận với nền văn hóa phồn hoa
đô thị nên có phần xa rời các chuẩn mực truyền thống, trong nhiều trường hợp
họ không còn giữ được những nét phẩm chất tốt đẹp. Trong điều kiện xã hội
nói trên, việc giữ gìn và phát huy những nét đẹp của người phụ nữ Thái trong
cuộc sống hiện nay là một việc làm hết sức cần thiết, góp phần xây dựng nếp
sống văn hóa, xây dựng gia đình hạnh phúc. Một trong những biện pháp đó là
làm cho những những nét đẹp của người phụ nữ dần dần thẩm thấu vào đới
sống tinh thần của lớp người trẻ tuổi, giúp họ có những định hướng đúng đắn.
Thực hiện biện pháp này bằng nhiều hình thức:
+ Trong công tác thông tin lưu động nên xen kẽ Truyện thơ vào các tiết
mục văn nghệ hay diễn kịch bằng cách diễn/ kể tốm tắt truyện thơ. Từ đó, rút
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A81
Khóa luận tốt nghiệp
ra những giá trị nhân văn của truyện thơ về người phụ nữ và vận dụng vào
cuộc sống hiện nay.
+ Trong các phong trào thi đua xây dựng xây gia đình văn hóa, xây
dựng nếp sống văn hóa nên đưa những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ
thành mục tiêu chấm điểm như: phải thủy chung một vợ một chồng, phụ nữ
vượt khó để xây dựng cuộc sống, phụ nữ giúp nhau xóa đói giảm nghèo….
+ Trong các hoạt động, phong trào của phụ nữ nên đưa những nét đẹp
của người phụ nữ trong truyện thơ trở thành tiêu chuẩn để bình chọn các danh
hiệu như: phụ nữ tiên tiến, phụ nữ tài năng, phụ nữ làm kinh tế giỏi…
+ Đưa truyện thơ Thái về người phụ nữ vào các sinh hoạt cộng đồng để
làm gương trong việc xây dựng gia đình mới, từ những nét đẹp của người phụ
nữ trong truyện thơ vận dụng vào xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng gia
đình văn hóa.
Tiểu kết chương 3
Những kết quả khảo sát tại xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh
Hóa cho thấy, người phụ nữ Thái trong xã hội hiện nay đã có rất nhiều thay
đổi. Họ vẫn giữ được nhiều nét đẹp của người phụ nữ truyền thống, người phụ
nữ trong truyện thơ. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của xã hội, người phụ
nữ có cơ hội tham gia vào nhiều công việc xã hội, làm kinh tế…Người phụ nữ
Thái hiện nay đã khẳng định được khả năng, trí tuệ của mình trong cuộc sống
gia đình, tình yêu – hôn nhân và ở nhiều lĩnh vực trong xã hội. Tuy nhiên, sự
thay đổi của xã hội, quá trình giao lưu văn hóa cũng đem lại những tác động
không nhỏ đến tư tưởng, lối sống… làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực trong
đời sống của đồng bào trong đó có cả giới nữ.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, quá trình giao lưu, hội nhập khiến cho
đời sống văn hóa, đời sống vật chất phong phú hơn nhưng cũng là nguy cơ
khiến cho nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Thái, trong đó có
truyện thơ đã và đang bị mai một dần. Từ thực trạng đó, người viết đã bước
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A82
Khóa luận tốt nghiệp
đầu đề xuất một số biện pháp bảo tồn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ Thái truyền thống và bảo tồn, phát huy truyện thơ Thái
trong đời sống hiện nay.
KẾT LUẬN
Truyện thơ là một thể loại văn học dân gian đặc trưng và cũng rất độc
đáo của nhân dân các dân tộc thiểu số. Cùng với các dân tộc anh em khác,
người Thái đã góp vào kho tàng truyện thơ của nước ta một tiếng nói riêng,
mang đậm bản sắc văn hóa Thái.
Truyện thơ Thái được kết tinh từ truyền thống văn hóa – văn nghệ, từ
các hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân Thái từ bao đời nay. Tuy nhiên,
trên những chặng đường phát triển không phải nó được bảo lưu hoàn toàn,
bên cạnh những nhân tố đã và đang phát triển trở thành giá trị văn hóa vẫn
còn nhiều giá trị đang dần bị phai mờ mà nếu không được lưu giữ kịp thời sẽ
rất dễ bị lãng quên, thậm chí sẽ bị biến mất hẳn. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu,
duy trì truyền thống văn hóa dân gian luôn là sự quan tâm hàng đầu của Đảng
và Nhà nước ta.
Nghiên cứu về Truyện thơ là góp phần làm phong phú thêm kho tàng
văn học dân gian của nước ta. Đó chính là phương trâm “học xưa là vì nay”
của Đảng ta.
Trên cơ sở nhận thức như vậy, người viết đã chứng minh được tính cấp
thiết của đề tài và vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như
phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn học – văn hóa học – dân tộc hoc),
xã hội học văn hóa để giải quyết những vấn đề vừa có tính văn học, vừa có
tính văn hóa.
Qua 3 chương, khóa luận đã giải quyết những vấn đề mang tính lý luận
và thực tiễn là:
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A83
Khóa luận tốt nghiệp
1. Những nét đặc trưng nhất về điều kiện địa lý, dân cư, văn hóa vật
chất, văn hóa tinh thần nơi mà đồng bào Thái sinh sống và có liên quan trực
tiếp đến truyện thơ. Qua đây, chúng ta thấy rằng: đồng bào Thái chủ yếu cư
trú ở vùng miền núi, dân cư thưa thớt, giao thông đi lại khó khăn. Đây là điều
kiện thuận lợi để đồng bào Thái có thể bảo lưu được nền văn hóa truyền thống
của dân tộc mình, hạn chế sự du nhập ồ ạt của văn hóa ngoại lai làm biến
dạng văn hóa bản địa.
Dân tộc Thái là một trong số các dân tộc thiểu số ở nước ta có chữ viết
từ lâu đời. Do người Thái có chữ vết nên kho tàng văn học dân gian như
truyền thuyết, ca dao, truyện thơ, văn học, dân ca và một số luật lệ còn được
lưu giữ và truyền lại khá nguyên vẹn qua các bản ghi chép trên giây bản và
trên lá cây. Một số tác phẩm truyện thơ nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay
như: Xống chụ xôn xao, Khun Lú – Nàng Ủa, Khăm panh, Hiến Hom – Cầm
Đôi…
Dân tộc Thái có số dân đông thứ ba sau người Kinh và người Tày. Dân
số đông cộng với có chữ viết là những điều kiện thuận lợi để bảo lưu và phát
triển nền văn học dân gian trong đó có truyện thơ.
2. Qua khảo sát các truyện thơ tiêu biểu của người Thái Tây Bắc: Tiễn
dặn người yêu, Khun Lú – Nàng Ủa, Hiến Hom – Cầm Đôi, Khăm Panh,
Chim Yểng, Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm. Tuy ra đời trong những hoàn
cảnh khác nhau nhưng các truyện thơ này có rất nhiều điểm tương đồng: phản
ánh thực tế đời sống vật chất, tình cảm của người dân tộc Thái, đặc biệt là
phản ánh sinh động người phụ nữ Thái trong xã hội phong kiến xưa, tạo nên
những giá trị to lớn. Qua truyện thơ Thái về người phụ nữ có thể thấy rõ quan
niệm, cách ứng xử của người phụ nữ Thái trong tình yêu: đó là người phụ nữ
có một tình yêu trong sáng, mãnh liệt, đặc biệt họ có long thủy chung son sắt.
Do sự ép buộc của cha mẹ hoặc do sự cưỡng bức của những kẻ có quyền thế,
người phụ nữ phải xa rời người yêu của mình, nhưng họ vẫn một lòng một dạ
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A84
Khóa luận tốt nghiệp
hướng về người mình yêu thương, họ dám vượt mọi khó khăn, trở ngại để
được sống cùng người mình yêu dù là cõi trần hay cõi âm, trong thực tại hay
trong tâm tưởng.
3. Khảo sát về người phụ nữ Thái trong cuộc sống hiện nay ở xã Thọ
Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa kết hợp với tình hình tìm hiểu được
qua sách báo… người viết phân tích những biến đổi trong đời sống tình cảm,
cách ứng xử của người phụ nữ Thái ngày nay và đề xuất những phương
hướng bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của người phụ nữ và của
truyện thơ trong cuộc sống đương đại.Truyện thơ Thái về người phụ nữ mang
rõ dấu ấn về nếp sống, phong tục, đạo đức của đồng bào dân tộc Thái, mang
giá trị hiện thực, giáo dục, văn hóa, thẩm mỹ sâu sắc mà lớp trẻ ngày nay nói
chung, người phụ nữ nói riêng cần phải noi theo. Sự biến đổi đáng lo ngại
nhất là sự tự do quá đà, sự buông thả bản thân của người phụ nữ, từ những
định hướng sai lầm, xa rời chuẩn mực về đạo đức truyền thống, đã dẫn đến
những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, đe dọa, phá vỡ hạnh phúc
của nhiều lứa đôi, gia đình.
Trong điều kiện xã hội nói trên, bảo tồn và phát huy những giá trị tốt
đẹp của truyện thơ Thái về người phụ nữ là một trong những biện pháp hữu
hiệu góp phần xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng gia đình hạnh phúc. Một
trong những việc làm thiết thực là đưa truyện thơ các dân tộc Thái về người
phụ nữ vào nội dung hoạt động thông tin, văn nghệ, giáo dục hay các hoạt
động xã hội, làm cho những giá trị về thẩm mỹ, đạo đức, lối sống…dần dần
thẩm thấu vào đời sống tinh thần của lớp người trẻ tuổi, giúp họ có định
hướng đúng đắn.
Tất cả các thể loại văn học dân gian như: Truyện thơ, sử thi, thành ngữ,
tục ngữ, ca dao, dân ca…đã và đang góp phần vào công cuộc phát triển đất
nước, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế thị trường đang phát
triển cùng với những chủ trương mở cửa và giao lưu văn hóa với các nước
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A85
Khóa luận tốt nghiệp
trong khu vực và trên thế giới. Việc giữ gìn và phát huy các loại hình văn học
dân gian truyền thống, đặc biệt là truyện thơ về người phụ nữ là một việc làm
có ý nghĩa quan trọng góp phần xây dựng xã hội ngày càng văn minh, lành
mạnh theo đúng nghị quyết và phương trâm đường lối văn hóa Việt Nam của
Đảng đề ra. Đồng thời, nó cũng đặt ra những nhiệm vụ cao cả đối với Đảng
và Nhà nước là phải có những biện pháp, chính sách để tạo điều kiện cho việc
nghiên cứu, sưu tầm nhiều hơn nữa các tác phẩm văn học dân gian nó chung
và truyện thơ Thái nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Bình, 2009, Văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc.NXB
VHDT, Hà Nội
2. Trần Bình, 2001, Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở
Tây Bắc Việt Nam, NXB VHDT, Hà Nội
3. Trần Bình, Đôi nét về lịch của người Thái ở Tây Bắc, Tạp chí nghiên
cứu Đông Nam á, số 1/1996
4. Bùi Văn Trọng Cường (2000), Tiễn dặn người yêu, Tạp chí Văn nghệ
dân tộc và miền núi, Hà Nội, số 9
5. Cầm Cường, Tìm hiểu văn học dân tộc Thái ở Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội
6. Cầm Cường, Cầm Kỷ, Hà Thị Thiệc, (1986), Truyện dân gian Thái,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
7. Lò Xuân Dừa, (2004), Bước đầu tìm hiểu một vài đặc điểm của
Truyện thơ “Khun Lú – Nàng Ủa”, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại
học Sư Phạm Hà Nội
8. Nguyễn Bích Hà, (2002), Giáo trình Văn học dân gian, NXB Đại
Học Sư Phạm, Hà Nội
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A86
Khóa luận tốt nghiệp
9. Nguyễn Xuân Hòa, Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội
10. Hội văn nghệ Sơn La, (1997), Truyện thơ, trường ca dân tộc Thái,
Sở Văn hóa – Thông tin, 1997
11. Đinh Gia Khánh, Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian
12. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), (2008), Tổng tập văn học dân gian
các dân tộc thiểu số Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên
cứu văn hóa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
13. Hoàng Thị Hương Loan, (2006), Số phận người phụ nữ Thái qua
một số chuyện thơ tiêu biểu của người Thái Tây Bắc, Luận văn thạc sĩ ngữ
văn, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
14. Đặng Văn Lung, Sông Thao biên soạn, tuyển chọn (1999), Tuyển
tập văn học dân gian, tập 5: Sử thi, truyện thơ, NXB Giáo Dục, Hà Nội
15. Nông Đức Mạnh, (1996), Phát huy gái trị văn hóa các dân tộc
( Sách “ Văn hóa và sự phát triển các dân tộc Việt Nam”), Hà Nội
16. Lê Trường Phát, Truyện thơ các dân tộc thiểu số- một thể loại văn
học, hai phong cách ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Hà Nội, 1996,
số 2
17. Mạc Phi, (1961), “Giá trị truyện thơ Xống chụ xôn xao” Tạp chí
Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 5
18. Mạc Phi, (1961),Văn học Thái, tạp chí văn nghệ, số 45
19. Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vỹ, Văn
học dân gian Việt Nam, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội
20. Ngô Đức Thịnh, (1993), Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống
các dân tộc, Tạp chí Dân tộc học. Hà Nội
21. Lê Ngọc Thắng, (1990), Nghệ thuật trang phục Thái, NXB VHDT,
Hà Nội
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A87
Khóa luận tốt nghiệp
22. Cầm Trọng, (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, NXB KHXH,
Hà Nội
23. Cầm Trọng – Ngô Đức Thịnh, (1999), Luật tục Thái ở Việt Nam,
NXB VHDT, Hà Nội
24. Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, Viện Khoa học và Nhân văn
Quốc Gia, Viện văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội
25. Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam
26. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), (2002), Tổng tập văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tập 4: Truyện thơ, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn Quốc Gia Viện văn học, NXB Đà Nẵng
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH NGƯỜI CUNG CẤP TƯ LIỆU
STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp
1 Hoàng Thị Nhung 25 Cán bộ dân số xã Thọ Sơn
2 Lê Thị Tình 27 Trưởng ban văn hóa xã Thọ Sơn
3 Bùi Bá Cường 35 Cán bộ tư pháp xã Thọ Sơn
4 Lý Ngọc Thơm 48 Phó chủ tịch xã Thọ Sơn
5 Lữ Hoàng Yến 32 Giáo viên trường cấp III H. Triệu Sơn
6 Vi Thị Thắm 28 Giáo viên trường Cấp II Xã Thọ Sơn
7 Hà Minh Hạnh 28 Bí thư đoàn xã Thọ Sơn
8 Lương Thị Chung 38 Xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn
9 Vi Thị Thu 42 Xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn
10 Lô Thị Hoạt 45 Xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn
11 Nguyễn Tài Tuệ 49 Cán bộ phòng Văn hóa-thông tin
huyện Triệu Sơn
12 Lương Trọng Thủy 78 Già làng, Thôn 11, Thọ Sơn
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A88
Khóa luận tốt nghiệp
13 Lò Văn Huy 70 Già làng, Thôn 13, Thọ Sơn
PHỤ LỤC 2
Tóm tắt nội dung một số truyện thơ tiêu biểu
của người Thái Tây Bắc viết về người phụ nữ
Truyện thơ Tiễn dặn người yêu
Tiễn dặn người yêu là một câu chuyện tình bằng thơ và là một kiệt tác
trong văn học trữ tình của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam.
“ Tiễn dặn người yêu” là truyện tình trắc trở của đôi trai gái. Câu
chuyện kể về đôi trai gái người Thái từ khi họ còn nằm trong bụng mẹ, hai
đứa trẻ ấy được sinh ra và lớn lên và lớn lên trong hai gia đình không giàu có,
nhưng tuổi thơ và thời niên thiếu của họ cũng trôi qua ên đềm và phẳng lặng
như bao người khác, rồi họ yêu nhau…hện hò gắn bó. Anh yêu về tìm sắm lễ
vật, tìm người mối lái đến xin ở rể nhà em yêu, nhưng cha mẹ em yêu chê anh
nghèo không nhận lời, mà lại nhận lời người khác, cha mẹ gả chồng cho em
yêu khi cô còn ở trên nương, về đến nhà thì chuyện đã rồi, dù hết sức đau đớn
nhưng em yêu không thể làm gì được.
Anh đau khổ vô cùng, nhưng rồi quyết chí đi buôn làm giàu để đủ tiền
giành lại người yêu. Trước khi đi, anh yêu trao cho em yêu chiếc đàn môi để
làm vật tin và dặn dò cô dù thế nào cũng cứ đợi và tin ở anh, năm tháng trôi đi
mà anh vẫn lận đận chưa về, cô gái ở nhà mỏi mắt chờ trông. Đã hết kỳ “rể
ngoài” người kia được cha mẹ cho làm “rể trong” cùng cô chung chăn gối, rồi
biết bao tháng năm chờ đợi nữa trôi qua anh vẫn biệt tăm, người kia đã ở đủ
hạn rể, giờ đã đến lúc phải theo họ về nhà chồng. Em yêu cố tìm cách trì
hoãn, lần lữa từ tháng riêng đến tháng chạp, nhưng một năm chỉ có 12 tháng,
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A89
Khóa luận tốt nghiệp
không còn cách nào khác đến tháng cuối cùng cô đành phải đau lòng cất
bước, chính lúc ấy anh trở về nhưng tình thế của em yêu đã thành tuyệt vọng.
Anh phẫn nộ, căm hờn, bất chấp mọi nổi hiểm nguy đe dọa băng mình đuổi
theo để được cùng người yêu than thở dặn dò: “Không lấy được nhau lúc trẻ
ta sẽ lấy nhau lúc góa bụa về già”
Anh đưa bạn tình đến tận nhà chồng, ở lại đó một thời gian, em yêu bị
nhà chồng đánh đập, đày đọa, anh xót lòng an ủi thuốc thang. Đôi bạn quyến
luyến dặn dò nhau hết nhẽ, rồi anh đành phải quay về nhà.
Sau một thời gian vì không làm tròn nhiệm vụ dâu thảo vợ hiền nên em
yêu bị nhà chồng đuổi về với cha mẹ đẻ, vưa về đến nhà cha mẹ đã bán đứt cô
cho một gia đình cửa quan. Ở đây cô càng khổ hơn, càng ngẩn ngơ, vụng dại.
Họ bực tức đem cô ra chợ bán, rao chợ dưới, chợ trên chẳng ai buồn ngó, cuối
cùng họ đổi cô lấy một cuộn lá dong.
May sao người đổi cuộn dong chính là người yêu cũ nhưng bây giờ anh
đã có vợ con êm đềm. Vì em yêu quá tiều tụy, anh không thể nhận ra, tủi thân
quá cô oán phận, trách người, rồi lấy chiếc đàn môi năm xưa ra gảy. Đôi bạn
tình đã nhận ra nhau, anh quyết định cưới cô làm vợ và sống hạnh phúc bên
nhau.
Truyện thơ Chàng Lú – Nàng Ủa
Chàng Lú – Nàng Ủa được coi là thiên truyện Kiều thứ hai của người
Thái. Trên cơ sở từ câu chuyện dân gian của người Khơ Mú, người dân Thái
đã xây dựng thành một thiên tình sử não nùng bằng truyện thơ, để mãi đến
hôm nay những đôi bạn tình vẫn còn nhắc.
Câu chuyện kể về một thuở xa xưa, có vị chúa trời Tề- Ba- La dâm
đãng muốn chiếm con gái mình làm vợ. Sợ phạm phép trời, Then bày mưu
cho con gái xuống trần hóa thành quả sung chín đầu thai vào hai chị em Cằm
Sôm và Ngân Liêng con phìa Chiềng Ly. Hai chị em mang thai, hẹn ước nếu
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A90
Khóa luận tốt nghiệp
cùng sinh con gái thì cho chúng chung một chồng, nếu sinh một trai, một gái
thì cho chúng lấy nhau.
Chàng Lú và Nàng Ủa ra đời đẹp như ngọc song đôi, hai đứa trẻ ngày
càng quấn quýt, lớn lên bên nhau. Ông phìa Chiềng Ly đã già, chia mường
cho các con rể lập ấp. Nhà Lú và Ủa phải xa nhau, đôi trai gái đau buồn chia
tay, hẹn ước mãi mãi chung thủy. Chàng Lú “tập giữ quyền cao” bên tạo mà
lòng thương nhớ Ủa không nguôi, bèn xin phép cha mẹ sang thăm nàng. Hai
người gặp nhau vui mừng khôn xiết, họ cùng chung chăn gối mặn nồng
nhưng rồi lại phải xa nhau, chàng Lú trở về nhà. Sau đó Ủa cùng mẹ sang nhà
Lú thăm hỏi, Ủa được mẹ cho ở lại nhà Lú chơi. Khi đó bên nhà Ủa, tạo
Mường Khun Chai sai người mang lễ sang nhà xin cưới Ủa làm vợ. Cha nàng
Ủa nhận lời gả nàng cho Khun Chai, còn mẹ cho hầu tớ sang đón Ủa về,
Chàng Lú và Nàng Ủa tuy bị ngăm cấm nhưng vẫn tìm gặp nhau trên hạn
khuống, lén chung chăn gối với nhau, cha mẹ Ủa bắt được rút gươm dọa giết
Lú, chàng đành phải bỏ về.
Cha mẹ chàng Lú cưới nàng Mành cho con, Lú thương mẹ không nói
chỉ ân thầm trong lòng nỗi thương nhớ Ủa. Ủa cũng ngày đêm mong ngóng
Lú, trốn sang thăm chàng nhưng lại bị mẹ tìm thấy bắt về. Trở về nhà Ủa héo
hắt lòng đau, nàng mặc xiêm y, trang điểm lộng lẫy rồi đến bên cây tùng thắt
cổ tự vẫn. Chàng Lú nhận được tin đau đớn vô cùng, Lú mang trâu sang tiễn
vong Ủa, trở về nhà mà thương nàng không chút nguôi ngoai, chàng liền cầm
dao cứa cổ chết theo nàng.
Hai người gặp nhau ở Mường trời, nhưng vị chúa trời Then Chăng Tế-
ba- la đã giành lấy nàng Ủa làm vợ, bắt chàng Lú phải ở ngoài sân trời, đôi
lứa từ đó mãi mãi ngăn cách.
Truyện thơ Hiến Hom – Cầm Đôi
Truyện thơ này của người dân Thái đã được lưu truyền bao đời nay ở
vùng Thái Tây Bắc Việt Nam. Câu chuyện là tấn bi kịch tình yêu, xảy ra từ
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A91
Khóa luận tốt nghiệp
một mùa chơi hạn khuống xa xưa ở mường Pha Muổi huyện Thuận Châu. Với
lối kể hấp dẫn, tình tiết ly kỳ, truyện thơ đã tạo được ấn tượng riêng cho
người đọc. Có lẽ sâu sắc nhất đó là sự ám ảnh về nổi đau, nỗi tuyệt vọng của
một người con gái vì tình yêu mà phải tìm đến cái chết nhưng chết rồi vẫn
không thể dứt nổi mối tình xưa.
Chuyện kể về Hiến Hom – một cô gái con nhà thường dân, xinh đẹp nết
na như hoa thơm nở khắp Mường. Tuổi 14 nàng tập ra sàn khuống, quay sa
kéo sợi, trai khắp vùng tìm đến vây quanh. Mùa chơi khuống đầu tiên ấy,
Hiến Hom gặp Cầm Đôi – chàng trai 16 tuổi, con nhà giàu có, quyền uy trong
vùng.
Hiến Hom và Cầm Đôi đi lại, thương nhau đã 6 năm ròng, bố mẹ, họ
hàng hai bên không ai hay biết. Thời gian không những giúp đôi bạn trẻ lớn
về thể xác mà tình yêu của họ cũng thêm nồng. Rồi những gì con người mong
cũng đã có, Hiến Hom đã mang thai với Cầm Đôi.
Cầm Đôi khuyên Hiến Hom nói hết ngọn ngành với cha mẹ, còn chàng
cũng về xin với cha mẹ chọn ngày lành giờ tốt, cho ông mối sang nhà xin
cưới Hiến Hom, nhưng cha Cầm Đôi đùng đùng nổi giận mặc cho chàng van
xin.
Tan nát cõi lòng, Cầm Đôi tìm Hiến Hom chia sẻ nỗi niềm, rồi quyết bỏ
nhà đi tha phương hẹn đúng 3 năm 3 tháng quay về, chàng hy vọng thoeif
gian trôi đi, lâu ngày cha mẹ sẽ ưng thuận. Hiến Hom ở nhà chờ đợi mà chẳng
có tin tức gì về chàng, nàng héo hon khóc than tuyệt vọng và thắt cổ chết, xác
nàng bám chặt vào chõng chờ Cầm Đôi về. Cầm Đôi trên đường tha phương
thấy điềm gở chàng quay trở về, Hiến Hom chết hóa thành ma ngồi đầu sàn
quay sa và hẹn chàng đến chơi. Về đến nhà, cha mẹ báo tin Hiến Hom đã chết
nhưng Cầm Đôi không tin và ngay đêm ấy Cầm Đôi đến chơi với Hiến Hom,
hai người trò chuyện tới khuya rồi cùng chung đệm ấm chăn hoa. Lúc này,
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A92
Khóa luận tốt nghiệp
Cầm Đôi nhớ lời mẹ nói nàng đã chết và chạy trốn, Hiến Hom đuổi theo Cầm
Đôi, đuổi mãi không kịp, trời sáng Hiến Hon đành phải quay về.
Từ hôm đó, Hiến Hom luôn đi theo Cầm Đôi, thấy chàng ở đâu nàng
cũng chạy sà tới ôm chàng, nhiều lần bị Hiến Hom đuổi, Cầm Đôi sợ quá
không dám ra khỏi nhà. Cha mẹ chàng phải mời thầy mo đến cúng vía cho
con và bàn với dân làng chẻ nan kết hình người có cắm đầy chông nhọn rồi
lấy quần áo Cầm Đôi mặc vào rồi đem đặt ra ruộng. Hiến Hom bay xuống,
hát mãi mà không thấy “Cầm Đôi” trả lời, nàng liền ghì chặt “Cầm Đôi” vào
lòng. Nàng đã bị những mũi chông nhọn sắc đâm vào người, máu chảy đỏ mặt
ruộng. Hiến Hom chết lần hai, hồn nàng bay về trời chờ ngày sum họp với
Cầm Đôi, Cầm Đôi về nhà phát ốm, cha mẹ mời biết bao thầy cúng giỏi tới
chữa chạy nhưng chàng vẫn không khỏi. Tháng ngày ngẩn ngơ, mòn mỏi,
chàng tắt thở, hồn chàng bay lên trời theo nàng Hom.
Truyện thơ Khăm Panh
Bốn anh em nhà Khăm Panh gặp loạn, lưu lạc nhiều nơi. Khi gom góp
được ít nhiều vốn liếng, họ trở lại đất Mường Khòong. Khăm Panh lấy được
người vợ là nàng Mứn, một phụ nữ có tài đã xây dựng mường Khòong nên
giàu đẹp. Gia đình Khăm Panh thêm được mười con, đông đúc, vui tươi.
Lúc bấy giờ ở phương Bắc, có tên Khun Ha muốn chiếm đất này, hắn
đóng vai mtj anh thợ bạc xin đến mường Khòong làm đồ trang sức, vợ chồng
Khăm Panh cho hắn trú ngụ lại gả con gái Khăm Sao cho hắn.
Khun Ha dần dần bộc lộ rõ dã tâm, lien kết với bên ngoài, hắn duổi
được vợ chồng Khăm Panh đi. Khăm Xao phải tự tử, Khăm Panh chết dọc
giữa đường, nàng Mứn tập hợp tàn quân đánh trả thù, cũng bị Khun Ha bắn
chết. Mấy người em của Khăm Panh đến cứu anh chị cũng bị thua, Khăm Kéo
tử trận, Khăm Khiền bị bắt sống, Khăm Lụa bỏ chạy. Khun Ha ra lệnh giết cả
họ Khăm Panh chỉ có nàng dâu thứ tư sống được.
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A93
Khóa luận tốt nghiệp
Vợ chồng Khăm Panh chết, nhưng mối hận của họ không nguôi. Hồn
của họ đã hóa thành đôi bướm bay đi, tìm được nàng dâu thứ tư và dẫn đường
cho cô này ẩn nấp. Ít lâu, cô sinh được đứa con, đặt tên là Khăm Khoong. Lớn
lên. Cậu bé chóng thành một dũng sĩ khỏe mạnh, nung nấu căm hờn, quyết trả
thù cho ông bà, cha mẹ và mường bản.
Nàng Mứn trong cõi vô hình cũng không vợi được nỗi đau thương, chờ
Khăm Khoong khôn lớn nàng báo mộng cho quần chúng vô danh tìm đến
cháu mình, bày mưu tính kế. Cũng chính nàng than hành đi khắp khe động,
kêu gọi nhân dân quy tụ dưới cờ Khăm Khoong. Họ lập mẹo, biết Khun Ha cí
tính tham ăn, kiếm con cá to dâng hiến, Khun Ha được cá to khoái chí, vục
đầu ăn lấy ăn để và chết hóc vì xương cá quá to. Con cái hắn nhân lúc bối rối
vì chuyện làm ma cho bố thì bị quân Khăm Khoong ập vào đânhs lúc không
phòng bị. Khun Ha và con hắn là Khun Ý Lân đều bị tiêu diệt, mường
Khòong được giải phóng trở về với chủ cũ, nhân dân bản mường lại vui vầy
độc lập như xưa.
Truyện thơ Tào Hủn Lu – Náng Ông Piềm
Đây là truyện kể về sự tích Mặt Trăng – Mặt Trời của người Thái ở
miền Tây Nghệ An. Câu chuyện như sau: Hai chị em nhà nọ bắt được một
quả sung đỏ bèn chia đôi ra ăn, rồi hai chị em mang thai, chj sinh đứa trai đặt
tên là Tào Hủn Lu, em sinh đứa gái đặt tên là Náng Ông Piềm. Hủn Lu và
Ông Piềm được hai mẹ đóng bè thả trôi, cho về nơi Kẻ Chợ. Đôi trai gái được
hai vợ chồng ông lão người Kinh mang về cưu mang, Họ lớn lên bên nhau,
trao cho nhau nhhuwngx tình cảm thiêng liêng rồi họ yêu nhau, hai người
cùng nhau tìm về bản cũ. Tào Hủn Lu muốn lấy Ông Piềm làm vợ nhưng mẹ
chàng không cho và cưới Nầu Hặc cho chàng. Ông Piềm không muốn phá
hoại tổ ấm của Nầu Hặc nên đã hóa thành chim bay đi. Hủn Lu đi tìm Ông
Piềm nhưng nàng không chịu gặp, một lần Hủn Lu thấy Ông Piềm ngồi trên
mỏm đá, Tào trèo lên, Náng lại xuống suối, Tào xuống suối Náng lại trèo lên
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A94
Khóa luận tốt nghiệp
đá, ức quá Tào Hủn Lu đã phóng một nhát đao, máu nàng Ông Piềm vọt trào.
Nàng chết, Tào cũng đập đầu chết theo, Hủn Lu biến Thành măt trời, Ông
Piềm thành mặt trăng, hai người mãi mãi không gặp được nhau.
Truyện Chim Yểng
Ở mường Pu Quai có tạo Hiền Mương muốn lấy nàng Ỏn La mường
Chiêng Van về làm vợ bèn nhờ đôi chim Yểng đưa thư cho nàng Ỏn La thay
chủ. Đôi chim Yểng vượt đường xa cuối cùng cũng đến được mường Chiêng
Van, tìm được nàng Ỏn La và thưa chuyện của chủ mình. Sau khi nghe chim
Yểng thưa chuyện, nàng Ỏn La đồng ý và đưa thư quay trở lại cho đôi Yểng
về báo cho tạo Hiền Mương sắm sửa lễ vật sang cưới nàng. Tạo Hiền Mương
vui mừng mượn gái cuối bản, mượn trai giữa làng cùng sắm sửa lễ vật, sau đó
cùng Tạo sang mường Chiêng Van cưới nàng Ỏn La về làm vợ. Vượt qua bao
nhiêu khó khăn, xa xôi cách trở cuối cùng họ cũng được hạnh phúc bên nhau
PHỤ LỤC 3
PHIẾU HỎI Ý KIẾN
Họ và tên:……………………..
Dân tộc :…………………………
Tuổi :…………………………...
Trình độ học vấn :………………
Giới tính: Nam / Nữ
Bạn hãy cho biết quan điểm của bạn về những vấn đề sau đây?
* Bạn đã bao giờ nghe kể hoặc tìm hiểu về truyện thơ của dân tộc mình
chưa?
- Đã từng nghe kể
- Chưa từng nghe kể
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A95
Khóa luận tốt nghiệp
- Đã từng tìm hiểu
- Chưa từng tìm hiểu
* Nếu tình yêu bị ngăn cản thì cách giải quyết của bạn là?
- Chấm dứt tình yêu
- Tìm mọi cách để vượt qua
- Tìm đến cái chết để bảo vệ tình yêu của mình
* Hiện tượng sống thử hiện nay đang rất phổ biến ở tầng lớp thanh niên,
sinh viên. Vậy, bạn nghĩ thế nào về hiện tượng này?
- Coi “Sống thử” là một lối sống không lành mạnh, không phù hợp với truyền
thống của dân tộc mình.
- “ Sống thử” là một cách sống để đôi trai gái có thể hiểu nhau, an ủi nhau,
cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
- Cần phải trải qua sống thử thì hôn nhân mới có hạnh phúc
*Truyện thơ là một thể loại văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số
Việt Nam. Các câu chuyện thơ viết về người phụ nữ luôn ẩn chứa những
giá trị tốt đẹp trong việc giáo dục con người. Vậy, bạn có đồng ý với ý
kiến là sẽ áp dụng những vấn đề tốt đẹp đó trong truyện thơ vào việc giáo
dục con người đặc biệt là người phụ nữ hiện nay không?
Có Không
* Theo bạn nên áp dụng bằng cách nào?
- Đưa vào chương trình giáo dục của các trường học
- Đưa vào các hoạt động xã hội
- Đưa vào các chương trình giao lưu văn nghệ và tuyên truyền thông tin lưu
động
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A96
Khóa luận tốt nghiệp
* Ông bà có dùng truyện thơ để răn dạy con cháu không?
Có Không
* Hiện nay truyện thơ thường được kể vào dịp nào?
- Dịp lễ hội
- Dịp lễ, tết
- Trong cuộc sống hằng ngày
* Hiện nay, sách in về truyện thơ có đến được bản mình không?
Có Không
* Theo bạn có nên giữ gìn và lưu truyền truyện thơ hay không?
Có Không
* Kể tên những truyện thơ mà bạn biết?
PHỤ LỤC 4
BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ PHIẾU
Địa điểm tổng hợp: Xã Thọ Sơn, huyện Triệu Sơn
Đối tượng: Học sinh và thanh niên người dân tộc Thái (tuổi từ 18-
22)
Số phiếu phát ra: 20
Số phiếu thu về: 20
1. Bạn đã bao giờ nghe kể hoặc tìm hiểu về truyện thơ của dân tộc mình chưa?
Lứa tuổi Người già Trung niên Thanh niên
Tỷ lệ người SP TL SP TL SP TL
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A97
Khóa luận tốt nghiệp
biết và kể
được truyện
thơ
13/20 65% 7/20 35% 2/20 10%
2. Nếu tình yêu bị ngăn cản thì cách giải quyết của bạn là?
Chấm dứt tình yêu Tìm mọi cách
vượt qua
Tìm đến cái chết
để bảovệ tình yêu
của mình
SP TL (%) SP TL
(%)
SP TL (%)
8/20 40 12/20 60 0 0
3. Hiện tượng sống thử hiện nay đang rất phổ biến ở tầng lớp thanh niên,
sinh viên. Vậy, bạn nghĩ thế nào về hiện tượng này?
Coi “Sống thử” là lối
sống
không lành mạnh, không
phù hợp với truyền thống
của dân tộc mình
Sống thử là một cách để
hiểu hơn về người mình
yêu, để an ủi, cùng nhau
vượt qua khó khăn trong
cuộc sống
Phải qua sống thử
thì hôn nhân mới có
hạnh phúc
SP TL SP TL SP TL
13/20 65% 6/20 30% 1/20 5%
4. Theo bạn nên áp dụng bằng cách nào?
Đưa vào chương trình
Giáo dục của các
Trường học
Đưa vào các công tác
hoạt động xã hội
Đưa vào các chương
trình giao lưu văn nghệ
và tuyên truyền thông
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A98
Khóa luận tốt nghiệp
tin lưu động
SP TL SP TL SP TL
20/20 100% 7/20 35% 15/20 75%
5. Hiện nay truyện thơ thường được kể vào dịp nào?
Dịp lễ hội Dịp lễ tết Trong cuộc sống
hằng ngày
SP TL SP TL SP TL
20/20 100% 10/20 50% 0 0
6. Kể tên những truyện thơ mà bạn biết?
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
PHỤ LỤC 5
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A99
Khóa luận tốt nghiệp
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NGƯỜI THÁI
VÀ SINH HOẠT VĂN NGHỆ DÂN GIAN CỦA NGƯỜI THÁI
Ảnh 1: Phụ nữ Thái (Nguồn: Internet)
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A100
Khóa luận tốt nghiệp
Ảnh 2: Nghề dệt Thổ Cẩm của người Thái (Ảnh Phạm Thị Huyền)
Ảnh 3: Khắc luống của người Thái (Ảnh Phạm Thị Huyền)
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A101
Khóa luận tốt nghiệp
Ảnh 4: Múa sạp của người Thái (Ảnh Phạm Thị Huyền)
Ảnh 5: Gian hàng Thổ Cẩm của người Thái xã Thọ Sơn
(Ảnh Phạm Thị Huyền)
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A102
Khóa luận tốt nghiệp
Ảnh 6: Múa xòe của người Thái
(Nguồn Internet)
Ảnh 7: Khắp báo xao của người Thái
(Nguồn Internet)
Phạm Thị Huyền Lớp: DT14A103