những người hạnh phúc nhất trần gian · những người hạnh phúc nhất trần...
TRANSCRIPT
Những Người Hạnh
Phúc Nhất Trần Gian
Tác giả: John & Elizabeth Sherrill
Câu chuyện về cuộc đời Demos Shakarian dưới ngòi bút JOHN & ELIZABETH
SHERRILL
NHỮNG NGƯỜI HẠNH PHÚC NHẤT TRẦN GIAN là một câu chuyện làm cho
bạn cười, làm cho bạn khóc, làm cho đức tin bạn được gây dựng. Bạn sẽ cùng đi
với Demos.
Khi anh ta tán tỉnh cô Rose Gabrielian, theo cách của người Ạc-mê-ni.
Khi anh ta cân nhắc những lời tiên tri “không có ý nghĩa rõ ràng”
Khi anh ta và Rose đối diện với sự mất mát bi thương về đứa con gái nhỏ.
Khi anh ta đối phó với tiếng kêu khóc của công việc, khi anh khám phá một căn
bệnh truyền nhiễm ghê gớm trong các bầy bò sữa của mình, đương đầu với sự
chống đối của gia đình trong khi tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho
đời sống mình.
Câu chuyện về cuộc đời của Demos chia sẻ một bí quyết mạnh mẽ mà hết thảy
những người tin Chúa cần phải biết để sống còn qua những giờ phút khó khăn. Để
khám phá được cách trở thành những người hạnh phúc nhất trên trần gian này.
Lời Nói Đầu
Vào một ngày u ám giữa tháng mười hai 1960, chúng tôi lái chiếc xe trung của
mình lùi vào cạnh chỗ đậu xe cuối cùng nằm phía trước khách sạn President ở
Thành phố Atlantic.
Vài giây sau một chiếc Cadillac du lịch sờn cũ mang biển số California quẹo vào
chỗ trống cạnh bên chúng tôi và một người đàn ông to lớn với chiếc nón cao bồi
rộng vành bước ra. Ông ta chìa bàn tay to, đầy sẹo vì lao động ra, và nói.
“Tôi là Demos Shakarian”
Ông ta đi vòng qua phía bên kia xe và giữ cánh cửa cho một phụ nữ xinh xắn có
mái tóc màu sẫm bước ra “còn đây là vợ tôi, Rose”
Chúng tôi giải thích cho họ biết rằng chúng tôi là những phóng viên của tờ báo
Guidefosts được phân công để tìm hiểu việc nói tiếng lạ, chúng tôi cũng lẹ làng nói
cho họ biết rằng chúng tôi đến đây “chỉ để xem qua”.
Chúng tôi đã có một cuộc xem qua “ra trò”. Khách sạn President là hiện trường của
tuần lễ hội đồng giáo hạt của một tổ chức được gọi là Hội Thông Công Trọn Vẹn
Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc, (Full Gospel Business Men’s
Fellowship International) là tổ chức mà Demos là người sáng lập và là chủ tịch.
Hàng ngàn người ở vùng bờ biển phía đông đã đến thành phố Atlantic, một số thì
để gặp gỡ con người xuất thân từ trang trại với màu da rám nắng trong chiếc nón
rộng vành, một số muốn trao đổi những câu chuyện về điều Đức Thánh Linh đang
làm việc trong đời sống họ, và một số người khác, cũng như chúng tôi chỉ để xem
qua, có một chút kính sợ nhưng với hoài nghi nhiều hơn.
Hãy coi chừng chủ nghĩa cảm xúc, chúng tôi cảnh giác nhau việc kêu lớn tiếng,
đưa tay cao, những lời làm chứng cuồng nhiệt, là những kỹ thuật hao tốn thời gian
để đẩy một đám đông vào tình trạng kích động.
Chúng tôi đã theo dõi... Song chẳng có điều nào thuộc loại kích động ấy xảy ra. Từ
phía trước phòng khiêu vũ của khách sạn, ông Demos hướng dẫn buổi nhóm với sự
nhạy cảm im lặng của một người nghe được tiếng nói mà chúng tôi không thể
nghe. Thay vì những lần lộn lạo mà chúng tôi đã chờ đợi, một sự vui mừng được
kiềm chế và trật tự đang điều khiển buổi nhóm. Tự mình bọc giáp lấy mình để
phòng chống những loại kích động đã chẳng thấy xảy đến, chúng tôi chẳng có lý
do gì để chống lại tình yêu thương đã thật sự chạm đến và làm mềm lòng chúng
tôi, thế là cùng với hàng trăm người khác, chúng tôi bắt đầu bước đi trong Thánh
Linh. Trong vòng mười lăm năm kể từ tháng mười hai năm ấy, chúng tôi đi theo
phong trào Ngũ Tuần đã phát triển ở nhiều nơi trên thế giới, bởi vì chúng tôi tìm
thấy đây chính là những câu chyện tốt đẹp, là những sự phấn khích, những đời
sống được thay đổi rất thực tế trong hội thánh ngày nay. Và chúng tôi bắt đầu chú
ý một điều thú vị. Bất cứ nơi nào chúng tôi trò chuyện với những người có đức tin
sống động như những người nam, người nữ, người trẻ tuổi hoặc lớn tuổi, người
Thiên Chúa Giáo La mã và hội Mennonite, từ giờ này sang giờ khác, câu chuyện
luôn luôn bắt đầu với nhóm các doanh nhân lạ thường này là một nông gia nuôi bò
sữa xuất thân từ Downey Bang California tên là Demos Shakarian.
Làm thế nào điều đó có được, chúng tôi tiếp tục tự hỏi, điều gì đã khiến cho một
người hay cả thẹn, diễn đạt không trôi chảy, với một nụ cười dịu dàng từ tốn, một
người đàn ông dường như chẳng khi nào vội vàng, dường như ngày hôm nay chẳng
bao giờ phải biết rằng ngày mai mình sẽ ở đâu, lại có một ảnh hưởng trên hàng
triệu người? Chúng tôi quyết định phỏng vấn con người đó để tìm ra sự thật.
Nói dễ nhưng làm lại rất khó. Ông Demos có lẽ đang sống ở Boston, Bangkok
hoặc Bá Linh và ông thường không trả lời thư từ. Nhưng suốt bốn năm qua chúng
tôi đã thu xếp một số chuyến viếng thăm. Ông Demos và bà Rose đã đến miền
Đông để gặp gỡ chúng tôi, và về sau chúng tôi gặp nhau trong căn nhà gỗ của một
người bạn ở Thụy sĩ. Chúng tôi đã làm việc tại Conaco và Palm Springs. Chúng tôi
trò chuyện trong những xe hơi, ở những sân bay và trong những nhà hàng
Ạc-mê-ni. Thú vị nhất là thời gian chúng tôi ở lại với ông Demos và bà Rose tại
nhà của họ ở Downey, cũng chính là ngôi nhà nhỏ mà họ đã xây năm 1934 khi đứa
con đầu tiên của họ ra đời. Ngôi nhà của thân phụ ông Demos kế bên, đã trống
vắng từ khi cha ông qua đời. Đó là căn nhà rộng lớn với nhiều phòng hơn, nhưng
Demos và bà Rose - vâng, chắc chắn đã có nhiều kỷ niệm trong ngôi nhà nhỏ này.
Dần dần chúng tôi đã bắt đầu hiểu rõ bí quyết của ông Demos.
Một phần trong ngôi nhà đó gia đình ông đã mang theo từ Ạc-mê-ni. Quốc gia Cơ
đốc giáo cổ nhất này, cũng là một đất nước đã chịu đau khổ nhiều nhất vì niềm tin
của mình. Và bởi cớ sự chịu đựng đau đớn họ đã hiểu biết Chúa cách sâu xa.
Đó là một sự hiểu biết sâu xa hơn bất cứ một quốc gia hay dân tộc nào. Đó là một
bí quyết mà mỗi người trong chúng ta cần phải biết, bởi vì khi thực hiện bí quyết
đó, như lời ông Demos nói “dầu cho hoàn cảnh của thế giới xung quanh chúng ta
có ra sao, chúng ta vẫn sẽ là những người hạnh phúc nhất trên trần gian này”
Tháng mười một , năm 1975
John và Elizabeth Sherrill
Tuyển tập Lilncoln , Virginia
Sứ Điệp Từ Bên Kia Dãy Núi
Một buổi sáng nọ, Rose và tôi đang trên đường lái xe xuyên qua thành phố Los
Angeles trở về nhà, bất chợt tôi có một khao khát muốn ra khỏi xa lộ và chạy
ngang qua nhà nơi nội tôi, ông Demos, đã sống khi ông đến Hoa kỳ lần đầu tiên.
Sau bốn mươi hai năm chung sống, Rose đã quen với những ước muốn bất chợt
nầy, vì vậy dầu đã một giờ sáng, nàng vẫn không nói một lời khi tôi quẹo xuống
đoạn đường dốc và chạy vào khu vực thường được gọi là khu chung cư Los
Angeles. Căn nhà tô xi măng vuông vức nay không còn tọa lạc ở số 919 đường
Boston nữa. Ngồi một lát trong xe, chúng tôi nhìn ra chung quanh ngôi chung cư
mới đã thay thế hàng xóm xưa cũ. Đoạn tôi quay xe lại và hướng thẳng ra xa lộ.
Nhưng những kỷ niệm miên man về ông nội đã theo tôi suốt buổi tối với thời tiết
nóng bức tại California. Tôi biết vì sao đêm nay tôi cần phải thực hiện chyến đi
vòng ấy. Chính vì một lời tiên tri mà Rose và tôi đã được nghe trước đấy vào buổi
chiều. Chúng tôi đã dự buổi nhóm của Hội Thương Gia Phúc Âm Trọn Vẹn (Full
Gospel Business Men) tại Beverlig Hills, nơi có một người đã nói tiên tri, tuyên bố
rằng đang nói ra chính những lời của Đức Chúa Trời, cho biết một cơn bách hại
lớn cho các Cơ đốc nhân chẳng bao lâu sẽ xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới, kể cả
Liên Bang Hoa kỳ.
Chúng ta hiểu thế nào về một lời tuyên bố như vậy? Gia đình tôi đã hiểu gì về một
sứ điệp tương tự cách đây một thế kỷ? Bởi vì lúc đó cũng từng có một lời tiên tri
như vậy, và kể từ đó mọi sự đã xảy ra trong cuộc đời của ông nội tôi, cuộc đời của
cha tôi và tôi đều là kết quả của việc đã coi trọng lời tiên tri ấy.
Đã hai giờ sáng khi tôi rẽ vào lối đi trong sân nhà mình tại Downey, giờ trăng sáng
tỏa khắp thật thú vị cho giấc ngủ. Tôi là một người hay thức khuya mà Rose không
thể đợi nỗi.
Vì vậy nàng lên giường khi tôi kéo chiếc ghế cũ kỹ ở phòng khách lại gần cửa sổ,
và ngồi xuống đó trong đêm tối, thả tâm trí lang thang trở về quá khứ.
Tôi chưa được biết ông nội Demos của mình, ông cụ đã qua đời trước khi tôi được
sinh ra, nhưng tôi đã từng nghe cả ngàn lần những câu chuyện về ông. Tôi biết
từng chi tiết tường tận đến nỗi khi đang ngồi đây nhìn ra những chiếc lá của cành
cam ẩn bạc dưới ánh trăng, dường như tôi nhìn thấy phong cảnh ở một vùng đất
khác, thật xa và thật xưa. Đối với một người Ạc-mê-ni việc ấy không có gì là khó.
Chúng tôi là những con người của Cựu ước, quá khứ và hiện tại vì vậy dệt vào
nhau đến nỗi điều đã diễn ra cách đây một trăm năm hoặc một nghìn năm, hai
nghìn năm vẫn thực hữu đối với chúng tôi như những ngày tháng rõ ràng trên tờ
lịch.
Tôi từng được nghe tả thường xuyên đến nỗi có thể thật sự tìm thấy ngôi làng nhỏ
bé thuộc vùng Kara kala nằm vững chắc ở vùng đồi thấp, dưới chân ngọn Ararát là
ngọn núi, mà Kinh Thánh cho chúng ta biết nơi chiếc tàu của Nô-ê đã tấp vào đó.
Nhắm mắt lại, tôi thấy những ngôi nhà bằng đá, các chuồng gia súc, và những kho
thóc, nhà trại một gian, nơi ông nội Demos của tôi đã sống. Trong gian nhà đó,
năm cô con gái của ông được sinh ra, mà không có một cậu con trai nào cả, đó là
nỗi ô nhục giữa vòng những người Ạc-mê-ni cũng giống như nỗi ô nhục giữa
ruộng đồng những người Ysơraên kia.
Tôi hình dung ông nội đi bộ đến nhà thờ mỗi buổi sáng Chúa nhật cùng với năm cô
con gái nhỏ. Mặc dầu phần đông người Ạc-mê-ni đều theo Chánh Thống Giáo, ông
tôi và nhiều người khác ở tại Kara kala lại là những tín đồ của giáo hội Trưởng lão.
Tôi có thể thấy ông lúc đang băng qua làng để đến nhà thờ nơi hội chúng đang
nhóm lại trong ngày Chúa nhật đặc biệt đó, đầu ngẩng cao mang nỗi sỉ nhục thinh
lặng.
Chính vì nhu cầu lớn lao của ông mà tôi dường như luôn ngạc nhiên vì ông cụ đã
không thừa nhận ngay sứ điệp lạ lùng đang từ từ lan khắp vùng núi gần năm mươi
năm. Sứ điệp ấy được những người Nga mang đến, ông tôi cũng khá ưa thích
những người Nga, ông chỉ quá khôn ngoan để chấp nhận những câu chuyện của họ
về những phép lạ. Người Nga đến trong những chiếc xe lưu động dài, với các toa
có mui che. Họ ăn mặc cũng giống như người dân chúng tôi, trong những chiếc áo
cao cổ dài đến đầu gối, thắt lưng bằng những dây gai có núm tua, những người đàn
ông đã có gia đình trang điểm bằng cách để râu rậm. Người Ạc-mê-ni nghe hiểu
được họ không có gì khó khăn, vì hầu hết người dân chúng tôi cũng nói tiếng Nga.
Họ lắng nghe những câu chuyện về điều mà người Nga gọi là “sự tuôn đổ của Đức
Thánh Linh” trên hàng trăm ngàn người Cơ đốc theo giáo hội Chánh Thống Nga.
Những người Nga đã đến như những người mang theo những tặng phẩm. Tặng
phẩm của Đức Thánh Linh, là điều họ muốn được chia xẻ. Tôi có thể nghe ông bà
nội tôi trò chuyện đến khuya sau một trong những chuyến viếng thăm ấy, ông tôi
chắc đã nói, người ta phải công nhận rằng mọi điều mà người Nga đang nói đều là
những điều thuộc về Thánh Linh.
“Tôi muốn nói sự chữa lành có trong Kinh Thánh, việc nói tiếng lạ cũng có, lời
tiên tri cũng vậy. Chỉ có điều là toàn thể sự việc nghe không có vẻ... Ạc-mê-ni chút
nào”. Bằng câu nói ấy hẳn ông muốn nói đến sự đáng tin cậy, tính trung thực thực
tế.
Và bà nội tôi, lòng lúc nào cũng nặng nề, hẳn đã nói “ông biết đấy khi ông nói về
các lời tiên tri và sự chữa lành là ông đang nói đến phép lạ”.
“Phải”
“Nếu có bao giờ chúng ta được nhận lãnh Thánh Linh theo cách ấy, thì ông nghĩ
rằng chúng ta có thể cầu xin một phép lạ chăng?”
“Bà muốn nói đến việc có một đứa con trai phải không?”
Thế rồi có lẽ bà tôi đã bật khóc. Tôi biết một điều, đó là vào một buổi sáng nắng
đẹp tháng năm năm 1891, bà nội tôi đã khóc nức nở.
Qua nhiều năm một số các gia đình sống tại Kara kala đã bắt đầu thừa nhận sứ điệp
của những người Nga theo Ngũ Tuần (Pentecostal) người em rể của ông tôi là
Magardich Mushegan, lúc bấy giờ là một trong số những người ấy. Ông đã nhận
báp tem bằng Thánh Linh và trong những chuyến thăm viếng thường xuyên ở tại
trang trại Shakarian, hẳn ông đã nói về niềm vui mới mẽ trong đời sống mình,
được đặt nền tảng trên Thánh Kinh.
Trong cái ngày đặc biệt đo, ngày 25 tháng 5 năm 1891. Bà nội tôi và các phụ nữ
khác đang may vá trong một góc phòng của gian nhà trại. Bà vẫn cố gắng may,
nhưng nước mắt cứ tiếp tục tuôn rơi trên mảnh vải đặt nơi lòng bà.
Bên kia gian phòng, kế bên cửa sổ, nơi có ánh sáng tốt, Magradich Mushegan đang
ngồi với quyển Kinh Thánh mở rộng trên gối.
Thình lình, Magardich đóng sầm quyển Kinh Thánh lại, ông đứng lên và băng qua
gian phòng. Ông đến đứng trước mặt bà tôi, hàm râu đen rậm động đậy lên xuống
vì sự kích động.
“Goolisar”, ông Magardich nói “Đức Chúa Trời vừa phán cùng tôi!”
Bà tôi ngồi thẳng lên “vâng, sao cơ, Magardich?”
“Ngài phán với tôi một sứ điệp dành cho chị”. Ông nói “Goolisar, đúng một năm
sau chị sẽ sanh một bé trai”
Khi ông nội tôi từ ngoài đồng trở về, bà tôi đón ông ở cửa với tin nóng bỏng về lời
tiên tri lạ lùng. Lòng vui mừng muốn tin nhưng vẫn còn hoài nghi, ông tôi không
nói gì cả, ông chỉ mỉm cười khẽ rùn vai, và đánh đấu những ngày tháng trên tờ
lịch.
Ngày tháng trôi qua bà tôi đã có thai. Đến lúc này mọi người ở Kara kala đều đã
biết lời tiên tri ấy. Cả làng hồi hộp chờ đợi. Thế rồi vào ngày 25 tháng năm, năm
1992, đúng một năm kể từ lúc lời tiên tri được ban ra, bà tôi sinh một bé trai.
Lần đầu tiên gia đình tôi chạm trán với Thánh Linh theo cách riêng tư như vậy.
Mọi người ở tại Kara kala đều đồng ý rằng việc chọn tên cho cậu bé là đúng hoàn
toàn: Cậu sẽ được gọi là Ysác, bởi vì cậu cũng giống như đứa con trai mong đợi
lâu ngày của Ápraham, đứa trẻ của lời hứa.
Tôi quả quyết rằng ông tôi là một người đàn ông tự hào và hạnh phúc khi dẫn bộ cả
gia đình mình đến nhà thờ mỗi Chúa nhật sau khi Ysác được sanh ra. Nhưng ông
tôi vốn có tính cứng cỏi trong con người mình. Cũng như những người Ạc-mê-ni
ông tự xem mình là người có một tâm trí quá cứng rắn để có thể dễ dàng chấp nhận
rằng ông đã được chứng kiến một lời tiên tri siêu nhiên thuộc loại đã được đề cập
đến trong Kinh Thánh. Có thể lời tiên tri của Magardich chỉ là một sự may mắn!
Và rồi tất cả chỉ trong vòng một ngày, những nỗi nghi ngờ của ông tôi đã biến mất.
Chỉ một lần đủ cả.
Vào năm 1990, khi Ysác lên tám và em gái cậu là Hamas, bốn tuổi, có tin báo rằng
một trăm Cơ đốc nhân người Nga từ bên kia núi đang trên đường đến đây trong
những toa xe ngựa có mui che. Mọi người đều vui thích. Tại Karakala có tục lệ tổ
chức tiệc mừng dành cho những Cơ đốc nhân mỗi khi họ viếng thăm một nơi nào
đó. Mặc dầu không đồng ý với “Tin Lành Toàn Vẹn (Full Gospel) người Nga rao
giảng, ông tôi vẫn coi những cuộc thăm viếng của họ là những thời gian được biệt
riêng cho Chúa, và nhất định buổi tiệc đón mừng phải được tổ chức ở miếng đất
rộng lớn bằng phẳng ngay trước ngôi nhà của mình.
Bấy giờ, ông tôi rất tự hào về đàn gia súc béo tốt của mình, nghe tin đoàn người
Nga đang trên đường sắp đến nơi, ông đi ra ngoài bầy gia súc của mình và xem xét
kĩ từng con. Hẳn ông đã chọn một con bò đực tơ tốt nhất, mập nhất cho bữa tiệc
đặc biệt đó.
Thế nhưng rủi thay, con đực tơ mập nhất trong bầy lại có một khuyết tật khi được
kiểm tra. Con vật bị đui một mắt.
Làm thế nào bây giờ? Ông tôi biết lời Kinh Thánh rất rõ: Ông biết mình không
được dâng một con sinh có khuyết tật cho Đức Chúa Trời, há không phải LeLv
22:20 có phán rằng “các ngươi chớ dâng một con vật nào có tì vít , vì nó sẽ không
được nhậm ” sao?
Thật là một tình thế khó xử! Không có con vật nào khác trong bầy lớn đủ để cho
một trăm người khách dùng. Ông tôi nhìn quanh. Không ai để ý cả. Có lẽ ông đã tự
tay giết con vật to béo ấy và chỉ việc giấu cái đầu có tì vít đi. Phải, đó là điều ông
đã làm! Ông tôi dẫn con thịt chột mắt vào kho chứa rơm, tự mình mổ thịt nó và vội
vàng bỏ cái đầu vào một cái bao rồi đem giấu dưới đống lúa mì đã đập trong một
xó tối.
Ông tôi kịp đúng giờ, vì khi vừa chuẩn bị xong con thịt, ông đã nghe thấy tiếng
rầm rầm của các toa xe ngựa tiến vào Kara kala. Thật là một cảnh tượng thú vị!
Những toa xe móc nhà lưu động dài quen thuộc đang tiến vào con đường bụi đỏ,
mỗi chiếc do bốn con ngựa đẫm mồ hôi kéo. Bên cạnh người đánh ngựa của đoàn
xe thứ nhất, là vị giáo trưởng với bộ râu trắng, ngồi thật thẳng, oai vệ như bao giờ,
ông ta là người lãnh đạo và là tiên tri của đoàn khách. Ông nội tôi và cậu bé Ysác
chạy lên đường để đón mừng các vị khách của họ.
Khắp nơi, sự chuẩn bị cho bữa tiệc đều đã sẵn sàng. Chẳng bao lâu con thịt lớn
được quay bằng một cái xiên trên bếp lửa than khổng lồ. Chiều hôm đó mọi người
tụ tập lại quanh những chiếc bàn dài làm bằng các tấm ván, ai nấy mong chờ và
đều đói bụng. Tuy nhiên, trước khi bữa ăn bắt đầu, thức ăn phải được chúc phước.
Những Cơ đốc nhân thời đó sẽ không dâng một lời cầu nguyện nào cả, dầu là lời
cầu nguyện cảm tạ ngắn trước mỗi bữa ăn, cho đến khi nào họ nhận được điều mà
họ gọi là sự xức dầu. Họ sẽ chờ đợi trước mặt Chúa cho đến khi nào, theo lối nói
của họ, Thánh Linh đổ trên thức ăn. Họ tuyên bố rằng, (đó cũng là một điều khá
ngộ nghĩnh đối với ông tôi) họ có thể thật sự cảm nhận được sự hiện diện của Ngài.
Khi việc đó xảy ra, họ sẽ đưa tay lên và nhảy múa vui mừng.
Như thường lệ, trong dịp nầy, những người Nga chờ đợi sự xức dầu bằng Thánh
Linh. Khi không còn nghi ngờ gì nữa, theo như mọi người đã để ý, thì người thứ
nhất và người tiếp theo sẽ nhảy múa trong chỗ thích hợp. Mọi sự diễn tiến như
thường lệ. Chẳng bao lâu đến giờ chúc phước cho thức ăn, và bữa tiệc được bắt
đầu.
Nhưng thật bất ngờ đối với ông tôi, khi vị Giáo trưởng đột nhiên đưa tay lên,
không phải dấu hiệu của sự chúc phước mà là một cách ra dấu để bảo tất cả phải
dừng lại. Đưa mắt nhìn ông tôi bằng một cái nhìn xuyên suốt lạ lùng, người đàn
ông cao lớn râu tóc trắng bước ra khỏi bàn không nói một lời.
Đôi mắt của ông tôi theo dõi từng bước chân của vị giáo trưởng khi ông băng qua
khoảng sân và vào bên trong kho chứa rơm. Sau một hồi, ông xuất hiện, trong tay
ông giữ chiếc bao mà ông nội tôi đã giấu bên dưới đống lúa mì.
Ông tôi bắt đầu run. Làm sao ông cụ biết được! Không ai nhìn thấy ông cơ mà.
Những người Nga thậm chí còn chưa giáp bờ làng khi ông giấu cái đầu ấy. Bấy giờ
vị giáo trưởng đặt chiếc túi biết nói ở trước mặt ông tôi và mở rộng ra cho mọi
người nhìn thấy cái đầu bò với một con mắt trắng bệt.
“Có điều gì cần xưng ra không, anh Demos?” vị giáo trưởng người Nga hỏi.
“Vâng, tôi có,” ông tôi trả lời, người vẫn còn run. “Nhưng làm thế nào mà ông biết
được?”
“Đức Chúa Trời đã nói cho tôi biết” ông nói thật đơn giản “anh vẫn không tin rằng
ngày nay Ngài cũng phán với dân sự Ngài như trong những ngày trước. Đức Thánh
Linh đã ban cho tôi lời hiểu biết ấy vì một lý do đặc biệt, hầu cho anh và cả nhà
anh hẳn sẽ tin. Anh vẫn đang chống lại quyền năng của Thánh Linh. Hôm nay là
ngày anh thôi chống cự nữa”
Trước mặt những người dân lân cận và các vị khách trong buổi chiều tối hôm đó,
ông tôi đã xưng ra mọi dối gạt mà ông đã cố làm. Với những giọt nước mắt lăn
xuống má hòa lẫn vào hàm râu lởm chởm, ông xin họ tha thứ. Ông nói với nhà tiên
tri: “Hãy chỉ cho tôi biết, làm thế nào để tôi cũng nhận được Thánh Linh của Đức
Chúa Trời.”
Ông tôi quỳ xuống và trưởng lão người Nga đặt đôi bàn tay xương xẩu vì lao động
lên đầu ông. Ngay lập tức, ông tôi bật lên lời cầu nguyện vui mừng trong một ngôn
ngữ mà cả ông lẫn những người đang có mặt không ai hiểu được. Những người
Nga gọi loại phát biểu bày tỏ trạng thái cực kỳ sung sướng đó là “tiếng lạ” và coi
đó như một dấu hiệu cho thấy Đức Thánh Linh đang hiện diện với người phát biểu.
Tối hôm đó, bà nội tôi cũng đã được nhận “báp tem Thánh Linh”
Đó là khởi đầu của sự thay đổi lớn lao trong đời sống của gia đình chúng tôi, và
một trong những điều đầu tiên đó là sự thay đổi trong thái độ đối với một công dân
nổi tiếng nhất Kara kala. Nhân vật này nổi tiếng khắp cả vùng dưới danh hiệu “cậu
bé Tiên Tri” mặc dầu vào lúc sự việc cái đầu con thịt xảy ra thì cậu bé Tiên Tri đã
năm mươi tám tuổi rồi.
Tên thật của ông ta là Efim Gerasemovitch Klubniken gia đình ông ở giữa vòng
những người theo giáo phái Trưởng Lão đầu tiên vượt biên giới, đến cư ngụ lâu dài
tại Kara kala. Từ thuở thiếu thời, Efim đã cho thấy ông có ân tứ cầu nguyện,
thường xuyên tiếp tục những kỳ kiêng ăn kéo dài, cầu nguyện suốt ngày đêm.
Như mọi người ở tại Kara kala đều biết, khi Efim lên mười một, cậu nghe Chúa
một lần nữa kêu gọi cậu bước vào một trong những kỳ cầu nguyện thức canh. Lần
này cậu đã kiên trì cầu nguyện trong suốt bảy ngày đêm, và trong thời gian đó cậu
đã nhận được một khải tượng.
Khải tượng này tự nó không có gì là phi thường. Quả thật, cũng như ông tôi vẫn
thường hay làu bàu, bất cứ ai hoặc không ăn uống hoặc không ngủ nghỉ một thời
gian lâu như vậy thì chắc chắn sẽ thấy một cái gì đó. Nhưng điều cậu Efim có thể
làm được suốt trong bảy ngày ấy thật không dễ để mà giải thích.
Efim không hề biết đọc hoặc biết viết. Tuy nhiên, khi cậu ngồi trong căn nhà nhỏ
bằng đá tại Kara kala cậu đã nhìn thấy trước mặt mình một khải tượng về các biểu
đồ và một sứ điệp viết tay thật đẹp. Efim xin một cây bút và một tờ giấy. Rồi trong
suốt bảy ngày ngồi nơi chiếc bàn ván gồ ghề chỗ gia đình ngồi ăn, cậu đã khó nhọc
viết lại hình dáng của các chữ viết và các sơ đồ đã hiện ra trước mặt cậu.
Khi hoàn tất, bản viết tay được giao cho những người biết đọc trong làng. Hóa ra
cậu bé mù chữ này đã viết ra một loạt những huấn thị và lời cảnh cáo bằng tiếng
Nga. Cậu bé đã viết rằng, vào một thời điểm nào đó không xác định trong tương
lai, mọi Cơ đốc nhân ở Kara kala sẽ phải gặp khó khăn khủng khiếp. Cậu nói trước
một thời kỳ bi thảm không tả xiết xảy ra cho cả vùng, khi hàng trăm ngàn người
nam, nữ và con trẻ sẽ bị tàn sát man rợ. Cậu cảnh cáo thời kỳ sẽ đến khi mọi người
trong vùng phải chạy trốn, họ phải đi đến một vùng đất bên kia biển. Mặc dầu chưa
bao giờ nhìn thấy một cuốn sách về địa lý. Cậu bé Tiên Tri đã vẽ một bản đồ chỉ rõ
chỗ mà những Cơ đốc nhân chạy trốn phải đến đấy. Trước sự sửng sốt của những
thanh niên, khối nước được mô tả rất chính xác trong bản vẽ không phải là vùng
biển Đen bên cạnh, không phải biển Caspian, cũng không phải Địa Trung Hải xa
xôi mà là bờ biển Đại Tây Dương (Atlantic) xa tít mù mà không thể hình dung ra
được! Không còn nghi ngờ gì nữa, cả vùng đất nằm bên cũng được nhận ra: Bức
họa đồ đã chỉ rõ ràng vùng bờ biển phía đông của Hoa kỳ.
Nhưng những người tị nạn không định cư ở đó, lời tiên tri tiếp tục, họ phải tiếp tục
hành trình cho đến khi tiến đến tận miền Tây của vùng đất mới. Cậu bé viết, tại đó
Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho họ và làm cho họ được thạnh vượng, và khiến
cho dòng giống của họ trở thành một nguồn phước cho các dân tộc.
Cách ít lâu sau, Efim cũng viết một lời tiên tri thứ hai, mà hết thảy mọi người đều
biết rằng lời tiên tri ấy có liên hệ đến khoảng thời gian trong tương lai còn xa hơn
nữa, là khi dân chúng một lần nữa sẽ phải chạy trốn. Efim yêu cầu cha mẹ niêm
phong lời tiên tri ấy trong một phong bì, và lập lại những huấn thị mà cậu đã nhận
được qua lời tiên tri đó. Cậu cũng được báo cho biết trong khải tượng đến đó rằng
chỉ có một vị Tiên Tri trong tương lai, được Đức Chúa Trời chọn cho công tác nầy,
mới được mở chiếc phong bì đó mà đọc lời tiên tri cho hội thánh. Bất cứ ai mở
chiếc phong bì trước thời hạn phải chết.
Vâng, nhiều người ở tại Kara kala đã cười vào những điều mà người ta cho rằng
tưởng tượng của cậu bé. Chắc hẳn phải có một số những lời giải thích nào đó về
bản viết tay “kỳ lạ” của cậu bé. Người ta cho rằng có lẽ cậu đã bí mật tự học, đọc
và viết, chỉ nhằm để làm trò lừa bịp dân làng.
Tuy nhiên, những người khác đã bắt đầu gọi Efim là cậu bé Tiên Tri và không dám
cho rằng sứ điệp ấy không thật. Mỗi khi có những tin tức về những sự lộn xộn
chính trị mới lan đến vùng đồi núi yên tỉnh xung quanh rặng núi Ararát, thì họ lại
lôi những trang giấy lúc này đã vàng ố ra và đọc lại. Những vụ rắc rối giữa những
người Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ với các Cơ đốc nhân người Ạc-mê-ni dường như đang
gia tăng kịch liệt. Vào tháng 8 năm 1896, bốn năm trước khi ông tôi làm thịt con
vật bị mù mắt, há không phải một đám đông hỗn tạp người Thổ nhĩ kỳ đã giết hại
hơn sáu ngàn người Ạc-mê-ni trên những đường phố Constantinople sao?
Nhưng Constantinople thì ở quá xa, và năm tháng đã trôi qua kể từ khi lời tiên tri
được ban bố. Thật ra những lời tiên tri trong Kinh Thánh thường đến rất nhiều lần,
thậm chí hàng trăm năm trước khi biến cố xảy ra. Nhưng hầu hết dân chúng ở tại
Karakala, ông tôi cũng ở trong số đó, đều tin rằng những ân tứ về việc nói tiên tri
đích thực đã chấm dứt kể từ khi Kinh Thánh đã được hoàn tất.
Thế rồi không lâu sau những năm đầu thế kỷ, Efim loan báo rằng đã gần đến thời
điểm ứng nghiệm những lời mà ông đã viết cách đây gần năm mươi năm. “Chúng
ta phải lánh sang Hoa kỳ. Hết thảy những ai còn ở lại sẽ phải bỏ mạng”
Đây đó ở tại Kara kala, những gia đình theo giáo phái Ngũ Tuần khăn gói rời khỏi
mãnh đất và nhà cửa đã từng một thời là tài sản của tổ tiên để lại. Efim và gia đình
ông ở vào số những người đầu tiên ra đi. Khi có một nhóm người theo Ngũ Tuần
nào rời bỏ Ạc-mê-ni, thì họ lại bị những người còn lại chế nhạo. Những lớp người
hoài nghi và không tin, kể cả nhiều Cơ đốc nhân không chịu tin rằng Đức Chúa
Trời có thể ban bố những huấn thị thật chính xác cho con người hiện nay trong thời
đại nầy.
Nhưng những huấn thị đó đã được chứng minh là đúng vào năm 1914, một giai
đoạn khủng khiếp không thể tưởng tượng nỗi đã xảy đến cho xứ sở Ạc-mê-ni với
một sức lực không thể suy giảm, người Thổ nhĩ kỳ bắt đầu tiến hành một công việc
đẫm máu đó là đánh đuổi hai phần ba dân cư khỏi nơi họ đang sống để đưa họ vào
sa mạc Mêsôpôtami. Hơn một triệu người, cả nam lẫn nữ và trẻ con đã chết trong
những cuộc hành trình khủng khiếp đó, kể cả mọi cư dân ở tại Kara kala. Nửa triệu
người khác đã bị tàn sát tại các làng mạc của họ trong một cuộc thảm sát, mà sau
này cung cấp cho Hitler ý đồ của ông ta nhằm hủy diệt người Do thái “Thế giới đã
không hề can thiệp khi người Thổ nhĩ kỳ xóa sạch người Ạc-mê-ni” ông ta đã nhắc
nhở những kẻ theo mình “ngày nay Thế giới cũng sẽ không can thiệp đâu”.
Một số ít những người Ạc-mê-ni trốn ra khỏi những khu vực bị bao vây đã mang
theo những câu chuyện về sự dũng cảm, anh hùng của những người Ạc-mê-ni còn
kẹt lại. Họ thuật lại rằng nhiều khi những người Thổ nhĩ kỳ đã cho các Cơ đốc
nhân một cơ hội để chối bỏ đức tin của mình hầu đổi lấy mạng sống. Một tiến trình
ưa chuộng nhất là nhốt tất cả các Cơ đốc nhân vào một chuồng chứa gia súc hoặc
chứa thóc và châm lửa đốt: “Nếu chúng mày chịu nhận Môhamét thế cho Đấng
Christ, chúng tao sẽ mở cửa”. Cứ như thế, không biết bao nhiêu lần, những Cơ đốc
nhân đã chọn cái chết, những bài Thánh ca tôn ngợi Chúa được cất vang lên khi
ngọn lửa phủ chìm họ.
Những người đã lưu tâm đến lời cảnh cáo của cậu bé Tiên Tri và tìm được nơi ẩn
náu ở tại Hoa kỳ đều choáng váng khi được tin.
Ông nội Demos của tôi thuộc trong vòng những người đã lánh thoát. Sau kinh
nghiệm xảy ra với vị Trưởng lão người Nga, ông tôi không còn dám coi nhẹ giá trị
pháp lý của lời tiên tri nữa. Vào năm 1905 ông đã bán đi nông trại từng thuộc về
gia đình từ nhiều đời, chấp nhận với bất cứ giá tiền nào ông có thể có được. Đoạn,
ông chọn những đồ vật mà gia đình có thể mang theo trên lưng, kể cả tặng vật của
riêng ông là chiếc ấm Samôva đồng đun bằng củi. Thế rồi cùng với vợ và sáu cô
con gái, Shushan, Esther, Siroon, Magga, Yerchan, Hamas, và niềm tự hào của
ông, cậu bé Ysác mười ba tuổi, lên đường tìm đến đất Mỹ.
Cả gia đình đã đến Nữu ước bình yên, nhưng vì cớ lưu ý đến lời tiên tri, nên đã
không định cư tại đó. Để giữ đúng theo huấn thị đã được viết ra, họ tiếp tục hành
trình băng qua vùng đất mới rộng lớn hoang vu, cho đến khi đến được Los
Angeles, ở đó, thật vui mừng, họ tìm được một khu vực có người Ạc-mê-ni, dầu
nhỏ bé nhưng đang phát triển, là nơi có một số bạn hữu từ Kara kala đến và hiện
đang sinh sống.
Nhờ sự giúp đỡ của những người bạn nầy, ông tôi đã đi tìm nhà ở “khu chung cư”
là khu vực rẻ nhất ở Los Angeles, dầu vậy chính vì việc có thêm hai gia đình khác
mới đến mà ông phải dọn gia đình mình đến căn nhà hình vuông có tô xi măng ở
tại số 919 đường Boston.
Chuyến đi bằng tàu thủy, cuộc hành trình băng qua đất Mỹ, và việc chia xẻ căn hộ
mới đã làm hết sạch số tiền bán được nông trại ở quê nhà, vì thế ông tôi lập tức tìm
kiếm việc làm. Không thành công. Tình trạng suy thoái trầm trọng vào những năm
cuối thế kỷ 19 vẫn còn đè nặng trên California, là nơi không tìm được việc làm,
đặc biệt đối với những người mới đến, là người không nói được chữ nào trong thứ
tiếng nầy. Mỗi buổi sáng ông tôi thường đi đến chỗ thuê người, để rồi mỗi chiều lại
trở về, bước chân có phần nặng nề hơn ngày hôm trước.
Nhưng có một thời giờ trong mỗi một tuần lễ, khi mà tất cả những nỗi lo lắng đều
được dẹp qua một bên, đó là buổi nhóm thờ phượng ngày Chúa nhật. Căn nhà tại
thành phố Boston có một phòng khách phía trước đã nhanh chóng trở thành nơi
nhóm chung. Buổi nhóm giữ theo các thói lệ của hội thánh tư gia trước đây ở tại
Kara kala. Ở giữa là một chiếc bàn rộng trên đó để một quyển Kinh Thánh mở ra.
Một bên phòng dành cho những người nam, ngồi theo thứ tự tuổi tác, người lớn
tuổi hơn ngồi gần nhất, tiếp theo là những người trẻ hơn và cuối cùng là các cậu
bé, bên kia phòng, luôn luôn như vậy dành cho các người nữ, cũng xếp theo thứ tự
tuổi tác. Những người lớn tuổi vẫn tiếp tục để những bộ râu đen rậm, mặc dầu đôi
khi một người nam trẻ tuổi hơn cũng làm mọi người bực mình vì chỉ để râu mép.
Trong hội thánh vẫn bắt buộc những người nam phải mặc những chiếc áo dài đến
gối màu sáng, còn phụ nữ thì mặc váy dài có thêu và khăn trùm đầu đan móc bằng
tay, là loại y phục được truyền lại qua nhiều thế hệ. (Hầu như các ngày còn lại
trong tuần thì không bắt buộc như vậy)
Ông tôi hẳn đã nhận được một sự yên ủi đặc biệt khi nhờ cậy nơi sự nâng đỡ về
mặt thuộc linh từ tập thể Cơ đốc này. Họ có một sự khao khát từ khi biết rằng Chúa
có thể phán trực tiếp với họ qua Kinh Thánh. Với nhu cầu về công việc làm luôn
mang nặng trong tâm trí, ông tôi hẳn đã quỳ gối trên tấm thảm đông phương đã
được đem từ quê nhà để cầu xin “một lời phán”. Sau đó toàn thể hội chúng hẳn sẽ
bắt đầu cầu nguyện thầm thì, thường là trong những thứ tiếng không ai hiểu, trong
trạng thái vui sướng được gọi là tiếng lạ. Cuối cùng, một trong những người lớn
tuổi sẽ bước đến chỗ quyển Kinh Thánh đặt tay mình vào phân đoạn Kinh Thánh
nói đến sự cứu chuộc. Những lời ấy dường như luôn phán thẳng vào nhu cầu. Có lẽ
đó là những lời nói về sự thành tín của Chúa hoặc về những ngày đượm sữa và mật
như lời cậu bé Tiên tri đã phán trước. Vâng, hội thánh nhỏ bé của người Ạc-mê-ni
đang chờ đợi những ngày đó xảy đến, nhưng ít nhất là trong khi chờ đợi, họ cũng
có những giờ phút thông công đẹp đẽ.
Ngày nọ có một sự khích lệ khác. Tình cờ ông tôi và người em rể, Magardich
Mushegan (là người đã nói tiên tri về việc Ysác được sanh ra) đang đi bộ trên
đường phố Sanpedro tại Los Angeles, tìm việc làm ở các chuồng nuôi ngựa thuê.
Khi đi qua một con đường phụ gọi là Azusa, họ đột nhiên dừng lại. Cùng với mùi
ngựa và mùi da để làm yên cương họ nghe những âm thanh không thể nào lầm lẫn
được của những con người đang ngợi khen Đức Chúa Trời bằng tiếng lạ. Họ không
hề hay rằng một nơi ở Hoa lỳ lại có những người thờ phượng giống như họ vậy.
Họ vội vàng tiến về phía chuồng ngựa đã được cải tạo, từ nơi đó những âm thanh
vang vọng ra, ông tôi gõ cửa, lúc này ông đã thu thập được một ít từ Anh ngữ.
“Chúng tôi vào...được không?” ông hỏi.
“Được chứ!” Cánh cửa được mở tung ra. Có những cái ôm, những bàn tay đưa lên
cảm tạ ca hát và ngợi khen Chúa. Ông tôi và Magardich trở về phố Boston với tin
tức: Ngũ Tuần cũng đã đến với cả vùng đất xa xôi ở bên kia đại dương. Lúc ấy
không ai biết rằng phố Azusa sẽ trở thành một địa danh nổi tiếng. Có một cuộc
phấn hưng tiếp tục diễn ra trong khu chuồng nuôi ngựa thuê, là nơi phát xuất một
sự đổi mới có sức lôi cuốn ở nhiều nơi khác nhau khắp cả địa cầu. Vào giây phút
mà ông tôi nhìn thấy một tập thể các Cơ đốc khác thì cũng đơn giản như một sự
đón mừng sự xác nhận lời hứa của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ làm một điều gì đó
mới mẻ và kỳ diệu tại California.
Điều mới mẻ ấy là gì, ông tôi đã không còn sống để mà nhìn thấy, công việc đều
đặn mà ông chờ đợi từ lâu, cuối cùng đã đến, và cũng đã kết thúc trong bi thảm.
Một ngày trong năm 1906, ông tôi trở về nhà với dáng đi nhẹ nhàng.
“Ông đã tìm được việc làm” bà tôi nói
“Phải, tôi có việc làm”
Cả gia đình xúm lại xung quanh trong khi ông tôi cho biết tin tức quan trọng. Tận
bên Nevada một tiểu bang khác, tiếp giáp với California, ngành đường sắt đang
thuê người.
Nụ cười biến mắt trên gương mặt bà. Bà đã từng nghe nói đến Nevada, đó là vùng
sa mạc, nơi nhiệt độ lên đến 49 độ C và người ta đã ngã chết khi cố thực hiện công
việc nặng nề là đặt đường ray dưới sức nóng ghê tởm đó.
“Mình quên rồi sao,” ông tôi phản công “tôi là một nông dân và tôi đã quen làm
việc ngoài đồng dưới ánh nắng. Hơn nữa Goolisar, mẹ thằng Ysác à, chúng ta còn
sự lựa chọn nào nữa đâu?”
Vì vậy ông tôi mời gọi các trưởng lão trong hội thánh đến và nhận sự chúc phước
theo truyền thống trước khi lên đường. Thế rồi với một bộ quần áo để thay đổi
cuộn trong một chiếc mền, ông hướng thẳng đến vùng sa mạc. Chẳng bao lâu sau,
người đưa thư cứ hàng tuần phát một lá thư chuyển tiền cho căn hộ ở phố Boston.
Rồi một buổi chiều mùa hạ, bức điện tín mà bà nội tôi luôn sợ hãi đã đến. Vào một
ngày nắng nóng như thiêu như đốt, ông tôi đã ngã gục đang khi làm việc trên tuyến
đường. Thi thể ông có lẽ đã được đưa về bằng tàu hỏa.
Bởi cái chết của ông nội. Cha tôi, cậu bé Ysác đã phải bước vào công việc khi cậu
chưa sẵn sàng, mới mười bốn tuổi cậu phải đứng đầu gia đình.
Suốt nhiều tháng bố tôi phải đi bán báo ở một góc phố tại khu trung tâm Los
Angeles. Ông kiếm được gần mười mỹ kim một tháng, đó là một sự đóng góp có
giá trị lớn nếu ông nội còn sống, nhưng thật chật vật để đủ nuôi mẹ và sáu chị em
gái. Ngay cả những thời điểm trọng đại của ngành làm báo, như trận động đất ở tại
San Francisco năm 1906, khi ông bán được sáu chồng báo Extras trong vòng một
tiếng đồng hồ, thì cũng chỉ thêm được một ít xị sữa trên bàn ăn mà thôi.
Cha tôi cũng không bao giờ lấy món tiền mà mình không khó nhọc để làm ra.
Trong những năm đầu thế kỷ, những đồng tiền vàng vẫn còn lưu hành, đó là đồng
tiền vàng Nam Mỹ có kích thước như đồng kên trị giá năm xu Mỹ. Một ngày kia
một khách hàng vội vã nhét một đồng tiền vào tay bố, nhận ba xu thối lại và phóng
nhanh ra đường, bố đã toan thả đồng tiền vào chiếc tạp dề xanh của cậu bé bán báo
có in hàng chữ LOS ANGELES TIMES ở phía trước, nhưng khi chợt liếc xuống
và nhìn thấy đồng “5xu” mà mình đang cầm trong tay là đồng tiền vàng năm mỹ
kim.
“Ông ơi!” Bố tôi kêu lên nhưng người ấy đã vượt xa một khối nhà rồi. Bố tôi chặn
chồng báo lại, và bắt đầu đuổi theo người đàn ông. Một chiếc xe điện trờ tới.
Không suy nghĩ đến lần thứ hai, bố tôi nhảy lên trả tiền tàu lấy trong số tiền quý
báu do chính mình kiếm được và lần theo người khách. Cuối cùng, ông bắt kịp
người khách, bố nhảy xuống khỏi xe điện.
“Thưa ông!” Người đàn ông bấy giờ mới quay lại “thưa ông, đây không phải là
đồng năm xu ạ?” Bố nói bằng tiếng Anh còn hơi ngập ngừng, ông xòe bàn tay ra
và đồng tiền vàng lấp lánh dưới ánh nắng.
Tôi vẫn hay nghĩ đến người khách hàng ấy, người đã nhận lại đồng tiền vàng với
một giọng nói ấm ức, biểu lộ sự vô tình nhỏ nhất để thừa nhận đồng tiền. Tôi thích
nghĩ rằng giá như ông ta nhìn thấy những khuôn mặt đói khổ chờ đợi từng đêm ở
cửa nhà số 919 Phố Boston, thì hẳn ông sẽ bảo cậu bé bán báo hãy giữ cả đi.
Mười mỹ kim một tháng chẳng đủ thiếu gì cho một gia đình. Vào những buổi chiều
sau giờ làm việc, bố tôi bắt đầu dạo quanh những chỗ thuê người, cũng như bố ông
cũng đã từng trước kia. Nhưng nếu công việc dành cho đàn ông đã hiếm hoi thì
công việc dành cho những cậu bé lại càng khó hơn. Cuối cùng cậu hay được rằng
có một chỗ trống trong xưởng làm bộ yên cương. Tiền lương thấp, chỉ mười lăm
mỹ kim một tháng, nhưng dẫu sao cũng khá hơn là bán báo, vì vậy, bố tôi nhận
làm.
Một ngày vào năm 1908, khi bố đã mười sáu tuổi, ông từ xưởng thợ trở về và nghe
những lời rất ngạc nhiên của bà nội.
“Ysác, thật là một tin mừng!” Bà nội nói:
“Chúng ta thì có liên quan gì?”. Bố tôi trả lời qua chiếc khăn tay ông thường giữ
nơi miệng. Bụi lông mịn của da thuộc ở xưởng làm yên cương đã chui vào hai lá
phổi của ông và khiến ông ho liên tục.
“Mẹ đã tìm được một việc làm” bà nói
Bố tôi không tin là mình đã nghe đúng. Không có phụ nữ Ạc-mê-ni nào làm việc
để kiếm tiền. Trong xứ sở của ông trước kia, người đàn ông phải chu cấp cho gia
đình của họ, ông nhắc nhở bà tôi điều đó khi bà lau sạch lớp lông bụi bám trên tóc
ông lúc ở ngoài nhà bếp.
“Nhưng Ysác nầy, con không thấy việc mang gánh nặng của mình như vậy là quá
sức sao? Con thì ốm như cái xiên nướng thịt. Mẹ cũng đã nghe con gắt gỏng với
Hamas hôm qua”
Bố tôi đỏ mặt lên song vẫn giữ lập trường của mình “mẹ không được nhận việc
làm đâu”
“Mẹ nhận rồi. Một gia đình tốt bụng ở công viên Hollenbeck cần giặt ủi, chỉ là việc
quét dọn nhỏ thôi mà”
“Vậy thì con sẽ đi thu xếp” bố đáp nhẹ nhàng, rời bếp ông lên căn phòng riêng của
mình, bà tôi theo sau. Bà đứng ở bên cửa trong lúc ông cuộn một ít áo quần vào
bọc “có mẹ đi làm rồi con không cần ở đây nữa”
Ngày hôm sau bà tôi đành phải báo cho những người ở công viên Hollenbeck, rốt
cuộc bà không đến chỗ giặt ủi được.
Nhưng ở tại xưởng làm yên cương, bệnh ho của bố tôi lại càng trở nên tệ hại hơn.
Căn bệnh chẳng khá hơn ngay cả khi ông được bầu làm người đốc công vào năm
sau, mà nhiều lúc còn phải nằm liệt giường. Bà tôi thường kể rằng bà thức giấc,
nằm nghe tiếng bố ho suốt cả đêm. Cuối cùng bà đã thuyết phục ông đi gặp bác sĩ,
vị bác sĩ đã khẳng định điều mà mọi người trong gia đình đều phải biết: Nếu bố tôi
không bỏ xưởng làm yên da, ông sẽ không sống hết tuổi thanh niên tức là dưới hai
mươi tuổi.
Vấn đề bây giờ là: Ông có thể trợ giúp mẹ và các chị bằng cách nào khác đây? Và
như gia đình vẫn luôn ở trong những giây phút bối rối. Bố tôi tìm đến hội thánh.
Những người Ạc-mê-ni Ngũ Tuần không còn thờ phượng tại phòng khách của căn
hộ ở Boston nữa. Khi những người nam đã tìm được những công việc đây đó, thì
điều đầu tiên họ làm đó là xây dựng một nhà thờ.
Đó là một công trình có hình dáng nhỏ thôi, nằm trên Phố Gless, khoảng hai mươi
thước chiều dài và mười thước chiều rộng, với những băng ghế không có lưng tựa
để có thể đẩy sát vào tường khi sự vui mừng của Chúa cảm động hội chúng nhảy
múa trong Thánh Linh. Ngay đầu phòng là bàn ăn theo truyền thống.
Tôi có thể hình dung bố bước đến bên bàn như cha ông đã từng làm rất nhiều lần.
Ông quỳ gối trên tấm thảm nhỏ màu nâu sậm và nói lên nhu cầu của mình, trong
khi phía sau ông, những người đứng tuổi nhóm lại, có cả Magardich và người con
trai của Magardich là Aram Mushegan, là người theo lời kể lại, mạnh đến nỗi có
thể nhấc một chiếc xe ngựa lên khỏi mặt đất để bạn sửa bánh xe. Chính Aram là
người đã đã đặt ngón tay của ông lên quyển Kinh Thánh lúc bấy giờ và đọc lớn
những lời lạ lùng và đẹp đẽ này:
Ngươi sẽ được phước ở trong thành , và được phước ngoài đồng ruộng . Bông trái
của thân thể ngươi , hoa quả của đất ruộng ngươi , sản vật của sinh súc ngươi , luôn
với lứa đẻ của bò cái và chiên cái ngươi , đều sẽ được phước ...
Đất ruộng ư? Cha tôi tự hỏi. Bầy súc vật ư? Những lời kỳ diệu trong Phục Truyền
Luật lệ ký đoạn 28 vẫn tiếp tục:
Đức Giêhôva sẽ khiến phước lành ở cùng ngươi tại trong kho lúa và trong các công
việc ngươi , Ngài sẽ ban phước cho ngươi trong xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời
ngươi đã ban cho ngươi .
Và khi lắng nghe, bố tôi nhận ra rằng chỉ có một điều trên thế gian nầy ông thật
muốn làm, điều mà ông suốt ngày mơ ước bên những máy cắt. Ông muốn được
làm việc với bầy bò cái và những thứ tươi tắn, xanh mởn mọc lên ở ngoài đồng.
Nhưng phải có nhiều tiền mới mua được đất, ông tự nhắc mình mỗi khi suy nghĩ
đến đó. Bấy giờ, lời hứa trong Kinh Thánh vang vọng bên tai ông đã đem đến một
quyết định trong đầu. Bố đưa đơn xin nghỉ việc ở xưởng đóng yên cương, và trong
vòng hai tuần, không có một việc làm nào cả.
Và dường như ông đã lập tức chú ý đến một việc. Hoa quả và rau cải được bày bán
ở các cửa hàng chung quanh thành phố không những quá đắt để các gia đình như
gia đình ông có thể mua được, mà chúng còn thường nhỏ bé và trông héo úa nữa,
mặc dầu khi được hái, nó rất xanh tươi. Ông tự hỏi, nếu như ông đi lấy các thứ rau
cải thật tươi từ vùng nông thôn và đưa về Thành phố để bán từ nhà này sang nhà
kia thì sẽ thế nào nhỉ.
Vì vậy, chính ông đã dấn thân vào công việc do mình nghĩ ra. Phía đông và nam
của Thành phố Los Angeles có các nông trại nhỏ, phần nhiều trong số đó do người
Ạc-mê-ni làm chủ, là nơi sản xuất ra những loại hoa quả và rau cải có chất lượng
nhất trên thế giới. Cha tôi lấy một số tiền ông đã dành dụm từ tháng này qua tháng
kia để làm của hồi môn cho các chị em gái của mình, và với số tiền đó, ông mua
hai thứ. Một chiếc xe ngựa có thùng phẳng, và một con ngựa hai tuổi, sắc nâu đỏ
tên là Jack.
Ngày hôm sau, bố tôi đánh con Jack và chiếc toa trần ra chỗ ga đầu mối xe lửa nhỏ
gọi là Downey. Thời ấy chưa có khu phố ở ngoại ô, nhưng có một thị trấn nhỏ cách
đó mười lăm dặm trong vùng đồng quê. Mỗi chuyến đi mất ba giờ đồng hồ, nhưng
bố tôi yêu từng phút trong cuộc hành trình đó. Bầu không khí trong sạch tươi mới,
tràn ngập hai lá phổi đang bị đe dọa của ông như đang được chữa lành.
Giấc mơ bắt đầu lớn lên trong tâm trí của bố tôi: Một ngày kia ông hẳn trở thành
một nông gia. Ông sẽ có những con bò của riêng mình, ông sẽ là một người làm
việc trong trại bò sữa. Là người chủ trại bò sữa hảo hạng trong vùng.
Nhưng trong lúc này ông phải làm việc đã. Ngày hôm đó, tại Downey, bố tôi đi từ
nông trại này đến nông trại khác, thâu nhặt rau díp ở chỗ này, cam và bưởi ở chỗ
kia, cà rốt ở chỗ nọ, bất cứ những thứ trái cây hoặc loại rau cải nào đang trong
mùa. Thế là thùng xe chất đầy những sản phẩm ngon nhất ông đánh xe về Los
Angeles. Khi con Jack khua móng lóc cóc, lọc cọc trên các ngã đường Thành phố,
thì bố tôi rao mời các món hàng của mình: “Dâu tây chín đây! Cam ngọt đây! Bó
xôi mới hái đây!” Hàng của ông đều ngon, giá lại vừa phải, và lần kế tiếp khi ông
đến đã thấy các bà nội trợ đang mong đợi ông.
Một năm nữa lại trôi qua. Bố tôi lúc này đã mười chín tuổi, hãnh diện để bộ ria
mép hợp thời, số tiền hồi môn đã được đặt lại chỗ cũ và còn thêm nhiều hơn nữa.
Với sức khỏe đã hồi phục và công việc làm ăn nay đã trôi chảy, bố tôi bắt đầu nghĩ
đến việc lập gia đình.
Ông đã chấm cô gái mà ông muốn sau này sẽ trở thành vợ mình rồi, một thiếu nữ
mắt đen, tóc đen mười lăm tuổi, tên là Zarouhi Yessayian, ông chưa quen biết cô
Zarouhi một cách cá nhân. Theo tục lệ của người Ạc-mê-ni, không cô cậu nào
được chuyện trò với nhau cho đến khi cha mẹ họ đã đồng ý với nhau về việc hôn
nhân. Bố chỉ biết rằng khi ông đi ngang qua căn nhà của gia đình họ Yessayian ở
số 6, Phố Gless thì tim ông đập rộn ràng trong lồng ngực.
Bởi vì cha ông đã qua đời, nên một Trưởng lão ở hội thánh đã tiến hành thủ tục cầu
hôn Zarouhi cho bố tôi. Với những người nhà Yessayians, ông bày tỏ triển vọng
của bố: Ngay khi đã dành đủ tiền đặt cọc, bố sẽ làm lại công việc bán rau trái và
mua đất nuôi bò sữa. Sau đó người thanh niên quả quyết rằng, không gì có thể
ngăn trở anh thực hiện điều đó.
Thế là bố tôi lấy vợ. Chẳng bao lâu sau, ông và mẹ tôi đã mua được mười mẫu Anh
các cánh đồng ngô, trồng cây bạch đàn, và vùng đồng cỏ ở trung tâm Downey, và
tuyệt hơn cả là ba con bò sữa. Bằng chính tay mình, ông và mẹ tôi đã xây dựng
một ngôi nhà nhỏ bằng loại ván gỗ chưa thành phẩm. Mẹ thường bảo đó là một căn
nhà nhỏ dễ lau rửa. Bởi vì các tấm ván dưới bề rộng 12 inches hở nhau đến nỗi
nước cọ rửa sàn chỉ việc chảy qua các khe hở thấm xuống nền đất bên dưới.
Với phần mở đầu, tôi nhận biết rằng đang khi ngồi hồi tưởng trong chiếc ghế
phòng khách cũ kĩ bầu trời đã ửng nhạt đàng sau những hàng cây cam. Dầu vậy sự
suy tưởng của tôi vẫn cứ vơ vẩn ở thời quá khứ ấy. Vào ngày 21 tháng bảy năm
1913, ngay trước khi bố mẹ tôi hoàn tất căn nhà nhỏ bằng ván tại Downey, đứa con
đầu lòng của họ đã ra đời. Không giống như ông nội tôi, đã phải chờ đợi quá lâu để
có một đứa con trai, đứa con đầu lòng của bố mẹ tôi là đứa con trai. Bố mẹ gọi tôi
là Demos.
Bên cạnh tôi, trên bàn là chiếc ấm đun trà to bằng đồng, chính là chiếc ấm ông tôi
đã mang trên lưng từ Kara kala, đang bắt lấy ánh sáng buổi sớm mai. Tôi quay
nhìn nó, các mặt được đánh bóng kĩ vàng rực trong ánh rạng đông, và tôi tự hỏi
không biết khi đặt tên tôi theo tên của ông nội, cha mẹ tôi có đoán định rằng vai trò
của lời tiên tri huyền nhiệm và dường như có ảnh hưởng sâu rộng cũng sẽ phải xảy
đến trong cuộc đời tôi chăng.
Đại Lộ Union Pacific
Dầu đã dời đến Downey khi tôi được tám tháng, bố mẹ tôi vẫn tiếp tục dự nhóm ở
ngôi nhà thờ nhỏ nằm trên đường Gless. Bố nói rằng chính từ hội thánh mà những
người Ạc-mê-ni đã tìm được sức mạnh. Bố đã dạy tôi hai kỷ năng vào cùng một
thời gian. Ngay khi đôi tay tôi đã lớn đủ, ông dạy tôi cách vắt sữa. Và ngay khi tôi
đủ cao để đứng trên một cái thùng đựng cam mà với tới đầu con ngựa Jack thì ông
đã chỉ cho tôi cách điều khiển nó. Một trong số những kỷ niệm đầu tiên của tôi là
việc buộc con Jack vào cỗ xe độc mã và cùng gia đình, bấy giờ tôi đã có thêm hai
cô em gái, Ruth và Lucy, lên đường đến nhà thờ.
Chuyến đi vẫn phải mất hết ba tiếng đồng hồ mỗi lần, và buổi nhóm có cả buổi ăn
trưa kéo dài đến năm giờ. Tôi vui hưởng từng điều một. Tôi thích nhìn xem những
nông gia bắp thịt cuồn cuộn và những tá điền vung tay lên không khi Thánh Linh
tuôn đổ trên buổi nhóm, những khuôn mặt hướng lên trời cho đến khi bộ râu đen
dài của họ chỉa thẳng ra, song song với mặt bàn. Tôi ưa thích được nghe những
giọng nói trầm trầm ấm áp của họ khi hát những bài Thánh ca Ạc-mê-ni cổ xưa.
Ngay cả những bài giảng cũng có sức mê hoặc, bởi vì lúc ấy quá khứ trở nên sống
động, trong ngôi nhà thờ nhỏ bé có khung gỗ ở Phố Gless. Người giảng luận sẽ
nhắc nhở cho chúng tôi rằng Ạc-mê-ni là quốc gia Cơ đốc cổ nhất thế giới, và cũng
là quốc gia chịu đau khổ nhiều nhất vì cớ niềm tin của mình. Những cuộc thảm sát
gần đây của người Thổ nhĩ kỳ chỉ là những cuộc tàn sát mới nhất trong hồ sơ ghi
chép về những nỗ lực man rợ của những kẻ láng giềng nhằm tiêu diệt đất nước nhỏ
bé song bướng bỉnh này, và với việc không ngớt kể lại lịch sử dân tộc của chúng
tôi, nó đã trở thành xương thịt của đất nước chúng tôi.
“Chính vào năm 287” vị Mục sư bắt đầu giảng “một vị thánh trẻ tuổi là Gregory tự
hỏi liệu ông có dám trở về quê nhà yêu dấu ở Ạc-mê-ni không. Gregory đã bị thất
sủng đối với nhà vua và bị đày khỏi xứ sở, nhưng thời gian bị lưu đày ấy ông đã
nghe được sứ điệp Cơ đốc cuối cùng, dầu rất nguy hiểm ông vẫn quyết định trở về
rao giảng, chia xẻ Tin lành với những người ở quê hương mình.
Chẳng bao lâu, nhà vua hay tin về việc chàng thanh niên trở về, đã bắt giữ anh và
tống vào căn hầm tù sâu nhất của tòa lâu đài để cho anh ta chết đói. Nhưng con cái
của đức vua vào những dịp không phải ở trước mặt vua đã được nghe lời giảng của
Gregory, và đã trở thành những Cơ đốc nhân. Vị Mục sư đã vẽ ra một hình ảnh thật
sống động về người phụ nữ trẻ lén lút xuống những bậc thang bằng đá ẩm ướt để
đến được hầm tù tăm tối, tanh hôi, giấu trong mình một ổ bánh mì hoặc một bầu
sữa dê bên dưới chiếc áo choàng xếp li. Trong suốt mười bốn năm cô đã tiếp tục
giữ cho vị Thánh ấy còn sống.
Vào lúc ấy một chứng bệnh ghê gớm bắt lấy nhà vua, một chứng tâm thần quái đản
ném nhà vua xuống sàn và gầm gừ như một con vật. Trong những lúc tỉnh táo ông
van nài các danh y hãy chữa cho ông được khỏi, nhưng không ai làm được.
“Người đàn ông tên Gregory có thể giúp cha” cô con gái ông đề xuất.
“Gregory đã chết từ nhiều năm rồi” nhà vua giận dữ nói. “Xương hắn ta đã mục
rửa dưới chính tòa lâu đài nầy”
“Ông ta vẫn còn sống” cô khẽ nói, và thuật lại mười bốn năm dài canh giữ.
Gregory được mang lên khỏi hầm tối, tóc ông ta trắng xóa như tuyết trên đỉnh
Ararát, nhưng tâm trí và tinh thần thì vẫn mạnh mẽ. Trong danh của Đức Chúa
Jesus Christ, ông quở Quỷ đã hành hạ nhà vua và lập tức, vua được chữa lành.
Năm 301, nhà Vua cùng Thánh Gregory khởi sự giành được sự cải đạo cho toàn
thể xứ sở Ạc-mê-ni.
Trên con đường dài trở về nhà, tôi hồi tưởng lại câu chuyện một lần nữa, suy nghĩ
về con người kiên trì tại ngục tối, bị nhốt kín từ năm này sang năm nọ, vẫn không
hề mất đức tin, cứ chờ đợi đến đúng thời điểm của Đức Chúa Trời.
Khi người cuối cùng trong sáu cô con gái của mình đã lấy chồng, bà nội đến ở với
chúng tôi trong căn nhà ván nhỏ bé. Tôi còn nhớ rất rõ về bà, một bà cụ nhỏ nhắn
với mái tóc bạc trắng, đôi mắt sáng ngời niềm tự hào về người con trai duy nhất
của bà. Nỗi buồn duy nhất của bà, như bà vẫn thường nói, là ông Demos đã không
còn sống để nhìn thấy dòng họ nhà Shakarian một lần nữa lại dựa trên miếng đất
của chính mình. Bà Goolisar qua đời tại đó, trong gian buồng nhỏ. Bà là một người
phụ nữ hạnh phúc và toại nguyện.
Thế rồi khi tôi lên mười, công việc ở trại bò sữa phát triển. Ba con bò sữa đã thành
ra ba chục, rồi đến một trăm, và rồi lên đến năm trăm con, và mười mẫu đất lúc
đầu nay đã tăng lên hai trăm mẫu. Bây giờ, bố tôi mơ làm chủ một trại bò sữa rộng
lớn nhất và hoàn hảo nhất vùng California. Nếu sự lao động sẽ dẫn đến niềm mơ
ước đó, thì sẵn sàng làm việc, bởi vì bố biết cách làm việc và cũng biết cách điều
động những người còn lại trong chúng tôi làm việc nữa.
Bây giờ còn có cả một gian nhà xây cho các công nhân làm việc ngủ lại, đầy những
người Mỹ gốc Mêxicô cùng làm việc bên cạnh chúng tôi trong các nhà to, bố và tôi
đã học nói tiếng Tây ban nha. Tôi không biết ai ưa thích chuyện của ai hơn: Những
câu chuyện của họ về Mêhicô hay là những kỷ niệm của bố về đời sống ở tại
Ạc-mê-ni. Họ thường không được nghe đầy đủ về Efim, cậu bé Tiên Tri hoặc về
chuyện Magardich Mushegan báo trước việc bố ra đời. Mỗi lần có một người mới
vào làm với chúng tôi là bố phải kể tất cả các câu chuyện lại một lần nữa.
Về sau, ông cứ luôn phải thuật lại đám tang của Efim năm 1915, đó là một tang lễ
long trọng nhất mà khu chung cư Los Angeles từng được chứng kiến. Ông Efim
không dự nhóm với hội thánh ở Phố Gless (là nơi các buổi nhóm đều nói tiếng
Ạc-mê-ni) mà ông nhóm với hội thánh nói tiếng Nga ở cách đó vài dãy phố. Trong
ngày cử hành tang lễ vĩ đại đó, không những hai hội chúng kể trên cùng nhau hiệp
lại, mà cả những người Ạc-mê-ni và người Nga theo Chính Thống giáo cũng đã bỏ
qua những ý kiến chống đối trước “sự tiếp tục phát triển của giáo phái Ngũ tuần tự
do” và đã tham dự buổi nhóm, vì rất nhiều người trong số họ cũng đã đến đất Mỹ
vì cớ lời tiên tri ấy.
“Còn về lời tiên tri thứ hai thì thể nào? Những người Mỹ gốc Mêhicô sẽ hỏi. “Là
điều vẫn chưa xảy ra cơ mà?”
“Nó vẫn được giữ an toàn. Con trai Efim còn giữ nó”
“Và nếu mở nó bạn sẽ chết phải không”
“Trừ khi bạn là một tiên tri được Chúa chỉ định”
“Theo bạn nghĩ, ai sẽ là vị tiên tri đó”
Dĩ nhiên là chẳng có ai biết được câu trả lời đó.
Vào khoảng thời gian cậu bé Tiên Tri qua đời, tôi bị một sự thương tật gây cho tôi
thật nhiều vấn đề.
Thậm chí tôi đã không hề biết làm thế nào mà tôi đã bị dập mũi. Một cậu bé mười
tuổi làm việc ở khắp chỗ trong trại thì hẳn va đầu sứt trán nhiều lần. Dẫu sao, khi
tôi bắt đầu nhận ra rằng mình không nghe rõ như những đứa trẻ khác trong lớp
năm, thì mẹ tôi liền đưa tôi đến bác sĩ.
Vị bác sĩ bảo “thưa bà Zarouhi, vấn đề thể nào thì tôi có thể cho bà biết, nhưng
phải làm cái gì thì không chắc. Cậu Demos đã bị dập mũi và khi lành đã có sự cố.
Cả lỗ mũi lẫn các ống tai đầu bị nghẽn. Chúng tôi có thể thử làm phẫu thuật, nhưng
thường không thành công lắm”.
Và họ cũng đã không thành công trong trường hợp của tôi, hầu như, cứ mỗi năm,
tôi lại phải đến bệnh viện để có một cuộc giải phẫu nữa, và cứ mỗi năm, các ống
tai lại càng khép chặt. Ở trường, tôi phải ngồi ngay dãy đầu để nghe hết những gì
thầy giáo nói.
Mặc dầu không lúc nào Chúa Jesus không là người bạn thân của tôi, song trong
những tháng này, khi chứng điếc của tôi trở nên tồi tệ hơn, thì dường như Ngài lại
càng gần gũi tôi hơn bao giờ hết. Tôi không còn được nhập bạn với những cậu bé
khác trong các trò chơi sau giờ học nữa (“đừng rủ thằng Demos, nó chẳng nghe gì
cả”) vì vậy tôi rất cô độc. Song tôi không quá phiền muộn. Công việc mà tôi ưa
thích trong trang trại là cuốc cỏ bắp, bởi vì lúc đó tôi có thể đi xa mãi tận các cánh
đồng và trò chuyện lớn tiếng với Chúa. Hai mùa hè năm tôi lên mười hai và mười
ba, đối với tôi dường như các rãnh bắp là những lối đi dài đan lờ mờ giống như lối
đi trong ngôi giáo đường màu xanh lá cây có những cánh lá có gân lớn làm thành
vòm khung ở trên đầu. Ở đó tôi đưa hai tay lên làm như những người đàn ông đã
làm tại nhà thờ:
“Xin cho con nghe lại được, lạy Chúa Jesus! Xin đừng nghe vị bác sĩ nói con sẽ
không đỡ hơn”
Tôi còn nhớ từng chi tiết ngày Chúa nhật đó năm 1926, khi tôi đã mười ba tuổi.
Tôi còn nhớ đã thức dậy và thay quần áo trong phòng mình ở tận lầu hai trong ngôi
nhà mới của chúng tôi. Bấy giờ, bố tôi đã có một ngàn con bò sữa, và đã xây một
ngôi nhà hai tầng theo kiểu Tây Ban Nha với các bức tường tô xi măng trắng và
mái ngói đỏ.
Tôi cảm thấy vui vẻ khi thay đồ đi nhà thờ. Vui vẻ một cách dễ chịu như thể toàn
thân tôi đang ở trong một loại giai điệu tâm linh đặc biệt nào đó. Tôi đi xuống cầu
thang dài hình cong để hát trong bữa điểm tâm. Bố mẹ và các em tôi đều đã sẵn
sàng nơi bàn ăn. Lúc bấy giờ đã có ba cô em gái thêm vào gia đình. Đứa bé nhất,
Florence, vẫn còn là một em bé hai tuổi, còn bốn đứa lớn hơn vẫn huyên thuyên sôi
nổi về chuyến đi hàng tuần của chúng tôi lên phố. Tôi cố nhập bọn nhưng chẳng
bao lâu đã bỏ cuộc. Bạn làm thế nào để nói chuyện với những người nói lí nhí,
chẳng nghe được gì cả?
Jack, con ngựa già của chúng tôi, không còn kéo cỗ xe nhà độc mã đi mười lăm
dặm đến nhà thờ mỗi sáng Chúa nhật nữa. Năm ngoái khi nó được mười sáu tuổi,
bố tôi đã thả nó ra ngoài đồng cỏ để hưởng phần còn lại của đời nó trong chế độ
hưu thật xứng đáng. Thay chỗ của nó, bây giờ chúng tôi đã có một chiếc xe du lịch
dài màu đen Studebaker, trần bằng vải bạt và có một cái thùng gồm các trục dự
phòng nằm bên dưới chỗ ngồi sau dành cho những con đường gồ ghề trong nông
trại.
Ngày Chúa nhật hôm đó, ngôi nhà thờ nhỏ rầm rì với sự náo động. Không ai trong
phòng nhóm là không biết điều đã xảy ra vào tuần lễ trước, vì bà mẹ của một phụ
nữ trong hội chúng đã rời Ạc-mê-ni từ hai tháng trước để đến với con gái của mình
tại Hoa kỳ. Kể từ đó không hề có tin tức gì về bà, và người con gái này đang lo
lắng phát cuồng. Đang khi hội thánh bắt đầu cầu nguyện cho hoàn cảnh ấy, thì
chồng bác Esther, là ông George Stepania, thình lình đứng lên và bước ra ngoài
cửa. Ông đứng đó một hồi lâu chăm chú nhìn ra đường phố như thể nhìn thấy tận
chân trời xa. Cuối cùng, ông nói “Mẹ cô mạnh khỏe, ba ngày nữa bà sẽ đến Los
Angeles”.
Ba ngày sau, bà cụ đến nơi.
Và vì vậy, ngày hôm nay, trạng thái chờ đợi của mọi người đang dâng cao, ai nấy
đều tự hỏi không biết hình thức chúc phước kế tiếp của Chúa sẽ là điều gì. Có thể
có người sẽ được chữa lành. Có thể có người sẽ nhận được sự hướng dẫn...
Ngay khi tôi đang suy nghĩ về điều đó, một việc lạ lùng đã bắt đầu xảy ra, không
với ai khác, mà là tôi. Đang khi ngồi ở dãy ghế ngoài cùng với những cậu bé khác,
tôi cảm thấy có cái gì giống như chiếc mền len nặng trĩu đặt lên hai vai tôi. Tôi
nhìn quanh hoảng hồn, nhưng không có ai chạm đến tôi cả. Tôi thử cử động hai
cánh tay, nhưng không được, y như tôi đang kéo chúng ở trong nước.
Thình lình, hàm răng tôi đánh lộp cộp với nhau như đang run vì lạnh, mặc dầu
“chiếc mền” thì có cảm giác ấm. Các bắp thịt ở cổ sau bị thắt chặt. Tôi có một nỗi
khao khát bất chợt muốn nói với Chúa Jesus rằng tôi yêu Ngài, nhưng khi tôi mở
miệng để nói điều đó thì lại tuôn ra những lời mình không thể hiểu. Tôi biết chúng
không phải tiếng Ạc-mê-ni, tiếng Tây Ban Nha, hay tiếng Anh, nhưng chúng xuất
phát từ tôi như thể cả đời tôi đã nói thứ tiếng ấy. Tôi quay sang cậu bé ngồi bên và
cứ thấy nó nhe răng cười.
“Demos đã nhận được Thánh Linh” nó nói lớn tiếng và mọi người trong nhà thờ
đều quay lại. Có ai đó hỏi tôi một câu, và mặc dầu hoàn toàn hiểu, tôi chỉ có thể trả
lời bằng những âm thanh lặp bặp, bày tỏ sự vui mừng. Cả hội chúng bắt đầu ca hát
và ngợi khen Chúa trong sự vui mừng đang khi tôi thờ phượng Ngài bằng thứ tiếng
mới của mình.
Thậm chí vài giờ sau, trên đường đi về nhà, hễ ai nói chuyện với tôi cũng đều được
trả lời bằng tiếng lạ. Tôi lên lầu, vào phòng mình đóng cửa lại, những âm tiết vui
sướng không thể hiểu được vẫn tuôn tràn ra từ môi miệng tôi. Tôi thay bộ đồ ngủ
và tắt đèn. Ngay giây phút đó ý thức về sự hiện diện của Đức Chúa Trời tràn ngập
tôi mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dường như sự bao phủ vô hình đã ở trên hai vai tôi
cả buổi chiều đã trở thành nặng nề không thể chịu nỗi, mặc dầu không muốn làm
vậy, tôi mọp xuống sàn và nằm trên tấm thảm, hoàn toàn bất lực, không thể đứng
dậy mà leo lên giường nỗi. Đó không phải là một từng trải gây sợ hãi, song là một
kinh nghiệm bổ dưỡng và tươi mới, giống như giây phút đặc biệt ngay trước khi
bạn chìm vào một giấc ngủ say.
Khi tôi nằm trong phòng mình như vậy, thời gian bắt đầu mang một giá trị đời đời
và trong cõi đời đời đó tôi nghe một tiếng nói. Chính là tiếng nói mà tôi thật sự
nhận ra rất rõ, bởi vì tôi đã từng nghe tiếng phán ấy trong ngôi giáo đường xanh lá
cây của tôi ở ngoài cánh đồng ngô.
Demos, con ngồi lên được chăng?
Tôi cố thử, song vô hiệu. Có một sức mạnh nào đó, mạnh mẽ khác thường, song
êm dịu vô cùng giữ tôi lại ở đó. Tôi biết mình là một cậu bé khỏe mạnh như Aram
Mushegan, rất dai sức đúng với một cậu bé mười ba tuổi. Thế mà các bắp thịt của
tôi không còn sức lực, tệ hơn cả một con bê con mới đẻ.
Tiếng phán ấy lập lại một lần nữa. Demos, con có bao giờ nghi ngờ quyền năng
của ta chăng?
“Lạy Chúa, không ạ”
Câu hỏi ấy được lập lại ba lần. Cả ba lần tôi đều trả lời. Thế rồi lập tức tất cả sức
mạnh đang ở chung quanh tôi dường như cũng vào cả bên trong thân thể tôi nữa.
Tôi cảm thấy một năng lực siêu nhiên trào dâng. Làm như tôi có thể bay bỗng ra
khỏi nhà và lướt trên bầu trời bằng quyền năng của Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy
như thể mình có thể nhìn xuống trái đất từ cái nhìn của Đức Chúa Trời, nhìn thấy
mọi nhu cầu của con người theo lợi thế từ sự cung ứng của Ngài. Và suốt thời gian
đó Ngài thì thầm với lòng tôi: Demos, quyền năng là quyền thừa kế tự nhiên của
mỗi một Cơ đốc nhân. Demos, con hãy nhận lấy quyền năng.
Và thình lình trời rạng đông. Tôi có thể nghe được tiếng chim nhại ở ngoài cửa sổ.
Tôi ngồi dậy và bắt đầu nghe được. Tôi nghe được gì thế? Đã nhiều năm tôi không
nghe tiếng chim hót.
Tôi nhảy lên, cảm thấy hoàn toàn và sống động một cách kỳ diệu, và mặc quần áo
một cách khó khăn. Đã hơn năm giờ sáng, bố và tôi đều phải có mặt ở nơi vắt sữa
đúng 5g30. Khi tôi mở cửa phòng vào buổi sáng lạ thường ấy, tôi đã nghe tiếng
trứng chiên kêu xèo xèo ở trong bếp.
Tiếng lách cách của bát đĩa, tiếng chim hót, và tiếng lép kép của từng bước chân
khi tôi phóng xuống thang lầu lát gạch đỏ, đúng là những âm thanh nhỏ nhặt mà tôi
không nhận biết là mình đang thiếu mất. Tôi lao vào bếp “bố, mẹ! Con nghe được
rồi”
Sự chữa lành không bao giờ hoàn toàn. Khi mẹ và tôi trở lại với vị bác sĩ, ông
khám phá rằng 90 phần trăm đã nghe được bình thường. Vì sao 10 phần trăm còn
suy kém tôi không biết, và tôi cũng chẳng quan tâm đến. Tôi còn nhớ, sau đó cũng
vào buổi sáng thứ hai đó, khi công việc vắt sữa đã xong, đi một mình đến nơi giáo
đường màu xanh lá cây. Những cây bắp đã cao, chuẩn bị thu hoạch. Tôi ngồi
xuống giữa hai luống bắp, bẻ một trái, và nhâm nhi những hạt bắp nhỏ vọt chất sữa
ra. “Lạy Chúa” tôi nói “con biết khi Ngài chữa lành cho người ta là bởi vì Ngài
muốn giao công việc cho họ thực hiện.”
“Chúa ơi, Ngài có tỏ cho con công việc mà Ngài dành cho con chăng?”
Thoạt đầu, cũng như những cậu bé khác trong lớp mới trở thành những ngôi sao
bóng rỗ, còn tôi, tôi mơ trở thành một nhà tiên tri. Lúc xảy ra biến cố ấy tôi chỉ lớn
hơn cậu bé Tiên Tri một chút khi cậu có khải tượng.
Nhưng năm tháng trôi qua, tôi không nhận được ân tứ kỳ diệu nầy. Lời tiên tri sẽ
đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con, nhưng con sẽ không trở thành nhà
tiên tri. Dường như Chúa đang phán lời ấy.
Thế rồi một ngày kia tôi có được một kinh nghiệm khiến tôi tự hỏi không biết có
phải mình trở thành một người chữa bệnh hay không. Đứa em gái út của tôi là
Florence được sáu tuổi khi em ngã trúng ống trụ ở ngoài kho và bị vỡ xương khuỷu
tay phải. Ngay khi các nhà giải phẩu và vị chuyên gia về xương đã hoàn tất công
việc của họ, và đều tin rằng Florence vẫn sử dụng được tay của mình. Nhưng
khuỷu tay sẽ không bao giờ gập lại được và cứ cứng nhắc. “Khi nào tháo băng bột,
chúng tôi có thể bắt đầu điều trị. Với sự kiên trì, cô bé có thể phục hồi hai mươi
phần trăm hoạt động của khớp xương nhưng đó là khả năng cao nhất mà chúng tôi
có thể trông mong”
Một ngày Chúa nhật không lâu sau lời tường trình đó, tôi có lại cảm giác của một
chiếc mền ấm áp và nặng, đè lên hai vai mình. Tôi không cần thắc mắc đấy là ai,
cũng không phải hỏi mình phải làm gì: Tôi phải băng ngang phòng nhóm để cầu
nguyện chữa lành cho cánh tay của Florence.
Vì vậy, trong lúc mọi người đang hát Thánh ca thì tôi yên lặng đứng lên, rời khỏi
băng ghế mình và bước qua khu vực dành cho phụ nữ. Tôi cúi mình xuống và nói
với Florence, lúc này đang ngồi ở băng ghế sau cùng, cánh tay phải của em được
bó trong khuôn bột khổng lồ. Độ ấm của chiếc mền lan truyền xuống hai cánh tay
tôi và dẫn đến hai bàn tay.
“Florence” tôi khẽ nói “anh sẽ cầu nguyện cho khuỷu tay của em”
Đôi mắt to đen của em ngước nhìn tôi một cách trang trọng. Tôi đặt hai tay mình
lên khuôn bột. Thật sự, tôi thật khó mà cầu nguyện được gì, mà chỉ đứng yên ở đó
để cảm nhận một luồng lửa nóng chạy xuống hai cánh tay, hai bàn tay dẫn đến chỗ
bó bột bọc quanh khuỷu tay của Florence.
“Em thấy rồi” Florence thì thào “em thấy nóng” chỉ có thế thôi.
Đó là tất cả. Trong giây lát cảm nhận về sự bao phủ ở trên tôi và tôi trở về chỗ
mình. Tôi ngờ rằng có đến sáu, bảy người đã để ý chúng tôi.
Vài tuần sau em tôi đi tháo bột băng. Chiều hôm đó, tại bàn ăn, mẹ kể lại cho
chúng tôi thế nào vị chuyên gia đã đặt một tay vào chỗ làn da trắng ở khuỷu tay
Florence, tay kia ông giữ cổ tay em và thận trọng thử duỗi thẳng cánh tay bị
thương từng phân một. Khi cánh tay đã đưa hoàn toàn về vị trí cũ, rồi đưa tới, đoạn
quay được một vòng rộng quanh khuỷu tay, thì nét mặt ông đột nhiên nở một nụ
cười hoài nghi. “Tốt rồi...!” ông cứ bảo vậy “ôi! Tốt hơn điều tôi mong đợi. Tốt
hơn nhiều! Ôi tại sao mà nó...nó lại giống như cánh tay chưa hề bị gãy thế này?”
Vì thế, mùa hè năm ấy ở tại cánh đồng ngô, tôi thấy mình đang hỏi Chúa rằng có
phải chữa lành là công việc của Ngài dành cho tôi chăng. Dường như một lần nữa
tôi lại nhận được câu trả lời: Tất nhiên. Ta muốn hết thảy hội thánh Ta đều làm
công việc đó. Con sẽ thấy nhiều sự chữa lành kỳ diệu, một số bởi chính tay con.
Nhưng Demos, đó cũng không phải là công việc đặc biệt ta dành cho con.
Tôi đã mười bảy tuổi mà mới học lớp mười Trung học, đáng lẽ tôi đã lên lớp mười
hai của trường Trung học, nhưng tôi đã mất hai năm vì chứng điếc, khi ấy bố tôi đã
mua một nông trại thứ hai. Bấy giờ chúng tôi đã có chỗ để xây cất những tháp cao
chứa thức ăn cho gia súc, và đủ vốn để lắp đặt các hệ thống máy vắt sữa tự động.
Bố tôi cũng đang bắt đầu những công việc khác. Một vấn đề gây đau đầu cho
chúng tôi và những nông gia lân cận trong trại bò sữa đó là chúng tôi phải luôn
luôn đưa sữa từ nông trại đến nhà máy đóng chai. Vì vậy bố tôi bắt đầu một công
việc vận chuyển sữa. Sau đó, bố để ý thấy giá thịt heo chà bông ở Los Angeles rất
cao, nên ông cũng bắt đầu nuôi lợn thịt để đóng hộp.
“Đức Giêhôva sẽ khiến phước lành ở cùng ngươi trong các công việc ngươi”.
Dường như đúng là mọi điều Ysác đứa con trai của lời hứa, đụng vào, đều được
định rằng sẽ thịnh vượng.
Sự thành công của ông hoàn toàn đáng chú ý hơn bởi vì lúc này là những năm suy
thoái trầm trọng của đầu thập kỷ ba mươi. Bấy giờ bố đã cho tôi quản lý một bầy
súc vật nhỏ, và tôi còn nhớ vị giáo sư giúp tôi lập sổ sách kế toán đã báo cho tôi
biết với một vẻ tiếc rẻ rằng với ba mươi con bò cái, tôi có thể kiếm nhiều hơn tất cả
các giáo sư ở tại Trường Trung Học Downey.
Gia đình tôi lúc bấy giờ đã thu hút sự chú ý của các nhà chính trị, những nhà doanh
thương và các vị lãnh đạo cộng đồng, mẹ tôi, từ một thiếu nữ e thẹn nhập cư từ
Ạc-mê-ni, nay trở thành bà chủ, tiếp đón và chiêu đãi các buổi dạ tiệc hàng tuần
cho những nhân vật có quyền thế hoặc lỗi lạc. Bà thật sự là một người nấu ăn tuyệt
vời và chẳng bao lâu những món ăn của bà như món dolmas, kuftas và katahs đều
đã nổi tiếng khắp miền Nam California.
Nhưng điều chủ yếu mà tôi còn nhớ được về việc nấu nướng của mẹ tôi đó là dẫu
người khách là ai bà vẫn quan tâm đến họ như nhau. Những kẻ lang thang thất
nghiệp là những vị khách ghé thăm thường xuyên trong những ngày ấy; và họ cũng
được đối xử như vị thị trưởng Downey: Chén bát sứ đẹp nhất, các đĩa muỗng nĩa
bằng bạc, khăn phủ bàn. Nếu bữa ăn nóng chưa sẵn sàng, thì bà sẽ chuẩn bị cho họ
một bữa với thịt, rau cải và bánh nướng làm tại nhà và lúc nào cũng giục giã họ
bằng thứ tiếng Anh còn hạn chế của mình “ngồi, ăn đi đừng có vội vàng!”
Trong lúc ấy tôi thấy mình ngày càng thường xuyên bị kéo đến một địa chỉ khác.
Hễ khi nào công việc trang trại khiến tôi phải đến phía Đông Los Angeles, thì tôi
lại tìm một cái cớ để đi vớ vẩn qua ngôi nhà màu kem, có những dây leo mọc dài ở
số 4311 Đại lộ Union Pacific của dòng họ Sirakan Gabriehian, với hy vọng rằng cô
con gái của họ bất ngờ xuất hiện ở trong sân. Không phải để được nói chuyện cùng
nàng dầu cho nàng có đồng ý (bởi vì những cuộc trò chuyện nam nữ, trừ khi hai
người đã hứa hôn, vẫn không nghe nói đến trong cộng đồng của những người
Ạc-mê-ni). Song chỉ để biết rằng cô ta đang ở gần và điều đó tràn ngập lòng tôi
một niềm hạnh phúc khó tả.
Và luôn luôn có những ngày Chúa nhật để mà trông ngóng. Chúa nhật là ngày
Rose Gabrielian sẽ ngồi với những cô gái khác bên dãy ghế dành cho phụ nữ trong
nhà thờ, nàng là cô bé xinh đẹp nhất phòng, là người mà tất cả các chàng trai đều
kín đáo dõi mắt theo.
Tên thánh của cha cô là Sirakan, có nghĩa là người yêu, theo tiếng Ạc-mê-ni, tôi
thích gọi tên đó. Giống như bố tôi, Sirakan đã bắt đầu từ chỗ không có gì cả. Cuối
cùng ông đã thâu góp được một trăm mỹ kim, và cũng như bố tôi, đã mua một con
ngựa và một thùng xe. Tuy nhiên, thay vì chuyên chở trái cây và rau cải bằng
phương tiện của mình, ông Sirakan bước vào công việc thu gom phế phẩm. Đó là
một dịch vụ rất cần thiết ở tại Los Angeles ngay sau khi chuyển sang thế kỷ mới,
và chẳng bao lâu sau ông đã mua được một con ngựa và một cỗ xe thứ hai, rồi đến
thứ ba.
Sirakan và gia đình ông đều là những người Ạc-mê-ni theo Chánh Thống Giáo.
Ông sống gần nhà thờ ở phố Gless. Tuy nhiên, khi nghe được những âm thanh vui
vẻ vang vọng ra từ những khung cửa sổ để ngỏ tuần này sang tuần khác ông quyết
định tìm hiểu sự thật. Sau một thời gian dài, ông đã gia nhập hội thánh chúng tôi và
vì cớ ấy mà suýt mất mạng. Đối với nhiều người Ạmêni theo Chánh Thống Giáo,
những người theo giáo phía Ngũ Tuần được xem như là những người phản bội
niềm tin cũ. Tìm thấy một người trong hội mình gia nhập vào nhóm người đáng
ghét này thì cũng giống như thấy người đã chết.
Vì vậy họ quyết định chôn ông ta.
Một ngày kia khi Sirakan dừng xe ở bãi rác của Thành phố với đống phế thải ngập
xe, thì một nhóm những người theo Chánh Thống Giáo đã đợi ông ở đấy. Họ trói
tay chân của ông lại và khiêng ông đến một cái hố mà họ đã đào sẵn chỗ bãi cát.
Họ ném ông xuống đó và thật sự đã lấp mấy tấc đất lên trên, rồi vào lúc đó có một
chiếc xe do những người Ngũ tuần đánh ngựa chạy đến, và giữa cuộc xô xát tiếp
theo đó Sirakan chui ra một cách rất vất vả.
Tôi ưa nghe ông kể câu chuyện ấy. Tôi cũng thích nghe ông kể về chuyện ông lấy
vợ nữa. Khi Sirakan hai mươi mốt tuổi, cha ông quyết định quay về Ạc-mê-ni để
tìm một người vợ, mẹ Sirakan đã mất từ nhiều năm trước. Công việc chở phế phẩm
của Sirakan lúc bấy giờ cũng đang phát đạt, vì vậy ông xin cha mình cũng hãy dẫn
về cho ông một cô dâu nữa.
Cha Sirakan đã thành công trong cả hai cuộc tìm kiếm. Về phần con trai mình, ông
đã chọn được một cô gái xinh xắn mười ba tuổi tên là Tiroon Marderosian. để
thuận tiện cho việc nhập cư vào Hoa Kỳ, cô được kết hôn theo sự ủy nhiệm ở tại
Acmêni, sau đó lên đường trong cuộc hành trình dài để về sống với người chồng
mà cô chưa hề biết mặt. Về sau họ mới biết rằng mình là những người may mắn
thoát chết. Chỉ một vài tuần lễ sau đó, người Thổ nhỉ kỳ tấn công vùng đất ấy và
hai cô dâu là những người cuối cùng rời khỏi làng mà còn sống.
Việc chào đón Tiroon đến Los Angeles hẳn phải là một chuyện lạ đời nhất mà
người vợ quá trẻ như cô từng được kinh nghiệm. Sirakan đã không nghĩ rằng cha
mình và hai người phụ nữ kia sẽ đến cho tới ngày hôm đó, ông trở về, từ bãi rác
Thành phố, bắt gặp một cô bé với cái nhìn khiếp sợ đang đứng ở phòng khách. Anh
giật mình nhận ra rằng cô ta hẳn phải là vợ mình, mà anh thì đang đứng đấy từ đầu
đến chân phủ đầy bụi bặm.
“Hãy đứng đấy” anh ta hét lên với cô. “Đứng yên đấy” như thể là cô gái đáng
thương ấy đang sắp chạy đi đâu đấy. Anh ta chạy ù ra sau nhà và nửa giờ sau, tắm
rửa sạch sẽ, đầu chải gọn gàng và cảm thấy như cô ấy có cái gì đó rất gần gũi với
cuộc đời mình, Sirakan, “người yêu Gabrielian bắt đầu nói lời chào mừng chính
thức với người thiếu nữ rất trẻ mà gương mặt lúc bấy giờ đã dịu đi vẻ căng thẳng.
Họ chính là bố mẹ của Rose, là những người rồi đến một ngày kia sẽ chọn một
người chồng cho cô. Song tôi không bao giờ được tiếp xúc trực tiếp với họ để cầu
hôn con gái họ. Trong hoàn cảnh của tôi cũng như trong hoàn cảnh của cô ấy,
chính gia đình là người phải đứng ra lo liệu.
Tôi run làm sao trong buổi tối mà tôi phải mở miệng trình bày vấn đề của mình.
Vào một buổi chiều tháng sáu năm 1932, cả gia đình ngồi quanh bàn ăn ở phòng
khách, những cánh cửa hình vòng cung đều mở để đón gió. “Thưa bố, con biết bây
giờ con đã mười chín tuổi” tôi nói.
Bố tôi chùi hàm râu mép và cắt một miếng thịt bò khác.
“Và” tôi vội tiếp “con sắp tốt nghiệp Trung học. Và con cũng đang giúp cho các
trang trại được sinh lợi thưa bố, bố cũng mười chín tuổi khi bố cưới vợ ạ”
Cả năm cô em gái tôi đều dừng ăn. Mẹ tôi đặt nĩa xuống bàn. Có phải là một cô gái
đặc biệt không? Mẹ hỏi. Vâng ạ. Cô ấy là người Ạc-mê-ni? Vâng ạ. Thế cô ấy có
phải là Cơ đốc nhân không? Ô, thưa mẹ vâng.
“Đó là” tôi mở miệng “Cô..cô ấy chính là Rose Gabrielian
“À a a... “ Mẹ tôi
“Thế...” Bố tôi
“Ố ô ồ... Tất cả các cô em gái tôi kêu lên một lượt và thế là bắt đầu chuẩn bị cho
một tiến trình cầu hôn với những chi tiết xưa cổ hàng thế kỷ thật cầu kỳ. Trước hết,
mặc dầu các gia đình thường xuyên gặp nhau hàng tuần ở tại nhà thờ và đều là
những bạn bè thân quen, vẫn phải sắp xếp một buổi “gặp gỡ” chính thức.
Vấn đề tế nhị này luôn luôn được giao cho một người môi giới mà gia đình đã lựa
chọn một cách cẩn thận. Sau khi đã bàn bạc kĩ lưỡng với nhau, (dĩ nhiên là tôi
không được tham gia). Bố và mẹ đều đồng ý rằng nhân vật thích hợp nhất dành cho
các công tác hết sức tế nhị này là bác Raphael Janoian, chồng của cô Siroon, chị bố
tôi. Tôi nhủ thầm, một điềm tốt, bởi vì trong sáu vị đã kết hôn với sáu người cô của
tôi, bác Janoian là người tôi ưa thích nhất. Bác có một bãi phế liệu lớn, là nơi khi
tôi mười bốn tuổi, được bác cho lục lọi tìm kiếm các bộ phận xe hơi cũ để lắp ráp
chiếc xe máy đầu tiên của tôi. Chính bãi phế liệu ấy đã khiến bác có mối liên hệ
hàng ngày với công ty vận tải phế liệu của nhà họ Gabrielian.
Tôi còn nhớ thế nào mình đã chạy ra đón mừng khi chiếc xe của bác quẹo vào sân
nhà, sau khi bác đã công khai chính thức đến thăm gia đình nhà Sirakan
Gabrielian. Nhưng bác Janoian không tiết lộ công việc được ủy thác một cách
khinh suất như vậy. Bác tiến vào phòng khách với một cung cách hết sức trang
trọng, nhận lấy tách trà đậm, ngọt và thong thả khuấy một cách chậm rãi.
“Thế nào, anh Raphael” bố tôi giục.
“Thế này, Ysác à”. Bác Janoian báo cáo ngày hẹn đã được đồng ý. Nhà họ
Gabrielian sẽ rất vui sướng để nhận chuyến viếng thăm từ phía bên nhà họ
Shakarian vào ngày hai mươi tháng tới.
Cuộc viếng thăm đã được đồng ý! Như vậy, ít nhất họ cũng đã không từ chối lời
thỉnh cầu của tôi, và tất nhiên điều đó hẳn phải hàm ý rằng Rose dầu sao cũng vui
lòng để mà ngắm nghía tôi. Đầu óc tôi tràn ngập những suy nghĩ mông lung.
Cuối cùng thì ngày 20 tháng 7 cũng đã đến. Tôi hoàn tất các công việc của mình
trong trang trại một cách kỷ lục và bắt đầu sửa soạn. Tôi tắm rửa, rồi lại tắm trở lại
một lần nữa. Tôi đánh răng cho đến khi mất hết cả men răng, tôi dùng cả nước súc
miệng Listerine lẫn Lavoris. Tôi kỳ cọ những móng tay đầy cáu bẩn vì công việc
nông trại cho đến khi bàn chải muốn rụng hết các sợi cước.
Tôi nghe tiếng xe bố đang lui ra khỏi gara. Phóng lên lầu một lần chót nữa để chùi
một vết bẩn khỏi đôi giày và thấm nhẹ chất cầm máu vào chỗ chảy máu mà tự tôi
đã cứa phải khi cạo râu lần thứ ba.
“Demos!” Bố tôi gầm lên từ lối đi dưới sân “con đang làm cái gì nữa đấy, bộ muốn
đẹp hơn cả cô Rose nữa à?”
Bị nêm chặt giữa các cô em gái trong dãy sau, tôi thấy như mười bảy dặm giữa
Downey và Los Angeles chưa bao giờ lại dài đến thế. Cuối cùng chúng tôi đã dừng
lại ở số 4311 đường Union Pacific. Đoàn chúng tôi tiến vào lối đi trãi sỏi, băng
ngang những luống cỏ được chăm sóc sạch sẽ trồng các loại rau húng quế, rau mùi
tây và những loại rau thơm dược thảo. Cánh cửa trước mở tung và tất cả đều đã
đứng ở đấy: Ông Sirakan và bà Tiroon, người anh lớn của Rose, Edward, các cậu,
các bà dì, bà cô và các anh em họ hàng không thể đếm hết, và sau cùng là Rose,
trong chiếc áo mùa hè mang màu tên nàng, màu hồng.
Tôi không dán mắt vào nàng lâu được, vì ngay lập tức, cuộc tụ họp bị tách ra hai
nhóm riêng biệt, theo kiểu của người Ạc-mê-ni, các ông một bên căn phòng lớn, và
các bà ở phía bên kia. Thỉnh thoảng tôi liếc qua chỗ Rose đang ngồi với các cô em
tôi và tự hỏi không biết các cô ấy đang bàn tán những gì. Rose cùng tuổi với Lucy
em tôi, tôi nghĩ có bao giờ mình được trò chuyện với Rose một cách tự nhiên và dễ
dàng nhu Lucy không nhỉ.
Tôi cũng chẳng được tham gia vào cuộc nói chuyện quan trọng đang tiếp tục ở
giữa hai chiếc ghế đặc biệt đã được kéo lại gần nhau của bố tôi và ông Sirakan
Gabrielian. Không biết đều gì đã được thông qua giữa họ, nhưng trông cả hai đều
có vẻ hài lòng, lúc tiễn cha tôi ra cửa, ông Gabrielian bảo “tôi sẽ chuyển lại những
điều ông nói cho Rose”
Và hai ngày sau, bác Janoian đã chuyển lại câu trả lời thật quan trọng.
Rose đã bằng lòng lấy tôi.
Giờ đến năm đêm truyền thống tổ chức ăn mừng ở tại nhà gái vì câu trả lời đồng ý.
Đó là những buổi tối tràn ngập niềm vui với việc ca hát, ăn uống, đọc diễn văn,
những lời chúc mừng nhau, bởi vì giữa vòng người Ạc-mê-ni, đó không chỉ là việc
hai người lấy nhau mà là hai gia đình kết hôn với nhau.
Có một buổi tối, Rose biểu diễn Pianô cho chúng tôi nghe, trong lòng tôi trào lên
một niềm kiêu hãnh khi chú ý các ngón tay mềm mại của nàng lướt trên phím đàn.
Tôi cũng từng học các bài Vi-ô-lông, nhưng đã kết thúc việc học do sự đồng ý
chung của giáo sư, của chính tôi, và của mọi người đã từng được nghe tôi kéo.
Florence được hưởng cả chiếc đàn Vi-ô-lông lẫn các bài tập đàn, và cô cũng chơi
đàn trong những buổi hội họp của các gia đình, lên tám tuổi, cánh tay phải mềm
dẻo uốn cong thật đáng yêu quanh cần đàn bóng loáng.
Một tối nọ, đến mục trao vật làm “tin”, tặng vật theo phong tục của chàng trai dành
cho cô gái, tượng trưng cho mối quan hệ mới. Trong trường hợp nầy, đấy là một
chiếc đồng hồ đeo tay hột xoàn. Món quà đã được bố mẹ tôi chọn đi chọn lại, còn
đối với tôi, việc phải băng ngang qua gian phòng để đi đến chỗ các bà các cô đang
ngồi và đeo chiếc đồng hồ vào tay Rose thật là một việc “chết người”. Trong sự im
lặng đột ngột, với mọi cặp mắt đều đổ dồn vào tôi, các ngón tay tôi tự nhiên cứng
đờ như gỗ. Trước nhất tôi không thể nào làm cho chiếc móc tí hon bung ra được,
kế đến tôi không làm sao gài lại được. Tôi nghĩ đến các chiếc máy kéo nặng nề ở
nhà kho mà tôi thường tháo rời các bộ phận máy móc và gắn lại không mất đến lần
thứ hai. Cuối cùng Rose khẽ đưa bàn tay phải lên và khéo léo gài lại hộ tôi.
Và hẳn nhiên cũng có những quyết định do các bậc lớn tuổi đưa ra, như là đám
cưới sẽ được tổ chức tại đâu, khi nào. Mọi người đều đồng ý rằng nhà thờ tại Phố
Gless quá nhỏ để chứa đủ hàng trăm người sẽ được mời, hơn nữa, các bạn hữu
thuộc hội Chánh thống và gia đình họ thà chết còn hơn đặt chân đến đấy. Không
được, đám cưới sẽ được tổ chức ở tại nhà của chú rể, theo kiểu xưa như ở quê nhà,
và bữa tiệc khoản đãi tiếp theo (đương nhiên là tiết mục chính của bất cứ sự kiện
quan trọng nào của người Ạc-mê-ni) sẽ được tổ chức ở trong sân quần vợt đôi rộng
lớn sau nhà.
Để định ngày, gia đình Gabrielian nhất định phải đợi ít nhất là một năm nữa. Họ
giải thích, thời buổi đã đổi thay, từ khi mẹ tôi lập gia đình năm mười lăm tuổi, mẹ
Rose thì lúc mười ba tuổi. Thời nay, một người phụ nữ cần được trưởng thành để
xây dựng một gia đình. Chúng tôi phải đợi cho đến khi Rose được mười sáu tuổi.
Và trong suốt thời gian đó khi các công việc của chúng tôi được gia đình bàn bạc,
những quyết định dành cho tương lai của chúng tôi được lập ra, thì Rose và tôi vẫn
chưa được nói lời đầu tiên với nhau.
Theo truyền thống, thì chỉ sau buổi tiệc đính hôn chính thức, trong đó những người
bà con xa và bạn bè sẽ được mời đến, chúng tôi mới được nói với nhau những lời
đầu tiên, còn đây chỉ là những buổi gặp nhau của gia đình để trao đổi những việc
mở đầu.
Nhưng đến đêm thứ tư của buổi lễ thì tôi không chịu nỗi nữa. Mặc cho truyền
thống, tôi đứng bật dậy
“Thưa bà Gabrielian” Tôi nói trước đám đông người ngồi ở đấy “con được phép
nói đôi lời với Rose không ạ?”
Bà Tiroon Gabrielian nhìn chăm tôi trong khoảnh khắc đáng sợ. Đoạn với một cái
lắc đầu hàm ý rằng lời yêu cầu của thế hệ trẻ đã đến, bà đưa Rose và tôi vào một
căn phòng, và đi ra, để chúng tôi ở lại một mình.
Đó là lần đầu tiên trong đời chúng tôi. Mọi lời văn hoa mà tôi đã nhẩm đi nhẩm lại
nay bỗng biến đâu mất hết. Tôi đã định bao nhiêu lời đẹp nhất về những suy nghĩ
để diễn tả bằng ngôn ngữ Ạc-mê-ni rất điêu luyện của mình, bởi vì ông Sirakan
Gabrielian đã hoảng sợ vì sự điên cuồng của Hollywood mới đây của Thành phố,
sẽ không cho phép nói tiếng Anh ở trong nhà của ông. Tôi định nói với nàng rằng
nàng là cô thiếu nữ đẹp nhất thế gian nầy, và rằng tôi sẽ dành cả cuộc đời của mình
để cố gắng làm cho nàng được hạnh phúc. Nhưng tôi không thể nhớ được một lời
nào cả, tôi ngồi đó, cổ họng bị tắt nghẽn, ngây ra. Cuối cùng thật dễ sợ , tôi cũng
thốt ra được một lời.
“Rose nầy, anh biết Chúa muốn kết hợp chúng ta”
Tôi thật sự sửng sốt, nhìn thấy đôi mắt nâu ấm áp của nàng long lanh nước mắt.
“Demos” nàng thì thầm khẽ nói “suốt đời, em đã cầu nguyện rằng người mà em lấy
làm chồng sẽ nói những lời đó với em trước nhất.
Ba tuần sau đó là buổi lễ đính hôn chính thức, lúc đó cô dâu sẽ nhận chiếc nhẫn.
Chúng tôi cùng đến một cửa hiệu kim hoàn để chọn một chiếc nhẫn đính kim
cương, cùng đi với chúng tôi, dĩ nhiên có cả một lực lượng hùng hậu của gia đình.
Bà bán hàng, tôi hãy còn nhớ, là bà Earhart; chúng tôi đã nói về con gái bà ta, cô
Amelia, người vừa vượt Đại Tây Dương, chỉ một mình mình. Tôi chỉ Rose xem
một chiếc nhẫn kim cương nhỏ nhắn xinh xắn đặt trên một trong những chiếc khay
một cách tiếc rẻ vì mẹ đã chọn một chiếc khác. Không bao giờ có ai trong hai
chúng tôi thắc mắc về quyết định của bà.
Buổi tiệc đính hôn là một bữa ăn tối dành cho ba trăm khách ngồi ăn được tổ chức
tại một cửa hàng tạp hóa của nhà họ Gabrielian. Sau buổi lễ ấy tôi được phép
thường xuyên ghé thăm Rose, tất cả các buổi tối mà tôi không phải làm việc, và
thường mang đến những món bánh Paklava hoặc là Shakar Lokoom phủ kem, có
hình viên kim cương do mẹ tôi làm.
Khi một năm dài đã trôi qua, mẹ tôi, Rose, và các em tôi đi mua sắm càng lúc càng
thường xuyên hơn. Theo truyền thống, gia đình chú rể mua quần áo cho cô dâu, và
việc chọn một chiếc ví đầm hoặc một chiếc nón có thể mất đến sáu bảy lần đi như
vậy. Món đồ mà Rose ưa thích nhất là chiếc váy đầm màu hạt dẻ sẫm hợp với đôi
giày. Trong cộng đồng người Ạc-mê-ni chỉ những phụ nữ đã có gia đình mới mặc
những màu sậm, Rose tin rằng cô sẽ trông già đi năm tuổi khi mặc chiếc váy ấy.
Đám cưới được diễn ra vào ngày 6 tháng 8 năm 1933. Sáng hôm đó toàn thể dòng
họ nhà Shakarian đều đánh xe vào khu vực miền Đông Los Angeles để “đưa cô
dâu về nhà”. Bởi vì tiệc chính trong ngày sẽ được tổ chức vào buổi chiều, nên gia
đình nhà Gabrielian chỉ dọn một bữa ăn trưa gồm năm món, là một bữa ăn nhẹ, qua
loa, theo tiêu chuẩn của người Ạc-mê-ni. Sau đó cả hai gia đình lên đường đến
Downey trong một đoàn xe được trang hoàng bằng hoa gồm hai mươi lăm chiếc xe
hơi.
Ở tại nhà, rào bao quanh sân quần vợt đã biến mất dưới lớp bông hồng. Giờ phút
còn lại trong ngày tôi chỉ nhớ được những sự kiện riêng biệt. Bộ râu thưa của Mục
sư Perumean chuyển động lên xuống khi ông đọc lời diễn văn nói về bổn phận của
người Ạc-mê-ni cổ xưa. Những sợi dây điện có các bóng đèn sáng mắc trên các
cây cọ, những người hầu bàn mặc áo vét trắng vội vã dưới những đĩa thức ăn
khổng lồ đựng món Shishebad và món ăn truyền thống trong đám cưới Pilaf gồm
có chà là và hạnh đào, là món mẹ tôi đã chuẩn bị từ mấy ngày trước.
Tôi còn nhớ rõ có năm trăm vị khách đã đến dự tiệc và dường như mỗi người đều
viết một bài thơ bằng tiếng Ạc-mê-ni mà phải đọc lên để cho mọi người vỗ tay tán
thưởng. Đến mười một giờ khuya, tôi bắt đầu chóng mặt vì quá mệt, và nước mắt
đầy trong mắt Rose vì đôi giày trắng bó chặt chân nàng suốt từ buổi sáng.
Nhưng khi đứng nhận những lời chúc, lời chào tạm biệt của bạn bè và gia đình
dường như bất tận chúng tôi đã quả quyết một điều. Rose và tôi cuối cùng đã được
kết hợp với nhau, một cách hoàn toàn, dứt khoát mãi mãi ý nghĩa đúng nhất của từ
ngữ “kết hôn” của người Ạc-mê-ni.
Giờ Nổ Bom
Theo truyền thống, tức là ý muốn nói chúng tôi làm điều đó mà không hề thắc mắc
gì cả, cô dâu và chú rể sẽ sống một hoặc hai năm đầu với gia đình chú rể. Bóng tối
phủ lên ngôi nhà cất theo kiểu Tây Ban Nha trong suốt thời gian nầy là sức khỏe
của Lucy, em tôi. Năm mười một tuổi em bị thương ở ngực trong một tai nạn xe
buýt khi đi học, đến bây giờ, em ngày càng than rằng khó thở. Khoa giải phẩu
không làm gì được, sự cầu nguyện cũng không thấy kết quả gì, nó không mang lại
sự chữa lành lâu dài. “Lạy Chúa, vì sao vậy?” Tôi cứ hỏi mãi. “Vì sao Ngài chữa
lành khuỷu tay cho Florence mà lại không chữa lành cho chứng đau ngực của
Lucy?”
Rose và tôi sống cùng gia đình khi đứa con trai của chúng tôi, Richard, ra đời vào
tháng mười, 1934. Lập tức chúng tôi xây một gian nhà cho mình ở ngay bên cạnh.
Các năm kế tiếp đang thách thức những người ở tại trại bò sữa. Ngay cả trong thời
kỳ kinh tế suy thoái, công việc vẫn cứ phát triển lớn mạnh hơn cả điều cha tôi từng
mơ ước, khi ông lao nhọc trong đống lông bụi ở xưởng làm yên cương hoặc khi
giục con Jack cùng với toa hàng chở đầy rau quả. Chúng tôi đã có trại bò sữa lớn
nhất Tiểu Bang California và bây giờ bố tôi đang có mơ ước mới, trở thành trại bò
sữa lớn nhất thế giới, có một trại bò sữa với ba ngàn con bò. Điều đó đã trở thành
mục tiêu của chúng tôi.
Bên cạnh ước mơ đó, còn có những ước mơ khác. Chúng tôi sẽ phát triển đoàn xe
chuyên chở sữa. Hiện nay đã có ba trăm chiếc xe tải rồi. Với năm trăm chiếc chúng
tôi có thể phân phối cho cả Tiểu bang. Chúng tôi cũng có thể sử dụng đoàn xe để
chuyên chở cỏ dự trữ cho gia súc. Chở heo và thịt bò của mình đến các nhà máy
chế biến thịt. Những tham vọng dễ say cứ cuốn mãi càng lên cao hơn. Vì sao ư? Ở
tạo Hoa kỳ không hề có giới hạn đối với những gì mà một người Ạc-mê-ni cần cù,
thông minh có thể dành được.
Hơn thế nữa, họ chắc sẽ dành được. Tôi xem đề án đặc biệt của mình là tòa nhà
“tin cậy số ba" tức là cơ sở bò sữa thứ ba của chúng tôi, đưa sức chứa lên đến ba
ngàn con. Chúng tôi đã mua một khu đất rộng bốn mươi mẫu Anh và tôi bắt đầu
xây dựng các bãi quây cho súc vật, các tháp Xrilô chứa thực phẩm cho gia súc và
một nhà lớn và một nơi chế biến bơ và phô ma hiện đại để sữa được dẫn từ bò
thẳng vô chai mà không phải nhúng tay vào.
Cứ thỉnh thoảng tôi lại tự hỏi, ngắn ngủi thôi, nếu như Đức Chúa Trời đã có
chương trình nầy cho đời sống tôi, thì hẳn tôi đã cảm nhận được điều đó rất rõ từ
khi còn là một cậu bé. Nhưng vấn đề ở đây là Đức Chúa Trời không còn ở đúng
vào vị trí trung tâm của đời sống tôi nữa. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn lái xe đến Phố
Gless mỗi Chúa nhật, bé Richard vẫn nghịch ở băng ghế sau. Nhưng khi chân
thành với chính lòng mình tôi biết rằng công việc chính là trọng tâm thật sự của
các suy nghĩ và sức lực của mình. Đối với tôi bắt đầu làm việc từ lúc mười một giờ
đêm không có gì là bất thường cả.
Vào năm 1936, tôi lao vào một sự nghiệp mới, một nhà máy làm phân bón, và kể
từ đó, tôi thường ngồi ở bàn làm việc suốt đêm.
Ngay cả khi tôi cầu nguyện, thì những lời cầu nguyện thường là có liên quan đến
giá cỏ linh lưu (cho gia súc ăn), hoặc là lợi nhuận về nhiên liệu mà đoàn xe tải
chúng tôi thu được. Ví dụ như, có những quyết định hoàn toàn quan trọng mà mỗi
nhà chăn nuôi bò sữa đối diện, đó là việc chọn đúng giống để phối. Một con bò đực
hảo hạng có thể đắt tới mười lăm ngàn mỹ kim trong những năm cuối của thập kỷ
ba mươi... Mặc dầu với một giá chi trả như vậy, được bảo đảm bằng một nòi mang
huân chương băng xanh, tức là nòi hảo hạng, việc mua một con bò đực giống vẫn
là một sự may rủi vì không biết con vật có truyền được những đặc tính thượng
hạng của nó cho dòng dõi nó hay không, một con bò đực có khả năng thực hiện
đúng theo ý muốn trên xác suất chỉ là một phần nghìn.
Vì vậy mà tôi đã cầu nguyện, giữa những tiếng ồn ào và đám bụi mù mịt mà khu
đất rào để đấu giá bò. Lạy Chúa, Ngài đã tạo dựng các con vật ấy, Ngài nhìn thấy
từng tế bào, từng thớ thịt, xin Ngài hãy chỉ cho con biết phải mua con nào. Nhiều
lần tôi đã chọn con bê con nhỏ bé gầy guộc nhất trong bãi rào nhốt gia súc và đã
chứng kiến nó lớn lên, trở thành một trong những con bò giống vô địch.
Và luôn luôn, tôi đưa niềm tin "ngũ tuần" của mình vào các trang trại nuôi bò.
Nhiều đêm tôi đặt hai bàn tay của mình lên một con bê bị sốt, hoặc một con bò
sinh nở khó khăn và để ý người thầy thuốc thú y trố mắt kinh ngạc khi lời cầu
nguyện làm được điều anh ta không thể làm.
Phải, tôi vẫn tin cậy hoàn toàn. Chữ tin cậy đặt cho công ty của chúng tôi có nghĩa
là sự tin cậy nơi Đức Chúa Trời, và chúng tôi đã thật sự tin cậy Ngài, mỗi một
ngày. Nhưng hình như lúc nào cũng dành thời gian để nhận vào mà rất ít khi ban
phát ra.
Đó là lý do vì sao tôi bị bối rối bởi lời tiên tri được phán ra cho Rose và tôi.
Milton Hansen là một thợ sơn nhà, vào một thời gian khi không có ai biết sơn nhà
mình. Một người người Nauy cao, gầy, tóc vàng hoe, anh ta có nhiều nỗi đau buồn,
thế mà anh lại là người vui vẻ nhất mà tôi từng được biết. Khi nào anh ta viếng
thăm là chúng tôi luôn nhận ra, bởi vì chúng tôi có thể nghe được tiếng hát của anh
ấy mãi tận dưới đường khi anh đang hát ầm ĩ một bài Thánh ca ở độ lớn nhất của
hai lá phổi.
Một buổi tối nọ khi Rose, Milton và tôi đang ngồi ở phòng khách nhỏ tại nhà, thì
Milton bất chợt đưa hai cánh tay dài của anh lên và bắt đầu run rẩy. Milton có một
truyền thống riêng biệt giữa vòng những người theo Ngũ Tuần đó là khi Đức
Thánh Linh ngự trên anh thì anh nhắm mắt lại, đưa tay lên và nói bằng một giọng
thật to và hùng hồn rằng Rose và tôi là “những chiếc bình được chọn”, anh nói như
sấm rền rằng. Chúng tôi “sẽ được chỉ dẫn từng bước một”
“Hãy ghi nhớ lấy những điều thuộc về Đức Chúa Trời” Milton tuyên bố “anh sẽ
bước qua cổng thành và không ai đóng cửa lại nghịch cùng anh. Anh sẽ nói những
việc thánh với những người lãnh đạo các quốc gia trên khắp thế giới”. Tôi nhìn qua
Rose và thấy nàng cũng sửng sốt như tôi. Những nhân vật quan trọng ư? Chưa bao
giờ Rose hoặc tôi cùng đi ra khỏi California. Rồi với đứa con nhỏ ba tuổi và một
bé khác đang mang trong bụng, những hy vọng và mơ ước của chúng tôi nên anh
bảo, giọng bây giờ đã trở lại bình thường “đừng có đổ lỗi cho tôi, các bạn à, tôi chỉ
lập lại những gì Chúa phán. Tôi cũng không hiểu điều đó nữa cơ mà”.
Tôi chắc chắn mình hẳn đã quên mất lời tiên tri của Milton lập tức nếu như không
có một kinh nghiệm thật đáng ngạc nhiên xảy ra lần thứ hai. Nhiều ngày sau, tình
cờ, tôi ghé vào một buổi nhóm giữa tuần ở một hội thánh nọ trong thành phố là nơi
trước đây tôi chưa hề đến nhóm. Vào cuối bài giảng, có lời kêu gọi. Có lẽ vì biết
đời sống thuộc linh của mình chưa được như đáng phải có, nên tôi bước lên trước
và quỳ gối chỗ trước bệ giảng. Vị Mục sư tiến xuống hàng người đang quỳ gối và
đặt tay lên từng người một. Khi đến chỗ tôi, ông nói bằng một giọng vang rền khắp
cả nhà thờ.
“Hỡi con trai ta, con là chiếc bình được chọn cho một công việc rõ ràng. Ta đang
chỉ dẫn con. Con sẽ thăm viếng những viên chức cao cấp trong giới cầm quyền ở
nhiều nơi trên thế giới trong danh của Chúa. Khi con đến một thành phố, các cổng
sẽ được mở ra và không ai có thể đóng lại được”
Tôi đứng lên, hơi loạng choạng. Thật là một sự trùng hợp khó tin. Vị Mục sư nầy
không thể nào biết tôi hoặc Milton Hansen. Có phải chính Đức Chúa Trờithật sự
đang ban cho tôi một sứ điệp chăng? Nếu vậy thì sứ điệp đó là một điều không thể
hiểu được “hãy ghi nhớ những điều của Đức Chúa Trời”, Milton đã nói vậy. Tôi
biết điều đó có cơ sở thần học và tôi cũng biết rằng tâm trí của tôi, cố gắng hết sức
thì chỉ càng thích hợp để được gắn chặt vào các công việc của gia đình Shakarian
mà thôi.
Năm tiếp theo đó, hai sự kiện quan trọng xảy đến cho gia đình. Trước hết là sự ra
đời của Geraldine con gái của chúng tôi, vào tháng 10 năm 1938, và hai mùa Xuân
tiếp theo đó là cái chết của Lucy, em gái tôi ở tuổi hai mươi hai. Lucy cùng tuổi
với Rose, và là người đẹp nhất trong tất cả các cô em gái của tôi, một cô gái nhạy
cảm và thông minh, giấc mơ của em không bình thường giữa vòng những thiếu nữ
Ạc-mê-ni lúc bấy giờ, đó là trở thành một cô giáo. Trường Cao đẳng, là nơi em
đang theo học, đã đóng cửa trong ngày đưa tang Lucy, một sự trân trọng chưa từng
có. Và lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi thấy mình đang tự hỏi những câu quan
trọng. Chúng ta ở đây để làm gì? Ý nghĩa của đời sống là gì?
Tôi nhìn một lượt quanh các bạn bè và những người thân trong gia đình đang tụ
họp tại ngôi nhà thờ ở phố Gless để dự bữa ăn theo thông lệ trong đám tang và tự
hỏi về những điều ấy. Sự qua đời, giữa vòng những người Ạc-mê-ni là một sự kiện
để hết thảy bà con hội hiệp lại, từ những người có quan hệ gần với gia đình cho
đến các anh em thông gia với các anh chị con cô, con dì thật xa lắc. Sau khi chôn,
theo truyền thống, là một buổi ăn tối chính thức dành cho hết thảy mọi người. Ở tại
Ạc-mê-ni, nơi những người bà con phải mất cả trăm dặm vượt qua những con
đường mòn hiểm trở ở trong núi để trở về nhà, thì bữa ăn thật là một điều cần thiết.
Còn tại đây, ở California bữa ăn sau tang lễ trở thành một buổi lễ ban phước của
toàn thể gia đình.
Tôi ngồi cạnh bên bố ở đầu bàn ăn dài được đặt trong thánh đường và nhìn xuống
chỗ mẹ tôi đang ngồi ở đầu bàn kia. Bên cạnh bà là Rose, bé Gerry ở trên lòng
nàng và Richard, bốn tuổi, cạnh bên. Cậu Magardich Mushegan đã qua đời từ vài
năm trước, song ngồi bên cạnh Richard là con trai cậu Magardich: Aram cùng với
con trai mình là Harry. Cũng có cả sáu chị em gái của bố cùng chồng họ, rồi đến
bốn em gái còn lại của tôi: Ruth, Grace, Roxanne cùng với những người chồng và
gia đình mỗi người. Ngay cả Florence, tôi giật mình thấy nó đã là một thiếu nữ
trưởng thành, theo tiêu chuẩn của người Ạc-mê-ni, ở tuổi mười lăm. Và ở tại các
bàn ăn khác quanh phòng, các cháu họ, các anh em họ, bậc cha mẹ chồng, cha mẹ
vợ, không kể hết được.
Mọi người trong chúng tôi đều phát đạt. Tất cả đều là những con người mạnh mẽ,
tự hào, những người đàn ông to khỏe, được ăn uống đầy đủ, những người phụ nữ
mặc các loại hàng lụa đen sột soạt. Tôi nghĩ đến những lời tiên tri đã đưa mỗi một
người trong gian phòng nầy đến vùng đất trù phú. “Ta sẽ ban phước cho các ngươi
và khiến cho các ngươi sẽ thịnh vượng”, Đức Chúa Trời đã hứa như vậy ở tại Kara
kala, và bây giờ nhìn quanh tôi có thể thấy Ngài đã làm thành điều đó.
Nhưng còn một phần nữa trong lời tiên tri: “Ta sẽ khiến cho dòng dõi các ngươi trở
thành một nguồn phước cho các dân”. Chúng tôi cũng đang làm phần tiên tri đó
chăng? Chúng tôi có mang hạnh phước đến cho ai không? Theo một phương diện
nào đó thì hẳn nhiên là có. Hết thảy những người này đều là những người láng
giềng tốt, những người lao động giỏi, những người chủ nhân hậu. Nhưng chỉ thế
thôi sao?
“Không thể nào như vậy là đủ”. tôi nói với Rose khi lái xe về nhà ở tại Downey.
“Anh biết Đức Chúa Trời đang đòi hỏi chúng ta phải làm một điều gì đó cho người
khác. Anh chỉ chưa biết đó là điều gì”
Thế rồi qua một vài tháng sau, tôi bắt đầu thật sự lưu tâm đến những người làm
việc với mình hàng ngày. Một số rất đông trong họ, không phải chỉ những tay chăn
bò của chúng tôi, mà cả những người buôn bán ngũ cốc, những tài xế xe tải những
người cung cấp chai...
Những người này chưa hề được nghe về Đức Chúa Trời
Thật đã có một thời gian trước khi tâm trí tôi ghi nhận điều ấy. Đức Chúa Trời vẫn
thực hữu đối với tôi như thể là Rose và các con của tôi. Ngài dự phần trong mọi
giây phút của mỗi một ngày. Và dĩ nhiên là tôi cũng biết, một cách chung chung
thôi, rằng, có nhiều người chưa biết Ngài. Đó là quỹ quyên góp cho công tác
truyền giáo đã cố gắng thực hiện, tức là đến với những hòn đảo ở nơi nào đó thuộc
Thái Bình dương.
Nhưng ngay đây, tại Los Angeles, nơi có các nhà thờ nằm ở mỗi góc đường, thì đã
có biết bao người đã trưởng thành mà chưa hề tin Chúa, đó là điều thậm chí chưa
bao giờ nẩy sinh trong tôi. Và bây giờ điều ấy đã đến, tôi phải làm gì đây?
Một buổi tối nọ trong khi đang cầu nguyện cho vấn đề đó thì một cảnh tượng thật
khủng khiếp bất chợt xuất hiện trong tâm trí tôi. Khung cảnh ấy là công viên
Lincoln, một khu vực lộ thiên rộng lớn trồng nhiều cỏ và cây cách Downey mười
dặm, là nơi chúng tôi thường đến cắm trại. Vào một buổi chiều chủ nhật mùa hè có
thể có đến bốn ngàn người ngồi quây quần ở đó, trên các tấm trải. Nhưng trong
khung cảnh đột ngột xuất hiện trong tâm trí tôi, thì không biết bằng cách nào đó,
tôi thấy mình đã leo lên diễn đàn đặt ở giữa vòng tất cả những người ấy và đang
nói về Chúa Jesus cho họ.
Sáng hôm sau, đáng lẽ giấc mơ phải biến mất sau giấc ngủ ngon, thì ý nghĩ buồn
cười ấy vẫn còn đó. Khi thắt cà vạt tôi kể lại cho Rose nghe.
“Em à, anh cứ nghĩ mãi về cảnh tượng lạ lùng nơi anh đứng trên diễn đàn và nói
chuyện với một đám đông dân chúng...”
“...Ở tại công viên Lincoln!” Nàng tiếp lời thay tôi.
Tôi quay người khỏi chiếc gương, ngón tay cái vẫn còn đang mắc trong chiếc cà
vạt.
“Em cũng đang nghĩ đến cùng một sự kiện ấy!” Nàng nói, “em không thể nào xua
đuổi điều ấy ra khỏi tâm trí được. Thấy nó kỳ cục quá nên em không muốn kể cho
anh nghe”.
Chúng tôi chớp mắt nhìn nhau trong căn phòng ngủ chan hòa ánh nắng, hơi thắc
mắc vì có khi nào chúng tôi lại từng trải hiện tượng như vầy. Lúc ấy, điều đó
dường như chỉ là một sự trùng hợp kỳ quặc, và là một điều chẳng có ý nghĩa gì.
“Rose nầy, em biết rõ anh cơ mà. Nếu anh phải nói với trên hai người một lúc là
anh đã bị tắt nghẹn vì bối rối đến nỗi thậm chí không nhớ nỗi chính tên của mình
nữa”. Tôi là một nông gia chuyên việc nuôi bò sữa, suy nghĩ chậm chạp, nói năng
lại càng chậm chạp hơn. Tôi biết tôi không thể nào nói ra thành lời lưu loát rằng
Chúa Jesus có ý nghĩa thế nào đối với tôi.
Chính Rose là người không thể nào chấp nhận điều đó. “Anh nên nhớ, chúng mình
đã cầu hỏi Chúa chúng ta phải làm chi. Nếu như đấy là câu trả lời của Ngài thì sao?
Ngoài ra, làm thể nào mà cả hai chúng mình lại có cùng một ý tưởng lạ lùng như
vậy vào cùng một thời điểm?”
Được thôi, tôi kiểm tra lại với cơ quan có trách nhiệm của Thành phố và thấy mình
thật nhẹ nhỏm khi được biết công viên Lincoln được dành cho việc giải trí công
cộng dầu với mục đích gì tư nhân cũng không được sử dụng.
Nhưng Rose, sau khi tự mình xem xét khắp nơi đã khám phá ra một khu đất trống
ở bên kia đường mà cả công viên hoàn toàn có thể trông thấy được. Khu đất này là
của một người có một trại nuôi đà điểu, lập nên để hy vọng thu hút các khách hàng
trong công viên. Nhưng công việc ấy đã không mấy phát đạt và ông rất mừng để
cho thuê khu đất bỏ không ở bên cạnh trang trại vào các chiều Chủ nhật.
Và vì vậy, thật bất ngờ, khó mà hiểu được điều ấy đã xảy ra như thế nào, tôi thấy
chính mình đã cam kết để thật sự làm cái công việc điên rồ ấy. Thoạt đầu thì có
quá nhiều chi tiết thiết thực để mà chú tâm, đến nỗi tôi không có thì giờ để mà sợ.
Phải được giấy phép của cảnh sát, dựng một cái bục cho diễn giả, phải thuê các
trang bị phóng thanh. Rose nghĩ rằng nàng có thể đưa ra một số bé gái ở hội thánh
đến hát.
Để chuẩn bị cho các buổi nói chuyện, tôi tự an ủi mình rằng trong đời tôi đã từng
nghe rất nhiều bài giảng, nên chắc chắn sự trôi chảy chút đỉnh cũng sẽ khiến người
ta nhận được gì đó sau khi nghe, và rồi phần âm nhạc cũng phần lớn lấp đầy thời
gian.
Nhưng rồi Chúa nhật đầu tiên cũng sắp đến, khi tôi bàng hoàng thức giấc vào nữa
khuya, ướt đẫm mồ hôi. Giấc mơ luôn luôn y hệt nhau: Tôi đang đứng trên chiếc
bục cao một cách thật lố lăng, la lớn và vung vẫy hai cánh tay, mà khán giả là một
người nào đó mà tôi làm việc với họ trong ngày hôm ấy, đang đứng xem với vẻ
mặt kinh hãi.
Giả sử điều đó thật sự xảy ra thì sao? Nếu như có một khách hàng hoặc một người
bán hàng nào đó ở trong công viên, họ sẽ nghĩ gì? Tôi ở đấy, một doanh nhân trẻ
tuổi thành công, đang bắt đầu được mời vào các tổ chức của công dân tốt, bắt đầu
nổi tiếng là con người có sức phán đoán sáng suốt. Thế mà bây giờ họ nhìn thấy tôi
đứng ở đấy. Điều gì sẽ xảy ra nếu có một lời đồn đại rằng tôi là một loại người
cuồng tín nào đó? Điều đó không những sẽ tổn hại đến thanh danh của tôi mà còn
có thể làm hỏng cả tất cả những gì bố tôi đã khó nhọc từ bấy lâu nay để gây dựng
được.
Thế rồi ngày Chúa nhật đầu tiên vào tháng sáu năm 1940, là ngày mà chúng tôi đã
sắp xếp để bắt đầu. Sau buổi nhóm thờ phượng sáng Chúa nhật tại hội thánh chúng
tôi lái xe đến khu đất bên cạnh trại nuôi đà điểu và sắp đặt hệ thống nói chuyện
công cộng. Đó là một ngày trời ấm áp, không mây, và bên kia đường, công viên
Lincoln đầy nghẹt người. Sao trời không mưa nhỉ? Tôi cứ suy nghĩ trong khi Rose
say sưa khen trời đẹp. Bấy giờ nàng đang hướng dẫn ba em gái từ hội thánh đến và
các em đang hát bài Thánh ca quen thuộc “bạn thân tôi ấy Jesus”. Bài hát đã kết
thúc. Tôi leo lên ba nấc thang tự làm lấy để tiến lên bục, tay nắm chặt máy vi âm
và hắng giọng. Thật khủng khiếp, tiếng ồn nổi lên át cả loa phóng thanh. Tôi lùi lại
một bước.
“Thưa các bạn...” Tôi bắt đầu. Một lần nữa tiếng ồn ào lại bùng lên quanh tôi. Tôi
bị vấp trong một vài câu, và chỉ nhận biết tiếng vang thật ngớ ngẩn và máy móc
của chính giọng nói của mình, rồi sau đó đành phải ra hiệu cho các em gái lên hát
một lần nữa.
Lác đác đây đó người ta thu nhặt các tấm trải và tôi biết chắc rằng chúng tôi đang
đuổi họ ra khỏi công viên. Nhưng thật sửng sốt đối với tôi, hầu hết họ đang tiến
đến gần hơn. Thấy được số cử tọa hiện tại, niềm khích lệ trong tôi bùng lên. Tôi
tiến về phía máy vi âm, chọn một người đáng thương mặc một chiếc áo thun cao cổ
màu vàng, tôi dán mắt vào anh ta và trực chỉ bài giảng của mình vào anh.
Thế rồi tôi nghe thấy. Giọng nói của một phụ nữ trong trẻo và vang rõ:
“Anh à, có phải đó là Demos Shakarian không?
Đôi mắt tôi dò tìm trong đám đông. Cô ta kia rồi, cô ta đang chỉ tay vào tôi, ôm
trước ngực một giỏ thức ăn cắm trại trong khi ngồi cạnh cô, là người đàn ông cố
nheo mắt nhìn, ông ta là người bán cho chúng tôi các vật liệu làm rào được điện
khí hóa.
“Không thể nào là Shakarian được” ông nói giữa sự im lặng đột ngột. Ông cho tay
vào túi sờ soạng và lôi ra cặp kính.
“Chèn ơi, đúng là Shakarian”
Cổ áo tôi đang cứa vào khí quản. Chiếc máy vi âm ẩm ướt và muốn tuột khỏi tay
tôi. Tôi nghe một tiếng nấc và tự hỏi có phải mình đang khóc không, tôi nhìn
xuống. Gần bên bục giảng, một người đàn ông trong chiếc áo sơ mi màu vàng đang
đứng đó, nước mắt chảy dài trên má ông.
“Ô, bạn nói đúng, người anh em à, bạn nói đúng” ông ta nức nở “ Đức Chúa Trời
tốt lành đối với tôi”
Tôi nhìn chăm ông ta, lặng người đi. May thay, Rose đã định thần và mời ông ta
bước lên bục, ông ta cầm lấy chiếc máy vi âm ướt nhẹp từ tay tôi và dốc đổ một
câu chuyện dài về sự thành công về phương diện của cải vật chất và sự thất bại
trong đời sống riêng. Một đám người đang băng qua đường để tụ tập quanh bục
giảng.
Trong vòng ba tháng, suốt từ tháng sáu, bảy đến tháng tám, năm 1940, chúng tôi
cứ giữ theo lệ thường đó vào mỗi Chúa nhật, đến công viên lúc hai giờ, rồi ở đó
cho đến năm hoặc sáu giờ. Chẳng bao lâu một kiểu mẫu được triển khai. Thông
thường có một ít người cật vấn, vặn vẹo, song cũng có một ít người ủng hộ làm
cho những kẻ cật vấn phải nín lặng, và có một người lớn tuổi thường xuyên phân
phát thức uống. Con số những người tiến lên bục giảng không đông lắm. Bốn
người, mười người, mười hai người và trong khi chúng tôi vẫn luôn có cơ hội tiếp
xúc với họ, thì hầu hết thì giờ là không có cách nào để biết đời sống họ có giữ theo
những sự thay đổi thật sự hay không.
Song nếu những kết quả bên ngoài của các buổi chiều Chúa nhật ấy khó đo lường
được, thì những kết quả ở bên trong, tức là trong tôi, lại rất rõ ràng. Tôi đã bước
vào các buổi nhóm này với nỗi lo lắng cho nhân phẩm của mình, và từ những điều
đó tôi đã hiểu rõ rằng mình không là gì cả. Câu trả lời của Đức Chúa Trời đối với
những sự sợ hãi của tôi rằng có ai đó, là những người mình quen biết sẽ trông thấy
mình, Ngài đã khiến cho từng người một, được đưa đến công viên, từ Chúa nhật
này sang Chúa nhật khác, đúng mỗi một con người đã từng tiếp xúc với tôi trong
việc doanh thương.
Dường như Ngài đang phán như thế. Vì sợ hãi con người, con đã xử sự một cách
ngốc nghếch trước mắt người ta. Nhưng chỉ có một Đấng con phải quan tâm để
làm đẹp lòng mà thôi.
Về sau, tôi tình cờ gặp một người tại buổi nhóm của hội Sư tử (Lions Club) hoặc
của tổ chức Kiwanis, tại đây, thường có một bầu không khí im lặng khó chịu, thỉnh
thoảng có những tiếng cười nhạo rộ lên, dầu không còn nhiều nữa. Không có điều
thất bại nào mà tôi thoáng hình dung đã xảy ra. Gần cuối mùa hè năm ấy tôi học
được một bài học không bao giờ quên, đó là “điều người ta nghĩ” chủ yếu chỉ là
một ông ba bị, do thái độ coi chính mình là trung tâm mà thôi.
Tuy nhiên, trong mùa hè năm đó, lại có một đề kháng khác nữa, từ một hướng mà
Rose và tôi ít ra cũng đã chờ đợi: Hội thánh ở phố Gless. Thoạt đầu, các vị Trưởng
lão dường như coi các buổi chiều Chủ nhật “giải trí ấy” chỉ như một trò điên cuồng
của bọn trẻ trong mùa hè, nhưng khi các buổi nhóm vẫn cứ tiếp tục từ tuần này
sang tuần khác, thì những người lớn tuổi bắt đầu phản kháng.
Một vị lớn tuổi đã nói các lời kháng nghị suốt một buổi sáng Chúa nhật vào tháng
tám. Ông đã đứng dậy từ hàng ghế đầu để cảnh cáo chúng tôi không được tiếp tục
công việc tại công viên Lincoln.
“Như vậy là không đúng!” Ông tuyên bố. Bộ râu dài màu xám của ông giật giật vì
xúc động. “Điều đó không... không phải của người Acmêni”.
Và tôi chợt hiểu rằng ông ta nói đúng. Tôi hình dung đất nước Acmêni trải qua các
thời đại, (một xứ sở nhỏ bé luôn ở trong tư thế phòng thủ, bám lấy chân lý đơn độc,
qua các cuộc xâm chiếm và tàn sát, luôn bị bao vây bởi các quốc gia vô tín, hùng
mạnh hơn, to lớn hơn), đã tìm thấy sức mạnh của mình từ bên trong.
Bây giờ nếu Rose và tôi đang được bảo phải hướng ra ngoài, thì hẳn chúng tôi đã
làm điều đó chủ yếu là vì chính mình. Lần đầu tiên trong đời, chúng tôi thấy mình
xung đột với thế hệ của cha mẹ mình. Thế giới, khi chúng ta nhìn ra ngoài, trên các
tấm trải ở công viên Lincoln mùa hè năm đó, là một nơi lớn rộng hơn chúng tôi
tưởng nhiều, và là một thế giới thật cô đơn.
Vào những ngày tháng chín, trời dịu mát hơn, các đám đông trong công viên giảm
bớt, chúng tôi thôi tổ chức các buổi nhóm. Dầu sao, công việc trong trại bò sữa vẫn
chiếm thời gian ngày càng nhiều hơn. Khi chúng tôi đã sửa soạn để lao vào việc
buôn bán sữa kiểu mới, tôi tự hỏi, tại sao mình không bắt đầu phục vụ sữa cho
khách hàng đến mua bằng xe trên quốc lộ tại trại bò sữa “Niềm Tin Cậy Số Ba”
thay vì chúng tôi phải giao sản phẩm của mình ngay tận nhà hoặc các cửa hàng,
như vậy họ sẽ được rẻ hơn vài xu một xị.
Để cho công chúng đều biết ý định mới mẻ nầy, chúng tôi tổ chức một buổi lễ
khánh thành long trọng có cả nhạc kèn và trống đệm. Chúng tôi đưa quảng cáo lên
báo chí, loan báo trên đài phát thanh, gởi các tờ bướm giới thiệu bằng đường bưu
điện. Còn ở trại bò sữa thì có các tấm biểu ngữ, âm nhạc, và các diễn viên nổi
tiếng. Công việc kinh doanh bắt đầu rất thành công và cứ tiếp tục trên đà đó. Tôi
liền bắt đầu mơ đến một dây chuyền các đại lý như vậy khắp California. Hẳn là
chúng tôi sẽ giàu có.
Nhưng triển vọng trước hết để gia đình Shakarian có cơ hội liên hệ với hoạt động
mới của chúng tôi, đó là nhà máy xay.
Tôi không nhận biết rằng tình huống ấy cũng là một thời kỳ nổ bom. Việc bước
vào công việc của nhà máy xay dường như là sự phát triển tự nhiên của việc nuôi
bò sữa. Một con bò sữa ăn hết hai mươi bốn pao ngũ cốc (xấp xỉ 12kg) một ngày,
cộng thêm ba mươi pao cỏ khô (xấp xỉ 15kg). Nhân con số đó lên cho mười ba
ngàn con mà chúng tôi đang ao ước một ngày kia mình sẽ có, bạn sẽ được một con
số không tưởng tượng nổi, là 150 ngàn pao (30.000kg) cỏ khô và ngũ cốc, là khẩu
phần thức ăn của một ngày!
Mọi năm chúng tôi vẫn thường mua thức ăn cho gia súc từ các chủ nhà máy xay ở
địa phương, rồi sau đó tự mình trộn thêm ngũ cốc theo một công thức tự sáng chế
nhằm mang lại một loại sữa phong phú đặt biệt.
Kết quả thành công đến nỗi các nhà nuôi bò sữa bên cạnh đã phải hỏi bố tôi:
“Ysác nầy, anh có thể bán cho chúng tôi một số các thứ pha trộn đặc biệt ấy được
không?”
“Ô được chứ!” Bố trả lời.
Dường như đó là một bước hợp lý kế tiếp cho công việc. Bố tôi sẽ phải mua ngũ
cốc với một số lượng lớn hơn nhiều, vì vậy càng phải giảm bớt chi phí cho các
khâu trong việc nuôi bò sữa của chính mình. Với một khối lượng ngày càng tăng,
chúng tôi có thể tự làm lấy công việc xay xát, cắt giảm bớt các chi phí thêm nữa.
Và chúng tôi có thể có lợi nhuận dầu ít nhưng đều đặn nhờ số ngũ cốc chúng tôi
bán cho các trại bò khác.
Và vì thế, chúng tôi bắt đầu công cuộc bành trướng mới với những kỳ vọng lớn
lao. Chúng tôi mua một công ty liên doanh máy xay ở gần một trong các trang trại
của mình, gồm có ba máy múc ngũ cốc cao hai mươi mét, từng được dùng để cất
giữ cỏ bắp. Chúng tôi dọn sạch, chùi rửa và trét lên các lớp xi măng mới cho chắc.
Tôi đã thấy trước một tương lai tuyệt vời của dự án mới mẻ ấy. Đường Tàu hỏa
Nam Thái Bình Dương đi qua các máy múc nầy. Trước kia, thóc luôn được chuyển
từ các toa kín đến máy múc bởi một hệ thống vận chuyển bằng tay. Trong năm đầu
ở nhà máy xay, tôi đã hoàn thành một hệ thống vận chuyển thóc thẳng vào các máy
múc bằng cách sử dụng các máy hút khổng lồ. Theo phương pháp cũ, người ta phải
tốn mất ba người và suốt cả một ngày để vận chuyển sạch một toa hàng kín nặng
bốn mươi tấn. Còn với hệ thống mới, chúng tôi chỉ cần một người trong vòng hai
tiếng rưỡi cho cùng công việc đó. Chúng tôi đã cắt giảm các khoản chi phí buôn
bán đến tám mươi phần trăm và tạo ra sự khuấy động trong công nghiệp.
Tôi rất thích đến nhà máy xay. Tiếng máy rì rầm, tiếng vù vù của máy hút, tiếng
hàng hóa chuyên chở kêu lách cách, thậm chí cả lớp bụi mịn phủ trên chiếc
Cadillac đen mới toanh và bóng loáng của tôi, tất cả làm tôi say mê. Thế nhưng,
như tôi đã nói, bị ràng buộc vào một công việc kinh doanh trọn thì giờ là một chiếc
bẫy khổng lồ.
Công việc đòi hỏi liên hệ đến tính chất hàng hóa. Mà giá cả hàng hóa thì rất dao
động. Những người đầu cơ yến mạch có thể được hoặc mất cả một số lượng tiền to
lớn chỉ trong vòng một vài giờ. Ở phố Wall có các chuyên gia chuyên nghiên cứu
những cuộc đầu tư như vậy. Còn nông gia, là người có liên hệ thực tế với chính các
đặc điểm tự nhiên của thóc lúa, ngũ cốc, cũng có thể là một nhà đầu cơ tùy theo
người ấy có thích hay không. Công việc vận hành thế này. Ví dụ tôi mua thóc vào
ngày 1 tháng 7 để bán ra vào mùa thu kế tiếp đó. Tôi trả theo giá hiện hành của
tháng 7. Biết rằng đến mùa thu giá hàng hóa có lẽ sẽ thay đổi, nếu như tôi mua ngũ
cốc giá hai mỹ kim cho một trăm pao, và đến mùa thu giá sẽ giảm xuống còn 1,5
mỹ kim thì tôi sẽ lỗ. Song nếu giá cả lên đến 2,5 mỹ kim thì tôi lời. Là một ông chủ
máy xay giỏi phải biết mua thật nhiều để mong đợi giá sẽ cao, và phải giữ tiền bạc
lại đợi khi giá hạ.
Mùa đông năm 1940-1941, tôi biết điều đó về mặt lý thuyết, song tôi đã phải học
hỏi xem trong kinh nghiệm nó sẽ như thế nào.
Một Con Người Đã Thay Đổi
Mùa xuân tiếp theo, khi thời tiết ấm áp đưa người ta trở lại các công viên, Rose và
tôi bắt đầu nói đến các buổi nhóm lại. Rose bảo: “Nhưng mà không chỉ có các buổi
Chúa nhật mà thôi. Khi người ta bắt đầu quan tâm, tại sao chúng ta lại thu xếp, trở
về và suốt cả một tuần lễ không làm gì cả”. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta tổ chức
các buổi nhóm vào mỗi buổi chiều hàng tuần, nếu như chúng tôi có thể dựng một
chiếc lều ở một nơi nào đó để có thể nhóm lại dù mưa hay nắng?
“Ngay trên sở hữu bất động sản của hội thánh”. Cả hai chúng tôi đều nói cùng một
lúc, và cùng cười vì sự trùng hợp lại xảy ra một lần nữa. Số là hiện nay, sau một
thời gian, nhà thờ tại phố Gless đã trở nên quá nhỏ bé vì sự phát triển của cộng
đồng người Ạc-mê-ni, hội thánh vừa rồi đã mua một khu đất trống ở góc Đại lộ
Gooddrich và dinh thự Carolina ở Đông Los Angeles, nơi họ dự định xây nhà thờ.
Vì vậy chúng tôi bắt đầu thử xin phép các vị trưởng lão trong hội thánh. Tất cả
những sự ngờ vực và bối rối của mùa hè năm trước bất ngờ trở lại trên những
gương mặt rám nắng, hằn vết nhăn. Những người xa lạ ấy là ai mà chúng tôi phải
quan tâm quá như vậy? Vì sao hội thánh Ngũ Tuần Acmêni lại phải can dự vào?
Chúng tôi giải thích rằng không phải chỉ mỗi hội thánh của mình. Ý chúng tôi là
hết thảy các hội thánh Ngũ tuần trong khu vực đều phải bảo trợ cho các buổi nhóm
đó. Hội thánh chúng ta có thể cung cấp địa điểm dựng trại, hội thánh khác lo phần
âm nhạc hoặc lo việc tiếp tân. Chúng ta cùng làm việc với nhau.
Nhưng khi nhắc đến chữ “cùng với nhau” thì gương mặt của các Trưởng lão lại
càng cảnh giác hơn. Cùng với nhau ư? Với hội Foursquare, hội Assemblies of God,
và những người thuộc hội Pentecostal Holiness ư? Với những giáo lý đáng ngờ của
họ ư? Vì sao một số trong các tập thể bị gọi là các nhóm Cơ đốc nầy thật sự đã có
những người nam, người nữ ngồi cạnh bên nhau mà theo truyền thống hội thánh
của chúng tôi, thì đó là điều không thể chấp nhận? Và những người đàn ông lớn
tuổi hẳn sẽ không ủng hộ, họ đang nói về những điều mà đối với chúng tôi, chỉ là
thứ yếu. Trong lúc Rose và tôi đành ngồi im lặng, dự án mùa hè của chúng tôi đã
bị bỏ quên.
Bởi vì ngọn gió Ngũ Tuần đã từng thổi đến nước Nga và đến xứ sở Acmêni cách
đây gần một thế kỷ, nay đã bị suy giảm khi đụng đến một giáo phái cứng rắn. Luôn
luôn là như vậy. Qua suốt lịch sử, mỗi một cuộc tuôn đổ của Thánh Linh, chẳng
bao lâu trở thành một giáo phái chính thống mới, trong tay của con người. Ví dụ
cuộc phục hưng lớn ở phố Azusa. Ngay tại đây trong chính thành phố nầy, đã bắt
đầu với sự tự do và vui mừng, phá đổ mọi rào cản. Nay đến những năm trong thập
kỷ 1940 đã cố kết lại trong một số những hội thánh khép kín, gồm những người
thậm chí không thể thông công với nhau, tức là để mỗi người trong một vỏ ốc.
Điều mà cả Rose và tôi đều nhìn thấy là họ đã được ban cho quá nhiều. Mỗi một
nhóm nhỏ đàng sau các bức tường của họ, đều đang kinh nghiệm quyền năng của
Đức Chúa Trời hàng tuần: Ngài cung ứng sự chữa lành, sự chỉ dẫn... Đang khi thế
giới quá cần đến quyền năng ấy trong sự tuyệt vọng và những con người làm việc
với tôi sáu ngày trong một tuần cũng không nhận biết gì về Ngài.
“Các vị sẽ không phải can dự gì cả”, tôi nài nỉ hàng Trưởng lão, “tôi sẽ lo lều trại
và dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ. Xin cho chúng tôi sử dụng miếng đất mà thôi”.
Cuối cùng, tôi có nói gì cũng chẳng lay chuyển được họ, nhưng có bố tôi lên tiếng
cho dự án đó. Cái tên Ysác Shakarian thật có sức mạnh trong hội thánh. Nếu ông
Ysác đã lên tiếng, dầu cho nghe thật mạo hiểm, cũng vẫn được tán thành. Vì vậy
chúng tôi đã được cho phép. Chúng tôi đã học được cách xây dựng một khu lều
trại, đây là việc khác với việc đóng tạm một cái bục cho diễn giả. Thuê một chiếc
lều vải là việc dễ dàng nhất. Còn ở đây, nó phải là “một chỗ đầy đủ tiện nghi công
cộng” và có rất nhiều qui định mà một khu xây dựng lâu bền phải tuân theo. Tôi
phải ra mắt hội đồng khu vực, sở cứu hỏa, ty cảnh sát, sở vệ sinh, ủy ban ánh sáng
và năng lượng. Và cứ mỗi lần lại phải giải thích từ đầu điều tôi đang đề xuất và lý
do của nó.
Chỉ khi nào tôi có các giấy phép đó trong tay thì việc sắm sửa cụ thể cho lều trại
mới có thể bắt đầu. Bấy giờ tất cả các mạng điện đã được kiểm tra, các lối đi và
cửa ra vào tuân theo các tiêu chuẩn riêng, các giỏ đựng rác và các nhà vệ sinh tạm
cũng đã có, xe xịt nước được thuê để giữ cho đỡ bụi. Sau đó là thông báo cho dân
chúng biết bằng cách giới thiệu trên đài phát thanh, đăng quảng cáo trên báo, dán
áp phích ở các cửa hiệu... Tôi cố nhớ lại mọi điều mình đã học hỏi được khi mở đại
lý sữa phục vụ tại xe của chúng tôi.
Tất cả công việc đó đều phải tốn tiền bạc, phải mất thời gian. Cuối cùng, bố tôi
cũng không kiên nhẫn nổi. Suốt mấy tuần, tôi dường như chẳng ở trong văn phòng
làm việc, bố nhắc nhở tôi. Mối quan tâm chiếm chỗ trong đầu óc của cả hai chúng
tôi là nhà máy phân bón, từng là dự án độc lập đầu tiên của tôi, đang mất tiền bạc.
Trong suốt năm năm, tôi đã vật lộn để làm cho nó trở thành một việc làm có lợi,
nếu nó tồn tại, tôi phải bỏ tất cả thì giờ và sức lực tôi cho nó. Tuy nhiên, tôi cũng
không thể không nghĩ tới những buổi nhóm lều trại là công việc cũng hết sức quan
trọng.
Các buổi nhóm chiều bắt đầu trong tháng bảy và vào mỗi tối trong sáu tuần lễ. Tôi
đã rút kinh nghiệm chắc chắn từ mùa hè năm trước rằng mình không phải là một
diễn giả. Tấm lòng tôi tràn ngập sự kỳ diệu và sự thực hữu của Đức Chúa Trời,
song môi miệng tôi không tài nào tìm được lời lẽ. Harry Mushegan, người em họ
của tôi thì lại khác. Cũng như cha cậu và ông nội cậu là Magardich, cậu có một
phong thái oai vệ, giọng nói vang rền, làm cho người ta ngồi thẳng lên và chú ý.
Cậu ta chỉ mới hai mươi tuổi nhưng đã là một tay hùng biện hơn hết mà tôi từng
thấy, và tôi đã mời cậu làm công việc giảng luận.
Người ta đến, rồi ra về, và khi các tuần lễ cứ được tiếp tục, đám đông tăng dần.
Năm giáo phái Ngũ tuần hết sức sôi nổi hiệp tác với nhau để bảo trợ cho các buổi
nhóm dần dần đã bắt đầu bắt lửa. Các Mục sư của họ ngồi trên diễn đàn. Rose ngồi
bên chiếc dương cầm, các ban hát của họ tôn vinh.
Trong những buổi tối khi ban hát không đến, Florence hát cho chúng tôi bằng
giọng nữ cao, trong vút, êm dịu, được huấn luyện chuyên nghiệp của cô ấy.
Florence đã tốt nghiệp Trung học vào tháng sáu, và đang chuẩn bị bước vào trường
Đại học Whittier vào mùa thu. Còn tôi thì làm những việc tôi có thể làm được:
Hướng dẫn các buổi nhóm, gọi điện thoại, sắp xếp việc vận chuyển, giữ sổ sách kế
toán...
Cũng thật ngạc nhiên đối với mọi người trong việc tôi vào sổ những khoản thu chi.
Mỗi tối, Ban trị sự của các Mục sư đếm tiền dâng hiến, khi tôi soát lại với người kế
toán ở nhà máy phân bón, các sổ sách kế toán lúc nào cũng tệ đi.
Chúng tôi dùng tiền dâng để trả cho khoản đăng trên báo, quảng cáo trên đài phát
thanh, tiền thuê lều mà vẫn còn dư lại vì tất cả các khoản chi tôi đều không vô sổ
sách. Bây giờ tôi có một suy nghĩ: Điều gì sẽ xảy ra nếu như số quyên góp còn lại
được đưa vào một tài khoản ngân hàng đặc biệt để năm hội thánh cùng nhau quản
lý?
Vào giữa tháng tám, các buổi nhóm truyền giảng bế mạc, những người tình nguyện
đã đến dọn dẹp lều trại. Hàng trăm người đầu tiên đã được nghe sứ điệp về sự thực
hữu của Thượng đế. Một số người đã trở thành Cơ đốc nhân. Còn công việc kinh
doanh phân bón ở Downey cuối cùng đã phải đóng cửa.
Có một kết quả đáng kể nẩy sinh từ ngân hàng nhỏ bé đó: Nhằm lập quyết định cho
vấn đề này, một vị Trưởng lão của hội thánh Foursquare đã gọi điện cho Mục sư
hội thánh Ngũ tuần của Đức Chúa Trời. Rồi một vị Trưởng lão của hội Assemblies
of God đã dùng bữa trưa với một vị Trưởng lão của hội thánh Ngũ tuần Ạc-mê-ni
và cả hai người đã thật sự bước qua cánh cửa và cùng ngồi lại để thờ phượng với
hội chúng Pentecostal Holiness.
Vào một buổi sáng thứ ba cuối tháng chín, tôi ngồi tại bàn làm việc, cố gắng kéo
lại một số công việc đã bị bê trễ trong việc doanh thương của mình. Tôi không để ý
có tiếng chuông điện thoại reo vang, nhưng vài giây sau, khi nhắc điện thoại lên,
tôi nhận ra ngay người ở đầu dây đang khóc. Chính là Rose.
“Bệnh viện Downey”, nàng nói, “anh đến ngay”.
“Cái gì cơ? Ai?” Tôi hỏi một cách sửng sốt.
“Florence!” Nàng lập lại. “Sáng nay Florence đang trên đường lái xe đến Whittier.
Anh có nhớ sương mù dầy đặc không? Ô, Demos, chắc cô ấy đã không hề trông
thấy chiếc xe tải”.
Chẳng buồn gác máy, tôi phóng ra xe và chạy ngay đến bệnh viện Downey trong
nỗi bàng hoàng. Hầu hết mọi người trong gia đình đã có mặt ở tòa nhà gỗ một tầng
đó. Florence đang trên bàn mổ, bố cho tôi hay, nhưng các bác sĩ không làm được gì
nhiều. Bố không nói thêm được gì nữa. Chồng Ruth, em gái tôi, là người đã cho tôi
biết đầy đủ các chi tiết.
Tai nạn đã xảy ra lúc 7g30 vào một ngày sương mù dầy đặc tràn vào từ bờ biển
Thái bình dương trong các buổi sáng mùa thu. Hình như Florence đã không trông
thấy bảng hiệu dừng, chiếc xe của cô đã đâm vào một xe tải đang sửa chữa đường,
làm tràn đổ cả tấn nhựa đang sôi sục ra mặt đường. Người tài xế xe tải không bị
thương nhưng Florence đã bị hất văng ra khỏi xe vào ngay bãi nhựa đường sôi sục.
Một người khách qua đường đã lôi Florence ra và cuộn cô trong chiếc áo khoát của
anh ta, lúc ấy cả phần lưng của Florence đã bị bỏng trầm trọng.
Chính các vết bỏng đó đang cản trở nhà phẫu thuật trong việc nắn các phần xương
bị gãy. Cuối cùng Florence được chuyển qua khu thường trực để các bác sĩ tăng
cường việc theo dõi, và chúng tôi được phép từng người một đứng ở khung cửa mà
nhìn vào. Bác sĩ Haygood, người đưa chúng tôi vào hành lang, cũng đã bật khóc
mà chẳng ngượng như bất cứ ai trong chúng tôi. Chính vị bác sĩ tài ba này đã giúp
Florence chào đời cách đây mười bảy năm, ông cũng là người chữa trị bệnh sởi, và
bệnh ho gà cho cô trong thời thơ ấu. Bây giờ, tất cả những gì ông có thể làm được
là cứ vỗ nhè nhẹ mãi bàn tay của mẹ tôi và bảo:
“Cô ấy khỏe mạnh và còn trẻ, bà Zahouri à, cô ấy có một ý chí lớn lao để sống”.
Khi đến lượt tôi bước đến khung cửa, tôi thật khó mà tin nổi đó chính là Florence
trên chiếc giường cao của bệnh viện. Florence với bộ mặt thanh thoát và giọng nói
như thiên thần, trẻ tuổi nhất và có ân tứ nhiều nhất trong gia đình, đang hôn mê
trên chiếc giường được trang bị một hệ thống ròng rọc và những trái cân. Mình bôi
đầy thuốc mỡ, đôi mắt nhắm nghiền và những tiếng rên rỉ không dứt thoát ra từ
cuống họng.
“Lạy Chúa”, tôi cầu nguyện, “xin đừng để em con phải đau đớn!”
Tôi đang tưởng tượng ư, hay là tiếng rên đã dừng lại trong một lúc? “Xin Ngài hãy
cất đi sự đau đớn”. Tôi lại cầu nguyện nữa.
Rose và tôi trở về nhà để lo cho Richard và Gerry ăn trưa. Chiều hôm đó khi tôi trở
lại bệnh viện, Florence đang kêu khóc vì đau đớn, mặc dầu dường như em vẫn
không nhận biết bất cứ điều gì khác. Một lần nữa tôi lại đến bên khung cửa và cầu
nguyện và một lần nữa, tiếng rên khóc giảm bớt đi. Suốt buổi chiều hôm đó cho
đến tối, hễ khi nào cơn đau trở nên tồi tệ nhất, thì những lời cầu nguỵện của tôi
dường như đã mang lại sự trợ giúp. Ngay cả các bác sĩ và các y tá cũng nhận thấy
được điều ấy.
“Demos này,” bác sĩ Haygood nói với tôi, “anh có thể vào phòng này bất cứ lúc
nào anh muốn. Ngay cả việc truyền vào tĩnh mạch cũng trở nên khá hơn khi anh ở
đây”
Vì vậy tôi được trang bị bằng một chiếc áo khoác trắng, khẩu trang, mũ giải phẫu,
và một chiếc ghế dành cho tôi được đặt bên cạnh giường. Suốt năm ngày kế tiếp,
tôi luôn túc trực trong căn phòng ấy mọi giây phút có thể được. Khi đã tỉnh lại, cơn
đau càng trở nên nhức nhối hơn. Thuốc ngủ, thuốc tiêm dường như không giúp
được gì. Các y tá cho biết, khoảng thời gian duy nhất Florence ngủ được, là suốt
những lúc tôi ở bên em.
Vì sao vậy, tôi chẳng hiểu. Thường mỗi khi ngồi ở đó, tâm trí tôi quay trở về mười
một năm trước, khi em bị gãy tay, và tôi biết rõ, vào một buổi sáng Chúa nhật, em
đã được chữa lành. Dường như có một sự liên kết lạ lùng nào đó giữa Florence và
tôi.
Tuy nhiên lần nầy sự chữa lành không theo sau những lời cầu nguyện của tôi. Tạm
thời thì em có bớt đau đớn, nhưng Florence vẫn chưa thoát khỏi cơn nguy hiểm.
Bởi vì bây giờ sự nguy hiểm thực sự đã hiện rõ. Quang tuyến X được chụp ngay
sau tai nạn cho thấy hông trái và khung chậu của em bị vỡ nát vì va vào lề đường.
Sau đó các phim chụp mới cho thấy các mảnh xương vỡ đang di chuyển hướng đến
các cơ quan tối quan trọng thuộc vùng bụng. Mỗi ngày đều có một bức phim chụp
mới, và cứ mỗi ngày cùng với các bác sĩ nhìn vào các phim đèn chiếu, tôi lại thấy
các mảnh xương có cạnh bén càng đi sâu hơn vào ổ bụng. Sáu ngày sau khi xảy ra
tai nạn, khi các vết phỏng chưa cho phép tiến hành ca mổ, hội thánh chúng tôi công
bố kiêng ăn một ngày trọn. Bắt đầu vào giữa đêm Chúa nhật, cả hội chúng không
đụng đến bữa ăn hoặc nước uống. Vào lúc 7g tối ngày thứ hai, vẫn còn kiêng ăn,
họ nhóm tại nhà thờ vừa mới hoàn tất nằm trên Đại lộ Gooddrich ở phía Đông Los
Angeles để làm trọn kỳ kiêng ăn kéo dài hai mươi tiếng đồng hồ cho việc chữa
lành của Florence. “Mọi người nhóm nhau tại một chỗ”, theo như sách Công vụ đã
nói (Cong Cv 2:1).
Chỉ một mình tôi không có mặt với họ. Tôi đã có một sứ mệnh đặc biệt buổi tối
hôn đó ở phố Maywood cách Downey năm dặm. Nhiều tháng năm chúng tôi đã
được nghe về một nhân vật tên là Charles Price. Tiến sĩ Price từng là Mục sư của
một hội thánh lớn thuộc giáo phái Congregation trên miệt Lodi California, một
Mục sư cực kỳ thức thời với một hội thánh nổi tiếng ở bãi chơi trượt tuyết. Sau đó
nhà truyền giáo Aimee Semple McPherson đã đến thăm khu vực đó. Tiến sĩ Price
đã đến tại buổi truyền giảng ngoài trời của cô ta. Ông cầm một tập giấy và viết chì
để ghi nhận tất cả những điều gì mà cô McPherson sẽ khoa trương, để ông có thể
cảnh giác với hội chúng của mình về cô ta. Đến giữa buổi nhóm thì cả tập giấy lẫn
bút chì đều bị cất trở vào trong túi ông. Và Mục sư Price quỳ gối, nước mắt tuôn
dài trên má, tay giơ cao khỏi đầu, đang ngợi khen Chúa bằng tiếng lạ.
Kể từ buổi tối hôm đó trở đi, chức vụ của Mục sư Charles Price đã thay đổi triệt
để. Ông gọi sứ điệp mới mẻ của mình là “Tin lành trọn vẹn” có nghĩa là từ nay trở
đi không một phần nào trong sứ điệp Tân ước bị bỏ sót trong sự giảng dạy của ông.
Ông trở nên nổi tiếng đặc biệt vì luôn nhấn mạnh rằng sự chữa lành là những điều
đã được ký thuật trong Kinh Thánh phải dự phần vào kinh nghiệm bình thường của
hội thánh trong mọi thời đại.
Hôm ấy, Mục sư Price đang tổ chức một buổi truyền giảng công bố đạo của Chúa
ở gần Hayhood. Khi tiến gần đến địa điểm, tôi gần như tuyệt vọng. Xe hơi đậu dài
nửa dặm, và cuối cùng, lúc tôi đã tiến gần đến khu lều truyền giảng khổng lồ, mọi
chỗ ngồi đã chật cứng, còn rất đông người đứng bên ngoài, trên bãi cỏ.
Mục sư Price đang đứng giảng trên một chiếc bục treo cờ xí đỏ trắng. Đó là một
người đàn ông trạc tuổi trung tuần, tóc màu hung hung đỏ với cặp kính không gọng
chiếu sáng nổi bật ở bên mọi người. Ông kết thúc bài giảng và mời gọi bất cứ ai
cần được chữa lành tiến lên để cầu nguyện. Hàng trăm người bước ra trên các lối
đi. Tôi nhìn đồng hồ đã chín giờ tối. Tối nay tôi không thể nào tiếp xúc với ông
được. Nhưng nghĩ đến cả hội thánh mình đang quỳ gối ở trước mặt Chúa, tôi nán
lại. Thật chậm chạp, đoàn người dài cứ nhích từng phân một. Mười giờ, mười giờ
rưỡi. Mười một giờ. Ban tiếp tân đang cố gắng kết thúc buổi truyền giảng. “Mục sư
Price sẽ lại có mặt tại đây vào tối mai, kính thưa quý vị, Mục sư Price rất vui mừng
được cầu nguyện với các bạn vào tối mai.”
Mục sư Price đang thu dọn Kinh Thánh và chai dầu ông dùng xức cho người bệnh.
“Thưa Mục sư” tôi gọi lớn.
Ông quay lại và hơi nheo mắt qua ánh đèn chói.
Tôi tránh qua một tiếp tân viên. “Thưa Mục sư Price, tôi là Demos Shakarian, em
gái tôi bị tai nạn ô tô, và các bác sĩ ở tại Downey đều bảo em không thể sống,
chúng tôi tự hỏi không biết ông có đến được không?” Tôi nói một hơi không kịp
thở.
Mục sư Price nhắm mắt lại và tôi nhìn thấy sự mỏi mệt trên gương mặt ông. Ông
vẫn đứng yên đấy trong một giây, rồi chợt ông mở mắt ra và nói:
“Tôi sẽ đi”.
Tôi vội vàng đi trước ông, băng qua giữa đoàn người đang giải tán thật chậm chạp,
nôn nóng, khổ sở mỗi khi có người chận ông lại. Mục sư Price nhận thấy sự bồn
chồn của tôi, ông nói:
“Đừng lo lắng, con trai à, tối nay em gái con sẽ được chữa lành”.
Tôi nhìn chăm ông. Làm thế nào ông có thể tuyên bố dễ dàng như vậy? Tôi tự nhắc
nhở mình, hẳn nhiên là ông chưa nhìn thấy các bức chụp phim, vì vậy ông ta không
thể biết gì về tình trạng hiểm nghèo của em tôi. Chắc hẳn sự ngờ vực đã hiện lên
trên nét mặt tôi, bởi vì khi tôi mở máy cho xe chạy, ông bảo, “nầy anh bạn trẻ, hãy
để cho tôi nói cho anh biết vì sao tôi quả quyết rằng em anh sẽ được chữa lành”.
Nhiều năm trước, vào khoảng cuối năm 1924, một thời gian ngắn sau sự từng trải
của ông trong buổi nhóm của cô McPherson, khi lái xe xuyên qua Canada để đến
phố nhỏ Paris tại Ontario, xe đang chạy băng qua một ngôi làng, ông cảm thấy có
một sự thúc giục muốn rẽ trái. Bằng cách ấy, Mục sư Price được chỉ dẫn để đi
xuyên qua phố cho đến khi ông đến bên cửa nhà thờ Giám lý. Tại đó dường như
ông được lệnh dừng lại.
Không hề nghĩ ngợi vì sao mình lại đến đấy, Mục sư Charles Price kéo chiếc
chuông cửa của tư thất Mục sư ngay bên cạnh và tự giới thiệu mình. Ông bảo ông
là một nhà truyền giáo, và thình lình ông nghe chính mình yêu cầu được tổ chức
một loạt các buổi nhóm tại hội thánh đó. Thật hết sức ngạc nhiên đối với Mục sư
Price, vị Mục sư ấy trả lời: Được.
Thế rồi trong số những người tham dự các buổi nhóm, Mục sư Price đã đặc biệt
chú ý đến người phụ nữ trẻ bị què chân, thật đáng thương. Người chồng mang bà
đến mỗi buổi chiều và đặt bà ngồi trên một tấm đệm ở một trong những băng ghế
đầu. Khi hỏi thăm về họ, ông được biết họ tên là ông Souis và bà Eva Johnston, từ
Laurel, Ontario đến. Eva Johnston đã bị nằm liệt giường trong tình trạng đau đớn
không dứt từ hơn mười năm nay sau một cuộc tấn công của chứng sốt thấp khớp.
Mục sư Price cứ nhìn xuống đôi chân run rẩy, cong queo đó, cẳng chân phải bị kéo
ra sau chân trái một cách kỳ quặc. Ông được biết hai vợ chồng đã tìm đến hai mươi
vị bác sĩ khác nhau ở Toronto, họ đã thử những cách điều trị bằng điện, bằng
quang tuyến X, bằng phẩu thuật, xoa bóp nóng, tất cả chỉ làm cho tình trạng bị biến
dạng của đôi chân mỗi năm lại càng tồi tệ hơn. Vậy mà đang lúc giảng luận, Mục
sư Price biết rằng tối nay bà Eva Johnston sẽ được chữa lành. Ông biết điều đó bởi
vì mỗi lần nhìn về phía bà, ông lại cảm thấy một sự ấm áp vật lý bao phủ lên ông,
giống như có một chiếc mền nặng phủ lên hai vai mình.
Một cái rùng mình chạy dọc theo xương sống khi tôi nhớ lại kinh nghiệm y hệt của
mình với Florence khi em bị gãy xương cùi chỏ. Tôi dõi mắt vào con đường trước
mặt mình một cách khó khăn.
Mục sư Price diễn giải rằng cái cảm giác nặng nề và ấm nóng đó là sự hiện diện
của Đức Chúa Trời. Ông nói với hội chúng rằng mục đích của cảm giác ấy là để
chứng thực một phép lạ rất đặc biệt. Ông bước xuống khỏi tòa giảng, đặt tay lên
đầu người phụ nữ và bắt đầu cầu nguyện. Ở trước mặt toàn thể hội chúng, lưng của
người phụ nữ nầy ngồi thẳng lên, hai chân bị vặn vẹo nay đã duỗi thẳng và dài ra
trông thấy, và mặc dù bà không hề bước được một bước từ mười năm nay, Eva
Johnston đã đứng dậy và bước đi, gần như là nhảy nhót, suốt dọc theo lối đi. Mục
sư Price vẫn còn được tin về bà Johnston, sự chữa lành vẫn được duy trì lâu dài.
“Và đêm nay”, ông Charles Price tiếp tục, “chúng ta sắp chứng kiến một phép lạ
khác, vì cớ ngay giây phút cậu nói với tôi, cái cảm giác của “chiếc mền” ấy lại bao
phủ lên hai vai tôi. Hiện nay chiếc mền đang còn ở đấy. Đức Chúa Trời đang hiện
diện trong tình huống nầy”.
Tôi nuốt nước miếng một cách khó khăn, trong một lúc không tin nổi chính tai
mình nữa. Trong suốt mười một năm, kể từ kinh nghiệm của chính mình, tôi chưa
bao giờ nghe được một điều tương tự như vậy.
Khi chúng tôi đến Downey thì đã mười một giờ khuya. Cánh cổng trước của bệnh
viện nhỏ gồm ba mươi ba giường đã được khóa lại và tôi phải bấm chuông. Cuối
cùng, một nữ y tá xuất hiện. “Ông đến, tôi thật mừng quá”, cô cho biết, “tối nay,
Florence không ổn”.
Tôi xin phép cho Mục sư Price cùng với tôi vào phòng bệnh và rồi, ông ta cũng
được khoác chiếc áo và mang khẩu trang vô trùng. Sau đó, cả hai chúng tôi bước
vào phòng của Florence.
Em nằm trên giường, mình bôi đầy dầu mỡ, một nửa người bị che khuất trong đám
ống truyền dịch và những dây ròng rọc. Tôi giới thiệu Mục sư Charles với Florence
và em gật đầu một cách yếu ớt.
Mục sư Price lấy chai dầu ra khỏi túi áo và đổ một ít ra tay mình. Đoạn ông bước
đến, lách qua các dây nhợ, dụng cụ phức tạp ở chung quanh giường, ông đặt các
đầu ngón tay lên trán Florence và nói: “Lạy Chúa Jesus, chúng con cảm tạ Ngài vì
Ngài chữa lành cho em gái chúng con”.
Âm hưởng mạnh mẽ và dịu dàng của ông vẫn tiếp tục trong lời cầu nguyện, nhưng
tôi không còn nghe được từng chữ nữa. Bởi vì có một sự thay đổi kỳ lạ đã tràn
khắp bầu không khí trong phòng. Dường như có thêm...thêm nhiều người, bằng
cách nào đó, tụ tập đông đúc trong phòng. Bầu không khí dường như trở nên dầy
đặc, như thể là chúng tôi đang ở trong nước.
Thình lình đang nằm trên chiếc giường cao, Florence vặn mình. Mục sư Price nhảy
ra sau khi một cái cân kéo giãn bằng thép đánh ngang qua đầu ông. Florence lăn
trở sang một bên xa bằng mức căng mà các sợi dây cho phép, đoạn em lại trở mình
về phía ngược lại. Bấy giờ tất cả các trái cân ở khắp phòng đều đang di động, đang
xoay tròn khi em đu đưa người tới và lui. Tôi biết mình phải chận em lại, các bác sĩ
đã dặn đi dặn lại rằng phần xương hông bị vỡ của em phải giữ bất động. Song tôi
vẫn cứ đứng yên đấy, bị bao bọc và đẫm trong bầu không khí sinh động.
Một tiếng rên thoát ra từ sâu trong cuống họng của Florence, đó là tiếng rên đau
đớn hay một nỗi sung sướng không thể diễn thành lời, tôi chẳng biết nữa. Trong
suốt hai mươi phút đáng kinh ngạc đó, Florence tiếp tục lăn trở trong các sợi dây
cột, trong khi Mục sư Price và tôi cứ phải tránh trái cân dao động tự do. Tôi mong
từng giây có một y sĩ nào đó mở tung cửa bước vào để bảo cho chúng tôi biết phải
làm gì, tôi biết căn phòng này luôn được kiểm tra cứ mỗi mười phút một lần. Thế
mà chẳng thấy có ai đến, cứ như là cả ba chúng tôi đã bị đưa ra khỏi khoảng không
gian và thời gian bình thường và đều bị đưa vào một thế giới chỉ có sự hiện diện
triệt để, ấm áp đang cư trú.
Thế rồi đột nhiên, căn phòng trong bệnh viện trở lại bình thường. Florence nằm
yên trên giường, các trái cân dần dần ngừng vòng quay. Florence ngó chăm tôi một
hồi lâu, đoạn em thì thào:
“Anh Demos, Chúa Jesus đã chữa lành cho em”. Tôi cúi xuống trên Florence và
nói, “anh biết”. Vài phút sau cô y tá bước vào phòng, vui mừng vì thấy Florence
đang ngủ say.
Sáng hôm sau, sau khi lái xe chở Mục sư Price về nhà ông tại Paradena, tôi vẫn
còn ngủ khi bác sĩ Haygood gọi đến, chỉ để nói một điều.
“Tôi muốn cậu hãy đến ngay để xem các tấm phim vừa được chụp”.
Khi tôi đến nơi thì phòng chụp quang tuyến X đầy ắp người, các bác sĩ, các y tá,
các kỹ thuật viên thí nghiệm đều chen nhau xem.
Tấm bảng phim chụp được ghim chặt vào một màn hình được chiếu sáng, bảy bảng
phim đầu cho thấy phần hông trái và khung chậu bị vỡ nát và trật khỏi khớp.
Xương gần như bị vỡ vụn ở nhiều chỗ. Những mảnh xương vỡ mỗi lúc một phân
tán, được chụp ngay sáng hôm ấy, cho thấy một khung chậu bình thường về mọi
mặt. Hai mặt của bảng phim đầu y như nhau: Xương hông trái được hình thành đầy
đủ như hông phải. Chỉ có một vài đường mảnh như sợi tóc cho thấy rằng, phần
xương cứng nầy đã từng bị thương, mà chắc chắn là nhiều năm về trước.
Florence còn ở lại bình viện một tháng nữa khi các vết bỏng trên lưng em tiếp tục
lành. Đêm trước khi được xuất viện, em đã thấy một giấc mơ, một giấc mơ thật lạ
lùng trong đó có hai mươi lăm ly nước được đặt trên bàn để em uống. Florence nói
với tôi và Rose khi chúng tôi đến đưa em về nhà vào ngày hôm sau: “Em tin rằng
đó là những năm em sẽ còn được sống trên đất nầy. Em tin rằng Đức Chúa Trời
còn cho em hai mươi lăm năm nữa để hầu việc Ngài”.
Tôi không biết về điều đó. Tôi chỉ biết rằng chính mắt tôi đã chứng kiến quyền
năng của Đức Chúa Trời.
Điều tôi còn phải học hỏi, đó chính là sự yếu đuối của riêng tôi.
Một Phần Ở Thiên Đàng
Tháng 12 năm 1941, Hoa kỳ có chiến tranh. Trước cuộc tấn công vào Cảng Pearl,
Los Ageles đột nhiên trở thành trung tâm của hoạt động phòng vệ suốt ngày đêm.
Ban ngày, các xa lộ chật ních các xe cam nhông màu lá cây của quân đội, còn ban
đêm, thành phố vội vàng làm các công việc của nó trong bóng tối lo sợ vì phải tắt
hết các loại đèn để khỏi bị máy bay tấn công. Chúng tôi vắt sữa trước lúc rạng
đông trong các nhà trại có bạt che phủ các khung cửa sổ. Một xí nghiệp nhỏ lắp ráp
máy bay Bắc Mỹ gần chúng tôi ở Downey đã nhanh chóng phát triển thành một
nhà máy khổng lồ có hàng dây thép gai rào kín, xe hơi, xe tải ra vào suốt hai mươi
bốn tiếng đồng hồ trong một ngày. Các thiết bị phòng không được xây dựng hầu
như ở ngay trước sân trước nhà chúng tôi. Trong khi Rose tuyệt vọng thì cậu bé
Richard bảy tuổi lại vui sướng.
Bởi vì các trại bò sữa được xếp vào loại công nghiệp sản xuất chính yếu, nên
những người làm việc trong trại không bị gọi nhập ngũ. Nhưng đã từ lâu những
người thuê việc và cung cấp của chúng tôi đã phải vào phục vụ trong các quân
chủng hoặc các nhà máy quốc phòng, vì vậy tôi phải chia thì giờ của mình ra cho
các bãi nhốt bê, các xưởng bò sữa và bất cứ nơi nào chúng tôi thiếu hụt nhân công
nhất. Những nhóm người điều hành và những công việc phân công văn phòng hợp
lý khác nhau, việc xin nhiên liệu, ngũ cốc, lốp xe và các phụ tùng của xe tải, chúng
tôi vẫn cần phải tiếp tục duy trì.
Vấn đề gay go nhất là sức khỏe của bầy súc vật, cả thuốc men lẫn các thầy thuốc
thú y đều ngày càng thiếu thốn. Bố và tôi luôn nhớ lời cầu nguyện thường là sự
phòng vệ trước nhất và sau cùng.
Suốt trong những năm chiến tranh, Rose và tôi tiếp tục bảo trợ cho các buổi truyền
giảng lều trại mùa hè, tuân theo khuôn mẫu chúng tôi đã vạch ra ở phía Đông Los
Angeles. Để có thể tìm được các diễn giả có ân tứ và làm sống dậy các ân tứ dường
như nằm im của mọi người, chúng tôi thu xếp cho các hội thánh trong một khu vực
nhất định cùng làm việc với nhau, thuê trang thiết bị, quản lý các chi tiết. Sau đó,
khi một số các khoản chi trả chính đã được giải quyết, chúng tôi đưa bất cứ khoản
tiền dâng thêm nào có được vào một tài khoản ngân hàng được các hội thánh có
liên hệ cùng quản lý, để cho khi các buổi truyền giảng đã bế mạc, sự cộng tác giữa
các hội thánh sẽ không mất đi.
Ở hội thánh chúng tôi, một số các vị Trưởng lão vẫn lớn tiếng thắc mắc về việc
chúng tôi đang sản sinh ra từ “sự vẹn toàn vội vàng nầy”. Nhưng khi Florence
bước lên trước buổi truyền giảng không một chút yếu ớt vào tháng 7 năm 1942 và
tôn vinh Chúa bài Thánh ca mở đầu vinh diệu, thì Rose và tôi biết rằng tất cả nỗ
lực của hết thảy chúng tôi đều không thể diễn tả đủ lòng biết ơn của chúng tôi đối
với Đức Chúa Trời.
Còn có một niềm vui khác trong suốt những năm đó, ấy là tình bạn sâu đậm với
Mục sư Charles Price. Tôi thích nghe ông giảng kiểu hùng hồn đã hoàn thiện dưới
sự dạy dỗ của William Jennings Bryan. Tuy nhiên, điều tốt đẹp hơn nữa, đó là
những cuộc viếng thăm có tính cách cá nhân, riêng tư, trong suốt thời gian từ
những năm 1941 đến 1946, hầu như tuần nào ông cũng đến Downey và chúng tôi
cùng đi ăn tại một nhà hàng Italian mà ông rất thích. Chúng tôi chọn một phòng
nhỏ ở phía sau, và tôi dành cả buổi chiều để lắng nghe con người khôn ngoan nhất
mà tôi từng được biết nói chuyện.
Một lần nọ tôi nói: “Mục sư Price à, được làm những công việc như ông hẳn phải
là điều tuyệt vời nhất trên thế giới này! Được nhìn thấy hàng ngàn người thay đổi
qua lời giảng dạy của mình, được thấy người ta được cứu, được chữa lành và cảm
nhận quyền năng của Chúa hành động qua mình!”
Mục sư Price dừng tay xắn món Xpaghétti trên nĩa mình và hướng mắt chăm chú
vào tôi với một cái khẽ cau mày thật lạ lùng.
“Nó không giống như vậy đâu”, cuối cùng ông nói, “nó...nó cũng giống như chiến
tranh nầy”. Ông khoát một cánh tay quanh phòng, dường như chỉ có chúng tôi là
thường dân tại đây. “Những người lính thường bị giết chết tại đâu? Tại tuyền
tuyến, là nơi họ ở gần kẻ thù nhất.”
“Demos nầy, công tác truyền giảng cũng như vậy. Đấy là một trận chiến, cũng chết
người như điều đang xảy ra ở tại Guadalcanal. Người truyền đạo là người tấn công
vào đất địch, trở thành mục tiêu của lằn đạn. Người ấy sẽ bị thương. Demos à, một
số trong chúng ta đã bị tiêu diệt.”
Ông khẽ cười với vẻ tự mình không tán thành, cái cười rất đặc trưng của ông.
“Nhiều khi người ta cố gắng ca tụng tôi, bảo nào là tôi giảng hùng hồn. Điều đó
chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi cả. Nhưng mới chiều hôm qua, có một phụ nữ nói
với tôi rằng gia đình bà ta cầu nguỵện cho tôi mỗi ngày. Demos à, đó là điều tuyệt
vời nhất mà bất kỳ người truyền đạo nào cũng cần được nghe.”
Tôi gật đầu, khâm phục sự dứt khoát của ông. Nhưng sự thật của điều ông nói sau
những năm trong đầu thập kỷ bốn mươi đó, tôi chẳng hiểu gì cả.
Dưới các áp lực của thời kỳ chiến tranh và những thiếu hụt, dường như điều này vô
tình đã bị bỏ qua. Ba con bò sữa vào lúc đầu tiên của bố, bây giờ đã trở thành ba
ngàn con, chúng tôi sở hữu một trại bò sữa tư nhân lớn nhất thế giới.
Và cũng có nỗi đau đầu riêng lớn nữa, tôi nghĩ vậy khi nhắc điện thoại từ giờ này
sang giờ khác, lần tìm cho ra một tin đồn rằng chai đựng sữa đang có sẵn ở đây, xi
măng để làm sàn cho bò ở kia. Chỉ một việc kiếm đủ thức ăn cho một số lượng gia
súc như vậy cũng đã là một sự khó khăn ngày càng tăng. Hiện tôi đang lái xe trên
khắp các ngả đường ngoài thung lũng Imperial để mua cỏ cho súc vật.
Phần lớn chuyến đi phải băng ngang qua sa mạc, và một tháng bảy nóng nực
đương nhiên sẽ dẫn đến một tháng tám nóng nực hơn. Vào năm 1943, một sự thay
đổi thật đáng sửng sốt bao trùm lên con đường trước kia từng vắng vẻ. Trong
chuyến đi vừa rồi, tôi thấy một vài túp lều lụp xụp dưới sức nóng như thiêu như
đốt, mà nay, trong chuyến đi lần này, ở đó hẳn đã trở thành một thành phố ồn ào
với các lều trại, xe cộ nối đuôi sau những đoàn xe cam nhông của quân đội. Suốt
chặng đường dài theo lộ trình như vậy, các nông trại cũ và những thôn xóm khô
cằn đột nhiên đầy chật các binh lính. Dĩ nhiên chẳng ai nói lời nào, chẳng ai biết
điều gì, song rõ ràng là một chiến dịch sa mạc to lớn đang được thực hiện ở một
nơi nào đó trên bề mặt trái đất đầy rắc rối nầy.
Tôi đã nói với Rose về điều đó khi trở về nhà. “Có quá nhiều các cậu thanh niên,
Rose à, trông chúng nóng nẩy và thật buồn chán.”
Khu phố Indio, cách Palm Spring hai mươi mốt dặm về phía đông, ám ảnh tôi một
cách đặc biệt. Đường phố đầy chật các binh lính đang ngoài giờ làm việc, đến nỗi
phải mất cả tiếng đồng hồ chỉ để đi qua khu phố ấy. Tôi phải ngồi trong hàng giao
thông bị tắt nghẽn và quan sát họ với những đoàn người dài vô tận. Ngoài ba hoặc
bốn nhà hàng nhỏ và rạp hát, để tìm một bóng mát nhỏ dưới cái nóng 49 độ, chẳng
còn có việc gì để làm và chỗ nào để đi đến. Và tôi chợt suy nghĩ: Nếu chúng tôi tổ
chức một buổi truyền giảng lều trại tại đây thì sẽ như thế nào nhỉ?
“Lại thêm các buổi truyền giảng nữa ư, Demos?” Bố tôi hỏi, vì Rose và tôi vừa
mới kết thúc việc bảo trợ một cuộc khôi phục đức tin kéo dài sáu tuần ở hạt
Orange.
Rose cũng nghi ngại, nàng nói: “Anh Demos, anh đang làm việc mười sáu tiếng
một ngày ở trang trại. Trong suốt các buổi truyền giảng phấn hưng, hiếm có khi
nào anh đi ngủ cho đầy đủ cả. Anh sẽ chứng tỏ điều gì khi đang tự giết mình?”
“Rose à, nhưng nếu ý tưởng ấy đến từ Đức Chúa Trời chứ không phải từ anh thì
sao?”
Nàng ngẩng lên, xây mắt khỏi bộ đồ mùa nóng đang ủi: “Thì chúng ta sẽ thi hành
công việc đó”
Tôi nhảy ra khỏi ghế bành. “Anh sẽ gọi điện thoại cho Mục sư Charles Price. Hình
như ông ta đã được mời trước rồi, nhưng cũng có thể có một hoặc hai tuần rảnh”.
Rose nhặt một bộ đồ khác của Gerry từ trong đống quần áo chưa ủi. Cô ấy không
bao giờ là người nói nhiều, nhưng hễ lúc nào cô ấy không nói gì cả thì tôi biết cô
muốn nói với tôi nhiều nhất.
“Rose à!”
Yên lặng.
“Có gì sai trật chăng?”
“Anh Demos à, em rất yêu mến và kính trọng Mục sư Price, nhưng để ông ấy nói
chuyện với những người lính thì không hợp. Chúng ta cần một người trẻ trung hơn,
một người nào đó...em không biết. Một người nào đó biết chơi đàn guitar”.
Tôi chắc chắn là Rose đã sai lầm rồi. Tôi bảo: “Em hãy nhìn đám đông mà ông
Price đã lôi cuốn được. Hãy xem những sự chữa lành đã xảy ra. Hãy nhìn
Florence”.
Rose lại im lặng. Và vì vậy tôi gọi cho Mục sư Price, quên mất bài học đầu tiên mà
tôi đã học được khi bắt đầu tổ chức các buổi nhóm ở công viên Lincoln, đó là đối
với Rose và tôi, chìa khóa để tìm biết ý muốn của Đức Chúa Trời là sự đồng ý.
Mục sư rất thông cảm với tình cảnh của các binh sĩ đóng ngoài sa mạc, ông bảo sẽ
cố gắng sắp xếp lại các buổi hẹn của mình. Tôi nghĩ, ông ta cũng đã thu xếp rồi,
nhưng với tôi, số lượng công việc về trại bò sữa gia tăng ngay sau đó khiến tôi phải
bận tâm trong một thời gian. Kế đó Mục sư Price lại bị cúm, tôi phải khó khăn tìm
người có quyền trong quân đội để có thể cho phép tổ chức các buổi truyền giảng.
Đến lúc ấy, bác sĩ của Mục sư Price bảo ông ta tuyệt đối không được làm công việc
đó. Sự thúc giục mà tôi thường cảm nhận về tình cảnh của các binh lính đã qua đi.
Tôi đã bỏ lỡ mất thời cơ của Đức Chúa Trời hoặc là người mà Đức Chúa Trời
muốn dành cho công tác đặc biệt ấy. Tôi có một ít những cố gắng nửa vời để tìm
một ai đó hướng dẫn các buổi truyền giảng, và cuối cùng chẳng được gì cả.
Mùa thu năm đó, các báo chí đầy dẫy những câu chuyện về chiến tranh. Số tử vong
của người Mỹ lên cao. Mỗi khi có những con số mới được đăng tải, thì những câu
hỏi đau khổ lại đến với tôi. Có bao nhiêu thanh niên tôi đã thấy trong lúc lái xe qua
vùng sa mạc California ngay tại đây nằm trong số những người bị giết chết? Có
bao nhiêu người đáng lẽ đến được buổi truyền giảng ở tại Indio? Có bao nhiêu
người khám phá được chân lý là điều có ý nghĩa cho họ trong mọi sự?
Và trong lúc đó, lại còn một nỗi lo lắng nữa trong khắp miền Nam tiểu bang
California, các nông gia làm việc trong trại bò sữa đang đối diện với một cơn
khủng hoảng. Vì quá nhiều thầy thuốc thú y phải đi phục vụ trong các binh chủng,
nên bệnh lao đang gia tăng trong các bầy súc vật. Cứ mỗi ba mươi ngày thì các
viên chức từ các ngành sức khỏe của Tiểu bang và hạt lại đến kiểm tra bầy súc vật
của chúng tôi. Việc tiêm chích được thực hiện ở phần da láng, không có lông tại
mông đuôi của con bò. Nếu sau ba ngày, da nó vẫn láng, thì con vật không bị
nhiễm bịnh. Nhưng nếu có một cái bướu u lên bằng cỡ cục gôm trong đuôi cây viết
chì xuất hiện thì con vật sẽ bị xếp vào loại “có phản ứng”, một cái bướu nhỏ hơn sẽ
làm cho nó trở thành con vật “đáng ngờ”. Khi số lượng những con có phản ứng và
đáng ngờ nầy trong bất cứ bầy súc vật nào lên đến một mức nhất định, thì tất cả
các con vật trong bầy phải bị hủy diệt theo luật lệ, kể cả những con không bị ảnh
hưởng cũng như những con mắc bệnh.
Nhiều bầy súc vật trong các hạt lân cận đã bị tàn sát. Con bò đầu tiên của chúng tôi
phát bệnh. Dĩ nhiên bố và tôi đã cầu nguyện cho chúng. Cậu bé Richard chín tuổi
cũng đã cầu nguyện cho chúng khi vào các trang trại phụ giúp sau các giờ học ở
trường. Chính khu trại Niềm Tin Cậy Số Ba, trại bò kiểu mẫu của chúng tôi, là nơi
có vấn đề. Gần một trăm con được kiểm tra lúc bấy giờ đều thấy “có phản ứng”,
kèm thêm hai trăm con “đáng ngờ”. Nếu có bất cứ một sự gia tăng nào nữa trong
số lượng nầy vào lần thanh toán tiếp theo, dường như đó là điều không thể tránh
được, thì hết thảy một ngàn con bò nầy sẽ bị hủy diệt.
Ngày mà chúng tôi nhận được thông tin mới nầy, bố và tôi vẫn còn nán lại lâu tại
Trại Số Ba đó. Sau công việc vắt sữa buổi chiều, chúng tôi ngồi buồn bã ở hai bàn
làm việc đối diện nhau. Không có một trại bò nào chúng tôi từng biết, có số lượng
bò nhiễm bệnh lên đến mức đó mà còn cứu được bầy vật của mình.
Để khích lệ chúng tôi, bố mở chương trình phát thanh buổi tối từ đền thờ Angeles.
Trong căn phòng tràn ngập nỗi u buồn bấy giờ là tiếng nói ấm áp của Mục sư
Kelso Glover. Buổi tối hôm đó, ông Glover nói về quyền chữa lành bất cứ bệnh tật
nào của Đức Chúa Trời. Qua bàn làm việc, ánh mắt của bố chạm phải ánh mắt của
tôi.
Sáng sớm hôm sau, tôi gọi điện thoại cho Mục sư Glover. “Thưa Mục sư, khi ông
nói, bất cứ bệnh tật nào, có phải ông muốn nói kể cả các bệnh tật trên bầy bò
không?”
Có một khoảng yên lặng kéo dài qua điện thoại khi nhà thần học được huấn luyện
tại Berkeley suy nghĩ về điều đó. Cuối cùng ông ta trả lời: “Bất kỳ bệnh tật nào,
trên vật hoặc người”.
“Vậy thì, thưa Mục sư, ông có sẵn lòng để cầu nguyện cho một ngàn con bò sữa
ngay hôm nay chăng? Và tôi thuật lại tình trạng ở trại Niềm Tin Cậy Số Ba.
Ông đến trại bò vào 11g30 sáng và cả hai chúng tôi đi ra ngoài bãi nhốt súc vật. Cứ
mỗi rào có sáu mươi con, hầu hết đều vục đầu vào máng cỏ ở cuối rào. Khi Mục sư
Glover và tôi bước qua chiếc cổng đầu tiên, chúng ngừng ăn và vây quanh chúng
tôi, như thói quen của bò, thành một vòng tròn chen lấn nhẹ nhàng.
Mặc dầu mặt trời đang chiếu thẳng trên đỉnh đầu, Mục sư Glover bỏ nón ra, tôi
cũng cất nón của mình. “Lạy Chúa Jesus!” ông kêu lên. “Bầy súc vật tại đây là
thuộc về Ngài! Trong danh Ngài, lạy Chúa, chúng con lấy uy quyền tiêu diệt vi
trùng lao phổi đang tấn công các tạo vật của Ngài”.
Tai các con bò vểnh lên, những cặp mắt đen ướt của chúng dán vào ông một cách
chăm chú.
Phải mất đến ba tiếng đồng hồ để ghé vào mỗi rào nhốt súc vật. Tôi lo ngại cho
Mục sư Glover vì sức nắng nóng của mặt trời, vì ông không phải là một thanh niên,
mà ông lại bỏ nón quá lâu trong lúc cầu nguyện, và thật sự là bầu không khí tại đó
giữa các xi-lô và máng dẫn nước đã trở nên yên lặng một cách lạ lùng.
Những nhân công cũng ý thức được điều đó. Hầu hết họ đều là dân kỳ cựu, là
những người quá lớn tuổi để phục vụ quân đội hoặc các phân xưởng của quân đội,
là những người đã từng sống với bố và tôi nhiều năm và đã quen với những sự cố
lạ thường của Ngũ Tuần. Nhưng tôi thấy được phong cách của ông Glover để lại ấn
tượng mạnh mẽ trên họ. Khi ông quở trách bệnh tật, bạn hầu như thấy được những
con vi trùng chùn bước và bỏ chạy.
Bấy giờ, tôi thật khó mà đợi nổi cho đến đợt thử nghiệm mầm bệnh kế tiếp. Nhưng
rồi nó cũng đã trở lại như thường lệ, bộ mặt của các nhân viên y tế căng thẳng lo
nghĩ khi họ đi lên đi xuống giữa những con bò đứng thành các hàng dài. Những thử
nghiệm được tiến hành trong trại vắt sữa trong khi các con vật đứng trong hàng của
chúng, chỉ dừng tạm sau mỗi lần tiêm kim để lau chùi ống kim bằng alcool. Những
người này hiểu rõ hơn hết thế nào sức khỏe của gia đình, đặc biệt là các con em
của đất nước, tùy thuộc vào nền công nghiệp của trại bò sữa, và thứ bệnh dịch hiện
tại có sức tàn phá ghê gớm như thế nào.
Ba ngày sau họ trở lại để lấy kết quả phản ứng tối quan trọng, hai bác sĩ từ Tiểu
bang và người đứng đầu hạt. Họ không nói gì nhiều khi kéo mạnh các đôi ủng cao
su. Đây là phần gay nhất trong công việc của họ, báo cho chủ trại biết bầy súc vật
của người ấy bị kết án tử hình.
Chúng tôi đã vắt sữa một trăm hai mươi con bò một lúc ở trại Niềm Tin Cậy Số
Ba, trong hàng ba mươi cột. Ở cuối hai hàng đầu, hai vị bác sĩ của Tiểu bang gặp
nhau. Tôi bước lại gần hơn để nghe được qua tiếng lanh canh của máy vắt sữa.
“Thật là một chuyện kỳ lạ”, một vị nói, “không có một phản ứng nào trong cả hàng
đó, cũng chẳng có con nào có dấu hiệu đáng ngờ”.
Người kia khẽ chớp mắt: “Trong hàng tôi vừa kiểm tra cũng không có”.
Toàn thể nhà vắt sữa, đầy chật 120 con bò, không có một con nào có dấu vết của
bệnh tật. Đến lúc loạt bò thứ nhì được đưa vào để vắt sữa. 240 con đã được thử
nghiệm không có vi trùng lao. Các công nhân cũng đã bắt đầu tụ tập trong nhà vắt
sữa. Đợt thứ ba, kết quả cũng vậy.
Đến cuối buổi sáng hôm đó, một ngàn con bò đều được vắt sữa và không có trường
hợp nào bị nhiễm khuẩn lao, hoặc một con nào có dấu hiệu đáng ngờ, bị phát hiện,
thậm chí trong số các con bị xét nghiệm dương tính trong lần kiểm tra trước. Các
nhà chức trách cho chúng tôi biết rằng không thể có một sự giải thích về y học
hoặc tiền lệ nào cho một sự kiện như vậy. Câu trả lời duy nhất tôi chia xẻ với đám
đông lúc bấy giờ tụ tập trong nhà máy văt sữa: Đó là, Mục sư Glover đã cầu
nguyện và Đức Chúa Trời đã trả lời.
Ngài không chỉ nhậm lời cầu nguyện ấy trong tình trạng khẩn cấp giữa thời kỳ
chiến tranh mà thôi. Bởi vì sau này chúng tôi đã có một trại bò sữa suốt hai mươi
năm, cho đến khi nhà cửa mọc lên dầy đặc ở Downey đến nỗi chúng tôi phải dời
tất cả các trại bò lên miền Bắc Los Angeles, cũng không có một trường hợp nào bò
mắc bệnh lao hoặc có dấu hiệu đáng ngờ của bệnh nầy, dầu chỉ một con, ở trại
Niềm Tin Cậy Số Ba.
Tôi nghĩ mẹ tôi là người vui mừng hơn hết khi Rose và tôi khám phá ra rằng chúng
tôi sắp có một em bé nữa bởi vì vào tháng 11 năm 1944, Gerry đã bắt đầu đi học
trường mẫu giáo và hai ngôi nhà sát vách nhau trên các mảnh đất nhỏ yên lặng quá
đối với mẹ tôi. Mẹ còn có các cháu khác, dĩ nhiên. Nhưng các em tôi và chồng con
đều sống cách đó một dặm hoặc xa hơn, theo tiêu chuẩn của người Acmêni, như
thế là gần như không còn liên lạc.
Và có một lý do đặc biệt khiến bà hoan nghênh tin mừng đó. Mẹ tôi mang một
khối u không thể giải phẫu được vào tuổi bốn mươi bảy. Lời cầu nguyện thật công
hiệu ở trại bò sữa, lại vô hiệu tại gia đình. Mẹ nói một cách sung sướng: “Nhưng
mẹ sẽ được nhìn thấy đứa con gái thứ hai của các con. Demos à!” Trong gia đình,
mọi người đều đoán rằng em bé sẽ là một bé gái, vì từ lâu hồ sơ cho thấy không
bao giờ có hơn một đứa con trai trong mỗi thế hệ dòng dõi họ Shakarian. Lập tức
mẹ tôi bắt đầu may những chiếc váy đầm màu hồng và những chiếc mũ có vành
xếp li.
Chính vào mùa hè năm 1944, tại các buổi truyền giảng mà lần đầu tiên tôi mới xác
định rõ một điều mà cho đến tận lúc ấy, chỉ quấy rầy trong tiềm thức của tôi mà
thôi. Trên diễn đàn, trong lúc vị diễn giả rao giảng, tôi nhìn chăm chăm vào khu
lều trại chật ních người. Những chiếc áo đầm màu nhạt hoặc in bông hoa, một vài
người đàn ông mặc quân phục, cũng có một số các phụ nữ...
Tôi ý thức mình đã đi lang thang ra khỏi bài giảng và cố gắng kéo trở lại, nhưng
trong suốt bài Thánh ca tiếp theo đó, tôi lại chăm chú nhìn vào đám khán giả. Có
phải là tôi chỉ tưởng tượng hay thật sự có mười người nữ hiện diện trên một người
nam? Đêm kế tiếp, Rose cùng đến với tôi. Mỗi hàng có mười bốn ghế, rồi đến một
lối đi, để phù hợp với những quy định của sở cứu hỏa tại hạt Los Angeles. Tôi đếm
dãy tận cùng ở bên tay phải. Hàng thứ nhất: Tám phụ nữ, hai nam, bốn trẻ em.
Tiếp theo: Mười hai phụ nữ.
Trong các đêm kế tiếp, Rose và tôi chia khán giả trong trại ra và tiếp tục đếm.
Không có gì thắc mắc: Số phụ nữ vượt trội hơn nam giới, hơn cả tỉ lệ mười trên
một.
Tôi thật kinh ngạc, ở hội thánh Ngũ Tuần Acmêni vì cớ mọi người trong gia đình
đều dự nhóm, nên số nam và nữ luôn luôn hơn kém nhau tương đối. Còn ở đây
trong buổi truyền giảng, mọi người đều ngồi xen lẫn với nhau, không phân chia
giới tính hoặc tuổi tác, nên đến bấy giờ vẫn không tập trung vào tỉ lệ này được.
Vậy thì, chồng, anh, em, hoặc cha của các phụ nữ này ở đâu?
“Tôi nhận ra có quá ít đàn ông còn lại trong khu vực này. Tôi đoán có lẽ họ đều ra
hải ngoại.” Tôi nói với Charles Price khi đang ăn món sợi bột hấp với nước xốt thịt
và cà chua trong tuần lễ đó.
Mục sư Price ngó chăm tôi qua cặp mắt kính không có gọng.
“Demos, Los Angeles chưa bao giờ tràn ngập nam giới như lúc này! Các binh lính
từ mọi Tiểu bang trên cả nước đều đến đây. Hàng chục ngàn người đàn ông đang
trong các công tác quốc phòng”.
“Vậy thì tại sao có quá nhiều phụ nữ trong các buổi truyền giảng của chúng ta?”
Mục sư Price ngả đầu ra sau và cười lớn đến nỗi một nhóm các lính thủy trong
phòng ăn ở bên kia phải ngoái đầu lại nhìn. “Phước cho bạn, tấm lòng ngây thơ của
người Acmêni! Phần đông người Hoa kỳ xem tôn giáo như là... hèn yếu. Đó là việc
chỉ dành cho phụ nữ và trẻ em. Anh có bao giờ nghe đến Hội truyền giáo của nam
giới chăng? Một Hội học Kinh Thánh của các ông chăng? Phụ nữ là Hội thánh tại
Hoa kỳ, Demos à. Ngoại trừ hàng giáo phẩm với chức vụ chuyên nghiệp như tôi,
còn mọi công việc tình nguyện, mọi nhiệt tình, mọi sức sống, đều là phụ nữ.”
Hàng đêm, những lời Mục sư Charles nói đã khiến tôi thao thức, trăn trở trên
giường cho đến khi Rose, người bấy giờ cần phải được ngủ nghỉ thêm, xin tôi hãy
dời ra sa lông ngoài phòng khách. Trong số những phụ nữ yêu mến Chúa và hầu
việc Đức Chúa Trời mà tôi đã quen, thuộc hội thánh Acmêni, thường có các nữ
tiên tri. Song nam giới là những người đề xuất chính, tức là các Trưởng lão, các
sinh viên, các giáo sư dạy Kinh Thánh, còn là những người chịu trách nhiệm việc
rèn luyện tín ngưỡng cho trẻ em. Làm thế nào mà những người đàn ông Hoa kỳ
đầy sinh lực và thành công trong các mặt khác, lại bỏ qua sự kêu gọi cao trọng hơn
hết này? Cố gắng hết sức song tôi chẳng hiểu được.
Vào ngày 1 tháng 11 năm 1944, bé gái thứ hai của chúng tôi ra đời, một tiểu thiên
thần tóc màu sẫm với hai hàng lông mi cong đen, dài đến nỗi chạm vào hai má bầu
bĩnh của bé. Dĩ nhiên là mỗi đứa bé đều là đặc biệt, nhưng có một cái gì đó ở đứa
bé nầy đến nỗi thậm chí các cô y tá lạnh lùng cũng phải xúm quanh khung cửa sổ
phòng hộ sinh tại bệnh viện Downey.
Chúng tôi đặt tên cho bé là Carolyn. Khi Rose và tôi cùng với Richard Gerry bên
cạnh, mang bé đến trước tòa giảng ở nhà thờ nằm trên đại lộ Goodrich, quỳ trên
tấm thảm nhỏ để được ban phước theo lệ dành cho con trẻ, tôi tin rằng mình đã bật
lên niềm tự hào trong gia đình mình.
Và cũng hiển nhiên, ngay từ ban đầu Carolyn đã là đứa cháu đặc biệt của mẹ tôi.
Mẹ tôi thấy ngày càng khó đi đứng, thậm chí chỉ vài bước giữa gian nhà của mẹ
với chúng tôi. Vì vậy Rose đã mang Carolyn sang bên mẹ nhiều lần trong một
ngày, và chính mẹ tôi là người khám phá ra từng khả năng đáng lưu ý của bé, nào
là bé biết cười sớm, biết lật sớm, ngồi lên sớm ra sao. Thậm chí mẹ tôi còn bảo
rằng từ hơn bốn tháng bé đã bập bẹ “Zarouhi”, nhưng chẳng một ai khác xác nhận
là đã nghe sự kỳ diệu đó.
Mùa đông năm đó, tại buổi gặp gỡ hàng tuần, mục sư Charles Price và tôi thường
nói về hiện tượng mà ông đã mở mắt cho tôi, tức là sự đề kháng của nam giới Hoa
kỳ về tôn giáo. Tôi cho ông biết một điều khác mà tôi để ý trong hội thánh của
mình.
“Mục sư Price à, khi công việc làm ăn của người đàn ông bắt đầu thành công, thì
người ấy sẽ thôi đến nhà thờ. Tôi luôn thấy điều đó”.
Tôi nói với ông, nhiều lần tôi thấy toàn thể hội chúng quỳ gối khi một hợp đồng
thế chấp dự trữ đã đến hạn hoặc khi một người cần vay một khoản tiền ở ngân
hàng. Nhưng cũng chính con người đó, khi công việc làm ăn của anh ta bắt đầu
phát đạt, thì hội thánh là những người đã từng chiến đấu với anh trong những giờ
phút khó khăn, nay đột nhiên không thấy anh nữa. “Sao lại có thể như vậy?”
Mục sư Price tựa lưng vào vách ngăn bằng gỗ và nói: “Tôi biết câu trả lời mà hội
thánh đưa ra. Sự thành công về đời nầy nghịch với sự sống của Thánh Linh. Đức
Chúa Trời nghịch với Ma môn, thế thôi. Nhưng điều đó không làm tôi thỏa mãn.”
Ông lùa bàn tay vào lớp tóc mỏng màu hung đỏ của mình. “Hội thánh có những
câu trả lời gì cho những người đàn ông, và cả những người đàn bà nữa, đang đối
diện với những sự phức tạp thật kinh khủng trong công việc làm ăn hiện tại?
Những người với các trách nhiệm lớn lao, ở nơi hàng trăm công việc đều tùy thuộc
vào những quyết định do họ thực hiện. Đã từng có những con người như vậy đến
với tôi, Demos à, và thành thật mà nói, thậm chí tôi không hiểu được những câu
hỏi của họ nữa. Tôi có biết gì về các hợp đồng và các giá cả cổ phiếu? Tôi không
hề có kinh nghiệm trong kinh doanh.
“Hẳn nhiên, chúng ta, những người làm chức vụ có thể đem lại sự yên ủi và
khuyên bảo cho một người đang sa cơ lỡ vận, nhưng còn những người thành công
thì sao? Người ấy cũng cần đến Đức Chúa Trời y như vậy, những Mục sư như tôi
không biết đến thậm chí cả ngôn ngữ của họ”.
Có những lúc cuộc trò chuyện của chúng tôi vui nhộn hơn. Một ngày kia, Mục sư
Price nói: “Demos, anh sẽ làm chứng về một trong những biến cố lớn từng được
phán trước trong Kinh Thánh. “Rồi đến những ngày sau rốt, ta sẽ đổ thần ta trên
mọi loài xác thịt...” Điều đó sẽ xảy đến trong đời anh, Demos, và anh sẽ giữ một
phần trong sự kiện đó”.
Tôi giật mình vì cách Mục sư Price tuyên bố lời tiên tri. Theo truyền thống của hội
thánh chúng tôi, nói tiên tri là một sự vận hành rất đặc biệt của Đức Chúa Trời, làm
thẳng hai vai một người, làm cao giọng của người ấy, làm lan truyền một bầu
không khí yên lặng nghiêm trọng trên mọi kẻ nghe. Nhưng Mục sư Price thì lại
thực hiện những lời tuyên bố đáng kinh ngạc nhất bằng một giọng tương tự như
khi ông xin thêm muối.
“Phần việc duy nhất mà tôi có thể đảm nhiệm, Mục sư Price à, là bảo trợ cho một
nhà truyền giáo như ông”.
Ông ta lắc đầu. “Sự việc sẽ không xảy ra như vậy. Không phải qua các truyền đạo
chuyên nghiệp. “Mọi xác thịt”, đó là điều tiên tri Êsai cho chúng ta biết. Điều ấy sẽ
xảy đến một cách tự phát, ở khắp nơi trên thế giới, cho những người nam, người nữ
bình thường, những con người buôn bán trong các cửa hàng, trong những văn
phòng và những phân xưởng. Tôi sẽ không sống lâu đủ để nhìn thấy điều đó,
nhưng anh sẽ thấy. Demos, và khi anh nhìn thấy điều đó, anh sẽ biết rằng thời kỳ
Chúa Jesus hiện đến là rất gần”.
Trong những ngày đó, Mục sư Price thường hay nói về việc Chúa Jesus trở lại thế
gian. Ông cũng nói về việc mình tiến gần đến sự chết, dầu ông chỉ mới sáu mươi
hai tuổi. Tôi khởi sự phản đối, nhưng ông đưa tay ra hiệu cho tôi im lặng. “Đừng
đa cảm, anh bạn tốt à. Có những điều tôi biết rõ. Tôi còn một năm nữa, hơn hoặc
kém, và Demos à, thật là một sự đặc ân lớn lao dành cho một Cơ đốc nhân để được
vào trong nước Chúa”.
Tôi không hề biết Carolyn bị nhiễm bệnh cúm như thế nào, trừ một điều là có
nhiều người mắc bệnh cúm ở Los Angeles vào tháng ba năm 1945.
Bác sĩ Haygood đã qua đời và bác sĩ Steere, là người thay thế công việc của ông,
quả quyết với chúng tôi rằng em sẽ khá khi chăm sóc tại nhà hơn là ở bệnh viện
khi ông phải lo liệu trong những sự thiếu thốn về nhân viên và trang thiết bị trong
thời chiến tranh.
Nhưng chăm sóc ngày lẫn đêm không mang lại khả quan gì cả. Sự lây nhiễm
dường như đã lan đến ngực, em bắt đầu thở hỗn hển. Khi được nhập viện chiều tối
ngày 21 tháng 3, kết quả chẩn đoán thật đơn giản và khủng khiếp: Viêm cả hai lá
phổi.
Rose không hề rời căn phòng trong bệnh viện trong suốt mười hai giờ đồng hồ tiếp
theo đó. Tôi chỉ rời bệnh viện để gọi điện cho những người chúng tôi cần đến lời
cầu nguyện. Hội thánh cầu nguyện. Mục sư Charles đến tại bệnh viện, và chúng tôi
đã cố gắng gây dựng đức tin của mình bằng cách nhớ lại điều Đức Chúa Trời đã
làm cho Florence cách đó mấy phòng trong cùng một hành lang nầy. Nhưng lần
nầy Mục sư Price không nói gì về cảm giác ấm nóng trên hai vai ông, và khi rời
khỏi phòng, mặt ông tái xanh.
Mọi việc xảy ra nhanh chóng đến choáng váng. 7g sáng ngày 22 tháng 3, tôi về
nhà, lúc đang đứng dưới vòi sen thì chuông điện thoại reo. Một cô y tá gọi. Cô hỏi
tôi có thể quay lại bệnh viện chăng? Nhưng trước khi đến nơi, chúng tôi biết con
chúng tôi đã qua đời.
Về một phương diện khác, trước đó, Carolyn gần năm tháng tuổi thật hiếu động,
tươi vui, làm thế nào một sự sống rạng rỡ và đầy sức sống như vậy hoàn toàn tắt
lịm đi? Chúng tôi nhìn thấy bé lần cuối cùng ở nhà tang lễ, nằm bất động trong
chiếc hòm trắng nhỏ bé, cặp lông mày dài cong chạm đôi má tròn nhỏ bé.
Tất nhiên tại nhà, thân nhân đã đến đông đủ, đầy ngập gian nhà chúng tôi và gian
nhà lớn cạnh bên, ngồi lại với chúng tôi suốt những buổi chiều dài, giữ lại nghi lễ
lâu đời của sự hiệp nhất và liên kết của gia đình. Sau khi đưa bé đến phần mộ, có
một buổi ăn tối tại nhà thờ, những lời chia buồn định sẵn, là nỗi đau lòng chất chứa
cho đến khi tâm trí có thể hiểu được.
Nhưng thật lạ lùng, sự trợ giúp lớn lao nhất trong tuần lễ đầu tiên đó lại đến từ hai
người lạ mặt. Họ là các thiếu phụ khoảng trên ba mươi tuổi, đã sống tại Pasadena,
cùng đi với Charles Price đến nhà chúng tôi vào một buổi trưa. Họ muốn đợi ngoài
xe. Nhưng Rose năn nỉ họ vào nhà, sau một hồi Mục sư Price kéo tôi ra hành lang.
Ông bảo tôi: “Tôi rõ những phụ nữ nầy, họ có một khả năng hiếm có và kỳ diệu để
có thể nhận biết những vị khách Thiên sứ không thấy được mà Kinh Thánh cho
chúng ta biết đôi khi thăm viếng thế gian.” Hai phụ nữ ấy, Dorothy Doane và
Allene Brumback, đã từng nhận biết có một đoàn Thiên sứ rất đông đảo mà họ
từng đối diện trong một chỗ khác. Họ nói, ở khoảng không bay đầy các Thiên sứ”.
Điều đó là một quà tặng đưa chúng tôi vượt qua nhiều thời điểm xấu.
Nhưng những thời điểm xấu đã đến quá bất ngờ! Một buổi sáng Chúa nhật tại nhà
thờ, Rose đột ngột đứng lên khỏi dãy ghế bên phía phụ nữ và lao ra cửa sau. Khi
tôi đến bên nàng ở lối đi bên hông, nàng đang khóc nức nở.
“Đứa bé ấy!” Nàng chỉ nói được có thế.
Sau đó, tôi nhận ra người thiếu nữ ngồi cạnh nàng đang ẵm một em bé bằng cỡ
Carolyn. Bốn thiếu phụ trẻ trong hội thánh đã có em bé cùng khoảng thời gian
Carolyn chào đời và trong nhiều tháng, hình ảnh của đứa bé nầy khiến cho nỗi
trống vắng lại trào lên.
Tuy vậy... khi thời gian trôi đi, chúng tôi bắt đầu để ý một sự đổi khác trong chính
mình. Đó là dường như thế giới vật chất, hữu hình chung quanh chúng tôi bằng
cách nào đó ngày càng giảm đi sức thuyết phục trước kia. Chiến tranh đã kết thúc,
đáng lẽ bấy giờ là thời điểm để khởi dựng một ngôi nhà mới của chúng tôi. Từ
nhiều năm chúng tôi đã hoạch định xây dựng một ngôi nhà lớn hơn, khi vật liệu
xây dựng đã sẵn sàng trở lại. Tôi muốn có một căn phòng để có thể làm nơi làm
việc. Rose muốn có một nhà bếp rộng hơn, nhất định chúng tôi cần phải có một
phòng khách để tiếp các vị giáo sĩ thường lưu lại nhiều tuần lễ với chúng tôi.
Những lúc ấy, cả Richard lẫn Gerry đều phải dời ra ghế sa lông.
Nhưng dẫu không ai nói một lời nào, cả tôi lẫn Rose đều biết rằng sẽ không bao
giờ chúng tôi xây cất ngôi nhà ấy. Một phần vì ngôi nhà nhỏ bé nầy tràn ngập
những kỷ niệm với Carolyn: Góc phòng nơi từng đặt chiếc nôi của em, trong
phòng ngoài, cạnh phòng tắm là chậu tắm được dựng cho em. Nhưng cũng
vì...phải, việc có một phòng làm việc và một phòng tiếp khách đẹp đẽ, sạch sẽ và
các thiết bị cho một nhà bếp mới, về mặt nầy hoặc mặt khác, dường như không còn
quan trọng nữa. Một phần chúng tôi đã nằm ở Thiên đàng và từ lúc ấy trở đi, thế
gian đã đổi khác, đã kém lôi cuốn khi nhìn đến.
Chúng tôi lưu tâm đến một điều khác. Vào buổi sáng sau khi Richard và Gerry đã
đến trường, Rose và tôi luôn luôn ở lại trên bàn ăn trong gian bếp nhỏ để dành thì
giờ cầu nguyện buổi sáng, chúng tôi khởi đầu thưa với Chúa về những nỗi bận tâm
trong ngày.
Một lần nữa, không ai nói một lời, cả hai chúng tôi đều biết rằng chúng tôi cần
phải quỳ gối xuống khi nói chuyện với Đức Chúa Trời. Một buổi sáng, cả hai
chúng tôi cùng bước vào một phòng khách và quỳ gối trên tấm thảm đông phương
đã từng là một món quà kỷ niệm mười năm từ gia đình Rose. Kể từ đó, trên tấm
thảm đỏ sậm với cánh đồng bông xanh của nó, là chỗ chúng tôi gặp gỡ Đức Chúa
Trời. Không phải chúng tôi sợ sệt Ngài sau cái chết của Carolyn, mà là bởi thế nào
đó, Ngài trở nên lớn lao hơn, thực hữu hơn. Sự hiện diện sống động của Ngài kéo
chúng tôi quỳ gối với tấm lòng kính sợ.
Và chính trong phòng khách, một buổi sáng, tôi đã bước một bước mà tôi đã từ
khước quá lâu. “Lạy Chúa”, tôi nói, “con không biết với Rose thì thể nào, nhưng
con biết con chưa bao giờ đặt Ngài trước hết trong đời sống con. Ôi, một số cho
các buổi truyền giảng ngoài trời. Một số cho thì giờ của con. Một số cho tiền bạc
của con. Gia đình con cũng đã giữ vị trí ưu tiên trong lòng con. Lạy Chúa, con
muốn Ngài ở vào chỗ ưu tiên”.
Tôi cảm thấy bàn tay của Rose ở trong tay tôi. Đó là toàn bộ sự xác quyết mà tôi
cần. Rose không bao giờ là người nói nhiều.
Sân Vận Động Hollywood
Ngoài mặt thì cũng không có gì khác lắm về mục đích. Vẫn là công việc chúng tôi
đang thực hiện trên một phạm vi lớn hơn. Công việc tiến hành rất tốt, các hội thánh
Ngũ tuần thuộc nhiều nhóm khác nhau trong một khu vực đang hợp tác lại. Điều gì
xảy ra nếu như tất cả các hội thánh Ngũ Tuần trong toàn vùng Los Angeles gần ba
trăm hội thánh, thuê sân vận sộng Hollywood để thực hiện một địa điểm truyền
giảng thật sự có qui mô cực lớn? Bởi vì sân vận động là một nơi rất nổi tiếng.
Những người không lai vãng đến những chỗ giảng đạo ngoài trời, có thể tới một
sân vận động như vậy.
Khi các Mục sư và tôi ngồi lại để bắt đầu bàn thảo, thì vấn đề đầu tiên như thường
lệ là tiền. Số tiền phải trả trước chỉ để đăng ký khu lòng chảo trong một buổi tối
thứ hai thôi, là 2500 mỹ kim. Tiền ứng trước cho việc quảng cáo trên đài phát
thanh, in các truyền đơn và các áp phích, tôi tính phải tốn đến 3.000 mỹ kim. Bỏ ra
5.500 mỹ kim chỉ trong bước khởi sự, chưa kể còn phải lo thêm các khoản về ánh
sáng, những người phục vụ bãi giữ xe, và mọi thứ còn lại. Số tiền khổng lồ ấy đến
từ đâu? Chắc chắn không phải từ nơi các Mục sư, hầu hết họ đã được trả lương quá
thấp.
Nhưng còn những doanh nhân trong hội chúng thì sao? Và rồi một ý định đến với
tôi, thật thuần túy là của người Acmêni, tôi hỏi các vị Mục sư: “Nếu như tôi chuẩn
bị một bữa cơm tối, các vị có thể mời được một trăm doanh nhân đến dự chăng?”
Vì dầu sao mọi người dân Acmêni đều biết rằng những điều quan trọng hơn hết
trong đời sống đều được nói ra quanh bàn ăn tối.
Ai nấy trong họ đều ngần ngại. “Hội thánh chúng tôi không có nhiều người thành
công tham dự các buổi nhóm lại.” Đó là điều tôi biết rất rõ, dầu không phải là
những người thành công lắm.
Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra tên tuổi của một trăm vị và mời họ cùng vợ
đến dự buổi cơm tối ở tại trang trại Quả Mọng của Knott.
Khi chiều tối đến, gian phòng khách chính tại trang trại đầy chật người. Rose và tôi
ngồi ở đầu bàn là chỗ chúng tôi có thể nhìn thấy khắp mọi người. Đang khi nhìn
như vậy, một ý nghĩ lạ lùng đến với tôi. Điều gì sẽ xảy ra nếu như một vài người
trong số các vị nầy, đứng lên đây nói cho những vị còn lại lý do vì sao họ đến nhà
thờ trong lúc hầu hết những người đàn ông khác, đặc biệt là những doanh nhân
thành công, không đi nhóm lại. Điều gì về Chúa Jesus đã làm cho họ vui thích đủ
khiến họ bỏ một ngày nghỉ. Đức Thánh Linh có ý nghĩa gì trên đời sống họ một
cách cá nhân? Hẳn điều đó sẽ là một sự khích lệ lớn lao cho hết thảy chúng tôi.
Kế đó tôi chớp mắt. Cách ba bàn, gương mặt của một người đàn ông trạc trung
tuần, vận bộ complê có sọc mịn, chợt sáng ngời như thể có một ánh đèn sáng đã
chiếu trên ông. Tôi ngó sang Rose, nhưng hình như nàng không nhìn thấy. Làm thế
nào mà tôi có thể quên gương mặt ấy!
Ánh sáng lạ lùng ấy nhảy múa và tỏa sáng quanh ông trong gian phòng đầy chật và
tôi biết đấy là người đàn ông tôi phải mời trước nhất.
Bấy giờ tôi không thể chờ đợi đến lúc kết thúc bữa ăn nữa. Món cà phê và bánh
nướng nhân mứt đã làm tôi bực bội dễ sợ, tôi thật quá nôn nóng để được nghe điều
người đàn ông này biết.
Cuối cùng những chiếc cốc rót cà phê cũng chấm dứt vòng chuyền. Các cô hầu bàn
đang thu dọn đĩa, những chiếc ghế được đẩy lùi ra, mọi người đã ngồi ngay ngắn
để nghe lời kêu gọi của tôi cho việc quyên góp tiền. Thay vào đó, tôi hướng về
phía người đàn ông bận bộ complê sọc mịn.
Tôi nói với ông ta: “Anh có vui lòng tiến lên đây chăng?” Nét mặt ông ta hơi ngạc
nhiên, nhưng ông đã nhích từng bước giữa các bàn cho đến khi tiến đến bên cạnh
tôi. “Anh không chia xẻ với chúng tôi điều kỳ diệu mà Chúa đã làm cho anh sao?”
Tôi nói.
Ông ta lắc đầu trong sự ngơ ngác. “Tôi không biết ai đã nói với ông?” “Nhưng,
vâng... nhà tôi có rất nhiều điều để cảm tạ Chúa!” Và ông thuật lại thể nào mới đây
bố vợ của ông đã được chữa lành bởi sự cầu nguyện khi mà các bác sĩ tuyên bố căn
bệnh ung thư ở giai đoạn cuối cùng. Trong sự im lặng sôi động tiếp theo đó, tôi
nhìn quanh gian phòng một lần nữa, gần bên cửa sổ, một gương mặt khác đang
được chiếu sáng. “Thưa ông, ông có thể lên đây để mọi người trong chúng ta đều
thấy được?...”
Vậy là cứ tiếp tục trong một tiếng rưỡi, người này kế tiếp người kia trong gian
phòng rộng lớn, đối với tôi dường như đang được tràn ngập một thứ quyền năng
thấy được. Chúng tôi được nghe những câu chuyện về những cuộc hôn nhân được
chữa lành, những người đắc thắng chứng nghiện rượu, những sự hòa giải của
những người hùn nhau làm ăn. Tôi tiếp tục suy nghĩ đến cụm từ “Tin Lành Trọn
Vẹn” của Mục sư Charles Price, bởi vì mỗi một phương diện của Tin lành đều
được liên hệ đến những kinh nghiệm thực tế của buổi chiều tối hôm đó. Ngắn gọn,
súc tích, đúng sự thật, đó là những lời tuyên bố của những người đàn ông thông
minh. Họ không giảng, cũng không dùng đến những lời văn hoa, tuy nhiên, hiệu
quả kết hợp còn có quyền năng hơn bất cứ một bài giảng nào mà tôi từng được
nghe.
Khi mười hoặc mười một vị đã làm chứng rồi, tôi cầm lại máy vi âm, tôi nói:
“Thưa các bạn, chúng ta vừa được nghe Tin Lành Trọn Vẹn, như lời một nhóm các
doanh nhân vừa làm chứng lại.” Tin lành trọn vẹn của những doanh nghiệp,. một
dòng chữ nẩy sinh trong trí tôi.
Tôi tiếp tục. “Các bạn không ao ước rằng có nhiều vị trong khu vục Los Angeles
cũng sẽ làm chứng lại những câu chuyện tương tự như vậy sao? Các bạn há không
ao ước mỗi ông, mỗi bà và mỗi đứa trẻ ở California nầy được biết quyền năng của
Đức Chúa Trời như cách các vị nầy đã từng trải ư? Có địa điểm nào tốt nhất để nói
về Chúa cho họ hơn là sân vận động Hollywood?”
Người ta đứng lên, thọc tay vào các túi, tiến lên trước để đặt các khoản tiền lên
bàn. Họ lấy những tờ bạc giấy, những tờ mười mỹ kim, tờ hai mươi mỹ kim và
những tấm séc. Những tấm ngân phiếu được viết nguệch ngoặc vội vàng ở các bàn
ăn, những tấm séc được viết trong lúc đứng trong hàng người chờ đợi để bước đến
phía trước. Vào cuối buổi tối hôm đó, khi chúng tôi cộng hết thảy các khoản tiền,
thật sửng sốt, tổng số tiền lên đến 6.200USD.
Nhưng mặc dầu con số đó đã để lại một ấn tượng gây xúc động trong tôi, tôi biết
có một điều còn quan trọng hơn nữa đã xảy ra buổi tối hôm ấy. Một ý định đã được
sản sinh, một khuôn mẫu được bày tỏ, dầu vậy tôi vẫn chưa thấu triệt được các
hàm ý.
Tôi nói với Rose trên đường lái xe về nhà: “Em hãy nghĩ xem có biết bao nhiêu
doanh nghiệp trên thế giới nầy, họ đông hơn số các Mục sư. Nếu như các nhà kinh
doanh khởi sự giảng Tin lành...”
Sau nầy, các nhân viên cho chúng tôi biết rằng Sân vận động Hollywood trước đây
chưa bao giờ đầy người vào một buổi tối thứ hai như vậy. Vì Diễn Đàn Phúc Âm
Trọn Vẹn của chúng tôi mà toàn bộ 20.000 chỗ ngồi trong khán đài đều chật cứng,
chưa kể 2.500 người phải đứng ở bờ vòm. Đêm đầu tiên chúng tôi dùng ánh sáng
đèn cầy tổ chức lễ khai mạc. Mỗi người mười chiếc đèn cầy, vì nghĩ rằng, chỉ đủ
được nhìn thấy trong đêm tối. Nhưng khi mỗi người trong chúng tôi sử dụng điều
Chúa ban cho, thì ánh sáng rực rỡ đã biến đêm ra ngày.
Đối với tôi, điều đó chứng minh một giờ phút chiếu sáng thật sự, giờ phút mà cuối
cùng tôi đã tìm được sự trả lời cho câu tôi từng hỏi Ngài khi còn là một cậu bé
mười ba tuổi: “Lạy Chúa, Ngài dành cho con công việc đặc biệt nào?” Tôi đang
thắc mắc về điều đó như tôi vẫn thường tự hỏi, trong lúc các ngọn đèn pha đã tắt
hết và diễn đàn rộng lớn ngoài trời rơi vào trong bóng tối. Tôi đã không trở thành
một người giảng luận, bởi tôi vẫn còn vấp váp và vụng về như bao giờ trước các
khán giả. Tôi không trở thành một nhà tiên tri như Charles Price. Tôi cũng không
phải là một giáo sư, một giáo sĩ hay một người chữa bệnh...
Đâu đó ở trên chúng tôi có tiếng kèn trumpet thổi, âm thanh vang rền vọng đi và
dội lại từ những dãy đồi tối. Những đốm sáng lập loè xuất hiện khi những ngọn
nến được thắp lên. Ánh sáng bừng lên như ngọn lửa lan từ người này đến người kế
cận. Và thình lình sân vận động rực sáng khi hàng ngàn ngọn lửa nhỏ cùng cháy
lên.
Một kẻ cứu giúp. Như thể là dòng chữ ấy đã được viết trong chính ngọn lửa nhấp
nháy. Một người chuyền cái mình có cho người kế tiếp. Một người cung cấp thì
giờ, nơi chốn hoặc những cơ hội cho cây nến cùng tụ họp lại với nhau. Một người
khích lệ để tia lửa có thể làm thế giới bùng cháy.
Sự phấn khích về điều đó làm giọt lệ đong đầy trong mắt tôi. Tận khuya đêm đó,
khi về nhà, tôi nôn nóng lật Kinh Thánh ra trong ICo1Cr 12:28. Tôi thường xuyên
suy gẫm và cầu nguyện nhiều lần với khúc Kinh Thánh liệt kê những sự bổ nhiệm
Thiên thượng nầy biết bao. “...thứ nhất là sứ đồ , thứ nhì là đấng tiên tri , thứ ba là
thầy giáo , kế đến kẻ làm phép lạ , rồi kẻ được ơn chữa bệnh .” Phải! Đây rồi ...
“cứu giúp”. Làm sao tôi lại bỏ sót từ ngữ vinh diệu đó ở giữa những chức vụ còn
lại? “Kẻ được ơn chữa bệnh tật , cứu giúp , cai quản , nói các thứ tiếng ”.
Đây là phần việc của tôi. Công việc mà chính Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi,
được mặc khải trong ánh lửa ở giữa những ngọn đồi Hollywood. Đức Chúa Trời đã
kêu gọi tôi, chính tôi, trở thành một kẻ cứu giúp, và từ giờ phút đó trở đi, điều ngạc
nhiên về sự bổ nhiệm đó không bao giờ rời khỏi tôi.
Thật ích lợi vì tôi có được sự khích lệ ấy, bởi không bao lâu về sau nầy, đã xảy ra
một sự từng trải mà ít nhiều mãi mãi giảm đi niềm vui của việc cứu giúp. Diễn giả
của một trong nhiều buổi giảng của chúng tôi là một Giáo sĩ đến từ miền đông Hoa
kỳ, ông ta đến theo cách được gọi là sự tiến cử cao trọng nhất. Nhưng ông ta dường
như thật là một con người kỳ quặc đối với một nhà truyền giáo bởi bộ tóc rậm bạc
dài đến vai và một chiếc chân giả của ông. Từ ban đầu tôi thấy hình như ông ta đã
có một sự quan tâm không bình thường đến số tiền dâng, ông thường có ý kiến
rằng, ở những chỗ khác những khoản quyên góp đều đưa thẳng đến ông.
“Ở đây cũng vậy”, tôi nói, “nếu như ông đứng ra tổ chức buổi truyền giảng của
chính mình.” Nhắc cho ông biết rằng khi một nhà truyền giáo có tổ chức của riêng
mình, người phải trả lương cho các nhân sự, tiền quảng cáo, tiền vận chuyển, tiền
thuê chỗ, đương nhiên người ấy phải sử dụng số tiền dâng để chi trả cho các khoản
ấy. Trong trường hợp đó, chính nhà truyền giáo là người thuê mảnh đất, thuê cả
nhóm người xây dựng.
Mặt khác, khi chúng tôi bảo trợ cho các buổi truyền giảng, thì nhà truyền giáo
không phải quan tâm gì đến những điều bận tâm ấy, thậm chí những chi phí cho
việc ăn ở của riêng ông, bởi vì ông ở lại nhà chúng tôi, và ăn các bữa ăn ngon do
Rose nấu nướng. Tôi bảo ông, Rose và tôi đã dành hàng trăm mỹ kim vào mỗi kỳ
tổ chức mà không bao giờ đòi hỏi hoặc mong muốn được hoàn lại. Sau khi đã chi
trả các khoản chi phí lớn, toàn bộ số tiền dâng được giao cho các hội thánh.
Có một ngoại lệ. Cứ mỗi tuần một lần, chúng tôi kêu gọi “sự dâng hiến yêu
thương”, tức là số tiền quyên góp dành riêng cho những nhu cầu của nhà truyền
giáo. Chúng tôi kinh nghiệm rằng vào cuối chiến dịch kéo dài sáu tuần lễ, người
truyền giáo ấy hẳn sẽ có đủ tài chánh để tài trợ cho một loạt các buổi truyền giảng
kế tiếp của chính mình.
Như đã nói, tôi đi sâu vào các chi tiết như vậy với ông là vì tôi thấy được rằng vấn
đề vẫn còn nằm trong đầu óc ông. Nhưng mặc dù sau lời giải thích ấy, ông vẫn cứ
tiếp tục hỏi rằng số tiền thu được vào cuối buổi nhóm là bao nhiêu. Ông bảo: “Các
anh có thể kiếm được nhiều hơn số tiền đó. Các anh chưa đánh trúng chỗ. Phải
đánh vào trúng chỗ yếu của người ta nếu các anh muốn họ dâng”.
“Chúng tôi không muốn họ phải dâng”, Rose đáp từ bên kia bàn ăn, chuyển cho
ông đĩa thịt xúc xích thứ ba, “Chúng tôi cũng không xin họ dâng. Nếu Đức Thánh
Linh bảo họ hãy dâng, thì lại khác. Và Ngài sẽ chỉ rõ số lượng”.
Điều lạ lùng về ông ta, mặc dù lưu tâm quá đáng về tiền bạc, ông vẫn là một diễn
giả được xức dầu, được thần cảm bởi Đức Chúa Trời. Chúng tôi chưa bao giờ có
các đoàn người đông đảo hơn là mùa hè năm đó, chưa bao giờ có nhiều người bước
đến trước toà giảng, chưa bao giờ có nhiều sự chữa lành kỳ diệu như vậy. Một đêm
nọ, có một đứa trẻ bị điếc, lần đầu tiên trong đời em nghe được. Đến cuối tuần, bác
sĩ của em đứng lên bục giảng và làm chứng việc em được chữa lành. Một buổi tối
khác có một phụ nữ được tiêu trừ một cái bướu cổ xấu xí khủng khiếp.
Đến buổi chiều Chúa nhật sau cùng, hơn mười ngàn ngồi chật khu lều khổng lồ khi
Bob Smith (không phải tên thật của ông) đang giảng một bài cuối cùng thật rúng
động. Ông ta thật là một diễn giả có ân tứ, tôi thầm nghĩ và thật vui mừng vì ông ta
mà các buổi nhóm truyền giảng cũng đã thành công về mặt tài chánh. Con người
đáng thương ấy dường như luôn quan tâm quá mức về tiền bạc. Ông đã nhận đủ số
tiền dâng hiến yêu thương để tài trợ cho các chiến dịch khi trở về miền Đông Hoa
kỳ, hoặc bất cứ nơi nào mà ông chọn để đi đến.
Ánh mắt tôi đảo quanh các hàng thính giả vẫn toàn là phái nữ để tìm ra câu giải
đáp làm sao Đức Chúa Trời có thể trở thành thực hữu và sống động cho phái nam
ngày nay?
“...Các phước lành giàu có nhất của Đức Chúa Trời...” ông Smith đang nói. Tôi
giật mình quay trở lại bài giảng. “Ngài không thể ban cho các bạn nếu trước hết
các bạn không dâng cho Ngài. Hãy dốc hết hầu bao của mình, hỡi các bạn, để Ngài
có thể đổ đầy các bạn mọi sự giàu có của Thiên đàng!”
Ông nhắc đến chữ hầu bao với mục đích gì? Lẽ ra không có sự kêu gọi quyên góp
gì cả trong bài giảng cuối cùng này.
Ông ta kiên trì kêu gọi: “Những ai bằng lòng dâng hiến, hãy dâng hiến với sự hy
sinh, hãy dâng đến khi nào bàn tay của Đức Chúa Trời mở ra ban phát lại cho
bạn?”
Một thiếu phụ mặc chiếc váy màu hồng bước xuống lối đi và tiến lên tòa giảng.
Ông Smith bước ra từ sau bục giảng và cúi xuống qua các cây cảnh trồng trong
chậu hoa để đón lấy vật bà ta đưa lên cho ông.
“Phước cho người, em gái ta”, ông kêu lên, “Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho
người cách dư dật vì cớ hành động yêu thương này”. Đây đó những người khác bắt
đầu bước ra lối đi. Tôi đứng dậy từ chiếc ghế đặt sau bục giảng và tự động bước
qua dãy bên. Tại đó, phía sau bục giảng, một số ít các tiếp tân viên và các Mục sư
tại địa phương đang họp lại.
“Ông ta tưởng mình đang làm cái gì vậy?” Edward Grabriel, anh của Rose hỏi.
(Mới đây gia đình Rose đã đổi họ của mình cho ngắn đi, Gabrielian thành ra
Grabriel) “Ông ta không có quyền làm điều đó!”
“Chúng ta phải ngăn ông ta lại.” Tôi đồng ý.
Nhưng làm thế nào? Sự cảm động của thính giả khi đáp ứng lại là thật, mặc dầu
diễn giả thì không. Bấy giờ ông ta đang khóc khi ông thâu số tiền dâng. “Cám ơn,
người anh em...”, “Chúa sẽ ban thưởng cho cô!...”, “Đức Chúa Trời ban phước cho
anh...cả bạn nữa...bạn nữa...”
Chúng tôi làm gì bây giờ? Những người này đã nghe người đàn ông đó truyền
giảng lời Chúa hàng tuần nay rồi, đã từng thấy sự chữa lành xảy ra tại đây. Kết quả
là nhiều người dâng đời sống mình cho Chúa. Nếu vạch trần ý đồ của ông, liệu
chúng tôi có làm hỏng đức tin của họ chăng?
“Nhưng chúng ta phải bảo đảm là ông ta không được ra khỏi đây với số tiền của
người ta như vậy.” Edward nói. Anh là trưởng ban tiếp tân trong các buổi truyền
giảng. _
Sự kêu gào trơ trẽn cứ tiếp tục. Gerry bắt đầu quấy vì phải ngồi quá lâu, vì vậy
Rose lấy chùm chìa khóa xe và đưa cháu về nhà. Khi Rose quay lại, sau chặng
đường dài ba mươi hai dặm cả đi lẫn về ông ta vẫn còn đứng ở đấy, thật không thể
tin nổi. Ông lại làm cho việc quyên tiền trở thành một việc làm công khai ở “trước
mặt mọi người” như là hành động của một người yêu mến Chúa. Sau lần thứ nhất,
ông kêu gọi trở lại lần thứ hai và thậm chí đến lần thứ ba.
Suốt trong hai tiếng rưỡi khó tin đó, thật lâu sau giờ kết thúc buổi nhóm theo thời
biểu, việc quyên góp vẫn còn tiếp tục. Đây đó trong đám khán giả những gương
mặt ngơ ngác cũng như tôi, có thể có khoảng bốn trăm người đã ra về. Nhưng hầu
hết cử tọa dường như đã bị thu hút hoàn toàn bởi sự trình diễn của ông. Nhiều khi
cả hội chúng dường như cùng đứng lên một lượt tràn về phía trước để bỏ tiền của
họ vào những hộp tiền dâng đặt nơi chân nhà truyền giáo.
Cuối cùng khi khó mà còn một tờ bạc trong túi hoặc trong ví, ông ta cúi đầu xuống
và cầu nguyện kết thúc. Nhanh như một đội quân, Edward và đội ngũ những tiếp
tân viên của ông đã bao quanh diễn đàn. Trước khi ông Smith có thể phản đối họ
đã nhanh chân nhấc các hộp tiền dâng lên và đi thẳng vào sau tòa giảng.
“Các người, à không các anh em”. Ông lắp bắp “Tôi, tôi...đ..ang chúc phước..ước
cho các của dâng nầy”.
“Amen”, tiếng các tiếp tân viên dội lại và chìm mất sau tấm màn bên trong. Bên
ngoài sân khấu, chúng tôi sử dụng như một văn phòng nằm sau bục giảng.
Vài phút sau, chúng tôi đã ở trong văn phòng nhỏ đó, khi bắt đầu đếm tiền thì ông
Smith xông vào, qua các cửa màn, các gân máu hai bên thái dương ông co giật vì
giận dữ.
“Đó là tiền của tôi!”, ông nói “Tất cả đều là của tôi”. Ông ta đem theo một chiếc
cặp xếp cũ kỹ bằng da và ném phịch lên mặt bàn. Trước đây tôi chưa hề thấy; nhất
định ông ta không để nó trong xe khi cùng Rose và tôi lái xe từ Downey đến đây
chiều nay. Ông giằng rộng chiếc túi ra và bắt đầu nhồi hết số tiền trên bàn vào đấy.
Edward nắm lấy một quai của chiếc túi trong khi một người khác giữ cánh tay của
ông Smith lại.
“Đừng động đến ông ta!”
Chính giọng của tôi nói lời ấy. “Đừng động một ngón tay vào người nầy!”
Các tiếp tân viên trố mắt nhìn tôi vì không hiểu nổi. Tôi cũng hết sức ngạc nhiên y
như họ. Vì dường như tôi bất chợt đang nhìn thấy...không phải một vị truyền giáo
đang đỏ phừng mặt vì tức giận, mà chính là Saulơ, vua của Ysơraên và đang nghe
những lời lẽ phán ra từ Kinh Thánh:
“...Ai có thể tra tay trên kẻ chịu xức dầu của Đức Giêhôva ...?” (ISamuên 26: 9)
Đó chính là những lời của Đavít, phải tôi nhớ rồi và ông nói lời ấy chỉ về Saulơ,
sau khi Saulơ đã xây bỏ Đức Giêhôva, không vâng lời Ngài, và đang chống nghịch
cùng Ngài. Dầu vậy, trong mắt của Đavít, Saulơ vẫn là con người mà qua đó quyền
năng và ơn phước của Đức Chúa Trời tuôn đổ, cũng như tôi đã nhìn thấy những
điều đó tuôn đổ qua Bob Smith.
Ông Smith vẫn đang dùng hai tay hết sức mau chóng dồn nhét đống tiền vào chiếc
túi.
“Demos!” Edward nói “Anh có thấy điều ông ta đang làm không!”
“Tôi thấy”
“Và anh sẽ để ông ta đi với số tiền đó sao?”
“Tại sao không được chứ?” Smith nói “Nó là của tôi, không phải sao?”. Bấy giờ
ông đang giữ chiếc túi bên dưới bàn, và đưa tiền vào đấy bằng cả cánh tay.
“Phải, Bob à, đó là của ông”. Tôi tán thành mà vẫn không tin nổi đấy là tiếng nói
của mình. “Đức Chúa Trời không cung cấp tiền của Ngài bằng những phương cách
như vậy”.
“Phương cách!” Smith đáp trả đầy khinh miệt “Anh chẳng biết chút gì về phương
pháp cả, anh là một tên ngốc, Shakarian à, hết thảy các anh đều là những tên
ngốc.” Ông ta đóng chiếc túi của mình lại và đứng nhìn trừng trừng vào nhóm nhỏ
các tín đồ và các mục sư cách hung tợn “Các anh có một cơ hội tuyệt vời đã xảy ra
tại đây mà các anh cũng không biết điều đó!”
Ông ta lùi ra phía cửa, sờ soạng phía sau mình để tìm chỗ trống nơi bức màn. Thế
rồi ông ta biến mất.
Tôi phải giữ cả hai tay trên vai Edward để anh khỏi đuổi theo ông ta. “Hãy để mặc
ông ta!”. Tôi lập lại “Chúng ta làm được gì với số tiền đó? Nó không phải của Đức
Chúa Trời và tôi không tin rằng Chúa sẽ ban phước cho số tiền đó”.
Một lần nữa tôi ý thức rằng những lời đó không bắt nguồn từ tôi. Và rồi giờ phút
ấy trôi qua, nỗi mệt mỏi xâm chiếm tôi, sự mệt mỏi về những con người, về các
buổi truyền giảng, về các lều trại, về các diễn đàn và những diễn giả hùng hồn.
Chúng tôi bước trở ra bục giảng của căn lều khổng lồ. Đám đông vẫn đang nhích
dần ra các lối đi dẫn ra cửa, đội ngũ của những người tình nguyện từ các hội thánh
đang xếp dọn các chồng ghế, không hề có bóng dáng của Bob Smith.
Tôi tìm gặp Rose và bảo nàng cùng về nhà, phải mất đến mấy tiếng đồng hồ sau tôi
mới ngủ thiếp đi. Còn phải sắp đặt công việc thu dọn, việc hạ dàn dựng để dời khỏi
thành phố. Ngày mai, tôi phải trở lại để cho người thu dọn trở lại cảnh quan. Mà tôi
thì đã phát ốm và chán ngán khủng khiếp công việc đó.
Trong căn phòng của Richard ở tại nhà, không hề có dấu vết của người đàn ông đã
từng sống ở đấy suốt sáu tuần. Áo quần trong tủ của ông đã biến mất, hai túi xách
đựng quần áo màu xanh cũng không còn, ngay cả bàn chải đánh răng của ông ta
trên giá trong phòng tắm cũng không thấy nữa. Ông ta đã thu dọn khi nào không ai
trong chúng tôi hay biết. Chắc chắn không có lời chào tạm biệt với bất cứ ai trong
gia đình chúng tôi, cũng không có lời cảm ơn Rose vì những tuần lễ được tiếp đón
chu đáo.
Suốt sáu năm, tôi không hề nghe một lời gì về Bob Smith. Thế rồi vào một buổi
sáng, chính ông ta đã bước đến văn phòng chính ở trại bò sữa Niềm Tin Cậy Số
Ba, hốc hác, râu tóc không cạo, ăn bận tồi tàn, nhìn tất cả những biểu hiện bề ngoài
ông ta như chẳng có một giá trị gì cả. Ông kể lể với tôi một câu chuyện dài về
những sự không may và hỏi xin tiền để đi đến Detroit, và tôi cho ông. Ba năm sau
đó tôi nghe tin ông chết.
Đó là lần đầu tiên, nhưng không có nghĩa là lần cuối cùng mà Rose và tôi chạm
trán với hiện tượng một con người với một chức vụ thật lớn lao Chúa ban cho để
phục vụ những người khác, mà cuộc đời riêng của chính mình lại bê bối. Đôi khi
vấn đề chính là vì tiền bạc, như trường hợp của Smith. Đôi khi là rượu. Đôi khi là
đàn bà, hoặc ma túy, hoặc dâm loạn.
Vì sao Đức Chúa Trời lại trọng dụng chức vụ của những con người như vậy? Có
phải đó là quyền uy của Kinh Thánh, làm việc một cách độc lập với người trưng
dẫn Kinh Thánh chăng? Tôi không biết.
Chỉ có hai điều tôi biết chắc, đó là những người đã dâng tấm lòng hoặc tiền bạc của
mình cho Chúa ở tại các buổi nhóm như vậy đã không mất phần thưởng của mình
vì cớ tác nhân loài người đã bị lỗi lầm. Và những lời mà tôi đã nói, dầu không hiểu
vẫn là đúng.
“Đừng động đến ông ta”.
Những con người ấy ở trong bàn tay của Đức Chúa Trời. Tôi thấy mình không
được phép, ngay cả suy đoán quá nhiều về điều đó. Thường trong những trường
hợp đó, tôi chỉ nghĩ đến những lời của Mục sư Charles Price, ông đã nói với vẻ mặt
đau đớn “Những người ở ngay tiền tuyến phải bị thương”. Và tôi suy nghĩ đến
những nguy hiểm và thử thách mà những con người ấy phải đương đầu, và tôi tự
hỏi mình đã cầu nguyện đủ cho Bob Smith chưa...
Mục sư Charles Price đã qua đời. Ông qua đời theo như đã biết trước, vào năm
1946. Nhưng mẹ tôi dầu hầu như phải đau đớn luôn, lại vẫn còn sống. Sau cái chết
của Carolyn, gia đình tưởng rằng bà phải ra đi rất mau. Đôi tay mủm mĩm của
Carolyn giữ chặt bàn tay gầy guộc của bà dường như là một sức mạnh để giữ mẹ
tiếp tục sống.
Nhưng vẫn còn một mảnh bổn phận chưa được hoàn tất. Florence đã hai mươi mốt
mà vẫn chưa lập gia đình. Bởi vì đối với một bà mẹ Acmêni, bỏ dở những bổn
phận của mình trên đất là điều không thể chấp nhận được, và vì vậy khi Florence
bắt đầu đính hôn với một thanh niên trẻ, đẹp trai người Acmêni có người mẹ đã
qua đời vài năm trước, thì mẹ tôi đã đứng ra lo liệu đám cưới chu toàn.
Sức mạnh của bà trong suốt những tháng ấy thật là một sự bí mật đối với các bác sĩ
chuyên lo cho bà, họ không hiểu nổi làm sao bà còn đi được nữa. Bà mua bán, may
vá thậm chí còn nấu nướng phần lớn bữa tiệc rất công phu sau lễ cưới.
Và rồi khi đôi vợ chồng trẻ, hoan hỉ đã lên đường đi hưởng tuần trăng mật, bà đã
nằm trở lại trên giường bệnh. Cục bứu đã phát triển quá mức mà thuốc thang có thể
giúp bà đỡ đau đớn, nhưng tôi không bao giờ nghe mẹ than thở một lời nào, mà bà
chỉ cảm tạ Chúa vì đã hoàn thành những bổn phận của mình trong gia đình.
Bác sĩ John Leary, một chuyên gia chăm sóc cho bà trong những tháng cuối cùng
đó, thường đến ngôi nhà to lớn cất theo kiểu Tây ban nha vào mỗi buổi sáng sớm
“để bắt đầu ngày của tôi được đúng đắn”. Ông nói với tôi như vầy. ông nói rằng,
ông có hai chục bệnh nhân, bệnh chưa nặng như mẹ tôi song những rắc rối của họ
làm ông kiệt sức. “Nhưng nếu như tôi có được mười lăm phút với mẹ cậu Demos
vào lúc bắt đầu một ngày, thì tôi có thể đương đầu với bất cứ điều gì xảy đến”.
Khi bà qua đời vào tháng 11 năm 1947 vào tuổi năm mươi, tôi được biết nhiều
người đã được khích lệ từ bà. Đó là một tang lễ trọng thể nhất từng được thấy ở tại
Downey. Mọi người đều đến đấy, từ những người lãnh đạo cộng đồng đến những
kẻ lang bạt vô gia cư, chính lúc ấy tôi mới biết hết mức độ tiếp rước ân cần của mẹ
tôi.
Về nhiều mặt, nhân vật quan trọng nhất và cũng là người nhỏ nhất đang hồn nhiên
say giấc trong cánh tay của Rose là bé Steve, bốn tháng.
Khi biết rằng chúng tôi phải có một đứa bé khác thì chúng tôi dầu sao cũng biết
rằng đúng thời điểm để dành cho mẹ, để mẹ có thể bồng ẵm cháu trước khi qua
đời. Và đúng vậy. Một thời gian lâu sau khi bác sĩ Leary cấm những vị khách ghé
thăm thì chúng tôi được phép đưa Steve đến bên giường bà. Và bà được vuốt ve
những lọn tóc đen mềm của nó và thì thầm, nhiều khi chúng tôi phải ghé thật sát
bên tai bà để nghe “Một đứa con trai thứ hai...chưa bao giờ có, chưa bao giờ. Đức
Chúa Trời ban cho một đứa con trai thứ hai...”
Giai Đoạn Thử Nghiệm
Bố tôi đã trở lại văn phòng làm việc. Những tuần cuối cùng trong đời mẹ tôi, bố
luôn luôn dành hầu hết thời giờ mỗi ngày để ở trong phòng với bà. Bây giờ bố đã
ngồi vào chiếc bàn đối diện với tôi ở trại bò sữa Niềm Tin Cậy Thứ Ba. Vầng trán
ông cau lại khi đọc bảng tường thuật mỗi quý.
“Con đang đầu cơ lương thực ư, con trai”. Ông nói và chỉ vào những con số trong
bảng kiểm kê cho thấy số thóc, lúa, ngũ cốc nhiều hơn số lượng chúng tôi đang
cần.
Bố tôi không bao giờ yên tâm với hoạt động của nhà máy xay bởi vì giá cả cứ lên
xuống vù vù.
Nhưng sự bất ổn đó dường như khó mà làm gì được trước sự bùng nổ tăng dần sau
chiến tranh. Mùa đông năm 1947-48, những người buôn bán mặt hàng ngũ cốc đều
đồng ý ở một điểm. Đó là chỉ có giới hạn của chính phủ mới có thể tiếp tục giữ cho
giá cả ở mức thấp. Yến mạch, lúa mạch, bắp, hạt bông vải thô, đậu nành thô, hàng
tháng nay đều ở vào mức giá cả tùy tiện cao nhất nầy như thể là đang cố gắng đẩy
mạnh đường tăng giá. Giây phút mà sự hạn chế của chính phủ bị bỏ dỡ đi, giá cả sẽ
tăng vút. Đối với tôi dường như muốn kinh doanh có lợi thì phải dự trữ thật nhiều
khi mà mức hạn chế còn được giữ.
Đấy là điều mà cặp mắt Acmêni sắc bén của bố tôi đã bắt kịp khi ông nhìn qua
những con số thống kê. Vẻ mặt ông trở nên nghiêm trọng hơn khi ông ghi nhận
rằng tôi đã sử dụng hàng trăm ngàn mỹ kim để mua thóc, lúa, ngũ cốc với giá hiện
hành để phân phối ra trong mùa thu kế tiếp.
Khi thực hiện công việc đó tôi đã châm ngòi nổ một quả bom.
Một cái tên thình lình cứ đến trong đầu óc tôi vào những giây phút lạ lùng nhất:
Fresno
Vì sao tôi cứ nghĩ đến Fresno? Đó là một thành phố cách Bắc Los Angeles hai
trăm dặm mà tôi từng lái xe qua đấy vài lần. Nhưng tôi không quen biết ai ở đấy và
cũng không có mối liên hệ gì với nó. Vậy tại sao Fresno thình lình đến trong tâm
trí tôi?
Bởi vết thương mà Bob Smith đã gây ra vẫn còn đau đớn, Rose và tôi không nói
nhiều đến những dự định trong mùa hè sắp tới. Có người gợi ý chúng tôi nên tổ
chức lại các buổi truyền giảng ở Los Angeles, và dường như đó cũng là một ý tốt.
Một buổi tối khi tôi trở về nhà. Rose ở trong phòng ngủ, nàng đang đặt bé Steve
vào nôi. “Cưng à”, tôi nói “Suốt đường lái xe về nhà tối hôm nay, một cái tên của
một thành phố đặc biệt cứ vang lên trong đầu anh. Anh không thể nào thôi nghĩ
đến nó”.
Rose ngồi thẳng lên và nhìn tôi. “Anh đừng nói tên, trong đầu em cũng vậy!”.
Nàng tắt đèn và chúng tôi cùng rón rén ra khỏi phòng. Đang lúc bước ra hành lang,
nàng quay sang tôi
“Fresno phải không?”
Tôi ngẩn người gật đầu vì ngạc nhiên.
“Phải, Fresno”
Nhưng nếu chúng tôi biết nơi Ngài muốn chúng tôi đến, thì câu hỏi tiếp theo là làm
thế nào. Chúng tôi không có các giao tiếp ở đó, cũng không biết gì về nơi đó.
Cuối cùng nhờ một Mục sư ở Los Angeles tôi có được tên của vị Mục sư thuộc hội
Assemblies of God ở tại Fresno. Tôi gọi điện thoại và đánh tiếng với ông về việc tổ
chức các buổi truyền giảng trong mùa hè đến ở thành phố của ông. Một sự im lặng
rất lâu qua ống điện thoại. Cuối cùng ông bảo sẽ gọi lại cho tôi sau, và vài tuần
sau, chính tôi đứng ra tiếp ông ta và ba mươi ba Mục sư khác ở tại địa phương đó
trong một bữa cơm tối ở tại khách sạn California ở Fresno. Phương pháp nói
chuyện của người Acmêni trước khi làm việc với nhau một thời gian qua bữa cơm
tối hôm đó có lẽ chỉ đem lại ích lợi cho phần xác, mà tâm linh thì không kết quả
lắm: Tôi chưa bao giờ nhìn thấy những khuôn mặt ngờ vực như vậy khi họ ngó tôi
trong lúc tôi đứng dậy để phát biểu.
Tôi mô tả những buổi truyền giảng dưới các tấm lều lớn mà chúng tôi đã từng tổ
chức ở tại Los Angeles trong suốt bảy mùa hè, về hàng ngàn người ngày nay đã
biết Chúa qua các buổi đó. Yên lặng. Những ánh mắt không thân thiện. Cuối cùng
một người trong số họ đứng lên, sửa lại quần áo mình và cất tiếng nói điều dường
như đã nằm sẵn trong suy nghĩ của mọi người “Anh đã kiếm được những gì từ việc
đó, Shakarian. Anh có ý đồ gì đây? Trong tay áo anh còn thứ phù chú gì?”
Tôi cảm thấy máu nóng dồn lên mặt, nhưng rồi tôi tự chủ. Vì sao những người nầy
lại có thể đánh giá một người xa lạ hoàn toàn theo giá trị bề ngoài? Tôi nghĩ đến
Bob Smith và lần đầu tiên tôi cảm thấy biết ơn vì kinh nghiệm đó. Đức Chúa Trời
biết tôi chậm hiểu. Có lẽ cách duy nhất để tỏ cho tôi biết bất cứ điều gì, đó là nhắc
nhở những lỗi lầm cũ của tôi, cũng nên nghi ngờ các Mục sư một chút, nên đặt
những câu hỏi xem phúc lợi của dân sự mình được quan tâm ở chỗ nào.
Vì vậy, bởi cớ ba mươi bốn vị ấy tôi phải xem xét lại cách làm việc của mình. Tôi
không nhận một khoản tiền lương nào cả, tự lo liệu mọi chi phí cho mình. Ở đây,
tại Fresno mọi chi phí sẽ cao hơn thường lệ, bởi vì Rose và tôi sẽ phải dọn đến ở
khách sạn suốt thời gian tổ chức các buổi truyền giảng. Sau khi các khoản chi lớn
đã được giải quyết, tiền quảng cáo, dựng lều trại, những loại chi phí như vậy, bất
cứ khoản tiền nhận được ở các buổi nhóm đều thuộc về các hội thánh dự phần.
Ngoài ra, nếu có sự thâm thụt thì chúng tôi phải trả bằng chính tiền túi của mình.
“Mình kiếm được lợi gì từ công việc đó?”. Tôi nhắc lại câu hỏi ấy. Tôi lấy quyển
Tân ước của mình ra khỏi túi và đọc lớn các câu Kinh Thánh trong ICôrinhtô 12, là
những lời đã có ý nghĩa rất nhiều đối với tôi. Tôi nói: “Hỡi anh em, tôi tin rằng
Đức Chúa Trời dành từng công việc riêng biệt cho mỗi một tôi tớ Ngài. Một khả
năng đặc biệt nào đó để chúng ta sử dụng cho việc mở mang vương quốc của Ngài.
Tôi tin nếu chúng ta tìm thấy ân tứ ấy và sử dụng nó thì chúng ta sẽ là những con
người hạnh phúc nhất trên đất. Còn nếu chúng ta bỏ quên điều đó thì dầu cho
chúng ta có làm được nhiều công việc xuất chúng, chúng ta vẫn hoàn toàn bất
hạnh. Tôi thật may mắn”, tôi nói “Tôi đã tìm thấy phần việc của mình. Tôi là một
người giúp đỡ, như đã chép ở đây. Ân tứ của tôi là giúp người ta làm điều họ làm
được tốt nhất. Tôi sẽ giúp các anh hiệp cùng nhau, sẽ giúp các anh xây dựng một
chỗ nhóm, giúp các anh tìm các diễn giả. Điều mà tôi kiếm được từ trong công việc
nầy chính là niềm vui được sử dụng ta lâng mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi.
Tôi cong cánh tay trái và nhòm vào trong ống tay áo “không”, tôi nói “Tôi không
có gì trong nầy cả”
Tiếng cười rộ lên với sự thoải mái thân mật tiếp theo đó làm tiêu biến sự căng
thẳng. Khắp nơi quanh phòng dậy lên những lời đề nghị dành cho buổi truyền
giảng tại Fresno. Vị mục sư nầy đã từng tiếp xúc với sở phát thanh địa phương, vị
Mục sư kia biết ông chủ của nhà máy in. Và họ đều đồng ý rằng, mùa thu là lúc tốt
hơn mùa hè để tổ chức truyền giảng ở Fresno. Vào tháng mười sau khi bước vào
mùa thu hoạch nho. Có một hội trường lớn ở tại trung tâm thành phố, là Nhà Hát
của Đài Kỷ Niệm, sẽ tiện nghi hơn là dựng một lều trại.
“Nghe là thấy bận rộn lắm trong vài tháng tới đấy, ông Demos”, một trong các vị
Mục sư là ông Floyd Hawkin nói khi đưa tôi ra xe “Anh phải bỏ bê công việc của
mình một thời gian. Tôi hết sức mong cho công việc làm ăn của anh được tốt đẹp”.
Tôi phác một nụ cười làm ông yên lòng “Không còn có thể nào tốt hơn được,
Floyd à, không thể nào tốt hơn được”. Tôi tìm được một căn nhà gỗ không có đồ
đạc, cho thuê ở phố G chỉ cách giảng đường Đài Kỷ Niệm năm căn phố mà thôi.
Trang bị đồ đạc vào đấy không có vấn đề gì. Đến lúc ấy tôi chỉ việc chất tất cả
những đồ đạc cần dùng vào một trong các xe tải to lớn chở cỏ chạy bằng máy dầu
của chúng tôi, bàn ghế, giường “và cả chiếc máy giặt nữa” Rose nhắc tôi “Nếu
không em không thể giải quyết mớ tả lót nổi”.
Căn nhà cũng rộng rãi đủ để các giáo sĩ khác có thể ở lại với chúng tôi cũng như ở
Downey. Lần nầy, từng người khác nhau sẽ giảng mỗi tuần.
Các buổi nhóm sẽ kéo dài suốt năm tuần lễ, Rose và tôi muốn có mặt ở đấy trước
một tuần, sau đó phải luôn luôn mất ít nhất mười ngày làm việc để thu dọn những
việc linh tinh. Chúng tôi quyết định cho bé Gerry bấy giờ đã chín tuổi vào học ở
một trường tại Fresno trong suốt các tuần lễ ở đó thì cũng không hại gì, nhưng còn
Richard đang học ở lớp tám, tốt hơn là không nên bỏ mất các buổi học đều đặn ở
lớp. Cách thu xếp ổn thỏa mà chúng tôi đều biết dầu không nói ra, đó là chúng tôi
không thể đi hết và để bé ở lại. Từ khi mẹ qua đời, sự cô độc của bố tôi là điều ai
nấy đều biết. Vì vậy chúng tôi sắp xếp để Richard có thể ở bên ông nội cháu, và
mỗi cuối tuần cả hai ông cháu sẽ đến chỗ chúng tôi.
Dường như điều đáng mừng cuối cùng cho dự án đó là tin bà Newman, một nữ y tá
khéo léo đã từng ở với chúng tôi khi từng cháu bé trong gia đình chúng tôi được
đưa từ bệnh viện về nhà, sẽ đi cùng chúng tôi để Rose có thể đánh đàn cho các
buổi truyền giảng.
Và vì vậy, chính với ý thức rằng Đức Chúa Trời thực sự hiện hữu trong chương
trình nầy, mà vào một buổi sáng thứ hai trong tháng mười, tôi đã lái xe đến nhà
máy xay để hoàn tất một số công việc vào phút chót trước khi lên đường đến
Fresno ngày hôm sau.
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy Maurice Brunache, viên kế toán của chúng tôi đang
đứng ở cửa trước. Gương mặt ông ta y như màu bột mịn phủ khắp mọi thứ trong
nhà máy xay.
“Rồi đây, ông Demos”. Tay ông cầm một số giấy tờ
“Cái gì rồi?”
“Mức giá cả. Thị trường hàng hóa sáng nay đã mở cửa mà không...”
“Thế thì tốt, Maurice! Đó là điều chúng ta đang...Cái gì đó trên gương mặt của
Brunache khiến tôi dừng lại. Tôi yên lặng đi theo anh ta vào trong văn phòng và
lấy một chiếc ghế, cũng như tôi vẫn thường làm mọi khi
“Tôi e rằng không tốt đâu, Demos à”
“Anh muốn nói là giá cả không có gì thay đổi ư?”
Có thay đổi, nhưng nó hời”. Anh ta đã tham khảo các giấy tờ đang cầm trong tay
“Theo bảng kê khai hiện nay, chúng ta đã thiệt mất 10.500 mỹ kim. Nhưng việc
phân phối hàng hiện nay vẫn đang đổ tới tấp mỗi ngày. Chúng ta không còn chỗ để
chứa số lượng ngũ cốc đó. Chúng ta phải tiếp tục bán ra, và như hiện nay, mọi việc
bán ra đều lỗ”.
Tôi lấy các giấy tờ từ tay Maurice. Quy định của thị trường hàng hóa cho phép giá
cả được giảm tới mức tối đa trong bất kỳ một phiên họp nào. Trong vòng một vài
phút mở cửa ngày hôm nay. Tôi biết, ngũ cốc sẽ mất giá đến mức tối đa. Mà chúng
tôi, dĩ nhiên vẫn phải tiếp tục trả tiền với giá ở mức cao nhất mà tôi đã giao kèo
hàng mấy tháng trước.
“Việc hạ giá nầy vẫn chưa kết thúc, Demos. Nếu giá cả thị trường tiếp tục rớt, ông
có thể bị...phá sản”
Tôi bước ra khỏi nhà máy trong nỗi bàng hoàng. Thật là quái gỡ. Thật vô nghĩa.
Vậy mà điều đó lại đang xảy ra. Thậm chí khi tôi ra xe, một kiện hàng chở ngũ cốc
khác đang được qua đường sắt vào nhà máy. Tôi buồn rầu tính toán xem một kiện
hàng như vậy thì tôi sẽ mất thêm bao nhiêu mỹ kim nữa.
Sáng hôm sau, thứ ba, tôi chất chiếc máy giặt của Rose và một số các đồ đạc trang
bị khác lên chiếc xe tải chở cỏ và gởi đi theo lộ trình của nó. Khi tôi quay về nhà,
chuông điện thoại đang reo.
Tiếng của Maurice Brunache “Giá lại hạ nữa Demos à”. Ông ta nói. Khi thị trường
Chicago đã mở cửa, thì ngũ cốc một lần nữa, ngược lại với mọi tiên đoán, lại rớt
đến mức tối đa theo như Sở buôn bán Ngũ Cốc cho phép. Trong vòng không đầy
một giờ đồng hồ, chúng tôi lại mất thêm hơn mười ngàn mỹ kim nữa.
“Thật là một tin quá nản lòng cho cuộc hành trình đến Fresno”. Maurice tiếp tục
nói “Tôi biết chiến dịch ấy hẳn cũng quan trọng nhiều thế nào đối với ông”.
“Hẳn cũng quan trọng ư?”
“Phải, ông ra đi bây giờ thì không tốt lắm! Demos,...Ông có ở đấy không?”
Tôi ở đấy, nhưng tâm trí đã lùi lại ba năm rưỡi, để nhớ lại một lời hứa nguyện.
Công việc của Chúa phải là trước nhất. Trước cả gia đình, trước công việc làm ăn,
trước bất cứ điều gì trên thế gian nầy.
“Tôi phải tiếp tục, Maurice à”, tôi nói “Anh xem việc giá hạ nầy chỉ là một sự bất
thường nào đó. Giá sẽ phải lên lại. Chúng ta sẽ liên lạc thường xuyên qua điện
thoại”.
Nhưng suốt đường đến Fresno, một tiếng nói nho nhỏ cứ lải nhải bên tai cùng với
tiếng rít của lốp xe “Ngươi sẽ bị phá sản. Ngươi sẽ bị phá sản...Ngươi sẽ mất nhà
máy xay. Ngươi sẽ bị phá sản...”
Chiều hôm đó, trong ngôi nhà ở phố G khi tôi đang xếp đặt chiếc nôi cho bé Steve,
thì nghe tiếng kêu hốt hoảng từ dưới nhà bếp, nơi Rose và bà Newman đang cất
dọn bát đĩa.
“Cái đồng hồ của em!”, Rose rên rĩ từ tuốt trên đầu cầu thang “không còn trên tay
em nữa”
Tôi lao vào phòng và nhìn chăm nàng, nhớ lại buổi tối mà tôi đã băng ngang qua
phòng khách của gia đình họ nhà Gabriels và chật vật thế nào để đeo được nó vào
cổ tay nàng. “Em có chắc là đã đeo nó không?”
“Chắc chắn! Em còn nhớ là em đã nhìn thấy nó khi chúng ta bước ra khỏi xe”
Thế là chúng tôi lục lọi khắp trong căn bếp. Thậm chí tôi còn đi ra xe và tìm tòi
trên đường từ đó vào nhà. Rose cũng đã nhớ rằng nàng có tháo để mở lấy một số
đồ đạc trong phòng ngủ của Gerry, nhưng trước khi chúng tôi có thể khởi sự tìm
kiếm ở đấy, thì bà Newman đã gọi hai chúng tôi vào phòng, nơi bà đang mặc đồ
ngủ cho Steve. “hãy sờ đầu bé xem” bà bảo “Tôi không nghĩ là hôm nay bé bình
thường, nó quấy suốt khi đang ở trong xe. Tôi đang cặp nhiệt kế”
Cả ba chúng tôi đều đứng yên lặng trong căn phòng nhỏ xa lạ khi bà đưa ống cặp
nhiệt lên trước bóng đèn. Đôi mắt bà mở lớn
“Bốn mươi ...độ”
Chúng tôi có được tên của một vị bác sĩ nhờ một trong các mục sư ở Fresno, nhưng
khi ông ta đến, ông chỉ có thể xác định mức nhiệt độ mà bà Newman đã lấy và bảo
chúng tôi cứ tiếp tục lau cồn cho bé như bà đã bắt đầu làm rồi.
Chúng tôi đã lau cho bé bằng những miếng bọt xốp, sử dụng túi chườm nước đá,
cho bé uống thuốc Aspirin, song chẳng có thể nào làm suy giảm cơn sốt. Đến sáng
đôi mắt Steve đờ đẫn và da em sờ đến thì thấy khô khan. Ông bác sĩ trở lại và kê
một loạt thuốc. Tôi nài nỉ Rose, hãy đi nằm nghỉ một lúc nhưng dường như nàng
khó mà nghe tôi nữa.
Chiều hôm đó, Steve vẫn không đỡ, tôi gọi điện về nhà để xin bố và hội thánh cầu
nguyện, và được biết rằng giá ngũ cốc đã bước sang một ngày thất bại hoàn toàn
trên thị trường chứng khoán. Cuối cùng Rose đã ngủ thiếp đi vì kiệt sức. Bà
Newman và tôi thay phiên nhau ngồi trực bên nôi bé.
Vào sáng thứ năm, các buổi họp lên chương trình được bắt đầu với các tiếp tân
viên và các vị cố vấn, nhưng tôi khó mà giữ tâm trí tập trung vào điều chúng tôi
đang làm. Tôi cứ khẽ lẻn ra ngoài để điện thoại về căn hộ ở phố G và chỉ để nghe
“Không có gì thay đổi”, “Bé sốt rất cao”, “Bé hầu như không nuốt được”
Trong ba ngày tiếp theo, tình trạng tiếp tục y như vậy. Thật khủng khiếp khi nhìn
thấy đứa bé hiếu động nay nằm bất động, chỉ có phần ngực khẽ rung lên vì hơi thở
khó nhọc. Từ giờ nầy sang giờ khác, Rose và bà Newman đứng bên nôi em để đút
từng muỗng đường và nước vào giữa đôi môi bé tí khô giộp.
Hầu như tôi quên cả chuyện nhà máy xay vào chiều thứ sáu khi Maurice Brunache
lại gọi để báo chúng tôi đã mất hơn 50.000 mỹ kim trong vòng một tuần. Thứ bảy
đến. Buổi truyền giảng sẽ bắt đầu vào ngày mai mà Steve vẫn không đỡ. Một cửa
hiệu lớn ở địa phương đã tặng một loại thảm trải màu xanh sáng dùng cho phía
trước phòng khán giả ngay dưới bục giảng, một cuộn thảm rất lớn rộng hơn 6m và
dài hơn 30 mét. Chiều thứ bảy tôi có mặt ở đấy để theo dõi việc lắp đặt, thì thình
lình tôi biết rằng nếu tôi không đi khỏi đó, tôi sẽ khóc lớn.
“Công việc nầy không có tôi cũng được”. Tôi lẩm nhẩm với anh chàng đến từ cửa
hàng Đồ Trang Trí Nội Thất Josephin và bước nhanh ra xe chỉ để phóng đi. Tôi đi
ra thành phố, ra ngoài vùng Thung Lũng San Joaquin. Trong các vườn nho, những
chiếc lá nho vàng úa xào xạc buồn bã bên những cây chói trong ngọn gió tháng
mười.
“Lạy Chúa Jesus. Ngài là cây nho. Chúng con chỉ là cành nho và nhánh nho.
Không có Ngài chúng con không làm được gì cả. Chắc chắn tuần nầy con không
thể làm nổi việc gì cả. Có phải bởi vì Ngài đã không hiện diện trong chiến dịch nầy
chăng? Hay con đã phát động toàn bộ công việc phức tạp nầy mà không có Ngài?”
Ngay cả khi tôi nói, có một tiếng nói đáp trả. Một tiếng nói ở bên trong, song
không thể nào lầm lẫn được, như thể là tôi đã nghe bằng chính tai mình.
“Demos, ngươi phải bỏ chiến dịch Fresno nầy đi. Ngươi phải trở về Los Angeles
để chăm sóc thích đáng cho con ngươi và coi sóc công việc làm ăn. Ngươi đang
làm sỉ nhục danh ta vì bệnh tật và sự thua lỗ”.
Tôi tấp xe vào bên trong lề và tắt máy bằng đôi tay run rẩy. Dầu giữa sợ hãi và lo
lắng, tôi vẫn không trông mong câu trả lời như vậy. Vậy thì tất cả điều dường như
là sự khích lệ, tất cả những lời cầu nguyện được nhậm đều chỉ là sự tưởng tượng
của tôi sao?
Nhưng...tôi có thể làm gì bây giờ? Chắc chắn là đã quá muộn để chấm dứt các kế
hoạch đã được chuẩn bị từ lâu?
Đấy chính là sự kiêu ngạo của ngươi. Chỉ vì ngươi sợ người ta cho ngươi là ngốc
nghếch.
Cuối cùng tôi mở máy và quay về ngôi nhà ở phố G. Cơn sốt của Steve vẫn còn ở
mức 40 độ. Ông Billy Adams đã đến, bà Newman cho tôi biết là người trưởng ca
đoàn từ Los Angeles và ông ta đã đi xem giảng đường. Rose đã ngủ thiếp đi trong
phòng của Gerry. Lần đầu tiên tôi nhận ra là mình đã kiệt sức như thế nào. Tôi nằm
xuống nhưng giấc ngủ không đến .
Ngươi phải bỏ chiến dịch đi. Ngươi phải trở về Los Angeles. Suốt đêm tôi trăn trở
trên giường, lắng nghe tiếng ho yếu ớt khô cứng và khó nhọc của bé Steve. Tôi
nghe thấy tiếng Billy Adams đến. Nghe tiếng Rose chuẩn bị các túi nước đá trong
bếp.
Sự kiêu ngạo của ngươi...Sự kiêu ngạo của ngươi...
Bên ngoài, trời bắt đầu sáng. Steve bắt đầu khóc, một tiếng khóc khe khẽ, yếu ớt.
Chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ không tấn công một đứa bé chỉ vì để dạy tôi sự khiêm
nhường chứ? Nhưng giọng kiện cáo vẫn cứ tiếp tục.
Hãy bỏ chiến dịch ấy đi. Hãy trở về Los Angeles. Ngươi sẽ bị phá sản.
Tôi ngồi thật thẳng trên giường. Tôi đã nhận ra tiếng nói ấy rồi! Chính là tiếng nói
đã thì thào bên tai khi tôi lái xe đến Fresno vào ngày thứ ba. Và ngày hôm qua,
cũng chính tiếng nói ấy ở chỗ vườn nho. Sợ hãi, nghi ngờ, bối rối. Tự chán ghét
mình. Đó không phải là các dấu hiệu của sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đó là
những công cụ của kẻ lừa dối quỷ quyệt.
Và nếu hắn ta chống lại các buổi truyền giảng ấy, thì Đức Chúa Trời phải bảo vệ
các buổi truyền giảng ấy.
“Rose! Billy!”
Tôi chạy ra phòng khách nơi Rose đang ẵm Steve đi đi lại lại. Billy Adams ra khỏi
nhà bếp mang theo bình cà phê mới pha.
Tôi kể lại “Chính là satan, chính satan đang tìm cách để khiến chúng ta phải hủy
bỏ toàn bộ công việc! Đức Chúa Trời muốn chúng ta giữ các buổi truyền giảng
nầy.
Billy đặt bình cà phê lên mặt bàn gương “Ông đã bao giờ nghi ngờ điều đó không,
Demos?”
Cuộc tấn công quá tinh vi, quá sắc bén đến nỗi tôi đã phải xưng nhận là mình đã
nghi ngờ.
“Nhưng bây giờ thì không còn nghi ngờ nữa”, tôi nói, chiều nay chúng tôi sẽ đến
đấy và chúng tôi sẽ ngợi khen Chúa, chúng tôi sẽ cười vào mặt ma quỷ”.
Và chúng tôi đã làm điều đó, khẳng quyết sự đắc thắng của Đức Chúa Trời mặc
dầu theo con mắt bên ngoài thì không có gì thay đổi cả. Suốt chặng đường dài năm
căn phố đến giảng đường. Rose đã khóc vì phải rời Steve mặc dầu chúng tôi luôn
nhắc nhau rằng bé đang ở trong bàn tay chăm sóc tốt nhất của bà Newman.
Khi các bức màn dài được kéo ra và Rose ngồi ở chiếc dương cầm đánh bản thánh
ca đầu tiên cho buổi lễ khai mạc vui tươi, thì không một ai trong đám đông khán
giả gần tràn đầy giảng đường to lớn ấy biết được rằng nàng đang mang một nỗi ưu
tư lớn lao. Kế đó, Billy bước đến máy vi âm và mời toàn thể hội chúng đứng lên và
cầu nguyện xin Chúa chữa lành cho Steve. Chúng tôi cầu nguyện, chúng tôi ca hát,
chúng tôi ngợi khen Đức Chúa Trời. Thánh Linh hiện diện trong buổi nhóm mạnh
mẽ đến nỗi khi chúng tôi trở về nhà để ăn chiều giữa buổi nhóm chiều và buổi
nhóm tối, tôi nghĩ cả ba chúng tôi đều mong thấy Steve chập chững đi ra cửa đón
chúng tôi.
Nhưng không có sự thay đổi gì cả. Và Newman đang thay bộ đồ ngủ đẫm mồ hôi
của bé trong khi Gerry trải một tấm phủ mới trên nệm nôi.
Vào giữa khuya khi chúng tôi trở về sau buổi nhóm tối thì mọi sự cũng vậy. Sốt
cao cũng như vậy, đôi mắt em mờ đục và không có định hướng.
Tuy nhiên, có một điều gì đó đã khác đi trong ngôi nhà gỗ nhỏ. Lần đầu tiên kể từ
khi đến đây, tôi ngủ vùi ngay khi đầu tôi chạm vào gối.
Tôi giựt mình thức giấc vì tiếng đập cửa của bà Newman: “Sốt hạ rồi, thân nhiệt bé
đã trở lại bình thường. Ô nào, hãy đến xem mau!”
Bà Newman, Rose, Gerry và tôi xúm xít quanh nôi, Steve vẫn nằm yên, trông xanh
xao và mệt nhọc, nhưng trong đôi mắt nâu mở lớn có một chút dấu hiệu của sự linh
lợi trước kia.
“Con muốn ăn bánh”, em nói
Đến buổi chiều khi chúng tôi chuẩn bị đi nhóm thì em đã ngồi dậy được, ăn ngấu
nghiến cả một hộp bánh lạt. Đến sáng hôm sau thì không còn một dấu hiệu nào cho
thấy em vừa trãi qua một cơn bệnh.
Trong suốt thời gian em bệnh, chúng tôi dường như không hề nghĩ đến cuộc khủng
hoảng trong công việc làm ăn, huống chi là một thứ nhỏ nhặt như chiếc đồng hồ
đeo tay đã bị lạc mất. Rose nói, trong buổi sáng thứ tư. “Bây giờ em sẽ đi tìm lại
cái đồng hồ”. Điều đó hẳn sẽ cho chúng ta biết ngay từ ban đầu ai là kẻ đứng đằng
sau mọi sự rắc rối nầy, Demos. Đó chính là một loại mưu kế hèn hạ nhỏ nhen mà
hẳn là Satan đã lợi dụng.
Mọi người trong chúng tôi đều cùng nhau tìm kiếm, lục lọi từng ngăn kéo, từng
phòng nhỏ, từng chiếc tủ áo quần và sờ nắn từng mảnh vải.
Không thấy chiếc đồng hồ.
Tin tức từ nhà máy xay cũng chẳng có gì khích lệ hơn. Việc hạ giá ngũ cốc không
phải chỉ là một sự ngẫu nhiên của thị trường. Điều đó cho thấy một sự trì trệ chung
trên toàn quốc trong việc bán hàng hóa. Mỗi ngày nhà máy xay lại mất hàng ngàn
mỹ kim.
Cuối tuần đó, khi bố tôi ẵm Richard lên lòng. Ông đã báo động thật rõ ràng
“Chúng ta không thể duy trì nhà máy nữa, Demos à. Nếu có nhiều tuần lễ nữa xảy
ra như tuần rồi, chẳng bao lâu chúng ta sẽ mất cả công việc làm ăn.
Vào sáng thứ bảy khi tôi đang lái xe đưa bố và Richard đến khu hội chợ của Hạt ở
tại Fresno.
Người chăn nuôi bò sữa ở trang trại không bao giờ sung sướng cho bằng khi nhìn
thấy những con bò tươi tốt, vì vậy tôi hy vọng nó sẽ giúp bố và tôi quên đi những
phiền muộn về tài chánh trong một vài giờ đồng hồ.
Còn quá sớm để phải trở về chuẩn bị cho buổi nhóm chiều. Ở cổng ra của khu hội
chợ, Richard dừng lại say mê nhìn một người đàn ông đang bán các loại tắc kè một
mỹ kim một con.
“Bố! Bố cho con...”
“Đừng có tầm phào con à! Con muốn làm cho mẹ phát cáu hay sao mà định đem
cái thứ nhầy nhớp nầy vào nhà”
“Đi, bố, đi! Nó không nhầy nhớp đâu mà “. Thằng bé bốc lấy một con và vuốt ve
nó bằng đầu ngón tay “Đi bố!”
Tôi ngó chăm Richard vì ngạc nhiên. Thật hoàn toàn không giống bản tánh của nó
khi năn nỉ như vậy. Tôi còn ngạc nhiên hơn khi bố lấy ví tiền ra và đưa cho nó một
đồng.
“Cho nó mua con tắc kè đi!” Bố khẽ mắng tôi. Tôi leo vào xe với một tiếng thở
dài. Bố không hề nuông chiều tôi như vậy khi tôi còn là một cậu bé.
Trên đường về nhà, tôi quay sang Richard “Này, Richard con sẽ phải để nó ở ngoài
cỏ, không thì trong nhà đầy tiếng thét của phụ nữ đấy!”
“Vâng thưa bố, nhưng con chỉ cho em Gerry xem thôi có được không? Bố bảo em
chạy ra xem nhé!”
Nhưng tôi hết hồn khi thấy bà Newman chạy ra đón. Bà khẽ liếc trộm vào tay
Richard và mỉm cười vui thích: “Con tắc kè bông!”. Bà kêu lên “Ồ dễ thương quá,
đẹp thật! Chúng ta hãy tìm một cái hộp để giữ nó!”. Bà vội chạy đến chỗ phế thải
đang nằm đợi xe rác chiều thứ bảy sẽ đến lấy.
Một con tắc kè bông, chính vì nó, bà Newman lục lọi trong đống hộp giấy đã bỏ đi:
“Cái nầy lớn quá. Không, phải tìm cái nào cao hơn một tí. Đây rồi, cái nầy là vừa
nhất”
Bà mở chiếc nắp của một chiếc hộp đựng giầy. Chiếc hộp mà trong một tiếng đồng
hồ nữa sẽ nằm gọn trong đống phế thải trên một chiếc xe chở rác. Chiếc đồng hồ
có đính hột xoàn nằm trong chiếc hộp ấy. Thế là cả nhà đã tìm lại được chiếc đồng
hồ trong ngày hôm đó, không kể con tắc kè được mọi người ưa thích, ai nấy hiểu
thấu sự chăm sóc của Đức Chúa Trời dành cho mỗi một chi tiết của đời sống mình.
Và khi các buổi nhóm đã bước sang tuần lễ thứ ba, một tuần lễ đáng ghi nhận, các
đám đông mỗi đêm một tăng thêm và các phép lạ xảy ra trên tấm thảm xanh nằm
trước bục giảng. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu Chúa có giải cứu hoạt động của nhà máy
chúng tôi chăng. Chắc chắn đối với Ngài, vấn đề của một nhà máy vô phương cứu
vãn cũng chẳng lớn lao gì hơn một vật kỷ niệm bị thất lạc. Và nếu Ngài không giúp
đỡ, chúng tôi chắc chắn sẽ mất vật kỷ niệm ấy rồi. Chúng tôi vẫn đang trả theo giá
mua cao của mùa đông năm ngoái, mặc dầu mỗi ngày vẫn phải bán ra theo giá hạ
lúc nầy.
Nhưng ngày lại ngày, vẫn chẳng có gì thay đổi, ngoại trừ tình trạng tồi tệ hơn. Thật
là một giai đoạn lạ thường. Mỗi buổi chiều, trong các buổi giảng của chúng tôi,
hàng trăm tân tín hữu đã xác quyết vững vàng trong niềm tin mới mẽ của họ. Mỗi
đêm có hơn hàng trăm người tiến lên phía trước tòa giảng để dâng đời sống họ cho
Đấng Christ, hoặc để đựợc chữa lành, hoặc để được báp têm bằng Thánh Linh. Và
mỗi buổi sáng, tôi lại dành thời gian ở bên máy điện thoại với các nhà mua và bán
ngũ cốc, chịu trách nhiệm về sự thiệt mất hàng ngàn mỹ kim.
Điều đó nhắc tôi nhớ lại chiến dịch truyền giảng ngoài trời lần đầu tiên, ở tại Đại lộ
Goodrich, khi mà công việc truyền giảng thành công trong lúc nhà máy phân bón
của tôi thì lại thất bại. “Lạy Chúa, nếu Ngài bảo những người nầy ở tại Fresno đây
quan trọng hơn là nhà máy ngũ cốc của súc vật, thì Ngài biết con không phản đối.
Chỉ có điều là con ao ước Ngài hãy bảo cho con biết trước khi con sắp đặt hết thảy
lúa thóc ngũ cốc ấy.
Tôi đang ngồi trong căn bếp của căn nhà ở phố G. Lúc ấy là một buổi sáng tháng
mười đẹp trời, đã khá trễ, và mọi người đang làm các công việc lặt vặt. Tại đó,
trong ngôi nhà yên tĩnh chỉ có tiếng o o của chiếc tủ lạnh làm bầu bạn. Dường như
tôi nghe được một tiếng nói, mệt mỏi và hơi hóm hỉnh một chút:
Ta đã bảo ngươi rồi Demos à!
Tôi bứt rứt một cách khó chịu trên chiếc gỗ cứng. Có thật không? Từ ban đầu, qua
bố tôi, có phải Chúa đã báo cho tôi biết tình trạng nầy không?
Bởi vì vấn đề chính của cái nhà máy ấy...tôi có bao giờ nghe Chúa phán rõ ràng
rằng đó là một phần kế hoạch Ngài dành cho gia đình Shakarian đâu? Hay là nó chỉ
là ý tưởng lạc quan của tôi mà thôi? Logic cũng có một phần, mà sự tham lam cũng
có một phần, cũng có hơi cố ý muốn dành thêm quyền thế, có lẽ bởi một người mà
Đức Chúa Trời đã cung cấp nhiều rồi. Bấy giờ, lần đầu tiên tôi hỏi Ngài một cách
có ý thức, có chủ tâm về hoạt động của nhà máy. Câu trả lời đến thật to và rõ:
Công việc đó không dành cho con Demos à. Những công việc làm ăn có tính cách
đầu cơ là công việc mất trọn thì giờ, ta sẽ không bao giờ cho con trọn thì giờ để
làm bất cứ một công việc làm ăn nào.
Thế rồi tại đó tôi quỳ gối xuống, hai tay đặt trên chiếc ghế gỗ “Lạy Chúa Jesus, xin
hãy tha thứ cho con, vì con đã chạy đi trước Ngài, đầu tư vào một công việc mà
Ngài không hề kêu gọi con. Lạy Chúa, ai là người Ngài chọn cho công việc nầy.
Anh ta là người có thể đảm nhiệm công việc nầy và phát triển nó, anh ta ở nơi nào
đó. Xin Ngài hãy sai anh ta đến đây bây giờ cho chúng con. Lạy Chúa”. Tôi nhìn
quanh vẻ có lỗi, nhưng tôi vẫn chỉ có một mình và chẳng có ích gì để trốn khỏi
Chúa điều đã có ở sẵn trong tấm lòng, bởi vì Ngài nhìn thấy từng chỗ kín dấu, nhơ
bẩn của tấm lòng.
“Lạy Chúa, xin hãy khiến anh ta đề xuất một giá cả phải chăng!”
Tôi mong đợi bố hài lòng với quyết định bán nhà máy. Nhưng tuần lễ tiếp theo, khi
tôi cho ông biết ý định ấy, ông chỉ lắc đầu “Làm thế nào mà mong tìm được một
người mua nhà máy giữa một thời điểm như thế nầy? Không ai đi mua công việc
làm ăn ngũ cốc vào lúc nầy cả. Vì sao? giá trị của nhà máy mỗi ngày mỗi kém đi.
Người ta chỉ việc đợi đến khi nào nhà máy vỡ nợ rồi mua rẻ để đánh các thứ thuế.
“Con sẽ bán bố à”. Tôi nói, cố gắng vì bố mà nói nghe cho tự tin “Và sẽ bán nhà
máy với giá cả phải chăng”
Tuần lễ thứ ba trong các buổi truyền giảng ở tại Fresno kết thúc bằng một buổi
nhóm sáng Chúa nhật chỉ còn chỗ đứng. Mục sư William Branham là nhà truyền
giáo trong tuần lễ đó, và khi cặp song sinh điếc và câm, hai bé trai năm tuổi thình
lình bắt đầu nghe được và bập bẹ được những âm thanh vô nghĩa (các em chưa hề
nghe được một ngôn ngữ thật sự nào) thì nơi nhóm lại oà vỡ niềm vui mừng mà
chúng tôi chưa từng thấy.
Sáng thứ tư của tuần lễ thứ tư, bố tôi điện thoại từ thành phố Los Angeles.
“Demos”, ông nói “Con sẽ không tin nổi điều nầy nhưng bố vừa nhận được một cú
điện thoại từ Adolph Weinberg. Ông ta muốn mua nhà máy xay của chúng ta”
Cũng như chúng tôi, Weinberg là một nông gia ở tại miền nam California. Anh ta
là một người Do thái, có lòng tin kính, ông không lấy làm bàng hoàng quá mức khi
bị đánh thức vào lúc ba giờ sáng hôm ấy bởi một tiếng nói mà ông biết là tiếng của
Đức Chúa Trời.
Adolph Weinberg thuật lại tiếng nói đã phán với ông. “Ta muốn con gọi điện cho
Issac và đề nghị mua nhà máy của họ”.
Vâng lời Chúa, ông đã gọi điện cho bố. Ông nóng lòng muốn gặp mặt và thảo luận
về thời hạn.
“Bố không thể, Bố nói tiếp “Bây giờ - luôn luôn! Làm thế nào ông ta biết được
chúng ta đang mua bán? Ngoài bố, con có nói với ai không?
“Không, bố à!”
“Dầu sao”, bố tiếp tục “Ông ta hoàn toàn sẵn sàng để đi sớm nhất. Khi nào thì con
có thể trở về đây được?”
“Thưa bố, bố biết con không thể rời nơi nầy bây giờ được”
“Thế tại sao con không xác định ngày?
“Bởi vì các buổi truyền giảng còn kéo dài hơn hai tuần nữa cộng thêm những ngày
phải thu dọn ở nơi đó”
“Nhưng không có mặt con trong một hai ngày thì vẫn chẳng sao cả. Không cần
thiết con phải luôn luôn có mặt ở đó”.
“Bố ơi, không phải vì các buổi nhóm mà vì con. Vì điều mà Chúa đang bày tỏ cho
con. Từ khi các buổi nhóm nầy bắt đầu, có những điều kỳ lạ đang diễn ra. Vì lý do
gì đó, những điều nầy là một thời kỳ thử nghiệm dành cho con, quan trọng hơn bất
cứ điều gì con từng trải qua. Đức Chúa Trời đang hỏi con. Ai là người quan trọng
đối với con nhất? Thưa bố, con muốn dâng cho Ngài câu trả lời phải lẽ”
“Vậy nếu Weinberg đổi ý thì sao?”
“Nếu ông ta là người mua mà Chúa sai đến thì ông ta sẽ không đổi ý”
Trong mười ngày tiếp theo đó, hầu như ngày nào Adolph Weinberg cũng điện
thoại cho bố. Ông ta thật không tin nổi vì sao chúng tôi đã để một khách hàng như
ông, với tiền mặt sẵn có trong tay, lại phải chờ đợi như vậy, trong khi cứ mỗi ngày
bảng kê khai các tháp chứa thực phẩm của chúng tôi lại giảm bớt giá trị. Tôi cũng
không hiểu tại sao nữa. Tôi chỉ biết rằng Fersno là nơi Chúa dành cho tôi trong thời
điểm đó.
Ngày cuối cùng trong chiến dịch truyền giảng kéo dài năm tuần lễ đã đến. Buổi
nhóm Chúa nhật đã được ấn định sẽ bắt đầu vào lúc hai giờ rưỡi. Nhưng đến mười
hai giờ ba mươi thì 3500 chỗ ngồi trong giảng đường đã chật người, vì vậy chúng
tôi bắt đầu. Đến hai giờ đã có thêm 1500 người đứng đầy ở các lối đi, hàng trăm
người đang đợi ở bên ngoài. Đến năm giờ, là giờ phải kết thúc buổi nhóm chiều.
Nhưng tinh thần ngợi khen trong căn phòng rộng lớn ấy mạnh mẽ đến nỗi tôi
không thể ngưng buổi nhóm như đã dự tính.
Sáu giờ, bảy giờ. Vẫn không có một người nào rời buổi nhóm. Hầu hết những
người nầy đã có mặt ở đây từ trước buổi trưa, vậy mà không ai muốn đi ăn tối vì sợ
không thể vào trở lại được.
Chương trình chúng tôi đã dự định cho buổi tối đã bị bỏ khi Đức Thánh Linh nắm
quyền kiểm soát buổi nhóm. Kelso Glover là diễn giả của tuần lễ cuối cùng đó,
nhưng ông nói rằng quyền kiểm soát đã hoàn toàn bị cất khỏi tay ông ta.
Ông nói với tôi “Giống như giòng nước. Quyền năng đang tuôn chảy trên tấm thảm
ấy y như là nước. Khi tôi bước ra đấy, tôi cảm thấy giống như đang lội đi rõ ràng
trong mực nước cao đến đầu gối”.
Người ta bắt đầu tiến lên phía trước và được chữa lành trong những lối đi. Có một
thanh niên bị đau đớn nhức nhối vì một con mắt bị thương. Ngày hôm trước khi
anh đang bừa đất bên dưới những cây đào thì ống xả trong chiếc xe máy kéo của
anh vướng vào dây thép phơi đồ, không hay biết, anh cứ tiếp tục lái chiếc máy kéo.
Sợi dây phơi đồ càng lúc càng căng cho đến khi đứt bung, quất ngược vào mắt trái
của anh. Bác sĩ đã băng vết thương bằng một miếng băng kín hơi, nhưng họ không
nói trước rằng anh có thể nhìn thấy trở lại được bằng con mắt đó.
Oca Tatham tiến lên phía trước, sau nầy anh ta kể lại cho chúng tôi, hầu như muốn
ngất vì đau đớn, bàn tay cấp kỳ của mục sư Kelso Glover đã chạm vào trán anh,
mọi dấu vết của sự đau đớn đều biến mất, và một cảm nhận khó tin nổi về sự lành
mạnh tràn ngập trong con mắt bị thương.
Trước sự chứng kiến của 5.000 người, Tatham bắt đầu tháo băng, dần dần lớp bặng
quấn quanh đầu anh được tháo bỏ cho đến khi có một đống nhỏ gạc trắng nằm
dưới chân anh ta. Miếng băng trong cùng được giữ bằng miếng băng dính, và anh
rứt nó đi.
Cả hai con mắt xanh toàn vẹn đang nhìn chằm chằm với một vẻ sửng sốt không tin
nổi từ mục sư Kelso sang tôi, không hề có một vết sẹo hay một vết bầm nào cả.
Con mắt trái của Tatham thậm chí cũng không một vết đỏ nữa.
Trước khi buổi nhóm khó tin đó kết thúc thì đã quá nửa đêm. Đã hơn mười một giờ
rưỡi, vậy mà khi lái xe về nhà tôi cảm thấy tươi tỉnh hơn cả buổi sáng trước đó.
Rose và mục sư Glover cũng nói như vậy. Tôi cảm thấy choáng váng, phấn chấn,
giống như một người ở trong trận chiến xáp lá cà thình lình nhìn thấy kẻ thù bỏ
chạy. Một lần nữa tôi lại nghĩ đến những lời của Charles Price:
“Đây là trận chiến chúng ta đang tham gia, Demos à”. Có lẽ tầm cỡ của chiến
thắng và sự cay đắng của trận chiến có liên hệ với nhau. Có lẽ kẻ thù đã chiến đấu
mạnh nhất nơi nó sợ nhất...
Bấy giờ chỉ còn lại những công việc lặt vặt về mặt tài chánh cần phải thanh toán,
cần bắt đầu chương trình chăm sóc, đóng cửa căn nhà thuê. Weinberg lại tiếp tục
gọi điện trở lại.
“Thứ hai tôi sẽ có mặt tại nhà, ông Weinberg à”, tôi hứa. “Ông phải mừng vì tôi đã
không về sớm hơn được, vì mỗi ngày chờ đợi thì giá cả lại càng hạ cho ông.”
Tôi đặt nửa triệu mỹ kim tiền mặt cho một công ty đang mất giá, thế mà anh cứ
tiếp tục trì hoãn. Tôi không hiểu nổi suy nghĩ của anh”
“Chiều thứ hai”, tôi hứa.
Hai giờ chiều thứ hai. Bố tôi, ông Adolph Weinberg và tôi ngồi lại để bắt đầu
thông qua công việc chuyển nhượng phức tạp các nhà máy, máy móc, bảng thống
kê. Cuối buổi họp thứ nhất, ông ta đã quyết định giá cả, nhưng còn cách giá chúng
tôi đòi 25.000 Mỹ kim
“Đó là giá cuối cùng của tôi”. Ông Adolph Weinberg nói “Tôi không thể trả cao
hơn được”
Tôi nhìn qua bố ở bên kia bàn. Bố tôi lắc đầu “không!”
“Và nhà máy vẫn thuộc về chúng tôi, ông Weinberg à”
Vậy là cuộc thương lượng đã bị trì hoãn. Chúng tôi đã nghĩ như thế. Nhưng vừa
sáng hôm sau, mới sáu giờ, chuông điện thoại đã reo vang
“Ông Sharkarian đó ư? Tôi Weinberg đây. Các ông có thể đến dùng điểm tâm với
tôi chăng?”
Bố và tôi lái xe đến nhà ông Weinberg. Khi đang dùng món trứng khuấy với sữa và
bơ, ông cho chúng tôi biết Đức Chúa Trời đã lại đánh thức ông vào nửa đêm. Lần
nầy với một huấn thị: Sáng sớm mai con phải gọi điện cho nhà Shakarian và trả tới
giá họ nêu.
Aldolph Weinberg nói “Vì thế tôi đây, khách hàng của các anh. Theo như giá các
anh đã nêu. Hãy bắt tay với tôi, Ông Issac và anh Demos. Tôi muốn ngủ trở lại một
giấc đầy đủ từ buổi tối hôm nay”.
Chính Chúa đã dẫn dắt chúng tôi vượt qua một trong những thời kỳ khó khăn nhất
trong đời mình. Nếu sự tấn công đến từ satan, thì Đức Chúa Trời đảm bảo chắc
chắn rằng không có một sự thiệt hại thật sự nào được thực hiện cả. Steve đã thoát
khỏi bệnh tật vô sự. Và chúng tôi đã thoát khỏi một công việc làm ăn mà mình
không hề thích nghi được. Dưới quyền điều hành của Weinberg, hoạt động của nhà
máy đã phát đạt.
Tôi có một cảm nhận rất mạnh mẽ rằng Đức Chúa Trời đã cho phép mọi điều nầy
xảy đến để chuẩn bị tôi cho một loại công việc mới nào đó mà Ngài muốn tôi làm.
Công việc đó là gì tôi không hề biết. Nhưng chắc chắn đó là một công việc khá
nghiêm nhặt, bởi vì cuộc sống rèn tập mà tôi vừa mới hoàn thành thật là gay go.
Nhà Hàng Tự Phục Vụ Clifton
Những người nam, những người nữ bình thường. Những người làm việc trong các
cửa hàng, các văn phòng và các phân xưởng...
Tôi có thể nghe lời nói của mục sư Charles Price rõ ràng như thể là ông đang ngồi
đối diện với tôi nơi bàn ăn trưa: “Anh sẽ làm chứng về một trong những biến cố
lớn đã được báo trước trong Kinh Thánh. Ngay trước khi Chúa Jesus trở lại trái
đất, Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ ngự trị trên mọi loài xác thịt”.
Mục sư Price đã nhấn mạnh; các tín đồ sẽ là ống dẫn quan trọng nhất của Ngài,
không phải hàng giáo phẩm, các nhà thần học hoặc những nhà truyền giảng có ân
tứ lớn lao, bèn là những người nam, người nữ làm các công việc bình thường trong
giới bình dân.
Lần đầu tiên, khi mục sư Price nói điều nầy, cách đây năm, sáu, bảy năm trong
chiến tranh. Tôi khó mà hiểu được. Dường như không thể nào những con người
không được huấn luyện lại có thể có được sức ảnh hưởng như một nhà truyền giáo
vĩ đại như chính Charles Price được.
Nhưng khi thập kỷ bốn mươi sắp kết thúc, tôi thấy chính mình ngày càng hay suy
nghĩ đến những điều khác nữa: Căn phòng khách ở tại Nông Trại Quả Mọng của
Knott thì từng khuôn mặt của người nầy đến người kia dường như tỏa sáng sự vinh
hiển của Đức Chúa Trời, ảnh hưởng của việc lắng nghe những người thuật lại kinh
nghiệm trong cuộc đời họ. Thật là một sức mạnh không thể cưỡng lại được nếu
như hàng trăm - hàng ngàn, những con số như vậy tập hợp lại để rao truyền Tin
Mừng ấy cho khắp cả thế giới...!
Và sau đó tôi lại kéo tâm trí mình trở lại những con số của sản phẩm sữa ở trước
mặt mình.
Nhưng ý tưởng ấy không chịu để tôi yên. Nó đánh thức tôi giữa đêm khuya. Nó đi
cùng tôi vào văn phòng làm việc. Nó bùng cháy trong tôi khi tôi cất tiếng hát
những bài hát cổ của xứ Acmêni trên Đại Lộ Goodrich.
Hẳn nhiên, Rose và tôi lúc nào cũng tiếp tục bảo trợ cho các nhà truyền giáo trong
mỗi mùa hè. Và cứ mỗi mùa hè, các buổi truyền giảng dường như lại thành công
hơn mùa hè năm trước. Vì sao tôi lại vẫn có sự không yên nghỉ lạ lùng nầy? Có
phải nhận thức nầy cho thấy các buổi truyền giảng ấy không còn là công việc dành
cho tôi nữa chăng? Mùa thu năm 1951, chúng tôi giúp cho việc tổ chức chiến dịch
Los Angeles của mục sư Oral Robert, chiến dịch lớn nhất chưa từng thấy ở tại
thành phố với hơn 200.000 người tham dự trong mười sáu ngày. Tuy nhiên...
“Tuy nhiên” tôi nói với Oral một buổi tối khi chúng tôi ngồi lại với nhau với đĩa
bánh ngọt và cốc cà phê trong một bữa ăn tối thâu đêm sau buổi nhóm, “Tôi vẫn
luôn có cảm giác rằng Đức Chúa Trời đang bày tỏ cho tôi một điều gì khác”.
“Điều gì vậy, Demos?”
“Đó là một nhóm, một nhóm người, không phải những người khác thường. Họ chỉ
là những doanh nghiệp trung bình, họ biết Chúa và yêu mến Ngài, nhưng không
biết bày tỏ điều đó như thế nào”
“Vậy nhóm người ấy sẽ làm gì?”
“Họ nói về Chúa cho những người khác, Oral à, không phải bằng lý thuyết. Họ
thuật lại những gì họ đã thật sự kinh nghiệm về Chúa với những người khác giống
như chính họ, những người hẳn sẽ không tin điều mà ông mục sư nói, ngay cả một
người như anh nhưng họ sẽ bằng lòng nghe một người thợ ống nước, hoặc một nha
sĩ, hoặc một người buôn bán, bởi vì chính họ cũng là thợ đặt ống nước, là nha sĩ, là
những người mua bán.”
Oral đặt mạnh chiếc tách xuống đến nỗi cà phê sánh ra chiếc đĩa “Demos à, tôi
nghe đây, tôi nghe điều đó người anh em à! Anh định gọi cái nhóm ấy là gì?”
Thậm chí tôi biết tên gọi đó là “Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các
Doanh Nghiệp Cơ Đốc”
Oral ngó chăm tôi “Tên nghe cũng khá dài nhỉ?”
“Phải, nhưng anh không thấy sao, mỗi một chữ đều không thể thiếu được. Trọn
Vẹn nghĩa là không có vấn đề gì không được nhắc đến trong các buổi nhóm lại của
chúng tôi: Sự chữa lành, nói tiếng lạ.
Bất cứ điều gì người ấy kinh nghiệm, người ấy có thể nói lên, đúng như đã xảy ra.
Doanh Nghiệp là các tín đồ, những người bình thường; Tình Thông Công, đó là
điều mà tổ chức phải cảm nhận được. Một nhóm người yêu thương hiệp lại với
nhau, không phải là những tổ chức ràng buộc vì những luật lệ, những nghi thức.
Quốc Tế “Tôi biết cụm từ nầy nghe có vẻ vô lý”, tôi công nhận “Nhưng Oral nầy,
đó là những chữ Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục phán với tôi. Quốc Tế là cả thế giới,
mọi loài xác thịt”. Tôi bật cười, nghe mình nói giống như mục sư Charles Price.
Nhưng ông Oral cười, ông nói “Demos nầy, đúng vậy Chúa có dẫn dắt điều đó. Tôi
có thể làm gì để giúp anh bắt đầu?”
Chính thế! Có mục sư Oral Robert là diễn giả, thì hàng trăm doanh nhân Cơ Đốc sẽ
tham dự buổi họp mặt đầu tiên. “Ông Oral này, nếu tôi mời được các nhà kinh
doanh từ khắp các thành phố Los Angeles đến dự buổi nhóm vào sáng thứ bảy, thì
ông sẽ đến và giúp công việc nầy bắt đầu nhé!”
Và thế là công việc được chuẩn bị. Chúng tôi chọn lầu hai trong căn nhà ăn tự phục
vụ nằm trên Đại Lộ Số Bảy, một gian nhà rộng lớn được sử dụng vào những giờ
cao điểm suốt tuần lễ, nhưng thường trống vắng vào các buổi sáng thứ bảy. Sau đó
tôi gọi điện thoại cho mọi doanh nhân đầy dẫy Thánh Linh mà tôi quen biết thông
báo buổi nhóm họp đầu tiên của mối thông công mà với mục sư Oral là diễn giả
nổi bật, tôi cũng yêu cầu họ thông báo rộng rãi, mời bạn bè để giúp chúng tôi gây
được một bước khởi đầu sinh động. Có một chiếc dương cầm đặt trong một góc
phòng, được kê cao lên, tôi đã suy nghĩ việc đó và Rose cũng đã đồng ý đến và đàn
một số bản Thánh ca.
Ngày quan trọng ấy đã đến. Giao thông tại trung tâm Los Angeles dầy đặc vào
buổi sáng thứ bảy tháng mười hôm ấy, khiến cho Oral, Rose và tôi phải mất khá
lâu mới tìm được chỗ đậu xe. Chúng tôi đến hơi trễ và khá nôn nóng khi cuối cùng
đến được Nhà Hàng Tự Phục Vụ Clifton và leo lên các bậc thang rộng lớn giữa tòa
nhà. Có bao nhiêu người đang đợi chúng tôi ở trên phòng? Ba trăm chăng? hay bốn
trăm?
Chúng tôi đã lên hết bậc thang cuối cùng. Tôi đếm nhanh. Mười chín, hai
mươi...hai mươi mốt người. Kể cả ba người chúng tôi. Mười tám người kia đã
được thúc giục đủ về tổ chức mới để mà có mặt, thậm chí với một nhà truyền giáo
nổi tiếng thế giới như là một sự khích lệ.
Rose đàn một vài bài Thánh ca trên chiếc dương cầm nhỏ bị lạc mất vài nốt, nhưng
tiếng hát phản ánh một sự thiếu nhiệt tình trong gian phòng. Tôi nhìn quanh một
vòng những vị đã đến tham dự. Phần lớn trong số họ đều là những bạn bè cũ,
những người tận tâm, những Cơ Đốc Nhân có lòng với Chúa, đa số đều sẵn sàng
có mặt trong các buổi họp, các câu lạc bộ phục vụ và các tổ chức đô thị. Là lớp
người sẵn sàng tình nguyện khi công việc có cần, loại người không bỏ phí mất một
phút nào cho công việc trang bị mà chẳng đi đến đâu.
Rose dứt tiếng đàn và tôi đứng lên. Tôi thuật lại có một sự thuyết phục thể nào
ngày càng lớn mạnh lên trong tôi rằng trong thập kỷ tới đây, Thánh Linh Đức Chúa
Trời sẽ tìm kiếm những ống dẫn mới để Ngài hành động. Đây đó tôi thấy người ta
bắt đầu xem đồng hồ của mình. Không có các chiếc đàn Organ, không có những
khung cửa sổ có kính màu của nhà thờ, không có gì để những người ấy có thể xếp
chúng vào loại “tôn giáo”cả. Chỉ là một người nói cho người khác biết về Chúa
Jesus.
Tôi chẳng bao giờ có được khả năng để diễn đạt ý tưởng thành lời cả, tôi ngồi
xuống và biết rằng mình đã không làm cho người ta hiểu rõ ý.
Mục sư Oral Robert đứng lên. Ông bắt đầu cảm tạ Chúa vì cuộc hội họp nhỏ “Hầu
cho từ lúc bắt đầu đây sẽ là tổ chức của Ngài, bắt đầu từ con số hạt cải nầy dầu đối
với sự hiểu biết của con người, không phải là sự đáng cảm tạ”. Ông phát biểu
khoảng hai mươi phút, sau đó kết thúc bằng lời cầu nguyện. Ông hỏi “Chúng ta có
đồng ý không?”
Nhóm người ấy lục tục đứng lên.
“Lạy Chúa”, Mục sư Oral cầu nguyện “Xin Ngài hãy khiến Hội Thông Công nầy
phát triển trong sức mạnh của Ngài mà thôi. Hãy sai tình thông công nầy tiến lên
trong quyền năng của Ngài và lan rộng ra các quốc gia khắp thế giới. Lạy Chúa
Jesus, ngay giờ nầy chúng con dâng lời cảm tạ Ngài, bởi vì chúng con chỉ thấy một
số ít người trong Nhà Hàng Tự Phục Vụ nầy, nhưng Ngài nhìn thấy cả ngàn chi
hội”.
Với lời cầu nguyện đó, một sự việc thật sửng sốt đã xảy ra. Nhóm người nhỏ nhoi
đó, một phút trước còn đang ngồi quanh như các tá điền còn đang do dự, nay thình
lình sinh động hẳn lên. Chính Niềm Mơ Ước đến Một Ngàn Chi Hội của mục sư
Oral đã làm thay đổi bầu không khí. Bỗng nhiên chúng tôi nhìn thấy hẳn sẽ là một
cuộc phiêu lưu để mà nhìn xem Thánh Linh gây dựng căn phòng hoàn toàn trống
vắng nầy thành một đạo quân toàn thế giới gồm một ngàn bầu bạn khác nhau.
Một người bắt đầu cất tiếng hát:
“Ta xông ra nơi linh trận...”
Chúng tôi đều hòa theo “...Thập Tự Christ đi đầu...”
Tôi bước đến nắm lấy tay người kế bên mình và chẳng bao lâu hết thảy chúng tôi
đều nắm lấy thành một vòng tròn dậm đều chân và cất tiếng hát. Đơn sơ giống như
lớp Trường Chúa Nhật với một loại quyền năng kỳ lạ. Chúng tôi tiếp tục bước đều
chân và hát. Vài tuần lễ sau tổ chức Tin Lành Trọn Vẹn trong Tình Thông Công
Anh Em Quốc Tế của các Nhà Doanh Nghiệp đã bắt đầu với việc ký tên vào các
điều khoản của sự hợp nhất và việc bổ nhiệm năm vị vào ban chấp hành. Dầu vậy,
về mặt thuộc linh, tổ chức đã bắt đầu khi mục sư Oral bày tỏ Giấc Mơ có Một
Ngàn chi hội tham dự và chúng tôi đều nắm chặt tay nhau như những đứa trẻ và
dậm chân tại chỗ mà cất tiếng hát lên một bài ca chiến đấu.
“Rose này” Tôi nói khi chúng tôi lái xe về nhà trưa hôm đó “Trong vòng một năm,
chúng ta sẽ thấy những việc lạ lùng”
Và rồi tiếp theo đó là mười hai tháng nản lòng khó tin nhất mà tôi từng kinh
nghiệm. Sức khởi động mà chúng tôi cảm nhận được khi rời Nhà Hàng Phục Vụ
Clifton lập tức gặp phải sự trì trệ và sự đề kháng.
Chúng tôi bắt đầu tổ chức những buổi nhóm điểm tâm tại Nhà hàng Clifton vào
mỗi buổi sáng thứ bảy. Chúng tôi mang các khay có cà phê và bánh ngọt của nhà
hàng từ dưới lầu lên cho các bàn ở tầng trên để mọi người dùng trong hai tiếng
đồng hồ và cầu nguyện, làm chứng. Thỉnh thoảng chúng tôi có một diễn giả rất nổi
tiếng, nhưng hầu hết chúng tôi dựa chính vào các nhà kinh doanh. Thật vui mừng
đối với tôi, hiện tượng mà tôi đã từng kinh nghiệm ở tại Nông Trại Quả Mọng của
Knott, nay được lập lại: Giờ nầy sang giờ khác, tôi nhìn quanh phòng và “biết
được” ai là người có kinh nghiệm để chia xẻ.
Phải, các buổi nhóm là tất cả những gì mà tôi đã trông đợi. Chỉ vậy, không có sự
lây lan, không có sự tăng trưởng. Ba mươi vị, có khi bốn mươi vị có mặt tại đấy
trong một tuần, tuần kế có bốn mươi lăm vị, khi trồi khi sụt.
Và rồi sự chống đối bắt đầu. Các Mục sư ở trên bục giảng bắt đầu thắc mắc: Ông
Shakarian đang định làm gì vậy? Bắt đầu một giáo phái mới chăng? Hãy tránh xa
khỏi Hội Thông Công đó; coi chừng họ sẽ lôi kéo những người đàn ông cùng với
tiền bạc khỏi các hội thánh đấy.
Chính sự tấn công không ngay thẳng đó đã gây thiệt hại. Từ ban đầu, Rose và tôi
đã nhấn mạnh hai nguyên tắc ở mỗi buổi nhóm mà chúng tôi bảo trợ, đó là “Trước
hết, hãy cứ ở lại trong hội thánh của chính bạn. Nếu hội thánh của bạn biết quyền
năng của Thánh Linh, bạn hãy quay về và xác quyết để càng hầu việc Ngài hết
lòng hơn nữa. Nếu không hãy trở lại một hội truyền giáo”
“Và thứ hai, đừng bỏ một đồng bạc nào vào hộp tiền dâng của một nơi nào khác.
Bạn không phải dâng phần mười vào đấy. Bạn hãy dâng phần mười cho hội thánh
nhà của bạn. Bất cứ khoản tiền nào bạn dâng cho buổi nhóm nầy đều phải là khoản
tiền nằm ngoài khoản tiền đó.
Qua nhiều năm kinh nghiệm, chúng tôi đã hiểu biết rằng người ta thường để lòng
đến các vấn đề đó. Những người tham gia các buổi nhóm của chúng tôi luôn luôn
trở thành những nhân sự tích cực nhất và là những người ban cho rộng rãi nhất
trong vòng hội chúng ở tại hội thánh của họ. Nhưng dầu vậy các hội thánh vẫn
dòm ngó hội Thông Công với ánh mắt ngờ vực.
Sự công kích về mặt tiền bạc là một sự mỉa mai một cách đặc biệt; trọn năm đó
chúng tôi không hề nhận một khoản tiền dâng nào cả. Trong khi đó, hàng tuần tôi
đều gởi các lá thư để loan báo, gọi điện thoại đi khắp nước để mời các ông gia
nhập với chúng tôi khi họ đến Los Angeles trong công việc làm ăn. Rốt lại, phần
lớn thời gian tôi đã lo cho việc trả các buổi ăn sáng.
Nhưng một buổi ăn sáng miễn trả tiền dường như không đủ. Tôi không làm gì cho
đủ cả. Vì vậy tôi phải làm thêm. Tôi mua ba mươi phút của chương trình phát
thanh mỗi sáng thứ bảy và phát đi các phần của buổi nhóm để thu hút sự chú ý
rộng lớn hơn. Tôi đi khắp các tiểu bang, rồi sang đến các bang ở miền Tây, cuối
cùng dọc theo Bờ Biển Miền Đông. Nếu người ta không đến được với chúng tôi thì
chúng tôi sẽ đến với họ, mô tả điều chúng tôi đang cố gắng thực hiện, khuyên giục
họ bắt đầu một nhóm Tin Lành Trọn Vẹn của Các Nhà Doanh Nghiệp trong thành
phố của họ.
Đến tháng sáu thì tôi đã hoàn toàn kiệt sức. Sau một ngày trọn làm việc ở tại trại
bò sữa, tôi dành một buổi tối tổ chức Thông Công Anh Em. Gieo mình vào giường
ngủ vào ba hoặc bốn giờ sáng và mệt nhoài như một người đang lội ngược dòng
nước.
Thế rồi cuối cùng chúng tôi được ném cho một sợi dây cứu đắm. Một trong các
diễn giả chúng tôi mời đến Nhà Hàng Clifton là David du Plessis, một viên chức
của Hội Nghị Ngũ Tuần Thế Giới. Sau buổi nhóm khi chúng tôi lái xe cùng nhau
về Downey, David khó mà kiềm chế được sự phấn khích của ông.
Ông nói “Demos này, Anh thật được đại dụng tại đây. Thật là một ước mơ tuyệt
đẹp! Một mối thông công toàn cầu của những nhà kinh doanh bình thường được
đầy dẫy Đức Thánh Linh! Mỗi người là một nhà truyền giáo cho những người họ
đang làm việc với mình hàng ngày!”
“Cám ơn anh, David”, tôi nói một cách buồn bã “Nhưng tôi e rằng hầu hết mọi
người không nghĩ như anh”.
“Tôi nghĩ rằng”, David tiếp tục, chẳng màng đến tâm trạng của tôi “Tháng tới anh
phải đi Luân Đôn để thuật lại cho hội thánh chúng tôi về những việc nầy. Tôi bảo
đảm Hội Nghị sẽ lấy đó như là một chương trình cho chính họ”.
Thình lình tôi hết sức chú ý. Đúng vậy, đây là một sợi dây cứu sinh, đung đưa trên
đầu một hoạt động sắp chết đuối. Hội Nghị Ngũ Tuần đại diện cho khoảng mười
ngàn hội thánh toàn thế giới, nếu chúng tôi được buộc chung với họ thì chúng tôi
không còn là một nhóm nhỏ phải vật lộn để tồn tại nữa. Chúng tôi sẽ được bảo trợ,
chúng tôi sẽ được chính thức công nhận. David nhắc lại lời đề nghị với Rose, và
chúng tôi sốt sắng đồng ý.
Ngay lập tức, chúng tôi gặp phải sự chống đối của gia đình. Không phải vì việc
tham gia hội nghị mà là vì lộ trình bằng đường hàng không.
“Các con dự tính thế nào để đến được Luân Đôn?”
Cha tôi hỏi khi chúng tôi bắt đầu bàn đến việc đi đó. Tất cả chúng tôi đang ngồi
quanh phòng khách nhà họ Gabriel vào một buổi tối Chúa nhật sau khi đi nhóm ở
nhà thờ về. Tôi nhìn những gương mặt Acmêni nghiêm trọng chung quanh mình.
Mặc dầu đã là năm 1952, chỉ tôi là người duy nhất trong phòng nầy đã từng đi máy
bay, nhưng đó chỉ là máy bay nhỏ với các khoảng bay ngắn.
“Chèn ơi, Bố này. Bằng đường xe lửa xuyên lục địa rồi sau đó là bằng đường tàu,
thì sẽ mất rất nhiều thời gian mà Rose bây giờ thì không muốn xa các cháu lâu”.
Richard lúc ấy mười bảy tuổi, Gerry mười ba, và bé Steve gần được năm tuổi, và
đây là lần đầu tiên Rose xa chúng và chỉ bây giờ thôi vì bà Newman sắp đến ở với
chúng một thời gian ngắn.
“Các con tính đi bằng máy bay à?” Bố tranh luận sau một hồi suy nghĩ
Những khuôn mặt quanh phòng càng cau lại nhiều hơn “Tôi không hiểu cho cái gì
giữ cho chiếc máy bay không rơi”, Cô Siroon nói.
“Nó bay nhanh khiếp lắm”. Ông Sirakan Gabriel lo ngại
“Và bay ở trên mặt nước”. Bà Tiroon thêm vào
Đến cuối cùng khi chúng tôi đồng ý bay riêng rẽ từng người và phải ngồi ở chỗ sau
cùng trên máy bay, thì chuyến đi của chúng tôi mới được cầu nguyện chúc phước
của gia đình nhưng với một sự miễn cưỡng. Tôi sẽ phải lên máy bay trước, và đối
với tôi, dường như cả hội thánh từ nhà thờ Goorich đều đến tại Sân Bay Quốc Tế ở
Los Angeles để nhìn thấy tôi bay đi. Những lời chào tạm biệt, những cái ôm hôn
thắm thiết như tiễn một người sắp lên đoạn đầu đài. Những lời hứa sẽ cầu nguyện
cho tôi và có một lời khuyên vào phút chót:
“Đừng có ăn gì cả nhé!”
“Hãy cột dây an toàn vào!”
“Nghiêng người ra sát phía sau khi máy bay bay nghe!”
Khi các chong chóng xoay tròn và máy bay cất lên, tôi còn thấy được cậu Janoian
vẫn đang hét lớn bảo phải cẩn thận qua hai bàn tay khum lại làm loa.
Ngày hôm sau tôi đã ở Sân Bay La Guardia tại Nữu Ước để đón Rose. Nàng bước
xuống cầu thang, tươi cười rạng rỡ. Nàng yêu thích chuyến bay đầu tiên đến nỗi
bấy giờ lại muốn thử một chuyến đi bằng đường ngầm. Chúng tôi tìm được một lối
vào gần khách sạn của mình và cứ đi tới rồi lại đi lui ở bên dưới thành phố cho đến
khi mọi người đã lên hết, ngoại trừ một ông già với chai rượu trong tay và một
chiếc túi giấy.
Qua ngày sau, chúng tôi lên đường bay sang Anh quốc, cũng bay riêng rẽ để giữ
lời hứa với gia đình. Nhưng niềm vui của chúng tôi khi được tái hợp ở tại Luân
Đôn đã bị giảm bớt một tí khi chúng tôi gặp gỡ David du Plessis
“Tôi rất tiếc”, ông nói, với vẻ bối rối rõ ràng “nhưng tôi chưa bàn nhiều với những
người ở đây lắm. Dường như họ hơi lo lắng vì việc các bạn là một nông gia của trại
bò chứ không phải thuộc hàng giáo phẩm”
“Ý ông nói họ sẽ không bảo trợ chúng tôi ư?”
“Tôi sẽ tiếp tục cố gắng”, đó là tất cả những gì David nói.
Rose và tôi tham dự các buổi nhóm của Hội Nghị, nghe các bài diễn văn cảm động,
cùng hòa theo các bài Thánh ca sinh động. Và đến cuối tuần thì David thừa nhận
sự thất bại. Ông không thể nào thuyết phục được một vị lãnh đạo nào trong hội
nghị Ngũ Tuần để lắng nghe ý kiến của tôi.
Rose và tôi đã bay đi riêng từng người đến Hamburg, nước Đức, với tấm lòng nặng
trĩu “Lạy Chúa, con không hiểu”, tôi cầu nguyện như vậy lúc ngồi trên máy bay
“Chuyến đi thật dài nầy, với tất cả thời gian và sự tốn kém, không để làm gì cả
sao? Hay là Ngài sắp bày tỏ cho con một điều gì đó ở tại Đức?” Chúng tôi sẽ đến
Hamburg theo lời mời gọi của một người bạn là ông Hal Hermann. Ông là nhiếp
ảnh viên, người đã chụp các bức ảnh đầu tiên chính thức về cuộc tàn phá do việc
ném bom Hiroshima cho chính phủ Hoa Kỳ. Những điều ông nhìn thấy tại Nhật
Bản đã khiến ông quyết định dâng đời sống mình để tìm kiếm câu trả lời của Đức
Chúa Trời cho thế giới. Chúng tôi đã giúp ông ta chuẩn bị một kỳ truyền giảng lều
trại có các vật dụng gởi bằng đường biển đến Hamburg, và bây giờ ông ta muốn
chúng tôi có mặt tại các buổi nhóm của ông.
Tôi được mục sư Robbie đón tại sân bay ở Hamburg. Ông là một mục sư người
Đức và cũng là người tiếp đãi chúng tôi “Chào mừng bạn đã đến thành phố chúng
tôi!” Mục sư Robbie nói bằng tiếng Anh thật lưu loát. “Tôi muốn tỏ cho ông biết
rằng Đức Chúa Trời của chúng tôi vẫn còn làm phép lạ”. Tim tôi đập mạnh: Có
phải đây là điều mà bởi đó, Chúa phải đưa tôi đi quá xa như vậy để nhìn xem?
Tôi thật sửng sốt khi nhìn thấy thành phố Hamburg vẫn còn bị ở trong tình trạng
tàn phá mặc dầu đã là tháng bảy năm 1952. Từ sân bay ra, chúng tôi băng qua căn
phố chỉ còn là những đống gạch vụn, đổ nát, và những đường xe địên dúm dó.
Dường như không thể có một con người nào còn có thể sống nổi qua sự tàn phá
khủng khiếp đó. Cuối cùng mục sư Robbie dừng xe trước một đống đổ nát không
thể phân biệt được là cái gì
“Chỗ nầy đã từng là nhà thờ của chúng tôi”, ông nói đang khi chúng tôi thận trọng
bước qua những mảnh gạch và gương vụn. Ông nói thêm “Phép lạ đã xảy ra ở chỗ
nầy”. Ông dừng lại ngay trước đống tàn tích bị lửa làm cho méo mó, trước kia nó
là một bộ những chiếc cửa bằng thép dẫn xuống lòng đất. Một căn hầm tránh bom.
Mục sư Robbie giải thích “Một buổi sáng Chúa nhật, khi chúng tôi đang ở giữa
buổi nhóm thờ phượng”, ông vung tròn cánh tay để diễn tả nơi đã từng là chỗ
nhóm lại của hội thánh ông “thì có tiếng còi báo động...”
Đã quen với những cuộc oanh tạc bằng máy bay, Mục sư Robbie đưa các tín đồ
thành một hàng ra khỏi nhà thờ băng qua khoảng sân rộng để đến hầm trú. Hệ
thống cửa bằng thép được mở ra và ba trăm người tràn xuống hầm.
Rồi các cánh cửa hầm được đóng lại.
Một hồi lâu sau đó, họ nghe những tiếng bom nổ dữ dội quanh hầm. Bom cứ tiếp
tục dội, phá hủy các tòa nhà lớn quanh đó, nhà thờ cũng nằm trong số ấy, lửa bom
thiêu hủy những thứ còn lại. Bên dưới hầm tránh bom, hội chúng còn nghe thấy
tiếng nổ răng rắc của các đám lửa.
Phải cả hàng giờ ở dưới căn hầm ngột ngạt dưới lòng đất, mục sư Robbie nói,
trước khi họ nghe thấy tiếng còi báo yên, ông liền vội vã leo lên các bậc thang để
mở tung các cánh cửa. Nhưng ông phải chùn lại ngay sau đó. Các cánh cửa bằng
kim loại nóng rực không thể nào chạm tay vào đó được. Ông tìm được một thanh
gỗ và dùng nó để đẩy ra nhưng cánh cửa không hề nhúc nhích. Bấy giờ những
người đàn ông khác hợp nhau lại dùng búa nện rầm rầm vào cánh cửa bằng khối
thép cứng, song vô hiệu. Sức nóng của trận bão lửa đã làm chảy khối kim loại vào
nhau. Dộng mạnh vào cửa chỉ làm tiêu mòn mất bầu Oxy quý báu.
Để giữ không khí bao lâu còn có thể được, mục sư Robbie khuyên giục mọi người
thay vào đó, hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện “Lạy Đức Chúa Trời”, ông bắt đầu
cầu nguyện lớn tiếng “Chúng con biết rằng Ngài mạnh hơn quyền lực của sự chết.
Lạy Cha. Chúng con xin Ngài một phép lạ. Xin Ngài hãy mở các cánh cửa nầy và
giải thoát chúng con”
Tất cả mọi người, đàn ông, phụ nữ và trẻ em đều quỳ gối xuống và chờ đợi.
Một hồi sau, họ lắng nghe, xa trên đầu họ vẫn còn tiếng gầm rú đáng sợ của một
chiếc máy bay khác, nó đảo trên thành phố đổ nát, lượn quanh nhiều vòng. Và sau
đó là một tiếng bom nổ xé tai. Mọi người đều chúi xuống, theo bản năng. Quả bom
nổ gần đấy, rất gần. Nhưng chưa gần đủ để làm cho những người bị mắc kẹt ở dưới
hầm bị thương, mà chỉ đủ để bật tung những cánh cửa thép bị nóng chảy. Khi đám
khói bụi đã tan đi. Mục sư Robbie và hội chúng xếp thành hàng ra khỏi hầm và đi
vào giữa đống đổ nát đầy khói lửa bên trên họ. Họ đứng đó, ba trăm người lành
mạnh trong ánh sáng của thành phố rực lửa, dâng lời cảm tạ lên Đức Chúa Trời.
Đêm đó, trong căn phòng dành cho khách, tôi thuật lại câu chuyện đó cho Rose.
Tôi cảm biết chắc chắn rằng trong đó có một sứ điệp dành cho nan đề mà chúng tôi
đang đối diện ở tại Hội Thông Công. Chỉ có điều tôi không biết điều đó là gì.
Tôi cũng không thấy được sự liên hệ giữa hoàn cảnh của tôi với các buổi nhóm của
ông Hal. Thật là một sự từng trải lý thú khi được ngồi trong một buổi nhóm mà
mình chẳng hiểu người ta nói gì cả, cứ nghiên cứu theo dõi nét mặt của họ mà thôi.
Lịch sự và nghiêm túc, chắc chắn đấy là một cử tọa khó khăn hơn đám đông mà
Rose và tôi đã từng đối diện. Theo tôi nghĩ thì chẳng có gì bẻ gãy được tình trạng
dè dặt của các khán giả người Đức khi mà như thường lệ, có một sự chữa lành xảy
ra để làm thay đổi mọi sự. Một người đàn ông điếc đặc, nổi tiếng đối với cả thành
phố, bắt đầu nghe được, và thế là buổi truyền giảng sôi động. Người ta khóc lớn,
họ ôm nhau, họ đưa hai tay lên trời y như các nhóm Ngũ Tuần Acmêni.
Song tôi vẫn cứ thắc mắc, Lạy Chúa, vì sao Ngài đưa con đến đây? Không đóng
góp được điều gì cả, và tôi cũng không chắc mình có học được điều gì chăng. Bấy
giờ Rose bắt đầu sốt ruột và muốn trở về với các con. Nhưng lần đầu tiên nàng có
được cơ hội để thực hiện một mơ ước suốt đời mình: Rose luôn luôn ao ước được
nhìn thấy thành phố Venice. “Và có lẽ” chúng tôi nhắc nhở nhau “Mình sẽ không
bao giờ còn trở lại châu Âu nữa”.
Và vì vậy, chúng tôi tiếp tục đến Ý, lần nầy chúng tôi đi bằng xe lửa. Thật là một
thế giới khác hẳn khi chúng tôi nhìn qua các cửa sổ trên tàu so với những trại nuôi
súc vật rộng lớn ở tại California. Những mảnh đất nhỏ bao quanh những căn nhà
bằng đá cổ xưa, trong khi heo, ngỗng, gà đi lại trong sân “Giống như Kara Kala! “
Tôi nói với Rose “Giống như các trang trại mà bố thường nói đến!”
Chúng tôi có mua một máy ảnh ở Đức, mặc dầu có các biển hiệu viết bằng bốn thứ
ngôn ngữ cho hành khách biết không được thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhưng tôi đã
làm điều đó. Tôi kéo cửa sổ trong ngăn dành cho mình xuống, thò đầu và cả hai vai
ra ngoài để chụp rõ hơn.
Một cái gì đâm đau điếng vào mắt phải của tôi.
Tôi giật mạnh người vào trong ngăn, suýt đánh rơi chiếc máy ảnh. “Rose!”
Rose giúp tôi ngồi xuống, đoạn nàng gỡ bàn tay tôi ra khỏi mặt. Con mắt tôi bị xốn
đến nỗi tôi không tài nào mở ra được. Rose cẩn thận lật mi mắt lên.
“Em thấy rồi! Giống như một mảnh than. Gần ngay con ngươi”. Rose lấy chiếc
khăn tay của nàng và cố gắng lấy mảnh than ra, nhưng nó chỉ càng cắm vào sâu
hơn. Tôi đau khủng khiếp. Tôi ép chiếc khăn tay lên mặt để chậm dòng nước mắt.
Chúng tôi còn cả giờ đồng hồ nữa mới đến Venice, một giờ đau đớn nhức nhối
nhất trong đời tôi.
Từ sân ga, thay vì chuyến đi thơ mộng bằng thuyền trên các sông đào thành Venice
như chúng tôi đã dự định. Chúng tôi chọn một chiếc xuồng máy và về ngay khách
sạn. Người đàn ông đằng sau bàn tiếp khách liếc qua tình trạng của tôi và ghi nhận,
vài phút sau tôi nằm thẳng trên giường trong phòng mình để một vị bác sĩ của
khách sạn xem xét. Ông ta kéo mí mắt của tôi lên, rọi đèn vào mắt, đoạn ông ta
ngồi thẳng lên
“Tôi lấy làm tiếc, thưa ông, tình trạng rất nghiêm trọng. Mảnh đá thì lớn và lại sần
sùi”
“Ông không thể nào lấy nó ra được ư?”
“Ở đây ư? Không được thưa ông. Vì vậy chúng ta phải đến bệnh viện. Tôi gọi điện
ngay đây”
Trong lúc ông ta quay số và nói tiếng Ý thật nhanh, Rose ngồi bên tôi,nàng nắm
lấy bàn tay tôi.
“Anh Demos “ nàng nói “Chúng ta hãy cầu nguyện”
Thật lạ lùng, trong nỗi đau đớn của mình và sự phẫn nộ đối với chính mình, đó lại
là một điều tôi chưa làm.
Rose bắt đầu bằng lời cảm tạ Chúa vì những phép lạ và sự chữa lành mà chúng tôi
đã được chứng kiến ở tại Hamburg “Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Ngài vì Ngài
hiện diện với chúng con ở đây trong căn phòng nầy tại nước Ý cũng như Ngài đã
hiện diện tại khu truyền giảng ở Đức quốc. Trong danh Chúa Jesus chúng con xin
Ngài hãy lấy mảnh than ra khỏi mắt anh Demos.
Ngay khi nàng còn đang nói, một luồng nóng ấm dường như chạy qua mắt tôi
“Rose, anh thấy có cái gì đó! Có cái gì đó đang xảy ra!”
Tôi chớp mắt, không cảm thấy đau đớn gì cả. Không xốn gì cả “Rose, hãy nhìn
xem con mắt anh nầy”
Rose cuối xuống xem xét “Anh Demos, nó không còn ở đấy nữa. Mảnh than không
còn nữa “Nàng bật lên tiếng khóc”, vị bác sĩ gác máy nghe “Bệnh viện đã nhận
anh. Chúng ta hãy đến ngay phòng cấp cứu”
“Bác sĩ, ông hãy xem lại mắt tôi lần nữa được không?”
Ông ta lấy chiếc rọi đèn ra khỏi túi đồ và một lần nữa soi vào mắt tôi. Ông bỏ mí
mắt xuống, và lại khám con mắt bên kia. Rồi lại soi trở lại con mắt bên phải.
“Không thể thế được”. Ông ta nói
“Nhà tôi đã xin Chúa lấy mảnh than đó đi”, tôi nói cho ông biết.
“Không thể nào được” ông ta lại nói “Mảnh đá ấy không thể nào tự trôi ra được”
“Không phải tự nó, thưa bác sĩ. Đức Chúa Trời đã lấy nó ra”
“Anh không hiểu gì cả. Phải có một vết thương ở đó. Nó đã làm rách các mô mắt
chỗ nó chạm vào. Vậy mà bây giờ không có vết thương, không một tổn hại “Ông ta
lùi ra cửa “Tôi không lấy tiền đâu, thưa ông. Chuyện nầy không thể xảy ra được...”
Rose và tôi trải qua những giờ vui mừng ở Ý. Dầu vậy, toàn bộ điều đó có liên hệ
gì đến hội Thông Công? Khi chúng tôi trở về Los Angeles vào cuối tháng bảy, con
đường trước mặt vẫn không quang đãng hơn trước.
Tháng tám, rồi đến tháng chín. Chúng tôi tiếp tục nhóm nhau mỗi sáng thứ bảy tại
nhà hàng Clifton. Cũng nhóm người đó tôi ngỡ rằng họ đến vì lòng trung thành với
tôi thì đúng hơn vì một lý do nào khác. Và rồi đến tháng mười. Sinh nhật lần thứ
nhất của Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc.
Trong mười hai tháng qua tôi đã nói về Tình Thông Công ở nhiều nơi trong nước.
Các ông từ một số thành phố khác đã tham gia các buổi điểm tâm với chúng tôi.
Nhưng suốt trong năm đó, để mà nhìn thấy “những việc lạ lùng” như vậy thì không
một ai có được một ấn tượng tốt đủ để bắt đầu một chi hội thứ hai trong một thành
phố khác.
Rose cũng tế nhị để không nhắc lại lời tiên đoán tự tin của tôi vào mùa thu năm
trước, nhưng tôi thấy được nàng ngày càng nghi ngại về việc cứ tiếp tục từ thứ bảy
nầy sang thứ bảy khác là có khôn ngoan không “Chúng ta chỉ đãi người ta ăn sáng,
anh Demos à”, nàng nói “Chúng ta đã giúp cho các buổi truyền giảng ngoài trời
được nhiều hơn, nếu như chúng ta truyền giảng cho hàng ngàn người mỗi một mùa
hè thay vì chỉ một ít người như bây giờ”.
Tôi biết nàng đúng, tuy nhiên...”Chúng ta hãy xem thử tháng tới điều gì sẽ xảy ra”,
tôi nói.
Nhưng rồi đến tháng mười một, buổi nhóm vẫn cứ trì trệ, sự tham dự lại càng giảm
sút đi.
“Tháng mười hai sẽ có thay đổi”, tôi bảo đảm với nàng “người ta thường sốt sắng
hơn trong mùa Giáng Sinh”.
Nhưng nếu mùa Giáng Sinh có được ảnh hưởng gì thì đó cũng chỉ làm cho người
ta lại càng bận rộn hơn mà thôi.
“Thứ bảy tuần tới tôi phải đưa bà nhà đi mua sắm, anh Demos à”.
“Lúc nầy hội thánh tôi đang tổ chức bán hàng để lấy quỹ từ thiện”.
“Tôi phải đưa các cháu đi xem ông già Noel”.
Sáng thứ bảy hôm đó, ngày 20 tháng 12, chỉ có mười lăm người chúng tôi nhóm lại
trên tầng hai của nhà hàng Clifton, kém hơn buổi đầu tiên đến sáu người. Lúc kết
thúc buổi nhóm buồn tẻ ấy, một người bạn của tôi, Miner Arganbright đã lên tiếng
một cách thẳng thắn. Miner là một nhà thầu khoán các công trình bằng đá tức là
công trình về các công việc thương mại và công nghệ, ông cũng là một trong năm
vị thuộc ban điều hành của Thông Công.
“Demos này, Tôi không thích phải phủ nhận Giáng sinh đang tới cùng với mọi sự”,
Miner nói “nhưng tôi nghĩ toàn các ý tưởng về tình Thông Công chỉ là một sự vô
dụng. Thành thật mà nói, tôi sẽ không đưa anh đến năm xu cho toàn bộ hiệp hội
nầy”.
Tôi trố mắt nhìn ông ta, không đáp lại được vì kinh ngạc.
Miner nắm chặt tay mình “Ông vẫn thường bảo rằng cái hiệp hội nầy đã từng là
một kinh nghiệm, đúng không?”
“Đúng!”
“Phải, biết bao nhiêu thời gian thử nghiệm đều thất bại. Vậy mà còn không xấu hổ
trong việc ấy”. Tôi vẫn không thể nghĩ ra một điều gì để nói với ông ta.
“Điều mà tôi muốn cho anh biết, Demos này, đó là nếu như từ đây đến thứ bảy
tuần sau, không có phép lạ gì xảy ra, thì tốt hơn anh hãy coi như không có mặt tôi
nữa”.
“Phải, đúng. Miner à, tôi hiểu”
Rose và tôi yên lặng bước xuống cầu thang. Ở giữa gian phòng chính một cây
Giáng sinh đang có các ngọn đèn chớp tắt.
“Miner đúng”, Rose khẽ nói “Nếu có Đức Chúa Trời trong một công việc gì đó, thì
Ngài sẽ chúc phước. Phải không? Mà anh không thể bảo rằng hội Thông Công
được Ngài ban phước”
Tôi lặng người theo nàng bước ra ngoài hành lang. Mọi nổ lực, bao nhiêu cuộc
điện thoại, bao nhiêu chuyến đi, bỏ công sức thật sự để sao cho người ta đến nhóm,
tất cả đều không được gì cả. Nếu có một điều mà tôi đã học được từ năm 1940 đó
là khi tôi và Rose không đồng ý với nhau về một vấn đề gì đó, thì Đức Chúa Trời
sẽ không liên lạc gì được với chúng tôi. Vậy nếu như bây giờ nàng đã quả quyết
Hội Thông Công nầy là sai, thì có nghĩa đã đến lúc phải kết thúc. Tôi càng mau
quên nó đi chừng nào thì càng tốt chừng nấy.
Chỉ có điều là...tôi không thể nào quên được. Suốt một tuần lễ dài tôi cứ thấy nước
mắt tràn trên mắt mình. Đang lái xe đến chỗ làm việc tự nhiên tôi bật khóc lớn
tiếng. Tôi tự hỏi có phải mình đang bị suy nhược về thần kinh.
Vì lũ trẻ, tôi cố giữ bộ mặt tươi tỉnh trong lễ Giáng Sinh. Tôi thật mừng vì qua hôm
sau, thứ sáu ngày 26 tháng 12, chúng tôi sẽ tiếp một vị khách tại nhà mình. Ông ta
tên là Tommy Hick là bạn của chúng tôi, một nhà truyền giáo đầy ân tứ là một
người ích lợi ở bên cạnh khi tinh thần suy sụp.
Tối thứ sáu hôm đó, trong bàn ăn tối, tôi nói với Tommy “Bởi vì anh biết không,
sáng mai là buổi nhóm cuối cùng của Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của
Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc...”
Tôi khẽ nhăn mặt “Quốc Tế ư?” Thật cũng khá rõ ràng là mọi người đều có cảm
nhận như nhau về tổ chức ấy, mặc dầu chỉ Miner là người thành thật đủ để phát
biểu như vậy. Vì thế điều duy nhất nên làm đó là chính thức công bố việc chấm dứt
tổ chức ấy đi cho xong. Có lẽ chúng ta nên tính xem mình có thể cùng làm việc với
nhau như thế nào trong mùa hè sắp tới để bảo trợ cho một cuộc truyền giảng ngoài
trời”
Tôi cố gắng làm như là không quan tâm, nhưng hẳn là Tommy đã thấy được sự rối
ren trong lòng tôi, bởi vì ông bảo: “Demos, theo tôi chúng ta nên bàn tiếp về vấn
đề đó”
Vì vậy, chúng tôi đã ngồi với nhau, tiếp tục kéo dài cuộc nói chuyện ở bên bàn ăn
tối, tôi kể lại cho ông nghe những hy vọng và những thất vọng của chúng tôi. Một
lúc sau Gerry bắt đầu đi ngủ, bé Steve đã ngủ từ lâu, còn Richard đang hướng dẫn
một buổi nhóm dưỡng linh của thanh niên cuối tuần đó. Nhưng Tommy, Rose và
tôi vẫn còn ngồi lại, tiếp tục nói về những người nam khác nhau, đủ mọi thành
phần đã đến tại nhà hàng Clifton, nhắc lại những điều họ đã làm chứng lại trong
buổi nhóm.
“Không hề có một ngày thứ bảy nào mà tôi không học hỏi được một điều gì đó”.
Tôi nói với Tommy “Những điều đó đã giúp tôi yêu Chúa nhiều hơn, yêu con
người nhiều hơn”.
Đã gần nửa đêm khi nghe Rose nhìn đồng hồ “khuya lắm rồi, anh Demos! Mà em
còn chưa lau bàn nữa! Chúng ta phải đi ngủ thôi, không thì sáng ngày mai sẽ
không ai có mặt ở nhà hàng Clifton”
“Em cứ đi ngủ cưng à”. Tôi nói “Anh không thể nào ngủ được vì công việc nầy”.
Cách đây một năm, tôi đã từng chắc chắn về công việc nầy cơ mà! “Anh sẽ vào
phòng khách và quỳ gối xuống cho đến khi nghe được tiếng Chúa phán dạy về việc
nầy”
Tommy nói “Này bạn, tôi sẽ phụ với Rose một tay để rửa bát đĩa, rồi sau đó sẽ về
phòng mình và hỗ trợ cho anh trong sự cầu nguyện. nhưng về cơ bản, đây là việc
giữa anh với Đức Chúa Trời, Demos à”.
Tommy và Rose bưng một chồng chén bát ra sau bếp. Tôi băng qua căn phòng nhỏ
ở phía ngoài và bước vào phòng khách, ở tại đó sự việc được diễn ra.
Giống y như khi tôi mười ba tuổi, bầu không khí chung quanh tôi đột nhiên trở nên
nặng nề, ngập tràn đẩy tôi ngã xuống sàn. Tôi quỳ xuống trên gối, rồi úp cả mặt
xuống và rồi trải dài trên tấm thảm đỏ được trang trí bằng những mẫu vẽ.
Tôi không tài nào đứng lên được, không hơn gì cách đây hai mươi bảy năm lúc ở
trong phòng ngủ của tôi tại ngôi nhà lớn xây theo kiểu Tây Ban Nha. Vì vậy tôi
không cố gắng nữa, mà chỉ buông mình vào tình yêu thương không thể cưỡng lại
được của Ngài, cảm thấy Thánh Linh Ngài vận hành trong những luồng quyền
năng vô tận. Thời gian ngừng trôi, không gian biến mất. Và đang khi tôi nằm đó,
ngợi khen Ngài lúc thì bằng tiếng Anh, lúc thì bằng tiếng lạ, tôi nghe tiếng phán
của Ngài, trong chính những lời Ngài đã phán cách đây rất lâu:
Demos, con có nghi ngờ quyền năng của ta bao giờ chăng?
Và bỗng nhiên, tôi nhìn thấy chính mình trong những ngày tháng qua, thay vì phải
ngửa trông Ngài thì tôi lại vật lộn, gắng sức, như một con kiến bận rộn, lấp gấp
chạy đi chạy đó, chạy qua châu Âu cố gắng tìm sự hỗ trợ của một nhóm “chính
thức”, nhờ cậy khắp mọi nơi bằng năng lực của mình thay vì chính Ngài.
Tôi cảm thấy đau nhói khi nhớ lại lời cầu nguyện của Oral Roberts ngay tại buổi
nhóm đầu tiên của hội Thông Công, lời cầu nguyện đã khiến cho hai mươi mốt
người cùng đứng lên và khiến họ dậm chân hát bài thánh ca chiến thắng “Nguyện
chúng tôi được tăng trưởng chỉ bởi sức mạnh của Ngài mà thôi”.
Thế nhưng tôi đã hành động như thể là chính sức mạnh của tôi mới là đáng kể, như
thế chính cá nhân tôi phải đứng ra khởi đầu một ngàn chi hội mà ông Oral đã nhìn
thấy. Và dĩ nhiên là tôi chẳng có khả năng để bắt đầu lấy một chi hội nữa.
“Lạy Chúa Jesus xin Ngài hãy tha thứ cho con”.
Kế đó Ngài nhắc tôi những điều tôi đã được thấy ở tại châu Âu, những điều tôi đã
được thấy song chẳng hiểu gì cả: Những cánh cửa bằng thép trên hầm tránh bom ở
Hamburg, mảnh than được lấy ra khỏi mắt tôi ở tại khách sạn Grand, thành phố
Venice.
Demos, Ta là Đấng Duy Nhất, một mình ta là Đấng có thể mở các cánh cửa. Ta là
Đấng Duy nhất lấy được cái dằm ra khỏi những con mắt không thấy đường.
Lạy Chúa Jesus, con hiểu. Con xin cảm tạ Ngài”.
Bây giờ ta sẽ cho ngươi thấy, thật vậy.
Với lời đó, Đức Chúa Trời cho phép tôi quỳ lên. Gần như là đỡ tôi lên, dường như
sức mạnh đã đẩy tôi xuống sàn nhà bây giờ lại nâng tôi lên. Ngay lúc ấy, Rose
bước vào phòng khách. Nàng vòng qua tôi và bước đến chiếc đàn Organ
Hammond nơi góc phòng. Nàng không nói gì cả, chỉ ngồi xuống và bắt đầu đàn.
Khi tiếng nhạc vang lên trong căn phòng nhỏ, bầu không khí trở nên tươi sáng hơn.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, trần nhà trong phòng dường như biến mất. Liếp vôi
màu kem trên trần, đèn trên trần, hết thảy đều biến mất, thay vào đó là tôi thấy
mình đang chăm chú ngó lên bầu trời, một bầu trời giữa lúc ban ngày mặc dầu bên
ngoài lúc bấy giờ hẳn là đêm tối đen như mực. Rose đã đánh đàn bao nhiêu lâu
trong lúc tôi nhìn chằm vào khoảng không vô tận đó, tôi không biết nhưng thình
lình nàng dừng lại, tay vẫn để yên trên các phím đàn, và bắt đầu cầu nguyện lớn
bằng tiếng lạ, một âm thanh thật đáng yêu, nhịp nhàng và du dương.
Nàng dừng lại trong giây lát, đoạn cũng bằng âm điệu đó nàng nói bằng tiếng Anh.
Hỡi con trai Ta, Ta đã biết con trước khi con được sinh ra. Ta đã chỉ dẫn con mỗi
bước đường. Bây giờ Ta sẽ tỏ cho con mục đích của đời sống con.
Đó là ân tứ nói tiếng lạ và thông giải tiếng lạ của Thánh Linh, được ban cho cùng
với nhau. Và đang khi nàng nói một sự việc đáng chú ý bắt đầu xảy ra. Mặc dầu
vẫn còn quỳ gối, tôi cảm thấy như mình đang đứng lên, rời khỏi thân thể mình, bay
lên, thoát ra khỏi phòng khách. Nhìn xuống phía dưới, tôi có thể nhìn thấy những
mái nhà ở tại Downey, những dãy núi thuộc vùng San Bernardino, và xa hơn nữa
bờ biển Thái Dình Dương. Bấy giờ tôi đang ở vượt trên cả trái đất, có thể thấy cả
xứ từ Tây sang Đông.
Nhưng mặc dầu nhìn được xa như vậy, tôi vẫn có thể nhìn thấy những con người ở
trên mặt đất, hàng triệu hàng triệu người đang đứng chen vai nhau. Kế đó, giống
như một chiếc máy ảnh có thể phóng to ra và thu nhỏ trong một trận bóng đá để
cho thấy trước hết là khán đài kế đó đến các vận động viên rồi đến các dãy ghế
quanh sân vận động. Khải tượng của tôi dường như tiếp tục hướng đến hàng triệu
người đàn ông nầy. Tôi có thể nhìn thấy những chi tiết nhỏ nhặt của hàng ngàn,
hàng ngàn gương mặt.
Và điều nhìn thấy đã làm tôi khủng khiếp. Những khuôn mặt ấy đều cứng ngắt, bất
động, khốn khổ. Mặc dầu những người ấy đứng rất gần nhau vai chạm vai nhưng
không có một sự tiếp sức thật sự nào ở giữa họ cả. Họ đều nhìn thẳng ra phía trước
không chớp mắt, không nhìn thấy gì cả. Với một cái rùng mình kinh hãi, tôi nhận
ra rằng họ đã chết.
Thế rồi khải tượng thay đổi hoặc thế giới xoay chuyển, hay là tôi đã di chuyển
quanh nó tôi chẳng biết. Nhưng bấy giờ bên dưới tôi miền Nam Hoa kỳ, rồi đến
châu Phi, Châu Âu, Châu Á. Một lần nữa cảnh chiếu gần đáng sợ lại xuất hiện, và
mọi nơi đều giống nhau. Những gương mặt da đen, da nâu, da trắng tất cả đều
cứng ngắt, đau khổ và khóa chặt trong sự chết riêng của chính họ.
Tôi kêu lên: “Lạy Chúa, điều gì đang xảy ra với họ! Lạy Chúa xin hãy cứu giúp
họ!”
Sau nầy Rose thuật lại rằng tôi chẳng nói gì cả, nhưng trong khải tượng tôi đã khóc
và kêu gào lớn tiếng.
Thình lình Rose bắt đầu nói, dĩ nhiên bằng tiếng của loài người, mặc dầu nàng
không thể nào biết điều tôi đang nhìn thấy. Nhưng câu nói của nàng là: “Hỡi con
trai ta, điều mà con thấy tiếp theo đây sẽ sớm xảy ra”.
Trái đất đang xoay chuyển, hoặc tôi đang đi động quanh nó một lần thứ hai. Một
lần nữa bên dưới tôi hàng triệu hàng triệu người đàn ông nhưng thật khác hẳn! Lần
nầy những chiếc đầu ngước cao, những đôi mắt chiếu sáng niềm vui. những đôi tay
giơ thẳng lên trời. Những con người đã từng rất biệt lập, mỗi người trong ngục tù
của bản thân mình, nay được liên kết trong một cộng đồng của tình yêu thương tôn
trọng. Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ...khắp mọi nơi, sự chết đã biến thành sự sống.
Kế đó khải tượng đã qua đi. Tôi thấy mình trở về trái đất, bên dưới tôi là Downey,
tiểu bang California. Rồi đến căn nhà của chúng tôi, tôi nhìn thấy chính mình đang
qùy gối, còn Rose đang ngồi bên chiếc đàn. Và rồi những vật thể quen thuộc trong
căn phòng hiện ra chung quanh tôi và tôi thấy đau ở hai đầu gối, cổ bị cứng. Tôi
chậm chạp đứng lên và nhìn vào đồng hồ đeo tay đã ba giờ sáng.
“Điều gì đã xảy ra vậy, anh Demos?” Rose hỏi “Có phải anh đã nghe Chúa phán
điều gì chăng?”
“Em yêu, anh không những đã nghe mà là đã thấy”, và tôi thuật lại những khải
tượng. Rose lắng nghe, nước mắt dâng tràn ngập mi.
“Ôi, anh Demos, anh không thấy sao? Ngài đang tỏ cho chúng ta biết rằng hội
Thông Công vẫn phải tiếp tục”.
Nàng rời khỏi chiếc đàn và luồn bàn tay mình vào trong tay tôi, “Anh còn nhớ
không, Demos, chính trong căn phòng nầy, gần tám năm về trước, chúng mình đã
quỳ gối và hứa nguyện đặt để Ngài ở hàng đầu”.
Khi chúng tôi bắt đầu đi về phòng ngủ, chúng tôi nhìn thấy một luồng sáng hắt ra
từ bên dưới cánh cửa phòng của Richard nơi Tommy đang trọ lại. Tôi gõ cửa và
nghe tiếng ông gọi “Vào đây!”. Ông đang quỳ mọp trên sàn, vẫn còn mặc bộ
complê xám. Ông hứa hậu thuẫn bằng lời cầu nguyện và đã giữ lời hứa.
“Demos”, ông nói “Hãy kể cho tôi anh đã nghe gì. Chưa bao giờ trong đời tôi đã
cảm nhận được năng quyền như buổi tối hôm nay, từng đợt sóng liên tiếp tràn qua
căn nhà nầy”
Chúng tôi cũng không ngủ nghỉ suốt đêm hôm đó. Lúc tôi thuật xong khải tượng
cho Tommy, thì cũng đã đến giờ phải lái xe ra thành phố để đến nhà hàng Clifton.
Khi chúng tôi lên đến phòng trên, thì đã có hai người ở đấy rồi; đang đợi chúng tôi.
Một là ông Miner Arganbright, tôi thật ngạc nhiên khi thấy ông ta! Người kia là
một vị có gương mặt trông hơi quen quen.
“Tôi có cái nầy cho anh đây, Demos”, Miner nói. Ông thò tay vào túi lấy ra một
chiếc phong bì. Thư xin rút lui, đúng rồi. Thật đáng tiếc. Ngay khi tôi cảm thấy
như vậy, thì... nhưng không phải thư, mà là một tờ ngân phiếu.
Mắt tôi lướt qua dòng chữ “Ngân phiếu chi trả cho Hội Thông Công Trọn Vẹn
Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc”
“Một ngàn Mỹ kim!” tôi nói “Nhưng, Miner, tuần trước anh đã bảo rằng tổ chức
nầy chưa đáng năm xu”.
“Tuần trước là tuần trước”, Miner nói “Demos, sáng nay tôi thức dậy sớm và nghe
một tiếng phán. Chính Đức Chúa Trời, tôi biết đó là tiếng của Ngài. Ngài phán
“Công việc nầy phải lan rộng khắp cả thế giới và con phải là người dâng hiến
khoản tiền đầu tiên”.
Tôi còn đang trố mắt nhìn ông ta thì vị bên cạnh bước tới. “Ông Shakarian”, ông ta
nói “Tôi là Thomas Nickel. Điều đã xảy ra với tôi đêm qua, tôi nghĩ là có liên quan
đến ông”.
Tôi đưa chiếc khay và trứng khuấy của tôi cho ông. Trong lúc ông Nickel kể lại
rằng, ông cũng đã nhận được một sứ điệp từ Đức Chúa Trời lúc nửa đêm. Ông
đang làm việc đến tận khuya hôm đó trong công việc in ấn ở tại Watsonville, tiểu
bang California, gần San Francisco. Thình lình ông nghe Đức Thánh Linh phán rõ
ràng cùng ông. “Hãy lên xe và đến ngay Los Angeles cho kịp buổi nhóm sáng thứ
bảy của hiệp hội mà con đã từng tham dự một lần”.
Ông ta xem đồng hồ, lúc ấy đã gần nữa đêm, chính giờ đó, tôi còn nhớ, khi tôi vào
phòng khách để cầu nguyện.
Nickel tranh cãi với tiếng phán nhất định đang ở bên trong mình. Watsonville cách
bắc Los Angeles bốn trăm dặm. Muốn đến kịp đấy, ông phải lái xe suốt đêm.
Nhưng lời ấy vẫn cứ tiếp tục phán: Phải có mặt tại buổi nhóm. Ông đành để lại
thông báo cho trường Cơ Đốc Montevista nơi ông đang dạy: Ông lên xe, thẳng về
phía Nam.
“Và bây giờ tôi đến đây”, Nickel kết luận “để tặng cho anh chiếc máy in của tôi
cùng hệ thống dịch vụ của tôi”.
Rose, Miner và Tommy đều đang chăm chú lắng nghe “Máy in của anh à?”,
Tommy hỏi.
“Phải, để xuất bản một tạp chí”, Nickel nói “Anh biết đấy, điều mà Thánh Linh
phán bảo tôi đó là: Hội Thông Công nầy phải lan rộng ra khắp thế giới, nhưng nếu
không có một tiếng nói thì nó sẽ không khi nào bắt đầu được”.
“Tiếng nói...”Rose lập lại “tiếng nói của các nhà Doanh Nghiệp”.
Buổi nhóm sáng hôm đó không đông lắm, nhưng đó là buổi nhóm vui mừng hơn
hết mà chúng tôi từng dự. Trước khi kết thúc, chúng tôi chỉ định Thomas R. Nickel
là chủ bút và là nhà xuất bản của tờ tạp chí mới sẽ được đặt tên là “Tiếng Nói của
Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc”.
Tôi hôm đó khi ngã mình trên giường, tôi nói “Em hãy nghĩ xem, đêm hôm qua,
giờ nầy hội Thông Công vừa kết liễu. Còn bây giờ thì lại có một ngân quỹ một
ngàn Mỹ kim cùng với một tạp chí. Anh không thể đợi để xem Chúa sẽ còn làm gì
tiếp theo nữa!”.
Chân Trên Bàn
Câu trả lời đã đến, không phải chờ đợi lâu. Vừa sang năm mới, chúng tôi nhận
được một cú điện thoại từ Sioux Falls Nam Dakota. Chính Tommy Hichs đang gọi
từ sau hội trường, ông vừa phát biểu xong.
“Demos” Ông nói “Tôi nghĩ anh đã có được Chi Hội Thứ Nhì”.
Buổi chiều đó ông thuật lại câu chuyện của Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế
Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc và khải tượng Chúa ban. Cuối buổi nói chuyện
của ông, một người đàn ông từ trong số khán giả đứng lên và hỏi rằng vì sao họ
không tổ chức một nhóm như vầy ở Sioux Falls. Tôi nói với ông ta “Dĩ nhiên là
được”. Tôi hỏi ai có lòng quan tâm hãy bước lên phía trước, và Demos, anh biết
không hầu như cả phòng đều tiến lên phía trước. Anh đã có Chi Hội Thứ Nhì ở tại
đây, miền nam Dakota”
Đó chỉ mới là sự bắt đầu. Trong năm đó, bất cứ nơi nào Tommy đến với tư cách
Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc, ông để lại
một nhóm người đầy nhiệt tâm ở phía sau mình. Đến mùa hè năm 1953 chúng tôi
đã có chín chi hội và đang dự định một Hội Đồng Toàn Quốc vào tháng mười,
đúng hai năm kể từ buổi họp mặt đầu tiên ở tại nhà hàng Clifton.
Sáu trăm người có mặt vào ngày cuối tuần trong mùa thu năm ấy ở tại khách sạn
Clark, Los Angeles. Ngày nay khi một kỳ hội nghị có thể thu hút hai mươi ngàn
người, thì buổi nhóm toàn quốc lần đầu như vậy thật sự là ít ỏi. Nhưng đối với tôi
nó thật rất lớn và sự nóng nảy cũng vậy.
Chẳng hạn như có vấn đề về một ngân quỹ. Bấy giờ chúng tôi đã có một nhân sự
làm việc trọn thời gian. Floyd Highfield người giải đáp thắc mắc cho mọi người từ
mọi nơi trong nước, tạo cơ hội cho họ tiếp xúc với người khác và giúp họ tổ chức
thành các chi hội. Một ngày nào đó, Floyd sẽ cần có một thư ký. Sau đó là tờ báo.
Tom Nickel đã dâng thì giờ và trang thiết bị của ông, nhưng phải có người trả các
khoản chi phí về giấy và mực in. Rồi chúng tôi cũng thấy rằng chúng tôi phải in
hơn 5.000 tờ một tháng như đã khởi sự. Chúng tôi dự tính trong năm 1954 chúng
tôi cần có khoảng mười ngàn Mỹ kim.
Vì vậy vào đêm cuối của hội nghị, một trong các diễn giả là ông Jack Coe, đứng
lên và nói những lời đơn sơ nhất mà tôi từng được nghe để kêu gọi sự đóng góp.
Jack là một người đàn ông cao to, có thói quen đi thẳng vào ngay vấn đề.
“Chúng ta cần mười ngàn Mỹ kim”, ông nói “Vì vậy tôi muốn có một trăm vị bằng
lòng tiến lên phía trước và mỗi vị hứa dâng một trăm Mỹ kim”. Đoạn ông ngồi
xuống.
Lập tức các ông đổ xô đến bàn của các diễn giả, Jack xin mỗi người ghi tên và địa
chỉ của họ trên một tờ giấy. Cuối buổi nhóm chúng tôi tổng kết bảng danh sách,
đúng một trăm vị đã hứa dâng, ngân quỹ đã được vừa đủ số.
Và trong lúc ấy, các buổi nhóm thứ bảy ở tại nhà hàng Clifton đang gặp một loại
nan đề khác. Năm đầu tiên, chúng tôi đã không thể thuyết phục người ta đến, bây
giờ chúng tôi không thể bảo họ đừng đến.
Sức chứa trong căn phòng trên lầu là bốn trăm chỗ, thế mà hàng tuần chúng tôi
chen chúc nhau đến năm hoặc sáu trăm người ở đấy. Nhiều khi đông đến bảy trăm
người, họ phải đứng quanh các vách tường, chen vai nhau ở các lối đi. Trong suốt
sáu tuần, sở cứu hỏa đã liên tục gởi các viên chức đến, dọa sẽ đóng cửa nhà hàng.
Vì thế chúng tôi tổ chức một buổi họp của các vị trong ban chấp hành, là những
người vẫn hơi e ngại rằng chính mình phải điều hành một công việc gì đó để thảo
luận về tình hình. Chúng tôi có thể tìm được một địa điểm nhóm rộng lớn hơn, ví
dụ như vũ trường Clark. Hoặc chúng tôi có thể khuyến khích các ông là những
người đang đến nhóm tại Clifton bắt đầu các chi hội mới ở gần nhà họ:
LongBeach, Glendale, Pasadena, vì sao mỗi người trong họ không có một
“Clifton” của mình được nhỉ? Một trung tâm quyền năng để từ đó sức sống của
Thánh Linh có thể đến với cộng đoàn?
Ta không muốn một số đông lập thành một tổ chức. Dường như đó là sứ điệp Đức
Thánh Linh đang truyền cho chúng tôi.
Dĩ nhiên, thỉnh thoảng đến với nhau để cảm thúc nhau và gây dựng nhau, để rọi ra
một ngọn lửa sáng đủ cho mọi người thấy.
Nhưng đối với công việc hàng ngày, hàng năm của con, ta muốn con nhỏ bé, mang
tính cách địa phương, nhậy cảm đối với ta. Ta không thích sự đều đều, giống nhau.
Ta sẽ không bao giờ đến với hai con người hoặc hai nơi chốn giống y như nhau.
Hãy cho ta những cơ hội để tuôn đổ sự đa dạng vô tận của Ta.
Vì vậy buổi nhóm sáng thứ bảy ở tại nhà hàng Clifton đã trở thành bốn nhóm, rồi
năm nhóm, mười nhóm. Một số các nhóm nhóm lại hàng tuần, một số nhóm nhóm
lại hai tuần một lần, một số một tháng một lần. Một số nhóm vẫn tiếp tục chọn các
buổi sáng thứ bảy. Các nhóm khác chọn một buổi chiều trong tuần.
Khi số lượng trong các nhóm nầy trở nên quá đông thêm hai ba hoặc bốn trăm
người trong một buổi nhóm, thì họ cũng lại phân ra thành các nhóm nhỏ, cho đến
hôm nay chúng tôi có tất cả là bốn mươi hai chi hội ở tại khu vực Los Angeles,
mỗi chi hội có một đặc trưng riêng biệt hoàn toàn của nó. Một số chi hội tỏ bày ra,
một số khác nhấn mạnh đến sự chữa lành, hoặc sự truyền giảng hoặc công tác
thanh niên.
Nhưng không có một chi hội nào tồn tại được mà không trải qua năm đầu tiên đấu
tranh dường như tuyệt vọng. Bất cứ nơi nào hội Thông Công nầy lan rộng ra thì
năm đầu tiên ở bất cứ khu vực nào dường như cũng là năm gay go nhất.
Thí dụ như trường hợp của thành phố Minneapolis. Năm 1955, chủ một nhà hàng
mời mười ba người trong hội Thông Công của chúng tôi đến đó để dự buổi tiệc
khai mạc của chi hội đầu tiên ở tại Minnesota. Chuyến đi của chúng tôi gặp phải
cơn bão tuyết ảnh hưởng khắp đất nước. Tôi bay với C.C.Ford, một nhà xây dựng
ở Denver, trong chiếc máy bay Cessna bốn chỗ ngồi của ông ấy. May mắn cho tôi
là không ai trong hội thánh trông thấy chúng tôi với chiếc máy bay một động cơ
ấy.”
Clayton Sonmore đón chúng tôi ở tại sân bay Minneapolis. Ông xem cơn bão
không có gì quan trọng. Ông nói “Ở tại đây Minneapolis chúng tôi thường hay gặp
bão. Chúng tôi còn đợi hai trăm năm mươi doanh nhân quan trọng phải đến chiều
nay.
Ở tại nhà hàng, chúng tôi mới biết vì sao ông quá tự tin về một buổi họp mặt lớn
như vậy. Gà nướng, bánh mì làm tại nhà, bánh nhân táo mới nướng, những người
hầu bàn đang sắp các đĩa thức ăn ngon lành ra trên một bàn dài. Tất cả mười ba
người trong hội Thông Công đều hiểu điều đó, tôi cảm thấy khuây khỏa bớt khi
hiểu được điều đó, mặc dầu thời tiết cũng là một trong những lý do. Chúng tôi
đứng quanh trao đổi ý kiến về cuộc hành trình của mình trong khi Sonmore chào
đón những người trong vùng, bấy giờ đang bắt đầu đến.
Bảy giờ: Giờ buổi tiệc bắt đầu. Hai mươi tám người có mặt trong gian phòng ấy,
mười ba người và tôi, và mười lăm người ở tại Minneapolis kể cả Clayton
Sonmore.
Bảy giờ ba mươi. Hai mươi tám thực khách đang đói bụng bắt đầu nhìn vào bàn
quay đầy ắp thức ăn.
“Thời tiết đã cầm chân mọi người rồi”, một người lên tiếng
Nhưng qua các khung cửa sổ, chúng tôi vẫn nghe thấy dòng xe cộ lưu thông ở các
đường phố lầy lội.
Đến tám giờ, chúng tôi, hai mươi tám người, bắt đầu ngồi vào bàn ăn, còn ít hơn cả
số bàn đặt trong căn phòng rộng lớn. Gương mặt của Sonmore đăm chiêu. Tôi biết
ông đang nghĩ gì. Nhưng tôi còn biết một điều khác nữa. Tại đây có một khuôn
mẫu: Khuôn mẫu của Đức Chúa Trời. Tôi kể cho vị chủ nhà hàng đang thất vọng
về kinh nghiệm của chúng tôi ở Los Angeles, thể nào chúng tôi cũng đã phải bỏ đi
biết bao nhiêu buổi điểm tâm, còn hơn buổi ăn tối hôm nay nữa.
Nhưng Đức Chúa Trời không cần một số lượng đông đảo để tiến hành công việc
của Ngài. Ngài chỉ cần một số ít người ở mỗi nơi. Đừng nhìn vào hai trăm ba mươi
sáu chỗ trống. Tôi nói với ông ta “Hãy nhìn vào mười bốn người đã đến dự. Với
mười bốn con người đó, Đức Chúa Trời có thể làm đảo lộn cả thành phố”.
Buổi nhóm tối đó đã trở thành một buổi nhóm tuyệt vời. Diễn giả chính là ông
Henry Krause, một nhà sản xuất ở Hutchinson, tiểu bang Kansas, chủ tịch ban chấp
hành của hội Thông Công. Henry đứng lên, đối mặt với căn phòng gần như trống
không, với một sự sốt sắng, nhiệt tình như là đứng trước một cử tọa đông đảo. Ông
không giảng luận. Cũng như tất cả chúng tôi, ông chỉ thuật lại câu chuyện của
chính cuộc đời mình: Thể nào một ngày kia khi ông đang cày trong cánh đồng lúa
mì của ông và cầu nguyện, ông vẫn thường làm như vậy một mình trên chiếc máy
cày. Đức Chúa Trời đã tỏ cho ông một kiểu máy cày mới.
Henry Krause không phải là một người có khả năng đặc biệt về máy móc, nhưng
lúc ấy chiếc máy nầy đã hiện ra trước mắt ông, đầy đủ mọi chi tiết. Khi trở về nhà,
ông vẽ lại chiếc máy ấy và càng nhìn chiếc máy, ông cảm nhận thấy rằng với một
chiếc máy cày như vậy, nếu như nó hoạt động, ông có thể cày được gấp ba lần
nhiều hơn chiếc máy cày cũ trong cùng một khoảng thời gian. Henry vẽ lại các
bảng vẽ thật chính xác và bắt đầu đưa đến cho các nhà sản xuất. Đến bất cứ nơi
nào ông cũng gặp phải những phản ứng giống nhau của các nhà kỹ thuật chuyên
nghiệp: Cái đồ nầy không hoạt động được.
Henry không tinh thông cũng không phải là nhà kỹ thuật. Nhưng ông tin rằng kiểu
mẫu của ông đến từ Đức Chúa Trời, và ông biết Đức Chúa Trời vừa là nhà chuyên
môn vừa là một nhà thiết kế bậc thầy.
Vì vậy trong nhà kho của mình. Henry bắt đầu tự lắp ráp chiếc máy cày, ông đập
bẹp từng chiếc lưỡi cày từ các mảnh kim loại phế liệu và sử dụng các bộ phận cũ
mua lại. Phải mất hàng tháng trời để gò đập suốt ở tại lò rèn tự làm lấy, trước khi
chiếc máy cày được hình thành, y hệt như mẫu mã ông đã thấy. Ông tra nó vào
máy kéo và lái ra ngoài cánh đồng.
Và nó đã hoạt động.
Máy cày hiệu Krause lúc ấy được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới, và Henry
Krause đã trở thành một trong những nhà sản xuất nông cụ lớn nhất nước, một nhà
kinh doanh đã cống hiến phân nửa thời gian và cả tấm lòng của mình để hầu việc
Chúa.
Một luồng điện lan truyền khắp phòng. Khi Henry nói, bạn có thể cảm nhận thật sự
Thánh Linh ngự xuống trên buổi nhóm. Ba người trong số những vị ở Minneapolis
được nhận Báp Têm bằng Thánh Linh khi đang ngồi nơi bàn ăn, dầu không có ai
đặt tay trên họ hay một lời cầu nguyện nào. Hết thảy chúng tôi đều vây quanh họ
và vui mừng, chợt một người hầu bàn chạy vào từ cửa bếp.
“Ông Sonmore! Xin ông hãy đến ngay cho”
Ở dưới tầng hầm, hình như một trong những người bảo vệ đã bắt giữ ai đó. Người
hầu bàn không biết ông ấy bị cơn đau tim hay là động kinh.
Nhiều người trong chúng tôi vội vã chạy xuống lầu. Bên ngoài căn phòng nóng
như một cái lò đó, một nhóm người đang giữ một người đàn ông trong một chiếc
ghế.
Thình lình tôi bật cười. Người đàn ông nầy không bị bịnh, ông chỉ hoàn toàn như
điều mà những người kỳ cựu trong hội thánh Acmêni thường gọi là “bị Thánh Linh
cáo trách”
“Người anh em”, tôi nói “Hãy ngợi khen Đức Chúa Trời! Cảm tạ Ngài đã tìm anh
và gặp anh buổi tối hôm nay”. Ông ta mở mắt ra, trông ông có vẻ rất khiếp sợ,
không biết vì sao. Hẳn phải có điều gì đó khiến ông cảm nhận được quyền năng
của Chúa đã tràn qua hành lang bằng xi măng mà không hề biết trước. Thậm chí
ông ta cũng không hề biết rằng có một buổi nhóm cầu nguyện đang diễn ra trên
tầng lầu của khách sạn.
Thế rồi, ông ta cùng lên lầu với chúng tôi. Bạn chưa bao giờ thấy một con người
được biến cải hoàn toàn hơn thế. Thoạt đầu, ông muốn xưng nhận rất nhiều điều
trong cuộc đời mình, rồi sau đó ông không đủ lời để thốt lên rằng ông yêu Chúa
nhiều như thế nào.
Tình tiết xảy ra giống như sự quyết định của Đức Chúa Trời ở trên một buổi nhóm
mà theo sự đánh giá của loài người là thất bại. Dường như là Ngài đang phán với
chúng tôi rằng: Đừng lo lắng đến những con số. Ta sẽ tìm những người ta cần, ở
bất kỳ nơi đâu, sẽ đem họ đến cho các ngươi. Hãy làm phần việc của mình cách
trung tín; và cứ để phần còn lại cho ta.
Và đó là điều họ đã làm, ở tại Minneapolis. Nhóm người đầu tiên ấy, kể cả người
thợ máy trong phòng chứa các nồi hơi, vẫn tiếp tục giữ sự nhóm lại một cách đều
đặn và trung kiên, dầu không thấy sự tăng trưởng trong suốt sáu tháng, không có
ảnh hưởng thấy được qua những gì họ đang thực hiện. Thế rồi hoàn toàn bất ngờ,
người ta lại bắt đầu đổ đến. Hai trăm, năm trăm, một ngàn. Câu chuyện ở Los
Angeles lại một lần nữa xảy ra.
Thật vậy, khu vực Minneapolis đầy sức sống đến nỗi một năm rưỡi sau cái đêm
bão tuyết ấy, chúng tôi tổ chức một cuộc hội nghị thường niên toàn quốc ở tại đó
và chính ở tại hội nghị vào mùa thu năm 1956 đó, chúng tôi đã nhìn thấy lần đầu
tiên các rào cản giữa những người Ngũ Tuần và một hội thánh theo một giáo phái
chính thống đã thật sự bị sụp đổ.
Dĩ nhiên, hàng năm các thành viên của mọi giáo phái đều được thừa kế sự đổ đầy
Thánh Linh và thông thường họ phải đối diện với hai sự chọn lựa: Hoặc phải ở tại
hội thánh mình và giữ yên lặng về những sinh hoạt có chiều kích mới mẻ đó, hoặc
phải bỏ hội thánh cũ và gia nhập vào một hội thánh Ân tứ nào đó. Nhưng không
phải hội thánh Ân tư đã tiếp đón và nuôi dưỡng chính họ trong khi hội thánh trải
qua những giai đoạn lịch sử sao?
Ngày đầu tiên của Hội Đồng, chúng tôi đã nhìn thấy họ, năm vị mục sư của hội
Luther Leamington như thể sẵn sàng lồng lên bất cứ lúc nào. Tất cả những gì họ đã
nghe đều không đáng lo ngại lắm. Bởi vì đêm hôm sau họ đã trở lại và ngồi gần ở
những dãy ghế đầu. Đến ngày thứ ba, một buổi nhóm điểm tâm sáng thứ tư, họ lại
có mặt ở đấy, sốt sắng muốn nhận được “bất cứ điều gì Đấng Christ dành cho họ”,
họ nói với chúng tôi như vậy.
Một nhóm người trong Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh
Nghiệp Cơ Đốc đã đến bàn họ và cầu nguyện xin Thánh Linh đầy dẫy trong họ.
Sau đó họ cảm ơn chúng tôi một cách lịch sự và ra về hoàn toàn yên lặng, tất cả
đều điềm tĩnh và rất...Lutheran. Rồi chúng tôi cũng không biết lời cầu nguyện của
mình có được nhậm hay không cho đến sau nầy.
Lời cầu xin của chúng tôi đã được Chúa nhậm. Một vị đã nhận được báp têm bằng
Thánh Linh trong lúc lái xe về nhà. Người khác thì ngay sáng hôm sau, khi ông
đang cạo râu. Người thứ ba nhớ lại một trong các diễn giả của hội đồng có nói rằng
không phải khi chúng ta cố gắng hoặc gượng ép thì mới nhận được các ân tứ của
Đức Chúa Trời, mà là khi nào chúng ta được thư giãn nhất. Vị mục sư tự hỏi “Khi
nào thì chúng tôi được thư giãn nhất?”. Chẳng bao lâu sau khi đang đứng dưới vòi
sen nước ấm, ông ngợi khen Đức Chúa Trời bằng ngôn ngữ của thiên đàng.
Đó là khởi đầu của một sự chuyển đổi mà từ lúc ấy đã truyền qua các hội chúng
Lutheran từ bờ biển Đông sang Tây. Không phải loại bỏ sức mạnh truyền thống
của họ mà ngược lại. Những người thuộc hội Lutheran, hàng giáo phẩm cũng như
tín đồ, đều nhận được quyền năng để công bố ra đức tin của họ như một hiện thực
của đời sống hằng ngày.
Từ đó, chúng tôi cũng nhận thấy quyền năng tương tự đã lan đến nhiều giáo phái
khác. Hội Trưởng Lão, hội Báp Tít, hội Giám Lý, Công Giáo La Mã, hội Giám
Mục. Đầu tiên luôn luôn là một nhóm người có phần thù địch đến dự nhóm chỉ vì
sự hiếu kỳ và sau đó gió Thánh Linh thổi qua toàn thể các hội thánh và toàn thể các
nhóm tín hữu.
Buổi nhóm tối thứ hai vào tháng ba năm 1967 ở tại nhà của ông Ray Bullard,
trưởng chi hội của chúng tôi ở tại South Bend chỉ có bảy sinh viên từ Notre Dame
nói tiếng lạ, nhưng sự vui mừng và quyền năng họ tìm được trong gian phòng đó
chính là điều đã khiến cho ngày nay nhiều người đã xem ông Ray như là một người
cha đỡ đầu về mặt thuộc linh đối với phong trào Ngũ Tuần Công Giáo khắp thế
giới xuất phát từ Notre Dame.
Một lần nữa, chìa khóa vẫn là một chi hội nhỏ bé ở địa phương, nhóm lại đều đặn,
nhiều khi trong sự nản lòng, cứ cầu nguyện cho vùng South Bend, chờ đợi như
thánh Gregory đã chờ đợi, cho đến đúng kỳ của Đức Chúa Trời.
Dĩ nhiên là không ai có thể thấy toàn bộ thời gian biểu. Chỉ thấy các phần rời rạc
đây đó. Vào tháng mười năm 1974, một phần rời đã được cung cấp cho tôi khi
được mời đến Vatican để nhận một sự đánh giá chính thức về vai trò của Hội
Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc trong việc đến
với “hàng triệu” tín hữu Công Giáo La Mã.
Hàng triệu ư? Tôi vụt nghĩ đến khi bước qua hàng vệ binh Thụy Sĩ đầy màu sắc.
Hàng triệu người...?
Đừng lo lắng về những con số. Đó là Lời Đức Chúa Trời dành cho chúng tôi từ lúc
ban đầu. Khi Đức Thánh Linh kiểm soát, thì những con số sẽ còn lớn hơn cả bất cứ
số lượng nào mà người ta từng biết.
Và khi Đức Thánh Linh không...
Chính vào năm 1957, ông C.C Ford đưa tôi bay cùng với ông trong một chuyến
thăm kéo dài hai tuần đến mười hai chi hội ở khắp miền Nam. Chúng tôi có một ấn
tượng đặc biệt với chi hội ở tại Houston Texas, hơn sáu trăm người tham dự trong
một buổi nhóm điểm tâm sáng thứ bảy.
Sau đó, khi một vài người trong chúng tôi ngồi lại nói chuyện. Một người trong
đám họ nói một cách buồn bã “Tôi không biết vì sao, chứ đáng lẽ số chúng tôi phải
lên đến hàng ngàn người, chứ không phải chỉ hàng trăm”
“Nhưng các anh chỉ mới bắt đầu một vài tháng”, tôi nói “phải có thời gian...”
“Ở Texas thì không như vậy! Ở Texas chúng tôi thực hiện các công việc lớn lao và
nhanh vội”. Ông ta đứng lên. Một thương gia chuyên mua bán bất động sản, to lớn,
chắc nịch. Sự nghiệp của ông ta là một bằng chứng trọn vẹn về lời lẽ của ông
“Chúng ta hãy thuê một hội trường. Thuê một chiếc xe tải thật tốt. Phải làm cho
thành phố nầy đứng dậy!”
Andy Sorelte, chủ tịch của chi hội lắc đầu cách ngần ngại, nhưng một người khác
đã tiếp lời “Chúng ta sẽ thuê Nhà hát Thành Phố, gồm 6.600 chỗ ngồi. Khi người
ta nghe đến cái tên Demos Shakarian, họ sẽ đến chật nhà hát!”
Tôi kinh hoàng nhìn ông ta “Tôi”. Ai muốn đến nghe tôi? Tôi không phải là diễn
giả. Hơn nữa tôi còn phải trở về để mua cỏ cho bầy súc vật và...”
Nhưng ông ta chẳng chịu nghe những lời tranh luận. C.C và tôi phải đi thăm các
chi hội khác nữa ở Louisiana và Missisipi trong tuần tới. “Khi về ông hãy ghé lại
Houston. Một tuần là ông đủ thời gian để chuẩn bị buổi nói chuyện rồi, ở Texas”
Và bởi vì lòng yêu mến Chúa của ông ta cũng mang tầm cỡ Texas, nên tôi đã bị
thuyết phục, hoặc là gần như vậy. Suốt mười ngày tiếp theo đó, tôi cố ép mình
nhận thức rằng diễn đàn ở tại Houston là sai lầm. Nếu có một điều nào tôi đã học
được trong sáu năm thành lập Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh
Nghiệp Cơ Đốc, thì đó chính là sự thực hữu huyền nhiệm của điều được gọi là thân
thể của Đấng Christ, mỗi một chi thể đều mang một chức năng riêng biệt của nó.
Một số người sinh ra đã có đầu óc tổ chức. Một số người là những diễn giả được
xức dầu. Người khác có thể là cố vấn, khuyên bảo. Và một khi ai đó đảm nhiệm
phần việc không phải của mình thì không những người ấy đã nhận một công việc
rất xoàng, mà còn ngăn chặn dòng năng quyền đối với con người đáng lẽ phải đảm
nhận phần việc đó.
Cũng như phần việc của tôi. Tôi đã biết rõ về điều đó kể từ khi nghe các tiếng kèn
thổi vang trên ngọn đồi ở tại sân vận động Hollywood. Tôi là một người giúp đỡ.
Ân tứ của tôi là cung cấp nơi chốn, thời điểm và con đường cho những người khác
chiếu sáng ra. Ân tứ ấy không kém hơn hoặc trọng hơn bất cứ ân tứ nào khác mà
chỉ là ân tứ của tôi.
Nhưng tên tuổi tôi được đưa ra trên diễn đàn ư? Một buổi nhóm nhắm vào tôi?
Thật là sai lầm, và càng vật lộn để chuẩn bị cho bài diễn thuyết, tôi càng biết rằng
mình đã sai lầm.
“Có vấn đề gì thế?” C.C đã hỏi khi hết tờ nầy sang tờ khác trong tập vở bị vo tròn
và ném vào sọt rác.
“Anh đã từng diễn thuyết hàng trăm lần kia mà!”
Nhưng sự thật không phải là thế. Tôi chưa hề diễn thuyết bao giờ. Tôi chỉ đứng lên
và tôi không biết nữa, tôi chỉ nói chuyện mà thôi. Trong những lúc tôi đứng lên
như vậy, thật ra chỉ là để giới thiệu những người khác, chỉ cho người ta thấy trách
nhiệm của chính họ là gì, chỉ có vậy thôi. Nhưng khi nghĩ đến hàng ngàn gương
mặt hướng về tôi như thể tôi là một nhà lãnh đạo, thì tâm trí tôi trở nên trống rỗng.
Đến khi quay trở lại Houston thì tôi lại ở trong một tình trạng gần như kinh hoảng.
Andy và Maxine Sorelle mời chúng tôi ăn tối trước giờ đó, nhưng tôi không còn
tâm trí để ăn. Thậm chí như thể có nguy cơ làm tổn thương người đầu bếp của họ
là Lotlie Jefferson, chỉ có thể ăn một cách khổ sở.
Khoảng 6g45, chúng tôi lên đường đến Nhà Hát Thành Phố bằng hai chiếc xe hơi.
Lotlie Jefferson với Andy vì Maxine không đi được và C.C đi với tôi cùng ba vị
khách khác đã dự bữa cơm tối hôm đó. Từ khoảng cách một dặm chúng tôi đã nhìn
thấy các ánh đèn rực sáng của nó, chiếu sáng như các ngọn lửa của tòa phán xét.
Các nhân viên mặc đồng phục ở bãi giữ xe chạy đến để mở cửa xe cho chúng tôi.
Trong bãi giữ xe rộng lớn đó có đúng năm chiếc xe khác.
Chúng tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay: 7g15. Buổi diễn thuyết được ấn định sẽ bắt
đầu vào lúc 7g30. Chúng tôi bước qua một cửa hông để vào trong hội trường rộng
lớn, sáng quắc và yên lặng, không có một bóng người nào ở trong hội trường ngoại
trừ người trông coi đang ở cuối phòng. “Tôi đã sắp xếp theo như ý ông muốn!”,
ông ta hét lớn và ngó chăm vào người đứng ra thuê nhà hát.
Chúng tôi chậm chạp bước xuống lối đi ở chính giữa, tiếng các bước chân vang lên
trong hội trường sâu thẳm. Năm chiếc xe hơi đó có phải là của người trông coi và
của các nhân viên phục vụ bãi giữ xe.
Có một dãy ghế trên bục giảng sáng đèn, nhưng chẳng ai cảm thấy muốn bước lên
đấy. Chúng tôi ngồi vào bảy chỗ gần hàng đầu, chưa đầy một hàng ghế và lo lắng
nhìn đồng hồ: 7g25.
Bấy giờ một hy vọng sung sướng kỳ lạ tràn ngập tôi. Có lẽ không có ai đến! Không
một ai cả! Có lẽ Đức Chúa Trời đang can thiệp để bảo vệ tôi khỏi chính sự không
vâng lời của tôi.
“Tôi bảo đảm là đã ghi đúng giờ trên các tờ báo”, người thuê bất động sản cứ nói
mãi.
Đến 7g30, anh ta cũng bắt đầu cầu nguyện xin Chúa cho đừng ai có mặt cả. Chúng
tôi sẽ nói gì với họ đây? Làm thế nào để giải thích cho một buổi diễn thuyết
“khổng lồ” khi mà chẳng có bóng dáng một ai cả?
Đến tám giờ thì rõ ràng là Đức Chúa Trời đã làm điều bất khả thi. Trong một thành
phố mà sáu trăm người có thể tham dự vào buổi nhóm vào sáng sớm thứ bảy, thì
Ngài đã hoàn toàn che đậy một bức màn vô hình lên một buổi nhóm thiếu ơn của
Ngài. Người đàn ông thuê bất động sản, với một tấm lòng lớn lao như tiểu bang
Texas, là người đầu tiên lớn tiếng nói lên và ngợi khen Đức Chúa Trời về điều đó.
“Nhưng chúng ta làm gì bây giờ?”, Andy hỏi. “Dầu sao chúng ta cũng đã thuê nhà
hát khổng lồ nầy cho buổi tối hôm nay. Vậy hãy cùng nhóm với nhau, dù chỉ có
bảy người”.
“Anh đã có những lời viết sẵn rồi, Demos” C.C nói. Nhưng không điều gì có thể
thuyết phục tôi lôi những trang giấy đầy dấu gạch xóa khỏi túi được.
“Được rồi, vậy thì để tôi nói cho!”. Chính bà Lotlie Jefferson đã nói thế “Tôi lúc
nào cũng muốn nói chuyện ở một nơi đẹp đẽ như thế nầy!”
Bà đứng lên, bước lên trước hội trường và bắt đầu lên tiếng. Bà là một người nhỏ
nhắn, nặng không đến 45 ký, nhưng khi bà nói về Chúa Jesus, tiếng của bà vang
khắp 6.600 chỗ ngồi trong hội trường. Trong vòng ba mươi lăm phút, bà giảng luận
như thể người ta ngồi đầy ở các ghế trong hội trường. Từng lời nói của bà cũng đầy
dẫy tình yêu thương và lẽ thật của Đức Chúa Trời, đến nỗi tôi cảm thấy tất cả sự
căng thẳng trong suốt tuần lễ qua đều biến mất khỏi tôi.
Điều duy nhât tôi không thể hiểu được là giờ kêu gọi của bà vào lúc kết thúc. Bởi
vì dĩ nhiên sáu người trong chúng tôi, khán giả của bà đều đã “dâng lòng mình cho
Chúa Jesus” từ lâu rồi trong khi bà vẫn đang kêu gọi chúng tôi làm điều đó.
Dầu vậy, đó là một buổi nói chuyện tuyệt vời mà tôi không bao giờ quên được. Tôi
nghe tiếng chân từ tuốt dưới lối đi dài vắng tanh, người trông nom hội trường tiến
lên, hàng nước mắt chảy dài trên má, anh ta quỳ gối trước bục giảng và dâng lòng
mình cho Chúa Jesus. Bà Lotlie Jefferson, với cung cách của một nhà truyền giáo,
người mỗi ngày tiếp nhận hàng trăm người vào trong Vương quốc, đã đặt hai tay
lên đầu anh ta và bắt đầu cầu nguyện.
Ai biết được? Có lẽ đã không có một lỗi lầm nào ở đó cả. Có lẽ nhà hát thành phố
buổi tối hôm ấy rốt lại là chỗ Đức Chúa Trời dành cho chúng tôi, và người đàn ông
đó là người mà Ngài đang tìm kiếm. Tôi chỉ biết rằng tôi đã được nhắc nhở một lần
nữa. Tôi tự hỏi không biết những người khác có cần được nhắc lại như tôi thường
cần không, đó là: Chỉ Thánh Linh là Đấng có thể kéo con người đến với Chúa
Jesus.
Và chỉ có các ân tứ của Đức Thánh Linh là điều Ngài sẽ sử dụng cho công việc
nầy. Ngài không ban cho tôi ân tứ truyền giảng. Tôi chỉ là một người làm chứng, dĩ
nhiên. Và mỗi một Cơ Đốc nhân cũng vậy. Nơi duy nhất tôi có thể nói về Chúa
Jesus thích hợp đó là một trại bò, hơn là bục giảng. Rốt lại, đó là giấc mơ độc đáo
mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi.
Một nhà kinh doanh xe cộ như Linwood Safford ở tại Wasington D.C đang nói về
Chúa cho những nhà buôn bán ô tô khác.
Một ủy viên công tố như Kermit Bradford ở tại Atlanta, Georgia nói về Chúa cho
các luật sư khác.
Một người ở trại bò sữa nói về Chúa cho những nhà chăn nuôi khác.
Một cách thật tự nhiên, khởi sự bằng một ngôn ngữ chung, một sự quan tâm
chung...
Giống như sự quan tâm mà mỗi nông gia đều cảm nhận trong việc chăn nuôi súc
vật. Đối với chúng tôi đó là chủ đề hấp dẫn hơn hết trên thế giới nầy. Đó là việc
tìm tòi sao cho một con vật hoàn hảo quý hiếm đó có thể luôn luôn di truyền các
đặc điểm hảo hạng của nó cho thế hệ kế tiếp. Mỗi tháng tôi đều nghiền ngẫm tạp
chí của Hiệp Hội Holstein-Frisian, nghiên cứu các bảng phả hệ, và cứ mỗi lần như
thế tôi lại hết sức cảm kích bởi hệ thống máu của Bruke được triển khai ở tại trang
trại Pabst trên miệt Wiscosin.
Tôi còn nhớ lúc bước qua các trại bò rất sạch sẽ và ngăn nắp đó vào lần đầu tiên,
tìm kiếm một con bò đực tơ, là con vật sẽ truyền giống ấy cho bầy bò cỏ của chúng
tôi. Con đầu tiên tôi dừng lại để ngắm nghía giá là $25.000, đắt hơn gấp mấy lần số
tiền tôi có thể mua. Trong số đó có những con từ hai đến ba tháng tuổi được bán
với giá $50.000, những con khác bằng tháng tuổi với giá $1.000
Đột nhiên tôi nhìn thấy nó trong một bãi quây dọc theo vách tường ở phía Nam
nông trại, một con đực nhỏ nhắn nhưng rắn chắc đứng tách biệt với các con khác
như thể có một ánh sáng chiếu vào nó. Đó chính là sự kiện tương tự không bao giờ
làm tôi thôi ngạc nhiên ở các buổi nhóm của Hội Thông Công, nơi mà trong một
gian phòng chứa đầy khoảng bốn trăm người, tôi đột nhiên “nhìn thấy” người đàn
ông mà tôi sẽ mời tiếp theo đó. Bấy giờ cũng vậy, “anh chàng” nặng 90 ký ấy cũng
nổi bật lên ở đấy.
Tôi bước qua ngăn chuồng của nó. Tên nó là Pabst Leader, giá: $5000. Tôi đọc các
chi tiết được ghi trên cổ nó, và giống như điều tôi đã nhìn thấy, mẹ của nó thuộc
hạng E (sản lượng sữa toàn hảo), bố nó từng có hơn năm mươi con cái thuộc hạng
E. Nhưng những chi tiết trên chỉ làm khẳng định điều tôi đã biết khi trông thấy nó.
“Tôi lấy con Pabst Leader”, Tôi nói khi người quản lý nông trại đuổi kịp tôi.
Ông Sylvester ngó tôi cách tò mò. Các nhà chăn nuôi không bao giờ quyết định
nhanh như vậy, mà chỉ sau các cuộc tham khảo ý kiến rộng rãi với các nhà cố vấn.
“Anh có chắc chưa? Để tôi đưa ông đi xem một số các con bên gian trong. Ông
Pabst nghĩ rằng ông sẽ thích”
“Chắc chắn, ông Sylvester à”
Xong, ông ta cho con vật vào thùng và chở đến cho chúng tôi với giá phụ trội là
$350. Tôi trả $5.350 cho con Leader. Thường thì mười con cái đầu cho một con bò
đực mang chính xác hình ảnh của bố nó. Mỗi con cái trong mười đứa con đầu tiên
của Leader đều thừa hưởng các đặc điểm ưu việt của bố nó: hình dạng bên ngoài,
sức kháng bệnh, giống bò cho sản phẩm sữa có chất lượng cao. Ngay cả một số
con nhỏ khẳng khiu nhất của chúng tôi cũng sản sinh ra những lứa đẻ mà không có
con nào kém thiếu chất lượng cả, tất cả những đứa con của Leader.
Qua mười lăm năm chúng tôi nuôi nó, nó đã phối giống cho ra đời hơn năm ngàn
con bò cái, mỗi con đều mang đúng chất lượng toàn hảo của bố nó không hề sai
trật. Pabst Leader là con vật có một trong một triệu con với khả năng lưu truyền
đặc điểm của chính nó ở mỗi lứa đẻ.
Torng khi đó, ông Sylvester thuật lại với giọng rầu rĩ, một con đực cũng bán được
trong mùa đó với giá $50.000 thì lại không chứng tỏ được giống đáng tin cậy của
nó. Ông nói “Nó không đáng $5.000 nữa. Trong khi con đực nhỏ nhắn mà ông
chấm lẽ ra phải đáng giá gấp đôi số $50.000.
Đó không phải là trường hợp duy nhất. Mỗi con bò đực mà chúng tôi đã mua từ
trại Pabst đều đã cho thấy nó trở thành một nguồn đầu tư có lợi nhất.
Làm chứng lại ư? Tôi không làm được
Tôi nhớ ngày mà ông Sylvester chồm qua bàn ăn ở tại phòng ăn tối trong trang trại,
thật nghiêm túc và trang trọng “Đến đây, Shakarian nầy. Có phải anh không quyết
định theo như anh đã dự tính phải không? Có người đã đến trại bò trước anh rồi
sau đó đã giới thiệu cho anh phải không?”
“Phải, ông Sylvester à, đúng vậy đó”
Ông liếc một vòng quanh bàn với vẻ đắc thắng “Tôi biết mà! Ông ta là ai vậy?
Chúng tôi sẽ không tăng giá với anh vì anh cho chúng tôi biết người cố vấn ấy
đâu”
“Anh thật không biết ai là vị cố vấn của tôi sao?”
“Không thật đấy! luôn luôn chúng tôi có cả tá khách mua và người môi giới vào
đây. Người của anh thật là một tay nhà nghề”
“Biết rõ các súc vật hơn hết thảy chúng ta trong cả phòng nầy”
“Ông ta là dân kỳ cựu ư?”
“Người ấy từng ở trong công việc lâu năm hơn bất cứ người nào khác”
“Chuyên về bò sữa phải không?”
“Ồ chắc chắn rồi”
Dĩ nhiên là tôi cứ hết sức kéo dài mẫu đối thoại. Đến lúc tôi cho họ biết tên của vị
cố vấn ấy thì cả thính giả đều sửng sốt ngạc nhiên, một sự yên lặng mà tôi chưa hề
thấy. “Chúa Jesus đã dựng nên những con vật ấy”, tôi nói với họ “Các bạn và tôi
chỉ có thể thấy được nòi giống của chúng. Còn Ngài thấy cả bên trong của con vật,
và cả con người ta nữa”
Đó là một cơ hội tốt để dẫn vào tấm lòng và tâm trí của những người ấy. “Cơ hội
thuận tiện để tỏ cho thấy Đức Chúa Trời hiện hữu trong một thế giới mà người ta
hiểu biết được, đó là tất cả những gì mà Hội Thông Công hướng đến.
Thế giới mà một người biết đến, tôi nghĩ đến thời mà chi hội của tôi ở lại
Lancaster, tiểu bang Pennsylvania đã từng trải qua một thời gian khó khăn để dành
được sự công nhận trong cộng đồng nông trại bảo thủ đó. Lý do phản đối chính
dường như là vì Hội Thông Công đó đến từ “bên ngoài” - tức là nhu cầu và nan đề
của chúng tôi mặt nầy hay mặt khác, có khác hơn so với họ.
Vì vậy, một lần nọ khi Rose và tôi đến tại Lancaster, chi hội mời hàng chục nông
gia địa phương đến dự bữa ăn tối, và tôi đã đứng lên như một nông gia cố gắng kêu
gọi họ gia nhập vào mối quan hệ khoan dung đối với nhau.
Một sự yên lặng lạnh lùng
Bạn biết thế nào rồi: Càng làm không tốt thì càng khiến cho công việc tồi tệ thêm.
Khi sự tự tin của tôi càng giảm đi thì điệu bộ của tôi lại càng lúng túng hơn. Tôi
dang cả hai tay rộng ra, rồi kéo chúng về phía mình: “Hội Thông Công Trọn Vẹn
Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc lệ thuộc vào sự dự phần của hết thảy mọi
người trong chúng ta!”. Nhưng điều duy nhất mà hai cánh tay tôi gom được là bình
sữa đặt ở giữa bàn.
Nó ngã xuống và sữa đổ ra từ trên áo cho đến đôi giày, ướt hết bộ complê đẹp nhất
của tôi. Quá lúng túng không biết phải làm thế nào, tôi cho một chân lên bàn và bắt
đầu toan lau chiếc giày bằng khăn trải bàn trắng tinh.
Có tiếng kêu thảng thốt của Rose “Demos, anh định làm gì vậy?”
Ngó xuống bàn, tôi đã hiểu.
Tôi lật đật bỏ chân xuống. Cảm thấy mặt đỏ tía lên và ước gì cả phần còn lại của
mình có thể biến mất khỏi dưới bàn.
“Tôi tưởng, tôi nghĩ...là tôi đang ở ngoài trại bò sữa trong phút ấy, các bạn à”.
Tôi xin lỗi “Có ai trong các vị nào vắt sữa bò mà bất thình lình bị nó đá văng cả xô
sữa lên mình chưa?”.
Có ai đó ở cuối phòng tủm tỉm cười, thế rồi cùng một lúc cả gian phòng nổ ra một
trận cười. Căn phòng rung chuyển vì tiếng cười trong cả mấy phút, và rồi bầu
không khí của buổi nhóm đã được thay đổi. Những nông gia lớn tuổi, tóc hoa râm
đứng lên và thuật lại thể nào Đức Chúa Trời đã giúp đỡ họ trải qua những trận bão
tuyết dữ dội trong mùa đông và những cơn nắng hạn liên tục trong mùa hè. Đến
cuối buổi chiều hôm đó, chi hội Lancaster đã có thêm rất nhiều thành viên mới.
Sau nầy họ nói với tôi “Anh có biết điều gì đã làm chúng tôi đổi ý không? Chính là
lúc anh bỏ chân lên trên bàn. Lúc ấy chúng tôi mới nhận ra anh là một nông gia
thực thụ, cũng y như chúng tôi...”
Thế Giới Bắt Đầu Xoay Chuyển
Năm 1956, chúng tôi hành lập chi hội Canađa đầu tiên của mình ở tại Toronto, và
kể từ lúc ấy chữ Quốc tế trong danh hiệu của chúng tôi có ý nghĩa hơn. Dầu vậy
Canađa và Hoa kỳ vẫn chỉ là một mảng nhỏ trên bề mặt thế giới. Tôi vẫn luôn suy
nghĩ đến quả địa cầu mình đã được thấy xoay chuyển ở trước mặt tôi trong cái đêm
vào năm 1952 ấy. Hàng triệu người trên từng lục địa đều ngước nhìn lên sống động
với tình yêu thương chờ đợi sự trở lại của Cứu Chúa mình.
Thập kỷ năm mươi gần sắp qua, mà tôi vẫn chưa thấy điều đó xảy ra. Thế rồi cơ
hội đã đến và suýt tí nữa tôi đã bỏ mất nó.
Một lời mời đã đến với chúng tôi vào tháng mười hai năm 1959. Qua tổ chức
QUAN TÂM, Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ
Đốc đã gởi đồ cứu trợ đến cho các nạn nhân trong trận đói tại nước Cộng Hòa
Haiti. Bấy giờ tổng thống Francois Duvalier mời chúng tôi tổ chức một kỳ nhóm
suốt ba tuần lễ tại xứ sở đó.
Tôi nói với nhóm Thông Công tại nhà hàng Clifton buổi sáng hôm đó “Qua những
gì được biết về ông Duvalier, tôi biết ông ta là một trong những nhà độc tài nhất
thế giới”. Những tổ chức cảnh sát tra tấn, bí mật, mọi người có mặt tại đó đều đã
từng nghe những câu chuyện khác nhau về “Bố Doc”. “Nhận lời mời của chính
quyền ông ta và đến đấy chẳng khác gì nói rằng chúng ta cũng đồng tình với tất cả
những hành động ấy”.
Chính Rose là người đã thách thức điều ấy, nàng nói “Demos, trong khải tượng của
anh, có nơi nào trên thế giới bị bỏ qua vì cớ chính phủ của họ chăng?”
Tôi cố nhớ lại. Không - mọi lục địa, từng hòn đảo đều được hội hiệp với chúng tôi
vai kề vai, bất động và vô vọng lúc đầu, và sau đó là sống động và vui mừng.
“Những sự phân chia về mặt chính trị không có liên quan gì sao?”
“Mà em không nghĩ họ phải xen vào bây giờ đâu, tình hình chính trị càng tồi tệ, thì
con người lại càng nhờ cậy vào Thánh Linh”
Dĩ nhiên là Rose đúng. Và vì vậy, tháng hai năm 1960, hai mươi lăm người trong
Hội Thông Công đã lên máy bay sang Haiti. Chúng tôi không hề biết rằng chuyến
bay đầu tiên ấy đang đặt để một khuôn mẫu cho mười lăm năm sắp đến. Chúng tôi
chỉ biết rằng mỗi người trong chúng tôi bằng cách nầy hay cách khác, đã vận động
để có tiền vé máy bay, chuẩn bị nhân ngày nghỉ cuối mùa đông. “Thế mà vợ tôi tin
chắc sẽ có một kỳ nghỉ vào mùa hè nầy”, và được ủng hộ bởi sự cầu nguyện của
chi hội của nhà mình.
Máy bay vừa chạm bánh và lăn đến trạm dừng ở tại sân bay Port au Prince thì cửa
trước đã mở và một nhóm các viên chức quân đội đeo huân chương và trang bị
súng ống. Một người trong nhóm, có lẽ là thông dịch viên nói “Có ông Shakarian ở
đây không?”
“Tôi là Demos Shakarian”, tôi nói “Nhưng tôi chỉ là một nhà chăn nuôi bò sữa, chứ
không phải...”
“Chào mừng Ngài Shakarian đã đến Haiti. Hành lý của các ngài sẽ được đưa đến
khách sạn. Mời các ngài đi với chúng tôi”.
Trước những hành khách khác đang trố mắt vì ngạc nhiên, chúng tôi bước ra khỏi
máy bay theo hàng một và đi qua hai hàng binh lính trong tư thế đứng nghiêm
cứng nhắc. Một dãy các xe Limusin đen, dài sang trọng đang chờ chúng tôi. Chúng
tôi không hề đến gần hành lang hải quan vì đã điền vào quá nhiều các biểu mẫu ở
trên máy bay. Dưới sự hộ tống của xe mô tô, chúng tôi vào thành phố trong tiếng
xe rít lên vụt nhanh trên đường, đến khách sạn Riviera. Tại đó thượng nghị sĩ
Authur Bonhomme, vị lãnh đạo chính của thượng viện đang tiếp đón chúng tôi.
“Mọi thứ đều đã sẵn sàng cho buổi nhóm tối hôm nay của các bạn”, ông nói với
chúng tôi bằng tiếng Anh rất lưu loát.
Biết được tôi là một nhà chăn nuôi bò sữa, ông đề nghị đưa tôi đi thăm chợ súc vật
ở tại địa phương. Tôi say sưa nhìn người ta ở trên con đường mà chúng tôi băng
ngang, một số người dẫn những con bò hoặc một con dê, những phụ nữ đội các giỏ
trái cây như thơm, dưa hấu, thậm chí gà con, một cách thăng bằng tự nhiên, nhẹ
nhàng trên đầu họ. Nhưng tôi thật kinh ngạc khi đến chợ, người ta mổ thịt súc vật
và bày bán ngay tại bãi chợ nhung nhúc ruồi
“Chúng tôi thường bị hạn hán”, Thượng nghị sĩ Bonhommer giải thích: “Nhưng
theo tôi nhớ thì năm nay là tồi tệ nhất, chúng tôi đang phải giết súc vật vì không có
cỏ cho chúng ăn”
Sân vận động Sylvio Cato ở tại Port au Prince chứa được 23.000 người, và khi
nhóm hai mươi lăm người chúng tôi đến lúc 7h30 chiều hôm đó thì đã gần đầy
người. Một sân khấu bằng gỗ rộng lớn hai mươi mét chiều dài và bảy mét chiều
rộng đã được dựng lên cho chúng tôi ngay trung tâm sân vận động. Tôi hẳn đã rất
vui mừng nếu như không có quá nhiều người mặc quân phục cùng ở trên diễn đàn
với chúng tôi, nhưng thượng nghị sĩ Bonhomme quả quyết rằng sự hiện diện của
các tướng tá và các viên chức chính quyền làm cho buổi nhóm có một vị trí trong
mắt của dân chúng.
Chúng tôi thử mở đầu bằng một số các bản Thánh ca, nhưng ngay sau đó thấy
không được hòa đồng lắm. Vì vậy chúng tôi sử dụng lại phương pháp chủ yếu của
tất cả các buổi nhóm của hội Thông Công, những cá nhân làm chứng lại câu
chuyện của cuộc đời mình. Một lần nữa, phương pháp của các nhà kinh doanh đã
chứng tỏ được giá trị của nó. Những khác biệt về thần học, về chính trị, về chủng
tộc đúng là không hề được đặt ra do các thành viên trong nhóm chúng tôi qua
nhiều người thông dịch để nói lên những từng trải chung đối với hết thảy mọi
người. Sự hiểu lầm giữa bạn bè, sự đau ốm trong gia đình, sự vật lộn để kiếm sống.
Đêm tiếp theo, mọi chỗ ngồi trong sân vận động đều kín hết và hàng ngàn người
phải đứng trên bãi cỏ của sân chơi. Đêm thứ ba thượng nghị sĩ Bonhmme ước
lượng số người đã lên đến ba mươi lăm ngàn người. Tuy nhiên, không phải hết
thảy đều đến để cầu nguyện.
Rắc rối bắt đầu trong khi Earl Prickett đang nói. Earl điều hành việc bảo quản một
bồn chứa công nghiệp và dịch vụ kiểm soát chất ô nhiễm ở tại New Jersey, nhưng
câu chuyện ông thuật lại tối hôm đó nói đến trận chiến giữa cá nhân ông với rượu.
Đó hẳn là một vấn đề thiết thực cho tầng lớp thính giả nầy, thượng nghị sĩ
Bonhomme đã cho chúng tôi biết tệ nạn nghiện rượu là một vấn đề lớn lao cho đảo
quốc nầy.
Earl kể lại thể nào ông đã bắt đầu uống rượu với các khách hàng “Bạn sẽ mất công
việc làm ăn nếu như bạn không biết uống rượu. Tuy nhiên, Earl đã trở thành một
trong số những người không thể dừng lại được. Vợ ông bỏ ông, bác sĩ cho ông biết
ông đã tự đưa mình đến chỗ hiểm nghèo, nhưng ông vẫn bất lực trước thói quen tệ
hại đó.
Tiếng ồn ào trong sân vận động nổi lên cho đến khi người ta nghe được những rắc
rối Earl bắt đầu gặp phải. “Cuối cùng cả hai lá phổi và thận của tôi bị hư hại nặng”.
Ông nói “đến nỗi bác sĩ bảo tôi chỉ còn sống được sáu tháng nữa. Chính vào lúc
đó, ông nhớ lại, có một người bạn đã mời ông đến dự buổi nhóm điểm tâm tại
khách sạn Broadwood, tiểu Bang Philadelphia. “Chính tại chỗ khách sạn ấy vào tối
thứ tư trước, người chủ quầy rượu đã bảo tôi hãy ra khỏi đấy và đừng bao giờ
chường mặt đến đấy nữa”.
Tôi chồm tới trước, cố gắng để nghe rõ qua tiếng ồn ào nổi dậy. Tôi cũng đã có
mặt ở buổi nhóm sáng hôm ấy và không quên được Earl với bộ complê trắng tinh,
trải mình lên sàn nhà nài xin sự thương xót của Đức Chúa Trời.
Một trong các thông dịch viên cúi xuống nói với tôi “Ông có nhìn thấy những
người đó không, ông Shakarian”
Tôi nhìn theo hướng tay anh ta và lần đầu tiên thấy hàng ngàn người mặc áo đỏ,
đội mũ trùm đỏ, có lẽ có đến ba trăm người, tiến bước chầm chậm chung quanh
đường chạy rải than xỉ nghiền nhỏ, vòng quanh sân bãi, một số người bận đồ
thường cũng theo sau họ.
“Mấy ông thầy tà thuật”, người thông dịch nói “Họ đang tìm cách làm gián đoạn
buổi nhóm”.
Bấy giờ tôi đã hiểu nguyên nhân tiếng hô giật giật lặp đi lặp lại nổi lên trên đám
đông huyên náo. Hàng trăm người đang ùn ùn kéo ra khỏi khán đài để gia nhập vào
đoàn người diễu hành bí hiểm đó.
Viên tướng ngồi bên phải tôi quát lên một hiệu lệnh ngắn và người lính đứng phía
sau ông rời sân khấu
“Ông ta bảo gì vậy?” tôi hỏi người thông dịch
“Ông ta bảo quân đội sẵn sàng hành động, họ xử lý vụ nầy được”
“Ồ không ! không được” Tôi quay sang viên tướng “Xin đừng triệu tập binh lính!
Không!”
Qua người thông dịch viên, vị tướng giải thích “Nếu chúng tôi không ngăn chặn
họ, tôi sẽ cho anh biết điều gì sẽ xảy ra: Họ tiếp tục đi chung quanh cho đến chừng
nào có được một đám đông lớn đủ, đoạn họ bắt đầu hét lớn và chúng ta sẽ không
thể truyền giảng được nữa”
Tôi ngó sang thượng nghị sĩ Bonhomme để tìm sự giúp đỡ, nhưng ông ta nhún vai
“Chúng tôi không biết còn cách nào khác”. Tôi biết thượng nghị sĩ không những
đang nghĩ đến đám đông có mặt tại sân vận động nhưng còn hàng vạn hoặc có thể
hàng trăm ngàn người trong các làng và các thôn bản xa xôi hiểm trở ở các núi
đang lắng nghe qua đài phát thanh khắp nơi ở đảo quốc. Buổi trưa hôm đó, chúng
tôi đã nhìn thấy một số các thôn, xóm ấy trong một chuyến đi vào các vùng núi,
một chiếc loa phóng thanh được bắt trên một cái cây hoặc ở trước một ngôi nhà,
phương tiện giải trí duy nhất trong những đêm dài.
Earl đang định thuật lại sự thay đổi bởi phép lạ đã bắt đầu xảy ra trong đời sống
anh vào sáng thứ bảy đó, sự hòa giải có được với vợ mình, sự chữa lành “bất khả
thi” về mặt y khoa của thân thể anh nhưng vô ích. Ông ngừng nói và quay sang tôi
để hỏi ý kiến, hàng người cong lượn như rắn theo sau các tư tế đội mũ trùm bấy
giờ đã lên đến một ngàn hoặc hơn, cứ mỗi phút số lượng người lại tăng thêm. Tuy
nhiên...nếu chúng tôi sử dụng chính vũ lực mạnh bạo của quân đội để bảo vệ buổi
truyền giảng thì hóa ra chúng tôi đã làm hỏng mục đích mà vì nó chúng tôi đến đây
sao? Chúng tôi đến đây để bày tỏ quyền năng và tình yêu của Đức Chúa Trời, chứ
không phải quyền lực của súng ống.
“Xin chỉ huy hãy khoan đã”, tôi năn nỉ “Còn một cách tốt hơn”
Nhưng khi hai mươi lăm người trong hội Thông Công chúng tôi vội vàng nhóm
nhau lại sau bục giảng, thì tôi ước phải chi mình biết được phải làm gì. Trước hàng
ngàn người đang chú ý xem chúng tôi làm được gì, chúng tôi họp thành một vòng
tròn, bắt tréo hai tay lên vai và bắt đầu cầu nguyện.
Một lúc sau tôi mở mắt ra và ngó xuống sân vận động. Tình hình càng tồi tệ hơn.
Bấy giờ phải có đến hai ngàn người đang diễu hành, và họ bắt đầu vỗ tay, đám
đông còn ít lại bên trong khán đài cũng bắt đầu vỗ tay, lắc lư tới lui với vẻ giận dữ
hung hăng. Tiếng la hét bắt đầu.
“Tôi phải chặn họ lại”, vị tướng nói
“Không”, tôi nói “chưa đâu!”
Tôi lại cúi đầu xuống. “Lạy Chúa, đây là giờ của Ngài! Lạy Chúa, hãy cứu buổi
nhóm của Ngài”
Từ một chỗ nào đó dưới khán đài vang lên một tiếng thét. Tôi xoay mình, chắc
chắn là đã có người bị đâm. Những người lính chạy qua sân vận động về phía có
tiếng hét. Sau đó hết thảy chúng tôi đều nhìn thấy một người đàn ông và một phụ
nữ, người đàn ông ẵm một đứa bé trên tay, họ đang vội băng qua sân cỏ và dần tiến
đến bục giảng.
Ở bên kia sân cỏ, đoàn diễu hành đang chuyển sang một điệu vũ nhịp nhàng. Cặp
vợ chồng tiến lên bục giảng, Thượng nghị sĩ Bonhomme sải bước đến sân khấu và
cúi xuống trên họ.
Một phút sau ông quay lại, hai tay ẵm một cậu bé mảnh khảnh cỡ tám hoặc chín
tuổi, cậu bé đang ngó mọi người một cách ngạc nhiên bằng đôi mắt màu nâu.
“Đứa bé nầy!”, ông nói “Tôi biết nó mà! Nó ở trong khu vực tôi, tôi biết rất rõ gia
đình nó!”
Ông ta nhìn chúng tôi từ người nầy sang người khác, rõ ràng đang run rẩy vì xúc
động “Nó thấy được rồi! Chính lúc anh đang nói”. Ông quay sang Earl “Đôi mắt
nó đã mở ra. Nó thấy được rồi!”
Tôi vẫn chưa hiểu “Ý ông nói...cậu bé bị mù à?”, tôi hỏi.
Ông nghị sĩ quay sang tôi tức tối “Phải! mù từ lúc mới sanh. Mù cả đời cho đến giờ
phút nầy!”
Vẫn đang giữ đứa bé trên tay, ông gần như chạy ra gần máy vi âm cùng với đứa bé.
Thoạt đầu, ông không thể nào làm cho tiếng nói của mình nghe được giữa tiếng la
và vỗ tay ầm ĩ. Nhưng dần dần khi nhìn thấy hình dáng to lớn quen thuộc của viên
nghị sĩ đứng trước máy vi âm với đứa trẻ trên tay, một số người đã yên lặng. Viên
thông dịch hình như quá bàng hoàng trước việc xảy ra nên chẳng dịch lại lời nào vị
nghị sĩ đã nói trước đám đông cho chúng tôi nghe. Nhưng chúng tôi đều hiểu được
đã có một sự thay đổi trong tinh thần của đám đông. Mặc dầu cuộc diễu hành vẫn
tiếp tục, nhưng tiếng ồn ào rõ ràng đã dịu đi. Tiếng vỗ tay trở nên rời rạc. Mọi cặp
mắt đều đổ dồn vào phía vị nghị sĩ.
Một phản ứng sôi động đang quét qua khán đài. Người ta bắt đầu khóc. Đây đó, tôi
trông thấy những cánh tay giơ cao lên trời. Cuối cùng ngay cả các tư tế mặc áo
choàng đỏ cũng thôi hô to và đứng lại bối rối.
Cậu bé trở thành trung tâm của mọi lời cảm tạ đang nhìn kỹ vào mình, hơi quậy
quọ trong cánh tay của vị nghị sĩ. Nó nghĩ gì khi lần đầu tiên nhìn thấy thế giới, tôi
không thể biết, nhưng rõ ràng nó đang thấy, vì đôi mắt nó chăm chú nhìn vào vật
nầy, đoạn liếc mắt sang một vật khác. Điều em chú ý đặc biệt là những mề đay
chói sáng trên quân phục của các vị tướng. Thỉnh thoảng em lại nhìn trên các dãy
đèn sân khấu ở bên trên chúng tôi, ngó chăm chăm vào chúng cho đến khi ánh sáng
chói chang làm em nhăn lại và rên rỉ.
Cha mẹ em đã leo lên các bậc thang bên hông sân khấu và bấy giờ đang đứng bên
cạnh vị nghị sĩ. Ông quay sang và để đứa bé đứng giữa họ.
Nhưng tôi vẫn tiếp tục ngó chăm ra đoàn người đang thờ phượng Đức Chúa Trời,
vai chen vai, đầu ngước lên thành kính - tôi đã nhìn thấy cảnh tượng nầy ở đâu rồi
nhỉ? và rồi dĩ nhiên tôi đã nhớ ra.
Khi vị nghị sĩ rời khỏi máy vi âm, chúng tôi mời người thông dịch đứng vào chỗ
đó và nói một lời kêu gọi thật đơn giản. Tất cả những ai muốn biết rõ Chúa Jesus là
Đấng Yêu Thương ấy, hãy bước xuống sân vận động.
Từ các hàng ghế, người ta bắt đầu đổ xô ra, hàng trăm, hàng trăm người. Có nhiều
người lúc nãy đã gia nhập vào đoàn diễu hành tà thuật, bây giờ cũng vội vàng chen
đến giữa sân. Chẳng bao lâu sau, đám đông tràn đến chân bục giảng ở mọi phía.
Trong vòng hai mươi phút, năm ngàn người đã tụ tập ngay tại đó.
Qua ngày hôm sau, đến giữa buổi chiều là sân vận động đã chật cứng, một lần nữa
hàng ngàn người kéo đến giữa sân khi lời kêu gọi vang lên. Rất nhiều người được
chữa lành, một số ở trước mắt chúng tôi ngay bục giảng, một số ở những nơi khác
trong sân vận động khổng lồ. Đêm thứ ba, sau khi đứa trẻ mù được chữa lành,
chúng tôi ước tính có mười ngàn người đã đáp ứng lời mời gọi tiếp nhận Chúa
Jesus.
Nhiều người đến đủ gần ở tại bục giảng đã khóc nức nở và xưng tội lỗi mình, đặc
biệt về tội xử dụng tà thuật và thờ lạy ma quỷ. Tất cả các thứ đồ vật đều được đem
lên bục và bỏ lại đó: Các búi tóc, những mẫu gỗ chạm trổ, những túi nhỏ chứa
xương và lông thú. Điều làm tôi vui mừng nhất khi nhìn thấy trong đống đồ ghớm
ghiếc ấy là hàng trăm chiếc áo choàng có mũ trùm đỏ.
Buổi nhóm kế chót vừa kết thúc. Tôi đứng bên cửa sổ phòng mình trong khách sạn
và nhìn ra ngoài vịnh tràn ngập ánh trăng, quá đuối sức và quá phấn chấn để đi
ngủ. Phấn chấn và...lo lắng. Điều gì đã thật sự xảy ra ở các buổi nhóm? Một kiểu
quá kích động của đám đông chăng? Một sự phản ứng của quần chúng do dễ bị
điều khiển bởi những tiếng hô to của nhóm tà thuật trong phút chốc, tiếp theo đó là
sự truyền giảng về Cơ Đốc giáo, có thể nào họ xoay bỏ con đường kia dễ dàng như
vậy chăng? Hàng ngàn con người đó có thể biết được gì sau ba tuần lễ nhóm lại, về
sự thực hữu của Đấng Christ? Điều gì đã xảy ra với họ bấy giờ.
Về lý thuyết, chúng tôi vẫn biết chúng ta hãy giao phó họ vào cánh tay toàn năng
của Đức Chúa Trời, nhưng thật sự đức tin tôi không đủ mạnh để tin rằng như thế là
đủ.
“Lạy Chúa, xin hãy tỏ cho con biết đó là thật. Hãy bày tỏ cho con thấy có điều gì
thật sự đã xảy ra”
Sáng hôm sau, tôi để ý kỹ một người lúc anh ta băng ngang hàng hiên. Lúc ấy
chúng tôi đang dùng điểm tâm ở ngoài hàng hiên rộng nằm bên ngoài khách sạn
Riviera, nhóm hai mươi lăm người chúng tôi, thượng nghị sĩ Bonhomme và các
viên chức khác trong chính phủ cùng với một số quân nhân - cũng là nhóm người
đã nhóm lại mỗi buổi sáng để điểm tâm và cầu nguyện. Tôi ngồi cùng bàn với nghị
sĩ Bonhomme và sáu vị khác khi anh bồi bàn đi đến và mỉm cười với chúng tôi.
“Chào các vị buổi sáng!”, anh ta chào bằng tiếng Pháp khi bắt đầu rót cà phê ra các
tách.
Đó là lần đầu tiên tôi nghe anh ta nói. Anh ta có gương mặt buồn rầu, mỗi buổi
sáng phục vụ chúng tôi trong sự yên lặng hoàn toàn. Khi đến chỗ Bonhomme anh
lại lên tiếng, đè bàn tay vào ngực mình nhiều lần.
Thượng nghị sĩ quay sang chúng tôi và nói “Anh ta bảo rằng sáng hôm nay khi
thức dậy, anh ta có cảm giác như một gánh nặng trên anh đã biến mất, anh ta đã
đến dự truyền giảng hôm qua”, vị thượng nghị sĩ tiếp tục dịch “Anh ta không tiến
lên phía trước nhưng đang khi chúng tôi cầu nguyện cho những người đã bước lên,
thì anh cũng đã thầm nguyện rằng Lạy Chúa Jesus, nếu Ngài đúng là Đấng mà
những vị kia nói, thì con nguyện theo Ngài”
Thấy mọi người đều nhìn mình, anh ta đặt bình cà phê xuống. Viên thượng nghị sĩ
tiếp tục thông dịch “Cả đời tôi gánh nặng cứ luôn đè nặng. Những ý tưởng, những
ý tưởng kinh khủng, xấu xa. Tôi sợ cả chính mình, sợ phải đi ngủ vì các tư tưởng
ấy kéo đến”.
Bấy giờ, anh ta khóc nức nở. Viên nghị sĩ vẫn thông dịch lời anh nói “Sáng nay khi
mở mắt ra, gánh nặng ấy đã biến mất. Giống như tôi được cất khỏi gánh nặng, như
thể là tôi nổi lềnh bềnh ở ngay trên giường, không còn sự nặng nề ở trong tôi nữa”
Có ai đang khóc. Tôi quay lại và thấy người bồi bàn thứ hai, nước mắt cũng đang
chảy dài trên má anh ta. Viên thượng nghị sĩ lại dịch “Tôi biết sự nhẹ nhàng đó!
Tôi cũng đã có những tư tưởng ấy. Bốn đêm trước, tôi bước đến bục giảng khi họ
kêu gọi ai muốn có đời sống mới. Kể từ đó tôi đã chờ xem những ý tưởng đó có trở
lại không, nhưng không. Tâm trí tôi, nay là tâm trí của một con người chứ không
phải của một con thú nữa”
Bấy giờ đến lượt tôi quệt nước mắt và thì thầm “Lạy Chúa Jesus, xin hãy tha thứ
cho con! Tha thứ con vì đã nghi ngờ quyền năng của Ngài”.
Sau đó, cũng trong buổi sáng hôm ấy có tin rằng Tổng thống Duvalier sẽ tiếp ba
người chúng tôi tại dinh tổng thống.
Một trong các chiếc xe Limousin bóng loáng đã được gởi đến để chở chúng tôi.
Viên chức đón chúng tôi ở cổng dinh cho chúng tôi biết rằng: “Buổi diện kiến với
Tổng thống thường kéo dài khoảng năm phút. Tôi không biết khi nào Ngài sẽ tiếp
các ông, nhưng các ông có thể đợi ở phòng ngoài”
Khi bước vào, chúng tôi thấy có khoảng năm mươi vị đang ngồi ở đấy quanh một
căn phòng chờ rất rộng. Chúng tôi ngồi xuống chuẩn bị một cuộc chờ đợi dài,
nhưng thật ngạc nhiên, cánh cửa dẫn đến văn phòng tổng thống mở ra ngay lập tức
và chúng tôi được mời vào. Tôi không biết điều mình trông đợi để diện kiến một
nhà độc tài như thế nào. Nhưng chắc chắn không phải người đàn ông mập và nhỏ
con với cặp kính tròn thật lớn, người đã đứng lên từ sau bàn làm việc của ông để
đón chào chúng tôi. Bằng tiếng Anh thật lưu loát, ông ta hỏi thăm chúng tôi những
ngày ghé thăm có dễ chịu không. Chúng tôi nói về các buổi nhóm, về các cuộc tụ
tập đông đảo, về ảnh hưởng của tà thuật đối với xứ sở.
Năm phút kéo dài thành mười phút, rồi hai mươi phút. Tổng thống Duvalier hỏi
một số các vấn đề về việc chăn nuôi súc vật và tiến trình sản xuất sữa tại Hoa kỳ.
Đến cuối khoảng thời gian nữa giờ đồng hồ đó, ông xem đồng hồ đeo tay và nói
“Tôi cũng muốn tiếp tục buổi nói chuyện nầy, nhưng còn nhiều người đang đợi
tôi”
“Trước khi đi”, tôi buộc mồm “Chúng tôi có thể cầu nguyện cho xứ sở và đồng bào
của ông tại trong văn phòng nầy không?”
Hết thảy chúng tôi đều cúi đầu, kể cả tổng thống Duvalier và nhân viên của ông.
Ba người chúng tôi cầu nguyện lớn tiếng, cầu xin ơn phước của Đức Chúa Trời đổ
trên hàng ngàn người đã tham dự các buổi nhóm hoặc đích thân, hoặc qua đài phát
thanh, và trên những đời sống mới đã bắt đầu tại đó. Sau đó một người hỏi tổng
thống Duvalier rằng ông có nan đề đặc biệt nào muốn chúng tôi cầu thay chăng?
“Mưa”, ông trả lời ngay lập tức “Xin Chúa ban mưa cho chúng tôi”
Chúng tôi liếc nhìn nhau không chắc chắn lắm, nhưng một lần nữa chúng tôi cúi
đầu xuống “Lạy Chúa là Đấng đổ Thánh linh vào những tấm lòng khao khát, chúng
con xin Ngài hãy ban mưa trên mảnh đất khô hạn nầy”.
Buổi nhóm cuối cùng chiều hôm ấy, có số người ít nhất trong toàn bộ các buổi
nhóm.
Lý do thật dễ hiểu
Không ai muốn đi ra giữa trời mưa như trút.
Sợi Dây Chuyền Bằng Vàng
Lúc đó là ngày 24 tháng 5, năm 1975. Một lần nữa Rose và tôi lại đáp máy bay ở
phi trường quốc tế Los Angeles. Lúc nầy chẳng có đám đông nào tiễn chúng tôi,
chỉ có Steve và vợ ông, Debra, người chở chúng tôi ra phi trường. Không có những
Trưởng lão của Hội thánh Acmêni lộ vẻ lo âu, không một khuôn mặt lo lắng. Tại
sao lại cần có điều đó! Trong hai mươi bốn năm trôi qua kể từ chuyến bay đầu tiên
của chúng tôi, Rose và tôi đã bay hơn hai triệu dặm rồi.
Steve và tôi trao đổi một vài điều về chương trình truyền hình ông sẽ thực hiện cho
Hội Thông Công tại Portland, Oregon trong khi chúng tôi đi khỏi. Rose ôm siết
Debbie lần cuối, rồi cùng tôi bước lên cầu thang vào máy bay. Chúng tôi bay tối
đến Honolulu, ghé ngang qua Auckland, nơi mười sáu chi hội New Zealand của
chúng tôi đang bảo trợ cho một chiến dịch suốt một tuần được gọi là “Chúa Jesus
của năm 75”. Theo bản phúc trình vừa rồi, hàng ngàn người đã kéo đến, đến nỗi
Hội Thông Công đã phải thuê một trường đua tên là Công Viên Alexandra để tổ
chức cho bảy đêm ấy.
Bữa tối được dọn ra sau khi cất cánh, sau đó Rose tựa đầu vào cửa sổ để nghỉ như
những giấc ngủ trưa thường lệ trên máy bay của nàng. Đây chính là cơ hội tốt cho
tôi chuẩn bị trả lời cho câu hỏi đầu tiên mà hàng ngàn người sẽ chất vấn: Hội
Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc là gì?
Tôi sẽ trả lời câu hỏi tương tự ấy như thế nào đây? Bằng cách thống kê ư? Phải rồi,
những điều nầy chắc chắn là thú vị đây. Tôi lấy ra tập giấy và cây viết chì rồi viết
xuống
Số năm hiện hữu: 24
Số tiểu bang có chi hội: 50
Số quốc gia có chi hội: 52
Tổng số chi hội: 1.650
Số người hiện diện trung bình hàng tháng trong toàn bộ các chi hội: trên nửa triệu
người.
Tốc độ phát triển: Mỗi ngày một chi hội mới.
Tôi mỉm cười khi nhớ lại giấc mơ về một ngàn chi hội của Oral Robert mà đã có
thời dường như là điều không thể có được. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã có gấp
đôi số đó. Tôi tiếp tục việc ghi chép.
Số ấn bản tạp chí Voice phát hành hàng tháng: 800.000
Số đài truyền hình phát chương trình truyền hình “Tin Lành”: 150
Số khán giả hàng tuần: 4 triệu.
Những chuyến tiếp tế bằng phi cơ: ba chuyến một năm kể từ năm 1965
Tôi bỏ bút xuống khay. Có phải đây chính là cách nói về Hội Thông Công không?
Khai trình các điểm chính, liệt kê các sự kiện ư? Đó không phải là cách nói.
Được rồi, còn những chức vụ khác nữa của chúng tôi thì sao?
Sự chữa lành cho con người. Chúng tôi không bao giờ nhấn mạnh đến việc chữa
lành trong Hội Thông Công bởi vì nó có thể thu hút mọi sự chú ý ngay lập tức.
Nhưng sự chữa lành vẫn cứ xảy ra như thường. Luôn mọi lúc. Thỉnh thoảng, chúng
tôi mời người có ân tứ chữa bịnh đến tổ chức một buổi nhóm đặc biệt. Thường
xuyên hơn thì chỉ là một hội viên lo công việc hàng ngày của mình, được Đức
Chúa Trời sử dụng vào một thời điểm đặc biệt.
Điển hình như ân tứ của tôi, là cứu giúp, không phải là ân tứ chữa bịnh. Tuy vậy...
Tháng 5, 1961, Hội Thông Công đã gởi một phái đoàn đại biểu tham dự Giáo Hội
Nghị Ngũ Tuần thế giới tổ chức năm đó tại Jerusalem. Làm sao tả xiết nỗi xúc
động khi dạo qua các địa điểm mà cả đời chúng tôi đã được biết qua Kinh Thánh.
Ngọn núi Ôlive, Cửa Đẹp, Ao Silôê. Hầu như ai trong chúng tôi cũng tiếc vì đến
giờ phải quay về phòng nhóm, ba ngàn người đang tham dự Hội Nghị, và dường
như đối với tôi và Rose, mọi người đều đến cùng lúc tại tiền sảnh và đang cố nhồi
nhét cùng một lúc vào hội trường. Hội nghị được quá nhiều người biết đến, đến nỗi
các đại biểu phải mang huy hiệu để được cho vào hội trường.
Chúng tôi nhận ra Jim Brown, bạn của chúng tôi, một đại biểu của Hội Thông
Công từ Parkesburg, bang Pennsylvania, và cùng đứng đằng sau chờ cho đám đông
vơi dần.
“Dee-mos Shak-arian phải không?” Có tiếng một phụ nữ mang âm tiết người Nga
hoặc người Balan. Tôi tìm trong phòng xem ai đang gọi mình.
“Bà ấy kìa!”
Jim chỉ cho tôi. Họ đang băng qua đám đông tiến về phía tôi, một người đàn ông
và một phụ nữ. Bà ta thấp và dáng nặng nề, có lẽ tuổi đã quá năm mươi, người đàn
ông là người bị què nặng nhất mà tôi từng được nhìn thấy. Ông ta cong oằn người
như số bảy. Ông ta bám cả hai tay vào một cây gậy để bước đi, phần thân song
song với nền nhà.
“Quí vị đang tìm tôi phải không?”. Tôi hỏi người phụ nữ. Ngay cả khuôn mặt của
người đàn ông tôi cũng không thể nhìn thấy được.
“Đúng vậy, Ông Shak-arian ạ. Người đàn ông nầy cần được giúp đỡ”. Bà ta giải
thích rằng, bà đã tìm thấy người nầy sống trong một căn nhà ở ngoài thành phố.
Ông ta yêu cầu bà giúp đưa ông ta đến phòng nhóm, vì ông nghe rằng ở đó Chúa
Jesus đang chữa lành cho nhiều người. Khi biết rằng không còn chỗ, có người đã
đề nghị họ nói chuyện với tôi.
Tôi cảm thấy thương hại người đàn ông bé nhỏ rách rưới nầy. Người phụ nữ bảo
với chúng tôi, cả ông lẫn bà đều là người Do thái. Tôi chỉ mới nghĩ về những người
Do thái trong Hội Thông Công - những người như David Rothschild, chủ tịch của
chi hội chúng tôi tại Beverly Hills để biết rằng Đức Chúa Trời dành một tình yêu
đặc biệt cho dân sự của Lời Hứa Ngài.
Nhưng tại đây tôi có thể làm được điều gì? Tôi không có một ưu thế đặc biệt gì tại
hội nghị nầy cả.
Và rồi một ý tưởng thoáng qua trong tôi. Giả sử như tôi đưa giấy giới thiệu của
mình buổi trưa nay cho người nầy? Jim Brown là một trong những diễn giả hôm
nay, chứ không phải tôi. “Đây nầy”, tôi nói và tháo phù hiệu của mình ra “Hãy
mang cái nầy. Người ta sẽ để cho ông vào”
Tôi quỳ xuống nền gian tiền sảnh và ngửa người lên, cố gắng với tới ve áo của
người đàn ông nhỏ bé nầy. Cuối cùng, tôi đã gài được phù hiệu và lúc sắp đứng
dậy, tôi nghe một giọng nói không thể lầm lẫn vào đâu được:
“Không được, Demos không được rời người nầy. Con phải cầu nguyện để chữa
lành cho người nầy ngay tại đây!” Tôi sững sờ. Ở tại đây? Ngay bây giờ? Trong
gian tiền sảnh đầy dẫy những vị lãnh đạo đầy quyền năng của phái Ngũ Tuần từ
khắp nơi trên thế giới ư? Tôi liếc nhìn Jim Brown. Jim đã từng trải sự chữa bịnh
nhiều hơn tôi, và ông ta...
Chính con, Demos. Ngay tại đây
Vì vậy, tôi vẫn quỳ, và nói vào tai người đàn ông đó “Thưa ông, ông có muốn để
tôi cầu nguyện cho ông ngay bây giờ không?”
Để trả lời, người đàn ông nầy vẫn tựa đầu vào chiếc gậy và nhắm mắt lại
“Lạy Chúa Jesus yêu dấu”, tôi nói “Chúng con cám ơn Ngài vì Ngài đã khiến
người què nhảy nhót vui mừng tại đây, trên chính những ngọn đồi nầy. Chúa ơi,
ngày nay một người què khác đang đến với Ngài - một người trong tuyển dân của
Ngài”
Dòng nước mắt tuôn chảy qua kẽ tay xương xẩu và rồi rơi xuống nền nhà. Một
đám đông đang tụ tập dần quanh chúng tôi.
Tôi bảo ông ta: “Nhơn Danh Chúa Jesus, hãy đứng thẳng lên!”
Tôi nghe có một cái gì đó gãy “rắc” một tiếng.
Thoạt tiên, tôi e rằng người đàn ông nhỏ thó yếu ớt nầy đã làm gãy cái gì đó.
Nhưng tiếng rên phát ra từ người nầy khi ông ta ngước đầu và lưng lên vài phân
tây là tiếng kêu của sự thuyên giảm chứ không phải là tiếng rên đau đớn. Bằng một
nổ lực lạ thường đến nỗi gân cổ bạnh ra, ông ta đã đứng thẳng lên một phần khác
nữa. Lại “rắc” một tiếng nữa. Người nầy lại ráng sức như thể đang vật lộn với
những sợi xích vô hình. Vẫn cứ cao thêm lên.
Nếu còn ai trong gian tiền sảnh chưa biết điều gì xảy ra thì tiếng kêu la xé tai của
người phụ nữ đã buộc mọi cái đầu quay về phía chúng tôi “Một phép lạ”, bà ta cố
la to “Đó là Phép lạ”.
Người đàn ông nhỏ thó đã đứng thẳng đến phần cuối cùng, và nhìn chằm chằm vào
mặt tôi một cách đắc thắng. Chung quanh chúng tôi đang vang lên những điệp
khúc ca ngợi và cảm tạ bằng cả tá ngôn ngữ.
Tôi cũng đứng lên. Tôi bước ra và cầm lấy cây gậy lúc nãy người đàn ông đã
chống và nói: “Duy chỉ nhờ sức mạnh của Chúa thôi!”. Và để chắc ăn, trước hết
ông ta lê từng bước ngắn, rồi bạo dạn và vững vàng hơn, ông bắt đầu bước tới,
bước lui, xương sống giữ thẳng, vai ngang.
Buổi chiều thay vì nói về điều đã dự định, Jim Brown kể lại câu chuyện xảy ra
trong đại sảnh. Bấy giờ chuyện cho hai người vào không còn là vấn đề nữa; các
chỗ ngồi cũng đã được dành cho họ và chúng tôi ở hàng trước ban công. Thỉnh
thoảng, mỗi khi Jim nói, người đàn ông nhỏ bé này lại cứ nhảy lên trong ghế.
“Tôi chính là người đó!”. Ông ta cứ la lên “Chính là tôi đây”
Và ông ta cứ nhảy múa và nhảy tưng lên xuống dọc theo lối đi cho đến khi tôi e
rằng ông ta trở về nhà, bị què trở lại vì cớ sự gắng sức của ông.
Đúng rồi, tôi có thể kể chuyện nầy tại công viên Alexandra, dù bây giờ tôi cũng
không giải thích được nhiều hơn lúc ấy. Không giống như những người có ân tứ
chữa lành đặc biệt, tôi đã không tìm kiếm từng trải nầy. Tôi đã không dành ra
nhiều giờ và nhiều ngày để kiêng ăn và chuẩn bị cho chính mình. Cũng không có
quyền năng kỳ lạ nào ở với tôi lâu hơn khoảnh khắc đó, dù những người có nhu
cầu vội vã đến với tôi trong suốt thời gian còn lại của kỳ hội nghị.
Câu chuyện hay nhất mà tôi có thể kể với những người ở Auckland đó là: Sự chữa
lành là một trong những công việc bình thường trong thân thể Đấng Christ, và bất
cứ thành viên nào trong thân thể Đấng Christ đều có thể được kêu gọi trong một
thời điểm nào đó, để thực hiện công tác nầy. Khi sự kêu gọi ấy đến, bí quyết dường
như là thái độ vâng lời.
Tôi liếc nhìn Rose cách có lỗi, đang co mình dưới chiếc mền của hãng Hàng
không, và tôi nhớ lại một đêm nọ ở Downey.
Chúng tôi đã lên giường; lúc đó là nữa đêm, là lúc phải tắt đèn rồi, nhưng vì cớ gì
đó mà Rose lại không đi nghỉ. Nàng ngồi dậy, bước đến cửa sổ và bước trở lại rồi
ngồi xuống thành giường.
Tôi cảm thấy lúng túng; thường thường tôi là “con cú đêm”, còn Rose là người ngủ
không đủ cơ mà “Chuyện gì thế, em yêu?”
“Em sẽ gọi điện cho Vivian Fuller”
“Vivian Fuller à! Gia đình Fuller sống ở miền Nam Bang New Jersey. Herb Fuller
là chủ tịch một chi hội Philadelphi của chúng tôi và tôi nhớ lần trước chúng tôi ở
đó, vợ ông bị bịnh mắt. Nhưng mà gọi vào giờ nầy trong ban đêm thì... “Rose à,
em có biết ở New Jersey, bây giờ là mấy giờ không? ba giờ sáng!”
Rose thở dài. Nàng nói “Em biết” và nàng đồng ý, tốt hơn là hãy đợi đến sáng.
Nhưng tôi chưa hề thấy Thánh Linh khuấy động người nào đến thế. Rose không
thể yên được. Khi thì chải tóc, rồi quay về giường, khi thì xem chiếc vớ đã cởi ra,
rồi quay lại giường. Khi thì kiểm tra cửa đã được khóa rồi. Cuối cùng tôi nói “Vì
Chúa, mình hãy gọi điện thoại trước khi dẫm lên tấm thảm”
Rose gần như nhảy chồm đến điện thoại. Tôi kinh ngạc vì đầu dây kia trả lời quá
nhanh.
Rose lắng nghe một lúc rồi quay sang tôi: “Demos, hãy nhắc ống nghe phụ lên đi”
Tôi ra phòng ngoài và nhấc ống nghe phụ.
“Vivian,”Rose nói “Hãy lập lại cho Demos nghe điều chị vừa kể cho tôi đi”
Với giọng nói chẳng có chút gì là ngái ngủ hay phật ý, Vivian nói với tôi rằng mắt
của bà đã được chẩn đoán là bệnh Glôcôm cấp tính (Adoaneed Glaucoma), y học
đành bó tay.
Biết mình sắp mù, bà cố can đảm đương đầu với nó, bỏ ra hàng giờ để tự tập đi lại
trong nhà mà không phải tông vào đồ đạc. Nhưng dần dần sự sợ hãi và ngã lòng đã
cướp mất đi những điều tốt đẹp nhất của bà. Đêm nay, không thể chịu nỗi sự buồn
chán nữa, bà nằm thao thức, cảm thấy bị Đức Chúa Trời bỏ rơi, bị mọi người bỏ
rơi. Cuối cùng bà đã cầu nguyện: Chúa ơi! Nếu Ngài yêu con, hãy tỏ cho con biết
bằng cách cho ai đó gọi điện thoại cho con, ngay lúc nửa đêm nầy”
Trong một lúc chỉ có tiếng “u, u” của đường dây điện thoại đường dài.
“Vivian”, Rose lên tiếng. “Đức Chúa Trời không chỉ bảo tôi gọi cho chị thôi mà
còn bảo tôi điều khác nữa. Ngài bảo tôi rằng chị sắp được chữa lành. Được chữa
lành hoàn toàn”.
Tôi mong sao tiếng nuốt nghẹn của mình không truyền đến New Jersey được.
Nhưng Rose tiếp tục nói chuyện và nhắc cho Vivian về mọi dấu hiệu kỳ diệu của
quyền năng Đức Chúa Trời mà chúng tôi đã cùng chứng kiến tại Hội Thông Công
trong nhiều năm qua. Sau đó, cả ba chúng tôi cầu nguyện về sự chữa lành toàn diện
cho Vivian, bắt đầu ngay lúc đó. Lúc kết thúc, bấy giờ là 1 giờ 30 sáng ở Downey,
và 4 giờ 30 sáng ở New Jersey.
Vài ngày sau, Vivian gọi lại: “Tôi không có điều gì cụ thể để báo cho chị cả, nhưng
đêm đó, một giờ sau khi chúng ta trò chuyện, tôi nghe có tiếng nổ thình lình trong
đầu của tôi. Tôi chẳng biết cách nào khác để diễn tả điều đó cả. Ngay sau đó, tôi
đến bác sĩ chuyên khoa. Toàn bộ những điều ông ta nói đó là: không bị hư hoại gì
nữa kể từ lần khám trước”.
Vài tuần sau, một cú điện thoại thứ nhì từ Vivian gọi đến. Không phải chỉ là sự hư
hoại đã chấm dứt mà còn là đôi mắt đã đang khá hơn.
Nhiều tháng trôi qua, rồi chúng tôi đều cùng đến tại Statler Hilton ở thành phố
New York dự Hội đồng. Tôi chia sẻ với đám đông trong một vũ trường về câu
chuyện của Vivian và thế nào các bác sĩ giỏi nhất ở miền Đông đã chẩn đoán tình
hình bịnh của bà là bịnh Glôcôm không thể chữa được. “Nhưng bây giờ...”
Vivian bước lên những bậc tam cấp tiến đến máy vi âm. Bà tả lại căn bệnh đã gây
cho bà khổ sở, thể nào bà cứ tự nhủ rằng có lẽ đây là lần cuối cùng bà có thể nhìn
mặt Herb. Rồi bà nói đến cơn buồn chán tuyệt vọng cùng cực của bà khi nằm trên
giường cầu nguyện đến ba lần trong một buổi sáng để xin Chúa cho ai đó có thể
gọi điện thoại cho mình. Bà kể về cú điện thoại của Rose, về lần khám bác sĩ
chuyên khoa tiếp sau đó, về lời thông báo vui mừng của ông nói rằng đôi mắt bà đã
bắt đầu đáp ứng với cùng một lối chữa trị ông đang sử dụng lâu nay, mà ông không
sao giải thích nổi. Hằng ngày, tôi ca ngợi Thượng Đế về thị lực kỳ diệu của tôi”.
Và sự vâng lời của Rose được Chúa tiếp tục sử dụng. Ngay cả khi Vivian đang nói,
nhiều người bắt đầu rời chỗ ngồi tiến đến diễn đàn, đến khi hai mươi sáu người đã
bị chứng Glaucoma hành hạ đã đứng trên bục. Trong bầu không khí giao phó bằng
đức tin, toàn bộ người trong vũ trường đã cầu thay cho họ. Sáu tháng sau, bảy
trong số hai mươi sáu người đó đã dự Hội đồng tại thủ đô Washington. Chúng tôi
vẫn không biết gì về tin tức của mười chín người kia, nhưng từng người trong số
bảy người ấy đã hoàn toàn được chữa lành.
Mỗi kỳ Hội đồng, những từng trải tương tự đều được kể lại, và còn nhiều điều
đáng kinh ngạc hơn thế nữa. Bịnh ung thư vào thời kỳ cuối được chữa lành ngay
lập tức. Một bịnh nhân đau tim được ban cho một trái tim mới (không phải là một
trái tim được chữa lành, mà là một trái tim mới không còn những ống dẫn và van
tim bằng Plastic được đưa vào cơ thể trước đó bằng cách giải phẫu). Một thanh
niên chết vì một viên đạn gây tử thương từ khẩu súng ngắn P.38, ngồi dậy trong
bịnh viện Jacksonville và xin nước sau khi được một vị Lãnh đạo trong ban chấp
hành của Hội Thông Công cầu nguyện cho. Một người đàn ông khác đã được một
bác sĩ cấp giấy chứng tử cho tại Nam Phi, đã sống lại khi một nhóm người trong
hội Thông Công cầu nguyện, ngày nay, người ấy mang giấy chứng tử trong túi áo
của mình một cách đắc thắng. Và trong mỗi trường hợp, điều đó xảy đến khi có ai
đó muốn vâng lời, bất chấp sự tuyệt vọng hoặc sự chế giễu lúc điều đó xuất hiện.
Hay là... nói về chức vụ giảng tin lành của chúng tôi trên khắp thế giới.
Con số Đức Chúa Trời ban cho nhóm chúng tôi trong lời cầu nguyện tháng chạp
vừa rồi là một tỉ hai trăm năm mươi triệu người được chúng tôi tiếp xúc trong năm
1975 dường như quá xa vời đến nỗi phi thực tế. Nhưng mà, toàn bộ thời đại điện tử
đối với tôi cũng dường như phi thực tế, và ngành điện tử học, tính tới tháng tám
vừa rồi, đang đạt đến vô số điều chưa từng nghe đến này.
Hiện nay, chương trình vô tuyến truyền hình của Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc
Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc đang phát đi hàng tuần bằng hai mươi mốt
ngôn ngữ khắp Châu Âu, Nam Mỹ và Châu Á. Chương trình truyền hình Tin Lành
cho gia đình liên tiếp mỗi tuần nửa giờ đã bước sang năm thứ tư trên toàn quốc, và
năm nay mới thực hiện tại Canada, Úc, Bermuda và Nhật.
Một phần tham dự quan trọng trong phim nầy là Steve, con trai của chúng tôi, bấy
giờ là đạo diễn của chúng tôi. Micrô, điện thoại, băng ghi hình dường như kéo đến
với Steve cách tự nhiên cũng như cách chúng lẫn tránh tôi. Tôi rùng mình nhớ lại
lần đầu tiên đứng trước ống kính thu hình. ý tưởng về chương trình “Tin Lành” là
tôi sẽ để cho người khác nói về từng trải của họ, cũng chỉ như tôi đã nói tại các
buổi họp mặt của Hội Thông Công. Mới nghe có vẻ khá đơn giản, và bởi vì thời
gian trong phòng thu hình quá mắc nên chúng tôi mong sẽ quay trước mười ba
chương trình, mỗi chương trình dài nửa tiếng, trong vòng một tuần.
Nhưng khi tôi bước vào phòng quay, nhìn thấy những dây cáp, máy quay, những
người giữ đồng hồ bấm giờ, tôi lại do dự lùi lại như con bò cái đứng trước chuồng
lạ. Những đạo diễn làm tôi lúng túng. Đứng ở đây, ngồi xuống đó. Rồi, quay đầu
sang đây. Khi những ánh đèn sáng rực bật lên vào lúc bảy giờ sáng, tôi bắt đầu toát
mồ hôi; đến trưa dường như chúng tôi đang đóng phim trong một bồn tắm vậy.
Tệ hại hơn cả là người nhắc từ xa hiện hình trên hộp nhỏ nối với máy thu hình. Tôi
đã nói sai nghĩa của nhiều từ, quanh quẩn với các câu hỏi cho đến khi các người
bạn đáng thương mà tôi đang phỏng vấn bị lúng túng, không đối đáp gì được giống
y như tôi vậy. Sau hai tuần lễ quay phim, tôi sút mất hơn 9 ký và mất luôn cả nhiệt
tình đối với toàn bộ kế hoạch nầy.
Hết phương kế tôi mới đến gặp Dick Mann, đạo diễn của loạt chương trình đó.
“Đừng để chúng tôi dùng kịch bản”, tôi năn nỉ “Cứ để tôi nói chuyện với người ta
thôi”
“Anh không thể làm như thế trên chương trình truyền hình được”. Dick kiên nhẫn
giải thích “Thời gian phải được tính bằng giây, và đoạn quay phim phải biết lúc
nào thì bấm máy chứ!”, và dĩ nhiên là sự giám định của ông thắng thế, cho đến khi
hình ảnh được chiếu lại. Họ chiếu ra một người đàn ông máy móc, với đôi mắt đờ
đẫn trên khuôn mặt ngây như tượng gỗ.
Loạt tiếp theo, chúng tôi thực hiện theo lối tài tử. Không kịch bản, không tổng dợt,
chỉ cầu nguyện trước, trong khi đóng phim, cầu nguyện sau khi chúng tôi hoàn tất.
Tôi quên đi các máy móc để quay phim và tập trung vào người ở cùng trong phim
với tôi. Ngay lập tức, hết thảy chúng tôi cảm thấy có sự thay đổi, sự tuôn trào của
Thánh Linh trong phòng quay đó. Camera ngừng quay, mọi người đến đúng giờ,
bốn cuộc phỏng vấn trong mỗi đoạn phim dài nửa giờ, làm nên sự quân bình hoàn
toàn. Dick Mann không thể vượt qua điều đó được. Mỗi khi ông ta ra dấu cho tôi
biết chỉ còn một phút nữa thôi, ông nói với tôi như vậy thì tôi cứ kết thúc đúng 60
giây sau đó!
Thậm chí có nhiều điều khó giải thích đã xảy ra. Một lần tại Pueto Rico, chúng tôi
quay mười tám câu chuyện được các chi hội ở đó tuyển lựa. Thật là một thời khóa
biểu khít khao, bởi vì chúng tôi phải thực hiện toàn bộ cuộc bấm máy quay phim
ngoài trời, mà trời vẫn đang mưa.
Vào buổi chiều, tôi phải phỏng vấn một người đàn ông được chữa lành khỏi bệnh
phung, đúng là một trận lụt, nhóm quay phim phải dùng vải dầu phủ các thiết bị lại
và chúng tôi ngồi vòng quanh để cùng nhau canh chừng những dòng nước mưa
chảy xuống như suối. Rogelio Parilla đến và tôi bắt lấy cẳng tay ông chìa ra cho
tôi. Thoạt đầu, tôi nghĩ rằng niềm vui trong ánh mắt ông khiến ngày hôm ấy dường
như tươi sáng hơn, rồi tôi nhận ra một tia sáng mặt trời ló ra khỏi những đám mây.
Nhóm làm phim lật đật tháo những tấm che mưa và Rogelio với người phụ nữ đến
để thông dịch cho ông ta cùng bước đến trước ống kính.
Qua Sally Olsen, ông kể lại ông biết mình bị phung từ năm lên chín tuổi. Cơn đau
trong thân thể vì bịnh tim còn dễ chịu hơn là phải chịu nỗi đau từ bỏ gia đình và bị
ở riêng trong một căn trại biệt lập. Mãi cho đến lúc đó, thậm chí ông chưa hề thấy
một người phung nữa, thình lình ông phải sống giữa những người mà sự xuất hiện
của họ làm cho ông kinh hãi. Trong vòng vài năm, ông là người bị biến dạng xấu
nhất, mang đầy những vết thương ghớm ghiết đến nỗi những người phung khác
cũng không muốn đến gần ông, mà còn bắt ông phải ăn riêng một mình.
Một ngày nọ, khi ông được hai mươi hai tuổi, một nhóm Cơ Đốc nhân viếng thăm
vùng đất của những người phung và lần đầu tiên trong đời, ông được nghe về sứ
điệp của Chúa Jesus. Sứ điệp đó đã biến đổi Rogelio từ một người khốn khổ và
tuyệt vọng trở nên người tràn đầy niềm vui và tình yêu. Lúc đó, phung đã ăn đứt
dây thanh quản. Ông bắt đầu cầu xin Chúa ban lại cho ông một giọng nói để ông có
thể kể cho những người khác nghe về nếp sống mới mà ông đã tìm được.
Ít lâu sau, ông nghe về việc chữa bịnh được tổ chức tại Nhà thờ Hội Ngũ Tuần ở
gần Rio Piedras. Một niềm hy vọng khó tả bắt đầu khơi dậy trong ông. Ông đã làm
phiền đến nhà cầm quyền khi xin họ cấp cho ông một giấy phép hiếm có để rời khu
trại, và ông đã tham dự buổi nhóm đó, ngồi tận căn buồng thang máy ở phía sau,
cách xa khỏi những người đang nhóm thờ phượng.
Khi hàng ngàn người tiến lên để được chữa lành, ông lại do dự nữa, chờ đợi cho
đến khi những người khác đã được chữa lành xong. Và khi ông tiến lên, nỗi tuyệt
vọng xâm hãm ông. Ông đã thấy sự chữa lành bịnh được thực hiện bằng cách đặt
tay. Có ai muốn rờ đến một người phung đâu!
Cuối cùng, lối lên bục giảng đã trống. Regelio vội vã tiến lên và quỳ xuống. Mục
sư Torres bước đến bên ông và đặt cả hai tay trên đầu ông. Rồi Mục sư đặt tay trên
mặt, trên vai, trên lưng, ông mục sư ôm choàng cả hai tay và siết chặt ông. Và lúc
đó, Rigelio biết rằng mình đã được chữa lành.
Phải mất nhiều tuần lễ, các bác sĩ mới có thể tin được những cuộc xét nghiệm của
họ, chứng tỏ rằng: Rogelio không còn là một trường hợp phung lâm sàng nữa.
Cuối cùng ông đã khỏi bịnh và suốt hai mươi lăm năm sau nầy, ông đã đi giảng
khắp Puerto Rico. Đức Chúa Trời không chỉ ban cho ông một giọng nói tốt mà còn
ban cho ông cả một giọng hát truyền cảm nữa, các nhạc công cùng đi với ông tiến
lên và bằng một nhịp điệu Calypso nhịp nhàng, Rogelio cất tiếng hát tôn vinh Đức
Chúa Trời.
Khi nốt nhạc cuối cùng vừa chấm dứt, mặt trời cũng biến mất. Những người quay
phim và các nhạc công chỉ có đủ thời gian để nhét các thiết bị và những nhạc cụ
vào dưới tấm vải dầu trước khi trời mưa lại như trút nước.
Chúng tôi chia xẻ từng trải nầy trong cuộc gặp mặt tối đó tại chi hội ở San Juan
“Không phải thời gian tạnh cơn mưa giông được tính dành riêng hoàn toàn cho
cuộc quay phim hay sao?”. Những khuôn mặt ngơ ngác chẳng hiểu nổi chuyện đó
nhìn chằm chằm vào nhau. Khắp mọi nơi tại San Juan, dường như chẳng có chỗ
nào tạnh mưa, dù chỉ là một phút đi nữa...
Đây là cách chúng tôi thực hiện chương trình truyền hình trong suốt bao năm nay,
không kịch bản, không diễn tập, chỉ tin cậy vào Thánh Linh mà thôi. Các buổi
chiếu không có thứ tự, nhưng có phẩm chất của tâm lý đã động đến lòng người
xem.
Mỗi đài phát nêu lên một con số điện thoại ở địa phương sau chương trình để cho
những người cần biết những bước tiếp theo có thể tiếp xúc với ai đó trong chi hội
gần đó. Tôi đã có những số điện thoại ở những nơi chúng tôi đang có chương trình
truyền hình trên toàn quốc. Tôi đưa tay xuống dưới bên ghế trước mặt để lục tìm
cặp tài liệu của mình.
Rose tỉnh dậy, tò mò nhìn vào những hàng số tôi viết ra. Nàng hỏi “TV 13/3 là gì
vậy?”
“Mười ba xuất chiếu trong ba ngày”. Tôi nói “Đó là thời gian tiêu chuẩn hiện nay
chúng ta ấn định cho việc quay phim, em hiểu chứ? Và chúng ta chưa hề phải quay
lại một phim nào”. Tôi đã tìm thấy các bản báo cáo. “Anh đang tìm xem bao nhiêu
người gọi điện thoại đến sau mỗi chương trình”.
Sau một lát, Rose nói: “Anh Demos, em nghĩ rằng có bao nhiêu người thì không
thú vị bằng điều gì đã xảy ra với người đàn ông cô độc, và nó thay đổi ông ta như
thế nào.
Một người cô độc, nhưng phải kể chuyện nào trong hàng ngàn câu chuyện ấy. Tôi
để tâm trí mình đi lang thang khắp các vùng từ phía Tây Puerto Rico. Vùng bờ
biển phía Đông. Miền Tây Trung Bộ. Khắp các dãy núi, mọi ngõ ngách ở Califonia
và xa hơn, đến miền cuối bên kia địa đầu tổ quốc, Hawaii. Và tôi đã nghĩ đến
Harold Shiraki.
Harold chính là người gọi số điện thoại truyền hình của chúng tôi ở Honolulu sau
khi các chương trình bắt đầu được chiếu tại đó vào tháng 9 năm 1972. Ông không
định bật chương trình đó trong sáng Chúa nhật. Harold đang dự định làm một điều
khác hơn.
Harold sinh ra và lớn lên trong một nông trại cà phê tại Kona, ở đảo Hawaii, là
người con thứ sáu trong gia đình có mười sáu người con. Theo truyền thống tốt đẹp
nhất của người Nhật, ông được dạy dỗ để làm việc siêng năng, lưu tâm đến những
người khác, tôn trọng chính quyền.
Cha của Harols mắc chứng Parkinson, khi ông không còn làm việc nổi vì bịnh, các
người con lớn đã nghỉ học để phụ giúp gia đình. Vì hàng ngày họ đã làm việc
ngoài giờ dưới ánh nắng cháy da, Harold đã có thể theo đuổi nền học vấn, và trở
thành người đầu tiên học hết bậc trung học phổ thông trong gia đình nầy.
Từ đó, Harold đã lao động để mong thấy các em mình có được cơ hội học hành
như ông. Mỗi sáng, ông dậy lúc bốn giờ sáng, thay áo quần dưới ánh đèn dầu, đi bộ
nhiều dặm đến bất cứ một nông trại cà phê nào đang thuê người. Chỉ khi các em
trai và em gái ông tốt nghiệp xong phổ thông trung học, ông mới cho phép mình
lập gia đình và lo liệu cho gia đình riêng của mình.
Lúc đó, Harold chuyển đến Honolulu. Đầu tiên, ông làm khuân vác tại các bến
cảng rồi làm thư ký trong tiệm bán rau quả, cuối cùng tự bước vào nghề kinh
doanh. Thói quen làm việc siêng năng của Harold đã được tưởng thưởng. Vào thập
niên 1970, ông đã xoay sở và để dành được một khoản tiền đáng kể.
Và rồi hầu hết các điều đó bị cất đi khỏi ông. Ông bị mất sạch, mất một cách mỉa
mai bởi những người mà ông tin cậy. Ong nhận ra rằng niềm tin để ông gây dựng
cuộc đời đã sụp đổ.
Đó là niềm tin vào nỗ lực và lễ nghi của con người, không phải tin vào Thượng Đế.
Gia đình Harold là những phật tử hữu danh vô thực, nhưng cũng như nhiều người
tại đảo Hawaii, họ thực sự tin vào rất nhiều các vị thần linh. Odaisan là một thần
linh có ảnh hưởng đặc biệt đối với họ. Có một tượng nhỏ bằng đá của vị thần nầy
đặt tại ngôi đền của người Nhật ở Kona, mà gia đình nầy cứ cầu hỏi ý về mọi quyết
định của mình. Khi vị thần thuận ý, tượng ông ta sẽ được nhấc lên dễ dàng. Khi nó
cứ trơ ra cách hiếm có, câu trả lời đó là không.
Qua nhiều năm, Harold đã hết mê muội với các niềm tin vào các truyền thuyết đó,
khi ông thấy thân phận nô lệ mà chúng cứ áp đặt lên gia đình ông. Người mẹ đã
luống tuổi, nay là góa phụ đã sống cả đời trong nỗi khiếp đảm sợ làm vị thần này
hay vị thần khác nổi giận.
Khi đến Honolulu, Harold gia nhập một Hội thánh Giám Lý, vì dường như nó giải
thoát ông khỏi những nỗi sợ hãi như vậy. Ông cố khuyên mẹ cũng trở nên một Cơ
Đốc nhân, nhưng bà giải thích rằng: Dù cho Chúa Jesus có là một trong những vị
thần mà bà cầu nguyện đi nữa, mối quan tâm trước tiên của Ngài đó là những
người da trắng. Mọi bức ảnh đều vẽ Ngài với một bộ râu ấy, chứng tỏ Ngài không
quan tâm nhiều đến người phương Đông.
Khi bị mất tài sản, Harold tìm đến vị Giám mục của mình. Vị Giám mục lắng nghe
đầy thương cảm, nhưng khuyên ông đừng đi kiện ra tòa án. “Trong kinh doanh,
những chuyện đó luôn xảy ra, và bạn với tôi chẳng có thể làm được điều chi cả. Ta
hãy cố quên nó đi”
Nhưng đó là điều Harold thấy rằng mình không thể làm được. Ông bỏ ăn, bỏ cả
việc thăm viếng bạn bè, ngồi trong phòng khách, một mình trong bóng tối, cảm
thấy thù hận dâng trào trong lòng ông. Ngay thật, hy sinh, chung thủy. Nếu mọi
điều nầy bạn không tìm thấy nơi đâu cả, thì cuộc sống có ý nghĩa gì? Thà chết còn
hơn. Người chết có thể an nghỉ. Người chết không còn bị lừa gạt và không bị đánh
cướp.
Harold biết một người bạn có một khẩu súng. Nhưng ông không muốn chết một
mình. Trước khi tự sát, ông sẽ bắn chết hai tên kia nữa. Cả ba mạng - nếu như ông
có bắn chúng trước khi bị ngăn chặn lại.
Ý tưởng ấy lớn dần đến khi nó trở thành một nỗi ám ảnh và là ý tưởng duy nhất
trong đầu ông. Một ngày Chúa nhật, phải là ngày Chúa nhật, vì ông sẽ nói với
người bạn rằng ông muốn đi săn. Một Chúa nhật trong tháng 9, vì chẳng bao lâu
nữa, mùa săn bắn đã đến.
Ngày Chúa nhật mà Harold chọn đã đến. Vợ ông lại nài nỉ ông đi nhà thờ. Ông
không đi nhóm từ khi nói chuyện với vị Giám mục. Harold chỉ lắc đầu
“Ít ra anh cũng mở ti vi”, bà năn nỉ “Hãy xem trận dã cầu đi”. Vẻ mặt lạnh lùng
của ông đối với mọi sự làm bà sợ hãi.
Harold lại lắc đầu, rồi ông thận trọng liếc nhìn vợ. Bà phải đừng nghi ngờ gì về
việc ông định làm mới được. Chắc chắn là như vậy. Hãy bật ti vi lên và xem trận
dã cầu cho đến lúc bà ta thôi lo lắng và đi nhà thờ đã. Ông liếc xem đồng hồ. Mới
10g35. Nếu có trận đấu buổi trưa, hẳn đã bắt đầu, một lát sau ông lại bắt sang kênh
4.
Có hai người đàn ông đang nói chuyện với nhau. Một người da trắng, còn người
kia ông không biết chắc lắm. Có lẽ là người Polinesia (tôi chống cằm hồi tưởng lại,
đã bao lần tôi ca ngợi Chúa về đặc tính gây tò mò của khuôn mặt Acmêni. Người
Do thái nghĩ tôi là người Do thái, người Ả rập nghĩ tôi là người Ả rập. Ở Nam Mỹ,
tôi được kể là người Tây Ban Nha; ở Miền Tây, tôi được kể là người Da Đỏ. Và
bây giờ ở tại Honolulu, tôi được cho là người Hawaii)
Trong tình trạng tâm trí bị khủng hoảng, Harold không theo dõi được hai người kia
đang nói gì. Vẫn dựa vào ghế như khi bật ti vi, ông nhìn chằm chằm vào khuôn
mặt của họ, trông họ như là những con người hạnh phúc nhất trần gian nầy mà ông
từng được thấy.
Ông cố tập trung vào để nghe họ nói gì, nhưng ý tưởng của ông quá hỗn loạn. Vì
vậy ông cứ tiếp tục nhìn chăm vào họ. Khi đó, sự bình an lạ kỳ đã tràn ngập trong
căn phòng đóng kín và tối tăm đó. Tình yêu - Hòa thuận - Hy vọng - dường như là
các điều đó đang tuôn tràn ra từ chính chiếc Tivi.
Cuối chương trình, số điện thoại liên hệ được chiếu trên màn hình. Vẫn ngồi yên
trên nệm ghế, nơi Harold đã ngồi khi số điện thoại hiện rõ trên màn hình, Harold tự
lặp lại số điện thoại đó.
Vài giây sau, ông ta nói chuyện với Roy Hitchcock ở chi hội Honolulu, đang nghe
được những lời quá diệu kỳ để ông tin nhận “Chúa Jesus biết mọi tình trạng của
ông...Chúa Jesus là câu giải đáp...Chúa Jesus yêu ông...”
Ngày nay, Harold không chỉ là người hướng dẫn trong hội thánh Giám lý của ông,
mà còn là người lãnh đạo trong các chương trình thông công khắp trên đảo. Ông
không hề lấy lại được tiền bạc của mình, nhưng đã được giúp đỡ tại Hội Thông
Công để trút bỏ gánh nặng vì phẫn uất và tức tối, và trở nên một người đắc thắng.
Ông không chỉ tạo cho mình một khởi điểm mới mẻ mà còn giúp đỡ hàng trăm
người tìm được khởi điểm mới cho riêng họ.
Trong số đó, chính người đầu tiên là người mẹ tám mươi mốt tuổi của ông. Bà thấy
được sự thay đổi trong đời sống con trai mình, bà đã công nhận có một quyền năng
mạnh hơn các thần linh bà đang chiều chuộng lâu nay. Bà và nhiều người khác
trong gia đình đã dồn đống các tượng và rương đựng thánh cốt mà họ đã cất trong
nhà, và đem đốt trước sân nhà thờ. Mẹ của Harold đã qua đời năm 1973, là một Cơ
Đốc nhân thanh thản, và vui mừng.
Chính những từng trải giống như vậy khiến chúng tôi quả quyết rằng chương trình
truyền hình đã chiếm một vai trò trong khải tượng mà tôi đã thấy về cả thế giới
được đánh thức trước sự sống.
Kỳ quan hiện đại là việc đi lại bằng phản lực cũng vậy. Tôi bắt đầu liệt kê các quốc
gia mà chúng tôi đã có những chuyến bay của Tin lành: Anh quốc, Thụy điển,
Nauy, Pháp, Ý, Nhật, Phi Luật Tân, Việt Nam, Ấn độ...trên 50 Quốc gia.
Tại hầu hết các quốc gia đó, sau nhiều tuần lễ gặp gỡ và nhóm lại đã để lại điều gì
đó quan trọng hơn: Một chi hội địa phương - thường thường là một vài chi hội - là
một trung tâm tiếp tục dành cho hoạt động của những người tín hữu.
Tại các quốc gia khác, như là Phần lan, Estonia, Yougoslavia, chúng tôi chỉ có thể
ngạc nhiên và cầu nguyện về các ảnh hưởng về lâu về dài. Tôi suy nghĩ về chuyến
viếng thăm đầu tiên đến quốc gia Cộng sản và quyết định nầy rồi cũng đã được nảy
sinh trong tôi.
Đó là nước Cuba, sau khi ông Castro lên nắm quyền, và nhóm nhỏ của chúng tôi ở
tại khách sạn Havana Hilton trước kia bây giờ đã đổi tên là Cuba Libre. Castro đã
biến khách sạn nầy thành tổng hành dinh của ông, và cung điện nầy đầy dẫy những
binh sĩ vũ trang. Nhưng chúng tôi chẳng hề thoáng thấy bóng dáng của người lãnh
đạo. Rồi đến một buổi sáng, khoảng hai giờ sáng, tôi leo lên giường, thình lình tôi
biết rằng nếu tôi thay y phục và vào thang máy đi xuống dưới nhà hàng, thì tôi sẽ
đối mặt với Fidel Castro. Gần đây, tôi đã có nhiều từng trải với Thánh Linh để
không nghi ngờ những sự bức rứt khó tả như thế trong nhận thức. Vì vậy, tôi mặc
lại y phục, cố hết sức yên lặng.
Rose mở mắt ra. “Anh đi đâu vậy?”
“Xuống lầu để gặp Castro”
Rose cũng thường được Thánh Linh thúc giục như vậy. Nàng nói trong vẻ buồn
ngủ “Vậy thì tốt!”
Ở dưới nhà hàng, nhóm khách duy nhất là một toán lính trẻ, khoảng 15, 16 tuổi
ngồi tại quầy giải khát, đang uống nước cam. Người hầu bàn nói với tôi rằng, vài
năm trước đây, vào giờ nầy cung điện đầy nghẹt người. Ông ta nói với vẻ tiếc nuối
“Những người Bắc Mỹ, họ đến từ sòng bạc”. Anh ta chỉ lên những căn phòng dùng
làm sòng bạc trên gác lửng mà bây giờ đã bỏ trống. “Họ chẳng thèm quan tâm
mình đã tiêu xài ra sao nữa”
Anh ta viết phiếu một đĩa kem cho tôi với tiếng thở dài và đi vào phòng bếp. Khi
đem ra, anh lần lữa ở bên bàn, dường như vui sướng vì có dịp trò chuyện. Tiếng
Tây ban nha của người Cuba khác với biến thể của người Mêxicô mà tôi được biết,
nhưng chúng tôi hiểu nhau không có khó khăn gì.
“Tối nay, khi nào thủ tướng Castro đến đây”, tôi nói “Anh vui lòng nói với ông ấy
rằng tôi là người chăn nuôi bò sữa ở California, và tôi muốn nói chuyện với ông ấy
được không?”
“Tối nay à?”. Anh ta hỏi ngược lại “Tối nay ông ta sẽ không bao giờ đến đâu! Thủ
tướng chẳng bao giờ đến trễ như thế nầy đâu!”
Tôi ăn hết đĩa kem. “Tối nay ông ta sẽ đến”.
Anh ta ngó chăm tôi: “Ai bảo anh là ông ta đang đến đây?”
Tôi suy nghĩ điều đó một lát rồi đáp. “Đúng, có người đã bảo cho tôi biết”
Anh ta lắc đầu, “Không thể được! Ông ta chẳng bao giờ đến đây sau mười giờ đâu”
Chắc lắm chứ, dường như anh ta có lý. Năm phút nữa đã trôi qua. Rồi mười phút.
Những anh lính trẻ đã ra về cả. Tôi lấy ngân phiếu trong túi ra và bước đến quầy
đổi tiền. Người thâu ngân đang tính cho tôi, lúc đó có tiếng giầy ống vang lên
ngoài hành lang. Khoảng mười tám hay hai mươi người đàn ông râu đen trong bộ
đồng phục màu xanh Ôlive bước qua cửa, người thì mang súng trường, người thì
mang súng máy của Mỹ. Chính giữa nhóm người đó là Fidel Castro.
Castro ngồi vào bàn và gọi món thịt Bít tết, trong khi những vệ sĩ đứng canh quanh
phòng và vì chẳng còn ai khác nên họ nhìn chằm vào tôi. Tôi thấy người hầu bàn
cuối xuống, nói gì đó với Castro. Ông ta cũng nhìn tôi một lát rồi vẫy ngón tay ra
dấu tôi lại gặp ông.
Tôi ngồi xuống bên tay mặt của ông ta, biết rằng những họng súng trong phòng
đang chĩa vào tôi. Castro hỏi tôi một số vấn đề về việc nuôi bò sữa ở California và
dường như ông thất vọng vì tôi không chịu để cho ông đãi tôi món Bít tết. Ông ta
nói “Khi nào tôi đến thăm ông, tôi sẽ uống bốn lít sữa”
Khắp phòng những người đàn ông râu đen phá ra cười. Thật bớt căng thẳng đối với
tôi khi các họng súng đã được hạ xuống, một vài người đã mồi thuốc lá.
Tôi chỉ biết người lãnh đạo cuộc cách mạng nầy qua những bài diễn văn phát liên
tiếp trên đài truyền thanh; tôi ngạc nhiên khi thấy ông là người niềm nở và chú ý
lắng nghe. “Điều gì khiến ông đến Cuba vậy?”. Castro hỏi tôi sau một lúc lắng
nghe.
Tôi kể với ông rằng nhóm của chúng tôi đã đến đây để làm quen với những người
Cuba trong lĩnh vực công việc của chúng tôi, và nói với họ điều mà Đức Thánh
Linh đang thực hiện giữa những người giống như họ tại các quốc gia khác.
Một lần nữa, tôi lại ngạc nhiên. Dường như ông rất thích thú. Ông kể cho tôi rằng
một lần nọ, ông nằm bịnh tại Brownville, Bang Texas. “Mỗi tuần có hai người nói
trên truyền hình. Một người là Billy Graham và người kia là Oral Roberts. Tôi nghĩ
đó là những người ngay thật và điều họ nói là những vấn đề chân thật”.
Chúng tôi nói chuyện suốt ba mươi lăm phút, lúc đó một người Bắc Mỹ say khướt,
rất giận dữ đến bên bàn. Ông ta hỏi “Dân của ông chẳng bao giờ trả lời các bức thư
phải không? Tôi đợi cả ba tháng để nghe cái gọi là chính quyền lâm thời nầy trả
lời!”
Tôi không thể theo dõi hết điều ông nầy nói, nhưng tôi hiểu ông ta là chủ của một
hộp đêm đã bị chính quyền cách mạng đóng cửa. Tôi kinh ngạc về sự cả gan của
người nầy trong căn phòng đầy ắp binh sĩ như vậy, nhưng rõ ràng là ông ta đã bị
các điều lo nghĩ của mình vấn vương đến nỗi không lưu ý đến họ nữa. “Dân của
ông cũng đang đánh mất tiền”. Ông ta nói: “Đừng có quên điều đó chứ! Tôi đang
mang những công việc thiện xuống đây”.
Khuôn mặt của Castro hình như chuyển sang màu xanh xám như bộ đồng phục của
ông. “Công việc thiện à?” Castro nói “Ông gọi nó như vậy à? Cờ bạc và mãi dâm?
Đó là tất cả những điều dân ông quan tâm đến trên đất nước nầy phải không?”
Tôi cố nhìn vào ánh mắt của người chủ hộp đêm nầy. Chắc chắn không ai có thể
say hoặc tự mài miệt đến độ không hiểu được tiếng là trong câu hỏi đó.
Ông có bao giờ quan tâm không? Ông có bao giờ hiểu chúng tôi không?
Nhưng gã nầy chẳng thèm nghe.
“Đừng có dạy luân lý cho tôi!”. Ông ta nói “Dân Cuba đang trốn việc. Tại sao cứ
mỗi lần...”
Castro đứng dậy, bữa tối vẫn còn đang ăn dở dang. Ông ta đang trên nửa đường tới
cửa, các binh sĩ bước theo ông, lúc đó ông quay lại bước đến tôi và chìa tay ra.
“Rất vui vì ông đã đến”. Castro nói “Tôi mong...”
Vẻ xám xanh vẫn còn trên nét mặt, ông không nói hết câu. Phút chốc họ đi hết,
người chủ hộp đêm theo sau họ, vẫn càu nhàu, tôi còn ngồi một mình ở chiếc bàn
đó. Tôi xem đồng hồ - Đã 3g35
Tôi mong...
Tôi mong có nhiều người hơn nữa từ nước của anh đến Cuba để cầu nguyện, thay
vì đánh bạc?”
Điều gì xảy ra nếu họ đến, tôi tự hỏi, khi thang máy đem tôi lên lại trên lầu. Thế
giới ngày nay sẽ ra sao nếu hàng triệu du khách Mỹ đi ra đem tình yêu của Đức
Chúa Trời đến cho dân tộc mà họ viếng thăm?
Điều gì xảy ra nếu bây giờ họ đã ra đi?...
Từ tối hôm ấy, điều nầy đã trở thành lý cớ của tôi, tại bất cứ nơi đâu tôi gặp gỡ với
hội Thông Công. Hãy đi! Hãy nói về Tin lành! Hãy đi xa để làm công việc Chúa.
Hãy giúp đỡ để đền bù cho loại du khách kia mà thế giới thấy họ quá thường
xuyên.
Và người của chúng tôi đã và đang đi ra. Đi ra như là những người đã nhận lãnh
được nhờ sự trung tín của các nơi khác và từ các thế kỷ khác, và đã trở về để hoàn
lại một phần món nợ của chúng tôi.
Tôi nghĩ về một buổi tháng chín năm 1966, tại Matxcơva, bảy năm sau chuyến
viếng thăm Cuba, lúc đó tôi có thể nói với 2.200 người nhóm trong một nhà thờ
Báp tít về câu chuyện những người Ngũ Tuần Nga vượt qua những rặng núi đến
Ạc-mê-ni trong những chiếc xe bịt kín. Hai ngàn hai trăm người đứng dậy khỏi chỗ
ngồi, giơ tay lên trời, khóc lên vì vui sướng, khi Thánh Linh đụng đến các buổi
nhóm đó.
Ngay sau đó, tôi có cơ hội thâu băng câu chuyện đó để phát trên đài phát thanh
Matxcơva: Từ tận đáy lòng tôi cảm ơn những người Nga, vì họ đã đem đến cho
chúng tôi ân tứ không thể diễn tả được của Đức Chúa Trời
Tôi hạ thấp lưng ghế thêm vài phân nữa và nhắm mắt lại. Con người trên khắp thế
giới đang bừng dậy từ trong kẻ chết mà đến cùng sự sống. Vâng, đó là thông công.
Tôi đã thấy điều đó trong phòng khách nhà tôi tại Downey. Khải tượng đó còn cho
thấy điều gì khác nữa chăng? Con người không chỉ sống cho Đức Chúa Trời mà
còn sống cho tha nhân. Những người đã bị tách biệt ra đã đến với nhau, tìm thấy
được những người khác. Đó cũng là thông công.
Trong phần mở đầu của các buổi hội nghị, chúng tôi thích yêu cầu giơ tay. Tối nay,
ở đây có bao nhiêu người của Hội Giám mục, bao nhiêu người Hội Trưởng Lão?
Bao nhiêu người BápTít? Phần tốt nhất đối với tôi không phải là chúng tôi được
đáp ứng cho mỗi câu hỏi, nhưng đó là mỗi lần hỏi, nhiều cánh tay giơ lên khắp
phòng. Những người Công Giáo ngồi chung với tín đồ Methodist, người Quaker
ngồi với Cơ Đốc Phục Lâm, để khi Thánh Linh giáng xuống buổi nhóm, cứ hai
người nam siết chặt nhau trong hàng ghế thứ mười bảy có lẽ thuộc về những giáo
hội không được nói đến trong nhiều thế kỷ.
Các chủng tộc đang đến với nhau. Nhiều vấn đề đang được thay đổi, nhưng quay
lại với sự phân chia trong những năm 50 vẫn là tình trạng trong nhiều Quốc gia.
Tôi nhớ lại việc chuẩn bị cho Hội Nghị Thế Giới ở Atlanta. Chúng tôi đã thuê một
vũ trường tại khách sạn ở trung tâm thành phố, hơn một ngàn phòng dành riêng
trong năm đêm, hệ thống vô tuyến truyền thanh đã được lắp đặt, các biểu mẫu để
ghi chép đã được in, mọi chi tiết ăn khớp đã được đưa vào để đem một tập thể lớn
đến với nhau.
Và rồi một tháng hay hơn một tháng trước hội nghị, khách sạn nầy khám phá ra
rằng, như mọi khi chúng tôi đang mong đợi một số lớn những doanh nhân da đen.
Thế là họ bèn bố trí một chuyện giống như cái gọi là cuộc điều đình gần đó. Các
cuộc họp có thể bị đeo đuổi dai dẳng trên tivi và hoang phí một cách “linh đình”.
Phải tốn đến cả triệu cú điện thoại để chuyển hội nghị đó đến Denver. Ở đó chúng
tôi để ý thấy một điều kỳ lạ. Số người da đen không phải chỉ là nhiều người thôi,
mà nó còn nhiều hơn so với điều chúng tôi mong đợi. Cuối cùng một chủ hiệu vải
ở Atlanta gợi ý về vấn đề đó. Những người bạn của tôi yêu cầu tôi suốt cả tháng.
Vì vậy tôi đi đến đó, nơi cầu nguyện và ăn điểm tâm với người da trắng. Nhưng
khi họ nghe điều xảy ra về khách sạn đó - chà, tôi phải thuê một chuyến xe buýt để
chuyển mọi người ra khỏi đây với tôi (vào hè năm 1973 bất ngờ, chúng tôi tổ chức
một Hội Nghị tôn giáo tại Atlanta’s Hyatt House, mỗi tối có 1.500 người tham dự,
không phân biệt da đen hay da trắng)
Các thế hệ đang đến với nhau.
Dưới quyền lãnh đạo của Richard và Evangeline, người vợ xinh đẹp của mình, bây
giờ đã có một chương trình dành riêng cho thanh niên vào mỗi kỳ hội nghị: Nhiều
lần trong hành lang khách sạn, tôi đi ngang qua một đứa bé tóc dài và một người
trung niên trong y phục của giới doanh nghiệp, những giọt nước mắt thổn thức vui
sướng vì giảng hòa đang rơi nhanh xuống vai.
Con người trong mọi bối cảnh đang đến gần nhau. Những người da màu và những
người da trắng nhóm họp chung nhau trong hàng trăm chi hội của chúng tôi tại
Nam Phi. Những người Tin Lành và Công Giáo đang làm hoà với nhau, vui vẻ ôm
lấy nhau trong các chi hội của chúng tôi tại Belfast, Ái Nhĩ Lan.
Người ta đang phá tan mọi hàng rào chắn ngang giữa chúng tôi với những người
khác. Tôi nhớ đến một phụ nữ, người có một hàng rào theo đúng nghĩa, chắn giữa
bà với thế giới bên ngoài trước khi tìm được nguồn an ủi. Sara Elias là một nhạc sĩ
đã theo học dương cầm tại Julliard, NewYork và đã hát dưới sự điều khiển của
Leopold Stokouski, là một phụ nữ cao lớn, trang nghiêm, Sarah không có vẻ là một
người có nan đề trong cuộc sống. Vì vậy, khi Sarah đặt điều kiện cần một phòng
đơn tại Hội Nghị ở Idianapolis, không ai ngờ rằng một nỗi đau khổ cả đời vì bị loại
bỏ ẩn đàng sau lời yêu cầu đó.
Đến kỳ Hội Nghị, mọi giường trong khách sạn Idianapolis đều được cho những
đoàn người cần thuê để tham dự ngày nghỉ cuối tuần. Tháng năm, 1972. “Rất tiếc”,
người ghi sổ nói với cô “Chúng tôi phải đưa cô vào ở trong một phòng đôi”. Ông ta
dò trong bản danh sách, người kia là nữ tu sĩ Francis Clare, đương dòng của Nhà
Thờ Đức Bà. Tôi chắc rằng cô sẽ rất vui thích ở chung với bà ấy”
Sarah Elias biết rằng mình không vui chút nào. Được nuôi nấng giữa những người
ở giáo phái Thánh Khiết (Holiness People) tại một thành phố nhỏ miền Tây bang
Pennsylvania. Nói chung cô được dạy dỗ không nên tin vào các nữ tu. Nhưng nan
đề thực tế đó là một tấn thảm kịch thời thơ ấu. Từ lúc cha cô bắn chết mẹ cô khi cô
còn rất nhỏ, rồi đến những năm sống trong viện mồ côi, cho đến ngày bị gia đình
nhận cô làm con nuôi tước mất quyền thừa kế, cô biết rằng người ta sẽ loại bỏ cô.
Vì thế, đến lượt cô, cô đã khép kín đời mình đối với họ, không lúc nào mà cô
không dựng một hàng rào theo nghĩa đen giữa cô với thế giới bên ngoài.
Như tôi đã nói, không ai biết những điều nầy cho đến khi cô vào phòng mà cô tin
là phòng trống, và cô thấy có một phụ nữ khác ở đó. Nữ tu Francis Clare là một Cơ
Đốc nhân thông minh và lịch thiệp, có ơn đặc biệt trong sự chữa lành cho ký ức hỏi
rằng cô có thể cầu nguyện cho Sarah được không. Trong giờ sau đó, mọi điều sợ
hãi, oán giận, cay đắng đều ra khỏi; tình yêu và sự ban cho của Đức Chúa Trời
được tuôn trào ra.
Khi tôi trông thấy Sarah tối đó, nét mặt cô biến đổi đến nỗi tôi đã yêu cầu cô tiến
đến máy phóng thanh để thuật lại cho mọi người chuyện gì đã xảy ra. Sau đó, cô
ngồi vào đàn dương cầm. Khi dứt tiếng đàn, toàn thể hội nghị đứng lên và vỗ tay
tán thưởng cho đến khi cô đàn lại một lần nữa. Có đến bốn lần đứng lên vỗ tay reo
mừng, và lúc kết thúc, chúng tôi biết rằng tối hôm ấy chính Thánh Linh đã đàn cho
chúng tôi nghe.
Sarah Elias là một người trong số những người ưu tú được Hội phân công phục vu
các phụ nữ trong giới doanh nghiệp và có trình độ chuyên môn. Lúc đầu tôi quá
chú tâm đến những người đàn ông đã bị lãng quên trong cuộc sống, đến nỗi tôi
không còn biết đến một ai khác nữa. Những năm gần đây, giới phụ nữ trong hội
Thông Công - con số rất đông, thường là vợ của những người vốn là Cơ Đốc nhân,
đang tìm cách tiếp xúc với chồng của mình.
Rồi khi Hội Thông Công được biết đến rộng rãi hơn, một nhóm mới của phụ nữ đã
xuất hiện. Người có gia đình hoặc còn độc thân, già trẻ, họ là những người giống
như những người đàn ông, và cảm thấy bị bỏ rơi khỏi truyền thống của Hội thánh
đang thực hiện nhiều chương trình. Các công việc may vá, buôn bán các vật dụng
cũ để giúp hội từ thiện. Pha cà phê mỗi buổi sáng, chúng không còn là vấn đề đối
với những bác sĩ, các giáo sư, các công chức đó cũng giống như đối với tôi vậy.
Hiện nay chúng tôi đã có nhiều phụ nữ là luật sư, nữ diễn viên, những công nhân xí
nghiệp đang tham dự. “Các mậu dịch viên”. Tôi viết thêm vào mảnh giấy “Các y
tá, các nữ ký giả”
“Demos?”
Rose thúc nhẹ vào tôi. Tôi ngẩng lên và thấy một nữ tiếp viên bưng khay bánh
Sandwichs đứng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi sẽ đến Honolulu trong vòng hơn
một giờ nữa.
“Các nữ tiếp viên hàng không”. Tôi thêm vào phần ghi chú. Đã có năm hay sáu
người trong đợt hội nghị vừa rồi. Tôi đọc lại mảnh giấy vừa viết. Hướng ngoại trên
cả thế giới, bằng mọi cách đến với mọi người. Điều đó có minh họa cho Hội Thông
Công Trọn Vẹn Quốc Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc không?
Rose đã nói gì nhỉ? Kể về một người và người ấy đã biến đổi thế nào. Đúng rồi, hết
thảy những bản thống kê trên thế giới không thể truyền đạt được điều kỳ diệu về
đời sống cô độc được sanh lại nhờ Thánh Linh. nhưng tôi sẽ bắt đầu từ đâu và kết
thúc ở đâu? Giây phút tôi kể câu chuyện phi thường về George Otis, Walter Black
hay về tướng R. Talph Haines. Tôi sẽ không còn thời gian và phải bỏ sót câu
chuyện phi thường không kém của Jim Waii hay của Otto Kundert, hay của Don
Locke.
Có cả đến triệu câu chuyện trong Hội Thông Công, câu chuyện nào cũng kỳ diệu
như chuyện kế tiếp, mỗi câu chuyện đều rất độc đáo. Tuy rằng mỗi câu chuyện liên
kết với mọi chuyện khác như trong một sợi dây chuyền bằng vàng.
Mỗi câu chuyện liên kết với nhau...
Tại sao tôi không kể một câu chuyện về một mối liên kết như thế, một câu chuyện
liên tiếp trong dây chuyền phản ứng bất tận đó là Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc
Tế Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc.
Vào buổi sáng thứ sáu của những năm đầu thập kỷ 60, tôi nhận được một cú điện
thoại của một thanh niên, người ấy nói rằng chúng tôi đã gặp anh trong một Hội
Thông Công tại Oklahoma. “Ông Shakarian à”, người ấy nói, “Tôi muốn ông nói
chuyện với bác tôi. Tôi nghĩ ông ấy sẵn lòng muốn biết về Chúa”.
“Bác anh là ai vậy?”
“Shannon Vandruff”
Cái tên nghe có vẻ quen quen, “Ông ta sống ở đâu?”
Anh ta cho tôi địa chỉ ở ngay một vùng rất nổi tiếng ở Downey.
“Ông ấy làm việc gì?”, tôi hỏi, hơi có vẻ bối rối.
“Bác tôi làm về xây dựng. Ông có bao giờ nghe đến Cinderela Homes không? Đó
là công ty của bác tôi đó”
À, ý tưởng đầu tiên của tôi ấy là không bao giờ tôi có thể nói chuyện với ông ấy
được đâu! Mọi người bước ra đường đều biết đến Cinderela Homes. Đó là một cửa
hàng rất lớn.
Nhưng cuối cùng, tôi hứa gọi điện thoại cho Shannon Vandruff, và ngay thứ bảy,
tôi đã gọi cho ông ấy. Khác với kiểu người có thế lực lớn, Shannon tỏ ra là người
dễ dãi và dễ bắt chuyện, và cháu ông đã nói đúng: Shannon sẵn sàng nghe về Tin
Lành của Chúa Jesus. Ông và Veta, vợ ông mời Rose và tôi đến căn nhà rộng rãi
của họ cạnh sân gôn ngay tối đó. Sau đó họ cùng chúng tôi đến dự cuộc họp của
hội Thông Công tại Phoenix, Arizona, nơi đó cả hai đều nhận được Báp têm trong
Đức Thánh Linh.
Bây giờ lại có thêm một tên tuổi mới trong dây chuyền phản ứng. Tiến sĩ Ray
Charles Sarman là một Mục sư tại một nhà thờ lớn ở South Gate, California, nơi
gia đình Vandruff đã đi nhóm suốt mười bốn năm.
Dưới tài giảng đạo sáng chói của Jarman, nhà thờ nầy đã phát triển thành một cơ sở
đáng giá một triệu đôla, với những ghế phủ nệm, những tấm thảm dày, có máy điều
hòa không khí, kỹ thuật tạc tượng cẩm thạch được nhập cảng. Tiến sĩ Jarman cũng
có một chương trình phát thanh hàng ngày và có ảnh hưởng trong đời sống tinh
thần ở Nam California. Vấn đề duy nhất mà Vandruff chưa hề nghe ông ta giảng
đó là về Đấng Christ. Giống như nhiều vị Mục sư có học vấn cao, từ lâu, ông đã
thôi tin vào thần tánh của Chúa Jesus, phép lạ, và các khái niệm “tiền khoa học”
khác. Nhưng ông là một Mục sư tận tâm, là người muốn đem đến cho hội chúng
điều gì đó thực tế.
Và ông đã tìm kiếm điều thực tế mông lung nầy trong suốt năm năm. Ông xem xét
về Tôn giáo khoa học (Religious Science), Tư Tưởng Mới (New Thought), Cơ Đốc
thuần nhất (Christian Unity) Cơ Đốc khoa học (Christian Science). Cảm thấy đời
sống mình vẫn cứ trống rỗng, ông quay sang tín ngưỡng Đông phương, nghiên cứu
ba năm với Paramahansa Yoganada, và với những người khác. Ông nghiên cứu về
thuyết của Rosicrucian, sau đó đến Thông Thiên Học.
Năm 1964 trước khi thuốc phiện bị công bố là bất hợp pháp, ông vào một dưỡng
đường ở San Francisco, nơi đó ông thuê một y tá, một bác sĩ và một bác sĩ tâm
thần túc trực bên ông suốt hai mươi bốn giờ của cuộc thử nghiệm bằng LSD. Vì đi
ra khỏi sự khải thị của Chúa, nó gây ra cho ông nhiều cơn ác mộng, tái diễn cả
hàng tháng trời.
Trong lúc đó, sau buổi nói chuyện hôm ấy, Shannon Vandruff tiến hành một cuộc
vận động âm thầm để đưa Jarman đến dự buổi họp mặt của Hội Thông Công. Vị
Mục sư thông thái nầy cương quyết không màng đến. Gần bốn năm, Shannon tiếp
tục vận động vị Mục sư đến nỗi Jarman đã cảm thấy ghét mỗi khi thấy người đàn
ông nầy đến.
Cuối cùng một người bạn trong hội đã mời Jarman đến dự một buổi tối “Ca nhạc
và thông công Cơ Đốc” tại gia đình Vandruff. Tiến sĩ Jarman nhún vai, đồng ý.
Ông có mất gì đâu nào? Cứ coi như là một cuộc thử nghiệm khác nữa vậy thôi.
Thế là tháng tám, 1965, Ray Charles Jarman lái xe chở ba người tín đồ trong hội
thánh ông tới nhà Shannon. Phòng khách rộng rãi của nhà Vandruff đông nghẹt
người, khó mà tìm được một chỗ ngồi. Jarman thấy nét sáng rỡ ở những người nầy
làm ông khó xử. Họ náo nhiệt như những người dự tiệc rượu Cocktail. Nó làm ông
khó xử và cảm thấy bực bội. Nếu ông không đưa ba người kia đến, chắc ông đã rời
khỏi đây ngay lập tức.
Buổi tối đó, càng lúc Jarman càng thấy khó chịu. Nào là hát, cầu nguyện, lời làm
chứng kèm theo những lời ca ngợi “Ngợi Khen Chúa”. Rồi đây những người trong
viện Đại học sẽ nói về ông điều gì đây!.
Nửa chừng, cánh cửa trước mở ra và kìa, một phụ nữ tiều tụy đến mức ông chưa hề
thấy, được hai người hai bên khoát vai, dìu bà ta bước vào. Những quầng thâm hằn
trên khóe mắt, bộ áo quần trên người dường như là không có một thân thể nào bên
dưới lớp áo đó cả.
Người đó chính là Florence, em của tôi.
Khi Jarman đang ghê tởm nhìn xem hai người đàn ông dìu bà ta băng qua phòng và
đặt bà ta vào trong ghế. Đã hai mươi lăm năm trôi qua từ khi Florence bị đụng xe
hơi, và phải mất một phần tư thế kỷ phục vụ! Thường thì cùng với Rose đàn Piano
hoặc Organ, Florence hát tôi vinh Chúa trong các nhà thờ và trong các buổi họp
mặt của Hội Thông Công trên khắp đất nước. Bây giờ từ lúc giấc mơ đã báo trước
rõ ràng, nàng đang chết dần vì một chứng bịnh ung thư hiếm thấy.
“Florence Shakarian Lalaian”, Shannon hỏi “Cô có đủ sức để hát cho chúng tôi
nghe không?”
Florence mỉm cười “Tôi sẽ cố gắng thử xem sao”. Nàng đáp. Nàng chống cả hai
tay vào trán và đỡ lấy đầu, không đủ sức để ngước đầu lên nữa. Rồi nàng bắt đầu
hát.
Và Ray Jarman đã đối diện với thực tế mà ông đã tìm kiếm lâu nay. Jarman là một
người mê Opera, ông đã thưởng thức hầu hết các giọng ca nổi tiếng trong thời đó,
“Nhưng tôi chưa hề nghe một giọng ca nào như vậy”, về sau nầy ông nói với tôi.
“Khi cô ta hát, dường như là một thiên sứ đang đứng hát trong phòng vậy”.
Florence yêu cầu mọi người cùng hát chung điệp khúc bài “Lớn bấy duy Ngài”.
Khi họ cùng hát, giọng của nàng cất cao hơn tất cả, mỗi lúc một cao hơn hệt như
một tiếng sơn ca trên đồng nội, cho đến khi Jarman cảm thấy như mình đang đứng
tại cổng Thiên đàng.
Đó là bài hát cuối cùng của Florence. Và lần đầu tiên trong đời Jarman khóc trước
một đám đông.
Nhưng thói quen duy lý trước mọi vấn đề quá ăn sâu vào tâm trí ông, nên lý trí của
Jarman chống cự lại với điều mà tâm thần ông vừa cảm nhận. Điều nầy không còn
khi vài tháng sau, ông lâm vào một tình trạng kinh khiếp vượt quá sự hiểu biết của
ông. Jarman trong căn hộ của người góa vợ, cùng với Shannon Vandruff người làm
chứng đạo cho ông, ông đã quì xuống - một điều khác nữa mà trước đây ông chưa
hề thực hiện và ông cầu xin Chúa Jesus ngự trị đời sống ông. Ông đứng dậy, lòng
đầy thỏa mãn và vui sướng cũng như đã một lần trước đây, lòng ông trống trải và
sợ hãi vậy.
Một Jarman mới nầy mà hàng trăm ngàn người trong những buổi họp mặt trên
khắp thế giới của hội Thông Công đã nghe nói “Tôi đã giảng 52 năm”, ông cứ nói
với chúng tôi, “trước lúc biết Chúa Jesus. Nhưng trong chín năm cuối đời, có ai
biết được Jarman đã đánh động đến bao nhiêu người, và bao nhiêu người trong số
đó đến lượt họ lại đánh động đến những người khác? Đâu là mắc cuối cùng của sợi
dây chuyền vàng liên kết mỗi chúng ta với từng người khác?
Nó bắt đầu từ điểm nào?
Tôi nghĩ về những mối liên kết được rèn đúc trước khi tôi ra đời. Magardich
Mushegan nói tiên tri tại Kala kala: “Một năm sau tính từ ngày hôm nay, ngươi sẽ
có một con trai”. Nghĩ về người con đó đánh chiếc xe hơi chở rau sau con ngựa tên
Jack. Những mối liên kết vững chắc biết chừng nào để nối kết những cuộc đời của
nhà Shakarian và nhà Mushegan. Đó là cháu nội của Magardich, là Harry, người
thấy khải tượng trong nhà thờ Ngũ Tuần của người Ạc-mê-ni ở đại lộ Goodrich.
Người đó đã thấy một chốn trang nghiêm tràn đầy ánh sáng và những dòng suối
dầu từ Thiên đàng tuôn đổ trên Ysaac Shakarian. Đó là một sự phong chức, loại
duy nhất mà hội thánh chúng tôi đã nhận được. Và suốt gần mười năm, Cha tôi đã
hầu việc Chúa như một mục sư không chuyên của hội thánh đó, không nhận lương,
dĩ nhiên, theo truyền thống của người Acmêni, đã có được một giấy chứng nhận
của tiểu bang để làm đám cưới và đám tang, giảng dạy mỗi Chúa nhật, chăm sóc
cho nhu cầu của mọi người.
Rồi tối thứ sáu vào mùa thu 1964, Harry Mushegan lại có một khải tượng khác.
Tối đó, tôi đang ở khách sạn Coronado ngay tại miền Nam San Diego, Ngày 6
tháng 11, là ngày khai mạc kỳ hội nghị Tôn giáo trong vòng ba ngày. Con gái
chúng tôi, Gerry và Gene Scalf, chồng Gerry cũng ở đó. Họ rất thích Hội Thông
Công nhưng vì hai con gái quá nhỏ, không thể nhóm thường xuyên trong những
bữa đó. Tôi biết họ đã sắp xếp thế nào để cho cả hai người đều có thể dự hội nghị
này, vì vậy tôi ngạc nhiên khi Gerry đến với tôi và bảo tôi phải quay về Downey
ngay lập tức.
Gerry nói “Ông nội...Ông nội đang ở trong bịnh viện”
“Bịnh viện à? Nhưng mà ông đâu có bịnh, chiều nay trông ông rất khỏe khi bố rời
văn phòng kia mà!”
Tại bàn tiếp tân của bịnh viện, họ bảo cho tôi biết rằng bố tôi đang ở trong tòa nhà
bên kia đường. Thật là kỳ lạ, tôi suy nghĩ khi bước vào ngôi nhà có một phòng
nhỏ. Sao họ lại để bố tôi nằm ở đây, một nơi quá tối tăm và vắng vẻ như thế này.
Các y tá ở đâu cả rồi, còn... và lúc đó, tôi nhận ra ngôi nhà nhỏ bé nầy chính là nhà
xác.
Bố tôi đang nằm trên một chiếc bàn cao màu trắng. Không thắc mắc vì sao không
ai có thể nói gì cho tôi. Không gì thân thiết cho bằng bố và con trai. Tôi đứng trong
căn phòng vắng vẻ đó, vẫn nghe tiếng cha tôi, như tôi đã hằng nghe hàng trăm lần
suốt những năm qua, mỗi khi tôi có cơ hội đến đâu đó trên thế giới để nói cho
người ta biết về Chúa Jesus: “Con hãy đi đi, Demos à, để ba lo liệu công việc cho”
Bác sĩ Donald Griss đang đợi chúng tôi ở nhà. Tôi đã nghĩ đúng. Bố tôi không bị
bịnh gì cả. Bác sĩ Griss nói: “Ông đã qua đời trong phong cách của vị tổ phụ. Chết
trong sự khỏe mạnh, không vì chút bịnh tật nào. Ông đang đọc tờ báo phát hành
buổi tối và qua đời trong giấc ngủ”
Không ai biết chuyện nầy ngoài bác sĩ Griss và người thân trong gia đình, vì vậy,
chúng tôi rất ngạc nhiên khi Harry Mushegan gọi điện thoại đến cho chúng tôi từ
Atlanta, bang Georgia, ông đang làm Mục sư tại đó.
“Các cụ già”. Harry nói “Tôi vừa mới thấy tất cả các cụ! Ông nội tôi, bố tôi, và hết
thảy các cụ tôi còn nhớ được khi mình còn nhỏ. Có một vài người tôi chưa hề thấy.
Khoảng một giờ trước đây, tôi thấy tất cả các cụ râu bạc phơ vừa cười vừa chạy,
vừa chìa tay ra như đang chào đón ai đó. Rồi tôi thấy Ysaac, đang chạy đến với họ’
Im lặng một lát: “Isaac đã qua đời rồi phải không?”
Đèn hiệu thắt dây an toàn để hạ cách đã bật lên phi cơ đang lượn nghiêng, chuẩn bị
đáp xuống.
Con hãy đi đi, Demos à...
Đó cũng là điều Đức Chúa Trời đang phán với mỗi chúng ta phải không?
Con hãy đi đi, Jim, John. Bill. Marry. Thường thì Ngài không nói cho chúng ta biết
đâu là khởi điểm của cuộc hành trình.
Tôi nghĩ về lời tiên tri thứ nhì mà Cậu Bé Tiên Tri đã nhận được từ lâu lắm rồi,
hiện vẫn còn bị niêm và không được mở ra. Có phải nó báo trước một cơn bắt bớ
dữ dội xảy đến cho các Cơ Đốc nhân tại Hoa kỳ, trước ngày Chúa tái lâm? Riêng
tôi, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ Thánh Linh đang được ban cho chúng ta để chuẩn bị cho
lúc nầy: Để ràng buộc chúng ta vào một thân thể, để phân phát cho mỗi người công
việc mà chỉ người đó có thể làm vì ích lợi của thân thể đó. Tôi thường tự hỏi không
biết ai sẽ là người được phán bảo phải mở sứ điệp đó và đọc cho hội thánh.
Nhưng đó không phải là vấn đề quan trọng. Vấn đề quan trọng là Ngài phán bảo
mỗi chúng ta phải đi ra. Hãy đi ra với bất cứ ân tứ nào mà Ngài đã ban cho. Hãy
biết rằng khi chúng ta đã khám phá được ân tứ đó và sử dụng nó, thì dầu cho tình
trạng của thế giới quanh ta có ra sao đi nữa, chúng ta sẽ là những người hạnh phúc
nhất trần gian.
Máy bay đã tiếp giáp với mặt đất, nẩy nhẹ và chạy đến cuối đường băng. Rose lôi
các vật dụng của chúng tôi dưới ghế ra.
“Anh đã sẵn sàng chưa, Demos?”. Nàng hỏi
“Sẵn sàng rồi, Rose à!”
Chúng tôi bước ra lối đi và cùng dấn thân vào cuộc mạo hiểm kế tiếp.
Ngày Nay
Anh đã sẵn sàng chưa, Demos?” khi cuốn sách nầy được ấn hành vào bảy năm
trước, nó kết thúc bằng câu hỏi của vợ tôi và câu trả lời của tôi “Sẵn sàng rồi, Rose
à!”
Không ai trong chúng tôi tưởng tượng nổi những cuộc phiêu lưu ở phía trước:
Được mời đến Toà Bạch Ốc; chứng kiến sự chuyển nhượng Núi Sinai, phát biểu
trước những nhà lãnh đạo tôn giáo Ấn Độ; ăn tối tại phủ Tổng Thống với Cố Phu
nhân Tổng thống đầu tiên của Trung Quốc; gặp gỡ các lãnh đạo của các quốc gia
Trung Mỹ. Chúng tôi cũng không nghĩ rằng cuốn sách nầy sẽ được dịch sang tiếng
Đức, Hòa Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Nga, Ucraina, Thụy
Điển, Đan Mạch, Nauy, Nhật, Trung Quốc, Việt Nam, và đem lại phước hạnh cho
biết bao nhiêu người.
Chúng tôi cũng không ngờ nổi chức vụ lớn lao của Hội Thông Công Quốc tế của
các nhà Doanh Nghiệp Phúc Âm Toàn Vẹn qua các công tác của các chi hội, các
hội nghị, các ấn phẩm, tạp chí, truyền đạo đơn, vô tuyến truyền hình, vô tuyến
truyền thanh và các vệ tinh.
Các cơ quan phi lợi nhuận nầy của các tín đồ Cơ Đốc được lãnh đạo bởi 154 vị
giám đốc cấp quốc tế và các hội viên của nó đại diện cho hầu hết các giáo phái. Đó
là một chức vụ không chuyên, rộng rãi nhất trên thế giới, với hơn 600.000 tín đồ
hội họp đều đặn mỗi tháng.
Bổ sung cho chức vụ của Hội Thánh địa phương bằng cách kêu gọi các nhà kinh
doanh phục vụ Đức Chúa Trời, Hội Thông Công hiện có 2.300 chi hội tại 77 quốc
gia, và đã tiếp xúc với đời sống hàng triệu người qua các công tác hướng ngoại trên
toàn cầu.
Khải tượng Chúa ban cho tôi năm 1952, mà trong khải tượng đó, những người
không có sinh khí, buồn chán trên khắp thế giới được biến nên những người vui
mừng liên kết với nhau bằng tình yêu của Chúa Jesus, ngày nay đang được ứng
nghiệm. Bằng chứng của điều nầy có thể thấy được khi hàng ngàn hội viên và bạn
hữu của họ đến từ các châu lục, nhiều người mặc trang phục đặc biệt của mỗi nền
văn hóa, đến dự lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Hội Thông Công Trọn Vẹn Quốc Tế
Của Các Doanh Nghiệp Cơ Đốc tổ chức tại Trung Tâm Hội Nghị Anaheim
(California) từ 6-10 tháng bảy, 1982.
Đức Chúa Trời đang làm cho ứng nghiệm điều nầy qua hơn 40.000 hội viên dâng
hiến đời sống mình để đem nhiều người đến với Đấng Christ, những con người
như là Lionel Luckhoo ở Guyana, đã được sách các kỷ lục Guinness tôn là người
biện hộ thành công nhất hoàn cầu; Charles M. Duke, phi hành gia Apollo 16;
Rosey Grier của đội túc cầu NFL danh tiếng và hàng ngàn người có trình độ
chuyên môn cùng các doanh nhân trong nhiều giới khác nhau. Qua họ, những
người khốn khổ, cô đơn, mà tôi thấy đầu tiên trong khải tượng đang được biến nên
những con người hạnh phúc nhất trần gian.
Demos Shakarian