niên d u n u b ch y hố hò khoan · niên dậu thánh nhân xuất,* năm dậu bạch y đáo...

5
Niên Du Thánh Nhân xut,* Năm Dậu Bch Y đáo ta bà. Xxkhi can qua, MNga chiến tranh chng, Nhxtn anh hùng. An Nam Thánh Nhân xut, TrxCu Long Giang. Chuyn nghèo thành giàu sang, Xưa hèn nay Bắc Đẩu. Bch Y chuyn thuyết khách, Xxhi Vit Môn. Tam Niên định bo tn, * Ba Năm Thế gii quy nht thng. Mun gp kBch Y, Phi ra sc tu trì. Y theo lời đại nguyn, Cơ duyên ngộ ctri. tận nơi đất khách, Khéo khai mđạo mu. Ba Năm chng dài lâu, Đáo về quê Nam Vit, Kiến Pht ti Bích Lu. Ngày 7-7-1992, Bch Y (Pháp KBí Truyn tr.37-38, Liên Hoa Tnh Hubiên kho, n bn Mnăm 1999) Li bình: Câu sm: Niên Du Thánh Nhân xuất”, cm tNiên Du là cách nói mo, dch nghĩa là Năm Dậu, sau khi dch nghĩa ri còn phi gii mã, chNăm ám chtháng 5 âl năm Mu Tut 2018, và chDu ám chtháng 8 âl tc tháng Tân Du năm Mậu Tut 2018. Đấy là cách nói tt khong thi gian 4 tháng NgMùi Thân Du {Nga Dê KhGà} nhm ám chtháng Ng{Nga}ám chtháng 5 âl tc tháng Mu Ng, Mùi{Dê} ám chtháng 6 âl {tháng KMùi}, Thân {Kh} ám chtháng 7 âl {tháng Canh Thân}, Du {} ám chtháng 8 âl {tháng Tân Dậu} năm 2018. Hố Hò Khoan Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-Sĩ Tiên Sanh, Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế; Hò xang xự xế; Mắc kế Trương-Lương, Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí. Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn, Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim. Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu, Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi, Chư bang hàng phục. Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế, Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn. Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến, Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ ráng ghi. Thành công êm thấm; Có lắm người yêu. (Đức Hunh Giáo Chviết ti Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão 1939) Nhng cm tBch Y hay Bạch Sĩ Tiên Sanh trong 2 bài thơ đều ám chĐức Trng Trình là tiến kiếp của Đức Pht Thy Tây An {Hunh Giáo Ch}. Cm tNam Việt” là tên nước Vit tnăm 207 trước Công nguyên có biên gii gm 2 tnh Quảng Đông Quảng Tây, {Lưỡng Qung}. Vì Gic Tàu xâm ln mãi, Ttiên ta phi bđất Lưỡng Qung, dời đô đến Thăng Long để tránh đại nn bHán hóa. Bài pháp “Ba Năm chẳng dài lâu” được trích trong quyn Pháp KBí Truyn tcơ bút Bch Y do ông Liên Hoa Tnh Hubiên kho, n tng Mnăm 1999.

Upload: others

Post on 22-Sep-2019

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Niên D u N u B ch Y Hố Hò Khoan · Niên Dậu Thánh Nhân xuất,* Năm Dậu Bạch Y đáo ta bà. Xứ xứ khởi can qua, Mỹ Nga chiến tranh chủng, Nhị xứ tận

Niên Dậu Thánh Nhân xuất,* Năm Dậu

Bạch Y đáo ta bà.

Xứ xứ khởi can qua,

Mỹ Nga chiến tranh chủng,

Nhị xứ tận anh hùng.

An Nam Thánh Nhân xuất,

Trụ xứ Cửu Long Giang.

Chuyển nghèo thành giàu sang,

Xưa hèn nay Bắc Đẩu.

Bạch Y chuyển thuyết khách,

Xứ xứ hội Việt Môn.

Tam Niên định bảo tồn, * Ba Năm

Thế giới quy nhứt thống.

Muốn gặp kẻ Bạch Y,

Phải ra sức tu trì.

Y theo lời đại nguyện,

Cơ duyên ngộ cố tri.

Ở tận nơi đất khách,

Khéo khai mở đạo mầu.

Ba Năm chẳng dài lâu,

Đáo về quê Nam Việt,

Kiến Phật tại Bích Lầu.

Ngày 7-7-1992, Bạch Y

(Pháp Kệ Bí Truyền tr.37-38, Liên Hoa Tịnh Huệ biên khảo, ấn bản ở

Mỹ năm 1999)

Lời bình: Câu sấm: “Niên Dậu Thánh Nhân

xuất”, cụm từ Niên Dậu là cách nói mẹo, dịch

nghĩa là Năm Dậu, sau khi dịch nghĩa rồi còn

phải giải mã, chữ Năm ám chỉ tháng 5 âl năm

Mậu Tuất 2018, và chữ Dậu ám chỉ tháng 8

âl tức tháng Tân Dậu năm Mậu Tuất 2018.

Đấy là cách nói tắt khoảng thời gian 4 tháng

Ngọ Mùi Thân Dậu {Ngựa Dê Khỉ Gà} nhằm

ám chỉ tháng Ngọ{Ngựa}ám chỉ tháng 5 âl

tức tháng Mậu Ngọ, Mùi{Dê} ám chỉ tháng 6

âl {tháng Kỷ Mùi}, Thân {Khỉ} ám chỉ tháng

7 âl {tháng Canh Thân}, Dậu {Gà} ám chỉ

tháng 8 âl {tháng Tân Dậu} năm 2018.

Hố Hò Khoan

Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-Sĩ Tiên Sanh,

Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế;

Hò xang xự xế; Mắc kế Trương-Lương,

Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí.

Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn,

Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim.

Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu,

Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi,

Chư bang hàng phục.

Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế,

Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn.

Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến,

Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ ráng ghi.

Thành công êm thấm; Có lắm người yêu. (Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão 1939)

Những cụm từ Bạch Y hay Bạch Sĩ Tiên Sanh trong 2 bài

thơ đều ám chỉ Đức Trạng Trình là tiến kiếp của Đức Phật

Thầy Tây An {Huỳnh Giáo Chủ}.

Cụm từ “Nam Việt” là tên nước Việt từ năm 207 trước Công

nguyên có biên giới gồm 2 tỉnh Quảng Đông Quảng Tây, {Lưỡng

Quảng}. Vì Giặc Tàu xâm lấn mãi, Tổ tiên ta phải bỏ đất Lưỡng

Quảng, dời đô đến Thăng Long để tránh đại nạn bị Hán hóa.

Bài pháp “Ba Năm chẳng dài lâu” được trích trong

quyển Pháp Kệ Bí Truyền từ cơ bút Bạch Y do ông Liên

Hoa Tịnh Huệ biên khảo, ấn tống ở Mỹ năm 1999.

Page 2: Niên D u N u B ch Y Hố Hò Khoan · Niên Dậu Thánh Nhân xuất,* Năm Dậu Bạch Y đáo ta bà. Xứ xứ khởi can qua, Mỹ Nga chiến tranh chủng, Nhị xứ tận

Hai câu sấm: “Tam Niên định bảo tồn” &

“Ba Năm chẳng dài lâu”, cụm từ Tam Niên

là Ba Năm, vậy cụm từ Tam Niên & Ba Năm

là thuật ngữ thiên cơ có ý nghĩa đặc biệt, đây

là bài toán đố mẹo cần phải giải mã như sau:

3 + 5 = 8 ám chỉ tháng 8 âl tức tháng Tân

Dậu năm Mậu Tuất 2018, Thế giới chịu cảnh

chiến tranh vũ khí nguyên tử hủy diệt địa cầu,

nhơn loại chết 7 còn 3.

Cần nhắc lại điều rất quan trọng rằng cụm từ Ba Năm là bài toán đố mẹo: 3 + 5 = 8, ám

chỉ tháng 8 âl tức tháng Tân Dậu năm Mậu Tuất 2018 thế giới gánh quả cộng nghiệp

chết chóc khủng khiếp vì vũ khí hạt nhân. Các cường quốc nguyên tử như Mỹ Nga Tàu

Tây Anh…đều phải trả quả san bằng tiêu tan, thế giới huờn không. Vì vậy từ năm 1915, Ông Ba Nguyễn văn Thới đã cảnh báo:

Thương Ba Năm không chợ nhóm chiều, Nhà không người ở niệm nhiều Nam Mô.

Thây không lấp mà để phơi khô,

Không nước mà uống Nam Mô đạo nào. ________________________________________________

Nay mai sụp đổ cù lao,

Giáp vòng bi lụy máu đào tuôn rơi.

Nói thiệt không phải nói chơi,

Ngọ Mùi Thân DẬU lập Đời đó dân.

Lập rồi cái hội Tân Dân,

Lập rồi cái đại Phong Thần kỳ ba.

Bây giờ TA mới nói ra,

Sắp đây mở Hội Long Hoa bớ người.

Lọc ai phước đức cao dư,

Đặng mà lập lại con người Thượng Nguơn.

Nói ra có kẻ buồn hờn,

TA đâu có sợ keo sơn được rồi.

Nói đi nói đứng nói ngồi,

Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai.*

Nói rằng cuồng loạn hăng say,

Từ đây cháy hết được quay chỗ nào.

Bên Tây rồi lại bên Tàu,

Bên Anh bên Nhựt cũng nhào tiêu diêu.

Không mai ắt cũng đến chiều,

Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san!*

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết, kết tập sách

Thiền Tịnh Bửu Sơn tr. 105, Hội Cư Sĩ Thiền Tịnh Bửu Sơn

Sydney ấn tống năm 2002)

Sydney, 26-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Câu sấm: “Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai”, cụm

từ bể nồi ám chỉ lãnh tụ cường quốc gây trận giặc

Biển Đông sẽ chết trong Thế Chiến Ba; cụm từ rã

hai, ám chỉ sau khi vị lãnh tụ cường quốc gây chiến

Biển Đông chết, thì hai ông trùm Mỹ Nga tranh

ngôi bá chủ đánh bằng vũ khí nguyên tử. Câu sấm:

“Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san”. Chữ san

nghĩa là san bằng tiêu tan. Vậy khi thấy có sự cố

bể nồi, bá tánh biết đó là điềm tận thế.

Page 3: Niên D u N u B ch Y Hố Hò Khoan · Niên Dậu Thánh Nhân xuất,* Năm Dậu Bạch Y đáo ta bà. Xứ xứ khởi can qua, Mỹ Nga chiến tranh chủng, Nhị xứ tận

Thương Ba Năm không chợ nhóm chiều,

Nhà không người ở niệm nhiều Nam Mô.

Thây không lấp mà để phơi khô,

Không nước mà uống Nam Mô đạo nào.

Gặp trận gió niệm Phật ào ào,

Chừng tan giông gió Phật nào thấy đâu.

Khá chí tâm mài sắt dò sâu,

Nên kim mới giỏi Phật đâu tức thời.

Tu nhứt kiếp ngộ Phật nhứt thời… (Kim Cổ Kỳ Quan 4: 7, Ông Ba Nguyễn Văn Thới viết năm 1915)

Từ đây thức dậy canh thâu,

Ba Năm khắc khổ não sầu bi ai.

Phật pháp đấng chuyển lay vô giá,

Sắp hành trình tan rã vô biên.

Lọc xong các bậc tôi hiền,

Dâng lên cúng Phật tại triền bảo châu.

Phạt ma quỷ canh thâu chìm đắm,

Đừng có mê áo gấm thêu hoa.

Mê quan mê chức mê nhà,

Từ đây phải chịu biển hà vùi chôn! (Quay Về Nguồn Cội tr. 277, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu

thuyết ngày 18-7 Tân Mùi 1991 tại Giồng Riềng, Thiền Tịnh Bửu

Sơn Sydney ấn tống năm 1997)

Cậu đờn bá tánh không no,

Ba Năm khắc khổ hỏng giò than van.

Ba Năm biến thể thành than,

Ba Năm Cậu thấy xóm làng khổ đau.

Ba Năm cô bác đồng bào,

Giết đâm chết loạn biết đâu mà tường.

Ôi thôi nhiều nỗi đoạn trường,

Ba Năm khắc khổ biết đường nào đi.

Ba Năm chi xiết ai bi,

Ngọ Mùi Thân Dậu vậy thì bày khai.

BA NĂM khổ sở lá lay,

Ba Năm bá tánh trắng tay điêu tàn.

BA NĂM mất của mất vàng,

Mất quan mất chức họ hàng mất luôn.

BA NĂM mất triệu mất muôn,

Nói đây rồi lại thêm buồn thô sơ.

Ngồi buồn lật bản đồ thơ,

Thấy trong thế sự hiện giờ còn nguy.

Đờn kêu nhiều sự lâm li,

Đờn kêu cậu nói việc gì ngộ ghê.

Đờn kêu xiết đả Con Dê,

Con Dê rơi rụng thành mê ráo rồi! (Sấm Giảng Thất Sơn tr. 34-35, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng

khẩu thuyết tại Tân Châu vào thập niên 80, Thiền Tịnh Bửu

Sơn Sydney ấn tống năm 2003)

Từ đây náo nhiệt nước kiệt nhà tan,

Trời Phật còn than Niết Bàn không ổn.

Thì là nguy khốn dân chúng nổi trôi,

Cậu nói rồi coi bẩn tồi tan nát.

Ráng về giải thoát một lát rồi xem,

Thi thơ Cậu đem bên rèm Cậu tặng.

Nơi miền Cậu nhắn biển vắng xa xôi,

Nói chẳng thảnh thơi Ba Năm loạn lạc.*

Về đi giải thoát tận diệt gần kề,

Mùa Hè năm Dê Cậu phê bút chỉ.

Đó rồi niên kỷ tất cả trắng tay,

Nghiệp quả có vay bị đày ráng chịu.

Anh em lo liệu lên kiệu mà về,

Sóng bủa tràn trề bến mê rũ chí.

Gần ngày trường thí Thầy mở đại khoa,

Đạo ở miền xa cùng TA trở bước.

Ở đâu đói trước Cậu chỉ cho tường,

Lạc quốc nhà Vương từ đây gần lập.

Thì là gió tắp bão tới liền liền,

Thay đổi Đài Tiên ai miền thế giả.

Từ đây phải rã lập quốc dân ơi,

Muốn thấy ngôi Trời trung quân mới rõ.

Kỳ này cây cỏ Cậu thấy cũng tiêu, …………………………………………..

Miền Nam diệu vợi Thánh Chúa lập Đời,

Phải chịu dân ơi, Ba Năm khắc khổ.

Năm Thân lệ đổ không biết dường nào,

Lớp bịnh lớp đau lớp gào lớp thét.

Page 4: Niên D u N u B ch Y Hố Hò Khoan · Niên Dậu Thánh Nhân xuất,* Năm Dậu Bạch Y đáo ta bà. Xứ xứ khởi can qua, Mỹ Nga chiến tranh chủng, Nhị xứ tận

Dân ơi mê chức tài cao,

Từ đây sắp đến tiêu hao mấy phần.

Ngọ Mùi mới rõ nghe dân,

Thân Dậu khắc khổ toàn thân rụng rời.

Ba Năm tàn khốc dân ôi,

Đổi đời lập đạo cơ trời gần ra.

Biến thiên biến thể kia mà,

Biến người thành thú thú mà thành nhơn.

Biến rồi bá tánh đừng hơn,

Biến thiên biến địa Thất Sơn hóa lầu.

Biến cho các nước châu Âu,

Rụng rời khổ sở về chầu Nam bang.

Biến thôi mất triệu mất vàng,

Biến thiên lập địa sảy sàng khổ đau.

Biến rồi dân chúng chắc hao,

Để chi cái thứ mâm cao cỗ đầy.

Quên ân bội Chúa phản Thầy,

Cơ Trời sắp đặt giờ này gần ra. (Sấm Giảng Đạo Khùng tr. 12, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu

thuyết ở Phương Lâm thập niên 80, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn

tống năm 2002)

Ở tận nơi đất khách,

Khéo khai mở đạo mầu.

Ba Năm chẳng dài lâu,

Đáo về quê Nam Việt,

Kiến Phật tại Bích lầu. (Pháp Kệ Bí Truyền, tr. 38, Liên Hoa Tịnh Huệ kết tập lời Bạch

Y Đạo Sĩ, ấn tống tại Mỹ năm 1999)

Và trong những bài cầu cơ của Hội Trà Hoa từ

những năm trước và sau 1975, Vị Lớn {Phật Thầy

Tây An} về cơ cũng cho biết cuộc Tận Thế Hội

Long Hoa là Ba Năm.

Vậy cụm từ Ba Năm trong những đoạn sấm

giảng vừa nêu trên có nghĩa lí gì? Ba Năm phải

chăng là thuật ngữ thiên cơ ám chỉ tháng? Đặc biệt

Đức Cậu Bần Sĩ dùng cụm từ Ba Năm đi kèm với

cụm từ Ngọ Mùi Thân Dậu.

Nếu Ngọ Mùi Thân Dậu{Ngựa, Dê, Khỉ Gà},

ám chỉ các tháng 5 âl tức tháng Mậu Ngọ, 6 âl

{tháng Kỷ Mùi}, 7 âl {tháng Canh Thân}, 8 âl

{tháng Tân Dậu}, thì Ba Năm ám chỉ cái gì?

Cụm từ Ba Năm là bài toán đố mẹo: 3 + 5 = 8,

ám chỉ tháng 8 âl tức tháng Tân Dậu năm Mậu

Tuất 2018 thế giới chịu cảnh chết chóc khủng

khiếp vì vũ khí nguyên tử. Tháng 8 âl có sự cố

quan trọng, nên cụm từ Ba Năm được chư vị Bồ

Tát lặp lại nhiều lần: 3 + 5 = 8 = tháng 8 âl. Vì

vậy từ năm 1915, Ông Ba Nguyễn văn Thới đã

cảnh báo:

Lớp thì ai vẹt vẹt ngút mù sa,

Năm Thân kia cà cửa nhà tan nát.

Vì ai ca hát giải thoát như vầy,

Vắng Cậu, vắng Thầy, Rồng Mây gần mở.

DẬU kia ráng nhớ Gà gáy canh thu,*

Thương đạo, khuyên tu mặc dù là khổ.

Long Hoa gần trổ cực khổ một giờ,

Vén ngút mây mờ về đi ấn dấu.

Hẹn trò Năm DẬU sẽ biết bí thơ,*

Cậu đợi Thầy chờ bên bờ sông bãi.

Nghe rồi đừng cãi ỷ lại không nên,

Lô tô dựng nền báo ân buổi trước.

Trò nghe rồi được hiểu được rất mầu,

Mình phải tìm sâu ở nơi huyệt đạo.*

Đừng nên xốc xảo tu giả bên ngoài,

Cốt nhục muôn loài rồi ta sẽ bỏ.

Nghe đi cho rõ rồi tỏ chớ gì,

Về hằng mau đi đạo tâm tia sáng.

Mặc ai nhạo báng trò ráng bồi công,

Kỳ này Biển Đông chập chồng nhuốm máu.

Thương thay TA bảo người đạo phải nghe,

Đúng năm Dê hè sợ e nguy hiểm.

Giữ thân hạnh kiểm cho vẹn đạo mầu,

Bốn biển năm châu thấy trong rùng rợn.

Nó chưa có tởn ham tỉ ham tiền,

Bị Phật Thánh Tiên buộc xiềng hết trọi.

Nó làm tôi mọi lịnh rọi Thiên Đình,

Đây phải thúi sình Hà Sa biết mấy.

Người đâu có thấy lừng lẫy chông gai,

Phạt ở nước ngoài bằng hai Nam Việt. Thôi rồi cách biệt từ giã đạo tâm,

Thi phú thì thầm đêm nay Cậu thuyết.

Cho người hiểu biết đời kiệt đời còn,

Đặng hiểu thon von đặng tròn ý nguyện.

Bây giờ phương tiện Cậu luận Lô tô,

Chúc chị chúc cô trên đường du học.

Thôi thôi trằn trọc cực nhọc đừng than,

Cậu chúc xóm làng cùng chung huyết thống.

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết ở Phú Lâm

ngày 23-2 Tân Mùi {1991}, kết tập sách Thượng Đế

Thưởng Phạt , Thiền Tịnh Bửu Sơn ấn tống năm 2001)

Cụm từ

“Năm

Dậu”,

chữ

“Năm”

ám chỉ

tháng 5

âl, chữ

“Dậu”

ám chỉ

tháng 8

âl., nói

tắt bốn

tháng

5, 6, 7,

8âl

Page 5: Niên D u N u B ch Y Hố Hò Khoan · Niên Dậu Thánh Nhân xuất,* Năm Dậu Bạch Y đáo ta bà. Xứ xứ khởi can qua, Mỹ Nga chiến tranh chủng, Nhị xứ tận

Thương Ba Năm không chợ nhóm chiều,

Nhà không người ở niệm nhiều Nam Mô.

Thây không lấp mà để phơi khô,

Không nước mà uống Nam Mô đạo nào.

Vì lòng đại từ đại bi thương yêu nhơn loại, nên chư vị Bồ Tát

ra cơ bài toán đố không cao lắm, bài toán đố mẹo rất đơn sơ

dành cho lớp vỡ lòng, bài toán đố đó chỉ có một phép cộng giản

dị như sau: 3 + 5 = 8.

Lời truyền sấm như bài toán đố, Ai biết tầm thì đặng hưởng nhờ.

Ta khuyên tu dân cứ mãi ngờ,

Sợ gạt chúng kiếm xu kiếm cắc. (Giác Mê Tâm Kệ, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

GÀ cồ coi vậy thiệt là ngu,

Nòi giống không thương lại oán thù;

Chiến tích cạo đầu làm mặt lạ,

Chém đâm nhau chết máu lu bù! (Huỳnh Giáo Chủ ứng khẩu thuyết năm 1939 tại Hòa Hảo, Chuyện Bên Thầy, mẩu chuyện thứ 36)

Phải quy căn cùng nhau hội hiệp,

Ráng mau chơn mới kịp đạo mầu.

Sớm với chiều gắng chí nguyện cầu,

Thì sẽ được Tòa Chương dựa kế.

Chúng sanh thể như GÀ thất thế, 3 + 5 = 8 Phải nằm chờ tới nước bắt ra.

Thời kỳ này nhiều quỷ nhiều ma,

Trời mở cửa Quỷ Vương xuống thế.

Nên TA mới ra tay cứu tế,

Kẻo chúng sanh bị khổ quá chừng.

Sau Quỷ Vương đi đứng nửa lừng,

Thêm tên tuổi chúng sanh nó biết.

Làm đủ cách xuống lên tha thiết… (Giác Mê Tâm Kệ, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Thơ xướng:

Chắt chiu trong trứng mới nở ra,

DIỀU đâu bay lại xớt con GÀ; *

Mẹ kêu túc túc xè cánh đuổi,

Chủ nhà tiếc của vỗ tay la!

Thơ họa:

Nịnh gian hai dạ chuyện sanh ra,

Dòm ngó càng thương hại lũ GÀ;

Trở mặt dòm trời cao tuốt mịt,

Ức lòng thiếu cánh chớ nên la!

(Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại Xà No năm 1940)

* Chữ DIỀU ám chỉ hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử có sức tàn phá thật khủng khiếp vào thời điểm

Ba Năm{Gà}cận kề. Coi chừng sự cố tới gấp chúng sanh trở tay không kịp! A Di Đà Phật.

Sydney, 26-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi

lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt

mù, Bồ Tát giáng trần không

có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống

trà run đùi ngâm thơ vịnh

nguyệt. Mỗi hành động, mỗi

lời nói của Đức Thầy Huỳnh

Giáo Chủ đều khế hợp với

thiên cơ đạo lý. Chữ GÀ trong

sấm của Đức Thầy có lý thiên

cơ diệu mầu: 3 + 5 = 8. “Lời

truyền sấm như bài toán đố”.