quyền của người chưa thành niên theo pháp luật dân sự việt...
TRANSCRIPT
Quyền của người chưa thành niên theo pháp
luật dân sự Việt Nam
Vũ Hồng Minh
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật dân sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên
Năm bảo vệ: 2010
Abstract. Nghiên cứu, phân tích và xây dựng khái niệm về người chưa thành niên.
Phân tích một cách cụ thể và chi tiết những chế định về quyền của người chưa thành
niên trong các văn bản luật và dưới luật thuộc chuyên ngành luật dân sự. Phân tích,
so sánh việc ghi nhận quyền của người chưa thành niên qua các giai đoạn lịch sử của
pháp luật dân sự Việt Nam. Đánh giá một phần thực trạng việc thi hành, áp dụng các
quy định của pháp luật dân sự về quyền của người chưa thành niên.
Keywords. Luật dân sự; Pháp luật Việt Nam; Nhân quyền; Người vị thành niên
Content
më ®Çu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan hệ pháp luật dân sự, việc xác định chủ thể, năng lực chủ thể để đảm bảo thực
hiện quyền và nghĩa vụ dân sự có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Mỗi người, khi sinh ra
đều là chủ thể quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, năng lực chủ thể của cá nhân tùy thuộc vào sức
khỏe tâm sinh lý và độ tuổi của cá nhân đó. Người chưa thành niên là chủ thể mà pháp luật
phải dành sự quan tâm đặc biệt bởi đa số người chưa thành niên là trẻ em.
Theo số liệu của cuộc điều tra về dân số năm 2009 cho thấy, tổng số dân của Việt Nam
tính đến thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2009 là 85.789.573 người, trong đó số người từ
0 đến dưới 15 tuổi chiếm 25%, số người từ 15 đến dưới 60 chiếm 66% và số người từ 60 tuổi
trở lên chiếm 9%.
Bộ luật Dân sự năm 2005 tại Điều 18 đã quy định: Người chưa thành niên là người chưa
đủ 18 tuổi. Mặc dù không có con số chính xác về số người dưới 18 tuổi trong cơ cấu dân số
về độ tuổi của Việt Nam, tuy nhiên chúng ta có thể dự đoán con số này có thể nằm trong
khoảng từ 28% đến 30%, có nghĩa là tương đương với khoảng 24.000.000 người. Đây thực
sự là một con số không nhỏ, nó cho thấy chúng ta có một tiềm năng lớn về nguồn nhân lực
trong tương lai. Mặt khác đây cũng là nhóm dân số đặc biệt trong xã hội do đặc điểm về độ
tuổi và thể chất.
Tại Điều 1 Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 có quy định: "
Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn", bên cạnh việc quy định
về độ tuổi để xác định một người là trẻ em, Công ước này của Liên Hợp Quốc cũng đã dành
nhiều quy định và trao cho nhóm đối tượng này những quyền năng đặc biệt, tại lời mở đầu
của Công ước đã xác định: "... tin tưởng rằng, gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và
môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc
biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết có thể đảm đương được đầy đủ các trách
nhiệm của mình trong cộng đồng...". Pháp luật Việt Nam tại Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi và cũng đã có nhiều quy định để dành
cho những đối tượng này những quyền ưu tiên đặc biệt.
Dưới góc độ pháp luật dân sự, xuất phát từ sự non nớt về thể chất và trí tuệ cũng như từ
nhận thức về vai trò quan trọng của thế hệ những chủ nhân tương lai của đất nước, pháp luật
dân sự Việt Nam đã luôn thể hiện được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng toàn thể xã
hội khi dành nhiều quy định nhằm ghi nhận và bảo vệ cho những công dân chưa đủ 18 tuổi
những quyền dân sự được quy định cụ thể và chi tiết.
Về cơ bản, trong những năm qua, việc ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm cho các quyền dân sự
của người chưa thành niên đã được thực hiện nghiêm túc và đúng đắn với một tinh thần trách
nhiệm cao của nhà nước và toàn thể xã hội;
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của những lối sống thực
dụng, ích kỷ cùng sự băng hoại đạo đức của một số cá nhân đơn lẻ trong thời gian gần đây đã
gây nên một thực trạng xấu cho xã hội, tạo ra một tâm lý bất bình trong các tầng lớp nhân
dân, đó là tình trạng vi phạm và xâm hại các quyền của người chưa thành niên, đặc biệt là
tình trạng bóc lột sức lao động của người chưa thành niên ngày một nghiêm trọng, thậm chí
có không ít những trường hợp mang tính chất hình sự. Một trong những quyền cơ bản và
quan trọng nhất của người chưa thành niên là quyền được bảo vệ thân thể và sức khoẻ trong
nhiều trường hợp đã không được bảo vệ và bị xâm hại một cách trực tiếp thì những quyền
dân sự khác của họ sẽ được thực hiện và bảo vệ ra sao?
Việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của nhà nước cùng toàn thể xã hội trong việc ghi
nhận và đặc biệt là việc bảo vệ, bảo đảm cho các quyền dân sự của người chưa thành niên
được thực hiện trong cuộc sống một cách nghiêm chỉnh sẽ là một vấn đề rất cần thiết được
nhìn nhận nghiêm túc hơn nữa trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền dân sự của người chưa thành niên là đề tài
được quan tâm nghiên cứu của nhiều người và dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên,
khi xem xét dưới góc độ là đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự thì các quyền của người
chưa thành niên trong thực tế được thể hiện qua các công trình nghiên cứu hay các bài viết
được đăng trên các tạp chí chuyên ngành thường được khai thác và trình bày một cách đơn lẻ,
riêng biệt theo từng vấn đề cụ thể như quyền khai sinh, quyền thay đổi họ tên, quyền được
nhận làm con nuôi hay quyền được cấp dưỡng..., hoặc có những trường hợp lại đươc xem xét
một cách tổng hợp và không được phân biệt theo các chuyên ngành pháp luật cụ thể như pháp
luật hình sự, pháp luật dân sự... Điều này được nhận thấy qua việc tác giả tìm hiểu một số các
công trình nghiên cứu và một số các bài viết của các tác giả trong thời gian qua mà tiêu biểu
là luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Phương Nga với đề tài "Pháp luật bảo vệ quyền trẻ em
trong giai đoạn hiện nay", luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Oanh với đề tài
"Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000" hoặc luận án tiến sĩ
của tác giả Nguyễn Thị Phương Lan với đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp
lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam".
Thông qua việc tìm hiểu, tác giả nhận thấy cần thiết có một công trình nghiên cứu một
cách tổng thể và tương đối toàn diện về việc ghi nhận và thực hiện các quyền dân sự của người
chưa thành niên một cách có hệ thống; từ đó, xem xét và đưa ra những phương hướng và giải
pháp cụ thể nhằm ngoài việc góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật dân sự trong lĩnh vực
này còn góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức của xã hội đối với việc bảo đảm và bảo vệ các
quyền dân sự của người chưa thành niên, tạo những điều kiện cần thiết nhất để xây dựng một xã
hội lành mạnh nhất cho sự phát triển của người chưa thành niên.
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn
+ Mục đích và ý nghĩa của luận văn: Về mặt lý luận, tác giả cố gắng nghiên cứu một cách
tương đối toàn diện các quy định của pháp luật dân sự về quyền của người chưa thành niên,
tìm hiểu một số trường hợp cụ thể trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp, thông
qua đó phát hiện và nêu ra một số vấn đề bất cập trong quy định hiện hành và đề ra phương
hướng, giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện những quy định của pháp luật dân sự về quyền
của người chưa thành niên
+ Nhiệm vụ của luận văn:
- Nghiên cứu, phân tích và xây dựng khái niệm về người chưa thành niên.
- Phân tích một cách cụ thể và chi tiết những chế định về quyền của người chưa thành
niên trong các văn bản luật và dưới luật thuộc chuyên ngành luật dân sự.
- Phân tích, so sánh việc ghi nhận quyền của người chưa thành niên qua các giai đoạn
lịch sử của pháp luật dân sự Việt Nam.
- Đánh giá một phần thực trạng việc thi hành, áp dụng các quy định của pháp luật dân sự
về quyền của người chưa thành niên.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài "Quyền của người chưa thành niên theo pháp luật dân sự Việt Nam", tác giả
chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự có nội dung chứa đựng những quy
phạm nhằm điều chỉnh đối tượng là người chưa thành niên bao gồm quy định của các Bộ luật
Dân sự 1995 - 2005, Luật Hôn nhân và gia đình, luật lao động cùng các văn bản luật, dưới
luật khác thuộc ngành Luật dân sự Việt Nam, quy định và điều chỉnh các vấn đề về quyền của
người chưa thành niên. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu, xem xét và phân tích một số trường hợp cụ
thể trong thực tiễn hoạt động của một số các cơ quan tư pháp cũng góp phần giúp tác giả nghiên
cứu đề tài một cách sâu sắc hơn.
5. Điểm mới của luận văn
- Luận văn đã nghiên cứu và phân tích một cách cụ thể, chi tiết đặc điểm của người chưa
thành niên - một chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luât dân sự, xây dựng được khái niệm
về người chưa thành niên và quyền của người chưa thành niên theo pháp luật dân sự
- Luận văn có đánh giá thực trạng thi hành các quy định của pháp luật dân sự liên quan
tới các quyền của người chưa thành niên một cách toàn diện, có hệ thống và từ đó đưa ra
những giải pháp có tính đồng bộ nhằm thực hiện và bảo vệ tốt hơn nữa các quyền dân sự của
người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể là phân tích, đối chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp; phương pháp phân tích
quy phạm cũng được tác giả vận dụng để phân tích, bình luận nội dung của một số chế định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền của người chưa thành niên theo pháp luật dân
sự.
Chương 2: Nội dung pháp luật dân sự hiện hành về quyền của người chưa thành niên và
thực tiễn việc thi hành, áp dụng các quy định của pháp luật dân sự có liên quan tới quyền của
người chưa thành niên.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường hiệu quả của pháp luật dân sự nhằm
thực hiện và bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về quyền của ngƣời chƣa thành niên
1.1.1. Năng lực chủ thể và quyền của người chưa thành niên theo pháp luật dân sự a. Năng lực chủ thể của cá nhân theo pháp luật dân sự
Xét về mặt lý luận thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chỉ xuất hiện khi người đó
được sinh ra; tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn của đời sống mà pháp luật cũng đã có những
ngoại lệ nhất định, trường hợp một người chưa được sinh ra, khi họ vẫn còn là một bào thai
cũng đã được hưởng một số quyền nhất định hay nói cách khác là họ đã có năng lực pháp luật
dân sự ở một mức độ hạn chế, đó chính là trường hợp một người được sinh ra và còn sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết cũng được
xác định là người thừa kế và được hưởng di sản của người đã chết.
Cùng với năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là
bộ phận cấu thành năng lực chủ thể của cá nhân. Tuy nhiên, ngược lại năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân lại không giống nhau, yếu tố quy định sự khác
nhau về năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân chính là ở độ tuổi và thể chất của cá nhân đó.
Mọi cá nhân có năng lực pháp luật dân sự kể từ khi người đó được sinh ra, nhưng mỗi cá nhân
chỉ có năng lực hành vi dân sự khi họ đã đạt đến một độ tuổi nhất định và có sự phát triển bình
thường về thể chất và trí tuệ
b. Khái niệm người chưa thành niên và quyền của người chưa thành niên trong quan hệ
pháp luật dân sự
Các hệ thống pháp luật dân sự có những quan điểm khác nhau về người chưa thành niên
cũng như việc ghi nhận về các quyền của người chưa thành niên. Qua nghiên cứu và xem xét một
số các quy định trong các văn bản pháp luật dân sự của một vài hệ thống pháp luật sự khác nhau
trên thế giới, có thể hiểu rằng "người chưa thành niên" là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã
hội thuộc về một độ tuổi nhất định và thông thường thì người chưa thành niên được xác định là
những người dưới 20 hoặc dưới 18 tuổi; thực chất thì việc căn cứ vào độ tuổi chỉ là một
phương pháp của pháp luật dân sự mà dựa vào đó, người ta có thể xác định một người đã có sự
trưởng thành đầy đủ về mặt thể chất, trí tuệ hay chưa và từ đó mà pháp luật dân sự sẽ xác định và
ghi nhận cho họ có những quyền và nghĩa vụ dân sự tương ứng...
Khái niệm người chưa thành niên: Người chưa thành niên là những người đang trong
quá trình phát triển về mặt tự nhiên và xã hội; chưa có sự trưởng thành đầy đủ về thể chất,
trí tuệ và chưa đạt đến một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật dân sự.
1.1.2. Mức độ năng lực hành vi và quyền của người chưa thành niên theo pháp luật
dân sự
a. Mức độ năng lực hành vi và quyền của người chưa thành niên
- Đối với những người chưa đủ sáu tuổi...
- Đối với những người từ sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi...
b. Phân loại quyền của người chưa thành niên
+ Nhóm thứ nhất: bao gồm các quyền về nhân thân và các quyền về tài sản.
+ Nhóm thứ hai: như chúng ta đã biết, người chưa thành niên là một chủ thể đặc biệt khi
họ tham gia vào các quan hệ xã hội, và tương ứng với những nhóm quan hệ mà họ đã tham
gia đó, pháp luật dân sự cũng đã trao cho họ những quyền năng tương ứng. Khi tìm hiểu và
phân loại đối với các quyền dân sự của người chưa thành niên, chúng ta cũng có thể dựa vào
các mối quan hệ xã hội mà người chưa thành niên tham gia để phân loại chúng theo các nhóm
quan hệ đó như trong quan hệ gia đình, trong quan hệ lao động - kinh doanh - thương mại.
1.2. Khái quát quá trình điều chỉnh pháp luật về quyền của ngƣời chƣa thành niên ở
Việt Nam
Luật Hồng Đức: Một trong những điều đóng góp vào giá trị của bộ luật Hồng Đức là ở
một mức độ, nó đã thể hiện sự quan tâm, ưu ái nhất định đối với nhóm đối tượng là trẻ em ở
những độ tuổi khác nhau.
Tại chương Danh Lệ, Điều 16 quy định: "...những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở
xuống cùng những người bị phế tật, phạm tội từ lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền,
phạm tội thập ác thì không theo luật này. Từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống cùng những
người bị ác tật, phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu để vua
định xét, ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc còn ngoài ra thì không bắt tội. Từ
90 tuổi trở lên và 7 tuổi trở xuống dầu có bị tội chết cũng không hành hình, nếu có kẻ nào xui
xiểm thì bắt tội kẻ xui xiểm, nếu ăn trộm có tang vật thì kẻ nào chứa chấp tang vật phải bồi
thường...".
Hoàng Việt luật lệ hay còn được gọi là luật Gia Long không có nhiều quy định dành cho
đối tượng là người nhỏ tuổi tuy nhiên nó cũng đã dành sự quan tâm nhất định đối với nhóm
đối tượng này như quy định về việc không được dùng biện pháp tra tấn về mặt thân thể đối
với những người dưới 15 tuổi khi nghi ngờ họ phạm tội; tại quyển 19 Điều 10 viết về việc
không được tra tấn người già, trẻ em có quy định: " Phàm người bát nghị (được ưu tiên vì lễ)
và trên 80 tuổi (xót thương người già), 15 tuổi trở xuống (vì lòng yêu mến trẻ) phạm tội thì
quan ti không được dùng hình phạt tra khảo, chỉ căn cứ vào các bằng cớ mà định tội......và
80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống đều không được bắt họ làm chứng", đối với việc nuôi con
nuôi, pháp luật thời này cũng đã có những quy định nhằm bảo vệ phần nào quyền lợi của
người con nuôi.
Việc ghi nhận và bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong pháp luật dân sự Việt
Nam thời thuộc Pháp:
Chúng ta có thể điểm qua một số các bộ luật được ban hành trong thời gian này như: Bộ
luật Dân sự, thương sự tố tụng Bắc Kỳ được ban hành ngày 02/12/1921; Bộ dân luật Bắc kỳ
được ban hành ngày 30/3/1931; Bộ luật Dân sự, thương sự tố tụng Trung kỳ được ban hành
năm 1935; Bộ luật Dân sự Trung kỳ được ban hành năm 1936...
Đáng tiêu biểu hơn cả trong giai đoạn này là Bộ dân luật Bắc kỳ ban hành năm 1931 và
chính thức được thi hành từ ngày 01/7/1931. Một trong những nét tạo nên sự tiến bộ của Bộ
dân luật Bắc kỳ là ở chỗ nó đã xác định rõ ràng người bao nhiêu tuổi thì được coi là người vị
thành niên. Điều 221 của bộ luật này quy định: "Vị thành niên là con trai, con gái chưa đủ 21
tuổi"; về quyền được chăm sóc, giáo dục Bộ luật quy định cũng khá cụ thể tại Điều 217: "Cha
mẹ phải bảo dưỡng, giáo huấn con vị thành niên cùng là chủ trương giáo dục, trông coi hạnh
kiểm và khuyên bảo cho biết điều hay lẽ phải.
Cha mẹ lại phải tùy lực mình và tùy tư chất của đứa con dạy học cho nó hay cho nó đi
học".
Một điều đáng chú ý trong việc áp dụng, thực hiện, thực thi các quyền dân sự của cá nhân
công dân mà trong đó bao gồm cả đối tượng là người chưa thành niên trong giai đoạn này là
đã bắt đầu được bảo đảm bởi hoạt động của tòa án, Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện
tòa án do ảnh hưởng của nền tư pháp chính quốc.
Giai đoạn từ 1945 đến nay
Dưới góc độ pháp luật dân sự, Sắc lệnh số 97/SL ngày 22.5.1950 của Chủ tịch nước Việt
nam dân chủ cộng hòa về sửa đổi một số luật lệ về dân sự cũ đã đánh dấu một mốc quan
trọng trong chính sách pháp luật dân sự, về sự thay đổi mang tính tiến bộ vượt bậc trong việc
ghi nhận và bảo vệ các quyền dân sự của người chưa thành niên trong chế độ mới. Khác với
quy định của pháp luật dân sự dưới thời thuộc Pháp, Sắc lệnh đã rút ngắn tuổi thành niên từ
21 tuổi xuống còn 18 tuổi nhằm phù hợp với nhu cầu của đời sống mới và chủ trương giải
phóng con người, Điều 7 của sắc lệnh quy định: " người vị thành niên là con trai hay con gái
chưa đủ 18 tuổi...", Sắc lệnh này cũng đã loại trừ tính gia trưởng, độc đoán của pháp luật thời
phong kiến bằng cách quy định việc cha, mẹ không có quyền xin giam cầm con cái (Điều 8);
bên cạnh đó, một trong những quyền dân sự đặc biệt của người chưa thành niên là quyền truy
nhận cha mẹ lần đầu tiên đã được thừa nhận và quy định tại Điều 9: "Người con hoang vô
thừa nhận được phép thưa trước tòa án để truy nhận cha hoặc mẹ của mình". Cùng với Sắc
lệnh 97, Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 quy định các điều khoản về ly hôn đã góp phần
bảo vệ quyền của người chưa thành niên với quy định: "Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của
các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Hai vợ chồng
đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tùy theo khả năng của
mình" (Điều 16)
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân 1945-1954, hệ thống pháp luật của
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bước đầu được hình thành nhưng chưa hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, thông qua Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 chúng ta cũng có thể thấy được sự quan tâm với một tinh thần trách nhiệm cao của
Đảng và nhà nước ta đối với người chưa thành niên.
Bộ luật Dân sự 1995: theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995 thì người chưa thành niên
được xác định là những người chưa đủ 18 tuổi (Điều 20); và với nhóm đối tượng này, Bộ luật
Dân sự đã có tương đối đầy đủ và có thể nói là đầy đủ nhất trong lịch sử pháp luật dân sự
Việt Nam với khá nhiều những điều luật quy định chi tiết và cụ thể về các quyền và việc bảo
vệ các quyền của người chưa thành niên. Các điều luật này được quy định chủ yếu tại mục 2 -
Chương II (Cá nhân). Tuy nhiên qua gần mười năm thi hành, Bộ luật Dân sự 1995 đã bộc lộ
những hạn chế và bất cập nhất định mà việc sửa đổi, bổ sung bộ luật này là một nhu cầu tất
yếu. Ngày 14 tháng 6 năm 2005 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Dân
sự 2005. Bộ luật này đã bổ sung những quy định mới nhằm khắc phục những khiếm khuyết
của Bộ luật Dân sự 1995. Một trong những điểm mới có tính hợp lý hơn Bộ luật Dân sự 1995
là vấn đề hộ tịch. Một sự bổ sung cơ bản mang tính tiến bộ hơn khi người chưa thành niên
được pháp luật cho phép tham gia vào việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung
có giá trị lớn của hộ gia đình, Điều 109 Bộ luật Dân sự 2005 quy định...
1.3. Quyền của ngƣời chƣa thành niên theo pháp luật dân sự một số nƣớc
Bộ luật Dân sự Pháp năm 2005 đã dành hẳn Thiên X để quy định về người chưa thành
niên, Giám hộ, Có năng lực hành vi đầy đủ khi chưa đến tuổi thành niên và được chia làm 03
chương. Tại Điều 388 thuộc Chương I, Thiên X quy định về người chưa thành niên như sau:
"Người nam hoặc nữ chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên". Bộ luật Dân sự Pháp cũng
có nhiều quy định cụ thể như Mục 1, chương II quy định "Những trường hợp phải quản lý tài
sản theo pháp luật hoặc phải giám hộ", Mục 2 quy định về "Tổ chức việc giám hộ" và Mục 3
quy định về "Cơ chế hoạt động giám hộ" và đặc biệt, tại chương III, Thiên X quy định về "Có
năng lực hành vi đầy đủ khi chưa đến tuổi thành niên". Tại Điều 476 quy định: "Ngươi chưa
thành niên khi kết hôn thì đương nhiên được coi là có đầy đủ năng lực hành vi"; đặc biệt hơn,
Điều 477 ghi nhận: "Người chưa thanh niên có thể có đầy đủ năng lực hành vi nếu đã đủ 16
tuổi, kể cả khi chưa kết hôn".
Khác với luật dân sự của Việt Nam và Pháp, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan
quy định về người chưa thành niên tại Điều 19 như sau: "Khi đủ 20 tuổi, một người không
còn là vị thành niên nữa mà trở thành người thành niên, tự lập" và cũng giống luật dân sự
của Pháp, Điều 20 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định "một vị thành niên trở
thành người thành niên, tự lập khi kết hôn, miễn là điều đó được thực hiện đúng với quy định
của Điều 1448" (Điều 20). Xuất phát từ sự non nớt về thể chất và khả năng hiểu biết, pháp
luật dân sự Thái Lan cũng đã có nhiều quy định cụ thể nhằm bảo vệ nhóm đối tượng đặc biệt
này. Tại Điều 21 quy định: "Để thực hiện một hành vi pháp lý, một vị thành niên phải được
sự đồng ý của người đại diện hợp pháp của mình. Tất cả những hành vi mà người vị thành
niên làm không được sự đồng ý nói trên, đều không có giá trị, trừ những trường hợp nói
trong 4 điều dưới đây" và để cụ thể hóa những việc mà người chưa thành niên được phép
thực hiện trong trường hợp không phải phụ thuộc vào người đại diện hợp pháp, luật dân sự
Thái Lan đã quy định chi tiết tại các điều từ 22 đến 25. Điều 22 quy định: "Một vị thành niên
có thể thực hiện hành vi chỉ nhằm để có một quyền hoặc khỏi bị ràng buộc bởi một nghĩa vụ",
hoặc "Một vị thành niên có thể thực hiện mọi hành vi hoàn toàn có tính chất cá nhân "; tiếp
đó, Điều 24 quy định: "Một vị thành niên có thể thực hiện mọi hành vi thích hợp với điều kiện
sinh sống của mình và thực tế phục vụ cho những nhu cầu hợp lý của mình" và cuối cùng,
Điều 25 ghi nhận: "Một vị thành niên, sau khi đã tròn 15 tuổi có thể lập di chúc".
Giống với quy định của luật dân sự Thái Lan, Luật Dân sự Nhật Bản quy định về độ tuổi
của người thành niên và chưa thành niên tại Điều 3 như sau: "Thành niên được xác định khi
tròn 20 tuổi". Pháp luật dân sự Nhật Bản xác định năng lực hành vi của vị thành niên là khả
năng của vị thành niên tự mình thực hiện hành vi pháp lý để tạo lập các quyền và chấm dứt
nghĩa vụ, nói cách khác, tự mình thực hiện các giao dịch dân sự không gây thiệt hại cho lợi
ích của mình, trong trường hợp khác cần phải được sự đồng ý của người đại diện, nếu không
giao dịch đó sẽ bị hủy trừ một số ngoại lệ. Điều 4 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định: "Vị
thành niên phải cần sự đồng ý của những người đại diện hợp pháp khi thực hiện các hành vi
pháp lý trừ những hành vi đơn thuần chỉ nhằm mục đích hưởng quyền hoặc làm giảm nhẹ
nghĩa vụ. Hành vi nào được thực hiện trái với quy định trên có thể bị coi là vô hiệu";
* Người chưa thành niên trong một số cổ luật trên thế giới
- Bộ luật Hammurabi
Ra đời vào khoảng thế kỷ thứ XVIII TCN, bộ luật Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà
cổ đại được xem là một trong những bộ luật cổ nhất của loài người. Tuy ra đời trong bối cảnh
chế độ xã hội chiếm hữu lô nệ, nhưng bộ luật này có nhiều nội dung tiến bộ, thể hiện tinh
thần nhân đạo sâu sắc, tinh thần này không chỉ thể hiện trong tư tưởng lập pháp "không để kẻ
mạnh ức hiếp người yếu" của nhà làm luật mà còn cả trong từng điều luật cụ thể, trong cách
đối xử với con người, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em - những đối tượng dễ bị tổn thương
của xã hội; Điều 29 bộ luật Hammurabi quy định: "Nếu con của người chỉ huy hay của người
chiến sĩ trong một đơn vị quân đội còn nhỏ; Và nếu đứa bé chưa thể tự mình quản lý ruộng
vườn của cha nó; Thì một phần ba diện tích ruộng vườn của anh ta sẽ được giao cho mẹ của
đứa bé quản lý; Người mẹ đứa bé có trách nhiệm nuôi dưỡng đứa bé này".
- Luật Lamã thời cổ đại.
Đối năng lực hành vi, luật Lamã không phân biệt năng lực pháp luật với năng lực hành
vi của công dân nhưng luật Lamã lại quy định độ tuổi và điều kiện của công dân Lamã được
tham gia vào các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Do vậy độ tuổi của công dân La mã
được coi là một trong những điều kiện của chủ thể vào quan hệ pháp luật. Trẻ em dưới 7 tuổi
không có năng lực hành vi, không được tham gia và thực hiện giao dịch dân sự, trừ những
giao dịch phục vụ cho nhu cầu cần thiết và phù hợp với lứa tuổi này. Trẻ em ở độ tuổi này
luật quy định buộc phải đặt dưới sự giám hộ của người đã thành niên có năng lực hành vi
toàn phần (nam trên 14 và nữ trên 12 nếu không mắc các dấu hiệu của bệnh tâm thần)
Người từ 7 tuổi đến 14 tuổi đối với nam, 12 tuổi đối với nữ có năng lực hành vi dân sự
một phần, được tham gia những giao dịch bảo đảm, duy trì được lợi ích của mình. Khi thực
hiện một giao dịch mà phát sinh một nghĩa vụ hay chấm dứt một quyền hoặc liên quan đến sự
định đoạt tài sản của họ phải được sự đồng ý của người giám hộ, của gia chủ hoặc người đỡ
đầu vào thời điểm thực hiện giao dịch đó. Luật La mã quy định những người trong độ tuổi
này là những người chưa trưởng thành.
Chương 2
NỘI DUNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN VIỆC THI HÀNH, ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT DÂN SỰ CÓ LIÊN QUAN TỚI QUYỀN
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
2.1. Nội dung pháp luật dân sự hiện hành về quyền của ngƣời chƣa thành niên -
Những thành tựu và bất cập
Người chưa thành niên, với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong các quan hệ pháp luật
dân sự; và trong các mối quan hệ đó, họ có các quyền dân sự của một cá nhân nói chung cũng
như các quyền dân sự đặc biệt được nhà nước và xã hội trao cho nói riêng. Để hưởng thụ và
thực hiện các quyền dân sự của mình, người chưa thành niên phải thông qua một cơ chế đặc
biệt, xuất phát từ bản chất của người chưa thành niên là người có năng lực hành vi một phần
hay nói cách khác, họ là những người chưa có năng lực hành vi đầy đủ; do vậy, việc thực
hiện và bảo vệ các quyền của họ đa phần là do bố mẹ, người đại diện hợp pháp của họ thực
hiện.
2.1.1. Quyền của người chưa thành niên theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và
Bộ luật Dân sự năm 2005
Đối với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, có nhiệm vụ là điều chỉnh những mối quan
hệ đặc biệt, đó là những quan hệ được phát sinh, xây dựng dựa trên mối quan hệ hôn nhân và
huyết thống. Người chưa thành niên được Luật Hôn nhân và gia đình đặt ở một vị trí trung
tâm, việc bảo vệ những đối tượng này được xác định và ghi nhận là một nguyên tắc (Điều 2).
Điều 36 quy định: "1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc con chưa thành
niên..." Ta có thể hiểu tại sao các nhà làm luật lại quy định là "nghĩa vụ và quyền" chứ không
phải là "quyền và nghĩa vụ"?... Khoản 5 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: "Nhà
nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái,
con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú"; với tinh thần trên, tại khoản 2
Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: "Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các
con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không được lạm dụng sức lao động của con chưa
thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội", Để bảo vệ người chưa thành niên trong trường hợp đặc biệt, khi các quyền của họ bị
chính những người bố hoặc người mẹ xâm phạm Điều 41 đã có quy định việc hạn chế quyền
của cha mẹ đối với con chưa thành niên... người chưa thành niên trong những trường hợp
nhất định còn có quyền được nhận trách nhiệm cấp dưỡng từ những người thân trong gia đình
của mình như anh chị, ông bà nội ngoại (Điều 58, Điều 59)
Ngoài những quyền trên, Luật Hôn nhân và gia đìnhĐ năm 2000 còn ghi nhận quyền có
tài sản của con đồng thời quy định cả trách nhiệm quản lý tài sản thuộc sở hữu của người con
chưa thành niên (Điều 44, Điều 45, Điều 46).
- Một số vướng mắc: còn thiếu sót trong việc quy định trách nhiệm của những người
quản lý tài sản thuộc sở hữu của người chưa thành niên, đối với quy định tại khoản 2 Điều 83
Luật Hôn nhân và gia đình quy định: "Khi quyết định các vấn đề liên quan đến nhân thân, tài
sản của em chưa thành niên thì anh, chị là người giám hộ của em phải tham khảo ý kiến của
những người thân thích và ý kiến của em, nếu em từ đủ 9 tuổi trở lên" - thiếu sự rõ ràng...
Bộ luật Dân sự năm 2005 có thể coi là một bộ luật quy định đầy đủ và rõ ràng nhất về
người chưa thành niên và các quyền dân sự của người chưa thành niên trong pháp luật dân sự
Việt Nam, ngoài việc ghi nhận các quyền, Bộ luật Dân sự cũng đã có những bảo đảm pháp lý
chặt chẽ nhằm bảo vệ và qua đó góp phần đưa các quyền dân sự của người chưa thành niên
được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Bộ luật Dân sự 2005 quy định người chưa thành
niên có những quyền nhân thân và quyền tài sản. Chúng ta có thể thấy được Bộ luật Dân sự
đã ghi nhận người chưa thành niên có những quyền nhân thân như sau: Quyền khai sinh
(Điều 29), Quyền đối với họ tên và Quyền thay đổi họ tên (Điều 26, Điều 27), Quyền xác
định dân tộc (Điều28); Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31), Quyền được bảo đảm
an toàn về tính mạng, sức khỏe (Điều32); Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành
viên trong gia đình (Điều 41), Quyền được nhận làm con nuôi (Điều 44), Quyền nhận bộ
phận cơ thể người, Quyền khai tử (Điều 30), Quyền xác định lại giới tính (Điều 35, Điều 36),
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, Quyền bí mật đời tư (Điều 37, Điều 38),
Quyền nhận, không nhận cha, mẹ con (Điều 43... Cùng với việc ghi nhận một số quyền dân
sự cụ thể như trên, Bộ luật Dân sự cũng đã có những quy định được xác định là những bảo
đảm pháp lý nhằm bảo vệ và góp phần đưa các quyền dân sự đó của người chưa thành niên
được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống thông qua các chế định về giám hộ (từ Điều 58
đến Điều 63), về năng lực chủ thể của người chưa thành niên (Điều 20, Điều 21), về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại (Điều 606, Điều 621). Cùng với Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng
dân sự cũng đã có những quy định nhằm bảo vệ người chưa thành niên trong một số trường
hợp cụ thể như việc tham gia phiên tòa dân sự đối với người chưa thành niên, việc lấy lời
khai của người chưa thành niên…
- Một số quyền cụ thể cùng vướng mắc: Quyền khai sinh..., Quyền đối với họ tên và
quyền thay đổi họ tên..., Quyền thừa kế...
- Một số chế định nhằm thực hiện và bảo vệ người chưa thành niên: chế định về năng lực
chủ thể..., chế định về bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra..., chế định về
giám hộ...
2.1.2. Quyền của người chưa thành niên theo Luật lao động
Bộ luật lao động năm 1994 (Sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007) đã dành hẳn
Mục 1 Chương XI để quy định riêng đối với lao động chưa thành niên bao gồm 04 điều, từ
Điều 119 đến Điều 122; trong đó đã quy định rõ người lao động chưa thành niên là người lao
động dưới 18 tuổi và những việc mà người sử dụng lao động chưa thành niên phải thực hiện
như lập sổ sách theo dõi riêng, phải tiến hành việc kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Tuy nhiên, một vấn đề hết sức cần được sự quan tâm của nhà nước và xã hội khi nói đến
vấn đề lao động chưa thành niên. Đó là sự lạm dụng sức lao động, thậm chí đến mức vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong việc sử dụng lao động chưa thành niên vẫn còn tồn tại không ít
trong thực tế, mặc dù Bộ luật lao động đã dành hẳn Mục II Chương XVI để quy định về
Thanh tra nhà nước về lao động, xử phạt vi phạm pháp luật lao động; Điều 192 Bộ luật lao
động quy định: "Người nào có hành vi vi phạm các quy định của Bộ luật này, thì tùy mức độ
vi phạm mà bị xử phạt bằng các hình thức cảnh cáo, phạt tiền, đình chỉ hoặc thu hồi giấy
phép, buộc phải bồi thường, buộc đóng cửa doanh nghiệp hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định của pháp luật".
Theo Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em, hiện cả nước có khoảng 27.000 trẻ em (chiếm 6-7%
tổng số trẻ em tính đến thời điểm tháng 5/2010) phải lao động trong điều kiện tồi tệ, nhất là
năm kinh tế nước ta bị suy giảm, lạm phát tăng cao.
Điều đáng nói là phần lớn các em phải làm việc kéo dài, tiền công thấp và nguy cơ bị
ngược đãi, xâm hại và lạm dụng rất cao.
2.2. Một số trƣờng hợp cụ thể trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có liên
quan đến quyền của ngƣời chƣa thành niên trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang năm 2008 đã thụ lý 1863 vụ việc dân sự, trong đó có tới
1254 vụ việc về hôn nhân gia đình, năm 2009 thụ lý 2222 vụ việc dân sự thì có tới 1570 vụ
việc về hôn nhân gia đình.
Đối vớiTòa án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang trong năm 2008 đã thụ lý 243
vụ việc dân sự, trong đó có đến 144 vụ việc hôn nhân gia đình, đến năm 2009 tổng số thụ lý
vụ việc dân sự là 276 thì có tới 228 vụ việc về hôn nhân gia đình
Thông qua việc tìm hiểu số liệu tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Yên, tỉnh Bắc
Giang cho thấy: năm 2008 Chi cục thụ lý, lập và giải quyết 03 hồ sơ yêu cầu thực hiện việc
đóng góp cấp dưỡng nuôi con, năm 2009 là 17 hồ sơ và năm 2010 tính đến tháng 6 đã là 15
hồ sơ. Tất cả các đơn yêu cầu của đương sự gửi và nộp đến đều được Chi cục thi hành án dân
sự huyện Tân Yên lập hồ sơ và giải quyết theo quy định.
* 02 trường hợp đã và đang giải quyết
+ Trường hợp thứ nhất: tại hồ sơ thụ lý số 155 ngày 17/8/2009 (Nguyễn Duy Núi - Phạm
Thị Hợi).
+ Trường hợp thứ hai: tại hồ sơ thụ lý số 69 ngày 04/5/2009 (Dương Văn Huy - Nguyễn
Thị Huệ).
* 02 trường hợp trả đơn vì không có điều kiện cấp dưỡng
+ Trường hợp thứ nhất: tại hồ sơ thụ lý số 04 ngày 03/10/2007 (Trần Hải Đăng - Nguyễn
Thị Hương).
+ Trường hợp thứ hai: tại hồ sơ thụ lý số 67 ngày 04/3/2009 (Nguyễn Ngọc Thống -
Nguyễn Thị Cải).
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ CỦA PHÁP LUẬT
DÂN SỰ NHẰM THỰC HIỆN VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Nhu cầu khách quan và phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật dân sự về quyền
của ngƣời chƣa thành niên
3.1.1. Người chưa thành niên - Thế hệ những chủ nhân tương lai của đất nước là
nhóm đối tượng đặc biệt luôn cần sự quan tâm và bảo vệ từ phía nhà nước, xã hội
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí đặc biệt của tầng lớp thanh
thiếu niên nhi đồng đối với sự nghiệp cách mạng, tương lai của dân tộc và tiền đồ của tổ
quốc, trong tư tưởng của Bác về quyền con người luôn dành một vị trí và sự quan tâm đặc
biệt đối với các cháu thiếu niên nhi đồng; Bác đã từng nói: " Muốn có chế độ xã hội chủ
nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì phải có
tư tưởng xã hội chủ nghĩa" và từ đó đi đến phải "trồng người", phải giáo dục và rèn luyện
ngay từ khi còn nhỏ: " Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người". Bác thường xuyên nhắc nhở các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước cũng như
luôn tự ý thức rằng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc quan trọng và rất cần
thiết.....Đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về việc ghi nhận và bảo vệ các quyền
của người chưa thành niên đã lần lượt được thể chế hóa trong các văn bản luật khác nhau mà
tiêu biểu và cơ bản nhất là Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em năm 2004, Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005. Như vậy, càng về sau
pháp luật Việt Nam càng thể chế hóa những bảo đảm của nhà nước và xã hội trong việc bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục người chưa thành niên
3.1.2. Tác động của định hướng phát triển kinh tế, xã hội - yêu cầu hoàn thiện pháp
luật nói chung, pháp luật dân sự nói riêng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
Trong bối cảnh đất nước đổi mới, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động tới mọi
mặt của đời sống xã hội, trong đó có môi trường văn hóa xã hội nói chung cũng như từng môi
trường văn hóa của mỗi gia đình - môi trường gần gũi và không thể tách biệt đối với người
chưa thành niên nói riêng. Sự lệch chuẩn trong văn hóa gia đình là nguyên nhân quan trọng
của tình trạng thiếu sự quan tâm chăm sóc đối với người chưa thành niên, và cũng từ đó xuất
hiện những hành vi sai lệch dẫn đến suy thoái nhân cách ở người chưa thành niên.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24.5.2005 của Bộ Chính trị đã được triển khai và đi vào
cuộc sống được 05 năm...
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là một bước đột phá trong đổi mới tư duy chính trị
của Đảng...
3.1.3. Hội nhập quốc tế và sự gia tăng trong quan hệ pháp luật dân sự các yếu tố nước
ngoài liên quan đến các quyền của người chưa thành niên cần được bảo vệ
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước về quyền trẻ em. Ngay sau khi phê chuẩn Công ước, năm 1991 ủy ban bảo vệ và chăm
sóc trẻ em Việt Nam được thành lập với các mạng lưới xuống đến cấp huyện và xã, cũng
trong năm 1991 Nhà nước ta đã ban hành hai đạo luật riêng biệt về quyền trẻ em là Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Luật phổ cập giáo dục tiểu học. Chương trình hành động
quốc gia vì sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em với nhiều mục tiêu lớn cho các năm từ
1991 đến năm 2000 đã được thông qua và tổ chức thực hiện trong phạm vi toàn quốc. Cho đến
thời điểm hiện tại, Công ước quốc tế về quyền trẻ em được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản
và toàn diện nhất về quyền trẻ em. Năm 2000 để hỗ trợ cho Công ước, Liên Hợp Quốc đã
thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập đến việc sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột
vũ trang và việc buôn bán, bóc lột mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em. Việt
Nam chúng ta đã phê chuẩn hai Nghị định thư này vào ngày 20/12/2001.
Hội bảo vệ quyền trẻ em được thành lập theo Quyết định số 464/QĐ-BNV ngày 08 tháng
4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trong chiến lược phát triển của mình, hội sẽ phối hợp
với tổ chức UNICEF, Quỹ One Foundation và Liên Minh vì quyền trẻ em Irish Alliance for
Child Rights (Ireland) để tập huấn cho cán bộ. Trong tổ chức hoạt động của mình, Hội cũng
sẽ thành lập Ban hợp tác quốc tế. Thông qua các hoạt động trên, góp phần hoàn thành nhiệm
vụ đã được đề ra.
3.1.4. Một số hạn chế tồn tại trong hệ thống pháp luật cùng những bất cập trong thực
tiễn áp dụng, thực thi pháp luật dân sự liên quan đến quyền của người chưa thành niên
- Các quy định nằm rải rác, không tập trung gây khó khăn cho công tác tìm hiểu và
nghiên cứu
- Công tác quản lý nhà nước về một số lĩnh vực, đất đai, hộ tịch..., lỏng lẻo dẫn đến một số
trường hợp khi cần tìm hiểu và thu thập tài liệu để chứng minh và giải quyết một số vụ việc có
liên quan đến quyền lợi của người chưa thành niên (đối với ngành Tòa án) gặp nhiều khó khăn,
do đó đã có những ảnh hưởng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên
- Sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chưa triệt để.
- Công tác truyền thông - thông tin, giáo dục chưa phát huy hết vai trò.
- Năng lực và tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ công chức còn hạn chế.
3.1.5. Phương hướng tăng cường hiệu quả của pháp luật dân sự nhằm thực hiện và bảo vệ
các quyền của người chưa thành niên trong thời gian tới
- Cần thiết tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự đối với các
vấn đề về người chưa thành niên và các quyền dân sự của họ một cách khoa học, đồng bộ,
thống nhất và toàn diện, đảm bảo cho việc ghi nhận các quyền của người chưa thành niên một
cách rõ ràng và cụ thể hơn. Kết hợp với thông tin, truyền thông cùng các biện pháp tuyên
truyền, pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng cần tiếp tục góp phần làm thay đổi
quan điểm, nhận thức của toàn thể xã hội, của cộng đồng về vai trò và tầm quan trọng của
người chưa thành niên. Thông qua đó, pháp luật thể hiện vai trò định hướng nhận thức của
người dân.
- Quán triệt tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ làm công tác
liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên.
- Tăng cường công tác kiểm tra giám sát.
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm tăng cƣờng bảo đảm thực hiện quyền
của ngƣời chƣa thành niên trong giai đoạn hiện nay
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự, sửa đổi một số điều luật cụ thể
trong việc ghi nhận quyền của người chưa thành niên (sửa đổi Điều 623 Bộ luật Dân sự năm
2005 giống quy định tại Điều 73 Bộ luật Dân sự 1995; sửa đổi điểm a, khoản 1 Điều 27 như sau:
"Theo yêu cầu của người có họ, tên hoặc theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của
người chưa thành niên khi việc sử dụng họ tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia
đình; đến tình cảm, danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của người đó "; khoản 2 Điều 647 cần
được sửa đổi như sau: "Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc,
nếu được cha hoặc mẹ, hoặc người giám hộ đồng ý bằng văn bản trước khi lập di chúc"...
Thứ hai: Cần thiết nghiên cứu và xem xét việc thành lập Tòa án Hôn nhân gia đình hoặc
Tòa án dành cho người chưa thành niên, thông qua đó việc thực hiện và bảo vệ người chưa
thành niên cùng các quyền dân sự của họ sẽ được thực thi một cách tập trung và mang tính
"chuyên môn" hơn
Thứ ba: Đẩy mạnh, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xây dựng cơ chế phối hợp
chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong tổ chức, kiểm tra, giám sát.
KẾT LUẬN
Người chưa thành niên luôn được xác định là một chủ thể đặc biệt trong các quan hệ pháp
luật dân sự Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - trong đó
các quyền của con người nói chung và các quyền dân sự của người chưa thành niên nói riêng sẽ
luôn được bảo đảm và được thực thi nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Tuy nhiên, những khó khăn
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước cùng những tác động mang tính tiêu cực của mặt
trái nền kinh tế thị trường, sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp luật dân sự và một bộ phận
không nhỏ trong đội ngũ các cán bộ, công chức còn thiếu ý thức cũng như tinh thần trách
nhiệm chưa cao khiến cho việc ghi nhận cũng như việc bảo đảm thực thi các quyền dân sự
của người chưa thành niên trong cuộc sống còn những tồn tại và hạn chế nhất định, thậm chí mức
độ xâm hại đối với các quyền của người chưa thành niên trong thời gian qua đã khiến dư luận
phải vào cuộc và vấn đề đã trở thành một chủ đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của toàn thể
xã hội.
Bên cạnh những tồn tại trên, về cơ bản chúng ta phải thừa nhận rằng đời sống xã hội của đất
nước ta trong thời kỳ đổi mới đã ngày một tốt hơn, các quyền của con người nói chung và các
quyền của người chưa thành niên nói riêng ngày được đáp ứng một tốt hơn. Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 24.5.2005 của Bộ chính trị được triển khai và đi vào cuộc sống đã thực sự làm thay
đổi đất nước ta một cách tích cực trên nhiều phương diện, trong đó việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật cũng như đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật... đã và đang góp phần
tăng cường hiệu quả của pháp luật nói chung cũng như của pháp luật dân sự nói riêng nhằm thực
hiện và bảo vệ tốt hơn nữa các quyền của người chưa thành niên trong thời gian tới.
Tuy nhiên, pháp luật tuy là yếu tố quan trọng không thể thiếu, nhưng không phải là yếu tố
duy nhất bảo đảm cho người chưa thành niên được hưởng thụ các quyền dân sự của mình. ở đây,
công tác tổ chức, trình độ dân trí, và điều có tầm quan trọng hàng đầu là trình độ phát triển kinh tế,
văn hoá xã hội, khả năng tài chính và cơ sở vật chất của Nhà nước, của xã hội. Bằng những chủ
trương, biện pháp cụ thể và thiết thực, bằng sự hưởng ứng tích cực, chủ động, đồng bộ của toàn thể
xã hội mà nhà nước đóng vai trò trụ cột, chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng người chưa thành niên
- thế hệ những chủ nhân tương lai của đất nước, của dân tộc sẽ được hưởng thụ ngày càng đầy đủ
hơn các quyền dân sự, để đến lượt mình gánh vác sứ mệnh đưa đất nước đi lên con đường phát
triển mới trong thế kỷ 21 và sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
References
1. Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 (2002), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ luật Gia Long.
4. Bộ luật Hồng Đức.
5. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà Pháp (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ luật Dân sự Nhật Bản (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ luật Hammurabi (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà về sửa đổi một số luật lệ về dân sự cũ.
10. Chính phủ (1950), Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11 của Chủ tịch nước quy định các điều
khoản về ly hôn.
11. Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
12. Dân luật Bắc Kỳ 1931.
13. Dân luật Trung Kỳ 1936.
14. Đại Việt sử ký toàn thư (2004), Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị
về Chiên lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Hà Nội.
16. Đoàn Nam Đoàn (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb Chính trị
quốc gia. Hà Nội.
17. Hoàng Hùng Hải (2008) Góp phần tìm hiểu quyền con người ở Việt Nam, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
18. Lê Như Hoa (2001), Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ
em, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
19. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam
(1999), Trẻ em trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
20. Nguyễn Phương Lan (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con
nuôi ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội.
21. Lê Thị Phương Nga (2008), Pháp luật bảo vệ trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Những điểm mở và thách thức cơ bản với phương thức làm chương trình dựa trên cơ sở
quyền con người cho phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Hồng Oanh (2005), Chế định cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000. Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1959), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
26. Quốc hội (1960), Hiến pháp, Hà Nội.
27. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
28. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
29. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
30. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
31. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
32. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
33. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
34. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
35. Tìm hiểu Công ước về cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Tìm hiểu Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004), Nxb Lao động, Hà Nội.
37. Trần Thành (2009), Một số vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Ngô Văn Thâu (2005), Pháp luật về hồn nhân và gia đình trước và sau Cách mạng
tháng 8, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
39. Trung tâm nghiên cứu quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình luật La Mã, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
42. Từ điển tiếng Việt (2007), Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.