ĐẠt ma tỔ sƯ không. · điểm bất đồng, vũ Đế quá thiên về thinh âm sắc...
TRANSCRIPT
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
1
ĐẠT MA TỔ SƯ (Thiên Phục Nguyên)
I. Vài nét về hành trạng của Đạt Ma Tổ Sư
Đức Bồ Đề Đạt Ma 菩提達磨 (Bodhidharma, đầu thế kỷ
6 Công nguyên), người Ấn Độ, là tổ thứ 28 của Thiền
Ấn Độ. Tổ sang Trung Hoa để truyền Phật pháp của
Thiền tông và trở thành Đệ Nhứt Tổ Thiền Trung Hoa.
Ngài đến Trung Hoa vào năm 520, gặp Lương Võ Đế
梁武帝 hỏi đạo. Rất tiếc Ngài không có duyên với vua
Lương nên không thuyết phục được vua vì hai vị quan
điểm bất đồng, Vũ Đế quá thiên về thinh âm sắc tướng,
xây cất chùa chiền, in kinh độ tăng, còn Tổ lại chuyên
về Tâm.
Vì thấy không hóa độ được Lương Võ Đế và khó truyền
Phật pháp đắc lực ở phương Nam nên Đức Đạt Ma Tổ
Sư vượt sông Dương Tử, đi lên phương Bắc. Dừng chân
tại Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi xoay mặt ngó vào vách,
tham thiền chín năm (cửu niên diện bích 九年面壁).
Tương truyền Ngài bỏ thế gian năm 529, để lại rất nhiều
huyền thoại, như: Đạt Ma cỡi nhánh lau vượt sông
Dương Tử, Đạt Ma quảy chiếc giày phi hành trên dãy
núi Thống Lãnh, v.v.
II. Bất đồng quan điểm giữa Đạt Ma Tổ Sư và Lương
Võ Đế Chỗ bất đồng quan điểm giữa vua Lương và Tổ được
Đức Lục Tổ Huệ Năng 六祖慧能 (638-713) giải thích
trong PhápBửu Đàn Kinh 法寶壇經, phẩm Quyết
Nghi. Lương Võ Đế hỏi suốt đời nhà vua làm những việc cất
chùa, cúng tăng, bố thí, v.v. như vậy có công đức chi
không.
Tổ sư nói: Thật không có công đức.
Theo tôn ý của Tổ, vua Lương Võ Đế thực hành hạnh bố
thí 布施, hạnh đứng đầu của sáu phép Ba La Mật
波羅蜜, là tạo nhân phước để hưởng quả phước ở thiên
nhân mà thôi, tuyệt nhiên không phải là chơn công đức
vô lậu giải thoát.
Theo Kim Cang Kinh 金剛經, bố thí trụ tướng chẳng
khác chi vào chỗ tối, không trông thấy chi cả. Trái lại bố
thí ly tướng ví như có được mắt sáng lại còn nhờ thêm
ánh mặt trời chiếu soi tỏ rạng, trông thấy rõ rệt các vật.
Vua Lương Võ Đế bố thí nhưng còn vọng tâm trụ tướng,
không khế hợp với pháp “tam luận thể không” của Phật.
Pháp tam luận thể không gồm có ba điều dưới đây :
1. Không nghĩ mình là người năng thí.
2. Không nghĩ người nhận là kẻ thọ thí.
3. Không nghĩ vật đưa ra là vật sở thí.
Vua Lương Võ Đế hành bố thí như vậy là việc tạo nhân
phước để hưởng quả phước ở thiên nhân mà thôi. Bậc bồ
tát bố thí không bao giờ trụ trước nơi sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp, tức là lìa tất cả tướng và hành đúng theo
“Tam luận thể không” nên phước báu cao cả không thể
suy lường được.
Đạo Đức Kinh 道德經 của Đức Lão Tử cũng dạy
(chương 38: Thiên hạ): “Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu
đức; hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức.” 上德不德,
是以有德; 下德不失德, 是以無德. Có nghĩa là người
đức cao không có ý cầu cái đức cho nên có đức; người
đức thấp thì chấp cái đức của mình tạo ra, nên không có
công đức. Như vậy lời nói của Đức Lão Tử không khác
“tam luật thể không” của Đức Phật.
III. Đạt Ma Huyết Mạch Luận Tổ Sư rời bỏ vua Lương ra đi sau khi đã thuyết pháp tại
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
2
triều đình mười chín ngày. Bài pháp này rất danh tiếng,
ngày nay còn lưu truyền với tên gọi là Đạt Ma Huyết
Mạch Luận 達磨血脈論. Về cơ bản, bài pháp gồm chín
mục như sau: (1) Bản chất của tâm; (2) Phương thức; (3)
Phật Tánh; (4) Pháp Thân; (5) Tĩnh tâm; (6) Thiền luận;
(7) Vô minh; (8) Giác ngộ; (9) Phật là gì?
1. Bản chất của tâm Tâm là Phật, không có Phật ở ngoài tâm. Tâm của mỗi
người đồng điệu, tương ứng với thực tại muôn đời, với
thực tại muôn nơi. Ngoài thực tại của tâm thì tất cả chỉ
là huyễn tượng, chẳng có nhơn, chẳng có duyên, chẳng
có lý do, chẳng có kết quả, chỉ có hành duy nhứt, đó là
tư tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm, chính là niết
bàn.
Tâm là Phật, Phật chính là tâm. Đi tìm một sự vật ngoài
tâm mình là muôn bắt sự trống không. Tưởng tượng
Phật lấy ở ngoài tâm, hình dung Phật ở bên ngoài chính
là mê sảng.
2. Phương thức Vậy thì phải tìm vào trong chứ không nhìn bên ngoài.
Phải tự lắng mình vào mình và tự nhìn thấy Phật Tánh ở
nơi chính mình. Tất cả chúng sanh đều là Phật như
mình, không có thiện, không có ác, mà chỉ có động tác
của tâm. Mà tâm là Phật. Không có ích gì sự cúng kiến,
sự hoằng pháp nhiệt thành, giữ giới bố thí, cầu kinh và
tất cả những thứ khác chỉ cần một điều duy nhứt: nhìn
thấy Phật ở nơi mình. Sự nhìn thấy ấy sẽ đưa đến giải
thoát và là niết bàn.
3. Phật Tánh Không có bất cứ một cuốn kinh nào, hay bất cứ một sự
tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Sự học
kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm.
Không có một quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc.
Trong sự an tĩnh vô vi hoàn toàn hãy kiếm ở nơi mình,
nơi chính mình. Đó mới đúng là Phật. Hãy nhìn Phật nơi
mình, đó mới là sự nhìn thấy chơn thật duy nhứt mà
thôi. Tất cả những hình tượng khác đều là sương mù ảo
ảnh. Chỉ có một tội duy nhứt, là tội vô minh, tội không
nhận được thấy ra được Phật Tánh ở nơi chính mình.
Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường phù
du. Ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá lại hình
bóng của mình.
4. Pháp Thân Pháp Thân nầy đã có vĩnh cửu. Trải qua những luân hồi
thăng trầm của những kiếp, Pháp Thân vẫn vô sinh,
không diệt, không thêm, không bớt, không nhơ nhớp,
không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến,
không đi, không đàn ông, không đàn bà, không già,
không trẻ, không tu, không tục, không ừ, không không,
v.v.
Pháp Thân không một, mà cũng không nhiều, không
thánh mà cũng không phàm. Pháp Thân thung dung
trong những kiếp liên tiếp, trong dòng sinh tử. Chính
Pháp Thân nầy mà ta phải nhìn lại nơi chính mình ta
phải di động và hành động. Pháp Thân chính là thần
năng nhập thạch, thần năng phi hình, nhập thủy bất nịch,
nhập hỏa bất phần [xuống nước không chìm, vào lửa
không cháy] trong ánh sáng của tâm. Ta không thể diễn
tả Pháp Thân nầy bằng lời nói. Ngoài những tên khác, ta
còn gọi Pháp Thân là thánh thể (Phật Tánh, Chơn Tâm).
5. Tĩnh tâm Tất cả những sự vật bên ngoài chỉ là hư ảo, giả tạm
chẳng có gì thật ngoài ra Pháp Thân. Vô ích nguyện cầu,
vô ích sùng bái những gì mà chính là mình, chỉ nên làm
sao cho sự yên lặng, sự tĩnh tâm mà thôi. Chính những
cái ấy giúp ta thấy Pháp Thân nơi mình, tức là Phật
chính những biểu tượng vật chất là sai lầm. chính sự sai
lầm ấy sẽ giữ ta lại, hoặc đưa ta vào vòng luân hồi tái
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
3
sanh. Hãy bỏ đi những giả tưởng về thần thánh linh
thiêng vì đó chính là ảo tưởng phù phiếm.
6. Thiền luận Không có những gì hơn những ý tưởng vô hình của tâm
thoát ra từ Phật Tánh. Chỉ có một điều ta thấy thật sự là
Pháp Thân ở nơi ta. Phật có ý nghĩa là giác ngộ hay linh
giác mà mọi người có thể đạt được. Sự giác ngộ chính là
Thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng gì
cả. Đối với ta chỉ đạt đến Thiền là khi ta thấy được Phật
Tánh, mà không kiến tánh thì chỉ là một kẻ phàm tục
tầm thường.
Ta có thể nói với những môn đồ của ta như vầy: Các
ngươi phải đạt đến Phật Tánh nơi các ngươi, tức là Pháp
Thân, là thánh thể ở nơi chính các ngươi.
Không thể nào diễn tả được bởi vì không thể nói ra
được, cho nên tất cả kinh luận đều vô ích.
Con người sẽ được giải thoát khi nào họ đã phủ nhận tất
cả những bóng ma và những sai lầm ấy, chỉ khi họ gắn
liền với Phật Tánh của họ. Giây phút giác ngộ nầy, giải
thoát nầy, mỗi người hãy tự đi đến với chính mình, giáo
lý chỉ có thể giúp đỡ khi người ta chuẩn bị. Giáo lý
không thể tạo ra sự giác ngộ. Lãnh hội được Phật Tánh
nơi chính mình, lại không thể học được Pháp Thân rất
giản dị, ta không thể tạo ra được, ta chỉ lãnh hội được.
Đối với kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh, thì không cần
đến thiên đàng hay cũng không còn sợ vào địa ngục,
không còn có mình, không còn có kẻ khác, không còn gì
cả ở bên ngoài.
Vậy thì, việc lãnh hội Pháp Thân là một việc của đức tin
tuyệt đối, không còn bị pha lẫn bóng tối của ngờ vực.
7. Vô minh Kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh thì không còn tạo
nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động nào, bởi vì kẻ
ấy đã được giác ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những kẻ nào
chưa giác ngộ vì kẻ ấy đang còn ở trong vòng ngu tối vô
minh. Chính sự ngu muội này đã tạo ra vòng đầu thai
luân hồi ở địa ngục, làm thú và làm người. Bực giác ngộ
không làm nên tội lỗi nữa và cũng không phạm tội nữa.
8. Giác ngộ Những kinh kệ, những sự tu khổ hạnh, những công trình
nghiên cứu, học hành chẳng có lợi ích gì cả, còn việc
kiến tánh ta không thể nào học được. Tại sao có người
đã chuẩn bị đàng hoàng và có thành tâm đứng đắn, thế
mà vẫn không đạt đến được? Bởi vì nghiệp của họ
chống đối lại, vì họ chưa trả hết nợ, họ chưa đủ trong
sạch để đến giác ngộ. Sự hôn mê mù quáng, sự sai lầm,
sự chai cứng, sự bất lực của họ là những hình phạt về
những tội lỗi của họ trong quá khứ.
9. Phật là gì? Phật ở trong tâm của mỗi người, giữ giới luật tu khổ
hạnh, cầu kinh, học vấn, nghĩa lý, tất cả những việc này
chẳng dùng được việc gì cả. Mục đích duy nhứt mà mỗi
người cần phải đạt đến là sự giác ngộ. Khi nào đã đến sự
giác ngộ là một vị Phật. Một vị Phật với tất cả chư Phật,
dù cho kẻ ấy không đọc được một chữ nào hết.
Là Phật, nghĩa là thấy được Phật Tánh nơi chính mình,
nơi tâm mình, bản thể vô hình và không rờ mó được
mong manh như hư không. Tâm ấy mỗi người đều mang
trong mình.
Tâm ơi hỡi tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả thế giới, mi
nhỏ đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua được. Hỡi
tâm của ta, mi là Phật, mi chính là mi, ta phải qua Trung
Hoa để truyền đạo lý.
IV. ĐT Chí Tín sưu tập Góp ý của người sưu tập Đức Đạt Ma Tổ Sư, do theo truyền thống của Tổ Sư
Thích Ca Mâu Ni, truyền dạy giáo lý Phật giáo cho chư
môn đồ các Ngài là không nên ỷ lại nơi tha lực với sự hộ
trì của các đấng thiêng liêng vô hình trong việc tìm kiếm
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
4
sự giác ngộ để cầu giải thoát cho chính mình, mà phải tự
lực tìm kiếm lấy. Đó thuộc về Nhị Kỳ Phổ Độ với Đức
Phật Thích Ca.
Ngày nay, chúng ta ở vào thời kỳ mạt kiếp, nhơn loại vì
nhiễm văn minh vật chất thậm đa nên còn đọa lạc trầm
luân rất nhiều ở trần gian. Vì từ bi thương xót chúng
sanh, Đức Chí Tôn Thượng Đế mở Tam Kỳ Phổ Độ, ban
đại ân xá cho nhơn loại. Nếu quyết tâm tu hành chánh
đạo, sẽ dễ dàng giải thoát luân hồi vì chính Đức Chí Tôn
giáng trần bằng huyền linh diệu điển, đổ thần để dìu dắt
nhơn loại tỉnh giấc mê để phản bổn huờn nguyên phục
hồi vị cũ ngôi xưa ở Thiên Đình. Đó là tu nhứt kiếp thì
ngộ nhứt thời.
Tín đồ của Tam Kỳ Phổ Độ rất tin tưởng sự trợ lực hộ trì
của các đấng thiêng liêng vô hình, vì chủ trương của
Cao Đài là Thiên Nhân Hiệp Nhứt, hai cõi hữu vô đều
trợ lực lẫn nhau, có thiêng linh diệu điển qua cơ bút, do
các đấng giáng lâm chỉ dạy môn sanh tu học và hành
đạo. Ơn Trên thường bảo rằng Đạo vô vi, sư vô vi là
vậy. Đó là đặc ân của Cao Đài Đại Đạo.
Đức Đạt Ma Tổ Sư dạy phải tự mình kiếm cho được
Pháp Thân (hay Phật Tánh, Chơn Tâm) nơi chính mình
thì mới giác ngộ, nhập niết bàn được. Đây là một việc
làm cốt yếu, dầu ở bất kỳ thời kỳ nào. Đức Chí Tôn
Thượng Đế dạy “Các con hãy tìm Thầy trong các con và
các con trong Thầy” cũng cùng một lý đạo.
Đức Quan Thế Âm có dạy (15-6 Giáp Dần, 02-8-1974):
“Người tu hành học đạo là tìm cái tâm minh linh đã ẩn
tàng hằng tính của Thượng Đế giáng trung. Người muốn
tìm lại, trước phải yên lặng để trau dồi gột rửa những
lớp tham sân si dục đang dầy đặc theo những bức vô
minh để thấy được đạo tài thành của thiên địa. Người
noi theo đạo ấy tức là hòa hợp theo thiên lý phục hồi
bổn thể chơn như vậy.”
--oOo--
ĐẠT-MA TỔ-SƯ
“ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM”
Ngọ thời, ngày 10 tháng 01 niên Mậu Thìn (1988)
NGÀI ĐẠT-MA GIẢNG ĐÓNG SÁU CỬA NGĂN BA TÌNH
P.N : Bạch Đại-huynh! Xin thỉnh Đại-huynh Đạt-Ma giáng đàn để
Đệ thâu Chơn-lý…
XÍCH-THÁI-CỔ : Đàn hãy Thanh-tịnh nghe Đệ!
P.N : Bạch Đại-huynh! Đàn thanh-tịnh.
Phục-Nguyên kỉnh chào Đại-huynh (Đ.M)
ĐẠT-MA : Nay gọi Lão về có việc chi?
P.N : Bạch Đại-huynh! Xin Đại-huynh thuyết thời pháp đề-tài
“Đạt-Ma” cho hàng thiện-duyên nơi đây nghe để lãnh hội…
Đ.M : Lão biết chi mà thuyết đây?
P.N : Bạch Đại-huynh! Gượng lời mà thuyết để cho thiện-duyên
giác-ngộ…
Đ.M :
THI
Đạt thành sở nguyện chí cao-sâu,
Mạ báo “Tâm-trung” hiệp nhứt bầu,
Tổ-khiếu Huyền-quang khai liễu Đạo,
Sư truyền Bí-chỉ thậm- thâm sâu!
Bây giờ Lão chẳng có biết cái chi mà để nói đây,
réo Lão tiếp đàn làm gì?
P.N : Kỉnh xin Đại-huynh, thuyết đề tài:
“Trừ ma chướng giải-thoát khổ-đau”.
Đ.M : Khổ đau nơi đâu mà giải-thoát?
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
5
P.N : Do tâm mê!
Đ.M : Ma chướng ở đâu mà trừ?
P.N : Cũng do tâm mê!
Đ.M : Biết thế thì còn gì để nói, phải không Đệ?
P.N : Đúng vậy Đại-huynh! Nhưng bởi còn những người đang mê,
nên kỉnh xin Đại-huynh hoan-hỷ giảng cho hàng thiện-duyên nghe
và Tiện-đệ cũng thâu-thập tài-liệu làm Giáo-lý hầu để truyền lại cho
hậu-thế sau này vậy.
Đ.M : Đã nói tu mà còn mê, vì tâm không Định, tức là nó không an
đó.
P.N : Không an là do bởi nghiệp mê còn…
Đ.M : Nhưng tâm có đâu mà Định? Vì còn mê nên phải có Định,
Phải không?
Bởi chúng-sanh mê nên mới có tâm, do có Thức mới có tâm, còn
không Thức thì đâu có tâm?
Nãy giờ Lão giảng xong rồi đó Đệ (cười…)
P.N : Bạch Đại-huynh! Tùy nhân-duyên, xin Đại-huynh giảng tiếp.
Đ.M : Thì Đệ nói tiếp đi, rồi Lão xem sẽ bổ-khuyết vào, chớ một
mình Lão độc xướng thì không có được.
P.N : Nãy giờ Tiện-đệ đã khơi ý rồi đó Đại-huynh!
Đ.M : (Cười…!) Bởi vì không có ý đã khơi thì trọn vẹn trong ý đó
rồi, đúng không?
P.N : Bạch Đại-huynh, đúng!
Đ.M : Do đâu mà có ý?
P.N : Bởi vì mình đã liễu-ngộ viên-mãn rồi không còn mê-lầm trụ-
chấp nữa, nhưng còn những người đang mê mà làm sao họ thấu-
triệt đặng?… Kỉnh xin Đại-huynh giảng cho thiện-duyên lãnh hội.
Đ.M : Phải đóng sáu cửa, ngăn ba tình thì đến ngay, đó là như thế!
P.N : Bạch Đại-huynh giải-nghĩa…
Đ.M : Sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và ý đó. Còn ba tình là:
Tham, sân, si.
Hễ đóng hết rồi, thì còn ý đâu mà nói.
P.N : Này Chư thiện-duyên có nghe chưa?
Đ.M : Đã biết nó là cửa chi rồi, thì còn chi đâu nữa mà nói?
(Cười…) Sáu cửa ấy là sáu cửa địa-ngục đó.
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy! Mà biết đóng là Thanh-tịnh tịch-
tịch luôn rồi!
Đ.M : Vì biết mở là đã đóng rồi còn chi mà phải nói? (Cười…!)
Cũng không ngăn ba tình! Nó không sanh thì lấy chi đâu mà ngăn,
phải không? Vậy thì có chi mà nói đây?
P.N : Bạch Đại-huynh! Gượng mà nói thôi.
Đ.M : Gượng cũng không được, chẳng thà không nói thì thôi (
Cười…).
P.N : Bạch Đại-huynh! Vì chúng-sanh nhiễm bịnh quá nhiều, nên
cần có thuốc để trị, thuốc thì phải có nhiều vị: vị đắng, vị ngọt, vị
cay, vị chua…
Đ.M : Mà bệnh của chúng-sanh là bệnh gì?
P.N : Bệnh mê…!
Đ.M : Đã biết nó bệnh mê, thì nó đã không mê rồi! Khi đã giác rồi
còn đâu mà trị hết bệnh?
P.N : Bởi nó biết nó mê, mà nó không giác thì làm sao? Vì nó còn
trụ chỗ có…!
Đ.M : Nó biết nó mê, mà nó còn trụ chỗ có, bây giờ Lão cùng Đệ đi
dạo nghe!
P.N : Mô Phật! Đi dạo sáu động.
Đ.M : (Cười…) Đã đóng cửa sáu động rồi, mà còn đi dạo chi nữa?
P.N : Hay là mình đi vòng quanh Hư-Vô?
Đ.M : Hư-vô có đâu mà vòng! (Cười…)
P.N : Cao siêu lắm!
Đ.M : Chi chi của thế-gian này, đều là giả kể cả lời ăn tiếng nói
cũng vậy.
P.N : Bạch Đại-huynh! Đúng vậy, còn trụ vào danh-từ, là còn mê
huyễn-hoặc hữu-tướng!
Đ.M : Vì thế! Đã biết nó như vậy rồi thì không còn chi mà để nói
nữa hết.
THI
“Ba tình, sáu cửa đóng cho xong,
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
6
“Các phép vô-vi chẳng có vòng,
“Hư-ảo sanh thành ra vạn-vật,
“Đâu còn hữu-tướng ắt Huờn-không”.
“Trừ mê tạp-nhiễm ngăn trần-cấu…
“Quét sạch phàm tâm Đạo ẩn lòng!
“Phá chấp hồi-minh xua ngũ-ấm,
“Siêu-nhiên tự-tại Bổn-nguyên trong.
P.N : Cao siêu quá!
Đ.M : Phải không Đệ?
P.N : Bạch Đại-Huynh! Pháp Đốn đó!
Đ.M : Cũng không có Đốn mà cũng không có tiệm nữa, phải không
Đệ?
P.N : Bạch, đúng vậy!
Đ.M :
“Không không chẳng nói chữ thành không,
Tỏ ngộ Vô-vi ẩn tại lòng;
“Lòng chẳng Hư-không nào có dính;
“Dính chi bụi tục phải Huờn không?
P.N :
“Đã không chẳng bụi dính vào trong,
“Thì nói Hư-không cũng chẳng vòng,
“Không sắc không hình không chướng-ngại,
“Nào đâu có pháp, nói không không?
Đ.M : Hay quá Đệ!
“Không không tiệm Đốn cũng là không,
“Vì pháp người mê phải mắc vòng…
“Đạt-Mạ tu hành không nói đặng!
“Không ngôn, không trước chẳng không không.
(Cười…) Vì thế đâu còn gì để nói?
“Không người, không Phật, cũng không Tiên,
“Không nói không chi dính não-phiền,
“Không Đạo Hư-vô nào có lý…
“Không còn vướng bụi chẳng Huờn-không!
“Hườn-không chẳng biết trước sanh ra.
“Hữu thể là Ta chớ quỉ ma,
“Không Phật, khôngTiên, không Thánh chúng
Không cầu nhiễm trước bởi sanh ra (cười…)
Thế thì còn gì để nói đâu, mà cứ réo gọi Lão giáng đàn để nói chi
đây?
P.N : Mô Phật! Mình gượng tạm lời để nói Đại-huynh! Nói đoạn
tỉnh giác mà độ bao nhiêu người còn mê đó, bạch Đại-huynh!
Đ.M : Lão gượng nói thì được rồi, phải không? Nhưng mà không
không nó không gượng đặng đây! (Cười…) Nó đã không không thì
làm gì gượng đặng nữa mà nói hả Đệ? (Cười…). Không trụ-chấp
vào chỗ nào hết phải không Đệ? Nó là như thế!
Đã nói rằng, “Đạo không lời” mà gượng nói khó nói ở chỗ đó đó
Đệ!
THI
“Mâu-ni Bửu-khuyết Đạo trường tồn,
“Vì Phật, Thánh, Tiên, phải có hồn,
“Khôn dại trong trần thì ám-muội,
“Nguyên-nhân mắc đọa bởi thần-hôn…
Đó là như thế! Lý là như vậy, đúng không?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy!
Đ.M : Không không, không cầu, không nhiễm, không trước, không
sau thì có chi đâu mà để nói? Mà cũng chẳng có Hư-vô! Ai chứng-
minh Hư-vô đây?
P.N : Mô Phật!
Đ.M : (Cười…) Hư-vô là cái chi? Đã nói hư là trống, là ảo-ảnh, là
giả; vô là không, không giả nào có thật đâu mà!
P.N : Bạch Đại-huynh đúng! Cao siêu quá!
Đ.M : Phải không? Thế thì cũng không có Hư-vô, mà cũng không
có, chẳng đúng chẳng sai nữa (cười…).
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
7
P.N : Hễ mê thì còn sai, còn đúng. Giác toàn chơn thì không còn sai
không còn đúng.
Đ.M : (Cười…) thế thì Lão còn chi để nói đây?
P.N : Thôi, Bạch Lão Huynh gượng nói đi.
Đ.M :
THI
“Tam-tâm Tứ-tướng ở trong lòng,
“Đạt-Mạ nguyện thành sở vị không,
“Chẳng dép luân hành đi mãi mãi,
“Gãy răng vẫn nói khuyết “Không-không”.
Phải không vậy Đệ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy!
Đ.M : Không có dép thì đi chân, không răng nhưng lưỡi còn, miệng
còn thì vẫn nói đặng (cười…) như thế đó Đệ!
P.N : Phải chấp-nhận mọi cảnh-huống của tình đời đó Đại-huynh!
Nhưng ta “Vô-tâm”.
Đ.M : Bây giờ huynh-đệ mình đàm Đạo nghe! Đã biết lý “Không-
Không” rồi thì mổ xẻ đi!
P.N : Bạch Đại-huynh! Nếu không trụ vào “Không” thì đâu có nói
không được?
Đ.M : Thì không nói “Không”, nhưng bởi vì yêu-cầu Lão nói, yêu
cầu Lão gượng nói thì bắt đầu Lão đã gượng nói rồi (Cười…).
P.N : Hễ Đại-huynh nói! Thì Đại-huynh lại còn tâm rồi!
Đ.M : Nhưng mà Lão gượng nói, vì do ý của Phục-Nguyên.
P.N : Thế nên, còn trụ phải không, bạch Đại-huynh.
Đ.M : Lão không nói trước, Phục-Nguyên cứ nói trước đi!
(Cười…).
P.N : Hễ Tiện-đệ nói, thì Tiện-đệ còn trụ vào chỗ có, bạch Đại-
huynh!
Đ.M : Nhưng vậy thì Lão không nói, phải không? (Cười..).
P.N : Đại-huynh không nói, nhưng mà Đại-huynh trả lời, thì cũng
còn trụ, trụ chỗ trả lời đó.
Đ.M : Vì có hỏi mới có nói; vì có hỏi mới có trả lời. Đó là nguồn-
gốc sanh ra. Nếu Phục-Nguyên không hỏi thì Lão không nói; không
yêu-cầu thì Lão không gượng, phải không?
Đó là vì có Thức nên mới có hành mà thức là do Phục-Nguyên sanh
ra, hành là do Lão đây.
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy!
Đ.M : Mà nguyên do nào có hành đây? Là do Sáu động chưa đóng
hết, nên còn trụ vào lời nói…!
P.N : Chưa đóng hết sáu động đây là vì do nghiệp chúng-sanh.
Đ.M : Cũng chẳng phải do nghiệp chúng-sanh, phải không? Mà
chúng-sanh đâu có, sao có nghiệp? Bởi vì Lão về đây mà còn biết
cái tên Đạt-Mạ là còn trụ vào chỗ đó. Thế nên “Sáu cửa” chưa đóng
vì sáu cửa chưa đóng nên còn thâu-nhiếp là của Phục-Nguyên.
P.N : Vì thu-nhiếp nên mới trả lời là hành để nói (Cười…).
Đ.M : Thế thì còn nói “Hư-Vô” cũng chưa đặng (cười…) mà cái
Hư-Vô là cái danh -từ mà thôi.
P.N : Bạch Đại-huynh! Vì có chúng-sanh nên mới có Hư-Vô.
Đ.M : Đúng vậy! Chẳng có chúng-sanh thì chẳng có Hư-Vô – mà
không Hư-Vô cũng chẳng có chi hết, Hư là chi, Vô là chi, có thấy
có biết không?
P.N : Bạch Đại-huynh! Nếu còn thấy biết là còn chúng-sanh.
Đ.M : Hay quá! Mà không còn thấy, không còn biết, không còn nói
thì đâu có nói Hư-Vô.
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy!
Đ.M : Thế thì đã đoạn diệt chữ chúng-sanh thì đâu còn nói Hư-Vô,
đâu còn Phật để mà sanh ra thì còn chi để nói, cũng không có
gượng nữa (cười…).
P.N : Hay quá!
Đ.M : Đúng không? Đó là nãy giờ đó, đó là đó đó…! Nãy giờ cũng
là do tâm động… Hễ còn nói là còn tâm, còn hỏi là còn trụ. Vì chỗ
còn hỏi là còn Suy-nghĩ, còn Thức, Thức có mới náo-động sanh ra
giả. Lão còn nghe đây nên Lão mới nhiếp thu vào là bởi vì Lão còn
Thức, rồi nói ra là bởi vì Lão còn hành, phải không?
P.N : Bạch Đại-huynh! Đó là “Chơn-thức” hành của Đại-huynh
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
8
không còn chỗ trụ nhiễm nữa.
Đ.M : Chỉ gượng nói thôi chớ đâu còn trụ nhiễm (cười…) – Vì còn
chỗ gượng là không còn rốt-ráo, không rốt-ráo được. Thế cho nên
là còn trong chúng-sanh. Mượn lời giả của chúng-sanh để nói như
vậy cũng chưa đặng.
P.N : Nhưng đâu còn mê như chúng-sanh, bạch Đại-huynh!
Đ.M : Không phải còn mê như chúng-sanh nhưng cũng không
đặng.
Vì còn trụ. Đoạn trụ, không diệt, không chấp thì có chi đâu mà
nói?!
Đoạn trụ thì không nói nghiệp, và có chi đâu mà phải nói? Còn nói
thì còn theo nghiệp mê của chúng-sinh mà thôi (cười…) Phục-
Nguyên còn hỏi chi?
P.N : Bạch Đại-huynh! Bởi nặng nghiệp nên mới trụ; còn trụ thì nó
lại sanh ra thiên hình vạn-trạng, càng sanh càng bị nghiệp hành!
Mãi trụ-chấp vào kinh điển sanh ra mê-hoặc… bỏ gốc Chơn-tâm,
Phật-tánh, bị lý-chướng tô dầy thêm màn vô-minh. Trái lại Đạo thì
không thấy, không nghe và không nói, chỉ quay vào nội-tâm mà
“Chiếu-Kiến”. Ai ngộ được Đạo mới hành theo Chơn-lý, Chơn-lý
là tự ngộ chớ không phải Chơn-lýtrong kinh-điển nên “Chánh-Pháp
Nhãn-Tạng” vô thượng thậm-thâm không bao giờ hoại, phải không
Đại-huynh?
Đ.M : Đúng vậy! Nãy giờ Lão đã dẫn đi qua sáu cửa (cười…) ai đã
thấy sáu cửa chưa? Sáu cửa là đó đó… Bởi vì ba tình chưa ngăn
còn sanh ra chưa đóng đặng – mà hễ thấy nó rồi thì hãy đóng kín lại
đi!
P.N : Nếu không còn trụ-chấp, thì còn gì nữa mà đóng; phải không
bạch Đại-huynh!
Đ.M : Không trụ, không chấp thì có đâu mà đóng? Lấy đâu biết
không trụ?
P.N : Vì không mê…!
Đ.M : Vì sở-cầu đâu mà biết không trụ? Bởi do nơi chấp!
Hễ không còn chấp thì đâu có trụ, không trụ thì đâu có mê…!
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy! Không mê thì đâu có trụ…
Đ.M : Thế thì sao? Vì thế không nói không (cười…) cũng còn động
mà thôi! (Cười…) Nói chớ nãy giờ Lão cười là có gì vui? Đó là
không còn có chi nhiễm trần. Đoạn trừ phiền-não thì không có chi
sanh ra, bởi vì tâm mê. Chi chi trong chúng-sanh này do phiền-não
mà sanh ra. Thế cho nên cười là đoạn trừ phiền não, vui vì không
còn trụ, đoạn gốc thì ngọn không sanh! Phải không? Để cái ngọn thì
phải truy cái gốc.
P.N : Bạch Đại-huynh đúng!
Đ.M : Thế thì còn động làm chi?
P.N : Có trụ chỗ nào đâu mà động!
Đ.M : Nhưng mà Lão biết có động; vì muốn hỏi mà chưa nói ra
(cười…). Cái ngọn tuy chưa có mà gốc đã sanh rồi! Cái gốc là do
đâu mà có gốc đúng không?
P.N : Đúng!
Đ.M : Nhưng mà Lão thấy. Này Phục-Nguyên! Do đâu biết tâm
động?
P.N : Bạch Đại-huynh do tâm mê!
Đ.M : (Cười…) Là do sáu cửa chưa đóng lại, mà thôi! (Cười…)
Vì còn nghe, còn thấy, còn niệm còn nói, còn thân này sanh ra ý.
P.N : Đúng vậy, bạch Đại-huynh!
Đ.M :
THI
“Phục-Nguyên thỉnh Lão giảng Tâm-kinh,
“Tuy động không ngôn vẫn có hình (cười…)
“Lão trả lời đây bao vạn quyển…,
“Tri hành Mật-giáo cửu Chơn-kinh.
BÀI
Ngày xưa Lão đã tu hành,
Thoát ngôi Thái-Tử để dành Đạo-tâm,
Lão thấy đời thăng-trầm lộn-lạo,
Thân giả này tác-tạo nghiệt-oan,
Dù cho ở chốn cung vàng,
Nào đâu đặng sống cửu-trường Đệ ơi!
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
9
“Nghĩ như thế bỏ ngôi tu-học,
“Quyết độ đời chân ngọc cũng đi.
“Tri ra máy tạo huyền-vi,
“Học-hành Chơn-lý thực thi trong lòng.
“Qua Đông độ Lão không chán mệt,
“Ngộ Đạo rồi dâng hết cho đời.
“Yên-chi tâm dạ gớm-ghê,
“Giết Thầy độc dược, não nề xiết bao!
“Lão chán-nản đi vào Hư-tịch,
“Nhưng thương đời vì ít người tu,
“Thế nên Lão mãi chu-du,
“Thần-Quang Lão gặp đoạn trừ tánh tâm.
“Lấy Thiên kinh giảng ngâm cho Lão,
“Đánh gãy răng kêu Lão phải quì,
“Độ đời bao nỗi ai-bi!
“Thầy đi mà lạy (đệ-tử) còn gì bổn căn?
Phải không Đệ? Là vì trong thời Lão qua Đông-Độ Lão độ đời,
muốn cho Chơn-truyền không thất-thoát, nên Lão phải quì lạy đệ-
tử, nhưng Đệ biết tại sao Lão chịu như thế không? Bởi vì Lão đi từ
Thiên-Trước qua Đông-Độ - Thiên-Trước lúc đó không còn người
tu.
Lão muốn truyền Đạo qua Đông-Độ là vì Lão muốn khai sáng
nguồn Phật-pháp trong thời kỳ ấy. Lão phải chịu đầu phục Thần-
Quang để truyền Chánh-pháp đó.
Thế thì, nay Đệ hướng dẫn nhiều rồi thì phải chịu đau-khổ nhục-
nhã như thế mà thôi, phải không Đệ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy!
Đ.M :
BÀI
“Thương đời giả-dối lắm điều,
“Lão nay chán-nản bấy nhiêu lòng này!
“Ôi! Oan-trái mê-say tác-tạo…
“Vì lợi danh tráo đấu tự kiêu…
“Lão đây nói pháp bao nhiêu.
“Người nghe càng thấy rất nhiều chướng tai!
“Này Hiền-đệ! Ngày nay cũng thế,
“Gương Lão đây hãy để vào lòng,
“Dép đi một chiếc Tây-Đông,
“Cái răng cũng mất hàm không có đều.
Phải không Đệ? “Tới cái răng cũng không đầy-đủ thì còn chi?
Nhưng thương cho sanh-chúng vì bị luân-hồi trong vòng nghiệp
quả! Lão muốn cho “Chơn-truyền đừng thất thoát” để mà độ đời
chớ không phải vì danh, không phải trụ vào chúng-sanh này đâu.
Vì còn trụ là còn thương còn hành, còn thức, Lão không còn trụ,
không còn thương, không còn hành, không còn thức”, phải không?
P.N : Bạch Đại-huynh! Tiện-đệ cũng vậy!
Đ.M :
BÀI
“Chúng-sanh tạo nghiệp mà ra.
“Mắt, tai, mũi, miệng, thân hòa ý xao…!”
“Mắt nhìn thấy đi vào Tâm-thức”,
“Tai còn nghe buồn-bực hằng khơi”,
“Miệng thì lắm tiếng nhiều lời…”,
“Thân thường diêu-động ở nơi biển trần”.
“Do Ý sanh trong vòng lục-đạo”,
“Thế cho nên tác-tạo oan-khiên…”,
“Biết bao nhiêu cảnh não-phiền…”,
“Sống bằng cái giả chẳng yên tâm lòng!”.
“Thế cho nên Huờn-không phải biết…”,
“Biết từ đâu, mà nghiệp do đâu?”
“Đạo nào có nói ra câu?”
“Gượng lời lấy-ý mà trau trọn lành!”
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
10
Phải không Đệ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy! Hay quá!
Đ.M : Đó là như thế! Thế cho nên Lão phải chịu mất dép, gãy răng,
đầu sói luôn không có tóc (Cười…).
P.N : Bạch Đại-huynh! Tiện-đệ đây cũng cam lãnh biết bao phần
thưởng bi-thương khốn cảnh, một chín một mười như Đại-huynh
nào có ít đâu!
Đ.M :
BÀI
“Biển trần nhiều nỗi say-mê…!”
Lão qua Đông-Độ quay về Tây-Thiên.
“Tìm khắp chốn người hiền chọn-lọc…!”
“Gieo Chơn-truyền để học Bổn nguyên!”.
“Mà đâu có thấy thiện-duyên?”
“Lợi danh quyền tước tranh liền Lão đây!”
“Hễ còn nói, còn gầy ma Thức…”,
“Bởi còn nghe, còn bực trong lòng…!”
“Làm sao mà đặng Huờn-không?”
“Người đâu có hiểu mắc vòng oan-khiên!”
Vì còn bực thế nên mới đánh Lão, phải không Đệ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy!
Đ.M : Đó là một cửa động chưa đóng, ba tình chưa ngăn! Vì còn
danh thì còn tranh với Lão, thế cho nên mới giết Lão phải không?
Đó là vì còn tâm, tánh, ý nên mới sanh ra cái hành. Nhưng mà Lão
đâu có chết thật, phải không Đệ?
P.N : Đó là do nghiệp mê sanh ra…
Đ.M : Nghiệp mê là một lẽ, bởi vì mình cửa động đã mở, mình
đóng thì không bao giờ đặng!
P.N : Đúng!
Đ.M : Cửa động nó đang mở mà mình đóng thì đâu có được, phải
không Đệ?
Đệ biết cái gì quan-trọng nhứt không?
P.N : Cái gì, bạch Đại-huynh?
Đ.M :
BÀI
“Lão đây đã chán tình đời,
“Nói nhiều Lão cũng không lời bày phô.
“Lão quay mặt nam-mô cửu Điện…!”
“Ngó vách lòng hiển-hiện trong tâm…!”
“Diệt đi bao cảnh thăng-trầm…!”
“Khai nguồn Chơn-lý Siêu-thâm giải vòng…”
“Vách tâm ngăn chữ không đâu thấy?”
“Không sanh tình, phục lại Chơn-như!”,
“Hiệp cùng với đấng Đại-Từ”,
“Không sanh không nhiễm, không từ, không câu”.
Đúng không Đệ?
“Vì có sanh nhiễm cầu sau trước”,
“Không tranh-giành nào được tâm yên?”
“Có dữ mới có người hiền”,
“Có ma có Phật tách liền hai bên”.
“Đã tỏ ngộ thì quên tất-cả”,
“Huờn không không đoạn giả lôi trì…!”
“Đạo thời đâu có huyền-vi…!”
“Không người không Phật sao tri bây giờ?”
Đó là như thế! (Cười…) Phải không? (Cười…) “Lão đã chán,
hai dép thì còn một dép, đến Lão không còn dép!”
P.N : Tiện-đệ cũng chán tình đời lắm lắm!
Đ.M : Thôi đừng chán! (Cười…) Còn sáu cửa hãy đóng đi!
P.N : Nhưng vì mình thương sanh-chúng bởi mình đã thấy vách tâm
mình, mình thương bao nhiêu người chưa thấy vách!
Đ.M : Mình thương nó bao nhiêu thì nó tặng mình lại quả báo bấy
nhiêu! (Cười…) Đó là cái tên Đạt-Mạ đó! Thế cho nên Lão mới nói
ý nghĩa của Đạt-Mạ, chứ Lão đâu phải tên Đạt-Mạ!
Lão mất hai răng, mất một dép là Đạt-Mạ đó! (cười…) Bởi vì còn
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
11
tâm quá-khứ, tâm hiện tại mới sanh ra diêu-động và cũng vì tâm
hiện tại cứ diêu động nên sanh tâm tương-lai đó.
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy! “Đó là còn tam Tâm, nên mới mê
loạn và hằng sanh….”
Đ.M : “Vì thế luân-chuyển mãi, bởi còn hữu-tâm như hữu-tướng.
Do còn tứ-tướng vì có lý vô-tướng thì phải có chúng-sanh tướng mà
thôi”.
P.N : Đúng vậy!
Đ.M : “Cái bản-ngã này quá lớn, nên mới muốn Lão chết. (Cười…)
Vì cái ngã này quá lớn, nó hằng sống trong chúng-sanh tướng, nên
nó giết Lão chết, chớ như không có tướng, không có tâm, thì Lão
đâu có nói chi”, phải không?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng vậy!
Đ.M : “Lão không cần qua Đông-Độ làm gì! (Cười…) Phải không
Đệ? Thế cho nên cứ chấp nhận đi. Bởi vì đời còn Tam-tâm Tứ-
tướng nên mới còn Đạt-Mạ này mà thôi! (Cười…). Hết Tam-tâm
Tứ-tướng thì không còn Đạt-Mạ! (Cười…) Đó là như thế phải
không Phục-Nguyên? Thế thì sao gọi là chán đây? (Cười…) Sao là
chán?”
P.N : “Bởi vì mình đem ra rải hoa Chơn-lý, họ tặng lại báo vật thế-
gian – chán là chán báo vật thế-gian, đó Đại-huynh!”
Đ.M : Đừng nhận (cười…) thế thì không có chán!
P.N : Mặc dù không nhận, nhưng cũng bị diệt như Đại-huynh đó!
Đ.M : “Vậy thì còn sanh ra tình! Không còn nhận nhưng phải bị
diệt!”
P.N : “Chúng-sanh trong biển mê gây biết bao nhiêu tội-lỗi quá
nhiều…!”
Đ.M : “Ví như cát ở biển, tát hoài không hết”, phải không?
P.N : Đúng vậy bạch Đại-huynh!
Đ.M : Thế cho nên Lão đây mới qua Đông-Độ để độ đời.
BÀI
Phục-Nguyên hãy nhớ lời này :
“Y hành Thiên-lý, tâm đài tri ra…!”
“Đóng Sáu cửa An-hòa Thần-thất…!”
“Dẹp ba tình thì mất tam-tâm!”
“Khuyên đời bao nỗi lỗi-lầm…”
“Lão đây chẳng muốn nói tầm người nghe!”
“Vì đời ác, dặt-dè quả-báo…”
“Mình tu-hành lấy Đạo làm đầu”.
“Tri nguồn máy nhiệm cao-sâu…!”
“Mâu-Ni Bửu-khuyết ẩn câu Tham-thiền”.
“Bá Nhựt trúc, Bổn-nguyên Thập-ngoạt…!”
“Nhũ Bộ hòa Phục-tác Anh-nhi”;
“Cửu niên Diện-bích ngồi ly”ø :
“Bên trong Tịch-diệt hồi qui Hư-huyền”.
“Đóng vách tâm Tham-thiền Nhập-định”,
“Mặc cho đời gây bệnh trầm-kha…”
“Đường đi phải rán vượt qua…”
“Biết bao nguy-khốn ta-bà độ nhân!!!”
Phải không Đệ? Nó là như thế!
Nó là như thế! Là như thế! (Cười…)
BÀI
“Lão đây thương xót đời tàn “
Độ người cam chịu gian-nan khổ-sầu!”
“Cái thân trần do đâu mà có,
“Bởi oan-khiên Lão rõ điều này,
“Thương đời trong cảnh mê-say…”
“Gượng lời để nói ra bài phú thi…!”
“Vì có đời nên trì Phật-Thánh…!”
“Không có đời, nào cảnh thế-gian?”
“Truyền chi mật-khuyết Kim-Cang?”
“Không đời không Phật nào mang ưu-phiền!”
Đúng không Đệ?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng!
Đ.M : Lý nó là như thế! Là như thế! Thế thì phải thế! “Giờ cứ đóng
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
12
vách tâm, Cửu-niên Diện-bích”! “Mà sao gọi là vách tâm?” Tâm
làm gì có vách? Mà tâm ở đâu? Đó mới là yếu lý (Cười…)
P.N : “Không trụ, không sanh thì đâu có tâm…!”
Đ.M : Do đâu mà có tâm?
P.N : Do mê…!
Đ.M :” Sao gọi là tâm quá khứ, tâm hiện tại, và tâm vị-lai?”
P.N : Bạch Đại-huynh! “Bởi gốc mê trụ-chấp mới sanh tam-Tâm:
Tâm quá khứ là Tiềm-thức, Tâm hiện tại là Thần-thức và Tâm vị-
lai là Vọng-thức”.
Đ.M : Mà tâm do đâu sanh ra?
P.N : Bởi mê sanh ra!
Đ.M : Mà không mê thì làm sao sanh ra?
P.N : “Vì còn cái Thức bao đời nên mới có tâm…”
Đ.M : “Tiềm thức đó! Vì có tâm hiện-tại là đã có tâm quá-khứ rồi.
Bởi do sáu cửa chưa đóng!
Mà có tâm tương-lai là vì sáu cửa còn hé hé!” (Cười…)
“Ba tình chưa ngăn, vì còn phóng diễn hoài, chớ nếu khép chặt thì
không còn phóng-diễn, chẳng biết trước không nói sau. Mà đóng
sáu cửa tức là sáu phép “Ba-La-Mật” đó, phải không?
P.N : Bạch Đại-huynh đúng! - Mà ngăn ba tình cũng như “Qui-y
Tam-Bảo” vậy.
Đ.M : Sao gọi là: “Bố-thí, Trì giới, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thiền-
định và Trí huệ?”
P.N : Đó là sáu động vậy!
Đ.M : Sao gọi là như thế! Bây giờ hãy đi đi, từ từ, sao gọi là bố thí,
trì-giới?
Sao gọi là bố thí?
P.N : “Bố thí là đóng cửa Nhãn trước, Trì giới là đóng cửa Nhĩ!”
Đ.M : “Bởi vì không có sanh, thành ra đâu có cho đâu mà gọi là
không, mới trì hạnh là bố-thí không tham, sân, si tức là Trì-giới
rồi”.
“Không tham, không sân, không si thì đâu có giới đâu mà trì”
(cười…)?
Nhẫn-nhục – Sao gọi là nhẫn-nhục?
P.N : “Không trụ chấp thì cần gì phải nhẫn-nhục?”
Đ.M : Sao gọi là Tinh Tấn?
P.N : “Không mê, không sanh, không diệt thì đâu nói là tinh-tấn!”
Đ.M : “Hỷ xả thân này là Thiền-định rồi!”
P.N : “Không mê-lầm, tâm không bị vạn-duyên ràng-buộc, thì trí-
huệ rồi!”
Đ.M : “Vì có trí-huệ nên không để cho nó ràng-buộc, không bị ràng
buộc do các duyên cảnh là trí-huệ rồi!”
P.N : Bạch Đại-huynh đúng! “Như thế còn gọi chi là đóng sáu cửa
nữa?
Đ.M : “Không có sao đóng?”
P.N : “Lúc đó không đóng, nó cũng tự khép nữa!” (Cùng cười…)
Đ.M : “Thế thì còn gì gọi là sáu cửa nữa! Đây là động Thiếu-thất,
đó là như thế!
Gượng nói như thế là đủ rồi. Đừng nói nhiều hễ gượng thì không
nhiều”. (Cười…)
Thôi Lão Thăng.
HẾT
ĐẠT-MA tiếp:
BÁT-NHÃ THỊ-CỐ KHÔNG-TRUNG…
Làm sao Long phục Hổ tòng,
Thế nào bí yếu Chơn-Không huyền-huyền.
Bây giờ Lão giảng đến phần: “Thị-Cố Không- Trung, Vô-Thọ,
Tưởng, Diệt Hành, Thức Diệt Phục… Vô Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt,
Thân, Ý” rồi mới nói “Cứu-Cánh Niết-Bàn, Tam Thế Chư Phật”.
Đã dùng lý thì mình phải lấy lý mà giải, người mê cầu lý người giác
lấy lý mà giải đó!
Tại sao gọi là “Cứu-Cánh Niết-Bàn, Tam Thế Chư Phật” hả đệ?
Tiếp tục chương trình bởi Thần-Quang chấp lý Lão đây mới lấy lý
mà giải, chẳng còn một chỗ trụ.
P.N : Đốn trừ lý chướng…!
Đ.M : Chỗ đó mới là quan-trọng!
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
13
“Cứu-Cánh Niết-Bàn”, biết đọc mà có hiểu nghĩa nó ra sao không?
Sao gọi “Tam Thế Chư Phật”, giải ngay hả Đệ? Lúc đó thì y hết lý
Lão đây sẽ giảng tiếp Đệ có đồng ý không?
P.N : Bạch, đồng ý, việc đó là việc cao cả, mà!
Đ.M : Bởi vì một khi con người do thức-thần loạn-động; mà loạn-
động thì đâu biết chánh tà, phải trái, sau lúc đã giác, giác có nghĩa
là chợt tỉnh; chợt tỉnh biết cái mê thì mới gọi là giác phải không?
Khi đã biết cái mê rồi tầm giác thì tầm ở đâu? Sao mà tầm có đúng
không? Đây Lão sẽ giảng tiếp.
Một khi đã giác trọn lòng,
Nghiệp mê tẩy sạch nhiễm trần cũng không.
Vì mê đời mắc vòng quả báo,
Bởi đời mê lộn đáo tử sanh,
Trả vay cấu xé tranh-giành,
Làm điều vô Đạo quẩn quanh luân-hồi!
Khi đã giác ở nơi biển tục,
Cửu minh-châu khai khiếu thương yêu!
Tu trì diệt tánh tâm diêu…
Nào đâu loạn-động sanh nhiều khí thiên?
Mà giác tìm chỗ nào gọi là giác? Mê thì theo đời; mà giác thì tầm
Đạo, đó là bí quyết vậy chớ Đạo ở đâu mà tầm?
P.N : Hễ hàng Chánh-Giác, thì Lập-Chí Tu-Luyện để quay về Bổn-
Nguyên của mình.
Đ.M : Đây, mình đi tầm Đạo mà tầm ở chỗ nào? Ở đâu có Đạo?
Rồi thế nào mới gọi là “Cứu-Cánh Niết-Bàn”? Cười… Bây giờ hãy
quay ngay vào động thiếu thất.
Vào động thất mình tri lý lẽ,
Bởi con người ai đẻ sanh ra?
Ấy do tinh huyết mẹ cha,
Thế nên lộn-lạo làm ma ở trần.
Nuôi dưỡng mãi giả thân ô-trược,
Làm làm điều họa phước không hay,
Trưởng tăng bao cảnh nghiệt-cay,
Vui cười buồn khóc hoài hoài mà sanh!
Ra chợ đời tranh-giành vật-chất,
Vào Đạo rồi tánh Phật qui-y,
“Niết-Bàn Cứu-Cánh” mau đi
Niết-Bàn đâu thấy mà tri bây giờ?
Đó Niết-Bàn nó ở đâu?
P.N : Bạch, ở chỗ “Thanh-Tịnh Chơn-Không”!
Đ.M : Chơn không ở đâu?
P.N : Bạch, ở chỗ vô đối, không nói, không nghe, không sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp, không nhân, không ngã, không trụ, không
chấp, và không chúng-sanh, không Phật, cũng không có chứng đắc
chi chi cả.
Đ.M : Đây, Lão sẽ nói đến Niết-Bàn.
Phật thì gọi là Niết-Bàn, còn Tiên gọi là Hư-Vô. Nhưng mà sao biết
là Hư-Vô, sao gọi là Niết-Bàn? Bởi vì một khi tâm mê thì dính bụi
trần, còn khi tâm giác rồi, trở về Bổn-Nguyên thì gọi là Niết-Bàn và
cũng chính là “Nhứt-Khí Hư-Vô” đó. Chớ Niết-Bàn ở đâu mà tầm?
Hư-Vô ở đâu mà kiếm? Đã bỏ giả thì nó huờn lại chơn; rồi cũng
không còn giả-chơn nữa. Tại sao vậy? Vì không có giả thì làm gì có
chơn? Hoặc tại sao có giả có chơn? Bởi vì có giả nên không chơn
mà một khi có chơn thì không có giả, song sau rốt phủi hết, Đệ thấy
chưa?
Sao gọi là “Tam-Thế Chư Phật” hả Đệ?
P.N : Bạch, là ba đời Phật!
Đ.M : Bây giờ Lão giảng qua Tam-Tâm, Tứ-Tướng, phải không?
Sao gọi là Tam-Tâm mà tới Tứ-Tướng lận hả Đệ? Đệ cũng thừa
biết tam Tâm là: Tâm Quá Khứ, Tâm Hiện-Tại, Tâm Vị-Lai. Còn
Tứ-Tướng là: Nhân-Tướng, Ngã-Tướng, Chúng-Sanh-Tướng, Thọ
Giả-Tướng.
P.N : Bạch, nhưng cũng là Tướng, còn Ba Tâm cũng là Tâm, bây
giờ phủi sạch ba tâm rồi gọi là “Vô-Tâm” thì không còn các tướng
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
14
vậy, phải không Đại-huynh?
Đ.M : Nhưng phải gượng cầu lý để giảng cho biết vì có chỗ Tam-
Tâm, mới có chỗ Tam-Thế Chư Phật, không có Tam-Tâm thì không
có Tam Thế Chư Phật! Đó là Phật quá khứ, Phật hiện tại, và Phật vị
lai. Mà đã nói là Phật thì làm sao có Phật quá khứ, Phật hiện tại và
Phật vị-lai? Đệ thấy chưa mắc lắm? Nhưng mà Lão sẽ gượng giải:
vì có Tâm mê nên mới có Phật giác, vì có tam Tâm nên mới có tam
thế chư Phật. Tam Tâm: Tâm quá khứ là việc đã qua, mới gọi là
quá-khứ, việc hiện tại thì gọi là hiện tại, việc sau đó mới gọi là vị
lai. Một khi tâm mình nó diêu-động thường xuyên khuấy-động lục-
tặc trong này. Thế cho nên lục-thức nó trở lại xáo-trộn là “Sáu
Động” đó Đệ! Sáu động mình không khóa, thành ra mở trống ai vào
cũng đặng. Thế cho nên, vào nó vẫn vào là nó gợi cảnh sanh tình,
nó nhớ lại khi xưa mới gọi là quá khứ, nó thấy cảnh này đang đẹp
mới gọi là cảnh hiện tại, rồi dẫn mình đến cảnh ảo-huyền mơ-mộng
là vị-lai, đúng không Đệ?
P.N : Bạch, đúng vậy!
Đ.M : Sao gọi là Tứ-Tướng? Nhơn tướng là chi? Ngã tướng là gì?
Đó là phân biệt người với ta mới gọi là nhơn tướng, thấy người này
đẹp, người kia xấu, thấy người này cao người kia thấp đó là nhơn
tướng. Rồi tới ngã tướng là cái gì mình cũng cho mình là hay hơn
người ta, cái gì mình cũng tốt hơn người ta, cái gì mình cũng cho
mình trong sạch hơn người ta bởi vì còn gì bản-ngã nên gọi là cái
ngã tướng đó.
P.N : Bạch, “thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn” là chỗ đó, nên
mới bị ấm ma nó gạt mà không hay! Ngược lại, Phật-Tánh mà
không có ngã, vì chẳng mê nào có ngã?
Đ.M : Trên, trên trời dưới đất duy có mình ta.
P.N : Bạch, bởi thế ai cũng bảo thủ cái ngã của mình quá to tướng.
Đ.M : Phải không Đệ? Nhưng mà “Đốn” đến không còn cái ngã
nữa; “Đốn” đến không còn tướng mới gọi là Đạo.
P.N : Bạch, không có ngã, thì không có tướng đâu mà đốn?
Đ.M : Rồi Thọ-Giả-Tướng là như thế nào thấy không? Đi tiếp tục
hành trình, huynh-đệ mình cứ bàn giải Thọ giả tướng.
P.N : Bạch, bởi Vô-minh, mê… mới thọ Giả-tướng!
Đ.M : Đúng! Vì chấp nhận cái giả, sống với cái giả mà lầm tưởng
cái thật.
Nên mới có Thọ-giả-tướng, vì lúc nào cũng tưởng nó là thật, nó dài
lâu phải không? Rồi đến Chúng-sanh- tướng là chi? Vì lộn-lạo
quanh đường sanh tử, tử sanh hai ngã mà không biết lộn lạo hai
đường. Đã sanh thì phải có ngày tử, nhưng vì chúng-sanh quá mê
cho nên tưởng xác thân này là thật, là dài lâu cho nên phải chịu lộn-
nhào trong nghiệp lực quả-báo luân-hồi triền-miên để mà chụp-giựt
tranh giành vật-chất, cấu-xé lẫn nhau thị phi phỉ-báng, đua đòi bon
chen ở nơi chợ đời, thế cho nên mới có chúng sanh tướng, phải
không đệ?
Bây giờ phải bỏ hết, không còn Tam-tâm Tứ-tướng mà phải trở về
Tam-Thế Chư-Phật.
P.N : Bạch, chỗ này mới là bí yếu!
Đ.M : Đúng không? Mà đã nó là Tam-Thế Chư Phật cũng không
luôn. Vì Lão đã nói gượng cầu để giải, phải không Đệ? Bởi vì
chúng sanh quá chấp-nê vào cái giả, nên mới giảng lý kinh mới có
hình tướng. Lý kinh để mà chi? Có cứu-cánh đặng Niết-Bàn không?
Làm sao cứu-cánh đặng! Rồi mình cứ chấp lý thì sẽ bị lý dẫn lý
hành.
P.N : Bạch, bị lý-chướng làm vô-minh, thành ra không thấy được
tâm chúng-sanh, bởi ý khởi vọng niệm miết, cũng do không thấy
cái tâm chúng-sanh, vì lẽ đó dẫn đến chỗ ngã-mạn, rồi trụ-chấp đi
đến chỗ lạc Đạo, mờ ám che lấp “Bổn Chơn-Như”!
Đ.M : Vậy bây giờ phải phủi sạch hết, phủi từ đầu. Phải tướng do
tâm sanh không?
P.N : Bạch, phải!
Đ.M : Tâm do ý khởi, phải không?
P.N : Bạch, phải!
Đ.M : Bây giờ phủi phải đi từ đâu? Đi từ đầu, rồi chỗ đó mới có
“Tứ-Diệu-Đế” (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, rồi mới “Đạo đế”) phải
không?
P.N :Bạch, đúng vậy!
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
15
Đ.M : Tại sao gọi là Khổ-Đế? Bấy giờ chấp lý, thì Lão mới lấy lý
mà giảng gượng cầu chớ đối với Lão thì không có gì để nói, không
còn gì để giảng, và cũng không còn gì để hành.
Tại sao gọi là Khổ-Đế? Vì chúng-sanh còn trong vòng Lục-Đạo
luân-hồi do, nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, do Tam-Tâm (Tâm quá khứ,
Tâm hiện-tại, Tâm vị lai); do Tứ tướng. Thế cho nên mới có chỗ
khổ, rồi khi phải chịu đảo lộn kiếp sanh vừa ra đời thì nó đã khóc là
khổ oa khổ oa, phải không Đệ? Đó vui quá cũng khổ. Tại sao vui
quá cũng khổ hả đệ? Chỗ đó hãy nói: vui quá tản thần, buồn thì khí
tản cũng khổ, đói cũng khổ, no cũng khổ, vì đói quá thì ruột xót
cào, no thì tức bụng! Mà quần là áo lụa nhiều quá cũng khổ, mà xa
cha mẹ họ hàng anh em cũng khổ, phải không? Gần kẻ ác cũng khổ,
mà ở bên người thiện cũng khổ. Ôi! Còn không biết bao nhiêu là
khổ-khổ… nên mới gọi là Khổ-Đế.
Tại sao gọi là Tập-Đế?
P.N :Vì tạo- tác quả-báo Huân-tập vô-lượng kiếp đến nay.
Đ.M : Phải không Đệ? Bởi bao nhiêu nghiệp đã gây chồng-chất từ
vô-lượng kiếp nên mới có cái xác thân này đây, rồi Tam-Hồn Thất-
Phách mới nhập vào, đó gọi là Tập- Đế. Bây giờ đã biết nó khổ,
biết nó Huân-tập rồi thì phải làm sao? Phải diệt nó đi, phải thấy nó
mà diệt; diệt nó bằng cách nào nó ở đâu mà diệt?
P.N : Bạch, hễ ý khởi đâu thì diệt đó cũng gọi là Diệt-Đế.
Đ.M : Đó là bí yếu mình đã biết nó khổ rồi mà đã biết xác trần cũng
là giả, phải không? Khổ trong cái cảnh sanh-ly tử biệt và cũng
không còn vui buồn, khen chê, thương ghét muốn nữa. Đã diệt
xong rồi sẽ trở về “Chơn-Đạo” ngay là Đạo-Đế vậy.
Thấy chưa đệ? “Tứ-Diệu-Đế”của Phật đã nói như thế thì trong cái
lý trước tiên đã nói, bởi cái cảnh trần-gian này; cái thân trần này
sanh ra do đất, nước, gió, lửa sanh ra nó, nhưng mà người đời nghe
thấy kỳ kỳ. Tại sao đất, nước, gió lửa mà sanh ra cái xác thân này?
P.N : Bạch, vì nước sanh Khí thì Lão, Thần thì bệnh, rồi tử thì về
Thổ.
Đ.M : Đúng! Sanh ra thì khóc, khi chết thì phải chôn vào lòng đất
gọi là Thổ-Tử, sanh ra bởi do đâu? Do trược tinh, do nước sanh ra
còn khi mệt mỏi thì do Khí suy Thần kém là đã Lão rồi, phải
không? Đó là nhơn-duyên giả hợp của đất, nước, gió, lửa.
HÒA ÂM-DƯƠNG VÀ TỨ-TỔ QUI-GIA
P.N : Bạch, bây giờ muốn huờn lại Bổn-Nguyên thì phải “Tứ-Tổ
Qui-Gia”.
Đ.M : Bệnh, Tử Bệnh là gì? Bởi do âm-dương không điều hòa.
P.N : Bạch, Âm-dương là nước lửa, là Khảm-Ly nên người tu muốn
phục lại Chơn-Dương thì phải biết diệu-dụng “Chiết Khảm Điền
Ly”.
Đ.M : Bây giờ muốn vậy, thì phải “Tứ-Tổ Qui-Gia”, Khảm-Ly hòa
nhau để phục lại Chơn-Thần, do hiệp mới đặng bình an. Nếu không
biết hòa thì nó sinh ra cái bệnh! Tứ đại nó hòa trong Tứ-Khổ đó! Là
sinh, lão, bệnh, tử, sinh ra rồi bệnh, bệnh rồi già, già rồi chết, có vui
sướng gì đâu phải không Đệ?
P.N : Bạch, bây giờ mình mượn cái Tứ-Khổ này mà làm cái “Tứ-
Tổ”.
Đ.M : Đó mới gọi là “Tứ-Diệu-Đế”quay về “Nguồn Đạo Chơn-
Không”, phải không đệ? Thân này là giả có gì thiệt đâu! Biết bao
nhiêu con vi-trùng ẩn núp trong ngũ tạng và các lỗ chân lông nó
hoành-hành sanh ra đủ thứ bệnh-tật. Thịt máu thì tanh-hôi uế-trược,
xác thúi có gì đâu mà bền vững, trường cửu, nó là vô-thường không
quyết-định thời-gian, mà mình mê chi mãi trong cái cảnh trần-gian
giả tạm này hả Đệ?
Thân Tứ-Đại do tinh hiệp kết,
Một khi sinh phải chết người ơi!
Lăn trong cái biển chợ đời,
Biết bao đau-khổ bởi nơi trược trần!
Do tứ khổ xác thân nhiễm lấy,
Sanh ra rồi đã thấy khổ-đau,
Hồn mê cứ mãi lộn-nhào,
Mất căn linh-tánh làm sao bây giờ?
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
16
Rồi bệnh hành dật dờ hồn dại,
Bởi vi-trùng nó mãi bủa vây,
Gây bao đau-khổ thân này,
Rên la than khóc ưu-hoài mà thôi!
Khi đã già nghiệp nhồi lú lẫn,
Mắt mờ lòa miệng chẳng nói nhanh,
Tay run chân mỏi bần-thần,
Là do thọ khổ xác thân di-truyền!
Nay Lão giảng nhơn-duyên sanh diệt,
Chết đi rồi nào biết dại khôn,
Người ơi hãy kíp tỉnh hồn!
Tầm phương siêu-thoát chí-chơn trọn lành!
Đã hiểu rõ trong cảnh Tứ-Khổ thế -gian này là giả và xác thân này
nào có thiệt chi đâu! Vì thế nên Lão mới coi cái ngôi vua nó cũng
đâu có thiệt, phải không đệ? Mặc dầu lão là Thái-Tử, mà Thái-Tử
nó có đúng thật là mình hay không? Danh vị Thái Tử nó có dẫn
mình giải thoát cái vòng tứ khổ hay không? Cái ngai vua có mua
lấy sự an vui vĩnh cửu hay không? Hỏi cũng là để trả lời, phải
không Đệ? Lão tự hỏi; Lão cũng phải tự trả lời, chịu không hay là
đệ muốn nói cái gì khác?
P.N : Bạch Đại-huynh giảng theo chương trình Tứ-Khổ!
Đ.M : Một khi sống ở thế-gian phải chịu biết bao nhiêu sự ràng-
buộc, ràng buộc từ trong xã hội, ràng-buộc từ trong nhân-quần;
ràng buộc trong gia-đình và cả xác thân!
P.N : Bạch, nếu mình mê muội thì cả cái tâm mình luôn!
Đ.M : Đúng! Bị ràng buộc đủ thứ… Bây giờ làm sao cởi trói cái
ràng buộc?
Hôm nay “Cứu-Cánh Niết-Bàn”,
“Hư-Vô Chi-Khí” linh thoàn Thiên-Nhiên.
Trở về “Tổ-Khiếu” máy huyền;
“Huỳnh-Đình” tự-tại thân yên thanh-bườn.
Vui mùi Đạo-Pháp diệu hương.
Tỏ nguồn Chơn-lý “Phục-Huờn Bổn-Nguyên”.
“Ma-Ha” rửa sạch não-phiền,
Thong-dong vô ngại Phật-duyên rạng-ngần.
Bụi trần đâu dính vào tâm,
“Không Sanh, Chẳng Diệt” dứt mầm khổ-đau!
Đúng không đệ? Vì thế mới có Bản-Thể Hư-Vô để trở về cái Bổn-
Nguyên Tánh.
Sao gọi là “Tứ-Tổ Qui-Gia”?
P.N : Bạch, “Luyện Tinh Hóa Khí Hiệp Thần Chế-Hồn Luyện-
Phách” rồi qui về “Huỳnh-Đình”. Người tu phải luyện chỗ sanh là
Tinh. Tam-Tâm cũng ví như tham, sân, si, mà tham, sân, si nó trở
về Tinh, Khí, Thần mới hóa ra Tam-Bửu. Tự Qui-Y Tăng, Tự Qui-
Y Pháp, Tự Qui Y Thần.
Đ.M : Trong đó mà sanh ra phải không?
P.N : Bạch, nên luyện pháp vận chuyển gồm Hạ-Điền lên Thường-
Điền và đem vào Trung-Điền, phải không Đại-huynh?
Đ.M : Giảng vòng ngoài rồi từ từ đi sâu vào vòng trong. Lão đã nói:
Lão sẽ dẫn đệ đi sâu vào Sáu Động mà tại sao gọi là Sáu Động
Thiếu-Thất?
P.N : Bạch, từ sáu căn trở về sáu cái động lục thông và Thất Bảo.
Đ.M : Thiếu-thất là bảy tình thấy chưa? Lục căn, thất tình (mừng,
giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn). Bây giờ mở cửa động “Tứ-Tổ
Qui-Gia”.
P.N : Bạch, vậy từ tứ đại giả hợp, nay mình giác ngộ rồi, thì phải
diệu-dụng đến “Tứ-Tổ Qui-Gia” đó.
Đ.M : “Tứ-Tổ Qui-Gia”, còn tứ-đại (đất, nước, gió, lửa) phải biết
cách Tinh-luyện mà hòa hợp cùng “Khảm-Ly Ký-Tế, Hồn-Phách
Tương Giao”, Hống 8 (tám) lượng Diên nửa cân, thấy chưa Đệ?
Bây giờ hãy đi vào, Lão mở cửa thất tình: Mừng, giận, buồn, vui,
thương ghét, muốn và oán hờn đầy đủ hết bắt đầu :
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
17
Thân tứ-đại của ta là giả,
Lọt biển trần gieo họa tai-ương,
Biết bao đau-khổ đoạn-trường,
Buồn vui thương ghét vô-thường lệ rơi!
Lúc giận hờn sanh lời sân hận,
Ức khí tà ở tận đáy lòng,
Làm sao huờn lại “Chơn-Không”?
Âm-dương hòa kết nối giòng “Qui-Gia”.
“Qui Tứ-Tổ” hà-sa định số,
“Khảm với Ly điều-độ thân này,
“Hiệp giao Hồn-Phách Đông-Tây,
“Ví như chồng-vợ sum-vầy Huỳnh-Môn.
“Đạo tự ngộ Càn-Khôn mới mở,
“Diệt thói phàm ở chỗ tâm viên
Tánh sanh ý mã chẳng hiền,
Nó thường dong-ruỗi não-phiền khổ-thôi!
Quay về Đạo, Lão ngồi kiên-cố,
Trong chín năm đã ngộ Thiên-Thư,
Ấy là hiệp “Bổn Chơn-Như”,
Tổ Huỳnh, Lư-Đảnh hiệp từ Đông-Tây.
Lão nói Hồn-Phách. Hồn ví như chồng, là Chơn-Dương mà Phách
ví như vợ là Chơn-Âm. Còn người đời có vợ chồng; vợ chồng do
cái trược tinh sanh ra cấu, nên mới sanh ra trược trần; sanh ra cái
xác thân trược này. Hễ luyện Đạo thì Hồn Thuần Dương thật, còn
Phách Thuần Chơn Âm thật. Chớ như cái xác thân giả này là trược
dương, trược âm hậu-thiên, đúng không Đệ?
P.N : Bạch, khi vợ chồng gặp nhau kết duyên phải nhờ bà mai, bây
giờ mình luyện cho Hồn-Phách gặp nhau thì cũng phải nhờ Bà mai
là Chơn Ý và diệu-dụng chơn-ý để hòa dẫn Thần Khí tương phò mà
Qui-Trung.
Đ.M : Còn “Tứ-Tổ Qui-Gia”, Khảm-Ly Ký-Tế, một bầu chế khắc;
Hồn Đông lại gặp vợ Tây,
Khảm-Ly Ký-Tế chuyển xoay Đạo tròn.
Hiệp máy tạo Càn-Khôn tịnh-tọa,
Phá tâm mê diệt ngã do ta,
“Mai dong tên họ Huỳnh bà,
“Dẫn sao cho đúng luân xa hiệp vòng.
“Chuyển máy tạo khởi trong thân ý,
“Hòa Châu-Thiên “Trực-Chỉ Qui-Nguyên”.
“Diệu mầu “Vô-Cực” huyền huyền,
“Hư-Vô Chi Khí” Tịnh thiền sáng soi.
Phải không Đệ? Bởi vì Lão đi từ Tây qua Đông cũng phải trở về
con đường này mà thôi. Do đó, ngộ là ở điểm này, Lão ngộ từ cái
gốc lên ngọn mà bây giờ cái ngọn trở về gốc. Vậy phải trở về cái
“Bổn-Nguyên Chơn-Tánh” của mình mới hiệp Đạo. Vì ngày xưa,
mình còn trong bào thai của mẹ không nhiễm chi cả mà bây giờ
mình nhiễm đủ thứ hết!
Bây giờ mình tu rồi, thì có thân xem như không thân, có ý mà coi
như không ý mắt có nhìn mà như chẳng nhìn, tai tuy nghe như
không nghe, mũi tuy ngửi mà như chẳng ngửi, miệng tuy ăn mà
như chẳng ăn, thân tuy động mà như chẳng động. Động tịnh, Âm-
dương, chế khắc sanh hòa.
Thân tuy Tịnh-tọa Tham-thiền,
Nhưng mà ý động hòa duyên tẩy trần,
“Kết Khảm-Ly Kim-Thân” sáng tỏ
“Hống hòa Diên” nào có sai đâu.
“Chế-Hồn Luyện-Phách” đi đầu,
“Âm-dương hiệp-kết thai bào bên trong”.
“Xuất Thánh-Thai tròn vòng Tạo-Hóa”,
Ấy Nguơn-Thần nay đã qui bầu,
“Hư-Vô Nhứt-Khí” nhiếp thâu,
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
18
Trở về “Tổ Khiếu nhiệm mầu Huỳnh-quang”.
Lấy “Song-mâu” làm đàng dẫn bước,
“Nhờ mai dong đi trước mới nên,
Thân này kiên-cố xây nền,
Đạo sanh đời diệt tuổi tên không còn!
Khi Đạo sanh thì đời phải diệt. Tại sao gọi đời diệt?
P.N :Bạch, “Tâm phàm tử, thì Tâm Đạo sanh!”
Đ.M : Đạo sanh thì không còn có ham muốn chi nữa mà đời đến nỗi
đi thuyết giảng cũng không muốn thay! Chỉ gượng cầu nói thế thôi,
phải không Đệ? Như vậy mới là phi phi tưởng, phi phi pháp, không
không pháp, không không tưởng. Còn hư vô là tạm mượn mà nói
chớ chẳng có cái gì hết! Còn trụ vào ý lời sao gọi là “Hư-Vô”? Vậy
chớ có thấy “Hư-Vô”bao giờ? Thế thì nãy giờ Lão nói quá nhiều rồi
đó!
Thuyết cái gì bây giờ, cứ nói Lão sẽ giảng nữa rồi cuối cùng Lão sẽ
tặng riêng cho Đệ một bài thơ Đệ đồng ý không?
P.N : Bạch, Đệ đồng ý!
Đ.M : Bây giờ đệ cần đề tài gì thì cứ hỏi?
P.N : Bạch, tùy nhân duyên Đại-huynh thuyết giảng.
Đ.M : Không! Lão đã nói gượng lý để giảng mà thôi! Đệ cứ tự-
nhiên hỏi, còn Lão thì không có gì để nói, mà cũng không có gì để
giảng, phải không Đệ?
P.N : Bạch, thôi bây giờ Thỉnh Đại-huynh giảng chương trình Kỳ-
Tam đẩy thoàn Bát-Nhã đi!
Đ.M : Cười… Có thoàn không mà đẩy?
P.N : Bạch, quan trọng là ở chỗ đó đó Đại-huynh!
Đ.M : Đệ thấy chưa?
P.N : Bạch, chớ không phải thoàn ở thế-gian đóng một chiếc bè ván
để đẩy đi, phải không Đại-huynh?
Đ.M : Tại sao gọi là thoàn Bát-Nhã? Mà đầu tiên Lão đã nói với Đệ
là “Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa Tâm-Kinh” bây giờ lại nói đẩy thoàn
Bát-Nhã?
P.N : Bạch, bây giờ mới đi đẩy đó!
Đ.M : Đó! Thế thì như cách nào?
P.N : Bạch, hồi nãy đóng thoàn, bây giờ đẩy đi!
Đ.M :
Này Đệ hiền! Nghe thoàn Bát-Nhã,
Mà “Tâm-Kinh” khai cả Chơn-Truyền,
Đây là hữu-phúc trọn duyên,
Lão về gượng nói lý huyền tri ra…
Hiệp Tam-Giáo Cửu-Tòa chứng-chiếu,
Khai “Huyền-Quang Nhứt-Khiếu” mà thôi,
Khắc sanh phải rõ trau-giồi,
Âm-dương mấu-chốt không rời xa nhau.
Đây sáu động bước vào mới thấy,
Hỡi đệ hiền! Tri lấy phương-châm,
Nằm, ngồi, đi, đứng thậm thâm,
Huyền-vi tĩnh-tọa tri tầm “Hư-Vô”.
Lão điểm khuyết “Nam-Mô Chí-Khí”,
“Ngôi Huỳnh-trung trực-chỉ Bổn-nguyên”,
Ấy là “Bát-Nhã Tâm-truyền”,
Từ thoàn vớt khách thiện duyên tri tầm.
P.N :
Đệ Nguyện-cầu huyền-thâm chiếu-diệu,
Hòa trọn lành hoát khiếu linh-quang,
Tòng khuôn “Bát-Nhã Từ-Thoàn”,
Đạo-mầu cứu-khổ trần-gian hữu-hình.
Do có thân chơn tình kết lại,
“Tâm Hư-Không” thư-thái điều hòa,
Hiệp cùng Thiên-điễn Trời Cha,
Hoằng dương Chánh-Pháp độ-tha tỉnh người.
Hàng chí-chơn nào ngơi thực-thể,
Tỉnh ma lòng hầu để tầm tri,
Đó là “Phục Bổn Qui-Y”,
Nhứt trần bất nhiễm mới ly cảnh đời.
“Thoàn Bát-Nhã” do nơi xuất-tánh,
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
19
Dứt não-phiền lập hạnh an-nhiên,
Thong-dong tự-tại nhiệm-huyền,
Vạn-duyên phủi sạch mới yên định hồn.
Được như vậy bảo-tồn linh-thể,
Hòa Điễn-quang khai huệ viên-minh,
Bởi do trực-chỉ Huỳnh-đình,
Không còn vướng bận hữu-hình trầm-kha!
Đ.M :
Đạo huờn chơn-lý ra khẩu-khuyết,
Lão về đây nhiệt quyết “Tâm-Trung”,
Người tu “Đại-Lực Đại-Hùng”,
“Đẩy Thoàn Bát-Nhã” đã dùng phương châm.
“Đạo không lời huyền-thâm diệu-ẩn,
Định Tham-thoàn nhập cảnh “Huyền-Môn”,
Hiệp Thiên xuất tánh độ hồn,
Đâu còn nhiễm tục ấy “Huờn Kim-Thân”.
Này Phục-Nguyên! Ba lần đàn giảng!
Lão dùng thần đánh tản khí âm,
Muội-mê lý chướng mới tầm,
Chớ hàng Chánh-giác huyền-thâm vuông tròn.
Đệ cùng Lão mổ xẻ tiếp, Đệ muốn nói điều gì?
P.N : Bạch, tùy Đại-huynh, bây giờ Đệ không còn gì để mổ xẻ hết.
Đ.M : Đúng! Không còn gì để nói, nói hoài thành ra lý-chướng, hễ
gượng nói thì không nói nhiều…
P.N : Đúng! Người trí không cần nói nhiều…
Đ.M : Đúng!
Ngày hôm qua Lão hứa kể với Phục-Nguyên năm giai đoạn đó, lúc
Lão nhập thất “Cửu-Niên Diện-Bích” thì không còn gì để nói; phải
không Đệ? Bây giờ Lão xin tặng.
THI
“Phục đài Tổ-Khí vững tâm yên,
“Nguyên bổn Huỳnh-Trung điểm diệu-huyền,
“Hoằng hóa nhơn-sanh kỳ mạt-hạ,
“ Pháp mầu bí-khuyết hiệp thiêng-liêng.
BÀI
Này Phục-Nguyên! Thiêng-liêng lời giảng,
Hãy nghe tường tâm sáng tri-nguyên,
Diệu-thông bí-nhiệm chữ “Thiên”,
Không-không nào có nhân duyên lý tình.
Do chữ “Có” mới nhìn thực-tại,
Nay “Huờn-Không” vô-ngại thâm-vi,
“Phách-Hồn” hòa hiệp “Khảm-Ly”,
“Qui-Gia Tứ-Tổ” chu kỳ tương-giao,
Khai Cửu-Khiếu một màu Phật-tánh,
Xuất chơn-dương nhập đảnh Thiên-không,
“Hỏa-Hầu Tam Muội” Diệu hồng.
Như-Lai Nguyên-bổn nằm trong Huỳnh-Mồ.
Thì ngộ khuyết “Nam-Mô Tự-Tại”
Rồi thong-dong lưu-tải độ đời,
Gượng cầu ra lý nói lời, …
Nào đâu chấp-pháp ở nơi giả trần.
Hãy xuất chơn tùy căn lý độ,
Bởi do đời mê chỗ giả thân,
Thế nên đau-khổ khôn ngần,
Ta dùng Đạo-Pháp xoa phần bi-thương.
Sao nói là đau? Sao nói là khổ? Biết vậy nên phải lấy Đạo đắp vào
chỗ đau, đắp vào chỗ khổ thì mới thấy an vui, đúng không? Bây giờ
Đệ không cho Lão nói nữa phải không? Lão sẽ nói tiếp mà sao Lão
cũng làm biếng nói quá! Đạo gượng mà nói thôi chớ chẳng có gì
hết? Lão đã không muốn nói; nhưng mà phải nói bởi vì Lão đã từng
trải qua con đường của Lão đi, thật là biết bao cam-go cực khổ, đến
nỗi phải bị đánh gãy răng máu chảy, bị bỏ xác cũng vì tình-thương,
giáo-hóa nhơn-sanh thế nên Lão phải chấp-nhận chịu bao đau khổ!
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
20
BÀI
Ôi! Chợ đời chịu bao cảnh khổ,
Đem Đạo-mầu dìu độ thế-gian,
Người hung tánh ác bạo tàn,
Lão đâu trụ-chấp mà mang vào lòng.
Việc ở đời xem không tất-cả,
Mình cũng không cái ngã cũng không,
Đạo-mầu hiệp lại huyền-đồng,
Đông, Tây, Nam, Bắc cũng trong liên-đài.
Lấy tình-thương ưu hoài độ chúng,
Giáo nhơn sanh diệu dụng tỉnh đời,
Nào đâu Đạo có ra lời,
Vì thương mạt hạ quả nhồi nghiệp lôi.
Thấy trần-gian xem coi như giả,
Thì Lão đây mô-tả mọi điều…
Phục-Nguyên tâm Đạo rán khêu,
Có gì gọi Lão, Lão về đây ngay.
Nhưng mà cấm kêu “Hắc-diện” cười … phải không?
Tại sao gọi Lão biết không? Đây Lão nói “Hắc-diện với Huỳnh-ba”
thế này :
BÀI
“Thận thì đen mãi một đường”,
“Nê-huờn sáng tỏa Huỳnh-tương Hư-huyền”.
“Đạo Vi-diệu Thâm-uyên Tịch-tịch”,
“Đạo càng cao người ít hiểu nghe”,
“Đạo đâu sắc tướng loẹt lòe?”
“Đạo đâu hí-luận hoặc mê làm gì?”
“Đạo tự nhiên thực thi Chơn-lý”;
“Đạo nhiệm-huyền trực chỉ tri ra…”
“Đạo khai thiên lộ Huỳnh-hà”,
“Tương thông Cửu-khúc tìm ra lý Thầy”.
“Rồi sẽ sáng Như Lai nhứt điểm”,
“Xuất Tánh-linh thể-nghiệm thăng hoa”,
“Hiệp cùng Thượng-đảnh Bửu-Tòa”,
“Niết-Bàn Cứu-cánh Phật-Đà nghe không?
Cười… phải không Đệ? Đã nói Niết-bàn thì chỉ có màu vàng chớ
không có màu đen. Sao gọi là “Hắc-diện” đặng.
P.N :Vì biết hành pháp diệu-dụng chuyển “Tứ-Tổ Qui-Gia” (gom
về Huỳnh-mồ). Nên Niết-bàn thì màu vàng, là Huỳnh-sắc; Huỳnh-
quang đó. Vì thế Phật mới mặc y màu vàng là vậy.
Đ.M : Nhưng mà gọi Lão là “Hắc-Huỳnh” cũng đặng, Lão chỉ lấy
chữ Hắc chữ Huỳnh mà giảng thôi phải không?
P.N : Vì Bắc-Khảm sanh thủy nên màu đen, bạch Đại-huynh! Đệ
tiếp điểm này, vì chúng-sanh có thân từ đất, nước, gió, lửa. Sanh
đầu tiên là sanh thủy, do đó mình tu thì phải lấy thủy mà luyện,
luyện từ cái đen.
Đ.M : Đúng!
P.N : Luyện thủy là phải năng Tịnh-luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí
hóa Thần rồi Thần qui về “Huỳnh-trung mà Huờn-hư”, song rồi diệt
cái-giả ngã phàm ý đi, sẽ phục lại Chơn ý, Chơn ý cư tại Mồ-Thổ là
Huỳnh sắc. Huỳnh là màu vàng trở về “Bổn-nguyên Phật-tánh”. Vì
Tinh luyện Thanh- lọc từ màu đen trở nên màu vàng, nên mới gọi
cái “Tổ-khiếu là Huỳnh-đình”, Huỳnh là màu vàng, Đình là cái Tổ.
Vậy Huỳnh-đình là cái nhà “Hư-Vô”. Vì thế Tinh nó ở phương Bắc
nó hóa Khí ở phương Đông nó hóa Thần ở phương Nam rồi nó qui
về Mồ-Thổ là Trung-ương màu vàng mà đất là Tứ-đại đã hết đó.
Đ.M : Vậy là Đệ đã biết khá lắm! Vì người chết cũng phải trở về
đất, mà luyện Đạo đã thành cũng trở về Thổ là Đất thấy chưa?
P.N : Nhưng mà vì nhờ nước vào đất người sinh ra cũng do nước,
tu rồi cũng phải do nước mà dẫn vào Thổ gọi là Huỳnh-trung.
Đ.M : Biết rồi còn nói làm chi?
P.N : Bạch Đại-huynh! Mình nói để cho các thiện-duyên nghe để
lãnh-hội, vì Tứ-đại (đất, nước, gió lửa) mà người sanh ra cũng do
nước.
Đ.M : Bởi thế, đầu tiên âm-dương kết lại, cũng do nước trước,
người tu cũng bắt đầu nơi Khảm mà hóa ra Khí, Khảm
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
21
thì do đâu? Do thận, thận từ cái màu sắc đen trở về Huỳnh trung
Mồ-Thổ màu vàng đó. Đây “Ánh Đạo- vàng” Lão sẽ giảng :
BÀI
Này Phục-Nguyên! Lão đây thuyết giảng,
“Ánh-Đạo-vàng tỏ rạng Huỳnh-tương.
“Liên-đài Cửu-khúc thanh bường,
“Khảm là do Thận nhiễu-nhương luân hồi!
“Vì sắc đen mình ngồi loạn-động,
“Chuyển làm sao trống-rỗng bầu Tinh!
“Huỳnh cư hóa Khí siêu-hình,
“Trở về Mồ-Thổ Huỳnh-Đình qui-gia”.
“Diện Huỳnh-quang siêu hòa không sắc,
“Tam-muội khai diệt tật chúng sanh,
“Đạo-mầu minh-triết chỉ rành…!
“Huệ khai xán-lạn bạch-thanh hư-huyền.
Bởi thế Phật gọi là “Niết-Bàn”,
Tiên gọi là “Hư-Vô”, phải không?
Cũng đồng nghĩa chỗ bí yếu đó Đệ.
“Lão giáng đàn xiển khai chơn-hiễn,
“Mong Phục-Nguyên ứng-biến Tâm- cơ,
“Đạo huyền vi-diệu Đồ-thơ.
“Cũng trong mấu-chốt huờn-vô độ-đời.
“ Long-Hổ hiệp tại nơi Khảm thủy”,
“Phụng-Qui hòa trực-chỉ đài mây”,
“Chuyển sao bánh pháp tròn xoay”,
“Qui-Gia Tứ-Tổ” tri bài “Tâm-Kinh”.
“Là Tam-Gia do mình khởi động…!”
“Hiệp điễn-quang mở cổng Chơn-Như”,
Đạo Trời có máy “Thiên-Thư”,
Đạo nào có nói lời như Lão già.
Bởi vậy mới nói: “Ngăn sáu động, lấp ba tình” mới sanh ra ba cái
hoa, mới gọi là “Tam-Hoa Tựu-Đảnh” là “Ngũ Khí Triều-Nguơn”
thấy chưa?
“Ngũ Khí Triều-Nguơn” do đâu mà có?
Sao Phật gọi là ngũ sắc, phải không?
“Ngũ Khí Triều-Nguơn” do đâu mà có? Trong ngũ tạng hòa Ngũ-
Hành, phải không? Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận với Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ thôi. Bây giờ phải hiệp làm sao để trở thành Ngũ Khí đó?
Khí đó, phải Triều-nguơn, Triều là nó lên trên như nước sóng biển
nó lên rồi nó xuống, mà nó lên đâu? Lên trên Đảnh Thượng. Xuống
đâu? Xuống Đơn-Điền.
P.N : Triều-nguơn là sóng, sóng vỗ nhưng mà lên cái thanh lấy
thanh-lọc cái trược cũng có nghĩa là “Biện- trược Lưu-thanh” vậy.
Đ.M : Bởi vì biển đánh vào các cỏ rác rến rồi rút vào nước trong ví
như nước mưa, phải không Đệ? Nước biển xanh đen rút thanh lên
mà đẩy trược xuống dưới; mới gọi là Diên với Hống, Hống nửa
lạng mà Diên lại 8 (tám) cân. Rồi làm sao mình đo được Hống 8
lạng mà Diên nửa cân hả Đệ?
P.N : Là âm-dương điều hòa đó!
Đ.M : Đây Lão nói: Bởi vì con người sanh ra ngũ-tạng đã có sẵn
trong này. Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận phải không? Tâm thuộc Hỏa
sắc đỏ, phương Nam ứng vào Xích-Đế, Can thuộc Mộc sắc xanh
phương Đông ứng vào Thanh-Đế. Tỳ thuộc Thổ Trung-ương sắc
vàng ứng vào Huỳnh-Đế, Phế thuộc Kim sắc trắng Phương Tây ứng
vào Bạch-Đế. Thận thuộc Thủy sắc đen Phương Bắc ứng vào Hắc
Đế. Đó thuộc về Ngũ-Đế. Thế cho nên nói tâm khởi trước mà Thận
khởi sau là bởi vì ứng vào “Ngũ-Khí Triều-Nguơn” tức là bổ lửa
nước là cái chỗ đó. Ví như mặt trời soi xuống nước, rút tinh hoa lên
làm mây rồi hóa mưa nước xuống, phải không Đệ? Nên nói một
dọc chữ Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, Tâm mới đứng đầu, Thận là
đứng dưới. Mà tu thì phải ngược trở lại đi từ dưới lên trên thấy
không? Bắt đầu đi từ cửa động thứ nhứt cửa Thận:
Thận Thủy sắc đen là Hắc-Đế.
“Lấy Ngũ-Hành điều qui chế khắc,
“ Thủy thời Đế-Hắc chưởng Ban,
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
22
“Ngày nay tỏa Ánh-Đạo-Vàng,
“Hiệp hòa Tứ-Tổ Tâm Can chuyển vòng.
Đầu tiên là Thận, Thận sanh ra chi đố Đệ?
P.N : Bạch, sanh ra Can, Can là Mộc.
Đ.M : Đó bắt đầu :
“Rồi trưởng dưỡng Mộc Can cho vững,
“Vượng, Tướng, Tù, Hưu cũng đứng theo.
“Vượt qua sông biển hiểm-nghèo,
“Hỏa-Hầu Tâm vị nghịch trèo thượng thăng”.
Rồi Mộc sinh ra Hỏa, Hỏa sinh ra Thổ, thì phải cư vào Huỳnh-
Trung, Thổ sinh ra Kim, Kim mới bổ cho Phế, Phế mới có nước
trắng tinh-hoa đó trưởng Khí mới gọi là Chế Hồn Luyện-Phách vậy.
P.N : Cái nước trắng tinh-hoa ấy mới sanh trở lại mà hòa với cái
đen trở thành màu vàng, ví như chì luyện ra Chơn-ngân đó.
Đ.M : Nãy giờ Lão với Đệ đã nói lộ nhiều cái bí-quyết, khẩu-
khuyết, phải không Đệ?
Nhưng gượng nói “Mật-truyền Bí-khuyết”,
Khẩu khẩu tâm ai biết y hành,
“Tịnh thiền hòa hiệp khắc sanh,
“Qui về Mồ-Thổ bạch-thanh do mình.
“Nơi Thận-Thủy trược tinh dục ái,
“Chuyển làm sao kết lại tâm-điền!
“Bảo-nguơn diệu-diệu huyền-huyền.
“Đăng đài Thượng-đảnh nhập liền thánh-thai.
Rồi “Kết-tựu Qui-đài Linh-khí”,
Hòa “Hư-Vô Trực-Chỉ Thiên-Nhiên”,
Đó là “Chơn-pháp Tham-thiền”,
Ai thời biết rõ ngộ liền Bổn-nguyên.
Đó, đúng không? Biết cái Bổn-nguyên rồi thì năng Tịnh-luyện để
huờn lại Bổn-nguyên là trở về với Đạo, mà trở về với Đạo thì tâm
Đạo sanh, tâm phàm tử, tự-nhiên như vậy đúng không?
P.N : Bạch, Đại-huynh đúng!
Đ.M : Nói nhiều mà hiểu có nhiều không? Điều đó là một lẽ nữa?
Nhưng mà người nói là tác giả làm sao nói ít mà hiểu nhiều nó mới
hay, cười… Khó chỗ đó, đó Đệ!
P.N : Rồi hiểu mà làm mới là hay nữa đó!
Đ.M : Đúng!
Bây giờ chia thân người ra làm hai phần âm-dương hay là thôi; thôi
khỏi nói để Lão đi, hiền Đệ thấy sao?
P.N : Bạch, Đại-huynh, kỉnh xin Đại-huynh giảng tiếp!
Đ.M : Này Đệ! Đạo Trời thì không có thiếu mà cũng không có
thừa, cười… Bù chỗ thiếu mà vá chỗ thừa là cái chỗ đó đó, phải
không?
P.N : Bạch Đại-huynh! Nên thổi ra bớt vì dương nhiều quá nó phải
nóng, hoặc lạnh quá phải thổi âm phù vậy.
Đ.M :
BÀI
Đạo Trời chẳng thiếu hay thừa,
Cho nên tu-luyện sớm trưa tịnh lòng.
“Năng giồi-trau ý trong thanh-khiết,
“Lọc chân lông các huyệt uế tà,
“Trưởng nguồn sinh-lực tinh-ba,
“Huỳnh-trung qui-hiệp Tứ-hòa mới xong.
“Ở cửa Đông Can tòng vi chủ,
“Còn chánh Tây Phế thủ luôn luôn,
“Làm sao đừng có giận buồn…
“Luyện Tinh hóa Khí Phục Thần Chơn-như.
“Rồi Bắc Thủy từ từ trong sáng,
“Thận hòa qui ngũ-tạng khắc sanh,
“Tri nguồn Chơn-lý rõ rành.
“Hà-đồ Bát-quái luyện-phanh diệu-mầu.
“Sanh Ly-hỏa Bửu-Châu thượng đảnh,
“Do Huỳnh-bà nhập cảnh Không-trung,
“Âm-dương hòa kết nhuận-phùng, “
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
23
Đốc-Nhâm tương hiệp pháp luân nghịch vòng.
“Trưởng Thánh-Thai ở trong Điền Khảm
“Dùng Tâm-Kinh gượng tạm giảng ra.
“Phàm phu chẳng thấu là ma,
“Đạo siêu tự ngộ tinh-hoa nhiệm-huyền.
“Sao kết-hiệp Khí thanh đài đảnh?
“Bởi trược Tinh nó chẳng chịu yên.
“Thế nên trong lúc ngồi thiền
“Đau lưng nhức mỏi liền liền do đâu?
Đó là do nó còn nước đen (trược tinh, phải không? Nhưng tại sao
biển thì có sông có rạch, có ngòi mà nước biển thì mặn sông thì
nước ngọt, phải không? Còn nước rạch thì nước có bùn, dơ dáy, hôi
hám, thấy không?
P.N : Bạch, luyện từ chì mà hóa ra chơn-ngân vậy.
Đ.M : Đó !
Đây Lão giảng những điều bí-chỉ,
Này Phục-Nguyên! Bát vị thuận đà!
Luyện sao “Tứ-Tổ Qui-Gia”,
“Hống-Diên kết-tựu nhuận-hòa thân tâm”.
“Do thường lạc Lão ngâm kệ pháp,
“Ai thiện-duyên nếu hạp hiểu liền,
“Chí-chơn tỉnh-định Tham-thiền”,
“Hư-Vô Chi-Khí Tiên-Thiên Phục-huờn”,
THI
“Giáng Long chế Phách hiệp Linh-hồn,
“Phục Hổ Qui-y kết đảnh môn,
“Chiết-Khảm Điền-Ly” trừ dục tánh,
“Huỳnh cư tại vị trưởng Nguơn-Thần.
“Nguơn Thần chế định phục tinh-ba,
“Nhập-tẩn tương-sinh khắc hiệp hòa,
“Huyền xuất trừ âm tiêu nghiệp-chướng,
“Biển trầm lắng đục kết Tam-Gia
. Thấy chưa? Lắng biển trầm thì Tam-Gia mới hiệp, chém cái núi
tình thì Đạo sẽ thấy (Đảo hải minh sơn). Đó tại sao gọi là núi tình?
Một khi nó bốc lên thì cao như núi, … (cười…) một khi nó muốn
thì nó hơn sóng biển, phải không? Tình sanh chúng:
BÀI
Thôi Lão thuyết từ đầu chí cuối,
Phục-Nguyên bươn dong-ruỗi đường dài.
“Đạo Huỳnh hãy hoát hoằng-khai,
“Hư-Vô Nhứt-Khí” linh-đài Tiên-Thiên.
“Ra độ đời khẩu truyền diệu-dụng,
“Tùy nhơn-duyên đều đúng căn tu,
“Hiệp qui hòa với Đại-Từ;
“Trở về Thái-Cực, chơn-như Phật-Đài.
Cửa nhiệm-huyền Lão đây đã mở,
Hỡi Đệ-hiền! Hãy trở về ngay.
“Cứu đời phải chịu nạn tai…!”
“Nhưng tâm tự-tại Đạo khai công bồi.
Lão đi thức xác đời tạm bợ,
Bị gãy răng chẳng nhớ điều chi…!
Chỉ mong sanh chúng ngộ thì,
Đạo-mầu bí-quyết quyền-vi hành trì…
Từ rày đừng réo Lão về nữa nghe chưa? Đã réo mấy lần rồi, hễ Lão
chịu độ đời thì phải chịu bị đánh và bị giết nữa.
Nói là nói vậy Đệ ơi!
Lão đây kề cận ở nơi hữu-hình!
Do lòng thành, đức-tin chí kỉnh,
Lão tiếp người Thanh-tịnh ứng ngay,
Thuyết đàn cảm-hóa biện-bày,…
Đốn tâm mê-muội hoát đài Chơn-linh!
Lão đốn pháp ai nhìn sẽ thấy,
Đốn tâm mê tỉnh lại mau mau,
ĐẠT MA TỔ SƯ THIÊN PHỤC NGUYÊN
24
Chớ đừng diêu-động lao xao,
Trở về “Nhứt-Khí”một màu Huỳnh-tương.
HỰU
“Huỳnh-tương Ngũ-khí phải Triều-nguơn”,
“Sóng tục yên mau chẳng giận-hờn”;
“Tựu-Đảnh Tam-Hoa” đà chiếu-chỉ,
“Chơn-Không Diệu-Hữu” đáo lai-huờn!
“Lai huờn Phật-tánh trưởng Ma-ha,
“Tịch-đốc huyền-vi bí-ẩn hòa,
“Nhập-tẩn tri cơ thời tỏ ngộ…
“Xuất-huyền tẩy ám rút tinh-hoa!
P.N : “Xuất-Huyền” là xả âm khí uế trược Hậu-Thiên đen tối và
những tư-tưởng xấu xa tà vạy mờ ám cho nó ra hết; còn “Nhập-
Tẩn” là tiếp “Thanh-Khí Tiên-Thiên” về Huỳnh-Mồ để “Phục
Nguơn-Thần” và nuôi “Kim-Thân Huờn Chơn-Dương”, bạch Đại-
huynh có phải như vậy không?
Đ.M : Đúng! Đó là bí-quyết đó Đệ, chịu không? Bây giờ làm gì
nữa, cười… Lão đã nói hết rồi, nhưng còn…!
P.N : Nói cái chỗ không nói…!
Đ.M : Đó, “Đạo không lời”, có lời thì nói không hết, phải không?
Đạo không, Đạo không thiếu, không thừa, không dư, không đủ,
không có, không-không, không hình, không tướng, không nói,
nhưng mà nói thì phải nói hết. Bây giờ Đệ muốn Lão nói chi nữa?
P.N : Bạch, tùy nhơn-duyên Đại-huynh thuyết giáo…!
Đ.M : Mà Đệ cứ muốn Lão tối ngày nói chuyện độ đời, đời có đâu
mà độ? Đạo có đâu mà đi độ đời, phải không?
P.N : Bạch, không có gì phải độ…!
Đ.M : Không có hành, không có độ…!
P.N : Bạch, vì hành mà không trụ chỗ độ; làm nhưng không dính
chỗ làm!
Đ.M :
Còn suy nghĩ độ đời còn trụ,
Nói làm sao ru ngủ cho người,
Lý kinh thuyết giảng thành lời…
Thế nên chấp tướng ai ơi chẳng hành!
Đạo vi-diệu huyền thanh ẩn một,
Cơ bí-truyền “Thần-Thất” huờn ngôi,
“Chí chơn tinh-tấn năng ngồi”,
“Thuần-dương bổ hỏa tô-bồi Nguyên-linh”.
“Luyện Hồn-Phách, tâm bình định tánh”,
Chí “Hành-Thâm Lập-Đảnh Đài-Thiên”,
“Qui-Trung” hiệp máy diệu-huyền,
Đạo nào lý-chướng nhân duyên giảng hoài?