tài chính tiền tệ
TRANSCRIPT
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Mục tiêu của chương Đại cương về tài chính tiền tệ là nhằm giới thiệu những
vấn đề cơ bản về tài chính – tiền tệ, bao gồm bản chất và chức năng của tiền tệ, sự
phát triển của các hình thái tiền tệ, khối tiền tệ, chế độ tiền tệ, bản chất và chức năng
của tài chính. Sau khi học xong chương này sinh viên có khả năng:
- Nhận biết được bản chất của tiền tệ, đồng thời phân tích được các chức năng
của tiền tệ đối với nền kinh tế, từ đó thấy được tầm quan trọng của tiền tệ đối với
mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội.
- Giải thích được sự ra đời và sự phát triển của tiền tệ qua các hình thái biểu
hiện của tiền tệ.
- Phân biệt được các khối tiền tệ theo quan niệm được nhiều nhà kinh tế thừa
nhận.
- Trình bày được các hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ qua sáu chế độ tiền tệ:
chế độ song bản vị, chế độ bản vị tiền vàng, chế độ bản vị vàng thỏi, chế độ bản vị
vàng hối đoái, chế độ bản vị ngoại tệ và chế độ bản vị tiền giấy.
- Nhắc lại được sự ra đời của tài chính trong lịch sử phát triển của kinh tế và
xã hội.
- Trình bày được bản chất của tài chính và phân tích đầy đủ nội dung các chức
năng của nó đối với hoạt động phát triển của nền kinh tế.
1. Bản chất của tiền tệ
1.1. Sự ra đời của tiền tệ
Kinh tế học đã chỉ ra rằng, tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền
với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Khi nghiên cứu về quá trình ra đời của tiền tệ, C.Mác kết luận: “Trình bày
nguồn gốc phát sịnh của tiền tệ, nghĩa là phải khai triển cái biểu hiện của giá trị,
biểu hiện bao hàm trong quan hệ giá trị của hàng hóa, từ hình thái ban đầu đơn
giảng nhất và ít thấy rõ nhất cho đến hình thái tiền tệ là hình thái mà ai nấy đều
1
thấy” (C.Mác – Tư Bản – Quyển I, Tập I, trang 75 – Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội
1963).
Trong quan hệ trao đổi, hình thức giá trị được biểu hiện qua 4 hình thái:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Trong hình thái này giá trị (tương đối) của một vật được biểu hiện ở giá trị của
một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá “đơn nhất” với ba đặc điểm:
+ Giá trị sử dụng trở thành hình thái biểu hiện của giá trị
+ Lao động cụ thể trở thành hình thái biểu hiện của lao động trừu tượng.
+ Lao động tư nhân trở thành lao động xã hội trực tiếp.
- Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng:
Ở hình thái này giá trị của một vật không phải được biểu hiện ở giá trị sử dụng
của một vật khác mà được biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hóa khác, có tác
dụng làm vật ngang giá. Đây là những vật ngang giá “đặc thù”. Những vật ngang
giá đặc thù tồn tại song song với nhau và đều có quyền lực như nhau trong vai tò vật
ngang giá. Nhược điểm của hình thái này:
+ Biểu hiện tương đối giá trị của một hàng hóa chưa được hoàn tất vì có nhiều
hàng hóa làm vật ngang giá và chưa có điểm dừng ở vật ngang giá chung.
+ Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa là không thuần nhất và
hết sức rời rạc.
+ Nếu giá trị tương đối của mỗi hàng hóa đều biểu hiện ra trong hình thái mở
rộng này, thì hình thái giá trị tương đối của mỗi hàng hóa sẽ là một chuỗi biểu hiện
giá trị vô cùng vô tận, khác với hình thái giá trị tương đối của bất kỳ một hàng hóa
nào khác.
- Hình thái giá trị chung:
Trong hình thái này, giá trị chung của tất cả các hàng hóa biểu hiện giá trị của
chúng ở một hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung. Do vậy, nó trở thành hình
thái giá trị phổ biến, được xã hội thừa nhận và làm cho quá trình trao đổi trở nên
thuận tiện, đơn giản hơn, đó là điều kiện quan trọng để thúc đẩy kinh tế hàng hóa
phát triển. Lúc này người ta không trao đổi sản phẩm hàng hóa trực tiếp như các
hình thái trên, mà trao đổi một cách gián tiếp thông qua vật ngang giá chung.
- Hình thái giá trị tiền tệ:
2
Khi nền sản xuất hàng hóa phát triển, theo đó lực lượng sản xuất phát triển, thị
trường càng mở rộng thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung nên gây khó khăn
cho lưu thông trao đổi hàng hóa. Vật ngang gái chung bằng kim loại thay thế dần
vật ngang giá khác. Sau đó Bạc, Vàng chiếm ưu thế tuyệt đối. Cuối cùng cố định ở
Vàng. Chỉ đấn lúc này thì hình thái giá trị tiền tệ mới được xác lập và Vàng với tư
cách là vật ngang giá chung đã trở thành tiền tệ.
Từ hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên đến hình thái tiền tệ là một quá
trình lịch sử lâu dài, nhằm giải quyết các mâu thuẩn vốn có trong bản thân hàng hóa.
Tiền tệ ra đời đã làm cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ được dễ dàng và nhanh
chóng hơn.
Nghiên cứu về lịch sử tiền tệ, các giáo sư PAUL A. SAMUELSON (Viện Dự
trữ liên bang và ngân khố Mỹ) và WILLIAM D. NORDHAUS (trường Đại học
Yale Mỹ) cũng kết luận rằng: “Do các xã hội có mua bán rộng rãi không thể vượt
qua được các cản trở quá lớn của hình thức trao đổi hiện vật, nên việc sử dụng một
vật trung gian làm phương tiện trao đổi được mọi người chấp nhận. Đó là tiền tệ”
(Kinh tế học – Tập I, trang 332 – Viện quan hệ Quốc tế Việt Nam biên dịch năm
1989).
1.2. Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ có biểu hiện ở rất nhiều thứ khác nhau. Đối với hầu hết các dân tộc,
tiền là những đồng xu bằng kim loại, những tờ giấy bạc, những tấm thẻ, hoặc là
những khoản tiết kiệm ở ngân hàng,… Nhưng đối với một số dân tộc trong quá khứ
không xa lắm, tiền là những chuổi hạt, vỏ ốc được xâu lại vì đó là những vật họ cho
là có giá trị. Các dân tộc đã từng coi những vật như vậy là “tiền” bởi vì chúng đều là
những phương tiện được thừa nhận và thỏa thuận trong thanh toán.
Lịch sử phát triển của tiền tệ đã chứng minh rằng tiền tệ là sản phẩm tất yếu
của nền kinh tế hàng hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình troa đổi hàng
hóa, dịch vụ. Suy cho cùng, về bản chất, tiền tệ là vật ngang giá chung, làm
phương tiện để trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thanh toán các khoản nợ.
3
2. Chức năng của tiền tệ
2.1. Chức năng là đơn vị đo lường giá trị
Tiền tệ là đơn vị đo lường giá trị, nghĩa là nó được dùng để đo lường giá trị
của hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện trao đổi. Người ta đo giá trị của hàng hóa
và dịch vụ bằng tiền giống như người ta đo trọng lượng của một vật bằng kilogram,
đo chiều dài của một vật bằng mét. Để thấy được vì sao chức năng này quan trọng,
chúng ta hãy so sánh quá trình trao đổi hiện vật với trao đổi hàng hóa có tiền làm
môi giới trung gian.
Trong quá trình trao đổi trực tiếp, có 3 mặt hàng đưa ra trao đổi: A, B, C thì
chúng ta chỉ cần biết 3 giá để có thể trao đổi các hàng hóa này với nhau. Đó là:
- Giá của hàng hóa A được tính bằng bao nhiêu hàng hóa B.
- Giá của hàng hóa A được tính bằng bao nhiêu hàng hóa C.
- Giá của hàng hóa C được tính bằng bao nhiêu hàng hóa B.
Tương tự, nếu có 10 mặt hàng đưa ra cần trao đổi, chúng ta phải cần biết 45
giá để có thể trao đổi hàng này để lấy một hàng hóa khác, với 100 mặt hàng chúng
ta cần tới 4.950 giá, và với 1.000 mặt hàng thì chúng ta cần biết 499.500 giá (theo
công thức tính tổng quát số cặp khi có N phân tử = N (N-1)/2).
Nếu nền kinh tế có tiền tệ làm môi giới, thì người ta định giá bằng đơn vị tiền
tệ cho tất cả các hàng hóa đem trao đổi trên thị trường. Do vậy, có bao nhiêu hàng
hóa đưa ra trao đổi thì có bấy nhiêu giá cả. Có nghĩa là, nếu có 3 hàng hóa đưa ra
trao đổi thì có 3 giá, có 10 hàng hóa đưa ra trao đổi thì có 10 giá, có 1.000 hàng hóa
đưa ra trao đổi thì có 1.000 giá. Vậy là, việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá sẽ thuận
lợi rất nhiều cho quá trình trao đổi hàng hóa, giảm được chi phí trong trao đổi do
giảm được số giá cần xem xét.
Khi nền kinh tế phát triển thì lợi ích của chức năng đo lường giá trị của tiền tệ
ngày càng tăng lên. Ngày nay, người ta đo lường giá trị của hàng hóa, dịch vụ
không phải chỉ bằng tiền mặt mà còn đo lường giá trị hàng hóa, dịch vụ bằng Séc,
hối phiếu, kỳ phiếu hoặc là các chứng từ có giá khác.
4
Số lượng giá trong một nền kinh tế hiện vật ứng với số lượng giá trong nền kinh tế
tiền tệ.
Số mặt hàng trao đổiSố lượng giá trong nên
kinh tế hiện vật
Số lượng giá trong nền
kinh tế tiền tệ
3 3 3
10 45 10
100 4.950 100
1.000 499.500 1.000
10.000 49.995.000 10.000
Từ bảng trên chúng ta có thể thấy rằng việc dùng tiền làm một đơn vị đánh
giá, giảm được chi phí thời gian để giao dịch trong nền kinh tế do giảm số giá cần
phải xem xét.
Để tiền tệ làm tốt chức năng đo lường giá trị đòi hỏi:
- Đơn vị tiền tệ đó phải có giá trị nội tại của nó, nếu không, dù có bắt buộc dân
chúng vẫn không chấp nhận nó như một công cụ đo lường giá trị.
- Giá trị của đơn vị tiền tệ đó, hay sức mua của đồng tiền phải ổn định hoặc có
thay đổi thì vẫn không thay đổi nhiều qua thời gian.
2.2. Chức năng là phương tiện trao đổi
Trong nền kinh tế, tiền tệ làm phương tiện trao đổi khi nó được dùng để mua
bán hàng hóa, dịch vụ, hoặc thanh toán các khoản nợ cả trong và ngoài nước. Việc
dùng tiền làm phương tiện trao đổi đã nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế,
bởi nó đã tiết kiệm được các chi phí quá lớn trong quá trình trao đổi trực tiếp hàng
đổi hàng, các chi phí giao dịch thường rất cao. Bởi vì, người mua, người bán phải
tìm được những người trùng hợp với mình về nhu cầu trao đổi, thời gian trao đổi,
không gian trao đổi. Quá trình trao đổi chỉ được diễn ra khi có sự phù hợp đó. Tiền
tệ làm môi giới trung gian trong trao đổi đã hoàn toàn khắc phục được các hạn chế
đó của quá trình trao đổi trực tiếp. Người có hàng bán lấy tiền, sau đó sẽ mua được
hàng mà họ cần. Bởi vậy, người ta coi tiền như thứ dầu mỡ bôi trơn, cho phép nền
kinh tế hoạt động trôi chảy hơn, khuyến khích chuyên môn hóa và phân công lao
động.
5
Việc dùng tiền làm một phương tiện trao đổi giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền
kinh tế, qua việc loại bỏ được nhiều thời gian dành cho việc đổi chác hàng hóa hay
dịch vụ qua nhiều lần trao đổi trực tiếp lấy hàng. Để làm tốt chức năng này tiền phải
đạt một số ưu điểm sau:
- Phải được tạo ra hàng loạt một cách dể dàng, có tính đồng nhất cao để thuận
tiện cho việc xác định giá trị trong từng quốc gia.
- Phải được chấp nhận một cách rộng rãi của những người trao đổi hàng hóa.
- Có thể chia nhỏ được, nhờ đó tạo thuận lợi cho người trao đổi.
- Dể chuyên chở, di chuyển.
- Không bị hư hỏng một cách nhah chóng do tác động của khí hậu, thời tiết,
môi trường,….
2.3. Chức năng là phương tiện dự trữ về mặt giá trị
Tiền tệ làm phương tiện dự trữ giá trị nghĩa là nơi chứa sức mua hàng hóa
trong một thời gian nhất định. Nhờ chức năng này của tiền tệ mà người ta có thể
tách thời gian từ lúc có thu nhập đến lúc tiêu dùng nó. Chức năng này là quan trọng
vì mọi người đều không muốn chi tiêu hết thu nhập của mình ngay khi nhận nó, mà
dự trữ để sử dụng nó trong tương lai. Tất nhiên, tiền không phải duy nhất là nơi
chứa đựng giá trị, mà các tài sản khác cũng là nơi chứa giá trị, như cổ phiếu, thương
phiếu,… Nhưng tiền là tài sản có tính lỏng cao nhất, bởi nó là phương tiện trao đổi,
nó không cần phải chuyển đổi thành bất cứ cái gì khác khi với mục đích mua hàng
hóa chi trả tiền dịch vụ. Những tài sản khác đòi hỏi chi phí giao dịch khi cần chuyển
sang tiền.
Vì vậy, tiền là một phương tiện dự trữ về mặt giá trị có nhiều ưu điểm trong
nền kinh tế hàng hóa. Tuy vậy nó phải tùy thuộc vào mức giá vì giá trị của tiền được
ấn định theo mức giá. Nếu các giá đều tăng gấp hai thì nghĩa là giá trị của tiền đã sụt
một nửa, ngược lại nếu các giá giảm đi một nửa thì giá trị tiền sẽ tăng lên hai lần.
Trong một cuộc lạm phát khi mức giá tăng lên nhanh chóng, vì tiền mất giá quá
nhanh nên dân chúng giữ tiền như một biện pháp bất đắc dĩ. Điều này thể hiện rõ
nhất trong thời kỳ siêu lạm phát. Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường thì mức độ
quan trọng của tiền cũng thay đổi, vì ngoài tiền ra còn có các tài sản khác như:
thương phiếu, hối phiếu, chừng chỉ tiền gửi…
6
3. Sự phát triển của các hình thái tiền tệ
Tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Sau khi ra đời, tiền tệ là
công cụ quan trọng để phát triển nền kinh tế - xã hội. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho lưu thông hàng hóa và dịch vụ, phát triển nền kinh tế xã hội, hình thái của tiền
tệ cũng ngày càng được hoàn thiện hơn
3.1. Hóa tệ
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ đã lần lượt tồn tại
dưới các hình thức khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế
đặc biệt là của hoạt động sản xuất, trao đổi và lưu thông hàng hóa. Lịch sử ghi nhận
rằng, thời kỳ nguyên thủy của tiền tệ, vai trò tiền tệ thường được thể hiện ở gia súc
(dân tộc cổ đại Slavo), da thú (ở các dân tộc Scăng-đi-nap và Nước Nga cổ đại), vỏ
ốc quý (quần đảo Thái Bình Dương và Châu Phi), chè (Tây Tạng và Mông Cổ),
muối (ở Tây Su Đăng), lúa mì, bong (Ai Cập), kê, lụa (Trung Quốc),…Các hình
thái này có thể xếp chung vào một nhóm là tiền tệ dưới dạng hàng hóa hay còn
gọi là hóa tệ.
Cùng với sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai, thủ công nghiệp tách
khỏi nông nghiệp, vai trò tiền tệ chuyển dần sang các kim loại. Cuối cùng thời kỳ
này, vai trò tiền tệ đã được cố định ở Vàng. Bởi vì Vàng có nhiều đặc tính ưu việt
hơn các hàng hóa khác lúc bấy giờ trong việc thực hiện các chức năng của tiền tệ.
Đó là:
- Tình đồng nhất của Vàng rất cao. Điều đó rất thuận lợi trong việc đo lường,
biểu hiện giá cả của hàng hóa trong quá trình trao đổi.
- Dể phân chia mà không làm ảnh hưởng đến giá trị vốn có của nó. Điều đó có
ý nghĩa quan trọng trong việc biểu hiện giá cả và lưu thông hàng hóa trên thị trường.
Bởi lẽ, hàng hóa trên thị trường rất đa dạng và giá cả rất khác nhau.
- Dễ mang theo, bởi vì một thể tích nhỏ và trọng lượng nhỏ của Vàng có thể
đại diện cho giá trị một khối lượng hàng hóa lớn.
- Thuận tiện trong việc thực hiện chức năng dự trữ giá trị của tiền tệ.
Trình độ sản xuất ngày càng phát triển, khối lượng hàng hóa và dịch vị đưa ra
trao đổi ngày càng nhiều. Trong khi đó, khả năng về Vàng lại rất có hạn. Do vậy,
theo thời gian, giá trị của Vàng lớn đến mức người ta khó có thể chia nhỏ ra để tiến
7
hành những việc mua bán bình thường. Mặt khác hàng hóa đóng vai trò tiền tệ trước
đây đều có khuynh hướng tự bản than nó phải có giá trị và phải có một công dụng
nhất định nào đó. Còn ngày nay, giá trị của tiền tệ là do tính pháp định của nhà
nước. Việc tìm kiếm một loại hình tiền tệ mới thay thế cho vàng trong lưu thông đã
trở nên cần thiết.
3.2. Tín tệ
Tín tệ là thứ tiền tệ được lưu dụng nhờ vào sự tín nhiệm của công chúng, chứ
bản than nó không có hoặc có giá trị không đáng kể. Nó đã được nhân loại phát
minh ra và sử dụng thay thế cho Vàng hay Bạc, là những loại tiền thực không xuất
hiện trong lưu thông. Về hình thức, tín tệ có hai loại: tín tệ kim loại (tiến cắc) và
tiền giấy.
Tiền kim loại – là loại tín tệ được đúc bằng kim loại rẻ tiền thay vì đúc bằng
kim loại quý như Bạc hay Vàng nhằm mục tiêu: tiết liệm lượng vàng bạc của quốc
gia, đồng thời giảm bớt sự căng thẳng do thiếu vàng bạc làm phương tiện lưu thông
khi nền kinh tế ngày càng phát triển.
Tiền Giấy (tiền dấu hiệu) – Sau một thời gian dài, thời đại tiền bằng hàng
hóa đã nhường chổ cho thời đại tiền giấy. Lúc đầu những tờ giấy bạc ngân hàng là
những dấu hiệu đại diện cho vàng đáng lẽ phải có trong lưu thông. Những giấy bạc
ngân hàng đó được tự do chuyển đổi ra vàng theo Luật định. Về sau, do Ngân hàng
phát hành ra nhiều giấy bạc hơn so với số vàng dự trữ, làm cho nó không còn được
tự do chuyển đổi ra vàng. Việc sử dụng tiền giấy đã trở thành phổ biến, do tính
thuận tiện của nó trong việc làm phương tiện trao đổi hàng hóa. Đó là:
- Dể mang theo để làm phương tiện trao đổi hàng hóa, thanh toán nợ.
- Thuận tiện khi thực hiện chức năng dự trữ của cải dưới hình thức
giá trị.
- Bằng cách thay đổi các con số trên mặt đồng tiền, một lượng giá trị
lớn hay nhỏ đều được biểu hiện.
- Bằng chế độ độc quyền phát hành giấy bạc với những quy định
nghiêm ngặt của Chính phủ, tiền giấy có thể giữ được giá trị của nó,…
3.3. Bút tệ
8
Bút tệ là thứ tiền tệ vô hình sử dụng bằng cách ghi chép trên sổ sách của ngân
hàng, nó chính là số dư trên tài khoản tiền gửi ở ngân hàng. Về nguồn gốc, người ta
cho rằng bút tệ ra đời vào giữa thế kỹ 19 khi Ngân hàng Anh quốc tìm cách né tránh
các thể lệ phát hành tiền giấy quá cứng nhắc nên đã sang chế ra hệ thống thanh toán
bằng cách ghi trên sổ sách ngân hàng. Ngày nay, bút tệ được sử dụng rộng rãi ở hầu
hết các nước, nhưng ở các nước phát triển, dân chúng có thói quen sử dụng bút tệ
hơn ở các nước kém phát triển, do hệ thống ngân hàng ở các nước phát triển hoạt
động tốt hơn.
3.4. Tiền điện tử
Trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và công
nghệ ngân hàng nên các loại thẻ tín dụng và thẻ thanh toán ngày càng được sử dụng
rộng rãi, kể cả trong và ngoài nước. Những loại thẻ này có thể thực hiện được các
chức năng của tiền tệ và ngày càng thay thế tiền giấy trong đời sống kinh tế. Do
vậy, chúng cũng được xem là một hình thái tiền tệ mới – Tiền điện tử.
4. Khối tiền tệ (cách đo lượng cung ứng tiền)
Quan niệm về khối tiền tệ được nhiều nhà kinh tế thừ nhận hơn cả là việc
dùng những số đo lượng tiền cung ứng được gọi là tổng lượng tiền với các ký hiệu
M1, M2, M3, L. Sở sĩ có sự phân chia giữa M1, M2, M3 là nhằm tách biệt những loại
tiền khác nhau về mặt thanh khoản ra từng nhóm. Các nhóm tiền càng đi về sau này,
càng có thanh khoản kém hơn và càng mang tính chất của một khoản đầu tư.
4.1. Khối tiền tệ M1
Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao
gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hóa, mà không
phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng
bao gồm:
- Tiền đang lưu hành: bao gồm toàn bộ tiền mặt do Ngân hàng Trung ương
phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng.
- Tiền gửi không kỳ hạn ở các ngân hàng thương mại: là tiền gửi mà chủ sở
hữu của nó có thể phát séc để thanh toán tiền mua hàng hay dịch vụ.
4.1. Khối tiền tệ M2
9
Khối tiền tệ này, với một cách nhìn rộng hơn về lượng tiền cung ứng. Theo
khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
- Lượng tiền theo M1.
- Tiền gửi tiết kiệm ở các ngân hàng thương mại.
4.1. Khối tiền tệ M3
Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
- Lượng tiền theo M2
- Tiền gửi có kỳ hạn ở các ngân hàng thương mại.
4.1. Khối tiền tệ L
Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
- Lượng tiền theo M3
- Chứng từ có giá có tính “lỏng” cao (dể chuyển thành tiền mặt): Chứng chỉ
tiền gửi, thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu,…
5. Chế độ tiền tệ
Chế độ tiên tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia, được
quy định bằng luật pháp. Chế độ tiền tệ bao gồm ba nhân tố:
- Bản vị tiền tệ: là cơ sở đánh giá đồng tiền quốc gia, là tiêu chuẩn chung mà
mổi nước chọn làm cơ sở cho chế độ tiền tệ của mình.
- Đơn vị tiền tệ: Mỗi quốc gia đều có đơn vị tiền tệ riêng của mình và được
quy định bằng pháp luật. Đơn vị tiền tệ của Việt nam là “đồng”, ký hiệu quốc tế là
“VND”; đơn vị tiền tệ của Mỹ là “đô la”, ký hiệu quốc tế là “USD”, đơn vị tiền tệ
của Nhật là “yên”, ký hiệu quốc tế là “JPY”,…
- Công cụ trao đổi: tức là những công cụ được sử dụng để thực hiện mua bán
hàng hóa, dịch vụ, thanh toán các khoản nợ như tiền giấy, tiến cắc, tiền điện tử,…
Nói chung, trong chế độ tiền tệ, yếu tố thường thay đổi là bản vị tiền tệ. Lịch
sử tiền tệ phát triển cho thấy rằng, bản vị tiền tệ của các nước do điều kiện kinh tế
cụ thể củ mổi thời kỳ quyết định. Cho đến nay, các chế độ bản vị tiền tệ sau đây đã
được sử dụng:
5.1. Chế độ song bản vị
Dưới chế độ song bản vị, đồng tiền của một nước được xác định bằng một
trọng lượng cố định của 2 kim loại, thường là vàng và bạc. Ví duk, năm 1972, ở Mỹ
10
1 đôla vàng = 1,603 gam vàng ròng, 1 đôla bạc = 24,06 gam bạc ròng. Tức trọng
lượng 1 đôla bạc nặng gấp 15 lần trọng lượng 1 đôla vàng.
Giả sử rằng , Nhà nước ấn định tỷ lệ đúc tiền chính thức của 2 kim loại bạc và
vàng là 15/1, điều đó có nghĩa là, 1 trọng lượng đơn vị tiền tệ bằng bạc gấp 15 lần
trọng lượng tiền tệ bằng vàng. Do đó, bất cứ một sự thay đổi nào trong giá trị thị
trường của một kim loại so với kim loại khác, có thể làm cho thứ kim loại có giá trị
cao hơn biến khỏi lưu thông. Bởi vì kim loại rẻ tiền hơn trên thị trường sẽ được đúc
thành tiền, kim loại đắt tiền hơn trên thị trường sẽ được đưa ra khỏi lưu thông để cất
trữ hay đúc thành thỏi để bán. Nói cách khác, một tỷ lệ đúc tiền cố định và một tỷ lệ
thị trường thay đổi, cho phép người ta giữ lại đồng tiền có giá trị hơn và cho lưu
thông đồng tiền có giá trị kém hơn.
Điều đó đã xaye ra ở Mỹ trong thế kỹ XIX, khi mà Mỹ đang giữ chế độ song
bản vị vàng và bạc theo luật định. Trong suốt giai đoạn đầu từ 1792 đến 1834 vàng
rút khỏi lưu thông và trên thực tế quốc gia chỉ còn là bản vị bạc. Nhưng từ 1834 –
1893 bạc rút khỏi lưu thông và thực chất quốc gia chỉ còn bản vị vàng.
5.2. Chế độ bản vị tiền vàng
Chế độ bản vị tiền vàng là chế độ bản vị mà đồng tiền của một nước được đảm
bảo bằng một trọng lượng vàng nhất định theo pháp luật. Những nhân tố cần thiết
của bản vị tiền vàng bao gồm:
- Nhà nước không hạn chế việc đúc tiền vàng.
- Tiền giấy quốc gia được Nhà nước xác định bằng một trọng lượng vàng nhất
định và được tự do chuyển đổi ra vàng theo tỷ lệ đã quy định.
- Tiền vàng được lưu thông không hạn chế.
Chế độ bản vị tiền vàng được sử dụng phổ biến ở các nước trong những năm
cuối thế kỹ XIX và đầu thế kỷ XX.
5.3. Chế độ bản vị vàng thỏi
Chế độ bản vị vàng thỏi cũng quy định cho đơn vị tiền tệ quốc gia một trọng
lượng vàng cố định. Nhưng vàng được đúc thành thỏi mà không đúc thành tiền.
Trong chế độ này, vàng không lưu thông trong nền kinh tế, mà chỉ dự trữ để
làm phương tiện thanh toán quốc tế và chuyển dịch tài sản ra nước ngoài. Tiền giấy
11
quốc gia được đổi ra vàng theo luật định, nhưng phải một số lượng tiền giấy nhất
định, ít nhất phải tương đương với 1 thỏi vàng.
Chế độ bản vị vàng thỏi được áp dụng ở Anh năm 1925 và quy định muốn đổi
tiền giấy lấy vàng phải đổi ít nhất là 1.500 Bảng Anh, áp dụng ở Pháp năm 1928 với
số tiền giấy phải đổi ích nhất là 225.000 Francs,…
5.4. Chế độ bản vị vàng hối đoái
Chế độ bản vị vàng hối đoái là chế độ bản vị trong đó tiền giấy quốc gia không
được trực tiếp chuyển đổi ra vàng, muốn đổi ra vàng phải thông qua một ngoại tệ.
Ngoại tệ đó phải được chuyển đổi ra vàng, như đôla Mỹ, bảng Anh,…
Chế độ bản vị vàng hối đoái được áp dụng tại Ấn Độ năm 1898, Đức 1924, Hà
Lan 1928,…
5.5. Chế độ bản vị ngoại tệ
Chế độ bản vị ngoại tệ là chế độ tiền tệ mà đơn vị tiền tệ quốc gia được xác
định bằng đơn vị tiền tệ của nước ngoài (ngoại tệ). Đó phải là các ngoại tệ mạnh và
được tự do chuyển đổi trên thị trường.
Chế độ bản vị này được sử dụng phổ biến đối với các nước thiếu vàng hoặc về
mặt chính trị bị lệ thuộc vào nước khác (các nước trong khối cộng đồng Anh sau
cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất).
Để khuyết khích thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế một cách có trật
tự, chế độ bản vị ngoại tệ này được hình thành ở các nước tư bản chủ nghĩa. Chế độ
bản vị này được thịnh hành vào năm 1944 đến năm 1971 và có 2 sự kiện nổi bật:
- Vào cuối chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ chiếm hữu phần lớn vàng của
thế giới. Do đó, Bộ Tài chính Mỹ, theo Hiệp định quốc tế đã quy định vàng và đôla
Mỹ có thể chuyển đổi được lẫn nhau, theo tỷ lệ 35 đôla cho 1 ounces vàng.
- Theo đó, các nước khác theo Hiệp định quốc tế, Ngân hàng trung ương các
nước đó đã tham gia hiệp định duy trì một tỷ giá cố định đồng tiền của họ so với
đồng đôla Mỹ.
Chế độ bản vị ngoại tệ này đã hoàn thành sứ mệnh khuyến khích thương mại
quốc tế và khôi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng từ những ănm
1960 chế độ này bắt đầu sụp đổ, bởi đồng đola Mỹ lạm phát và dự trữ vàng của Mỹ
12
giảm sút nghiêm trọng. Chế độ bản vị này đã kết thúc khi Tổng thống Mỹ Nixơn
tuyên bố không đổi đôla giấy ra vàng ngày 15/08/1971.
5.6. Chế độ tiền giấy không chuyển đổi ra vàng
Chế độ tiền giấy là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một nước không
thể tự do chuyển đổi ra kim loại quý, mà giá trị thực tế của đồng tiền các nước phụ
thuốc vào sức mua của nó, tức là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà có thể mua
được.
Đầu những năm 1930 chế độ bản vị này đã trở thành phổ biến. Vàng chỉ được
dùng để thanh toán những khoản nợ quốc tế
Chế độ tiền giấy (tiền dấu hiệu) nó bị rút khỏi lưu thông trong nước vì không
dùng làm tiền tệ và không được chuyển đổi tiền giấy ra vàng.
Từ đó, giá trị thực tế của một đồng tiền được xác định bằng sức mua của nó và
được đo bằng số nghịch đảo của mức giá cả chung. Như vậy, mức giá cả chung
càng cao thì giá trị hay sức mua của một đơn vị tiền tệ càng thấp và ngược lại.
6. Bản chất của tài chính
6.1. Sự ra đời của phạm trù tài chính
Trong nền kinh tế hàng hóa, việc trao đổi hàng hóa được tiến hành trao đổi
một cách dể dàng thông qua tiền tệ làm môi giới trung gian. Từ đó người ta sử dụng
tiền tệ với các chức năng trao đổi và lưu trữ để phân phối tổng sản phẩm xã hội, qua
đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế, nhằm mục đích tiêu dùng và
đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Các quỹ tiền tệ này được tạo lập và sử dụng bởi các
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân. Các quan hệ kinh tế đó đã làm nảy sinh
phạm trù tài chính.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng đã chứng minh rằng, khi xã hội
có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, thì có sự phân chia giai cấp và xuất
hiện phạm trù Nhà nước. Nhà nước ra đời, với chức năng và quyền lực của mình đã
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng phạm vi hoạt
động của tài chính. Mặt khác để duy trì hoạt động của mình, Nhà nước đã tạo lập
quỹ ngân sách nhà nước thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới
hình thức giá trị và hình thành lĩnh vực hành chính nhà nước. Như vậy, bên cạnh
13
những tiền đề quyết định làm nảy sinh phạm trù tài chính là sản xuất hàng hóa và
tiền tệ, Nhà nước ra đời làm cho hoạt động tài chính ngày càng phát triển hơn.
6.2. Bản chất của tài chính
Về bản chất, tài chính là các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm
xã hội dưới hình thức giá trị, thông qua đó tạo lập và sữ dụng các quỹ tiền tệ, nhằm
đáp ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội.
Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính, ở đây cần phân biệt tài chính với một số
phạm trù tài chính có liên quan khác.
Thứ nhất: phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù tiền tệ. Nhìn bề ngoàitaif
chính được người ta cảm nhận như những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau
trong xã hội. Nhưng tài chính không phải là tiền tệ. Tiền tệ về bản chất là vật ngang
giá chung trong trao đổi hàng hóa với các chức năng vốn có của nó. Tài chính là sự
vận động độc lập tương đối của tiền tệ trong lĩnh vực phân phối nhằm tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ.
Thứ hai: phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù giá cả: Giá cả là một phạm
trù kinh tế liên quan đến phân phối dưới hình thức giá trị. Nhưng sự phân phối của
giá cả được tiến hành thông qua sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả của hàng hóa
trong trao đổi. Tài chính là phạm trù phân phối phản ánh sự chuyển dịch giá trị
thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Thứ ba: phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù tiền lương: Tiền lương cũng
là phạm trù phân phối. Đó là một lượng tiền tệ nhất định được trả cho người lao
động, theo những nguyên tắc nhất định. Phạm trù tiền lương không thể đồng nhất
với phạm trù tài chính vì phạm trù tài chính là phân phối phản ánh sự chuyển dịch
giá trị thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Tiền lương muốn được thực hiện phải thông qua tài chính, tức là thông qua
quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị sau đây:
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian với các cơ quan, tổ
chức kinh tế phi tài chính, dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư với nhau và các
quan hệ kinh tế trong nội bộ các chủ thể đó.
14
- Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới,…
7. Chức năng của tài chính
Chức năng của tài chính là những đặc tính khách quan vốn có của phạm trù tài
chính, là khả năng bên trong theo biểu lộ tác dụng xã hội của tài chính. Thể hiện cụ
thể ở ba chức năng cơ bản sau đây: chức năng phân phối, chức năng giám đốc và
chức năng tạo lập vốn.
7.1. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài
lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác
nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo cho những nhu cầu,
những lợi ích khác nhau của các chủ thể trong nền kinh tế xã hội.
Phân phối tài chính là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá
trị. Thông qua chức năng này, các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được
hình thành và sử dụng vào những mục đích nhất định. Phân phối qua tài chính bao
hàm cả quá trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối lại.
Quá trình phân phối lần đầu là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội cho các chủ
thể tham gia vào quá trình sản xuất vật chất và dịch vụ. Trong quá trình phân phối
lần đầu, giá trị tổng sản phẩm xã hội sẽ được hình thành các quỹ tiền tệ sau đây:
Quỹ bù đắp những chi phí vật chất đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, tiến hành dịch
vụ. Phần này hình thành quỹ khấu hao tài sản cố định và khôi phục lại vốn lưu động
đã bỏ ra. Quỹ tiền tệ này nhằm đảm bảo sản xuất giản đơn của mọi quá trình sản
xuất xã hội.
- Quỹ tích lũy nhằm tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế.
- Quỹ tiêu dùng, bao gồm tiêu dùng cho cá nhân và cho nhà nước.
Quá trình phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập
cơ bản, những quỹ tiền tệ đã được hình thành trong quá trình phân phối lần đầu ra
phạm vi rộng hơn, bao gồm cả lĩnh vực không sản xuất vật chất và dịch vụ.
7.2. Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính nói đến khả năng khách quan của phạm trù
tài chính. Nhờ khả năng đó mà người ta có thể tổ chức kiểm tra quá trình vận động
của các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Khả năng đó được
15
biểu hiện ngay trong quá trình thực hiện chức năng phân phối của tài chính. Ở đó,
người ta có thể kiểm tra về mục đích, quy mô và hiệu quả của quá trình tạo lập và
sử dụng các quỹ tiền tệ. Khác với chức năng giám đốc tài chính, công tác kiểm tra
tài chính là các hoạt động chủ quan của con người trong việc kiểm tra quá trình
phân phối để tạo lập và sữ dụng các quỹ tiền tệ.
Đối tượng giám đốc của tài chính là các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua giám đốc tài chính, để kiểm tra và điều chỉnh
các quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ. Đồng thời, qua đó để kiểm tra
việc tạo lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, quá
trình hạch toán kinh tế, việc chấp hành các đạo luật về tài chính, các chính sách chế
độ tài chính của Nhà nước,…
7.3. Chức năng tạo lập vốn
Sản xuất, lưu thông hàng hóa đòi hỏi phải có trước nguồn vốn, tiền tệ đầu tư
vào các yếu tố sản xuất, vốn tiền tệ để trở thành tiền đề cho quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa, vốn tiền tệ có được nhờ tài chính có chức năng tạo lập vốn.
Trong bất cư phương thức sản xuất nào, việc tạo lập vốn đều dựa vào sản xuất thặng
dư tiết kiệm được, tích lũy được các quỹ khác nhau. Thực hiện chức năng này yêu
cầu các chủ thể phải thiết lập chính sách huy động vốn có hiệu quả trên cơ sở phân
tích các yếu tố như là tính toán nhu cầu và quy mô vốn cần tạo lập, lựa chọn các
công cụ tài chính và đòn bẩy kinh tế trong tạo lập vốn. Nói cách khác, để tạo lập
vốn ngày càng phong phú, đa dạng cũng như để nuôi dưỡng và phát triển các nguồn
tài chính cần chú trọng các vấn đề sau đây:
- Một là hoàn thiện và đòi hỏi công cụ tạo lập vốn phù hợp vơis điều kiện của
các nước.
- Hai là hỗ trợ các công cuộc cải cách khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ
phát triển ngành nghề mới, sản phẩm mới, đổi mới cơ cấu sản xuất kinh doanh.
- Ba là đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất hiện có và lực lượng sản xuất
mới.
7.4. Mối quan hệ giữa các chức năng của tài chính
16
Là những thuộc tính khách quan vốn có bên trong của phạm trù tài chính, các
chức năng phân phối, giám đốc và tạo lập vốn của tài chính có mối lien hệ hữu cơ
gắn bó với nhau. Chính sự hiện diện của chức năng phân phối đã đòi hỏi sự cần
thiết của chức năng giám đốc để đảm bảo cho quá trình phân phối được đúng đắn,
hợp lý hơn theo mục tiêu đã định. Trong thực tiễn, công tác giám đốc – kiểm tra tài
chính có thể diễn ra đồng thời với công tác phân phối, công tác tổ chức sự vận động
của các nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, cũng có thể
diễn ra độc lập tương đối, không đi liền ngay với hoạt động phân phối, mà có thể đi
trước hành động phân phối, hoặc có thể được thực hiện sau khi hành động phân
phối đã kết thúc.
TÌNH HUỐNG THẢO LUẬN:
1. Tình hình thanh toán tiền điện tử ở Việt nam
- Sơ lược thực trạng tình hình thanh toán tiền điện tử ở VN
- Những tiện ích của việc thanh toán tiền điện tử và những khó khăn khi sử
dụng tiền điện tử ở VN.
2. Những hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt tại VN và các nguyên
nhân của nó.
3. Các chức năng của tiền kim loại và tiền dấu hiệu.
BÀI ĐỌC THÊMHỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hơn 4.000 năm, nhưng có thể nói rằng hệ thống
tài chính Việt Nam - hệ thống tài chính do các ngân hàng đóng vai trò chủ đạo bắt
đầu hình thành rõ nét từ năm 1858, năm Việt Nam trở thành một nước phong kiến
nửa thuộc địa của Pháp. Thực ra hệ thống tài chính, các phương tiện thanh toán (tiền
tệ) luôn là những công cụ không thể thiếu trong bất kỳ một nền kinh tế nào, đã tồn
tại từ khi hình thành ra nước Việt Nam. Nhưng hệ thống tài chính, thanh toán thời
bấy giờ rất khác so với hiện nay. Một sự kiện đáng chú ý nhất trong thời phong
17
kiến liên quan đến hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam là vào đầu thế kỷ 15, lần đầu
tiên Hồ Quý Ly đã cho phát hành và lưu thông tiền giấy.
Để thấy rõ quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam,
có thể chia ra làm ba loại hình là: ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.
1.1 Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Căn cứ vào đặc thù của Việt Nam, ta có thể xem xét quá trình phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam qua từng thời kỳ gồm: Quá trình phát triển của hệ thống
ngân hàng Việt Nam thời Pháp thuộc; Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng ở
miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975; Quá trình phát triển của hệ thống ngân
hàng ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 và Quá trình phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
1.1.1. Hệ thống ngân hàng thời Pháp thuộc
Trước khi người Pháp đặt chân lên Việt Nam vào năm 1858, Việt Nam chưa
có tổ chức ngân hàng và tín dụng. Các hoạt động kỹ nghệ, nông nghiệp và thương
nghiệp còn ở trong tình trạng thô sơ và lạc hậu. Việc mua bán giao dịch với các
thương gia nước ngoài chủ yếu nằm trong tay nhà vua và các hoàng thân quốc thích,
và thường trả bằng vàng bạc hay bằng cách trao đổi các sản phẩm nội địa như
đường, hồ tiêu, yến sào…
Đến cuối thế kỷ thứ 19, khi nền đô hộ đã được thiết lập trên toàn cõi Đông
Dương thì Việt Nam, trở thành một thị trường độc chiếm của sản phẩm Pháp. Các
thương gia Pháp đã lập tại các thành phố lớn và thị trấn, tập trung nhất là ở thành
phố Sài Gòn, những xí nghiệp xuất nhập cảng lớn. Các kỹ nghệ gia của họ đầu tư
xây dựng những nhà máy lớn: xi măng, giấy, thuốc lá, tơ sợi, đường, rượu... Một
số người còn lập những đồn điền lớn trồng cao su, cà phê, chè. Trong kế
hoạch củng cố và khai thác những tiềm năng ở Việt Nam, việc phát triển nông
nghiệp đòi hỏi những công trình thủy lợi lớn, việc đầu tư vào công nghiệp,
thương nghiệp và hệ thống giao thông vận tải, đặc biệt là vụ trùng tu và mở rộng
cảng Sài Gòn và x ây dựng những cơ sở vật chất khác của guồng máy thuộc địa đòi
hỏi sự luân chuyển của những khối tiền tệ lớn lao. Các hoạt động kinh tế của người
Pháp ở Đông Dương bành trướng mạnh nên chính phủ phải lập các ngân hàng để hổ
18
trợ các hoạt động ấy. Lúc đầu có 2 ngân hàng được hình thành, trụ sở đặt tại Pháp,
nhưng các chi nhánh được thiết lập tại các thành phố lớn ở Đông Dương.
Ngân hàng Đông Dương (Banque de l'Indochine) thành lập từ 1873, đến
năm 1875 được quyền phát hành tiền tệ cho toàn cõi Đông Dương. Phạm vi hoạt
động của ngân hàng này trải rộng khắp Đông Dương và các vùng đất Ấn thuộc
Pháp. Vào khoảng năm 1930, nó trở thành một phân nhánh thực thụ của các ngân
hàng kinh doanh lớn: Société Generale, Credit Industriel et commercial, Crédit
foncivo de France, Crédit Lyonnais. Là một công cụ hữu hiệu của chính quyền
thuộc địa, Ngân hàng Đông Dương là cơ quan tài chính lớn nhất của chính quyền và
tài phiệt Pháp. Ngoài độc quyền phát hành tiền tệ như một Ngân hàng Trung ương,
nó còn là một ngân hàng kinh doanh thương mại lớn nhất. Ngân hàng Đông Dương
cung cấp vốn cho hoạt động kinh tế của người Pháp ở Đông Dương như Công ty
Hỏa xa Hải Phòng-Vân Nam, Công ty Than Hòn Gai-Cẩm Phả, Công ty Rượu
Đông Dương, Công ty đường Hiệp Hòa, Công ty Cao su Đất Đỏ.
Pháp-Hoa Ngân hàng (Banque Franco-Chinoise) được thành lập với mục
đích hỗ trợ các giao dịch thương mại giữa Pháp, Đông Dương và Trung Hoa cũng
như với một vài nước khác ở Á Đông như Nhật, Thái Lan. Ngoài hai ngân hàng
trên, các nước có quyền lợi kinh tế trong vùng cũng có thiết lập các ngân hàng ở
Việt Nam như The Chartered Bank, The Hong Kong and Shanghai Banking
Corporation của Anh, Trung Quốc ngân hàng và Giao thông ngân hàng của Trung
Quốc.
Từ cuối thế kỷ 19 đến 3 thập niên đầu thế kỷ 20, các hoạt động ngân hàng đều
ở trong tay người nước ngoài. Mãi đến năm 1927, một số tư bản người Việt Nam
mới thành lập một ngân hàng lấy tên là An Nam ngân hàng (sau đổi tên là Việt Nam
ngân hàng) với vốn hoàn toàn của người Việt, chủ yếu hỗ trợ cho các hoạt động
nông nghiệp. Cho đến năm 1954, người Việt có ngân hàng thứ hai là Việt Nam công
thương ngân hàng.
1.1.2. Hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975
Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL
thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam với các nhiệm vụ chính gồm: Phát hành
giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất.
19
Ngày 21/1/1960, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, tháng 7 năm 1976, Ngân
hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tạo
thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống
nhất của Ngân hàng Nhà nước bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại
thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi điếm
ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam ở Miền Bắc có thể
được chia làm hai thời kỳ như sau:
Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được
thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện chức
năng: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý
Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân
sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá.
Thời kỳ 1955 - 1975: Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản gồm: Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định,
góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế;
Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi
phục và phát triển nông, công, thương nghiệp. Trong giai đoạn có hai ngân hàng
chuyên doanh được thành lập đó là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (1957), nay là
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
(1963).
1.1.3. Hệ thống ngân hàng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975
Sau Hiệp định Geneve, chính phủ Pháp ký một loạt hiệp định với Nam Việt
Nam, Campuchia và Lào, chính thức công bố sự phá vỡ tình trạng hợp nhất tiền tệ
và quan thuế giữa ba nước ĐôngDương, giải thể các định chế bốn bên do Pháp
khống chế, khẳng định nguyên tắc mỗi quốc gia được quyền tự do phát hành và
kiểm soát tiền tệ, ấn định hối suất, độc lập đề ra các chính sách tiền tệ, ngoại hối và
ngoại thương. Và từ đó, cùng với chủ quyền về chính trị, người Việt Nam bắt đầu
làm chủ về hoạt động ngân hàng và phát triển nó trên qui mô nhà nước, trực tiếp
20
ảnh hưởng đến các giới kinh doanh, dần dần thay thế vai trò hệ thống ngân hàng
thuộc địa cũ. Có thể phân sự phát triển của ngành ngân hàng miền Nam Việt Nam
thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn từ 1954-1964: Ngày 31-12-1954, với dụ số 48 của Bảo Đại,
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập, thay thế viện phát hành Đông
Dương, chính thức phát hành giấy bạc cho cả miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của hệ thống ngân hàng Pháp vẫn còn đè nặng trên những hoạt động kinh tế
của Sài Gòn. Theo thói quen dân chúng và giới kinh doanh vẫn ưa chuộng các ngân
hàng Pháp còn hoạt động: Vẫn thích ký thác tiền và sử dụng những dịch vụ của
ngân hàng này. Giới kinh doanh người Hoa, do những quan hệ thị trường với Hong
Kong, Đài Loan, Malaysia và Singapore, vẫn tiếp tục sử dụng các ngân hàng Anh,
Hong Kong, Đài Loan. Những quyền lợi kinh tế của người Pháp ở miền Nam vẫn
còn nhiều và hoạt động về ngân hàng của họ cũng khá mạnh. Vào cuối năm 1953,
khi Ngân hàng Đông Dương chấm dứt các hoạt động thương mại của nó thì một
phần nhiệm vụ của nó được chuyển qua Ngân hàng Việt Nam Thương tín và một
phần được chuyển qua Ngân hàng kế nghiệp của người Pháp ở miền Nam là Pháp Á
ngân hàng, ngân hàng tư lớn nhất hoạt động trong thời kỳ này, qui tụ giới tư bản
kinh doanh của Pháp đang tiếp tục kinh doanh khai thác các đồn điền cao su, cà phê,
trà và các nhà kinh doanh công nghiệp của các hãng Dumarest, Oligastre, Alcan
etCie Denis Freres, BGI, Mitac, Caric... Ngoài ra còn có các Ngân hàng của một số
nước khác như Bangkok bank, thiết lập 1961, The Bank of Tokyo, thiết lập năm
1962.
Giai đoạn 1965-1975: Những chuyển biến hoạt động ngân hàng từ 1954
đến 1964 đã tạo tiền đề và điều kiện cho một giai đoạn phát triển rầm rộ từ năm
1965 đến năm 1972 của các ngân hàng thương mại ở Miền Nam Việt Nam. Trong 7
năm đầu của giai đoạn này, 18 ngân hàng mới được thành lập, nâng tổng số lên đến
31 ngân hàng với 178 chi nhánh ở các tỉnh vào năm 1972. Tính theo số dân khoảng
19 triệu lúc đó thì bình quân ở Miền Nam mỗi chi nhánh ngân hàng phục vụ cho
100.000 dân, một con số không thua kém tỉ lệ ở các nước đang phát triển ở Đông
Nam Á. Tính đến trước tháng 04/1975, hệ thống ngân hàng ở Miền Nam bao gồm
hai loại: ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng trung ương thuộc
21
nhà nước, còn các ngân hàng khác, tùy theo nguồn vốn, có thể phân biệt nhóm ngân
hàng của Chính phủ và nhóm ngân hàng tư nhân. Tổng số lên đến 32 ngân hàng
thương mại với 180 chi nhánh, 2 ngân hàng phát triển và 60 ngân hàng nông thôn
xuất phát từ hệ thống này được thành lập tới cấp quận tại các tỉnh miền Nam.
1.1.4. Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975-nay
Với những đặc thù riêng của thời kỳ này, quá trình phát triển của hệ thống
ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay có thể được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1975-1985: Sau năm 1975, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền
Nam đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại
tiền mới, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối
những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một
công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc
thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng chuyển dần
sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những
năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay.
Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước
ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
hạch toán, kinh doanh. Trong giai đoạn này có một sự kiện tác động không tốt đối
với hệ thống ngân hàng Việt Nam (đây cũng có thể là một bài học đắt giá nhưng rất
hữu ích cho việc phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam sau này), đó là sự đổ
bể của hệ thống các quỹ tín dụng. Chính bài học từ sự kiện này cộng với những yêu
cầu về đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tháng 5/1990, hai pháp
lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh
Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế
hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó lần đầu
tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân
biệt rạch ròi:
Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động
kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ
của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là
22
ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ
chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền
làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ
thống các ngân hàng cấp 2.
Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh
toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định
chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là
quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở
hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên
doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín
dụng, Quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính...Trong thời gian này, 4 ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn đã được thành lập gồm: Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam; Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; Ngân hàng Công thương Việt
Nam; Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Trong đó, Ngân hàng Công thương Việt
Nam được thành lập mới, ba ngân hàng còn lại đã được thành lập từ trước đó, trong
giai đoạn này chỉ cơ cấu và chuyển đổi chức năng hoạt động.
Từ năm 1991 đến nay: Đây là giai đoạn hệ thống ngân hàng Việt Nam có rất
nhiều chuyển biến dần theo hướng một hệ thống ngân hàng hai cấp hiện đại qua các
cột mốc chính sau:
Từ năm 1991, khi Pháp lệnh Ngân hàng có hiệu lực, các chi nhánh, văn
phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập tại Việt
Nam. Trong giai đoạn này, 4 ngân hàng liên doanh của 4 ngân hàng thương mại
quốc doanh với các ngân hàng nước ngoài được thành lập ở Việt Nam. Các ngân
hàng thương mại cổ phần bắt đầu được thành lập.
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền
tệ quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với
hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ
23
1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết
định số 769/TTg, ngày 18/9/1997).
Đây cũng chính là năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á. Và điều
này đã tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, sau giai đoạn này, một
số ngân hàng cổ phần hoạt động yếu kém được xắp xếp lại. Từ hơn 50 ngân hàng
thương mại cổ phần, đến cuối năm 2004 chỉ còn lại 37 ngân hàng.
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các Ngân hàng thương
mại Nhà nước và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các Ngân hàng Thương Mai
cổ phần. Trong đó có thêm một sự kiện đáng chú ý là việc thành lập các công ty
quản lý tài sản tại các ngân hàng thương mại.
Năm 2001: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Trong
hiệp định này, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị thường tài chính ngân hàng theo
một lộ trình nhất định.
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng -
Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu
ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với
chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập Ngân hàng Chính sách
xã hội trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng
chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Năm 2004: Sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Trong giai đoạn này, có một sự kiện rất quan trọng ảnh hưởng đến hệ thống
ngân hàng Việt Nam nói riêng, hệ thống tài chính nói chung, đó là Hiệp định
thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ được ký kết. Theo hiệp định này, Thị trường tài
chính ngân hàng Việt Nam từng bước được mở cho các doanh nghiệp của Hoa Kỳ
và đến năm 2010, các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ được đối xử bình đẳng như các
tổ chức tài chính của Việt Nam. Đây là điều kiện tốt để thị trường tài chính Việt
Nam phát triển, nhưng cũng là một thách thức rất lớn cho các tổ chức tài chính
trong nước, nhất là các ngân hàng thương mại.
24
1.2. Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Song song với những đổi mới về hoạt động ngân hàng, những ý tưởng về việc
hình thành một thị trường chứng khoán tại Việt Nam đã bắt đầu được triển khai.
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể hình
dung theo những mốc chính sau:
Thành lập ban nghiên cứu và phát triển thị trường vốn (1993): Một trong
những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng thị trường chứng
khoán (TTCK) ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển
thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày
6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng
đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo bước đi thích hợp.
Thành lập uỷ ban chứng khoán nhà nước (1996): Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là
cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành lập cơ quan quản lý thị trường
chứng khoán trước khi thị trường ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây
dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của
TTCK sau đó hơn 3 năm.
Khai trương trung tâm giao dịch chứng khoán (2000): Kể từ khi thành lập Uỷ
ban chứng khoán nhà nước và có kế hoạch thành lập ngay trung tâm giao dịch
chứng khoán. Nhưng do quá trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết bị kéo dài và tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực năm 1997, mặc dù được thành
lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, nhưng sau 4 năm, ngày
28/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh chính thức được
đưa vào hoạt động với hai Công ty niêm yết đầu tiên và Công ty cổ phần cơ điện
lạnh (REE) và Công ty vật liệu Viễn thông (SACOM). Sau gần 5 năm hoạt động,
trên thị trường có cổ phiếu của 26 công ty, 120 loại trái phiếu. Trong đó chủ yếu là
trái phiếu Chính phủ. Chỉ có một loại trái phiếu công ty được niêm yết trên trị
trường là trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Đưa Uỷ ban chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ tài chính (2004): Qua hơn 5
năm hoạt động, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã thực thi chức năng, nhiệm vụ đạt
25
được nhiều kết quả, thể hiện vai trò là người tổ chức và vận hành Thị trường chứng
khoán Việt Nam. Tuy nhiên, để triển khai có hiệu quả hơn nhiệm vụ điều phối hoạt
động của các Bộ ngành chức năng trong việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát
triển, ngày 19 tháng 02 năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
66/2004/NĐ-CP chuyển Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính.
1.3. Quá trình phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam
Ở Việt Nam, bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ? Không có tài liệu nào chứng
minh một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880 có các Hội bảo hiểm
ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ... đã để ý đến Đông
Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện tại Việt Nam bởi các Công ty thương
mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty này mở thêm một Trụ sở để làm đại diện
bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi nhánh đầu tiên là của Công ty FrancoAsietique. Đến
năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo
hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt
động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự hoạt
động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và ngoại quốc.
Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo
Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến
hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm
tàu viễn dương…. Kể từ thời điểm đó, ở Việt Nam chỉ có một mình Bảo Việt hoạt
động cho đến năm 1998.
Tháng 6/1998, Việt Nam đã cho phép thành lập Công ty Cổ phần bảo hiểm
Bưu điện nhằm mở rộng sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
bảo hiểm. Trong năm 1999, Việt Nam đã mở rộng việc cấp giấy phép hoạt động
kinh doanh bảo hiểm cho 2 công ty liên doanh là Công ty liên doanh bảo hiểm Việt-
úc (BIDV-QBE) và Công ty Bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh CGM; và 4 công ty
100% vốn nước ngoài là: Công ty Bảo hiểm Allianz/AGP, Công ty Bảo hiểm
Chinfon-Manulife, Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential và Công ty Bảo hiểm
nhân thọ quốc tế Mỹ (AIG).
Kể từ khi các công ty bảo hiểm nước ngoài được cấp phép thành lập tại Việt
Nam, hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, nhất là bảo hiểm nhân thọ bắt
26
đầu sôi động với sự phát triển rất nhanh của các công ty bảo hiểm nước ngoài như:
Prudential, Manulife, AIA…Đến cuối năm 2004, trên thị trường bảo hiểm nhân thọ,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm hơn 60% thị phần, trong đó riêng
Prudential chiếm đến 38% tổng thị phần bảo hiểm nhân thọ.
2. Bốn thành tố chính của hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay
Sau khi tìm hiểu một cách tổng quát nhất về lịch sử hình thành và phát triển
của hệ thống tài chính Việt Nam, ta tiếp tục xem xét cấu trúc của hệ thống tài chính
với bốn thành tố chính là: Thị trường tài chính, các tổ chức tài chính, các công cụ tài
chính và cơ sở hạ tầng tài chính.
2.1. Thị trường tài chính
Có rất nhiều cách chia thị trường tài chính khác nhau. Các thuật ngữ về thị
trường tài chính hay được dùng sở Việt Nam ở thời điểm hiện tại gồm: thị trường
vốn, thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối. Sau đây là một số cách chia khác nhau.
Dựa vào thời hạn của tín dụng, thị trường tài chính được chia làm hai loại là
thị trường tiền tệ (nơi giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn dưới 1 năm) và thị
trường vốn (nơi giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn trên 1 năm). Ở các nền
kinh tế phát triển nói chung, thị trường tiền tệ thường do các ngân hàng thực hiện.
Đối với nhu cầu vốn trung dài hạn chủ yếu thực hiện theo hình thức trực tiếp trên thị
trường chứng khoán. Ngược lại, đối với Việt Nam có đặc thù riêng, hầu hết vốn
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều do các ngân hàng thương mại cung cấp, các loại
thị trường khác đang có quy mô rất nhỏ. Hay nói cách khác, ở Việt Nam, việc huy
động và phân bổ vốn chủ yếu thực hiện qua các trung gian tài chính, trong đó các
ngân hàng thương mại đóng vai trò chính.
Dựa trên loại tín dụng, hiện Việt Nam cũng đã có thị trường tín phiếu, thị
trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu; thị trường vay nợ ngân hàng. Như trên đã nói,
thị trường vay nợ ngân hàng là chủ yếu.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Việt Nam cũng đã có thị trường sơ
cấp là nơi phát hành chứng khoán lần đầu tiên. Trên thị trường này, khi phát hành
chứng khoán, thường do một công ty chứng khoán làm các thủ tục, tư vấn và một
27
công ty chứng khoán khác bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, hiện có 26
loại cổ phiếu, một chứng chỉ của quỹ đầu tư VF1, các loại trái phiếu chính phủ và
trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được giao dịch.
Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung: Ở Việt Nam, số lượng các
doanh nghiệp giao dịch trên thị trường tập trung là rất ít, trong khi các giao dịch trên
thị trường phi tập trung là chủ yếu.
Thị trường chính thức và phi chính thức: Ngoài thị trường tài chính chính
thức, nơi mà các ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty chứng khoán … hoạt
động, ở Việt Nam còn có thị trường phi chính thức là các hợp tác xã tín dụng, các tổ
chức tín dụng vi mô ở nông thôn, hụi … hoạt động. Các loại hình tín dụng phi chính
thức này đóng một vai trò đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
2.2. Các tổ chức tài chính
Ở thời điểm cuối năm 2004, xét về quy mô của các tổ chức tài chính Việt Nam
(chưa kể Quỹ hỗ trợ phát triển và Bảo hiểm xã hội) thì tổng vốn mà các tổ chức này
cung ứng ra nền kinh tế hoặc huy động từ nền kinh tế đạt khoảng 450.000 tỷ đồng,
xấp xỉ 70% GDP. Trong đó, tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng là 380.000
tỷ đồng, chiếm 85%; tổng số vốn trên thị trường chứng khoán là 27.000 tỷ đồng,
chiếm 6%; huy động của Tiết kiệm bưu điện là 30.000 tỷ đồng, chiếm 6,7%; thu phí
bảo hiểm đạt khoảng 15.000 tỷ đồng, chiếm 3%
Trong các giáo trình, thường chia các tổ chức tài chính làm hai loại tổ chức tài
chính ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng. Tuy nhiên, cách phân loại này
chủ yếu tập trung vào các tổ chức tài chính hoạt động kinh doanh mà ít đề cập đến
các nhà tạo lập thị trường. Vì vậy, căn cứ vào thực tiễn ở Việt Nam, bài viết chia ra
các tổ chức tài chính hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính
hoạt động trên thị trường chứng khoán, các công ty bảo hiểm hoạt động theo Luật
bảo hiểm và một số loại hình tổ chức tài chính khác.
2.2.1. Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tín dụng
2.2.1.1. Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan của Chính
phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động
28
ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân
hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần
bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngân hàng Nhà nước là
một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước; có trụ sở chính tại Thủ đô
Hà Nội.
2.2.1.2. Các tổ chức tín dụng
Trước khi xem xét các loại hình tổ chức tín dụng thực tế tại Việt nam, chúng ta
cùng tìm hiểu các định nghĩa trong Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam về các tổ
chức tín dụng năm 1997 và được sửa đổi vào năm 2004:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng
không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín
dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức
tín dụng phi ngân hàng khác.
Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp
luật nước ngoài.
Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân
hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động ngân
hàng nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và
đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân
và các hình thức khác.
29
Các loại hình tổ chức tín dụng (theo sở hữu): Tổ chức tín dụng được thành
lập theo pháp luật Việt Nam bao gồm tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng
cổ phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng
100% vốn nước ngoài. Ngoài ra còn có chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân
hàng nước ngoài tại Việt nam.
Các ngân hàng thương mại: Hiện ở Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại quốc
doanh chiếm hơn 70% thị phần tín dụng và huy động vốn; 37 ngân hàng cổ phần đô
thị và nông thôn, chiếm 11% thị phần tín dụng và huy động vốn; 27 chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh chiếm 12% thị phần huy động vốn và tín
dụng.
Ngân hàng chính sách xã hội: Hiện có một ngân hàng chính sách xã hội thực
hiện việc cấp tín dụng cho các đối tượng chính sách. Tiền thân của ngân hàng này là
Ngân hàng phục vụ người nghèo thành lập năm 1995.
Các công ty tài chính: Hiện có 5 công ty tài chính trực thuộc các tổng công ty
lớn. Các công ty tài chính này chủ yếu là dàn xếp tài chính cho tổng công ty mà nó
trực thuộc. Ngoài ra trước năm 2003 còn có Công ty tài chính Sài gòn là một đơn vị
độc lập không thuộc bất kỳ một tổng công ty nào. Nhưng do những hạn chế của mô
hình này hiện đã chuyển thành Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á.
Các công ty cho thuê tài chính: Hiện có 9 công ty cho thuê tài chính, trong đó
có 3 liên doanh. Sáu công ty còn lại trực thuộc 4 ngân hàng thương mại quốc doanh.
Trong đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam có 2 công ty. Nhìn chung hoạt động thuê mua tài
chính còn nhiều hạn chế. Tổng số cho thuê của các công ty này có một phần không
nhỏ là tài sản của các ngân hàng mẹ thuê.
Các quỹ tín dụng: có hai loại hình quỹ tín dụng là quỹ tín dụng trung ương và
quỹ tín dụng khu vực. Tổng số các hợp tác xã tín dụng là 898 và chiếm 1,5% thị
phần huy động vốn và cho vay. Ngoài ra còn một số loại hình tổ chức tài chính khác
hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng là các công ty quản lý tài sản, các tổ chức
cầm đồ…
Tất cả các tổ chức tín dụng hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu
sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổng dư nợ cho vay của hệ thống
30
các tổ chức tín dụng Việt Nam đạt gần 380.000 tỷ, xấp xỉ 60% GDP. Tổng vốn điều
lệ của các tổ chức tín dụng Việt Nam khoảng 33.500 tỷ đồng.
2.2.2. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các tổ chức hoạt động trên
TTCK
Uỷ ban chứng khoán nhà nước: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước khi mới
thành lập là cơ quan trực thuộc Chính phủ, năm 2004 chuyển thành cơ quan trực
thuộc Bộ tài chính. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có nhiệm vụ chính trong việc tổ
chức và giám sát các hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Các công ty chứng khoán: Hiện có 13 công ty chứng khoán hoạt động với
chức năng là các tổ chức môi giới trên thị trường chứng khoán như lập các thủ tục
phát hành, bảo lãnh phát hành chứng khoán …
Ngân hàng chỉ định thanh toán: Trên thị trường có 1 ngân hàng chỉ định
thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Ngân hàng lưu ký chứng khoán: Hiện có 5 ngân hàng lưu ký chứng khoán.
Công ty quản lý quỹ đầu tư: Hiện tại có 1 công ty quản lý quỹ đầu tư đang
quản lý quỹ VF1.
Các công ty niêm yết: Hiện có 26 công ty niêm yết trên thị trường. Các công
ty này chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá.
Tổng số vốn giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam gần 27.000 tỷ
đồng, bằng 4% GDP. Trong đó, giá trị cổ phiếu bằng 3.195 tỷ đồng, chiếm 12%
tổng giá trị thị trường, bằng 0,5% GDP. Ngoài ra còn có một số quỹ đầu tư đóng vài
trò đáng kể trên thị trường chứng khoán nói riêng, thị trường tài chính nói chung
là Dragon Capital, Mekong Capital, Vinacapit al, Indochina Capital, Quỹ đầu tư
mạo hiểm của tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDG) và một số công ty quản lý quỹ như
Công ty quản lý quỹ đầu tư Việt Nam, Công ty quản lý quỹ Thành Việt, Công ty
quản lý quỹ Manulife và Công ty quản lý quỹ Frudential, Finansa, FXF Vietnam.
Các quỹ đầu tư này vừa tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, vừa đầu tư
trực tiếp vào các doanh nghiệp.
2.2.3. Các công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm: Hiện có khoảng 24 công ty bảo hiểm đang hoạt động
tại Việt Nam với tổng vốn điều lệ gần 5.000 tỷ đồng. Trong đó có 4 doanh nghiệp
31
nhà nước, 7 công ty bảo hiểm cổ phần, 7 công ty bảo hiểm liên doanh và 6 doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) chiếm thị phần chủ yếu. Trên thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ, ba doanh nghiệp có thị phần lớn nhất là Bảo Việt, Prudential và AIA.
Các công ty bảo hiểm hoạt động theo Luật bảo hiểm và chịu sự quản lý của Bộ Tài
chính.
Quy mô thị trường: Tổng số thu phí bảo hiểm năm 2004 gần 12.500 tỷ đồng,
trong đó doanh thu từ bảo hiểm nhân thọ chiếm khoảng 2/3 tổng số doanh thu của
bảo hiểm. Doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu tập trung đầu tư vào
trái phiếu và gửi tại các ngân hàng thương mại.
2.2.4. Một số loại hình tổ chức tài chính khác
Quỹ lương hưu: hiện Việt Nam chưa có quỹ lương hưu, nhưng có một quỹ rất
lớn đó là bảo hiểm xã hội Việt Nam. Phần thặng dư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
chủ yếu chuyển sang Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Tiết kiệm bưu điện: Đây là tổ chức thực hiện các loại hình huy động tiết kiệm
nhỏ lẻ dựa trên hệ thống bưu cục rộng khắp của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
Việt Nam. Tổng số vốn Tiết kiệm bưu điện huy động được gần 30.000 tỷ đồng.
Phần huy động này chủ yếu chuyển giao sang cho Quỹ hỗ trợ Phát triển.
Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các tỉnh, thành phố:
Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức cấp tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (tín
dụng chỉ định) cho các dự án. Quỹ này trực thuộc Bộ tài chính. Các quỹ đầu tư phát
triển địa phương trực thuộc các uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố. Các quỹ này có
nhiệm vụ cho vay các dự án theo định hướng phát triển của từng địa phương. Quỹ
hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các địa phương hoạt động không
chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng và không chịu sự giám sát của Ngân
hàng Nhà nước.
2.3. Các công cụ tài chính
Trong các giáo trình thường chia các công cụ tài chính trên thị trường vốn, thị
trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, công cụ tài chính phái sinh ... Việc chia này
cũng có tính chất tương đối vì nhiều loại công cụ tài chính được giao dịch trên
nhiều thị trường khác nhau. Ví dụ: các loại công cụ tài chính phái sinh có thể được
32
giao dịch trên thị trường tiện tệ, thị trường vốn, thị ngoại hối, thị trường nông sản...
hay ở Việt Nam, trái phiếu chính phủ vẫn có thể giao dịch trên thị trường tiền tệ,..
Hiện tại trên thị trường tài chính Việt Nam có các loại công cụ tài chính sau:
Các khoản cho vay của các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác: Phần này
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong việc phân phối vốn cho nền kinh tế.
Trái phiếu chính phủ: Tổng giá trị trái phiếu chính phủ giao dịch trên thị
trường chứng khoán là 24.000 tỷ đồng. Ngoài ra trái phiếu chính phủ còn được phát
hành thông qua hệ thống các kho bạc nhà nước địa phương.
Tín phiếu kho bạc: Loại này do Kho bạc nhà nước phát hành và được đấu giá
chủ yếu thông qua thị trường mở của Ngân hàng nhà nước. Đây là một công cụ huy
động nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách rất quan trọng của chính phủ.
Trái phiếu đô thị: Do các chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố) phát hành.
Hiện tại mới có thành phố Hồ Chí Minh phát hành loại trái phiếu này. Các địa
phương khác thích dùng tín dụng qua ngân hàng hơn.
Trái phiếu công ty: Loại này tương đối ít, chủ yếu do các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính phát hành. Hiện nay có hai loại trái phiếu đang được
giao dịch tương đối phổ biến trên thị trường là trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam và Trái phiếu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam.
Chứng chỉ tiền gửi: Theo phân loại trong các giáo trình thì chứng chỉ tiền gửi
là công cụ tài chính của thị trường tiền tệ, nhưng đặc trưng của Việt Nam, chứng chỉ
tiền gửi là một loại giấy tờ có giá do các ngân hàng phát hành có thời hạn trên 1
năm với những đặc điểm tương tự như trái phiếu. Loại hình giấy tờ có giá do các
ngân hàng thương mại phát hành có thời hạn dưới một năm được gọi là kỳ phiếu.
Cổ phiếu: Hiện ở Việt Nam đã có rất nhiều công ty cổ phần nên loại hình này
tương đối phổ biến. Tuy nhiên mới chỉ có 26 công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán, với tổng giá trị cổ phiếu chiếm khoảng 0,5% GDP. Đây là một con số rất
khiêm tốn.
Hợp đồng mua lại chứng khoán: Hiện nay chưa có giao dịch chính thức.
Phiếu nợ thương mại (thương phiếu): Hiện đã có pháp lệnh về thương phiếu,
nhưng hầu như chưa có doanh nghiệp nào phát hành thương phiếu.
33
Hối phiếu có ngân hàng chấp thuận: Hiện loại hình này thực hiện trong các
giao dịch ngoại thương.
Vay liên ngân hàng: Đây là loại hình giao dịch rất phổ biến giữa các ngân
hàng thương mại với nhau. Các loại hình cho vay phổ biến gồm, cho vay qua đêm,
cho vay có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng.
Euro Đô-la: Ở Việt Nam không có công cụ này.
Vay thế chấp mua bất động sản: Hiện ở Việt Nam đã có công cụ này và các
ngân hàng thương mại cổ phần đi đầu trong việc cho vay theo phương thức này.
Các loại công cụ tài chính phái sinh
Hợp đồng kỳ hạn (Forward contract): Hiện trên thị trường Việt Nam có loại
hình giao dịch này và chủ yếu là các hợp đồng mua bán ngoại tệ.
Hợp đồng tương lai (Future contract): Hiện ở Việt Nam chưa có.
Hoán đổi (Swap): Hiện ở Việt Nam đã có loại hình này, nhưng lượng giao
dịch rất hạn chế. Các giao dịch chủ yếu được thực hiện trên thị trường ngoại hối.
Các loại hình hoán đổi khác như lãi suất … hầu như chưa xuất hiện.
Quyền chọn: Hiện một số ngân hàng Việt Nam đã có loại hình giao dịch này,
nhưng khối lượng giao dịch là rất hạn chế. Chưa có tổ chức tài chính nào thực sự
bán quyền chọn mà chỉ thực hiện dưới hình thức là các trung gian.
2.4. Cơ sở hạ tầng tài chính
Hệ thống luật pháp và quản lý của nhà nước: Tính đến thời điểm hiện tại, với
bối cảnh và điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống luật pháp được đánh giá là
tương đối đầy đủ để hệ thống tài chính hoạt động. Hiện đã có Luật Ngân sách nhà
nước, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật bảo hiểm. Dự
kiến năm 2006 Luật chứng khoán sẽ ra đời (hiện tại văn bản cao nhất quy định về tổ
chức và hoạt động của thị trường chứng khoán là Nghị định của chính phủ). Tuy
nhiên vấn đề quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và thống nhất. Một số tổ chức
có quy mô hoạt động tín dụng rất lớn nhưng không chịu sự chi phối của Luật các tổ
chức tín dụng và chịu sự giám sát của Ngân hàng nhà nước như Quỹ Hỗ trợ phát
triển và các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ trợ phát triển
có thể lớn hơn tổng tài sản của ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam là Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
34
Nguồn lực và thông lệ giám sát: Theo đánh giá thì nguồn lực và các thông lệ
giám sát chưa đáp ứng nhu cầu cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát
triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Cung cấp thông tin: Hiện nay các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính
nói chung đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định về
kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện
vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ
tín cậy. Hiện trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đang đảm nhận nhiệm vụ này. Tuy nhiên để trở thành một tổ chức có độ tin cậy cao
thì CIC còn rất nhiều việc phải làm.
Hệ thống thanh toán: Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt
Nam sử dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ
chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại đã xây dựng hệ thống thanh toán
tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ thống
thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ
thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam. Khi tất cả các ngân hàng xây dựng
xong hệ thống này thì công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam là đảm
bảo.
(Nguồn: Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển -
Huỳnh Thế Du/Nguyễn Minh Kiều)
35
CHƯƠNG 2
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Chương Ngân sách Nhà nước bao gồm những nội dung cơ bản: vai trò của
ngân sách Nhà nước, thu – chi của ngân sách Nhà nước, tổ chức hệ thống ngân sách
và phân cấp ngân sách Nhà nước, năm ngân sách và chu trình ngân sách. Học xong
chương này sinh vên có thể:
- Phân tích được vai trò của ngân sách Nhà nước đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
- Trình bày được các nguồn thu - chi của ngân sách Nhà nước và phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thu - chi ngân sách Nhà nước dẫn đến thâm hụt
ngân sách Nhà nước và các biện pháp khắc phục.
- Trình bày được nội dung của tổ chức hệ thống ngân sách và phân cấp ngân
sách Nhà nước.
- Nhắc lại được năm ngân sách và nội dung chu trình quản lý ngân sách Nhà
nước.
1. Vai trò của ngân sách Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của Ngân sách nhà nước được thay đổi
và trở nên hết sức quan trọng .Trong quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc gia Ngân
sách nhà nước có các vai trò như sau :
1.1 Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước
Vai trò này xuất phát từ bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước, để đảm bảo
cho hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi phải
có những nguồn tài chính nhất định. Những nguồn tài chính này được hình thành từ
các khoản thu thuế và các khoản thu ngoài thuế . Đây là vai trò lịch sử của Ngân
sách nhà nước mà trong bất kỳ chế độ xã hội nào, cơ chế kinh tế nào ngân sách nhà
nước đều phải thực hiện.
36
1.2 Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và
chống lạm phát
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh giữa các nhà
doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của thị trường là
cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt động của thị
trường. Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên hoặc giảm đột
biến và gây ra biến động trên thị trường, dẫn đến sự dịch chuyển vốn của các doanh
nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa phương này sang địa phương khác.
Việc dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác động tiêu cực đến cơ cấu kinh tế, nền
kinh tế phát triển không cân đối. Do đó, để đảm bảo lợi ích cho nhà sản xuất cũng
như người tiêu dùng nhà nước phải sử dụng ngân sách để can thiệp vào thị trường
nhằm bình ổn giá cả thông qua công cụ thuế và các khoản chi từ ngân sách nhà
nước dưới các hình thức tài trợ vốn, trợ giá và sử dụng các quỹ dự trữ hàng hoá và
dự trữ tài chính. Đồng thời , trong quá trình điều tiết thị trường ngân sách nhà nước
còn tác động đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn thông qua việc sử dụng các
công cụ tài chính như: phát hành trái phiếu chính phủ, thu hút viện trợ nước ngoài,
tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường vốn… qua đó góp phần kiểm soát
lạm phát.
1.3 Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất
Để định hướng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhà nước sử dụng công cụ thuế
và chi ngân sách. Bằng công cụ thuế một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách, mặt
khác nhà nước sử dụng thuế với các loại thuế, các mức thuế suất khác nhau sẽ góp
phần kích thích sản xuất phát triển và hướng dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào
những vùng những lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng đã
định. Đồng thời, với các khoản chi phát triển kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào
các ngành kinh tế mũi nhọn… nhà nước có thể tạo điều kiện và hướng dẫn các
nguồn vốn đầu tư của xã hội vào những vùng, lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý.
1.4 Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp
dân cư
Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến sự phân hoá
37
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhà nước phải có một chính sách phân phối lại
thu nhập hợp lý nhằm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về thu nhập trong dân cư.
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính hữu hiệu được nhà nước sử dụng để điều
tiết thu nhập, với các sắc thuế như thuế thu nhập luỹ tiến, thuế tiêu thụ đặc biệt …
một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách mặt khác lại điều tiết một phần thu nhập của
tầng lớp dân cư có thu nhập cao. Bên cạnh công cụ thuế, với các khoản chi của ngân
sách nhà nước như chi trợ cấp, chi phúc lợi cho các chương trình phát triển xã hội:
phòng chống dịch bệnh, phổ cập giáo dục tiểu học, dân số và kế hoạch hoá gia
đình… là nguồn bổ sung thu nhập cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Các vai trò
trên của Ngân sách nhà nước cho thấy tính chất quan trọng của Ngân sách nhà nước,
với các công cụ của nó có thể quản lý toàn diện và có hiệu quả đối với toàn bộ nền
kinh tế.
2. Thu và chi của Ngân sách Nhà nước
2.1. Thu Ngân sách Nhà nước
Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài chính của xã
hội dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Như
vậy, thu ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay
nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu
của nhà nước. Thu ngân sách nhà nước bao gồm: thu trong cân đối ngân sách và thu
bù đắp thiếu hụt của ngân sách.
2.1.1. Thu trong cân đối ngân sách: gồm các khoản thu mang tính chất Thuế
(Thuế ,Phí , Lệ phí ) và thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước.
- Thu thuế: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật pháp
qui định đối với các pháp nhân và thể nhân thuộc đối tượng chịu thuế nhằm đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước mà thuế còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng kinh
tế, về sự công bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội. Trong phạm vi nghiên
cứu các vấn đề của tài chính và ngân sách nhà nước, chúng ta sẽ xem xét thuế với
các vai trò cơ bản của nó là: tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, kích thích tăng
trưởng kinh tế và điều chỉnh thu nhập.
38
* Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Là vai trò đầu tiên của thuế. Mỗi
một loại thuế mà nhà nước ban hành đều nhằm vào mục đích là tạo nguồn thu
cho
ngân sách nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường vai trò này của thuế càng nổi
bậc
- Thu lệ phí và phí:
Lệ phí: là khoản thu mang tính chất thuế vì nó vừa mang tính cưỡng bách
được qui định trong những văn bản pháp luật của nhà nước nhưng đồng thời nó lại
mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về việc nhà nước thực hiện một số thủ
tục hành chính nào đó. Ví dụ: lệ phí trước bạ, lệ phí tòa án, lệ phí cấp giấy phép xây
dựng, lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, lệ phí công chứng…
Phí: là khoản thu mang tính chất thuế, là khoản thu mang tính bù đắp một
phần chi phí thường xuyên và không thường xuyên về các dịch vụ công cộng hoặc
bù đắp chi phí cho các hoạt động duy trì, tu bổ các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội phục vụ cho người nộp phí. Phí có hai loại: thứ nhất, các loại phí mang tính
phổ biến do chính phủ qui định. thứ hai, các loại phí mang tính địa phương. Ví dụ:
học phí, viện phí, phí giao thông, phí cầu đường….
Lệ phí và phí là các khoản thu tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn
thu của ngân sách nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng vì nó liên quan đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
- Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường nhà
nước tham gia các hoạt động kinh tế bằng việc đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh
dưới hình thức góp vốn vào các doanh nghiệp, công ty liên doanh, mua cổ phiếu của
các công ty cổ phần. Số vốn đầu tư của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh nói trên sẽ sinh lời và lợi tức thu được sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà
nước, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh
nghiệp. Các khoản thu này phản ảnh hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước, bao
gồm:
- Thu từ việc bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp quốc doanh.
-Thu từ việc bán tài sản của nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê
39
trước đây.
- Thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn của ngân sách nhà nước.
- Thu từ việc bán lại các cơ sở kinh tế của nhà nước cho các thành phần kinh
tế khác.
- Thu từ cho thuê hoặc bán tài nguyên thiên nhiên.
2.1.2. Thu bù đắp thiếu hụt của Ngân Sách
Trong quá trình điều hành ngân sách, các chính phủ thường có nhu cầu chi
nhiều hơn số tiền thu được và việc cắt giảm các khoản chi rất là khó khăn vì liên
quan đến các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội …. Do đó, bắt buộc chính
phủ phải tính tới các giải pháp để bù đắp sự thâm hụt của ngân sách nhà nước. Giải
pháp thường được chính phủ sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu,
bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài:
- Vay trong nước:
Vay nợ trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công
trái. Công trái phiếu là chứng chỉ nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán
hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và
ngân hàng. Ở Việt Nam chính phủ thường ủy nhiệm cho Kho Bạc nhà nước phát
hành trái phiếu chính phủ dưới các hình thức: Tín phiếu kho bạc, Trái phiếu kho
bạc, Trái phiếu công trình,..
- Viện trợ và vay nợ nước ngoài:
+ Viện trợ nước ngoài: bao gồm viện trợ không hoàn lại và viện trợ có hoàn
lại với lãi suất thấp và thời hạn trả nợ dài hơn so với các khoản vay trên thị trường
quốc tế.
- Vay nợ nước ngoài: là những khoản cho vay của nước ngoài theo điều kiện
thương mại và lãi suất thị trường và được thể thực hiện dưới các hình thức: phát
hành trái phiếu, tín dụng xuất khẩu và vay từ các ngân hàng thương mại nước ngoài.
2.2 Chi Ngân sách Nhà nước
Chi ngân sách, một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác động rất
lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Chi ngân sách bao gồm chi cho đầu tư phát
triển (tích lũy), chi tiêu dùng thường xuyên và chi trả nợ gốc tiền chính phủ vay.
2.2.1. Chi đầu tư phát triển kinh tế
40
Chi đầu tư phát triển là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho
quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vàocác
lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. Nói khác đi, việc chi cho
đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước nhằm mục đích tạo ra một sự khởi động
ban đầu, kích thích qúa trình vận đông các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự
tăng trưởng.
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản: là khoản chi tài chính nhà nước được đầu tư cho
các công trình thuộc kết cấu hạ tầng (cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống thuỷ lợi,
năng lượng, viễn thông…) các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công
trình và dự án phát triển văn hóa xã hội trọng điểm, phúc lợi công cộng nhằm hình
thành thế cân đối cho nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích thích qúa trình vận động vốn
của doanh nghiệp và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho người dân. Chi đầu tư xây dựng cơ bản có tầm quan
trọng trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế và xã hội, góp phần
hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý theo định hướng của nhà nước, tạo điều kiện thúc
đẩy sản xuất phát triển và nâng cao năng suất lao động xã hội.
- Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước: là khoản chi gắn liền
với sự can thiệp của nhà nưóc vào lĩnh vực kinh tế. Với khoản chi này một mặt nhà
nưóc bảo đảm đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần thiết tạo điều
kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội, mặt khác nhằm hình thành một cơ cấu kinh tế
hợp lý.
- Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh
vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước: trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
các công ty cổ phần được hình thành thông qua quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp
quốc doanh hoặc thành lập mới. Các doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên
cơ sở liên doanh liên kết giữa các tổ chức kinh tế với nhau . Các doanh nghiệp này
tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế kể cả ở những lĩnh vực có vị trí trọng
yếu ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
- Chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển: Quỹ hỗ
trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia là những tổ chức tài chính
41
có tư cách pháp nhân, thực hiện chức năng huy động vốn và tiếp nhận các nguồn
vốn từ ngân sách nhà nước để cho vay đối với các chương trình , dự án phát triển
các ngành nghề thuộc diện ưu đãi và các vùng khó khăn theo quy định của chính
phủ ( chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển kinh tế biển, phát triển
rừng … ).
- Chi dự trữ nhà nước: Dự trữ Nhà nước được sử dụng cho hai mục đích: Điều
chỉnh hoạt động của thị trường, điều hòa cung cầu về tiền,ngoại tệ và một số mặt
hàng thiết yếu: gạo, xăng dầu …trên cơ sở đó bảo đảm ổn định cho nền kinh tế;
đồng thời giải quyết hậu quả các trường hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm ảnh hưởng
đến sản xuất và đời sống .
2.2.2. Chi tiêu dùng thường xuyên
Bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức năng quản lý xã
hội của nhà nước, khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ phận vốn
được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của dân cư về phát triển văn hóa xã hội, nó có
mối quan hệ trực tiếp đến thu nhập và nâng cao mức sống của dân cư và một bộ
phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước.
Chi tiêu dùng thường xuyên bao gồm các khoản chi sau đây: Chi quản lý nhà
nước, Chi An ninh quốc phòng, Chi sự nghiệp( chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp
nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường, sự nghiệp giáo dục đào tạo, sự nghiệp y
tế, sự nghiệp văn hóa nghệ thuật , thể thao và sự nghiệp xã hội).
2.2.3 Chi trả nợ gốc tiền chính phủ vay
Chi trả nợ nhà nước bao gồm: Trả nợ trong nước và Trả nợ nước ngoài. Hàng
năm số chi trả nợ của nhà nước được bố trí theo một tỷ lệ nhất định trong tổng số
chi của ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
2.3. Cân đối ngân sách
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng được nhà nước sử dụng
để phân phối thu nhập quốc dân. Chức năng phân phối của ngân sách được thể hiện
trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính để hình thành nên các
khoản thu và các khoản chi của ngân sách. Về nội dung, các khoản thu và chi này có
quan hệ hữu cơ với nhau và dựa trên nguyên tắc hai bộ phận này phải được cân đối.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, việc cân đối ngân sách nhà nước được
42
thực hiện theo nguyên tắc: Ưu tiên cho các khoản chi đầu tư phát triển sau đó mới
dành cho chi tiêu dùng thường xuyên. Trong thực tế do số thu thường rất thấp, thậm
chí nhiều khi không đủ cho chi đầu tư phát triển nên việc cân đối ngân sách luôn
lâm vào tình trạng bị động, trong khi đó nhu cầu chi tiêu dùng thường xuyên lại rất
cấp bách. Do đó, chính phủ thường phải phát hành tiền ngoài dự kiến là nguyên
nhân gây ra lạm phát.
Trong cơ chế thị trường, yêu cầu đổi mới hoạt động của ngân sách nhà nước
đòi hỏi phải xây dưng mô hình quản lý ngân sách thích hợp và phù hợp với thông lệ
quốc tế, mô hình này cho phép xác định cơ cấu ngân sách với nội dung các khoản
thu và chi để đảm bảo sự cân đối của ngân sách nhà nước. Cụ thể mô hình quản lý
ngân sách nhà nước được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng:
- Thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí, lệ phí và một số khoản thu không mang
tính chất thuế như: thu lợi tức cổ phần nhà nước, thu từ cho thuê và bán tài sản
thuộc sở hữu nhà nước…là những khoản thu thường xuyên của nhà nước và được
hình thành theo nguyên tắc không hoàn trả. Các khoản thu này còn được gọi là các
khoản thu trong cân đối ngân sách được sử dụng ưu tiên cho các khoản chi tiêu
dùng thường xuyên của chính phủ, phần còn lại sẽ dành cho chi đầu tư phát triển.
- Thu từ các khoản viện trợ và vay nợ của chính phủ. Nguồn thu này dùng để
bù đắp số thiếu hụt của ngân sách nhà nước do chênh lệch giữa tổng số chi và tổng
số thu trong cân đối ngân sách để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Do đó, các
khoản thu viện trợ và vay nợ của chính phủ được gọi là các khoản thu bù đắp thiếu
hụt của ngân sách. Cơ chế cân đối ngân sách nhà nước này tạo ra thế chủ động rất
lớn cho chính phủ cho phép giải quyết trước hết các nhu cầu cấp bách để ổn định
đời sống và trật tự xã hội, hơn nữa nó cũng vạch ra một ranh giới rõ ràng về phạm
vi tiêu dùng nằm trong giới hạn các khoản thu nhập do nền kinh tế tạo ra. Các khoản
thu bù đắp thiếu hụt (vay) chỉ phục vụ cho chi đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả
năng trả nợ cho chính phủ.
3. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước - Phân cấp Ngân sách Nhà nước
3.1. Hệ thống Ngân sách Nhà nước
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể ngân sách của các cấp chính quyền
nhà nước. Tổ chức hệ thống ngân sách chịu tác động bởi nhiều yếu tố mà trước hết
43
đó là chế độ xã hội của một nhà nước và phân chia lãnh thổ hành chính. Thông
thường ở các nước hệ thống ngân sách được tổ chức phù hợp với hệ thống hành
chính. Ở nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ
chức theo hai cấp: ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa
phương, trong đó ngân sách địa phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách
thành phố (hay tỉnh) , ngân sách quận (huyện) , ngân sách xã (phường).
Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất
theo nguyên tắc tập trung và dân chủ, thể hiện:
- Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành
một thể thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định mức
chi tiêu và cùng thực hiện một quá trình ngân sách.
- Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung
các nguồn thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự chi
phối của ngân sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo
cân đối của ngân sách cấp mình.
- Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân
sách cấp dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền chi
phối ngân sách cấp mình.
3.2. Phân cấp Ngân sách Nhà nước
Trong nền kinh tề thị trường ngân sách nhà nước trở thành công cụ quan trọng
giúp nhà nước điều hành nền kinh tế xã hội và việc xác định cơ cấu thu chi của các
cấp ngân sách cũng như phương pháp quản lý các cấp ngân sách là rất cần thiết.
Phân định nguồn thu và các khoản chi của mỗi cấp ngân sách là nội dung cơ
bản của phân cấp quản lý ngân sách nhằm tạo điều kiện về tài chính cho chính
quyền nhà nước các cấp tham gia vào quá trình tổ chức, huy động, phân phối và sử
dụng các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để thực hiện các chức năng nhiệm vụ
xác định. Khi phân cấp quản lý ngân sách cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản
sau:
- Đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và vị trí độc lập của ngân
sách địa phương trong hệ thống ngân sách nhà nước thống nhất.
- Xác định cụ thể trách nhiệm và quyền hạn thu chi giữa các cấp ngân sách.
44
- Đảm bảo sự hợp lý và công bằng giữa các địa phương.
3.2.1 Phân định nguồn Thu giữa các cấp ngân sách
Có 4 phương pháp thực hiện phân phối nguồn thu giữa các cấp ngân sách:
* Phương pháp thu đủ chi đủ: nội dung của phương pháp này là toàn bộ số thu
và các nhiệm vụ chi của ngân sách đều do ngân sách trung ương đảm nhận. Phương
pháp này đảm bảo cho trung ương quyền chủ động nhưng hạn chế khả năng sáng
tạo của địa phương.
* Phương pháp khoán gọn: Trung ương giao cho địa phương được thu một số
khoản thu xác định để đảm bảo nhiệm vụ chi cho địa phương. Phương pháp này
khuyến khích địa phương quan tâm và bồi dưỡng nguồn thu của mình nhưng không
chú ý đến nguồn thu của trung ương.
* Phương pháp dự phần: Theo phương pháp này ngân sách địa phương được
hưởng một phần từ các khoản thu chung được xác định theo tỷ lệ phần trăm hay còn
gọi là tỷ lệ điều tiết. Phương pháp này khuyến khích địa phương quan tâm đến
khoản thu nhưng phân định nguồn thu giữa các cấp ngân sách rất phức tạp và hàng
năm phải điều chỉnh.
* Phương pháp hỗn hợp: Là phương pháp áp dụng hỗn hợp cả ba phương pháp
trên, nguồn thu của ngân sách địa phương bao gồm 3 phần chính: Các khoản thu ổn
định, các khoản thu điều tiết và các khoản trợ cấp từ ngân sách trung ương.
Theo luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam (1996) và luật Sửa đổi, Bổ sung một
số điều của luật Ngân sách Nhà nước VN (1998) phân định nguồn thu giữa các cấp
ngân sách của nước ta được thực hiên theo phương pháp hỗn hợp.
3.2.2 Phân định chi giữa các cấp ngân sách
Phân công quản lý nhà nước về kinh tế xã hội giữa các cấp chính quyền là cơ
sở để phân định chi giữa các cấp ngân sách. Trong cơ chế thị trường, nhà nước sử
dụng ngân sách nhà nước làm công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì
phân cấp quản lý chi giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc:
- Ngân sách trung ương đảm nhận nhiệm vụ chi theo các chương trình quốc
gia hoặc các dự án phát triển nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế và tạo
môi trường thuận lợi kích thích quá trình tích tụ và đầu tư vốn cho sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp và dân cư.
45
- Ngân sách địa phương thực hiện các khoản chi gắn với việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.
4. Năm ngân sách và chu trình ngân sách
- Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính, tài khóa) là giai đoạn mà trong
đó dự toán thu – chi tài chính của Nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Hiện nay các nước trên thế giới, thời gian cho một năm ngân sách bằng với thời
gian của một năm dương lịch (12 tháng) (thường tính từ ngày 1/1 đến ngày 31/12
năm dương lịch).
- Chu trình ngân sách hay còn gọi là quy trình ngân sách để chỉ toàn bộ hoạt
động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu hình thành cho đến khi kết thúc chuyển
sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách bao gồm 3 khâu nối tiếp nhau: lập
ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Do đó, thời gian của một
chu trình ngân sách không trùng với năm ngân sách và dài hơn thời gian của một
năm ngân sách.
+ Lập ngân sách: Mục tiêu của giai đoạn này là để xác định nhiệm vụ động
viên, phân phối tối ưu các nguồn vốn nhằm bảo đảm tính vững chắc, tính khả thi
của ngân sách.
+ Chấp hành ngân sách: Chấp hành ngân sách bao gồm chấp hành thu ngân
sách nhà nước (là quá trình tổ chức và quản lý nguồn thu của ngân sách nhà nước)
và chấp hành chi ngân sách nhà nước (à quá trình tổ chức và quản lý cáckhoản chi
của ngân sách nhà nước).
+ Quyết toán ngân sách: Nội dung của giai đoạn này là nhằm phản ảnh, đánh giá và
kiểm tra lại quá trình hình thành và chấp hành ngân sách nhà nước. Sau khi kết thúc
năm tài chính, các đơn vị sử dụng vốn ngân sách nhà nước phải khoá sổ kế toán và
lập quyết toán ngân sách nhà nước theo số thực thu, thực chi theo hướng dẫn của Bộ
tài chính.
46
BÀI ĐỌC THÊMPHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Sự cần thiết và tác dụng của việc phân cấp quản lý NSNN
Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới nay đã
qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định
nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa ngân sách trung ương và
chính quyền các cấp trong quản lý ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính
quyền địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước
gồm nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế
phân cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo
bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố
chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố
lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa
phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính
quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa
phương mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số
khoản thu như: tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê
và tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho
địa phương quản lý sẽ hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt động
của ngân sách nhà nước với cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực
sự nhằm tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính
quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả
cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân
cấp quản lý ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện
tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách
từ trung ương đến điah phương mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế
nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Nó cho phép quản lý và
kế hoạch hoá ngân sách nhà nước được tốt hơn, điều chỉnh mối quan hệ giữa các
cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy
47
vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của ngân sách nhà nước. Đồng thời, phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước còn có tác động thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã
hội ngày càng hoàn thiện hơn.
Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối
quan hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương
trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành ngân sách nhà nước đúng đắn và
hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý ngân sách nhà nước.
2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc giải quyết mối quan hệ giữa các
cấp chính quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành ngân
sách nhà nước.
Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các nguyên
tắc sau đây:
Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp
quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ
vật chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của
các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và
quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên tắc
này còn đảm bảo tính độc lập tương đối trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
ở nước ta.
Hai là: ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ
bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở của
nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nước trung ương trong quản
lý kinh tế, xã hội của cả nước mà Hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá
của nguồn tài chính quốc gia.
Nguyên tắc này được thể hiện:
- Mọi chính sách, chế độ quản lý ngân sách nhà nước được ban hành thống
nhất và dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương.
- Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền
kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng lớn
48
phải được tập trung vào ngân sách trung ương, các khoản chi có tác động đến quá
trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước phải do ngân sách trung ương đảm
nhiệm. Ngân sách trung ương chi phối hoạt động của ngân sách địa phương, đảm
bảo tính công bằng giữa các địa phương.
Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm
(%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp
dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung
một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân
cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa phương được thu do ngân sách địa phương
thu, khoản nào ngân sách địa phương phải chi do ngân sách địa phương chi. Không
để tồn tại tình trạng nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai hoặc lạm thu giữa
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện nâng
cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa phương và trung
ương trong quản lý ngân sách nhà nước, tránh co kéo trong xây dựng kế hoạch như
trước đây.
Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách
phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp nhất sự
chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.
3. Nội dung của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Dựa trên cở quán triệt những nguyên tắc trên, nội dung của phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước được quy định rõ trong chương II và III của luật ngân sách nhà
nước bao gồm:
Nội dung thứ nhất là phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều hành
ngân sách nhà nước từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành, tổ chức thực
hiện và kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách.
Tiếp theo là phân cấp về các vấn đề liên quan đế nhiệm vụ quản lý và điều
hành ngân sách nhà nước trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình
tự và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân sách, quyết
toán ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước.
Cụ thể:
49
Quốc hội quyết định tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn bù
đắp bội chi; phân tổ ngân sách nhà nước theo từng loại thu, từng lĩnh vực chi và
theo cơ cấu giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Quốc hội giao
cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định phương án phân bổ ngân sách trung
ương cho từng bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho từng tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, Quốc hội quyết định những vấn đề then
chốt nhất về ngân sách nhà nước, đảm bảo cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước hợp
lý và cân đối ngân sách nhà nước tích cực, đồng thời giám sát việc phân bổ ngân
sách trung ương và ngân sách của các địa phương.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của Quốc
hội giao về quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương, giám sát việc thi
hành pháp luật về ngân sách nhà nước.
Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội các dự án luật, pháp
lệnh và các dự án khác về ngân sách nhà nước; ban hành các văn bản pháp quy về
NSNN; lập và trình Quốc hội dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước, dự toán điều
chỉnh ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết; giao nhiệm vụ thu, chi ngân
sách cho từng bộ, ngành; thống nhất quản lý ngân sách nhà nước đảm bảo sự phối
hợp chăth chẽ giữa các cơ quan quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện
ngân sách nhà nước; tổ chức kiểm tra việc thực hiện ngân sách nhà nước; quy định
nguyên tắc, phương pháp tính toán số bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới; quy định chế độ quản lý quỹ dự phòng ngân sách nhà nước và
quỹ dự trữ tài chính; kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân về dự toán và
quyết toán ngân sách nhà nước; lập và trình Quốc hội quyết toán ngân sách nhà
nước và quyết toán các công trình cơ bản của Nhà nước.
Bộ tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về ngân
sách nhà nước trình chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về ngân sách nhà
nước theo thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng
thống nhất quản lý ngân sách nhà nước; hướng dẫn kiểm tra các bộ, cơ quan khác ở
trung ương và địa phương xây dựng dự toán ngân sách nhà nước hàng năm; đề xuất
các biện pháp nhằm thực hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà
nước; chủ trì phối hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng các chế độ, tiêu
50
chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước; thanh tra, kiểm tra tài chính với tất cả các
tổ chức, các đơn vị hành chính, sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp
ngân sách và xử dụng ngân sách; quản lý quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ khác
của Nhà nước; lập quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ.
Bộ kế hoạch và đầu tư có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội của cả nước và cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong
đó có cân đối tài chính tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc xây
dựng kế hoạch tài chính, ngân sách; phối hợp với bộ tài chính lập dự toán và
phương án phân bổ ngân sách nhà nước trong lĩnh vực phụ trách; phối hợp với bộ
tài chính và các bộ ngành hữu quan kiểm tra đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các
công trình xây dựng cơ bản.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chímh trong việc lập
dự toán ngân sách nhà nước đối với kế hoạch và phương án vay để bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước; tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời
quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của thủ tướng Chính phủ.
Các bộ, ngành khác có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chính, UBND cấp tỉnh
để lập, phân bổ, quyết toán ngân sách nhà nước theo ngành, lĩnh vực phụ trách ;
kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách; báo
cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ
trách; phối hợp với bộ tài chính xây dung định mức tiêu chuẩn chi ngân sách nhà
nước thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
Hội đồng nhân dân có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa
phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương,
biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định điều chỉnh dự
toán ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân
sách đã quyết định. Riêng đối với HĐND cấp tỉnh, ngoài những nhiệm vụ, quyền
hạn nêu trên còn được quyền quyết định thu, chi lệ phí, phụ thu và các khoản đóng
góp của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương,
dự toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết trình HĐND cùng cấp quyết
định và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Kiểm tra nghị quyết của HĐND
51
cấp dưới về dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách. Tổ chức thực hiện NSĐP và
báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định. Riêng đối với cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, UBND còn có nhiệm vụ lập và trình HĐND quyết định việc
thu phí, lệ phí, phụ thu, huy động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc
địa phương quản lý.
Như vậy, luật đã quy định tương đối rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan, chính quyền Nhà nước trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. đặc biệt đối với
HĐND và UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ, sáng tạo
của địa phương trong việc phát huy tiềm năng hiện có, bồi dưỡng và tăng thu cho
ngân sách cấp mình, từ đó chủ động bố trí chi tiêu hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế độ
thu, chi thống nhất của Nhà nước. Điều này cơ bản cũng phù hợp với phương hướng
đổi mới chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc hội và Chính phủ đề
ra trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc.
Về các khoản thu ngân sách nhà nước:
Thu ngân sách nhà nước là số tiền mà nhà nước huy động vào ngân sách nhà
nước và không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp. Phần lớn các khoản
thu này đều mang tính chất cưỡng bức. Với đặc điểm đó, thu ngân sách nhà nước
khác với các nguồn thu của các chủ thể khác (doanh nghiệp, tư nhân…) vì nó gắn
với quyền lực của nhà nước.
Theo phân loại thống kê của liên hiệp quốc, thu ngân sách nhà nước gồm hai
loại:
- Các khoản thu từ thuế, trong đó chia ra thuế trực thu và thuế gián thu.
- Các khoản thu ngoài thuế như phí, lệ phí và các khoản thu từ hoạt động kinh
tế của Nhà nước và các khoản chuyển giao vào ngân sách nhà nước khác.
Tại Việt nam, trước đây, việc phân chia nội dung thu của các cấp ngân sách
dựa vào cơ sở kinh tế của chính quyền tức là những tổ chức kinh tế do trung ương
quản lý thì nguồn thu của các tổ chức này tập trung vào ngân sách trung ương, các
tỏ chức kinh tế do địa phương quản lý thì sẽ ghi thu vào ngân sách địa phương. Điều
này đã dẫn đến tình trạng xây dựng chồng chéo các cơ sở kinh tế của trung ương và
địa phương, tranh giành nguồn nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Mặt
52
khác, nó không gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong việc
quan tâm tới những tổ chức kinh tế do trung ương quản lý ở địa phương. Do vậy, để
khắc phục những nhược điểm trên, chế độ phân cấp được điều chỉnh theo hướng
thay đổi tỷ lệ ghi thu vào ngân sách trung ương và ngân sách địa phương nhưng do
vẫn dựa trên cơ sở cũ nên nguồn thu vẫn không được đảm bảo.
Phân định nguồn thu giữa NSTƯ và ngân sách tỉnh.
Ngân sách trung ương Ngân sách địa phương
Các
khoản thu
100%
1.thuế GTGT hàng nhập
khẩu2.thuế xuất, nhập khẩu3.thuế
tiêu thụ đặc biệt (trừ một số mặt
hàng, dịch vụ)4.thuế thu nhập
doanh nghiệp của đơn vị hạch
toán toàn nghành5.thu từ dầu
khí6.thu nhập từ vốn góp của nhà
nước, tiền thu hồi vốn của nhà
nước từ các cơ sở kinh tế7.các
khoản do Chính phủ vay, viện trợ
không hoàn lại của Chính phủ các
nước8.các khoản phí, lệ phí theo
quy định9.thu kết dư NSTƯ10.các
khoản thu khác.
1.tiền cho thuê đất2.tiền
cho thuê và bán nhà thuộc sở hữu
Nhà nước3.lệ phí trước bạ4.thu từ
hoạt động xổ số kiến thiết5.viên
trợ không hoàn lai của nước
ngoài trực tiếp cho địa
phương6.các khoản phí, lệ phí
theo quy định7.các khoản đóng
góp tự nguỵện của cá nhân, tổ
chức trong và ngoài nước8.thu
kết dư NSĐP9.thu bổ sung từ
NSTƯ10.các khoản thu khác theo
quy định.
Các
khoản thu phân
chia theo tỷ lệ
phần trăm giữa
NSTƯ và ngân
sách tỉnh.
1.thuế GTGT (trừ thuế
GTGT hàng nhập khẩu và hoạt
động sổ xố kiến thiết)2.thuế thu
nhập doanh nghiệp (trừ các đơn vị
hạch toán toàn ngành và hoạt động
xổ số kiến thiết)3.thuế thu nhập
đối với người có thu nhập
cao4.thuế chuyển thu nhập ra
nước ngoài5.thu từ sử dụng vốn
ngân sách của các DNNN.
53
Các
khoản thu phân
chia giữa tỉnh,
huyện, xã
1.thuế chuyển quyền sử
dụng đất2.thuế nhà đất3.thuế sử
dụng đất nông nghiệp4.thuế tài
nguyên5.thuế tiêu thụ đặc biệt với
hàng sản xuát trng nước thu vào
vàng mã, kinh doanh vũ trường,
mát xa,…tỷ lệ phân chia do
UBND tỉnh quy định.
Về các khoản chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước là số tiền mà Nhà nước chi từ quỹ ngân sách để thực
hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Có nhiều cách để xác định cơ cấu chi ngân
sách nhà nước. Chẳng hạn, để thấy rõ hơn vai trò của ngân sách nhà nước đối với
phát triển các ngành kinh tế đất nước, đặc biệt là các ngành mũi nhọn thì cơ cấu chi
ngân sách nhà nước được phân theo ngành kinh tế quốc dân (ngành công nghiệp,
nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, dịch vụ…). Nếu để đảm
bảo cho Quốc hội có thể thấy rõ ngay nhuồn ngân sách phân bổ cho mỗi cơ quan
Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước được phân loại theo tổ chức của cơ quan Nhà
nước (theo từng bộ, cơ quan Nhà nước Trung ương, cơ quan Nhà nước địa
phương…). Nếu để đáp ứng yêu cầu kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với việc
lập dự toán, quyết định dự toán, thực hiện phân cấp và quản lý, sử dụng kinh phí
ngân sách nhà nước cho từng mục đích và từng đối tượng cụ thể, người ta phân loại
theo mục đích sử dụng cuối cùng: chi lương, phụ cấp lương, chi mua sắm hàng hoá,
dịch vụ…Nói chung, mỗi cách phân loại đều có mục đích và ý nghĩa riêng, chúng
có nét chung là cho biết một cách toàn diện ảnh hưởng ngắn hạn hoặc dài hạn của
việc chi tiêu quốc gia vào phát triển kinh tế, thấy rõ mục đích kinh tế, xã hội mà
Chính phủ đang theo đuổi.
Theo luật ngân sách nhà nước, nội dung chi ngân sách nhà nước được phân
loại theo tổ chức kinh tế, từ ngân sách trung ương đến ngân sách các cấp địa phương
đều có các khoản chi cơ bản giống nhau:
54
Chi thường xuyên: là những khoản chi hết sức cần thiết và không thể trì hoãn,
phải thực hiện thường xuyên hàng tháng, hàng năm để duy trì sự tồn tại của bộ máy
Nhà nước.
Chi đầu tư, phát triển: là những khoản chi để hình thành tài sản cố định như
mua sắm tài sản cố định, đầu tư xây dựng các công trình kinh tế mũi nhọn, xây dung
cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, xây dựng nhà cửa, đầu tư vào các động sản tài chính,
sửa chữa lớn tài sản cố định, chi trả nợ gốc tiền vay… những khoản chi này gắn với
việc điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước, tạo môi trường và điều kiện cho các TPKT
hoạt động và phát triển.
Sự khác nhau cơ bản giữa hai nhóm chỉ tiêu trên thể hiện ở chỗ: chi thường
xuyên có tính chất tiêu hao trực tiếp, còn chi đầu tư phát triển có tính chất thu hồi
trong những điều kiện nhất định.
Theo thứ tự ưu tiên thì chi thường xuyên được ưu tiên trước hết, sau đó mới
đến chi đầu tư phát triển. Thứ tự ưu tiên này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối vì nếu
cứ ưu tiên chi thường xuyên dễ dẫn đến phá vỡ cơ cấu kinh tế, và nếu cứ ưu tiên chi
đầu tư phát triển dễ đẫn đến làm tăng thâm hụt ngân sách nhà nước.
Cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều có hai khoản chi trên,
tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự khác nhau về quy mô, phạm vi của các khoản chi.
Chi đầu tư phát triển của ngân sách trung ương là những khoản chi có quy mô lớn,
có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các khoản chi này nhìn chung là
khó xác định chủ đầu tư và các công trình phúc lợi công cộng. Còn các khoản chi
của ngân sách địa phương chỉ đầu tư cho những công trình, mục tiêu được thực hiện
trong phạm vi địa phương đó. Ngoài ra, có một số khoản chi thuộc đặc thù chức
năng của ngân sách trung ương thì ngân sách trung ương đảm nhiệm: trả nợ vay, chi
an ninh quốc phòng, chi về ngoại giao…
Về số bổ sung từ nhân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới:
Gồm hai loại:
* Số bổ sung để cân đối ngân sách gồm số bổ sung ổn định trong suốt thời kỳ
nhất định và số bổ sung tăng thêm hàng năm một phần theo tỷ lệ trượt giá và một
phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế
* Số bổ sung theo mục tiêu.
55
Có thể nói, với những nội dung trên, hệ thống ngân sách nhà nước và chế độ
phân cấp và quản lý ngân sách nhà nước đã bước đầu tạo cơ sở, điều kiện, hành lang
pháp lý cho công tác quản lý, điều hành hoạt động ngân sách nhà nước có hiệu lực
và có hiệu quả, theo những chuẩn mực nhất định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của ngân sách nhà nước trong cơ chế kinh tế mới ở nước
phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh.
Lĩnh vực Ngân sách trung ương Ngân sách tỉnh
1.Chi xây dựng cơ
bản- Các công trình kinh tế
then chốt quan trọng.- Các
công trình hạ tầng cơ
sở2.Chi vốn lưu động.3.Chi
trả nợ (trong và ngoài
nước).4.Chi dự trữ Nhà
nước.
NSTƯ đảm nhận các
công trình hạ tầng cơ sở
không có khả năng thu hồi
vốn do trung ương quản
lý.Các xí nghiệp trong và
ngoài nước do trung ương
quản lý.Hầu hết NSTƯ đảm
nhận chi trả nợ nước
ngaòi.Hầu hêt NSTƯ đảm
nhiệm.
NSĐP đảm nhận các
công trình hạ tầng cơ sở do
địa phương quản lý.Các xí
nghiệp do địa phương quản
lý.Trả nợ trong nước, địa
phương đảm nhận phần huy
động xây dựng cơ sở hạ
tầng.
1.C hi quản lý Nhà
nước.2.Chi sự nghiệp kinh
tếnông nghiệp, thuỷ lợiLâm
nghiệpGiao thôngKiến
thiết thị chính.3.Chi sự
nghiệp giáo dục phổ
thôngChi hoạt động thường
xuyên giáo dụcChi chương
trình mục tiêu4.Chi sự
nghiệp đào tạoCác trường
đại học.Các trường trung
học5.Chi y tế6.Chi nghiên
cứu khoa học7.Chi văn hoá
thông tin8.Chi thể dục, thể
Toàn bộ bộ máy quản
lý Nhà nước của trung
ươngDuy trì bảo vệ đê điều
trung ươngDuy tu, tu bổ các
đường giao thông, các công
trình kiến thiết do trung
ương quản lý.Một số công
trình quan trọng như xoá
mù chữ, giáo dục miền
núi…Các trường đại học đa
ngànhMột số trường PTTH
khu vựcCác cơ sở y tế chữa
bệnh trung ươngNghiên
cứu khoa học cơ bảnCác sự
Toàn bộ bộ máy Nhà
nước của địa phươngBảo vệ
đê điều, hỗ trợ làm thuỷ lợi,
thuỷ nôngSửa chữa các
đường giao thông địa
phươngChi toàn bộ các
trường tự tiểu học trở lên,
kể cả mẫu giáo.Các trường
trung học, dạy nghềCơ sở
chữa và khám bệnh do địa
phương quản lýNghiên cứu
ứng dụng Các sự nghiệp
văn hoá quần chúng do địa
phương quản lýDân quân
56
thao9.Chi quốc phòng, an
ninh10.Chi hỗ trợ Đảng,
đoàn, hội11.Chi trợ cấp
ngân sách xã12.Chi khác
nghiệp văn hoá quần chúng
do trung ương quản lýToàn
bộ hoạt động chính quyCác
tổ chức thuộc trung
ươngTuỳ thuộc khả năng
của NSTƯ
du kích và tuyển quânCác
tổ chức thuộc địa
phươngTuỳ thuộc vào phân
bổ của NSTƯ
CHƯƠNG 3
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
57
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Học xong chương tài chính doanh nghiệp, sinh viên có thể:
- Trình bày các nguồn và phương thức tạo vốn góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó, phân tích tình hình quản
lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp như thế nào để mang lại hiệu quả.
- Xác định được phương thức quản lý tài sản của doanh nghiệp góp phần tối
ưu hóa giá trị của doanh nghiệp và mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp.
1. Nguồn vốn và phương thức huy động vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn
phản ánh nguồn tài lực chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong quản lý
tài chính, các doanh nghiệp cần chú ý quản lý việc huy động và sự luân chuyển của
vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản và hiệu quả tài
chính. Nói cách khác, vốn cần được xem xét và quản lý trong trạng thái vận động và
mục tiêu hiệu quả của vốn có ý nghĩa quan trọng nhất.
Sau đây là các nguồn vốn và các phương thức tạo vốn (phương thức tài trợ)
mà các doanh nghiệp có thể khai thác.
1.1. Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số
vốn nhất định. Đối với doanh nghiệp Nhà nước (thuộc sở hữu Nhà nước) nguồn vốn
tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước.
Trong công ty tư nhân, chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần
thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu
phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp.
Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết
định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu
trách nhiệm hữ hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ.
Trong thực tế, vốn tự có của doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so với vốn
pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh.
1.2. Vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
58
Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất, không chỉ đối với sự phân tích bản thân của các doanh nghiệp mà còn
đối với toàn bộ nền kinh tế quốc đân. Sự hoạt động và phân tích cuat các công ty,
các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương
mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng hoặc tín
dụng thương mại để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu
của doanh nghiệp.
1.2.1. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là quan hệ giữa người đang tạm thời thừa vốn và người tạm thời
thiếu vốn trên nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.
Theo đó, tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức
tín dụng và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả
được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hóa trên thị
trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trị
thặng dư trên thị trường. Tín dụng ngân hàng có ít nhất một bên tham gia là ngân
hàng và đối tượng cho vay trong tín dụng ngân hàng là tiền tệ.
Về thời hạn, vốn vay ngân hàng phân thành 3 loại cơ bản: vay ngắn hạn (<12
tháng) vay trung hạn (>=12 tháng < 60 tháng), vay dài hạn (>=60 tháng). Cần lưu ý
rằng, tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian vay để phân loại trong thực tế không
hoàn toàn giống nhau giữa các nước.
Phân loại hình thức cho vay theo tính chất và mục đích sử dụng: vay đầu tư
tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay để phục vụ dự án, phương án sản xuất kinh
doanh,…
Nguồn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những hạn chế
nhất định, đó là điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn
là lãi suất.
Điều kiện tín dụng: Các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn
luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế các rủi ro tín dụng thông qua hệ
thống các biện pháp đảm bảo tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ
59
vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất
kinh doanh của một doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải cung cấp các báo
cáo tài chính và những thông tin cần thiết khác theo yêu cầu của ngân hàng.
Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, hầu hết các
ngân hàng đều yêu cầu có đảm bảo tín dụng, phổ biến nhất là tài sản thế chấp (bất
động sản, tài sản gắn liền với bất động sản,..). Việc yêu cầu người vay có tài sản thế
chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều
kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ,… do đó, doanh nghiệp cần tính
đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân
hàng, thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và
tình hình sử dụng vốn vay. Sự kiểm soát này không gây vấn đề gì quá lớn cho
doanh nghiệp, tuy nhiên, trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh
nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”.
Lãi suất vốn vay: lãi suất vốn vay phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn
tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng
thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao, doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn
lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
1.2.1. Tín dụng thương mại
Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay
còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng
giữa bên mua và bên bán dưới hình thức mua bán chịu (trả chậm) hàng hóa. Thông
qua hoạt động này, người bán chuyển giao cho người mua một lượng hàng hóa
(thương mại) cùng với quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn (tín dụng) bằng với
giá trị hàng hóa được mua bán. Đến thời hạn thỏa thuận, người mua phải trả cho
người bán số tiền mà hai bên đã đồng ý trước đó.
Như vậy, nguồn vốn tín dụng thương mại được hình thành một cách tự nhiên
trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp, nó có ảnh hưởng hết sức
to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà cả toàn bộ nền kinh tế. Trong một số
công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm
tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
60
Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và
linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp
tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn
định khi hai bên lý hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh doanh nói chung. Tuy
nhiên, cần thấy rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá
giới hạn an toàn
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của các
khoản vay, đó là chi phí lãi vay, và được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ.
1.3. Nguồn vốn phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu là một kênh rất quan để huy động vốn dài hạn cho công ty
một cách rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán. Trong các
nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoán là nơi hội tụ những hoạt động
tài chính sôi động nhất của nền kinh tế. Người nắm giữ cổ phiếu được gọi là cổ
đông và lã những người sở hữu của công ty.
Việc lựa chọn thời gian phát hành hoặc thu hồi (mua lại) cổ phiếu có ảnh
hưởng quan trọng đến các công ty và dựa trên các khía cạnh sau:
- Các công ty thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn cổ phần để giữ vững
khả năng thanh toán, cũng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ oqr mức thấp, nếu cần
vốn các công ty thường chọn các phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mầ không tăng
vốn cổ phần), nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và
chon cách phát hành cổ phiếu.
- Tuy nhiên, trên thực tế, việc điều chỉnh lượng tiền và các khoản nợ thường
dựa trên những kinh nghiệm và cảm giác của nhà quản lý và theo kiểu linh hoạt “tùy
cơ ứng biến”.
- Các doanh nghiệp phải thường xuyên chú ý theo dõi và có phản ứng thích
hợp trước các biến động của thị trường chứng khoán.
1.4. Phát hành trái phiếu công ty
Trái phiếu là các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm trái phiếu chính
phủ và trái phiếu công ty. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành
là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của công ty và tình
hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì
61
có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn
của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược
điểm của mỗi loại trái phiếu.
1.5. Nguồn vốn nội bộ
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một con đường tốt vì công ty phát huy
được nguồn lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều
công ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải
có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng
tăng. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận có liên quan
đến một số yếu tố nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho
tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không
được nhận tiền lãi cổ phần nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng
lên của công ty. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài
nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu do cổ đông chỉ nhận được
một phần cổ tức nhỏ hơn.
2. Quản lý tài sản cố định (TSCĐ) của doanh nghiệp
2.1. Cơ cấu của tài sản cố định
TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài,
có chức năng là tư liệu lao động. Tài sản cố định thường gắn liền với thuật ngữ
“Vốn cố định”. Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSCĐ
của doanh nghiệp.
TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành hai loại: Tài sản cố định vô hình và
tài sản cố định hữu hình.
2.1.1. Tài sản cố định vô hình
Đặc điểm của tài sản cố định vô hình:
- Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể
như chi phí để mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả…
- Rất khó đánh giá chính xác giá trị của TSCĐ vô hình vì nó không tồn tại
dưới dạng vật chất có thể đo đếm dể dàng. Ví dụ, các nhà kinh doanh có thể so sánh
lợi nhuận do sự nổi tiếng của một nhãn hiệu thương mại tạo ra lớn hơn bao nhiêu so
với các nhãn hiệu cùng nhóm trên thị trường. Triển vọng và xu hướng phát triển
62
cũng tạo ra giá trị cao cho một nhãn hiệu thương mại (gắn với quyền hợp pháp khai
thác, sử dụng nhãn hiệu đó) có thể được mua bán trên thị trường – thường thông qua
đấu giá.
- Các tài sản cố định chỉ có lợi ích khi nó tạo ra lợi thế thương mại, chẳng hạn
như sự yêu thích của người tiêu dùng hay người sử dụng. Uy tín hình thành qua thời
gian và có thể phải mất nhiều năm. Tuy vậy, nếu không có biện pháp bảo vệ, duy trì
uy tín và lợi thế thương mại thì công ty sẽ nhanh chóng mất đi các tài sản quý giá
đó.
Biện pháp quản lý nhóm tài sản này là:
- Tăng cường sự tin tưởng của bạn hàng, của khách hàng. Chẳng hạn, khi
quảng cáo cần chú ý làm nổi bật lịch sử và uy tín của công ty. Sự kết hợp marketing
trong việc gia tăng uy tín là một biện pháp cần thực hiện thường xuyên.
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, chống nạn bắt chước hoặc nạn hàng giả.
- Hạch toán chính xác các chi phí ngay từ khi bắt đầu thành lập doanh nghiệp
hay dự án.
2.1.2. Tài sản cố định hữu hình
- Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà
xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải … trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đặc điểm của TSCĐ hữu hình đó là những tài sản có hình thái vật chất do
doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với
tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình.
2.2. Khấu hao tài sản cố định
Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định dần dần bị xuống cấp hoặc hư
hỏng – gọi là hao mòn. Quá trình hao mòn bao gồm 2 hình thái: hao mòn hữu hình
và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là sự suy giảm giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn,
xuống cấp về mặt hiện vật gây ra. Các hao mòn hữu hình có thể quan sát, nhận biết
bằng trực quan như sự gò gỉ, hư hỏng các chi tiết,…và nó phụ thuộc vao điều kiện
hoạt động, cường độ khai thác, chế độ vận hành, bảo dưỡng,… của TSCĐ.
63
Hao mòn vô hình là sự mất giá tương đối và tuyệt đối của tài sản cố định do
tiến bộ khoa học kỹ thuật, do thị hiếu hay do một số nhân tố khác và sự giảm sút
không bieur hiện ra ngoài bề mặt của TSCĐ, điều đó phản ánh sự lạc hậu công
nghệ.
2.3. Quản lý TSCĐ về mặt hiện vật
Mọi tài sản cố định trong doanh nghiệp phải có bộ hồ sơ riêng (bộ hồ sơ gồm
có biên bản giao nhận tài sản cố định, hợp đồng, hoá đơn mua tài sản cố định và các
chứng từ khác có liên quan). Tài sản cố định phải được phân loại, thống kê, đánh số
và có thẻ riêng, được theo dõi chi tiết theo từng đối tượng ghi tài sản cố định và
được phản ánh trong sổ theo dõi tài sản cố định.
Doanh nghiệp phải thực hiện việc quản lý đối với những tài sản cố định đã
khấu hao hết nhưng vẫn tham gia vào hoạt động kinh doanh như những tài sản cố
định bình thường.
Định kỳ vào cuối mỗi năm tài chính, doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê tài
sản cố định. Mọi trường hợp phát hiện thừa, thiếu tài sản cố định đều phải lập biên
bản, tìm nguyên nhân và có biện pháp xử lý.
- Hệ thống theo dõi TSCĐ: Doanh nghiệp cần hoàn thiện hệ thống theo dõi và
kiểm soát toàn bộ TSCĐ. Đơn giản nhất là lập các sổ theo dõi tổng hợp và chi tiết.
Số tổng phản ánh khái quát tình hình quản lý sử dụng các nhóm TSCĐ, các chủng
loại thiết bị cơ bản nhất.
- Phân định trách nhiệm rõ ràng: Các nhóm máy móc thiết bị hoặc các tổ hợp
dây chuyền thiết bị nên được giao cho từng nhóm hoặc cá nhân quản lý sao cho phù
hợp với hoạt động doanh nghiệp. Chế độ phân định trách nhiệm nên gắn với chế độ
bàn giao, theo dõi, thưởng phạt nhằm khuyến khích mọi người có ý thức tốt hơn
trong việc quản lý tài sản; và nên quy định chế độ báo cáo định kỳ đối với các quản
đốc phân xưởng, trưởng ca, tổ trưởng hoặc kỹ sư phụ trách dây truyền về tình hình
sử dụng TSCĐ của từng bộ phận.
- Quản lý về mặt ký thuật đối với TSCĐ:
� Quy trình kỹ thuật, chế độ vận hành cần được duy trì nghiêm ngặt với kỹ luật
chặt chẽ để hạn chế tổn thất về người và tài sản.
64
� Phải lập lịch trình vận hành và theo dõi cho từng hệ thống thiết bị (kiểm tra,
bảo dưỡng, duy tu máy móc thiết bị), có phân định trách nhiệm rõ ràng. Khuyến
khích cán bộ, công nhân tích cực tham gia gìn giữ máy móc và thông báo ngay khi
có sự cố để khắc phục kịp thời.
� Đối với các thiết bị mới, hiện đại nên thực hiện kèm cặp, dùng thợ có tay
nghề cao hướng dẫn kèm cặp trực tiếp người chưa quen việc.
� Hợp lý hóa việc lắp đặt thiết bị máy móc trong nhà máy là một khâu quan
trọng.
3. Quản lý tài sản lưu động (TSLĐ) của doanh nghiệp
Tài sản lưu động là tài sản chỉ tham gia 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh như
nguyên, nhiên, vật liệu, phụ liệu,... đến chu kỳ sản xuất kinh doanh sau lại phải
dùng tài sản lưu động mới. Do đặc điểm này nên toàn bộ giá trị của tài sản lưu động
được chuyển dịch 1 lần vào sản phẩm và được bù đắp toàn bộ khi sản phẩm được
tiêu thụ.
So với TSCĐ, TSLĐ quay vòng nhanh nhiều hơn nên việc quản lý TSLĐ có
ảnh hưởng quyết định đến khả năng tạo doanh thu và sinh lời cho công ty. Để việc
quản lý TSLĐ tốt phải bắt đầu từ việc nghiên cứu khái niệm khả năng chuyển đổi
của tài sản.
3.1. Khả năng chuyển đổi của tài sản
Khả năng chuyển đổi hay tính linh động (còn gọi là hoán chuyển) của một tài
sản phản ánh mức độ dễ hay khó để chuyển đổi tài sản thành tiền. Đây là chỉ tiêu
quan trọng trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp vì nó phản ánh khả năng thanh
toán của doanh nghiệp.
3.2 Cơ cấu và phân loại TSLĐ
3.2.1. Tài sản bằng tiền
Tài sản bằng tiền có thể tồn tại dưới dạng nội tệ, ngoại tệ, vàng, bạc, kim khí
quý, đá quý. Chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ số tiền hiện có của doanh nghiệp tại thời
điểm báo cáo, qua đó giúp cho việc đánh giá khả năng thanh toán nhanh của doanh
nghiệp và có kế hoạch trả nợ kịp thời, đồng thời có kế hoạch đầu tư tài chính vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi để tránh ứ đọng vốn.
3.2.2. Các khoản phải thu
65
+ Phải thu của khách hàng: Là tiền bán hàng hoá, dịch vụ chưa thu được,
nhưng đã được khách hàng chấp nhận thanh toán và tính vào doanh thu bán hàng
trong kỳ, kể cả trường hợp cấp tín dụng thương mại ngắn và dài hạn.
+ Trả trước cho người bán: Chỉ tiêu này phản ánh số tiền đã trả trước cho
người bán mà chưa nhận được sản phẩm tại thời điểm báo cáo.
+ Phải thu nội bộ: Các khoản phải thu nội bộ hình thành do cấp dưới có nghĩa
vụ nộp lên cấp trên hoặc cấp trên phải cấp cho cấp dưới hoặc do các đơn vị nội bộ
đã thu hộ chi hộ cho nhau hoặc giữa các đơn vị cấp dưới với nhau về bán hàng nội
bộ. Các khoản phải thu nội bộ thường là: Đơn vị cấp dưới phải thu về số lỗ hoạt
động sản xuất kinh doanh đã được cấp trên chấp nhận cấp bù, phải thu bổ sung các
quỹ từ cấp trên (ở đơn vị phụ thuộc như viện nghiên cứu), đơn vị cấp trên phải thu
của các đơn vị cấp dưới để lập các quỹ là quỹ quản lý của cấp trên (chỉ có ở cấp trên
và được tính vào chi phí của doanh nghiệp cấp dưới), quỹ phát triển kinh doanh dự
trữ, khen thưởng, phúc lợi, thu một phần lãi kinh doanh và thu hồi vốn kinh doanh
đã giao.
+ Các khoản phải thu khác như: các khoản phải thu về bồi thường vật chất đã
có quyết định bồi thường, các khoản phải thu về lãi đầu tư tài chính...
+ Dự phòng các khoản phải thu khó đòi: là khoản dự kiến bị tổn thất của các
khoản phải thu sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo do con nợ không có khả
năng thanh toán.
Giá trị của các khoản phải thu được xác định trên báo cáo tổng kết tài sản là
giá trị toàn bộ các khoản phải thu sau khi đã trừ đi dự phòng phải thu khó đòi tại
thời điểm báo cáo.
3.2.3. Hàng tồn kho (hàng hóa vật tư)
� Tài sản lưu động nằm trong quá trình dự trữ (chuẩn bị) sản xuất, gồm:
- Hàng mua đang đi trên đường.
- Nguyên vật liệu tồn kho (đã nhập kho).
- Dụng cụ trong kho.
� Tài sản lưu động đang trong quá trình trực tiếp sản xuất:
66
- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang hay còn gọi là bán thành phẩm (giá trị
nguyên vật liệu được sử dụng vào sản xuất kinh doanh, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sản xuất chung,..).
� Tài sản lưu động nằm trong quá trình dự trữ tiêu thụ, gồm:
- Thành phẩm tồn kho.
- Hàng hoá tồn kho.
- Hàng gửi đi bán.
� Dự phòng giảm giá hàng tồn kho (các khoản giảm giá nguyên vật liệu, thành
phẩm, hàng hoá tồn kho dự kiến sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo).
Chỉ tiêu hàng tồn kho là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị các loại hàng tồn
kho dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh, sau khi đã trừ dự phòng giảm giá
hàng tồn kho tại thời điểm báo cáo.
3.2.4. Tài sản lưu động khác
Ngoài 3 loại tài sản lưu động luôn luôn tồn tại kể trên, tuỳ doanh nghiệp và tuỳ
từng thời kỳ có thể có các loại tài sản lưu động khác, trong đó có 3 dạng điển hình
là:
- Tạm ứng cho người lao động.
- Chi phí trả trước (chi phí đợi phân bổ).
- Các khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn.
3.3. Quản lý hàng hóa vật tư tồn kho
Việc kiểm soát lượng hàng tồn kho sao cho vừa đủ tại mỗi thời điểm gọi là
vấn đề quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Nếu lượng tồn kho không
đủ thì doanh nghiệp có thể gặp những khó khăn nhất định. Nhưng nếu lượng tồn
kho nhiều quá thì doanh nghiệp sẽ tốn chi phí để lưu hàng và chậm thu hồi vốn.
3.3.1. Xác định nhu cầu nguyên, vật liệu dự trữ:
Nếu mức dự trữ của nguyên, vật liệu,.. không phù hợp và quá lớn với yêu cầu
sản xuất kinh doanh thì có thể dư thừa gây ứ đọng, lãng phí nguồn vốn và hiệu quả
thấp và ngược lại, sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt và thậm chí phải tạm ngừng sản
xuất. Do đó, mỗi doanh nghiệp điều phải xác định mức dự trữ thích hợp nhất đối với
công ty trong từng trường hợp cụ thể.
3.3.2. Phương pháp điều chỉnh đơn giản
67
Theo phương pháp này, có thể dựa vào tình hình tiêu hao vật tư của năm trước
(hoặc kỳ trước) để ước tính số vật tư cần thiết cho kỳ này. Tỷ lệ điều chỉnh dựa trên
mức độ giẩm tiêu hao vật tư, sản lượng dự kiến, giá vật tư,… Phương pháp này có
tính chất kinh nghiệm, dễ áp dụng nhưng có thể có sai số đáng kể. Trường hợp
doanh nghiệp mới hoạt động thì không áp dụng phương pháp này vì chưa có dữ liệu
và kinh nghiệm của kỳ trước. Sau đây là ví dụ minh họa:
Công ty BIGKEY CO.LTD chuyên sản xuất các mặt hàng nhựa cao cấp với
nguyên liệu chính là nhựa P.E. Tình hình thực tế sản xuất và cung ứng vật liệu
chính năm 1996 như sau:
- Tổng sản lượng thành phẩm: 850 tấn
- Nguyên liệu chính (P.E) được sử dụng: 930 tấn
- Sản phẩm hỏng (không tái chế được): 4,5 tấn
- Đơn giá nguyên liệu bình quân: 28.000 đồng/1 kg
Nhịp độ sản xuất và cung ứng vật liệu tương đối đều đặn trong năm.
Năm 1997 BGĐ BIGKEY dự kiến kế hoạch với một số thông tin như sau:
- Tổng sản lượng thực hiện (thành phẩm): 1.100 tấn
- Tỷ lệ sản phẩm hỏng giảm so với năm trước: 50%
- Thay thế 5% nguyên liệu chính bằng phụ liệu rẻ tiền với giá không đáng kể.
- Đơn giá nguyên liệu bình quân so với năm trước tăng 4%.
Từ các dữ liệu trên, có thể ước tính nhu cầu và mức cung nguyên liệu (P.E)
như sau:
- Tỷ lệ sản phẩm hỏng dự kiến năm 1997:
{(4,5 x 100%)/850} x 50% = 0,265%
- Khối lượng nhựa P.E cần thiết năm 1997 là:
930 x 1.100
850
- Lượng tiền cần thiết để mua nhựa P.E là:
1.140,3 x 28.000 x 1,04 = 33.205.536 (đồng)
=> Mỗi tháng phải mua ít nhất 95,03 tấn P.E (1.140,3/12) và lượng tiền cần
thiết để mua nguyên liệu đó là:
95,03 x 28.000 x 1,04 = 2.767.274 (đồng)
68
x (1 – 0,05) x (1 – 0,00265) = 1.140,3 (tấn)
* Lưu ý rằng lượng vật tư xác định theo cách trên đây chưa tính đến lượng dự
phòng. Mức độ dự phòng phụ thuộc vào nguồn hàng, khả năng biến động giá
cả, thời gian chờ cung ứng, khoảng cách vận chuyển,… Trong các trường hợp
có dữ liệu tương tự, có thể áp dụng công thức sau:
M1 = M0 x [Q1/Q0] x (1 – k1)(1 – k2)
Và F1 = M1 x P1 = M1 x P0 x kp
Trong đó:
- M0 : Khối lượng nguyên liệu sử dụng năm trước
- M1 : Khối lượng nguyên liệu sử dụng năm nay
- Q1 : Sản lượng năm nay
- Q0 : Sản lượng năm trước
- k1, k2 : Hệ số tiết kiệm nguyên liệu và hệ số thay thế nguyên liệu
- P0, P1 : Đơn giá nguyên liệu năm trước và năm nay
- kp : Hệ số tăng giá, giảm giá nguyên liệu
- F1 : Số tiền dùng để mua nguyên liệu năm nay
3.4. Phân tích vòng quay của vốn lưu động
Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh
giá hiệu quả tài chính của vốn, phản ánh tốc độ quay vòng của vốn lưu động trong
một năm hay một thời kỳ nào đó. Trong điều kiện các nguồn lực và nguồn vốn có
hạn, việc tăng số vòng quay của vốn lưu động trong năm là một hướng giải quyết cơ
bản nhất của doanh nghiệp, nhất là các công ty thương mại.
BÀI ĐỌC THÊM CHƯƠNG 3
THIẾU VỐN – TẠI NGÂN HÀNG HAY DOANH NGHIỆP
Nhắc tới doanh nghiệp (DN) tăng trưởng, người thường hiểu đó là sự tăng
trưởng tài sản, tăng trưởng doanh thu , tăng trưởng, lợi nhuận, mở rộng thị phần...
Để đạt được sự tăng trưởng, các DN thường nghĩ tới giải pháp tăng huy động vốn để
hoạt động kinh doanh và đặc biệt thường cho mục đích mở rộng sản xuất (đầu tư
mới)...
Đối với các DN tăng trưởng nhanh về doanh thu, mà điển hình tại Việt Nam là
các DN FAST500, thì áp lực về vốn đối với họ là rất lớn. Thực tế cho thấy, DN tăng
69
trưởng nhanh có thể dựa vào khá nhiều yếu tố khác nhau (mô hình) như dựa vào
vốn, dựa bào nhân lực nhiều giá rẻ, dựa vào công nghệ nói chung (như kỹ năng
quản trị, khoa học, công nghệ v.v. Trong đó, các nền kinh tế như Việt Nam, doanh
nghiệp tăng trưởng thường dựa vào yếu tố vốn (nhất là vốn ngân hàng) và tất nhiên
tình trạng khó khăn về vốn thường là vấn đề của doanh nghiệp tăng trưởng.
Theo khảo sát gần đây nhất vào cuối năm 2012 được thực hiện bởi Vietnam
Report, thì đa phần đại diện của các DN lớn và DN tăng trưởng (VNR500,
FAST500) cho rằng, nguồn huy động vốn của họ chủ yếu vẫn là từ ngân hàng
(76,04% số DN được hỏi). Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp của năm
2012 chỉ khoảng 8-9% so với 2011, và sơ bộ đến hết quý 1/ 2013 tăng trưởng tín
dụng vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể cho thấy dường như ngân hàng - doanh
nghiệp vẫn đang trên con đường đi tìm nhau.
Biểu đồ 1: Nguồn huy động vốn dự kiến của doanh nghiệp năm 2013
Ai cũng nhận thấy, hiện tại nền kinh tế trong nước và thế giới đang phải trải
qua giai đoạn khó khăn, DN cũng ít nhiều bị ảnh hưởng dẫn tới tình trạng thua lỗ
khá nhiều. Nhưng chắc chắn không ai có thể phủ định "doanh nghiệp trước tiên phải
tự cứu lấy mình trước khi chờ được cứu". Có một số ý kiến cho rằng, doanh nghiệp
khá thụ động, vẫn hi vọng và chờ đợi Nhà nước cứu trợ hoặc ngân hàng xóa nợ, dãn
nợ, giảm lãi suất ...
Hơn nữa, thời gian vừa qua xuất hiện khá nhiều ý kiến đề nghị nới lỏng chính
sách tiền tệ (NHNN bơm tiền vào nền kinh tế) để cứu khu vực này, khu vực kia; hay
một giải pháp về tài khóa như hỗ trợ về thuế (gói cứu trợ), và kể cả một loại kiến
nghi khá "độc chiêu" là áp thuế tiền gửi để nắn dòng vốn vào bất động sản... Miễn
70
bàn về sự đúng sai của những ý kiến này, nhưng rõ ràng nó phản ánh thực trạng
rằng "khu vực này" hay "khu vực kia" đang "khát tiền".
Nhìn về tổng thể, sự chờ đợi của doanh nghiệp cũng có thể là hợp lý khi tình
hình khó khăn kéo dài quá lâu và mọi vấn đề đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của
doanh nghiệp; trong khi đó, Nhà nước bao giờ cũng được kỳ vọng là người là ổn
định hóa, người có năng lực nhất trong việc đối phó với các cú sốc lớn.
Doanh nghiệp: tăng trưởng nhanh hay quản trị tốt?
Thực tế cho thấy, trong điều kiện hiện nay, nếu trong cuộc "đi tìm nhau giữa
ngân hàng và doanh nghiệp" mà chỉ có một phía thì có lẽ khó có thể thấy điểm giao
thoa. Về phía doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sau một thời gian tăng
trưởng mạnh và đang hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững, rõ ràng cần có sự
thay đổi nào đó, ví dụ như thay đổi phương thức làm ăn, hay cung cách ứng xử với
đồng vốn, thay đổi về quản trị... Chẳng hạn, sự cải thiện về quản trị hiện nay là rất
cần thiết cho việc đảm bảo và duy trì tài trợ từ các nhà đầu tư (cổ đông) và các chủ
nợ (ngân hàng và người cho vay khác). Các nghiên cứu thực tế cho thấy, nếu doanh
nghiệp vận hành theo quan điểm "lấy vốn nhiều để thay cho quản trị" thì những
doanh nghiệp tăng trưởng nhanh sẽ càng trở nên rủi ro, không chỉ riêng cho bản
thân doanh nghiệp mà rủi ro cho cả ngân hàng, các chủ nợ khác và rộng hơn là cả
nền kinh tế.
Về quản trị công ty những năm vừa qua ở Việt Nam, báo cáo điều tra do Công
ty tài chính quốc tế thuộc Ngân hàng thế giới (IFC) thực hiện với các công ty niêm
yết trên hai SCK (100 công ty được niêm yết cổ phiếu tại Sàn giao dịch chứng
khoán Hà Nội (HNX) và Sàn giao dịch chứng khoán Tp. HCM (trong đó có 20 công
ty được niêm yết tại HNX, 80 công ty được niêm yết tại HOSE và tổng hợp trên đại
diện cho hơn 80% tổng vốn hóa thị trường; 25 công ty lớn nhất về vốn hóa với
lượng vốn hóa thị trường nằm trong khoảng 2,670 tỉ VND và 48,104 tỉ VND) đã thể
hiện một sự quan ngại từ sự suy giảm đáng kể so với năm trước.
Bảng biểu: Chỉ số quản trị công ty 2009, 2010 và 2011
71
(Ghi chú: dữ liệu công bố luôn chậm 1 năm; Nguồn: 2012 International
Finance Corporation)
Báo cáo công bố năm 2012 (dữ liệu năm 2011) cho thấy một điều đáng lo ngại là:
không một công ty nào thỏa mãn hoàn toàn các tiêu chí quản trị công ty mà đều ở
mức dưới 60%, với mức điểm trung bình của tất cả các công ty là 42,5%. Đây là
mức điểm khá thấp nếu so với mức điểm trung bình của các công ty ở Châu Á, ví dụ
ở Thái Lan năm 2011 là 77%, Hongkong 2009 là 73%, và Philippine năm 2008 là
72% (nguồn IFC, SSC). Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nếu chỉ số quản trị nói
chung và đặc biệt là chỉ số về quyền của các cổ đông xấu đi thì thường dẫn đến tình
trạng các nhà đầu tư muốn thoái vốn khỏi doanh nghiệp. Trong điều kiện chỉ số
quản trị doanh nghiệp kém đi, khó có thể nói là ngân hàng sẽ tăng cho vay, tăng đầu
tư hay săn sàng đổ vốn vào doanh nghiệp và cho vay nền kinh tế.
Quan sát hành vi đầu tư của DN Việt Nam lại cho thấy một quan ngại khác: mức độ
chấp nhận rủi ro của các DN Việt là khá cao. Biểu hiện của tình trạng chấp nhận rủi
ro cao là việc nhiều doanh nghiệp đã và đang bị lún rất sâu vào lĩnh vực bất động
sản, và trong đó mức độ đòn bẩy tài chính rất cao.
Biểu đồ 2: Mức độ chấp nhận rủi ro của các DN
72
Ngân hàng co hết lòng cho doanh nghiệp tăng trưởng?
Công bằng mà nói, nếu chỉ "bênh vực ngân hàng" mà không có yêu cầu gì đối
với ngân hàng thì chẳng bao giờ NH và DN sẽ gặp được nhau. Câu hỏi ta có thể đặt
ra cho ngân hàng là: Các ngân hàng đã làm gì để giảm lãi suất? Tại sao khi DN thua
lỗ thì ngân hàng lại lãi? Tại sao khi khó khăn mà các NHTM lại không ngừng mở
rộng chi nhánh (kể cả mở chi nhánh ở nước ngoài)? Tại sao gần đây các NHTM
không tiết giảm chi phí mà lại có cách ứng xử rất mới là tìm mọi cách để phân bổ
chi phía vào công chúng (như tình trạng gần đây ngân hàng đẻ ra nhiều khoản phí
như vậy (như phí ATM, phí tài khoản ...)?
Nhìn từ góc độ chính sách, trong năm 2012, Thống đốc NHNN đã yêu cầu các
NHTM (mà các NHTMNN phải là tấm gương tiên phong) thực hiện cắt giảm thật
mạnh các chi phí không cần thiết, có giải pháp bền vững giảm lãi suất, tập trung vốn
cho vay đối với nền kinh tế và rõ ràng đó là cách phù hợp và thực tế để chia sẻ khó
khăn với nền kinh tế và cụ thể là chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp trong năm 2013
và những năm tiếp theo. Điều này cũng tương tự như việc Nhà nước yêu cầu doanh
nghiệp điện (hay kể cả doanh nghiệp xăng dầu...) phải tiết kiệm chi phí không cần
thiết hay chi phí bất hợp lý để giảm giá thành, là cơ sở để giảm giá bán thành phẩm.
Bên cạnh đó, cần hạn chế việc các NHTM góp vốn đầu tư vào các công ty tài
chính như công ty chứng khoán, bất động sản (một cách khá dễ dãi như thời gian
qua), vì bản chất vốn của ngân hàng là vốn ngắn hạn, như vậy sẽ đảm bảo để các
ngân hàng tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, nhất là cho khu vực nông nghiệp,
nông thôn và sản xuất hàng xuất khẩu... Mặc nhiên khu vực doanh nghiệp cũng phải
thay đổi mô hình kinh doanh nhưng người ta vẫn cần phía ngân hàng khẳng định
73
một phương trâm là hết lòng tập trung nguồn vốn tín dụng cho sự tăng trưởng bền
vững của các doanh nghiệp và cho nền sản xuất nước nhà.
Đầu tư nhà nước hay đầu tư của doanh nghiệp?
Gần đây, NHTM có khuynh hướng gia tăng rõ rệt đầu tư vào trái phiếu chính
phủ mà bỏ qua doanh nghiệp (huy động của hệ thống ngân hàng vẫn tăng đáng kể,
nhưng cho vay nền kinh tế tăng chậm hay giảm đi mà tăng phần cho Chính phủ
vay).
Theo thống kê từ báo giới, tính đến 15/3/2013, tăng trưởng tín dụng vẫn còn
âm khoảng 0,18 - 0,2%, tức là vẫn chưa thể cải thiện so với 2/2013, cho thấy một sự
tương quan giữa thực trạng nền kinh tế và phản ứng của NHTM khi chỉ số tín nhiệm
của DN đang kém đi (rủi ro gia tăng).
Tình trạng "ngân hàng cài số lùi tín dụng" trong khi cho vay Chính phủ lại gia
tăng phản ánh dòng vốn ngân hàng đang chảy sang khu vực Chính phủ, do nền kinh
tế khó khăn và rủi ro hơn nhưng cũng cho thấy vấn đề hoạt động ngân sách đang
gây tác động chèn lấn tín dụng (đáng nhẽ phần bánh tín dụng đó phải tập trung cho
doanh nghiệp cần vốn thực thụ).
Hiệu ứng này được các nhà kinh tế gọi là "crowding out efect" (chèn lấn đầu
tư), ám chỉ khu vực Chính phủ thường lạm vốn của các khu vực còn lại trong nền
kinh tế. Nếu có hiện tượng như lãi suất cao, thâm hụt ngân sách cao, đầu tư công
cao, tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân bị teo đi như thời gian qua, thì người ta
thường gợi ý rằng, cần phải xem xét tác động lấn át này hay "ngân sách cần cẩn
trọng hơn".
Với tình hình trên, rõ ràng, để NH và DN gặp được nhau một cách thực sự và
khơi thông vốn lãi suất thấp cho DN thì cần các giải pháp tổng thể từ cấp vĩ mô đến
cấp vi mô.
Những giải pháp cụ thể từ vĩ mô nên là Ngân sách nhà nước cần đảm bảo bền
vững tránh tình trạng căng thẳng và huy động quá mức từ thị trường nội địa (lấn át
vốn của các doạnh nghiệp); NHNN tiếp tục điều hành cung ứng tiền theo hướng
kiềm chế lạm phát (không bơm tiền quá mức) mà yêu cầu các NHTM phải tiết giảm
chi phí một cách nghiêm ngặt (như không mở quá nhiều chi nhánh, xây dựng trụ sở
quá nhiều, chi lương thưởng quá mức...).
Từ phía vi mô, bản thân các DN, bao gồm cả các DN tăng trưởng như DN
FAST500 cũng phải thay đổi mô hình kinh doanh, thay vì ưa mạo hiểm (đầu tư quá
mức vào các khu vực bong bóng như nhà đất, chứng khoán .. trái ngành/ trái nghề)
74
chuyển sang cung cách kinh doanh cẩn trọng và lâu dài.... Các thay đổi về quản trị
DN cần cải thiện theo hướng áp dụng thông lệ tốt nhất. Có như thế, ngân hàng và
các nhà đầu tư mới săn lòng bơm vốn cho DN.
(Nguồn: Diễn đàn kinh tế Việt Nam (VEF.VN) – Lê Văn Hinh)
75
CHƯƠNG 4
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Chương này giúp cho sinh viên hiểu được thị trường tài chính đã thực hiện
việc phân bổ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế như thế nào. Cụ thể, sinh
viên có khả năng:
- Trình bày được khái niệm và các chức năng của thị trường tài chính.
- Trình bày được các chủ thể nhận vốn và chủ thể đầu tư vốn của thị trường
kinh tế.
- Phân biệt được các loại hình thị trường tài chính theo từng căn cứ cụ thể (Thị
trường tiền tệ và thị trường vốn; Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp; Thị trường
tập trung và thị trường phi tập trung).
1. Chức năng của thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng
quyền sử dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các công cụ tài
chính nhất định (financial instruments). Để tạo lập một môi trường hoạt động của
thị trường tài chính thì trên thực tế cần một sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó 3
yếu tố cơ bản là:
Đối tượng của thị trường tài chính: là những nguồn cung cầu về vốn trong
xã hội của các chủ thể kinh tế như Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các
định chế tài chính trung gian và công chúng
Công cụ của thị trường tài chính: đây là nguồn sống cho hoạt động của thị
trường, bao gồm: công trái nhà nước, chứng khoán do doanh nghiệp phát hành, trái
phiếu công ty, trái phiếu của các định chế tài chính trung gian và các loại giấy tờ có
giá khác: séc, kỳ phiếu,...
Chủ thể của thị trường tài chính: đây là những pháp nhần và thể nhân đại
diện cho những nguồn cung và cầu về vốn tham gia trên thị trường tài chính.
Thị trường tài chính thực hiện việc dẫn vốn từ những người có nhiều vốn nhàn
rỗi tới những người thiếu vốn, chức năng này được trình bày ở dạng sơ đồ dưới đây:
76
Sơ đồ 5.1: Những dòng vốn đi qua thị trường tài chính
Trong sơ đồ trên dòng vốn đi từ người có vốn (người cho vay) sang người cần
vốn (người đi vay) thông qua 2 kênh dẫn vốn, đó là:
Một là kênh dẫn vốn trực tiếp hay còn gọi là kênh tài chính trực tiếp: là kênh
dẫn vốn trong đó vốn được dẫn thẳng từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn.
Nói cách khác, những người thiếu vốn trực tiếp huy động vốn từ những người thừa
vốn trên thị trường tài chính.
Hai là kênh dẫn vốn gián tiếp hay còn gọi là kênh tài chính gián tiếp: là kênh
dẫn vốn trong đó vốn từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn thông qua các
trung gian tài chính. Các trung gian tài chính thực hiện việc tập hợp các khoản vốn
nhàn rỗi lại rồi cho vay, vì thế những người sử dụng vốn và những người cung cấp
vốn không liên hệ trực tiếp với nhau trong kênh này.
Những người cung cấp vốn chủ yếu là các cá nhân hay hộ gia đình, ngoài ra
các công ty, chính phủ hoặc nước ngoài đôi khi cũng có dư thừa vốn tạm thời và vì
vậy có thể đem cho vay. Những người đi vay vốn quan trọng nhất là các công ty và
chính phủ, ngoài ra còn có các cá nhân (hay hộ gia đình) và nước ngoài. Nhu cầu
vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh mà còn dùng để thoả mãn nhu cầu chi tiêu
trước mắt.
Như vậy, chức năng của thị trường tài chính là:
- Cho phép vốn chuyển từ những người, những doanh nghiệp không có cơ hội
đầu tư tới những người, những doanh nghiệp có cơ hội đầu tư.
77
Những người có vốn/cho vay - Các gia đình - Các công ty - Chính phủ - Nước ngoài
Những người cần vốn/đi vay - Các công ty - Chính phủ - Các gia đình - Nước ngoài
Tài chính gián tiếp
Tài chính trực tiếp
Vốn Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Các trung gian tài chính
Thị trường Tài chính
Những người có vốn/cho vay - Các gia đình - Các công ty - Chính phủ - Nước ngoài
Vốn
Vốn
- Cung cấp vốn cho các cá nhân và doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán
mà không phải chờ đợi một thời gian tích lũy.
- Là một hoạt động hữu hiệu để cải thiện đời sống kinh tế của mỗi thành viên
trong xã hội.
- Nâng cao năng suất và hiệu quả sử dụng vốn của toàn bộ nền kinh tế.
2. Chủ thể của thị trường tài chính
2.1. Chủ thể đi vay
Chủ thể đi vay chủ chốt trên thị trường tài chính là Chính phủ, các công ty, hộ
gia đình.
+ Chính phủ: Chính phủ vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành trái
phiếu kho bạc… để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước.
+ Các công ty: Việc thiếu vốn sản suất kinh doanh là điều thường xảy ra trong
hoạt động của các doanh nghiệp. Không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có thể
giải quyết vấn đề này bằng cách vay ngân hàng. Hơn nữa, khi muốn mở rộng sản
xuất kinh doanh, đầu tư thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất, các doanh nghiệp thường
cần vốn lớn với thời gian dài, các ngân hàng thương mại thường ít khi có thể đáp
ững yêu cầu như vậy. Cách phổ biến nhất là các doanh nghiệp huy động vốn bằng
cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường tài chính.
+ Các hộ gia đình: Hộ gia đình đi vay trên thị trường tài chính để đáp ứng nhu
cầu sản xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác của mình.
2.2. Chủ thể cho vay hay đầu tư
+ Các hộ gia đình: là những người cho vay chủ yếu thông qua việc mua trái
phiếu trên thị trường hoặc gửi tiền vào ngân hàng.
+ Các công ty bảo hiểm: nhận tiền bảo hiểm của dân chúng sau đó đem cho
các ngân hàng, công ty vay, hoặc mua trái phiếu; các khoản cho vay của công ty bảo
hiểm thường là các khoản cho vay dài hạn.
+ Các trung gian tài chính: Các ngân hàng sinh ra là đi vay để cho vay. Mặc
dù các ngân hàng chỉ là trung gian của việc vay và cho vay, không phải là chủ thể
cuối cùng, nó vẫn đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cho vốn chu chuyển từ
chủ thể này sang chủ thể khác.
78
+ Các công ty và chính phủ: khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách làm sinh lợi
dưới dạng mua trái phiếu hoặc gửi tiền vào ngân hàng.
3. Cấu trúc của thị trường tài chính
3.1.. Căn cứ vào kỳ hạn của chứng khoán mua bán trên thị trường
Thị trường tài chính được phân thành hai loại thị trường cơ bản sau:
3.1.1. Thị trường tiền tệ (Money market)
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn –
short-term debt securities (có thời hạn đáo hạn từ một năm trở xuống).
Những người đi vay/phát hành trên thị trường này là những người đang thiếu
hụt tạm thời về tiền tệ để đáp ứng cho các nhu cầu thanh toán. Thông qua các giao
dịch mua bán quyền sử dụng vốn vay ngắn hạn, thị trường tiền tệ đã cung ứng một
lượng tiền tệ cho họ để thoả mãn nhu cầu thanh toán. Cũng vì thế mà nó được gọi là
“thị trường tiền tệ”.
Những người mua/cho vay trên thị trường tiền tệ là những người có vốn tạm
thời nhàn rỗi, chưa muốn đầu tư hoặc đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư, do vậy họ
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn của mình trong thời hạn ngắn để tranh thủ
hưởng lãi. Đối với họ, việc đầu tư vào thị trường tiền tệ chỉ mang tính nhất thời, họ
không quan tâm nhiều tới mức sinh lợi mà chủ yếu là vấn đề an toàn và tính thanh
khoản để có thể rút vốn ngay khi cần.
Trên thị trường tiền tệ, do khối lượng giao dịch chứng khoán thường có qui
mô lớn nên các nhà đầu tư (cho vay) thường là các ngân hàng, ngoài ra còn có các
công ty tài chính hoặc phi tài chính, còn những người vay vốn thường là chính phủ,
các công ty và ngân hàng.
Tuỳ theo phạm vi các chủ thể được tham gia giao dịch trên thị trường mà thị
trường tiền tệ còn được chia thành thị trường liên ngân hàng (Interbank Market) – là
thị trường tiền tệ mà các giao dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả
NHTW) và thị trường mở (Open Market) – là thị trường tiền tệ mà ngoài các ngân
hàng ra còn có các tổ chức phi ngân hàng tham gia. Ngoài ra trong thị trường tiền tệ
còn có một thị trường bộ phận chuyên giao dịch các chứng khoán ngắn hạn được
ghi bằng ngoại tệ, thị trường này được gọi là thị trường hối đoái (Foreign Exchange
Market). Thị trường hối đoái ngoài các chứng khoán còn mua bán cả ngoại tệ tiền
79
mặt và các phương tiện thanh toán ghi bằng ngoại tệ như séc ngoại tệ. Ở Việt nam,
thị trường tiền tệ được tổ chức dưới các hình thức: thị trường nội tệ liên ngân hàng
(đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993) và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (đi
vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994).
3.1.2. Thị trường vốn (Capital market)
Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn – long-term
debt securities (có thời hạn đáo hạn trên một năm) và các chứng khoán vốn
(equitysecurities).
Do các chứng khoán mua bán trên thị trường vốn có thời hạn dài nên các nhà
phát hành có thể sử dụng vốn thu được để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy
thị trường vốn được coi là thị trường cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
3.2. Căn cứ vào mục đích hoạt động của thị trường
Thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
3.2.1. Thị trường sơ cấp (Primary market)
Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán mới được các nhà
phát hànhbán cho các khách hàng đầu tiên, và do vậy còn được gọi là thị trường
phát hành.
Thị trường này cho phép các chủ thể kinh tế như các doanh nghiệp, các tổ
chức tài chính, chính phủ... huy động vốn từ nền kinh tế bằng việc phát hành các
chứng khoán mới. Hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán tại thị trường này chủ
yếu diễn ra giữa các nhà phát hành và các nhà đầu tư lớn như các công ty chứng
khoán, ngân hàng đầu tư hay công ty bảo hiểm... theo hình thức bán buôn. Các nhà
đầu tư này khi đó đóng vai trò như nhà bảo lãnh cho đợt phát hành chứng khoán
(underwriting securities), họ sẽ mua lại toàn bộ số chứng khoán phát hành ra theo
mức giá thoả thuận (thường là thấp hơn mức giá công bố) để sau này bán lẻ ra thị
trường cho các nhà đầu tư khác. Vì các thoả thuận về bảo lãnh chứng khoán thường
được tổ chức riêng giữa các nhà bảo lãnh và nhà phát hành nên hoạt động giao dịch
cụ thể tại thị trường này không được công khai cho mọi người.
3.2.2. Thị trường thứ cấp (Secondary market)
Thị trường thứ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp được mua đi bán lại, làm thay đổi quyền sở hữu chứng
80
khoán.
Thị trường thứ cấp được xem như thị trường bán lẻ các chứng khoán để phân
biệt với thị trường sơ cấp là thị trường bán buôn các chứng khoán. Thị trường thứ
cấp đảm bảo khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền, cho phép
những người giữ chứng khoán có thể rút ra khỏi sự đầu tư tại thời điểm nào
mà họ mong muốn hoặc có thể thực hiện việc di chuyển đầu tư từ khu vực này sang
khu vực khác. Sự khác nhau chủ yếu giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là
ở chỗ hoạt động của thị trường sơ cấp làm gia tăng thêm vốn cho nền kinh tế còn
hoạt động của thị trường thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán đã
phát hành, mà không làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Thị trường sơ cấp đóng vai trò tạo cơ sở cho những hoạt động của thị
trường thứ cấp vì nó là nơi tạo ra hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp. Thị
trường thứ cấp cũng có tác dụng trở lại đối với thị trường sơ cấp, đóng vai trò tạo
động lực cho sự phát triển của thị trường này. Tác dụng của thị trường thứ cấp tới
thị trường sơ cấp được thể hiện ở hai chức năng của nó:
· Thứ nhất, thị trường thứ cấp tạo ra tính lỏng cho các chứng khoán được phát
hành ra trên thị trường sơ cấp, nhờ vậy sẽ làm tăng tính hấp dẫn cho các chứng
khoán, giúp cho việc phát hành chúng tại thị trường sơ cấp được thuận lợi;
· Thứ hai, thị trường thứ cấp đóng vai trò xác định giá của các chứng khoán sẽ
được phát hành trên thị trường sơ cấp. Các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp sẽ
không thể mua các chứng khoán phát hành mới tại thị trường này với giá cao hơn
giá mà họ nghĩ sẽ có thể bán được tại thị trường thứ cấp. Nếu chứng khoán của
một nhà phát hành được mua bán với giá cao tại thị trường thứ cấp thì nhà
phát hành càng có cơ hội thu được nhiều vốn nhờ việc phát hành các chứng khoán
mới tại thị trường sơ cấp.
Chính vì những đặc điểm này mà các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu
tư quan tâm nhiều tới thị trường thứ cấp hơn là thị trường sơ cấp.
3.3. Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường
Thị trường thứ cấp hoạt động dưới hai hình thức: thị trường tập trung và thị
trường phi tập trung.
81
3.3.1. Thị trường tập trung (Exchanges)
Thị trường tập trung là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán
được thực hiện có tổ chức và tập trung tại một nơi nhất định.
Ví dụ về thị trường tập trung là các Sở giao dịch chứng khoán như Sở giao
dịch chứng khoán New York, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, Sở giao dịch chứng
khoán London, Sở giao dịch chứng khoán Paris... Sở giao dịch được tổ chức dưới
hình thức một công ty cổ phần. Sở giao dịch cung cấp cho những người mua bán
chứng khoán các phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành giao dịch như: dịch
vụ thanh toán, lưu ký chứng khoán, hệ thống máy tính nối mạng, hệ thống bảng giá
điện tử để yết giá chứng khoán, hệ thống ghép lệnh mua và bán chứng khoán v.v....
Hoạt động mua bán chứng khoán tại Sở giao dịch bắt buộc phải thông qua các
trung gian môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán (brokers). Các nhà môi
giới muốn hoạt động tại Sở giao dịch phải làm thủ tục đăng ký để có chỗ trong Sở.
Những người mua và bán chứng khoán sẽ thông qua những nhà môi giới để đưa ra
các lệnh mua và bán chứng khoán. Các nhà môi giới sau khi nhận lệnh sẽ đến gặp
nhau tại một nơi ở trung tâm của Sở giao dịch gọi là Sàn giao dịch đến tiến hành
đàm phán. Ngày nay, do sự phát triển của công nghệ máy tính, nhiều Sở giao dịch
đã thay việc đàm phán trực tiếp bằng một hệ thống ghép lệnh tự động, tuy vậy hình
thức đàm phán trực tiếp vẫn được duy trì tại nhiều Sở giao dịch nổi tiếng trên thế
giới.
Không phải tất cả các loại chứng khoán đều được mua bán tại Sở giao dịch,
mà chỉ những chứng khoán đã được đăng ký yết giá. Để chứng khoán do một công
ty phát hành được đăng ký yết giá, công ty đó phải thoả mãn các điều kiện cần thiết
về qui mô vốn, về số lượng chứng khoán đã phát hành, về hiệu quả kinh doanh
trong thời gian gần đây v.v.... Sau khi được Sở giao dịch chấp nhận, chứng khoán
được đăng ký vào danh bạ của Sở giao dịch chứng khoán và thường xuyên được
niêm yết giá trên Sở giao dịch.
3.3.2. Thị trường phi tập trung (OTC markets or Off-exchange markets)
Thị trường phi tập trung là thị trường mà các hoạt động mua bán chứng
khoán được thực hiện phân tán ở những địa điểm khác nhau chứ không tập trung
tại một nơi nhất định.
82
Trên thế giới, thị trường phi tập trung được tổ chức dưới hình thức một thị
trường giao dịch “qua quầy” – OTC Market (Over-the-counter Market30). Đó là
hình thức giao dịch mà những nhà buôn chứng khoán (dealer) tại các địa điểm khác
nhau công bố một danhmục chứng khoán với giá mua và bán được yết săn, và họ sẽ
săn sàng mua hoặc bán chứng khoán thẳng cho những ai chấp nhận giá của họ31.
Do hoạt động mua bán chứng khoán tại thị trường OTC đều được thực hiện qua
mạng máy tính nên các nhà buôn chứng khoán cũng như khách hàng có điều kiện
biết rõ các mức giá mà các nhà buôn chứng khoán khác chào bán, vì vậy tính chất
cạnh tranh của thị trường này rất cao, chẳng kém gì Sở giao dịch.
Như vậy thị trường O.T.C không phải là một thị trường hiện hữu, nó không có
địa điểm tập trung nhất định mà thay vào đó là một hệ thống thông tin liên lạc hiện
đại mà các bên tham gia thị trường sử dụng để thương lượng việc mua bán chứng
khoán.
Do hình thức tổ chức như vậy nên các chứng khoán mua bán tại thị trường
OTC rất đông đảo và đa dạng, nó bao gồm chứng khoán của cả những công ty chưa
đủ điều kiện yết giá tại Sở giao dịch lẫn những công ty chưa muốn yết giá tại Sở
giao dịch. Theo các số liệu thống kê thì ở các nước phát triển giá trị các chứng
khoán được mua bán qua thị trường O.T.C lớn hơn rất nhiều so với mua bán tại Sở
giao dịch. Ngoài hai hình thức giao dịch mua bán chứng khoán đã nêu trên: giao
dịch tại Sở giao dịch và giao dịch tại thị trường OTC, trên thị trường tài chính thực
tế còn tồn tại một bộ phận các giao dịch mua bán trực tiếp giữa những người sở hữu
chứng khoán. Thị trường các giao dịch chứng khoán này có thể gọi là thị trường tự
do hay thị trường chợ đen. Các thị trường này xuất hiện đầu tiên trong lịch sử phát
triển của thị trường tài chính, khi mà những người nắm giữ chứng khoán có nhu cầu
bán lại những chứng khoán của mình.
Ngay cả ngày nay, mặc dù đã xuất hiện những thị trường tiên tiến hơn như Sở
giao dịch hay thị trường OTC, loại thị trường tự do này vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên
quy mô của chúng không lớn lắm, độ rủi ro lại cao, và chỉ có ý nghĩa tại các nước
mới hình thành thị trường tài chính.
4. Các công cụ của thị trường tài chính
Để hiểu rõ hơn cách thức thị trường tài chính lưu chuyển vốn từ người dư thừa
83
vốn sang người cần vốn, trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu các phương tiện
giúp thị trường tài chính lưu chuyển các khoản vốn, đó chính là các công cụ tài
chính hay các chứng khoán.
Các công cụ tài chính được chia thành hai nhóm chính sau:
4.1. Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ
Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ có đặc điểm chung là kỳ hạn
thanh toán
ngắn, tính thanh khoản cao và độ rủi ro thấp. Chúng bao gồm các loại chủ yếu
sau:
4.1.1. Tín phiếu kho bạc (Treasury bill)
Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do Kho bạc phát
hành để bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Đó là loại chứng khoán
không được nhà phát hành trả lãi song lại được bán với giá chiết khấu tức là giá
thấp hơn mệnh giá. Khi đến hạn, nhà đầu tư được nhận lại đủ mệnh giá, vì vậy phần
chênh lệch giữa mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi của nhà
đầu tư.
Tín phiếu kho bạc có các kỳ hạn 3, 6 và 12 tháng. Tín phiếu kho bạc được xem
là công cụ tài chính có độ rủi ro thấp nhất trên thị trường tiền tệ bởi vì hầu như
không có khả năng vỡ nợ từ người phát hành, tức là không thể có chuyện chính phủ
mất khả năng thanh toán khoản nợ khi đến kỳ hạn thanh toán, chính phủ lúc nào
cũng có thể tăng thuế hoặc in tiền để trả nợ. Tuy nhiên mức lãi suất của nó thường
thấp hơn các công cụ khác lưu thông trên thị trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc thường được phát hành theo từng lô bằng phương pháp đấu
giá. Người mua chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty và các trung
gian tài chính khác. Tín phiếu kho bạc được xem là công cụ có tính lỏng cao nhất
trên thị trường tiền tệ do nó được mua bán nhiều nhất. Tín phiếu kho bạc thường
được Ngân hàng trung ương các nước sử dụng như một công cụ để điều hành chính
sách tiền tệ thông qua thị trường mở.
4.1.2. Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được
Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit) là một công cụ nợ (debt
84
instrument) do các ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi
và sẽ hoàn trả vốn gốc (được gọi là mệnh giá của chứng chỉ) cho người gửi tiền khi
đến ngày đáo hạn.Lúc đầu, các chứng chỉ tiền gửi không được phép bán lại và nếu
người gửi tiền rút vốn trước hạn thì sẽ phải chịu phạt. Nhưng về sau để tăng tính
hấp dẫn của các chứng chỉ tiền gửi này, các ngân hàng bắt đầu cho phép các chứng
chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn (ví dụ ở Mỹ là trên 100.000 USD) được phép bán lại
trước hạn (với một mức giá khấu trừ), thậm chí có thể bán cho chính ngân hàng phát
hành. Khi đó chúng được gọi là các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng
(NCDs). NCDs thường được các ngân hàng dùng để huy động các nguồn vốn lớn từ
các công ty, các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ, các tổ chức của chính phủ.v.v.. Tại
Mỹ, tổng dư nợ từ phát hành các NCDs của các ngân hàng gần đây đã vượt quá tổng
số dư nợ của tín phiếu kho bạc Mỹ.
4.1.3. Thương phiếu (Commercial paper)
Thương phiếu là những giấy nhận nợ do các công ty có uy tín phát hành để
vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính. Thương phiếu được phát hành theo hình
thức chiết khấu, tức là được bán với giá thấp hơn mệnh giá. Chênh lệch giữa giá
mua và mệnh giá thương phiếu chính là thu nhập của người sở hữu thương phiếu.
Những thương phiếu nguyên thuỷ (commercial bill) chỉ xuất hiện trong các
hoạt động mua bán chịu hàng giữa các công ty kinh doanh với nhau. Nó có thể do
người bán chịu hay người mua chịu hàng hoá phát hành nhưng bản chất vẫn là giấy
xác nhận quyền đòi tiền khi đến hạn của người sở hữu thương phiếu. Ngày nay,
thương phiếu xuất hiện mang tính đa dạng hơn. Thương phiếu được phát hành
không chỉ trong quan hệ mua bán chịu hàng hoá mà còn được phát hành để vay vốn
trên thị trường tiền tệ. Các công ty danh tiếng khi có nhu cầu vốn có thể phát hành
thương phiếu bán trực tiếp cho người mua theo
mức giá chiết khấu. Những người đầu tư thương phiếu ngoài các ngân hàng còn có
các trung gian tài chính và công ty khác.
Các thương phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nhưng mức lãi
suất chiết khấu cũng cao hơn. Thị trường thương phiếu ngày nay rất sôi động và
phát triển với tốc độ rất nhanh. Việc chuyển nhượng thương phiếu được thực hiện
bằng hình thức ký hậu.
85
4.1.4. Chấp phiếu ngân hàng (Banker’s acceptance)
Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và được
ngân hàng đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu “đã chấp nhận” lên tờ hối
phiếu. Trong các giao dịch mua bán chịu, khi người bán không tin vào khả năng
thanh toán của người mua, họ sẽ yêu cầu người mua phải có sự bảo đảm thanh toán
từ một ngân hàng có uy tín. Khi ngân hàng chấp nhận bảo lãnh cho khoản thanh
toán, nó cho phép người bán ký phát hối phiếu đòi tiền thẳng ngân hàng và ngân
hàng sẽ đóng dấu chấp nhận trả tiền lên tờ hối phiếu đó. Như vậy, người trả tiền hối
phiếu bây giờ không phải là người mua nữa mà là ngân hàng, do vậy người bán
được đảm bảo khá chắc chắn về khả năng thanh toán của tờ hối phiếu. Để được
ngân hàng ký chấp nhận vào tờ hối phiếu, người mua chịu phải ký quỹ gửi vào ngân
hàng một phần hoặc toàn bộ số tiền của tờ hối phiếu hoặc được ngân hàng đồng ý
cho vay để thanh toán hối phiếu. Ngân hàng sẽ thu từ người mua chịu một khoản
phí bảo đảm thanh toán. Các chấp phiếu ngân hàng này được sử dụng khá phổ biến
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên các
chấp phiếu ngân hàng là một công cụ nợ có độ an toàn khá cao, nhất là khi ngân
hàng chấp nhận là các ngân hàng lớn, có uy tín. Những người sở hữu chấp phiếu có
thể đem bán chúng trên thị trường tiền tệ với giá chiết khấu để thu tiền mặt ngay
khi cần vốn gấp.
4.1.5. Hợp đồng mua lại (Repurchase agreement - Repo)
Hợp đồng mua lại là một hợp đồng trong đó ngân hàng bán một số lượng tín
phiếu kho bạc mà nó đang nắm giữ, kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó
sau một vài ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn.
Về thực chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn (thường không quá hai
tuần) của các ngân hàng trong đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp.
Sau đây là ví dụ về cách sử dụng một “Repo” để vay vốn: Một công ty lớn của
Mỹ là General Motors (GM), có một số vốn nhàn rỗi trong tài khoản là 1 triệu USD.
Công ty muốn tranh thủ cho vay ngắn hạn khoản tiền này. Ngân hàng Citibank khi
đó đang có nhu cầu vay 1 triệu USD trong 1 tuần. Ngân hàng quyết định sử dụng
một “Repo” để vay của GM bằng cách ký hợp đồng bán cho GM 1 triệu USD tín
phiếu kho bạc mà ngân hàng đang nắm giữ với cam kết sẽ mua lại số tín phiếu này
86
với giá cao hơn sau đó 1 tuần. Như vậy, thông qua hợp đồng mua lại – “Repo” nói
trên, công ty GM đã cung cấp cho Citibank một khoản vay ngắn hạn, lãi trả cho GM
chính là khoản chênh lệch giữa giá bán lại tín phiếu cho ngân hàng sau đó 1 tuần và
giá mua tín phiếu lúc đầu. Trong trường hợp xảy ra rủi ro Citibank không thanh
toán được nợ cho GM khi đến hạn, 1 triệu USD tín phiếu kho bạc vẫn thuộc sở hữu
của GM và công ty có thể bán trên thị trường tiền tệ để thu hồi vốn về. Như vậy 1
triệu USD tín phiếu kho bạc (một công cụ có tính lỏng cao nhất và an toàn nhất trên
thị trường tiền tệ) đã được sử dụng làm vật thế chấp trong “Repo” để đảm bảo khả
năng thanh toán nợ của Citibank và đã làm cho GM yên tâm khi cho vay.
Ngoài các công cụ phổ biến trên, ở các nước có thị trường tiền tệ phát triển (ví
dụ như Mỹ) còn có thêm một số công cụ khác như:
4.1.6 Quĩ liên bang (Fed Funds)
Quỹ liên bang là những khoản vay nợ ngắn hạn (thường chỉ qua một đêm)
điển hình giữa các ngân hàng Mỹ. Đối tượng vay ở đây là những món tiền gửi của
các ngân hàng tại Cục dự trữ liên bang Mỹ36. Khi tiền gửi của một ngân hàng tại
Fed không đạt đến tổng số mà Fed qui định phải có, nó sẽ tiến hành vay từ những
ngân hàng nào có khoản tiền gửi tại Fed vượt quá qui định để bù đắp cho khoản
thiếu hụt của mình.
Thị trường vay quỹ liên bang rất nhạy cảm đối với các nhu cầu tín dụng của
ngân hàng khiến cho lãi suất của các khoản vay này (gọi là lãi suất quĩ liên bang)
được xem là một phong vũ biểu để đo mức độ căng thẳng của thị trường tín dụng
trong hệ thống ngân hàng. Khi lãi suất cao là lúc các ngân hàng đang bị sức ép về
vốn, khi lãi suất thấp là nhu cầu tín dụng của các ngân hàng thấp.
4.1.7 Đô la châu Âu (Euro dollars)
Những đồng đô la Mỹ do các ngân hàng ngoại quốc ở bên ngoài nước Mỹ
hoặc những chi nhánh của ngân hàng Mỹ ở ngoại quốc nắm giữ được gọi là đô la
châu Âu. Các ngân hàng Mỹ có thể vay những món tiền này từ các ngân hàng nước
ngoài hoặc từ các chi nhánh của ngân hàng Mỹ ở nước ngoài khi họ cần vốn. Đồng
đô la châu Âu ngày nay đã trở thành một nguồn vốn ngắn hạn quan trọng đối với
các ngân hàng Mỹ (năm 1998 là trên 100 tỷ USD).
4.2. Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn
87
Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn so với các công
cụ trên thị trường tiền tệ do giá cả biến động nhiều hơn, tiềm ẩn rủi ro mất khả năng
thanh toán nhưng mức sinh lợi cao hơn vì các chứng khoán dài hạn thường đem lại
lợi tức lớn hơn. Sau đây là một số công cụ điển hình:
4.2.1. Trái phiếu (Bond)
Trái phiếu là một chứng thư xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định
kỳ và vốn gốc khi đến hạn của tổ chức phát hành. Như vậy, trái phiếu có bản chất là
một công cụ nợ (debt instrument). Nó có những đặc điểm cơ bản sau:
Mệnh giá của trái phiếu (Face value): Là số tiền ghi trên bề mặt của tờ trái
phiếu.
Mệnh giá của trái phiếu thường chính là giá bán của trái phiếu khi phát hành,
và đây cũng là số tiền mà nhà phát hành phải hoàn trả lại cho người sở hữu trái
phiếu khi trái phiếu đáo hạn. Luật các nước có thể qui định mệnh giá tối thiểu của
trái phiếu.
Ví dụ: Nghị định 144/CP qui định mệnh giá tối thiểu của các trái phiếu phát
hành ra công chúng tại Việt nam là 100.000đ và bội số của 100.000đ.
Thời hạn của trái phiếu (Maturity): Là thời hạn vay vốn của tổ chức phát
hành, nó được ghi rõ trên tờ trái phiếu. Thời hạn của trái phiếu thường từ 2 năm trở
lên, có thể tới hơn 10 năm.
Lãi trả cho trái phiếu (Interest): Lãi trả cho trái phiếu thường được qui định
theo tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá. Lãi suất trái phiếu có thể được qui định cố định
hoặc thả nổi lên xuống theo lãi suất thị trường. Lãi thường được trả định kỳ hàng
năm hoặc một năm hai lần. Kỳ hạn trả lãi cũng như lãi suất trái phiếu đều được qui
định rất cụ thể trên tờ trái phiếu.
Người sở hữu trái phiếu (Bondholder): Bằng việc mua trái phiếu, người sở
hữu trái phiếu đã cung cấp cho nhà phát hành một khoản vay ứng trước. Tên của
người sở hữu trái phiếu có thể được ghi trên tờ trái phiếu (nếu là trái phiếu đích
danh) hoặc không được ghi (nếu là trái phiếu vô danh). Người sở hữu trái phiếu
ngoài quyền được đòi lãi và vốn khi đến hạn còn có quyền chuyển nhượng trái
phiếu cho người khác khi trái phiếu chưa hết hạn. Khả năng thanh toán gốc và lãi
của trái phiếu phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của tổ chức phát hành, do vậy khi phân
88
loại trái phiếu, người ta thường căn cứ vào ai là nhà phát hành. Với căn cứ phân
chia như vậy, trái phiếu có hai loại chủ yếu sau:
Trái phiếu chính phủ (Government bond)
Trái phiếu chính phủ thường dưới dạng trái phiếu kho bạc. Đây là các trái
phiếu do Kho bạc phát hành để bù đắp thâm hụt ngân sách quốc gia hàng năm. Trái
phiếu kho bạc rung hạn (Treasury note) có thời hạn dưới 10 năm, còn trái phiếu kho
bạc dài hạn (Treasury bond) có thời hạn trên 10 năm.
Các trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu mua bán mạnh nhất trên thị trường
vốn các nước nên được xem là công cụ nợ lỏng nhất trên thị trường vốn. Các nhà
đầu tư vào trái phiếu chính phủ bao gồm các ngân hàng (kể cả NHTW), các cá nhân
và một số tổ chức tài chính khác. Ngoài trái phiếu chính phủ, còn có các trái phiếu
do các cơ quan trực thuộc chính phủ phát hành (Government agency bonds) và trái
phiếu của chính quyền địa phương (Local government bonds hoặc Municipal
bonds). Một ví dụ về trái phiếu do các cơ quan trực thuộc chính phủ phát hành là
các trái phiếu bảo đảm bằng khoản cho vay thế chấp do GNMA – một tổ chức trực
thuộc chính phủ Mỹ – phát hành (sẽ được đề cập chi tiết trong phần tiếp theo). Các
chính quyền địa phương cũng có thể phát hành trái phiếu để vay vốn cho chi tiêu
ngân sách địa phương hoặc để đầu tư cho từng công trình cụ thể theo kế hoạch, ví
dụ để xây dựng những công trình cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng.
Loại trái phiếu này thường có những ưu đãi đặc biệt như tiền lãi không phải chịu
thuế. Tính chất của các loại trái phiếu này cũng gần tương tự trái phiếu chính phủ.
Những nhà đầu tư chính là các ngân hàng, các công ty bảo hiểm và các cá nhân.
Tại Việt nam, ngoài trái phiếu kho bạc (thường có thời hạn 5 năm), chính phủ
còn phát hành công trái quốc gia. Các công trái này thường có mức sinh lời kém,
chủ yếu mang tính chất động viên người dân giúp đỡ nhà nước bằng cách cho vay
vốn. Ngoài ra, cácngành lớn của Việt nam cũng phát hành trái phiếu công trình để
tài trợ cho hoạt động đầu tư của mình, ví dụ: ngành năng lượng phát hành trái phiếu
công trình để xây dựng đường dây 500 KV, tổng công ty bưu chính viễn thông phát
hành trái phiếu xây dựng hệ thống bưu điện…
Trái phiếu công ty (Corporate bond)
Trái phiếu công ty thường do các công ty có uy tín lớn phát hành. Những
89
người nắm giữ trái phiếu trở thành chủ nợ của công ty và có quyền yêu cầu thanh
toán lãi và vốn khi đến hạn. Khác với các cổ đông, thu nhập của những người nắm
giữ trái phiếu công ty không phụ thuộc vào tình hình lợi nhuận của công ty và họ
luôn được ưu tiên thanh toán lãi trước các cổ đông, kể cả cổ đông cổ phiếu ưu đãi.
Các trái phiếu công ty nhìn chung có qui mô giao dịch nhỏ hơn so với các trái
phiếu chính phủ, do vậy mà chúng kém lỏng hơn. Tại các nước phát triển, thị trường
trái phiếu công ty cũng có qui mô nhỏ hơn thị trường cổ phiếu công ty (tại Mỹ thị
trường trái phiếu công ty chỉ bằng gần 1/5 thị trường cổ phiếu công ty) tuy nhiên tốc
độ phát triển của nó lại nhanh hơn thị trường cổ phiếu công ty nhiều nên trong
tương lai trái phiếu công ty có thể sẽ là một nguồn tài chính quan trọng hơn so với
các cổ phiếu công ty. Nắm giữ trái hiếu công ty thường là các công ty bảo hiểm (đặc
biệt là công ty bảo hiểm nhân thọ), các uỹ hưu trí, các công ty chứng khoán và cả
các cá nhân. Việc phát hành trái phiếu công ty chưa phổ biến ở Việt nam. Chủ yếu
mới chỉ có các ngân hàng phát hành trái phiếu ngân hàng để vay vốn từ dân.
4.2.2. Cổ phiếu (StockUS/ShareUK Certificate)
Cổ phiếu là một chứng thư hay bút toán ghi sổ xác nhận trái quyền (quyền
hưởng lợi) về vốn - equity claim - đối với thu nhập và tài sản ròng của một công ty
cổ phần.
Cổ phiếu có bản chất là một công cụ góp vốn (equity instruments) và chỉ do
các công ty cổ phần phát hành. Khi cần huy động vốn, công ty cổ phần chia số vốn
cần huy động thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi là các cổ phần (share/stock).
Người mua những cổ phần này được gọi là cổ đông (share/stockholder). Với số cổ
phần đã mua, các cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu, giấy này gọi là cổ
phiếu.
Vốn mà công ty cổ phần huy động được từ việc phát hành cổ phiếu được xem
là vốn thuộc sở hữu của công ty. Những cổ đông khi mua các cổ phần của công ty
đã thực hiện việc góp vốn để công ty kinh doanh và do vậy trở thành những người
đồng sở hữu công ty. Tỷ lệ sở hữu công ty phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông
nắm giữ. Do cổ phiếu được em là giấy xác nhận quyền sở hữu của các cổ đông đối
với những cổ phần này nên có thể coi cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận sự góp vốn và
quyền sở hữu về số vốn mà một cổ đông góp vào công ty cổ phần.
90
Là người chủ sở hữu công ty, các cổ đông có những quyền cơ bản sau đây:
Quyền tham gia quản lý công ty: Quyền này được thực hiện bằng cách các
cổ đông bầu ra một Hội đồng quản trị để thay mặt mình quản lý, điều hành công ty.
Các cổ đông không chỉ có quyền bầu ra Hội đồng quản trị (Board of Directors) mà
còn có thể tham gia ứng cử làm thành viên của Hội đồng quản trị. Số lượng phiếu
bầu tỷ lệ với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Do vậy những người nắm giữ
càng nhiều cổ phần của công ty thì càng có nhiều khả năng trở thành thành viên của
Hội đồng quản trị. Ngoài ra, hàng năm công ty còn tổ chức Đại hội cổ đông (Annual
shareholder meetings) để họp các cổ đông lại, bàn về các chiến lược hoặc kế hoạch
kinh doanh lớn của công ty.
Quyền sở hữu tài sản ròng của công ty: Các cổ đông sở hữu công ty theo tỷ
lệ cổ phần nắm giữ. Do vậy, khi tài sản ròng của công ty tăng lên do làm ăn có lãi,
giá trị các ổ phần mà cổ đông nắm giữ cũng tăng lên theo. Khi công ty cổ phần
ngừng hoạt động, cổ đông được tham gia phân chia tài sản còn lại của công ty. Ví
dụ: Tổng tài sản ban đầu của một công ty cổ phần là 10 tỷ VNĐ. Một cổ đông nắm
20% cổ phần của công ty cho nên tổng giá trị tài sản công ty mà anh sở hữu theo cổ
phần là 2 tỷ VNĐ. Sau 5 năm làm ăn có lãi, tổng tài sản ròng của công ty tăng lên
15 tỷ VNĐ, khi đó tổng giá trị cổ phần mà anh ta sở hữu lên tới 3 tỷ VNĐ.
Quyền tham gia chia lợi nhuận ròng40: Cổ đông được quyền hưởng một
phần lợi nhuận ròng của công ty tỷ lệ với số cổ phần anh ta sở hữu. Phần lãi trả cho
mỗi cổ phần được gọi là cổ tức (Dividend). Quyền này chỉ được thực hiện khi công
ty làm ăn có lãi. Tuy nhiên, không phải lúc nào tất cả lợi nhuận thu được đều được
đem chia cho các cổ đông, cũng có trường hợp nhằm tăng vốn kinh doanh cho công
ty, Hội đồng quản trị quyết định giữ lại phần lớn lợi nhuận. Điều này nói chung là
được các cổ đông chấp nhận vì tuy không nhận được cổ tức nhưng giá trị cổ phần
của họ trong công ty lại tăng lên, hơn thế việc tăng vốn có thể đảm bảo cho khả
năng tạo thêm nhiều lợi nhuận hơn trong thời gian tới.
Ngoài đặc trưng cơ bản nói trên, cổ phiếu còn có một số đặc điểm đáng chú ý
sau:
Thời hạn của cổ phiếu: Bằng cách mua cổ phiếu do công ty cổ phần phát
hành, các nhà đầu tư đã cung cấp vốn cho công ty hoạt động. Tuy nhiên các cổ đông
91
lại không được phép rút khoản vốn này về trừ trường hợp công ty ngừng hoạt động
hoặc có qui định đặc biệt cho phép được rút vốn. Chính vì lý do như vậy nên có thể
coi cổ phiếu có thời hạn thanh toán vốn bằng thời gian hoạt động của công ty.
Trên thực tế, trừ trường hợp phá sản hoặc kết quả kinh doanh quá tồi tệ, còn
nói chung thì các công ty sẽ vẫn cứ duy trì hoạt động mãi mãi, cho nên có thể nói
thời hạn của cổ phiếu là vô hạn. Mặc dù vậy, các cổ đông được phép chuyển
nhượng cổ phần mà mình nắm giữ cho người khác và bằng cách đó có thể rút lại
khoản vốn mà mình đã đầu tư vào công ty cổ phần.
Giá trị của cổ phiếu: Giá trị của cổ phiếu được thể hiện trên 3 phương diện
sau:
o Mệnh giá (Face value): là số tiền ghi trên bề mặt cổ phiếu41. Mệnh giá
thường được ghi bằng nội tệ. Mệnh giá bằng bao nhiêu là do luật chứng khoán hoặc
điều lệ của công ty cổ phần qui định. Ví dụ: ở Việt nam theo NĐ144/CP, mệnh giá
cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt nam thống nhất là 10.000 VNĐ.
o Giá trị ghi sổ (Book value): là giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị tài
sản ròng của công ty trên bảng tổng kết tài sản. Ví dụ: Một công ty có 50.000 cổ
phiếu, mệnh giá 10.000 đ/cổ phiếu. Sau 5 năm hoạt động, giá trị tài sản ròng của
công ty theo sổ sách kế toán là 1 tỷ đ. Khi đó giá trị của mỗi cổ phần theo sổ sách sẽ
là 20.000 đ, ta nói giá trị ghi sổ của cổ phiếu công ty bây giờ là 20.000 đ/cổ phiếu.
o Giá trị thị trường (Market value): là giá cả của cổ phiếu khi mua bán trên thị
trường.
Cổ phiếu có hai loại cơ bản sau:
Cổ phiếu thường hay cổ phiếu phổ thông (Common stock): Là loại cổ phiếu có
đầy đủ các đặc trưng đã nêu trên của cổ phiếu. Đó là:
Không qui định trước số cổ tức cổ đông sẽ nhận được. Giá trị cổ tức nhiều
hay ít còn tuỳ vào tình hình lợi nhuận của công ty và kế hoạch chia lợi nhuận của
Hội đồng quản trị. Trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ thì chẳng những cổ tức
không được chia mà cổ đông còn bị hao hụt về vốn góp. Nguyên tắc của các cổ
đông cổ phiếu thường là “lời ăn, lỗ chịu”.
Chỉ được chia lãi sau khi công ty đã thanh toán lãi trả cho những người nắm
trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.
92
Thời hạn cổ phiếu là vô hạn.
Được hưởng quyền tham gia quản lý công ty cùng các quyền khác nhằm
duy trì quyền quản lý công ty, như: quyền bầu cử, quyền ứng cử vào Hội đồng quản
trị, quyền ưu tiên mua trước với giá ưu đãi các cổ phiếu mới phát hành. Những cổ
đông có nhiều cổ phần hoặc nhiều uy tín có thể nắm quyền điều hành công ty. Còn
nói chung đa số những người đầu tư chỉ mua cổ phiếu thường để hưởng cổ tức hoặc
bán đi khi cổ phiếu lên giá nhằm hưởng chênh lệch giá.
Cổ phiếu ưu đãi (Preferred Stock): Là loại cổ phiếu cho phép người nắm giữ
cổ phiếu được hưởng một số ưu đãi hơn so với cổ đông cổ phiếu thường. Ví dụ như:
Được hưởng một mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm dù công ty
làm ăn có lãi hay không.
Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ phiếu thường.
Được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi thanh lý, giải thể.
Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh
giá. Chẳng hạn một cổ phiếu ưu đãi có mệnh giá 100 USD, tỷ suất cổ tức là 4,5% sẽ
được hưởng một khoản cổ tức cố định là 4,5 USD. Còn nếu cổ phiếu ưu đãi không
có mệnh giá thì cổ tức sẽ được công ty công bố đơn giản là 5 USD/cổ phiếu chẳng
hạn.
Hạn chế của cổ phiếu ưu đãi so với cổ phiếu thường là:
Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử, ứng cử vào
hội đồng quản trị, tức là không được quyền tham gia quản lý công ty.
Khi lợi nhuận của công ty tăng lên thì cổ tức cổ phiếu ưu đãi không vì thế
mà được tăng lên theo.
Vì cổ tức của cổ phiếu ưu đãi không tăng, nên giá cả của cổ phiếu ưu đãi trên
thị trường cũng ít biến động. Do vậy, cổ phiếu ưu đãi thường kém hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư hơn so với cổ phiếu thường43. Những người đầu tư vào cổ phiếu ưu
đãi thường là những người muốn có thu nhập ổn định, đều đặn và không thích mạo
hiểm.
4.2.3. Các khoản vay thế chấp (Mortgages)
Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tư (mua
hoặc xây dựng) vào nhà, đất, hoặc những bất động sản khác, các bất động sản và
93
đất đó sau đó lại trở thành vật thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay.
Ở các nước phát triển, thị trường các khoản vay thế chấp có qui mô rất lớn,
đặc biệt là thị trường các khoản vay thế chấp để mua nhà ở. Tại Mỹ, thị trường các
khoản vay thế chấp là thị trường nợ lớn nhất, trong đó các khoản vay thế chấp để
mua nhà ở gấp bốn lần các khoản vay thế chấp thương mại và nông trại.
Các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm nhân thọ là những tổ chức
cung cấp các khoản vay thế chấp thương mại và nông trại chủ yếu. Còn các khoản
vay thế chấp nhà ở thì thường do các hiệp hội cho vay và tiết kiệm (Savings and
Loan Associations _S&Ls) và các ngân hàng tiết kiệm tương trợ (Mutual savings
banks) cung cấp. Ngoài ra, chính phủ các quốc gia cũng hình thành nhiều tổ chức
chuyên hỗ trợ cho thị trường các khoản vay thế chấp này. Ví dụ ở Mỹ có 3 cơ quan
chính phủ là Hiệp hội vay thế chấp quốc gia thuộc liên bang (Federal National
Mortgage Association – FNMA), Hiệp hội vay thế chấp quốc gia thuộc chính phủ
(Government National Mortgage Association –GNMA) và Công ty cho vay thế
chấp nhà ở thuộc liên bang (Federal Home Loan Mortgage Corporation – FHLMC)
đang cung cấp vốn cho thị trường này bằng cách phát hành các trái phiếu để huy
động vốn rồi dùng vốn đó để cho vay thế chấp. Ngoài ra, thị trường vay thế chấp
nhà ở ngày nay còn được hỗ trợ phát triển hơn nữa nhờ công nghệ chứng khoán hoá.
Đó là hình thức mà một cơ quan trực thuộc chính phủ như GNMA phát hành các
chứng khoán thanh toán vốn và lãi bằng các khoản thu từ hoạt động cho vay thế
chấp nhà ở, tức là các khoản thanh toán của các cá nhân vay thế chấp nhà ở sẽ thông
qua GNMA chuyển đến cho các nhà đầu tư vào các loại chứng khoán bảo đảm bằng
các khoản cho vay thế chấp (Mortgage-Backed Securities). Nhờ sự phát triển của
công nghệ này mà đến nay 2/3 các khoản cho vay thế chấp nhà ở của Mỹ đã được
chứng khoán hoá, do đó đã tạo được thị trường thứ cấp cho các khoản vay thế chấp
nhà ở, giúp cho thị trường này thêm hấp dẫn và sôi động.
4.2.4. Các khoản vay thương mại và tiêu dùng
Đây là các món vay dành cho những công ty kinh doanh và người tiêu dùng,
chủ yếu là do các ngân hàng cung cấp. Riêng các khoản cho vay tiêu dùng cũng có
thể do các công ty tài chính cung cấp. Các khoản vay này thường không chuyển
nhượng được nên chúng kém lỏng nhất trong các công cụ của thị trường vốn.
94
5. Điều hành thị trường tài chính
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành hoạt động của thị
trường tài chính.
5.1. Ban hành qui định bắt buộc các công ty phải cung cấp đầy đủ thông tin
cho các nhà đầu tư
Chính phủ yêu cầu các công ty phát hành chứng khoán phải cung cấp một số
thông tin về doanh số, tài sản, tình hình kinh doanh lỗ, lãi…cho các nhà đầu tư. Như
vậy, các nhà đầu tư sẽ tránh được một số các hoạt động gian lận, rủi ro.
5.2. Đảm bảo sự lành mạnh của các trung gian tài chính
Để bảo vệ những nhà đầu tư và những người gửi tiền, chính phủ ban hành các
qui định buộc các tổ chức trung gian tài chính phải tuân theo như:
- Đưa ra các điều kiện cho việc thành lập các trung gian tài chính.
- Yêu cầu các trung gian tài chính phải báo cáo các hoạt động của họ và
thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động của các trung gian tài
chính.
- Qui định qui mô và phạm vi hoạt động của các tổ chức tài chính nhằm hạn
chế hoạt động chứa đựng rủi ro.
- Qui định về việc thực hiện bảo hiểm cho những người gửi tiền tại các trung
gian tài chính…
6. Quốc tế hoa các thị trường tài chính
Trong những năm gần đây, các thị trường tài chính có xu hướng được quốc tế
hóa. Việc quốc tế hóa thị trường tài chính giúp cho thị trường tài chính trong nước
mở rộng các hoạt động của mình, các công ty, các tổ chức tài chính trung gian có
nhiều cơ hội hơn trong các hoạt động kinh doanh và đầu tư.
6.1. Thị trường trái khoán quốc tế và Châu Âu
Công cụ truyền thống trong thị trường trái khoán quốc tế được gọi là trái
khoán nước ngoài. Trái khoán nước ngoài là trái khoán do công ty, chính phủ ở
một số nước phát hành, nhưng lại được gọi theo đơn vị tiền tệ nước ngoài. Chẳng
hạn như hãng máy tính IBM bán trái khoán ở Nhật bằng đồng Yên Nhật.
Trong thời gian gần đây còn xuất hiện trái khoán Châu Âu (Eurobond.) Trái
khoán Châu Âu là trái khoán được gọi tên theo đơn vị tiền tệ khác với đơn vị tiền tệ
95
ở nước mà nó được bán. Chẳng hạn, một trái khoán được gọi tên theo đồng đô la
Mỹ nhưng được bán ở Luân Đôn. Hiện nay có khoảng 80% lượng phát hành mới
trên thị trường chứng khoán quốc tế là Trái khoán Châu Âu.
6.2. Thị trường cổ phiếu thế giới
Trước đây, thị trường cổ phiếu Mỹ vẫn là thị trường cổ phiếu lớn nhất trên thế
giới, nhưng cho đến thời điểm gần đây, giá trị cổ phiếu được mua bán ở Nhật đã
vượt nhiều lần giá trị các cổ phiếu được mua bán ở Mỹ.
7. Thị trường tài chính Việt Nam
7.1. Sự hình thành của thị trường tài chính ở Việt Nam
Cũng như các quốc gia chậm phát triển khác, thị trường tài chính Việt Nam
cho đến nay chưa phát triển. Hoạt động của thị trường tài chính chỉ tập trung ở hoạt
động của trung gian tài chính – các ngân hàng thương mại. Để thúc đẩy quá trình
phát triển thị trường tài chính Việt Nam, Chính phủ đã thành lập Ủy ban Chứng
khoán quốc gia vào năm 1998. Ủy ban này hiện đang xúc tiến hàng loạt các hoạt
động tạo điều kiện tiền đề cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
Trung tâm giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ chí Minh được thành lập vào
tháng 7/1998, đây là bước đi đầu tiên tiến tới thành lập sở giao dịch chứng khoán ở
Việt Nam.
7.2. Các công cụ của thị trường tài chính Việt Nam
Do thị trường tài chính chưa phát triển, nên các công cụ của thị trường tài
chính ở Việt Nam cũng còn chưa đa dạng, hạn chế về số lượng. Hiện nay chỉ có một
số công cụ chủ yếu như: trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, kỳ phiếu ngân
hàng, tiền gửi tiết kiệm, cổ phiếu công ty.
7.2.1. Trái phiếu kho bạc (hay còn gọi là tín phiếu kho bạc)
Trái phiếu kho bạc là một loại trái phiếu do Nhà nước phát hành với lãi suất cố
định và thời hạn ấn định trước, nhằm huy động vốn bổ sung ngân sách nhà nước.
Trái phiếu kho bạc nhà nước được phát hành nhằm bù đắp thâm thủng ngân sách và
giải quyết thiếu hụt tạm thời (khi giữa thu và chi không ăn khớp về mặt thời gian).
Như vậy, ngay cả khi có bội thu ngân sách vẫn cần phát hành trái phiếu kho bạc.
96
Trên thị trường Việt Nam, trái phiếu kho bạc là công cụ phát hành rộng rãi và
phổ biến nhất và là công cụ an toàn nhất (được xem như không có rủi ro khi thanh
toán).
Trái phiếu kho bạc chủ yếu do các tổ chức tài chính tín dụng mua thong qua
hình thức đấu thầu. Lãi suất trái phiếu kho bạc thông thường cao hơn lãi suất tiền
gửi ngân hàng cùng kỳ hạn.
7.2.2. Kỳ phiếu ngân hàng
Để huy động được một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, phục vụ mục
đích hoạt động hoặc đầu tư trung hạn cho các chương trình Chính phủ chỉ định, các
ngân hàng, chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh như: Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn; Ngân hàng Công thương Việt Nam; Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển, phát hành kỳ phiếu ngân hàng để thu hút vốn. Lãi suất thong
thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, trả lãi trước hoặc sau. Nếu so sánh với
trái phiếu kho bạc, thì loại kỳ phiếu này có mức độ rủi ro cao hơn, do có thể các
ngân hàng này không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các ngân
hàng này là các ngân hàng của Chính phủ, do vậy việc mất khả năng thanh toán của
ngân hàng rất khó có thể xảy ra.
7.2.3. Tiền gửi ngân hàng
Do cơ chế tự chủ trong tài chính và độc lập trong kinh doanh, các tổ chức tài
chính tín dụng không ngừng đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như tiền gửi
không kỳ hạn, có kỳ hạn, gửi tiết kiệm. Lãi suất huy động do các ngân hàng tự
quyết định căn cứ qui định theo từng thời kỳ của Ngân hàng Nhà nước. Các ngân
hàng cổ phần, ngoài quốc doanh, thong thường có lãi suất cao hơn và mức độ rủi ro
cũng cao hơn so với các ngân hàng thương mại quốc doanh. Tuy nhiên, kỳ hạn huy
động ngoại tệ khoảng 4,5% năm thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động tiền đồng
khoảng 10% năm.
7.2.4. Cổ phiếu
Cổ phiếu hiện nay vẫn chưa phổ biến ở Việt Nam, do số lượng công ty cổ phần
còn ít. Đến nay, cả nước mới chỉ có 29 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.
Do chưa có thị trường chứng khoán nên các doanh nghiệp không thể phát hành cổ
phiếu hay trái phiếu để thu hút vốn đầu tư. Người mua cổ phiếu có ý định đầu tư lâu
97
dài nhằm kiếm lợi từ cổ tức chứ chưa thực sự có ý định mua bán trao đổi các cổ
phiếu đó.
7.2.5. Các công cụ tài chính khác
Ngoài một số công cụ tài chính kể trên, hiện nay một số ngành đã phát hành
trái phiếu dài hạn trong nước và nước ngoài để thu hút vốn như ngành năng lượng
phát hành trái phiếu xây dựng đường dây 500KV, Tổng công ty bưu chính viễn
thông phát hành trái phiếu xây dựng hệ thống bưu điện…
7.3. Điều kiện để phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam
Đại hội Đảng VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc đổi
mới phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong những năm gần đây, nền kinh tế
Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, mức tăng trưởng GDP bình
quân giai đoạn 1990 – 1997 đạt 8 – 9%, lạm phát kìm chế ở mức thấp, đời sống của
nhân dân không ngừng được cải thiện.
Để phát triển kinh tế đến năm 2000, với mục tiêu tăng thu nhập bình quân đầu
người từ 200USD lên 400USD/năm, Việt Nam cần phải có từ 40 – 50 tỷ USD.
Trong đó, 50% tổng số vốn đầu tư này sẽ huy động ở trong nước, còn lại 50% sẽ
huy động ở nước ngoài và từ các tổ chức tài chính quốc tế.
Để có thể đạt được các mục tiêu trên, rõ ràng Việt Nam cần phải nhanh chóng
phát triển thị trường tài chính. Trong bối cảnh hiện nay, muốn phát triển thị trường
tài chính cần phải có các điều kiện sau:
Thứ nhất, phải có một cơ chế lãi xuất linh hoạt và chịu sự điều tiết của thị
trường. Trên thị trường tài chính, lãi suất là phương tiện quan trọng nhất điều tiết
cung cầu tiền vốn. Cơ chế lãi xuất linh hoạt nhạy bén sẽ cung cấp cho người vay
những thông tin tài chính kịp thời, chính xác để từ đó có những quyết sách phù hợp
với thực tế, thúc đẩy lưu thông tiền vốn và tăng cạnh tranh thị trường. Trái lại, khi
cơ chế lãi suất cứng nhắc sẽ làm mất đi tính linh hoạt trên thị trường và không kích
sự phát triển các công cụ tài chính, hạn chế cung cầu vốn… Trên thực tế chính sách
lãi suất của Việt Nam đang dần được nới lỏng, tăng cường quyền tự chủ cho các tổ
chức tài chính, tín dụng.
Thứ hai, phải có các công cụ tài chính phong phú, đa dạng. Số lượng và hình
thức các công cụ này sẽ quyết định phạm vi giao dịch và qui mô của thị trường tài
98
chính. Với sự ra đời của thị trường chứng khoán thì các công cụ tài chính sẽ dần
được bổ sung và phát triển hoàn thiện.
Thứ ba, xây dựng và đa dạng hóa các tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty
tài chính…những chủ thể chính tham gia thị trường trong môi trường cạnh tranh.
Việc xây dựng và phát triển các loại hình tổ chức tài chính sẽ khuyến khích sự đa
dạng và cạnh tranh, giúp đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn. Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ 1/10/1998, cùng
một số Nghị định của Chính phủ về thị trường chứng khoán gần đây đã tạo hành
lang pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của các tổ chức nói trên.
Thứ tư, phải xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin.
Thứ năm, cuối cùng để thị trường tài chính có thể phát triển đầy đủ thì kinh tế
xã hội phải tương đối ổn định để các nhà đầu tư yên tâm và phải có một hệ thống
pháp luật toàn diện, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
BÀI ĐỌC THÊM CHƯƠNG 4
NHỮNG GÓC NHÌN VỀ TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
Những ngày cuối tháng 5/2013, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam
đón nhiều thông tin hỗ trợ như CPI tăng thấp, lãi xuất giảm, gói tín dụng ưu đãi với
bất động sản (BĐS) chuẩn bị triển khai. Mặc dù vậy, nền kinh tế đang đối mặt với
sự sụt giảm tổng cầu khiến tăng trưởng khó khăn. Tài chính & Đầu tư ghi lại ý kiến
của một số chuyên gia trong lĩnh vực này, sau đây là phần ghi nhận ý kiến:
1. TS. Nguyễn Sơn, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước: Kinh tế vĩ mô tiếp tục hỗ trợ thị trường
Năm 2013 đã trôi qua được gần 5 tháng. Hầu hết các cán cân vĩ mô đều có
những cải thiện so với một năm trước đây như tăng trưởng GDP khá hơn, lạm phát
thấp vượt dự kiến, thanh khoản của hệ thống ngân hàng ổn định. Hoạt động của khu
vực ngân hàng đã có dấu hiệu khởi sắc thông qua tăng trưởng tín dụng 4 tháng đầu
99
năm đạt 1,44%, nguồn vốn huy động tăng 5,5%, lãi suất huy động và cho vay thấp.
Một số chỉ tiêu tiền tệ có tác động tích cực đến TTCK như xử lý nợ xấu khu vực
ngân hàng đang diễn ra quyết liệt hơn. Ngoài ra, gói hỗ trợ tín dụng 30.000 tỷ đồng
đối với thị trường BĐS... khi triển khai cũng sẽ tác động lớn đến khu vực doanh
nghiệp (DN) và TTCK.
Thực tế cho thấy TTCK Việt Nam luôn chịu tác động rất lớn từ yếu tố kinh tế
vĩ mô và hiệu quả hoạt động của các DN. Từ nay đến cuối năm, dù DN vẫn còn khó
khăn nhưng nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định sẽ là yếu tố hỗ trợ tốt với thị trường.
Việc TTCK trải qua giai đoạn sôi động khá dài, có thời điểm đã vượt ngưỡng 500
điểm, tính chung chỉ số VN - Index trong quý I/2013 đã tăng khoảng 20% là minh
chứng rõ nét.
Hiện nay, bên cạnh việc nới lỏng các chính sách hỗ trợ tăng trưởng từ Chính
phủ, khả năng hấp thụ của nền kinh tế và khu vực DN vẫn còn hạn chế nhất định.
Bởi vậy, khơi thông dòng vốn từ ngân hàng tới DN, phấn đấu đạt chỉ tiêu tăng
trưởng GDP đặt ra thì TTCK mới có niềm tin để tăng trưởng bền vững.
2. TS. Quách Mạnh Hào: Tâm lý thị trường đang tốt lên
Những yếu tố lớn tác động tới TTCK Việt Nam hiện nay không nằm ngoài
phản ứng tâm lý tích cực và chi phí rẻ hơn của dòng tiền.
TTCK phụ thuộc rất nhiều vào dòng tiền chung, có thể dùng từ khác là thanh
khoản chung trong nền kinh tế. Nếu tiền rẻ được đưa ra nhiều, TTCK sẽ có hiệu ứng
tích cực, nhưng tiền rẻ đó cũng có thể sẽ là cái bẫy để nền kinh tế bước vào một chu
kỳ khó khăn tiếp theo sau những hào nhoáng của tăng trưởng ngắn hạn.
Hiện nay, nhiều yếu tố đã cho thấy dòng tiền rẻ sẽ xuất hiện như lãi suất huy
động và cho vay giảm mạnh, công ty xử lý nợ xấu VAMC dự kiến sẽ ra đời;gói tín
dụng ưu đãi với thị trường BĐS trị 30.000 tỷ đồng có hiệu lực từ ngày 1/6. Điều
quan trọng là nền kinh tế có đủ năng lực để hấp thụ nguồn tiền rẻ đó tới mức nào.
Tôi e rằng quá sớm để đánh giá điều đó với những quan sát hiện tại.
Do vậy, nhiều khả năng TTCK sẽ đón nhận một đợt tăng điểm trong thời gian
gần, được kích thích bởi tâm lý tích cực từ dòng tiền rẻ. Nhưng ngay sau đó, chúng
ta sẽ tiếp tục đối mặt với những thử thách tiếp theo do nhà đầu tư (NĐT) muốn nhìn
thấy những chuyển dịch thực sự từ nền kinh tế. Với NĐT, cơ hội rất gần sẽ đến có
100
thể ngay từ tháng 6, nhưng họ nên nghĩ điều đó chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Sự
chuyển dịch đầu tư sang những DN được quản trị tốt là yếu tố mấu chốt tạo nên
thành công lâu dài và hình thành đạo đức đầu tư cho chính mình.
3. TS. Alan T. Pham - Kinh tế trưởng Tập đoàn VinaCapital : Lực đỡ từ khối
ngoại
Kịch bản CPI tăng thấp hồi giữa năm ngoái đang có dấu hiệu lặp lại trong các
tháng giữa năm 2013. Nguyên nhân là bởi tổng cầu của nền kinh tế còn yếu, các giải
pháp kích thích tăng trưởng chưa đạt hiệu quả mong muốn.
Với diễn biến này, kết hợp với các chỉ số kinh tế vĩ mô khác, có cơ sở để nhận định,
lạm phát sẽ không đáng lo ngại trong năm 2013. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất
từ nay đến cuối năm 2013 là triển khai đồng bộ các giải pháp để kích thích tăng
trưởng kinh tế, nếu không sẽ khó đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 5,5% như kế hoạch
đề ra.
Với riêng TTCK, chưa cần triển khai các giải pháp trên, thì thị trường vẫn
đang nhận được lực đỡ khá vững từ khối ngoại. Trong cái nhìn của NĐT nước
ngoài, so với các TTCK lân cận, giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam hiện tại khá rẻ
khi đặt trong chiến lược đầu tư trung và dài hạn (1 - 3 năm) của NĐT chuyên
nghiệp. Nói cách khác, với mặt bằng giá cổ phiếu tốt hiện tại, chỉ cần mức điều
chỉnh hợp lý là (khối ngoại và các NĐT trong nước có cái nhìn dài hạn) sẽ giải
ngân.
Một khi việc xử lý nợ xấu ngân hàng diễn ra nhanh và hiệu quả hơn, cùng với
các giải pháp kích thích tăng trưởng kinh tế được Chính phủ phát đi mạnh mẽ và đạt
được những hiệu quả rõ nét hơn, sẽ là điều kiện lý tưởng để TTCK lấy lại đà hứng
khởi trong tháng 6 tới.
4. TS. Đinh Thế Hiển - Chuyên gia tài chính: Đầu tư "lướt song" vẫn co cơ hội
TTCK thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ đang có những khởi sắc lớn, tác động
tích cực tới chứng khoán toàn cầu. Chỉ số S&P 500 đã vượt 15.000 điểm, cao hơn
so với “đỉnh” cũ xác lập hồi năm 2007. Với việc chứng khoán Mỹ lấy lại những gì
đã mất, vượt “đỉnh” trước khi xảy ra khủng hoảng, TTCK của châu Âu và các nước
phát triển cũng tăng rất mạnh, cá biệt như TTCK Nhật Bản đã tăng tới 40%.
101
Sự phục hồi ấn tượng của chứng khoán Mỹ, châu Âu, Nhật Bản cho thấy trong
giai đoạn TTCK suy giảm, nếu biết lựa chọn cổ phiếu tốt với mức giá hợp lý sẽ thu
lợi nhuận ấn tượng khi kinh tế phục hồi. Nhìn rộng hơn, xu thế đầu tư của Mỹ và
châu Âu đang quay lại với 2 kênh BĐS và chứng khoán, thay vì lựa chọn vàng như
mấy năm trước đây. Điều này sẽ kích thích dòng tiền đổ vào những lĩnh vực rủi ro
hơn để tìm kiếm lợi nhuận.
Đối với TTCK Việt Nam, chứng khoán vẫn là một kênh được xem là có cơ hội
để đầu tư, khi lãi suất huy động giảm. Sau quý I/2013 khởi sắc với mức tăng hơn
18%, mốc 500 điểm tưởng chừng đã được phá thì TTCK đã có dấu hiệu đuối sức
trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, việc thị trường điều chỉnh không quá sâu và đang tích lũy cũng mở
ra cơ hội… TTCK vẫn có những cơ hội chiến thắng cho NĐT “lướt sóng”. Tuy
nhiên, khi kinh tế đi vào giai đoạn phát triển chậm nhưng bền vững hơn, việc đầu tư
vào các ngân hàng thương mại, các công ty sản xuất kinh doanh có năng lực cạnh
tranh tốt, giá cổ phiếu hợp lý sẽ tạo một cơ hội đầu tư dài hạn, mức sinh lợi vượt
trội so với gửi tiết kiệm và giá trị cổ phiếu được đảm bảo.
(Nguốn Tài chính & Đầu tư số 5/2013)
102
CHƯƠNG 5
CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
1. Phân tích kinh tế về cấu trúc tài chính.
1.1. Những vấn đề cơ bản về cấu trúc tài chính
Phân tích kinh tế cấu trúc tài chính ở một số nước phát triển và ở nước ta,
chúng ta có thể khẳng định: Các hệ thống tài chính là một tổ chức phức tạp, đa dạng
về cấu trúc và chức năng.
Có nhiều loại hình khác nhau trong tổ chức tài chính như: Ngân hàng, công ty
tài chính, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ…gọi chung là các ngân hàng và các
tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Đồng thời cũng có nhiều loại hình của thị trường tài chính như: thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu…Nếu đi sâu nghiên cứu và phân tích câud trúc tài chính,
những công cụ và phương tiện tài chính, chúng ta có thể rút ra những điều điều cơ
bản về cấu trúc tài chính như sau:
Thứ nhất: Trong số các công cụ và hình thức tạo vốn của các doanh nghiệp từ
các tổ chức tài chính trung gian và thị trường tài chính, thì cổ phiếu và trái phiếu
không phải là nguồn tài chính quan trọng. Việc phát hành những chứng khoán mua,
bán trên thị trường không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ
cho các hoạt động của họ.
Ở Mỹ, thị trường cổ phiếu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tài trợ vốn cho các
doanh nghiệp (2,1%), trái phiếu (29,8%). Như vậy, tổng cộng số cổ phiếu và trái
phiếu ở Mỹ (31,9%) mới chỉ cung cấp được ít hơn 1/3 số vốn bên ngoài mà các
doanh nghiệp cần để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của họ. Điều này cũng
đúng với hầu hết các nước phát triển trên thế giới.
Thứ hai: Tài chính gián tiếp, tài chính có liên quan đến hoạt động của các
trung gian tài chính, quan trọng gấp nhiều lần so với tài chính trực tiếp, là tài chính
trong đó các doanh nghiệp gom vốn trực tiếp từ thị trường tài chính. Trong các
trung gian tài chính này, ngân hàng tạo ra nguồn vốn bên ngoài quan trọng nhất để
tài trợ cho các doanh nghiệp.
103
Như đã trình bày ở vấn đề thứ nhất, cổ phiếu và trái phiếu không phải là nguồn
vốn quan trọng, nó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nguồn vốn tài trợ cho các doanh
nghiệp.
Trong số nguồn vốn của tài chính gián tiếp, thì các khoản vay từ ngân hàng
chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng nhất trong việc tài trợ cho các doanh
nghiệp.
Thứ ba: Hệ thống tài chính là bộ phận trọng yếu của nền kinh tế quốc dân,
được điều hành và quản lý một cách chặt chẽ nhất.
Thứ tư: Vật thế chấp là đặc trưng của các hợp đồng vay nợ. Đồng thời, các
hợp đồng vay nợ là những hợp đồng có tính chất pháp lý cao và rất phức tạp trong
quan hệ giao dịch với khách hàng.
1.2. Phí giao dich và cấu trúc tài chính
Người có vốn mong muốn tìm được người cần vốn để cho vay kiếm lời, đồng
thời người cần vốn muốn tiếp xúc với người có vốn đều phải tốn kém những chi phí
giao dịch. Bởi vì những người đó không thể gửi tiền, vay vốn ở những nơi không
quen biết hoặc chưa đủ niềm tin, mà không cần luật sư người trung gian môi giới
hoặc những người làm chứng khác.
Những trung gian tài chính ra đời và hoạt động là nhằm mục tiêu tối thiểu hóa
những phí giao dịch giữa những người có vốn và người cần vốn, giúp người có món
tiết kiệm nhỏ có cơ hội đầu tư sinh lời. Người cần vốn có cơ hội vay vốn giảm chi
phí giao dịch cho cả người có vốn và người cần vốn.
1.3. Rủi ro và cấu trúc tài chính
Rủi ro là một thuộc tính cố hữu trong hoạt động của các tổ chức tài chính.
Trong đó rủi ro do các thông tin không cân xứng tạo ra trước và sau khi diễn ra các
giao dịch của cấu trúc tài chính. Rủi ro do các thông tin không cân xứng tạo ra trước
khi diễn ra các giao dịch là loại rủi ro trong đó những người đi vay không trả được
nợ là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy họ có nhiều khả năng được lựa
chọn nhất. Rủi ro này được gọi là sự lựa chọn đối nghịch. Kết quả của rủi ro này là
người đáng cho vay lại không được vay và ngược lại.
104
Rủi ro do các thông tin cân xứng tạo ra sau khi diễn ra các giao dịch là loại rủi
ro người cho vay phải gánh chịu khi người đi vay không muốn trả nợ. Rủi ro này
được gọi là rủi ro đạo đức.
Giải pháp giảm rủi ro do những thông tin khômg cân xứng dẫn tới sự lựa chọn
đối nghịch là:
- Cung cấp và bán những thông tin có tác dụng loại bỏ thông tin không
cân xứng và cho phép những người cung cấp vốn có thông tin đầy đủ về những cá
nhân hay doanh nghiệp cần tài trợ vốn cho các hoạt động đầu tư.
- Sự điều hành của chính phủ nhằm tăng thông tin trong hoạt động của
cấu trúc tài chính.
Rủi ro đạo đức tác động tới việc lựa chọn giữa các hợp đồng nợ và các hợp
đồng vốn cổ phần trong cấu trúc tài chính
Rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi cuộc giao dịch diễn ra khi người cần vốn có ý
muốn giấu thông tin và thực hiện những hoạt động mà người có vốn không mong
muốn.
Rủi ro đạo đức trong các hợp đồng vốn cổ phần diễn ra khi có sự tách biệt giữa
chủ sở hữu vốn và người quản lý doanh nghiệp: người quản lý doanh nghiệp do sở
hữu một phần vốn rất nhỏ hoặc thậm chí không sở hữu phần vốn nào của doanh
nghiệp rất có thể sẽ hành động vì lợi ích cá nhân của họ hơn là lợi ích của các tổ
chức cổ đông sở hữu vốn.
Giải pháp giảm rủi ro đạo đức trong các hợp đồng vốn cổ phần là:
- Các chủ sở hữu vốn cần có thông tin đầy đủ về những gì mà những người
quản lý đang làm, đồng thời giảm sự tách biệt đáng kể giữa người sở hữu và người
quản lý.
- Tăng cường sự hoạt động của các trung gian tài chính thông qua các hình
thức liên kết, liên doanh, hoặc thông qua các hợp đồng nợ.
Ảnh hưởng của rủi ro đạo đức đến cấu trúc tài chính trong thị trường:
Hợp đồng nợ chỉ đòi hỏi những người vay thanh toán một số tiến cố định và
cho phép họ hưởng bất kỳ lợi nhuận nào còn lại, những người vay có ý muốn nhận
những dự án đầu tư có nhiều rủi ro hơn so với những người cho vay mong muốn và
do đó có nhiều khả năng không trả được nợ.
105
Các giải pháp cho vấn đề rủi ro đạo đức trong thị trường nợ:
- Nâng cao cơ cấu vốn cổ phần trong tổng tài sản của doanh nghiệp vay.
- Tăng cường giám sát và ràng buộc theo những qui định hạn chế. Những qui
định hạn chế nhằm làm giảm rủi ro đạo đức trong hợp đồng nợ, bằng cách đưa ra
những qui định của người cho vay để loại bỏ những xử sự không mong muốn hoặc
khuyến khích những xử sự mong muốn.
- Tăng cường hoạt động của trung gian tài chính.
Các giải pháp trên đây chỉ có tác dụng giảm rủi ro đạo đức chứ không hoàn
toàn loại bỏ được. Bởi lẽ người vay có đủ khôn khéo để báo cáo không đúng sự thật
hoặc tìm ra những sơ hở trong các qui định hạn chế khiến những qui định đó trở nên
vô hiệu lực.
Tóm lại, nghiên cứu rủi ro và cấu trúc tài chính cho thấy sự hiện diện của
những thông tin cân xứng dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch rủi ro đạo đức làm trở
ngại hoạt động hữu hiệu của thị trường tài chính.
2. Chức năng và vai trò của các tổ chức trung gian tài chính
2.1. Chức năng của các tổ chức tài chính trung gian
Các trung gian tài chính thực hiện những chức năng chủ yếu sau:
- Chức năng tạo vốn: để có thể cho vay hoặc đầu tư, các trung gian tài chính
tiến hành huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành các quỹ tiền
tệ tập trung, phương thức huy động vốn hoặc thể thức tự nguyện thông qua cơ chế
lãi suất hoặc theo thể thức bắt buộc qua cơ chế điều hành của Chính phủ. Với chức
năng này, các trung gian tài chính đem lại lợi ích cho chính mình và cho phần lớn
những người có khoản tiết kiệm, để dành.
- Chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế: Tiền vốn được huy động từ những
người có vốn là để thực hiện mục tiêu cung ứng vốn cho những người cần vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, người có vốn là các doanh nghiệp. Chính phủ, các tổ
chức, cá nhân trong nước và ngoài nước. Với chức năng này, các tổ chức tài chính
trung gian đáp ứng chính xác và đầy đủ, kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho các cá nhân
và doanh nghiệp.
- Chức năng kiểm soát: Các trung gian tài chính thực hiện chức năng kiểm soát
nhằm giảm tối thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do thông tin
106
không cân xứng gây ra; yêu cầu của chức năng này là các trung gian tài chính phải
thường xuyên hoặc định kỳ kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay các doanh
nghiệp.
2.2. Vai trò của các tổ chức tài chính trung gian
- Hoạt động của các trung gian tài chính góp phần giảm bớt những chi phí
thông tin và giao dịch lớn cho mỗi cá nhân tổ chức và toàn bộ nền kinh tế.
- Do chuyên môn hóa và thành thạo trong nghề nghiệp, các tổ chức trung gian
đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời yêu cầu giữa người cần vốn và người có vốn.
- Do cạnh tranh, đan xen và đa năng hóa các hoạt động, các trung gian tài
chính thường xuyên thay đổi lãi suất một cách hợp lý, làm cho nguồn vốn thực tế
được tài trợ cho đầu tư tăng lên mức cao nhất.
- Thực hiện có hiệu quả các dịch vụ tư vấn, môi giới, tài trợ, trợ cấp và phòng
ngừa rủi ro.
3. Các loại hình tổ chức tài chính trung gian
3.1. Các tổ chức tín dụng ngân hàng
3.1.1. Các ngân hàng thương mại
Đây là trung gian tài chính chủ yếu hoạt động bằng cách thu hút vốn thông qua
những khoản tiền gửi phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn.
Sau đó, ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay, chủ yếu là cho vay thương
mại ngắn, trung dài hạn để mua chứng khoán của Chính phủ. Đây là trung gian tài
chính lớn nhất ở bất kỳ quốc gia nào, là nơi mà các tổ chức, đơn vị, cá nhân thường
xuyên giao dịch nhất.
3.1.2. Các hiệp hội cho vay và tiết kiệm
Nguồn vốn chủ yếu được huy động của trung gian tài chính này là các khoản
tiền gửi tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản tiền gửi phát séc được.
Các khoản tiền vốn huy động chủ yếu để cho vay thế chấp. Đây là điều khác cơ bản
với ngân hàng thương mại.
Do các khoản vay thế chấp chủ yếu là các khoản cho vay dài hạn, các tổ chức
này ban đầu chịu những ràng buộc khắt khe hơn so với ngân hàng thương mại. Cho
tới hiện nay, ở nhiều nước, pháp luật cho phép các hiệp hội cho vay, nhằm xóa bỏ
107
dần sự khác biệt với các ngân hàng thương mại. Do vậy, các trung gian tài chính
này đang trở thành những đối thủ cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
3.1.3. Các ngân hàng tiết kiệm tương trợ (Mutual saving Banks)
Trung gian tài chính này giống như các hiệp hội cho vay và tiết kiệm, nhưng
chỉ khác ở chỗ, chúng được tổ chức như những hiệp hội tương trợ tức là hoạt động
như kiểu hợp tác xã, trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu
ngân hàng.
3.1.4. Các liên hiệp tín dụng (Credit Union)
Trung gian tài chính này là những tổ chức cho vay nhỏ có tính chất hợp tác xã,
được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt, các thành viên của liên hiệp là
những người làm công của những công ty nào đó, trung gian tài chính huy động vốn
bằng cách nhận tiền gửi và tiến hành cho vay. Giới hạn trong đối tượng và phạm vi
cho vay giống như các ngân hàng tiết kiệm tương trợ.
3.2. Các tổ chức tín dụng phi ngân hàngi
3.2.1 Công ty bảo hiểm
Trong quá trình kinh doanh, sản xuất, quản lý xã hội và cải tạo chinh phục tự
nhiên, dù có tri thức khoa học ngày càng cao, con người vẫn phải đối mặt nhiều hơn
với khả năng xảy ra tai họa từ nhiều phía, do chính bản thân con người, do những
phương tiện thiết bị của con người tạo ra. Trước mối đe dọa thường ngày như vậy,
các cá nhân, doanh nghiệp có thể thực hiện biện pháp tự bảo hiểm, nhưng tự bảo
hiểm là biện pháp hiệu quả thấp và không kinh tế. Do vậy, các tổ chức và cá nhân
có nhu cầu được bảo hiểm và sử dụng nó để chia sẻ khi rủi ro xảy ra thông qua hoạt
động của các công ty bảo hiểm.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, đã nảy sinh hoạt
động bảo hiểm như một dịch vụ tài chính có tính chất chuyên nghiệp.
Như vậy, bảo hiểm về bản chất là chia nhỏ rủi ro, là hoạt động thể hiện người
bảo hiểm đứng ra cam kết hợp đồng bồi thường theo quy luật thống kê cho người
được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro, với điều kiện người được bảo hiểm
đã mua phí bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm thực hiện trung gian tài chính bằng cách sử dụng phí bảo
hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản như trái
108
khoán, cổ phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món vay khác ít rủi ro, rồi từ những
tài sản có này được dùng thanh toán cho những rủi ro đòi được bồi theo hợp đồng
bồi thường đã bán.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội là sự phát triển đa dạng của các
loại hình bảo hiểm, trong đó có 2 loại hình chủ yếu là bảo hiểm thương mại và bảo
hiểm xã hội.
3.2.2. Công ty tài chính
Công ty tài chính được hiểu là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, là các hội
thương mại mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là:
- Thu hút vốn bằng cách phát hành cổ phiếu và trái khoán, không nhận
tiền gửi của dân chúng và các tổ chức kinh tế.
- Cho vay các món tiền nhỏ đặc biệt thích hợp với nhu cầu của các doanh
nghiệp nhỏ và người tiêu dùng.
- Cho vay chủ yếu và dài hạn.
- Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua.
- Cầm cố các loại hàng hóa, vật tư và ngoại tệ. Các giấy tờ có giá và dụng cụ
bảo đảm khác.
- Tư vấn và Marketing, giám định các công việc chuẩn bị để ký hợp đồng hoặc
thành lập các công ty liên doanh.
- Trợ cấp tài chính cho các dự án phát triển kinh tế kỹ thuật được Nhà nước ưu
tiên.
- Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quý, mua bán, chuyển nhượng
chứng khoán.
- Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh.
Quá trình trung gian tài chính của các công ty tài chính có thể mô tả bằng cách
nói rằng, họ vay những món tiền lớn, trung, dài hạn nhưng thường cho vay những
món tiền nhỏ, nghiệp vụ tín dụng này hoàn toàn khác với hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Với quan niệm trên, công ty tài chính có những nét khác biệt so
với ngân hàng thương mại ở chỗ:
+ Các công ty tài chính không nhận tiền gửi của dân chúng, của các tổ chức
kinh tế xã hội…với thời hạn ngắn hạn và dưới hình thức mở tài khoản. Để tạo
109
nguồn vốn bổ sung cho hoạt động của mình, các công ty tài chính được vay dưới
hình thức phát hành các phiếu nợ dài hạn.
+ Các công ty tài chính không thực hiện các dịch vụ thanh toán và tiền mặt,
không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán.
+ Điểm khác biệt quan trọng của công ty tài chính so với các ngân hàng là ở
chỗ, các công ty tài chính gần như không bị điều hành chặt bởi Chính phủ. Chính
phủ chỉ điều hành số tiền cực đại mà các công ty tài chính có thể cho các cá nhân
người tiêu dùng vay và kỳ hạn của các hợp đồng nợ, nhưng không có hạn chế nào
về mở chi nhánh, về những tài sản có mà họ nắm giữ và sự thu nhận vốn của các
công ty tài chính. Việc không can thiệp và điều hành chặt chẽ của Chính phủ giúp
cho các công ty tài chính có thể phục vụ tốt hơn các nhu cầu của khách hàng hơn là
các ngân hàng.
3.2.3. Các công ty chứng khoán
Là một tổ chức ở thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông
qua các nghiệp vụ chủ yếu sau:
- Môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng (trung gian môi
giới).
- Mua bán chứng khoán bằng chính nguồn vốn của chính mình để hưởng
chênh lệch giá (thương gia chứng khoán).
- Trung gian phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các đơn vị phát
hành.
- Tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư.
Nhờ có các tổ chức ở thị trường chứng khoán mà các cổ phiếu, trái phiếu của
Chính phủ, công ty được lưu thông, buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán,
qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những nguồn lẻ tẻ, phân tán
trong dân chúng được tập hợp lại.
Mỗi doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán,
không phải họ tự đi bán số chứng khoán họ cần phát hành. Họ không thể làm tốt
việc đó, do họ không được chuyên môn hóa, họ cần có những nhà chuyên nghiệp
mua bán chứng khoán cho họ. Đó chính là công ty chứng khoán. Với nghiệp vụ
chuyên môn hóa, kinh nghiệm nghề nghiệp, bộ máy tổ chức thích hợp, các công ty
110
chứng khoán hoàn toàn có thể thực hiện tốt các trung gian tài chính cho các nhà đầu
tư. Kinh nghiệm các nước cho thấy, khi chưa hình thành thị trường chứng khoán tập
trung, các công ty chứng khoán vẫn làm được trung gian môi giới và mua bán
chứng khoán. Những nhà môi giới, mua bán chứng khoán thống nhất với nhau
thành lập trên thị trường chứng khoán tập trung để thực hiện việc giao dịch. Do vậy,
muốn thiết lập thị trường chứng khoán, trước hết phải thiết lập các công ty chứng
khoán và phát hành các chứng khoán trên thị trường.
Ngoài các công ty chứng khoán hoạt động trung gian tài chính trên thị trường
chứng khoán, các tổ chức trên thị trường chứng khoán còn bao gồm các tổ chức quỹ
đầu tư – là những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, được hình thành bởi
những nhà tiết kiệm và đầu tư cùng góp vốn. Như vậy, thay vì những người tiết
kiệm và đầu tư đưa số vốn của mình cho nhà môi giới chứng khoán thì họ góp vốn
vào quỹ đầu tư chung, thực hiện việc đầu tư tập thể.
Quỹ đầu tư là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng quản lý, nâng
cao hiệu quả vốn đầu tư cao hơn so với đầu tư riêng lẻ. Mặt khác, đầu tư qua quỹ
đầu tư đảm bảo tính thanh khoản cao. Nghĩa là, khả năng chuyển khoản từ chứng
khoán thành vốn bằng tiền và ngược lại rất dễ dàng, thực hiện việc thu hồi lại vốn
đầu tư khi có nhu cầu và hạn chế rủi ro của người đầu tư.
Trong thị trường chứng khoán cấp 1 còn có một tổ chức tài chính tham gia bán
lần đầu các chứng khoán, đó là ngân hàng đầu tư. Khi một công ty muốn huy động
vốn thông qua phát hành chứng khoán, họ thường thuê các dịch vụ của ngân hàng
đầu tư để giúp bán các chứng khoán của mình. Các ngân hàng đầu tư tham gia vào
hoạt động này như sau:
Trước hết, họ góp ý, tư vấn cho các công ty bán chứng khoán trên thị trường
cấp 1 về việc phát hành chứng khoán, về kỳ hạn và số tiền thanh toán vốn, lãi đối
với trái khoán, giá của các cổ phiếu, sau đó, qua những người đảm bảo, tiếp xúc trực
tiếp với người có thể mua chúng và bán các chứng khoán này.
4. Các trung gian tài chính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, với quan điểm thiết lập hệ thống trung gian tài chính theo hướng
đa dạng hóa, đa năng hóa, thể hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật như luật
111
các tổ chức tín dụng, các Nghị định của Chính phủ (100/CP, 74/CP…) đã hình
thành hệ thống tài chính trung gian khá đa dạng, gồm hai khối sau đây:
- Các ngân hàng.
- Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
4.1. Các ngân hàng
Là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện bởi các hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ khách hàng. Căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình
ngân hàng gồm:
- Ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng đầu tư và phát triển.
- Ngân hàng chính sách.
- Ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng và các loại hình ngân hàng khác.
Ngân hàng thương mại: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, làm nghiệp vụ chiết khấu và làm các phương
tiện thanh toán.
Trong hệ thống tài chính trung gian, các NHTM là những trung gian tài chính
lớn nhất với đa dạng loại hình tổ chức và sở hữu như: Ngân hàng thương mại
quốc doanh (Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam…) Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM cổ phần Quân đội,
NHTM cổ phần Á Châu, NHTM cổ phần Hàng Hải…) Ngân hàng liên doanh
(NH Indo Vina) hay các chi nhánh ngân hàng nước ngoài…
* Ngân hàng đầu tư phát triển: cùng hoạt động kinh doanh đa năng, tổng hợp
như một ngân hàng thương mại, nhưng chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư và
phát triển, như cho vay trung và dài hạn. bảo hành trong XDCB, cho vay ngắn hạn
phục vụ các doanh nghiệp thi công xây lắp và sản xuất vật liệu xây dựng, đầu tư vốn
theo các dự án. Các dịch vụ ngân hàng khác như kinh doanh ngoại tệ, thanh toán
trong nước cũng chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cơ
bản.
* Ngân hàng chính sách: là loại hình tổ chức tín dụng mà thông qua hoạt động
và dịch vụ ngân hàng để góp phần thực hiện một chính sách kinh tế xã hội nào đó
112
của Nhà nước như: phục vụ người nghèo, chính sách đối với doanh nghiệp Nhà
nước, chính sách đối với kinh tế hợp tác, chính sách đối với nông nghiệp, nông
thôn…Đặc trưng của loại hình này là nó hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
Ở nước ta, lịch sử hình thành và phát triển của các ngân hàng chính sách còn
rất mới mẻ, điển hình là sự ra đời của ngân hàng phục vụ người nghèo (1996), Ngân
hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (1998). Trước đó, việc thực hiện tài
trợ phục vụ các chính sách của Đảng và Nhà nước đều do các Ngân hàng thương
mại quốc doanh đảm nhiệm, chưa hình thành một ngân hàng chính sách độc lập.
Trong tương lai gần, ngân hàng chính sách sẽ được thành lập ở Việt Nam.
* Ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch
vụ ngân hàng do các cá nhân, tổ chức và hộ gia đình tự nguyện thành lập, hoạt động
với mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất kinh doanh. Dù tồn tại
dưới hình thức nào và phạm vi, mức độ họt động có khác nhau, nhưng vai trò trung
gian tài chính của các ngân hàng đều thể hiện rất rõ qua hai hoạt động chủ yếu nhận
tiền gửi và cho vay, thực hiện vai trò cầu nối giữa cung và cầu vốn.
4.2. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Đó là các loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân
hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi
không kỳ hạn, không được làm dịch vụ thanh toán. Loại này bao gồm các công ty
tài chính, các công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm.
* Công ty tài chính: Có thể là công ty quốc doanh hoặc cổ phần hoạt động chủ
yếu là cho vay để mua bán hàng hóa dịch vụ bằng nguồn vốn của mình, nhận tiền
gửi và phát hành tín phiếu, trái phiếu hoặc vay của các tổ chức tín dụng trong và
ngoài nước.
Các công ty tài chính còn sử dụng vốn để:
+ Hùn vốn lien doanh và mua cổ phần của doanh nghiệp.
+ Kinh doanh vàng bạc, đá quý.
+ Cất giữ, quản lý các chứng khoán, giấy tờ có giá…
+ Tư vấn kinh doanh tiền tệ.
+ Cho vay thuê mua.
113
* Công ty cho thuê tài chính: Các công ty cho thuê tài chính cung cấp tín dụng
trung, dài hạn thông qua các hợp đồng cho thuê tài sản với khách hàng thuê. Khi kết
thúc thời hạn thuê, khách hàng được mua lại với giá ưu đãi hoặc được tiếp tục thuê
tài sản đó theo điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
* Các công ty bảo hiểm: là một trung gian tài chính dưới hình thức một tổ chức
tín dụng đứng ra huy động tiền của những người mua bảo hiểm (phí bảo hiểm) trên
mọi lĩnh vực khác nhau với lời hứa sẽ bù đắp thiệt hại cho những người tham gia
khi ho gặp rủi ro tùy theo từng loại bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm sử dụng các phí
bảo hiểm thu được để đầu tư vào các tài sản có như trái khoán, các cổ phiếu, các
món vay thế chấp hoặc các món vay khác. Thu nhập từ các khoản đầu tư này sẽ
được dùng để thanh toán cho các khiếu nại đòi bồi thường và phần còn lại được bổ
sung vào phần thu nhập của chính công ty.
BÀI ĐỌC THÊM CHƯƠNG 5
XU HƯỚNG THAY ĐỔI CẠNH TRANH TRONG
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Việc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam chuyển đổi loại hình
hoạt động thành ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài và sự cho phép tham
gia hoạt động mua, bán, sáp nhập với nhau giữa các tổ chức tín dụng sẽ là nền tảng
tạo sự dịch chuyển cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau trong thời gian tới. Bài
viết sẽ phân tích xu hướng dịch chuyển giữa các ngân hàng thông qua các chỉ tiêu
tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, huy động vốn… khi môi trường ngân hàng có sự thay
đổi lớn.
Do đặc thù sở hữu, các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam được phân chia
thành 3 nhóm: Nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) hoặc Nhà nước
là cổ đông chi phối có mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước với nền tảng khách
hàng là các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước; Nhóm ngân hàng thương mại
114
cổ phần (NHTMCP) phát triển dựa trên nền tảng khách hàng cá nhân, doanh nghiệp
vừa và nhỏ là chủ yếu; Nhóm ngân hàng ngoài hoạt động chủ yếu phục vụ các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, hoạt động của mỗi nhóm có nét
đặc trưng riêng với phạm vi khách hàng nhất định.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã cho phép các ngân hàng nước ngoài được
chuyển đổi mô hình và chức năng hoạt động tại Việt Nam, theo đó 5 ngân hàng
nước ngoài gồm: ANZ, HSBC, Standard Chattered, Shinhan Việt Nam và Ngân
hàng Hong Lehong hoạt động đầy đủ chức năng như một NHTM trong nước. Điều
này sẽ làm thay đổi xu hướng cạnh tranh cũng như phân phối lại thị phần hoạt động
sau khi các ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động đầy đủ chức năng như một
NHTM trong nước.
Hơn nữa, Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ban hành ngày 11/2/2010 cho phép
các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia mua, bán, sáp nhập với nhau. Nghĩa là, các
TCTD có thể tìm kiếm các ngân hàng mục tiêu để đàm phán sáp nhập, hoặc thâu
tóm ngân hàng mục tiêu thông qua thị trường chứng khoán. Trong trường hợp này,
ngân hàng đi sáp nhập cần phải kiểm soát được ngân hàng mục tiêu nếu kiểm soát
được quyền biểu quyết.
Như vậy, cả 2 yếu tố là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể chuyển đổi
loại hình hoạt động thành NHTM 100% vốn nước ngoài và sự cho phép tham gia
hoạt động mua, bán, sáp nhập với nhau giữa các TCTD sẽ là nền tảng tạo sự dịch
chuyển cạnh tranh trong thời gian tới.
1. Thực trạng hoạt động của các nhom ngân hàng
1.1 Mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu
Có thể nói rằng, vốn chủ sở hữu của một NHTM là thước đo tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu cũng như tỷ lệ đòn bẩy tài chính. Vốn chủ sở hữu thấp dẫn đến rủi ro tiềm
ẩn cho ngân hàng khi nợ xấu phát sinh tăng vượt quá quy mô vốn chủ sở hữu. Trong
trường hợp như vậy, vốn chủ sở hữu đã bị ăn mòn hết. Hậu quả là ngân hàng rất dễ
bị tổn thương và nguy cơ phá sản rất cao. Để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn theo
thông lệ Basel II, NHNN đã yêu cầu các NHTMCP tăng vốn điều lệ từ 70 tỷ đồng
lên 3.000 tỷ đồng bắt đầu thực hiện từ năm 2007 và hạn chót là hết năm 2011.
115
Chính vì vậy, vốn chủ sở hữu của các nhóm ngân hàng cũng được mở rộng tương
ứng bởi vì vốn điều lệ là thành phần chính của vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu của NHTMNN và NHTMCP tăng nhanh từ năm 2008 đến
2011 (Biểu đồ 1) là nhờ có nguồn vốn thặng dư từ cổ phiếu, lợi nhuận tăng trưởng
cao trong giai đoạn này đãkéo theo quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và lợi nhuận
giữlại tăng lên. Các ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài có
mức tăng trưởng vốn chủ sở hữu chậm hơn là do không có phần thặng dư vốn cổ
phần. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của 2 nhóm NHTMCP và ngân hàng nước ngoài
giảm nhẹ năm 2012 so với năm 2011; trong khi vốn chủ sở hữu của các NHTMNN
vẫn tăng. Sự sụt giảm vốn chủ sở hữu của 2 nhóm ngân hàng trên trong năm 2012 là
do nợ xấu phát sinh tăng, nguồn lợi nhuận chưa phân phối của năm 2011 sẽ được
kết chuyển cho mục đích trích lập dự phòng rủi ro để giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức
an toàn và làm trong sạch bảng tổng kết tài sản hơn.
Nếu tăng vốn chủ sở hữu theo phương pháp cơ học thông qua phát hành cổ
phiếu hàng năm và trích dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5% từ nguồn lợi nhuận để lại,
quy mô tăng vốn chủ sở hữu rất chậm. Cụ thể, tỷ lệ tăng trưởng vốn bình quân của
khu vực NHTMCP giai đoạn 2008-2012 là 20%, trong khi khu vực ngân hàng nước
ngoài là 46% và khu vực NHTMNN là 25%. Tăng vốn theo hình thức này sẽ có giới
hạn nhất định bởi lợi nhuận không thể tăng trưởng vô hạn. Giải pháp để tăng trưởng
nhanh hơn là lựa chọn hình thức mua, bán, sáp nhập với các TCTD khác.
1.2 Sự thay đổi tổng tài sản giữa các khối ngân hàng
Sự thay đổi lớn của nhóm NHTMCP từ năm 2007 đã tạo ra sự chuyển dịch khác
nhau về tổng tài sản giữa các khối. Sự chuyển đổi của một số NHTMCP trước đây chỉ hoạt
động tại một khu vực nông thôn với địa bàn hẹp sang hoạt động trên phạm vi cả nước như
NHTMCP Bưu điện Liên Việt, NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội, NTHMCP Tiên Phong… đã
góp phần làm cho tổng tài sản của các NHTMCP tăng vọt từ năm 2008 đến năm 2011 với
mức tăng trưởng bình quân lên tới 46%, trong khi các NHTMNN chỉ tăng ở mức 29% và
ngân hàng nước ngoài ở mức 30%.
116
Diễn biến tổng tài sản của 3 khối ngân hàng trong giai đoạn 2008-2012 (Biểu đồ 2)
cho thấy xu hướng cũng tương đồng với xu hướng dịch chuyển của vốn chủ sở hữu. Tổng
tài sản của khối NHTMNN tăng trưởng ổn định trong cả giai đoạn, trong khi khối
NHTMCP sụt giảm tổng tài sản đến cuối năm 2012. Tổng tài sản của khối ngân hàng nước
ngoài cũng theo xu hướng của NHTMCP, giảm nhẹ đến cuối năm 2012.
117
Tổng tài sản của 2 khối NHTMNN và NHTMCP tăng nhanh trong giai đoạn
2008-2011 là do quy mô hoạt động của nhiều ngân hàng được mở rộng, thặng dư cổ
phiếu sau đợt IPO ra công chúng từ 3 NHTMNN hoặc phát hành thêm cổ phiếu
hoặc gia tăng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ từ lợi nhuận của các NHTMCP.
Nguyên nhân quan trọng hơn cảgiải thích sựtăng trưởng nhanh tổng tài sản của 2
khối NHTMNN vàNHTMCP là sự bùng nổ mạng lưới chi nhánh của một sốngân
hàng lớn như Vietcombank, BIDV, ACB, Sacombank, Techcombank đã dẫn đến tốc
độ tăng trưởng vượt bậc về huy động vốn, khai thác hiệu quảnguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư. Quy mô tổng tài sản của các ngân hàng nước ngoài tăng trưởng chậm
một phần do quy mô mạng lưới phát triển chậm so với NHTMNN và NHTMCP,
một phần là do người gửi tiết kiệm chưa tiếp cận với nhóm ngân hàng này mặc dù
họ có rất nhiều chương trình marketing, khuyến mại để thu hút nguồn tiền gửi từ
dân cư.
Năm 2012, tổng tài sản của khu vực NHTMNN vẫn tăng trưởng cao hơn so
với năm 2011, trong khi hai khu vực NHTMCP và ngân hàng nước ngoài giảm sút.
Nguyên nhân tổng tài sản của khu vực NHTMNN tăng một phần có sự đóng góp
không nhỏ của việc Vietcombank bán 15% vốn cổ phần cho ngân hàng Mizuho của
Nhật Bản, tương đương 11.800 tỷ đồng với thặng dư vốn cổ phần lên tới hơn 8.300
tỷ đồng.
Vốn chủ sở hữu và tổng tài sản là 2 mục tiêu mà các ngân hàng luôn phấn đấu
để nâng cao tỷ lệ an toàn vốn cũng như củng cố vị trí hoạt động so với các ngân
hàng khác. Để tổng tài sản tăng trưởng tốt, ngoài vốn chủ sở hữu được phát triển
đều đặn, tăng trưởng huy động vốn sẽđóng góp chủyếu vào tốc độtăng trưởng của
tổng tài sản. Huy động vốn từ nền kinh tế không chỉ giúp ngân hàng có nguồn vốn
ổn định cho các hoạt động tín dụng, đầu tư mà còn là cơ sở ổn định thanh khoản
hơn nếu ngân hàng phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn từ thị trường liên ngân hàng.
1.3 Khoảng cách huy động vốn thu hẹp giữa khối NHTMNN và NHTMCP
Huy động vốn từ nền kinh tế của 3 khối ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ
ràng, đặc biệt là 2 khối NHTMNN và NHTMCP. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn
bình quân của khu vực NHTMCP tăng 33%/năm trong giai đoạn 2008-2012, trong
khi NHTMNN chỉ tăng trung bình 18% và ngân hàng nước ngoài tăng 20%. Nhờ
118
tốc độ tăng trưởng huy động vốn cao nên khoảng cách số dư huy động giữa hai khu
vực NHTMNN và ngân hàng nước ngoài giảm rất nhiều, tiệm cận ngay từ năm
2010.
Huy động vốn của khu vực NHTMCP có bước tăng đột biến trong 3 năm từ
2009-2011 là do giai đoạn này các NHTMCP vẫn được quyền sử dụng công cụ lãi
suất để cạnh tranh huy động vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng huy động vốn năm
2012 của NHTMCP chững lại trong khi nhóm NHTMNN có tốc độ tăng cao hơn
hẳn nhóm NHTMCP. Điều này một phần do tác động của chính sách trần lãi suất
huy động cũng như giới hạn tín dụng của NHNN. Trần lãi suất huy động khiến
nhiều người lựa chọn ngân hàng có uy tín gửi tiền thay vì lựa chọn ngân hàng có
mức lãi suất cao hơn. Hạn mức tín dụng cũng làm xoa dịu sức ép nhu cầu vốn của nhiều
ngân hàng, đặc biệt các ngân hàng sử dụng tối đa nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để
cho vay.
Huy động vốn của khu vực NHTMNN tăng nhanh hơn trong năm 2012 so với
hai khu vực kia là do sự cố tại một số NHTMCP. Thông tin về sự dịch chuyển nhân
sự tại các NHTMCP hàng đầu tại Việt Nam như: ACB, Sacombank vàEximbank đã
tạo ra những tin đồn về mất khả năng thanh khoản tại các ngân hàng này. Hậu quả là
một lượng tiền lớn được rút ra trong một một thời gian ngắn tại các ngân hàng này
và được chuyển tới các NHTMNN. Các ngân hàng nước ngoài có tốc độ tăng
119
trưởng huy động vốn cũng theo xu hướng chung của nền kinh tế. Khi chính sách
tiền tệ được thắt chặt để kiểm soát lạm phát từ cuối năm 2011, tốc độc tăng trưởng
huy động vốn của khối ngân hàng nhà nước đã chững lại trong năm 2012.
Tuy nhiên, quy mô huy động vốn giữa ba khu vực ngân hàng đã có sự thay đổi
lớn từ năm 2008 đến 2011. Nếu số dư huy động vốn năm 2008 giữa NHTMCP và
ngân hàng nước ngoài chỉ chênh lệch khoảng hơn 300 nghìn tỷ đồng thì sự chênh
lệch giữa hai nhóm đến cuối năm 2012 đã kéo rộng tới hơn 3,5 lần, tương đương
với mức chênh lệch hơn 1,1 nghìn tỷ đồng. Như vậy, sựchênh lệch này cho thấy các
NHTMCP đã rất nỗ lực trong việc thực hiện chính sách giá, chăm sóc khách hàng
và mở rộng quy mô hoạt động. Điều này đồng nghĩa với việc các NHTMCP có đủ
năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có lợi thế hơn về kinh nghiệm
quản lý, công nghệ và sự phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ. Ngược lại, khoảng
cách huy động vốn giữa nhóm NHTMNN và NHTMCP đã thu hẹp đáng kể từ năm
2008 đến 2012. Nếu khoảng cách giữa 2 nhóm ngân hàng này là trên 300 nghìn tỷ
năm 2008 thì khoảng cách đó đã thu hẹp xuống dưới 60 nghìn tỷ năm 2012. Điều
này khẳng định sự nỗ lực của các NHTMCP trong việc mở rộng thị phần huy động
vốn nhằm tiến tới giảm sự phục thuộc nguồn vốn từ các NHTMNN cũng như tự chủ
hơn nữa trong quản trị thanh khoản.
1.4 Hoạt động tín dụng dịch chuyển về tỷ trọng
Nếu khoảng cách về số dư huy động vốn có sự thay đổi mạnh mẽ trong vòng 4
năm qua thìdư nợ của các nhóm ngân hàng này cũng có sự dịch chuyển nhưng chưa
nhiều. Biểu đồ 4 mô tả tín dụng của 3 khu vực này với tốc độ tăng trưởng tín dụng
cao nhất trong 2 năm 2009-2010 thuộc về nhóm NHTMCP. Đây cũng chính là
những năm tăng trưởng tín dụng nóng dẫn đến lạm phát bùng nổ năm 2011 lên tới
hơn 18%. Tuy nhiên, tốc độtăng trưởng tín dụng năm 2011 và2012 đãchững lại do NHNN
thực hiện chính sách tiền tệthắt chặt thông qua kênh lãi suất (trần lãi suất huy động) và
thông qua kênh tín dụng (hạn mức tăng trưởng tín dụng vàhạn mức tín dụng thắt chặt cho
một sốngành không khuyến khích) đãchặn đàtốc độtăng trưởng tín dụng. Kết quảlà tốc
độtăng trưởng tín dụng năm 2011 và2012 của cả3 nhóm ngân hàng đều chững lại.
120
Mặc dùtựdo hóa tài chính của Việt Nam đãcho phép 5 ngân hàng nước ngoài
nêu trên được hoạt động như một NHTM trong nước từnăm 2007 nhưng dư nợtín
dụng đãkhông theo kịp các NHTMCP. Các ngân hàng nước ngoài đãđược phép huy
động tiền gửi tiết kiệm của dân cư nhưng tốc độtăng trưởng huy động vốn tương đối
thấp hơn so với 2 nhóm ngân hàng nên đãhạn chếcho vay của các ngân hàng này.
Một lýdo khác giải thích cho sựchênh lệch giữa 2 nhóm NHTMCP vàngân hàng
nước ngoài nới rộng ra làcác NHTMCP cóthểđẩy mạnh cho vay các khu vực tăng
trưởng kinh tếnóng như lĩnh vực bất động sản trong giai đoạn 2007-2010. Khoảng
cách này đãnới rộng đến 4 lần từnăm 2008 đến 2009. Tuy nhiên, lýdo cũng
cóthểlàsựđầu tư an toàn của các ngân hàng nước ngoài nhằm hạn chếrủi ro tín dụng
(vìkinh nghiệm vàbài học của họtrải qua ởcác nền kinh tếphát triển như ởMỹnăm
2007-2008 hay ởNhật Bản trong những năm đầu 1990).
Xu hướng cạnh tranh mới
Các chỉ số chính vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, huy động vốn và cấp tín dụng
cho nền kinh tế đã thấy rõ sự thay đổi. NHTMCP đã khẳng định vị thế, thị phần khi
tăng trưởng trung bình luôn cao hơn hai khối NHTMNN và ngân hàng nước ngoài.
Vị thế cạnh tranh và quyền lực thị trường của khu vực NHTMCP sẽ tiếp tục được
cải thiện trong thời gian tới vì đã có sự thay đổi lớn trong khối này. NHTMCP Liên
Việt hợp nhất với Công ty tiết kiệm Bưu điện sẽ có lợi thế phát triển dịch vụ ngân
121
hàng bán lẻ thông qua việc khai thác gần 10.000 điểm giao dịch tiết kiệm trải rộng
trên cả nước. NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội hợp nhất với NHTMCP Nhà Hà Nội tạo ra
NHTMCP với quy mô rộng lớn, mở rộng thị phần và nâng cao quyền lực thị trường.
Hàng loạt sự sáp nhập hoặc cấu trúc lại của các NHTMCP Phương Tây, Đại Á, Tiên
Phong, Dầu khí toàn cầu cũng củng cố năng lực cạnh tranh của khu vực này. Một
điểm nổi bật là thời gian tới sẽ là sự sáp nhập của 2 ngân hàng lớn của khu vực
NHTMCP là Eximbank và Sacombank. Quy mô hoạt động của hai ngân hàng này
sau sáp nhập sẽ tiến sát quy mô của Vietcombank. Theo báo cáo tài chính riêng lẻ,
tổng tài sản của Sacombank và Eximbank đến hết năm 2012 đạt 321.483 tỷ đồng,
trong khi của Vietcombank đạt 414 tỷ đồng (trong đó có 118.000 tỷ từ phát hành cổ
phiếu cho Mizuho). Tương tự như vậy, tín dụng của hai ngân hàng đạt 167.591 tỷ
đồng và huy động vốn 177.603 tỷ đồng, trong khi của Vietcombank lần lượt là
239.773 tỷ đồng và 285.096 tỷ đồng.
Như vậy, xu hướng cạnh tranh đang có sự thay đổi lớn, NHTMCP đã tạo được
hình ảnh và vị thế nhiều hơn, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh hơn. Tuy
nhiên, sự lớn mạnh của khu vực NHTMCP sẽ là thách thức khi NHTMNN cũng
quyết tâm giữ vững thị phần, trong khi khối ngân hàng nước ngoài đầy tham vọng
mở rộng thị phần để tạo ra nền tảng phát triển bền vững và nâng cao sức mạnh của
các hoạt động liên quan đến đồng nội tệ thay vì chỉ khai thác lợi thế từ hoạt động
liên quan đến ngoại tệ như trước đây.
(Nguồn: Tạp chí tài chính số 5/2013 – Thạc sĩ Đỗ Khắc Hưởng)
122
CHƯƠNG 6
LẠM PHÁT TIỀN TỆ
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
Trong đời sống hằng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô,
đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và công chúng. Việc kiểm soát
lạm phát như thế nào là vấn đề hàng đầu trong cuộc tranh luận về chính sách kinh
tế. Qua đó, chương lạm phát tiền tệ trình bày những vấn đề lý luận về lạm phát và
sau khi học xong chương này sinh viên có khả năng:
- Trình bày được khái niệm lạm phát được nhiều nhà kinh tế thừa nhận.
- Phân tích các nguyên nhân gây ra lạm phát và những tác động của lạm phát
đối với đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia.
- Trình bày những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và khắc phục lạm phát
tức thời và chiến lược lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
1. Nguyên nhân gây lạm phát
1.1. Khái niệm về làm phát
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của
các nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra các khái
niệm về lạm phát rất khác nhau.
- Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên lien tục của giá cả, nói cách
khác đó là tình trạng mức giá cả tăng và tăng lien tục. Theo quan điểm này thì
không kể giá cả tăng lên do nguyên nhân nào thì đều là lạm phát.
- Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành thừa tiền giấy vượt quá
mức đảm bảo bằng vàng, bạc, ngoại tệ,...của quốc gia, vì vậy gây ra sự mất giá của
tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao. Quan điểm này quá coi trọng cơ sở
đảm bảo bằng vàng, ngoại tệ cho tiền trong nước và người ta cho rằng để chống lậm
phát cần phục hồi lại chế độ tiền giấy chuyển đổi ra vàng theo một mức giá quy
định.
- Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền
và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối với tiền lớn hơn càng khiến cho giá cả
123
tăng lên ở mọi lúc, mọi nơi. Để khắc phục tình trạng này cần dùng một biện pháp để
thiết lặp lại sự cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Như vậy, có nhiều quan điểm về lạm phát và khó đi đến thống nhất theo từng
quan điểm riêng biệt. Tuy nhiên, nhìn chung, lạm phát thể hiện qua các đặc trưng cơ
bản sau:
- Sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng quá mức.
- Sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy.
- Sự phân phối lại qua giá cả.
- Sự bất ổn về nền kinh tế.
Từ những quan điểm trên, Milton Friedman đưa ra một khái niệm về lạm phát
được nhiều nhà kinh tế thừa nhận: Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên
kéo dài làm cho mức giá cả chung tăng nhanh tồn tại trong một thời gian dài.
Về bản chất, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động tăng lên
của giá cả diễn ra trong mộ thời gian dài.
Để đánh giá mức độ lạm phát người ta căn cứ vào tỷ lệ lạm phát được xác định
theo công thức:
Mức giá năm t - Mức giá năm (t -1) Tỷ lệ lạm phát năm t =
Mức giá năm (t -1)
Mức giá được đo bằng giá cả trung bình của các loại hàng hoá và dịch vụ.
Trên thực tế, người ta đo mức giá bằng các chỉ số giá.
1.2. Các số đo chỉ số lạm phát
1.2.1. Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả (CPI).
- Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI
(Consumer Price Index), CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ
trên thị trường, các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà
cửa, chất đốt, vật tư y tế.
Để tính CPI, người ta phải dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng
trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kì có lạm phát.
124
Σ Pit Q0
i
CPIt =Σ Pi
0 Q0i
Trong đó:
Pit , Pi0 : giá cả của sản phẩm i ở năm t và năm 0
Qi0 : số lượng của sản phẩm i dùng để tính ở năm 0.
Năm 0 được chọn là năm gốc.
CPIt : chỉ số giá tiêu dùng của năm t.
1.2.2. Chỉ số giá cả sản xuất PPI
- Chỉ số thứ hai cũng thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI:
Producer Price Index), đây là chỉ số giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả
trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định. Chỉ số này rất có ích vì nó được
tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế (ở Mỹ chỉ số này được tính cho
khoảng 3400 sản phẩm).
1.2.3. Chỉ số giảm phát GNP
Chỉ số giảm phát GNP là chỉ số giá cả cho toàn bộ GNP, nó được xác định như
sau:
Chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa/ GDP thực tế
Chỉ số này toàn diện hơn CPI vì nó bao gồm giá của tất cả các loại hàng hóa
và dịch vụ trong GNP.
1.3. Phân loại lạm phát
Căn cứ vào chỉ số giá cả hàng hóa tăng để làm căn cứ phân làm 3 mức độ lạm
phát:
1.3.1. Lạm phát vừa phải
Đây là lạm phát ở mức độ thấp và còn gọi là lạm phát một con số. Biểu hiện ở
giá cả hàng hóa tăng chậm dưới 10% một năm. Trong đó đồng tiền mất giá không
lớn và tác động đến sản xuất kinh doanh của nền kinh tế là không đáng kể.
1.3.2. Lạm phát phi mã
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai con số như 11%,
12%, 20%,… ở mức lạm phát hai chỉ số thấp, những tác động tiêu cực của nó là
không đáng kể và nền kinh tế có thể chấp nhận được. Nhưng tỷ lệ tăng giá ở mức
125
hai chỉ số cao, thì những tác động tiêu cực của lạm phát lúc này là không nhỏ và trở
thành mối đe dọa đến sự ổn định đến nền kinh tế, xã hội.
1.3.3. Siêu lạm phát
Đây là loại lạm phát có tỷ lệ rất cao và tốc độ tăng rất nhanh vượt xa lạm phát
phi mã. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và nền kinh
tế trở nên nghiêm trọng. Kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế
của người lao động giảm mạnh.
1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
1.4.1. Nguyên nhân của lạm phát xét theo nguồn gốc:
- Nguyên nhân cơ bản và sâu xa: nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất
kém sút, ngân sách quốc gia bị thâm hụt dẫn tới lạm phát.
- Nguyên nhân trực tiếp: cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức cần thiết.
- Nguyên nhân quan trọng: là hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác
động bên trong hoạc bên ngoài làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của Nhà
nước bị xói mòn, từ đó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút họ
không tiêu xài hoặc đánh giá thấp giấy bạc mà Nhà nước phát hành.
1.4.2. Nguyên nhân của lạm phát xét theo chủ quan và khách quan
- Nguyên nhân chủ quan: bắt nguồn từ những chính sách quản lý kinh tế
không phù hợp của Nhà nước như: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất,
chính sách thuế,… làm cho nền kinh tế bị mất cân đối, hiệu quả sản xuất bị sút kém
ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách bị thâm hụt thì Nhà nước
phải tăng phát hành. Đặc biệt đối với một số quốc gia trong những điều kiện nhất
định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách
phát triển kinh tế.
- Nguyên nhân khách quan: như thiên tai, động đất, sóng thần là những nguyên
nhân bất khả kháng, hoặc nguyên nhân nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh, tình
hình biến động của thị trường nhiên liệu, vàng, ngoại tệ trên thế giới.
126
2. Tác động của làm phát
2.1. Lạm phát và lãi suất
Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các nhà kinh tế cho
rằng: lạm phát cao và triền mien có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh
tế, chính trị và xã hội của một quốc gia.
Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất.
Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng phải luôn
luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình, tức là
luôn luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng, lãi suất thực = lãi suất
danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát. Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi
suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Việc
tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy
thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
2.1. Lạm phát và thu nhập thực tế
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm
thu nhập thực tế của người lao động. Với 600.000 đồng tiền lương một tháng, 1
công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo với giá gạo 3.000 đ/1kg. Vào năm sau, nếu tiền
lương của công nhân này không thay đổi, nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế vào
năm sau tăng thêm 50% so với năm trước, tức là gạo đã tăng lên 4.500 đ/1kg, thì
với số tiền lương nhận được trong một tháng, người công nhân này chỉ có thể mua
được 133,3 kg gạo.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi (tức
tiền mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm
thu nhập từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế
của Nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao,
những người đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao, điều
đó làm cho thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao (mặc dù thuế
suất vẫn không tăng). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), lãi
suất thực (sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát) mà người cho vay nhận được bị
giảm đi.
127
Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người lao động trở nên
khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và những hậu
quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
2.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát tăng
cao, người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi. Điều
này đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người
cho vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút
tiền vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh
tế, đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng tiền của
mình vơ vét và thu gom hàng hóa, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng
làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị trường, giá cả
hàng hóa cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng, những người dân nghèo vốn đã
nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm chí không mua nổi những hàng hóa tiêu
dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hóa và trở nên
càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong
nền kinh tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và
người nghèo.
2.4. Lạm phát và nợ quốc gia
Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người
dân, nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn. Chính phủ được
lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì: lạm phát đã làm cho
tỷ giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền
nước ngoài tính trên các khoản nợ.
3. Biện pháp khắc phục lạm phát
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt lạm
phát”, trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện pháp
này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát.
Thứ nhất: Các biện pháp tình thế thường được Chính phủ các nước áp dụng,
trước hết là phải giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền
128
vào lưu thông. Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Tỷ lệ lạm
phát tăng cao, ngay lập tức ngân hàng Trung ương phải dùng các biện pháp có thể
đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái
chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn
hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước.
Áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cụng ứng trong nền kinh tế như: Ngân
hàng Trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán ngoại
tệ và vay, phát hành các công cụ của Chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp
cho bội chi ngân sách Nhà nước, tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất tiền gửi tiết
kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có
thể giảm bớt được một khối lượng lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân, do
đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Ở Việt Nam,
các biện pháp này đã được áp dụng thành công vào cuối những năm 80, đầu những
năm 90.
Thư hai: Thi hành “chính sách tài chính thắt chặt” như tạm hoãn những khoản
chi chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến
mức có thể được.
Thứ ba: Tăng quỹ hàng hóa tiêu dung để cân đối với số lượng tiền có trong lưu
thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện
phaps cần thiết khác để thu hút hàng hóa từ ngoài vào.
Thứ tư: Đi vay và xin viện trợ nước ngoài.
Thứ năm: Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm
phát lên quá cao mà các biện pháp trên đây chưa mang lại hiệu quả mong muốn.
4. Những biện pháp chiến lược
Đây là những biện pháp tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của đất
nước, làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách bền vững. Các biện pháp chiến lược
thường được áp dụng là:
- Thúc đẩy phát triển hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa.
Có thể nói đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì
sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước ngày càng phát
129
triển, quỹ hàng hóa sẽ đwocj tạo ra ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về chủng
loại, tạo tiền đề vững chắc nhất cho sự ổn định tiền tệ. Bên cạnh việc thúc đẩy phát
triển sản xuất hàng hóa cho tiêu dùng trong nước, Chính phủ còn phải chú trọng
phát triển các ngành, các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ như xuất khẩu hàng hóa,
phát triển ngành du lịch,...
- Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực
hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của
ngân sách Nhà nước, trên cơ sơ đó giảm bội chi ngân sách Nhà nước.
- Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nước trên cơ sở tăng
các khoản thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là
thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước.
130
BÀI ĐỌC THÊM
EDMUND S. PHELPS, NOBEL KINH TẾ 2006
Edmunds S. Phelps, người Mỹ, sinh năm 1933, giáo sư Đại học Colombia,
được Hàn Lâm Viện Thụy Điển ban tặng giải Nobel năm 2006 (Thực ra, kinh tế học
không phải là một trong năm ngành mà chính Alfred Nobel chọn để trao giải thưởng
mà do Ngân hàng Thụy Điển lập ra năm 1968 để tưởng nhớ Nobel).
Edmund S. Phelps không được nhiều người biết vì các công trình nghiên cứu
của ông rất kĩ thuật, hàn lâm, chính đồng nghiệp của ông cũng thấy “khó nuốt”. Tuy
nhiên, với một số đóng góp quan trọng, ngay từ những năm 1970, Phelps đã nằm
trong danh sách mà dân trong nghề cho là đáng được Nobel. Có điều là, sau khi
Lucas, người mà có công trình khoa học dựa vào Phelps nhận được giải năm 1995
và sau đó, Kydland và Prescott – cũng là những người chịu ảnh hưởng bởi Phelps
nhưng ít hơn – nhận giải năm 2004 thì ai cũng tưởng Phelps đã “lỡ thời”. Vì vậy khi
Hàn Lâm Viện Thụy Điển quay lại trao giải cho ông làm nhiều người ngạc nhiên là
thế. Có kẻ xấu miệng cho rằng những người phụ trách Hàn Lâm Viện hối hận đã
“quên” Phelps và ngại rằng chẳng bao lâu nữa thì không thể trao giải cho ông
(Nobel chỉ có thể trao cho những người chưa mất).
Hành trình đưa Phelps đến giải Nobel được khởi đầu từ năm 1958. Năm ấy,
A. W Pillips (người Tân Tây Lan) khám phá rằng ở Anh, khi thất nghiệp thấp thì
lạm phát cao và ngược lại, khi thất nghiệp cao thì lạm phát thấp. Trên biểu đồ với
hai trục là suất thất nghiệp và tốc độ lạm phát thì liên hệ đó có dạng một đường
cong lõm, dốc âm, tiệm cận hai trục. Sau Phillips, nhiều người khác cũng phát giác
là hầu hết các nước phát triển đều có biểu hiện tương tự. Đó là “đường cong
Phillips” mà mọi sinh viên kinh tế đều phải học trong gần nửa thế kỉ qua.
Khám phá của Phillips là một bước ngoặc trong môn kinh tế vĩ mô và có ảnh
hưởng rất lớn đến tư duy các nhà làm chính sách ở Tây phương trong thập niên
1960. Tuy rằng quan hệ Phillips là một thất vọng cho những đồ đệ thuần túy của
131
Keynes (đã tin rằng có thể, nếu khôn khéo, toàn dụng lao động mà hoàn toàn không
lạm phát), nó vẫn cho phép nhà chính sách chọn một trong hai chỉ tiêu: thất nghiệp
thấp hoặc lạm phát thấp, miễn là chấp nhận sự đánh đổi (lạm phát cao hoặc thất
nghiệp cao). Hơn nữa, ai cũng đinh ninh rằng cái “giá” của sự đánh đổi này là bất
biến theo thời gian.
Trong bài cảnh đó, ba bài nghiên cứu viết từ 1967 đến 1970 của Phelps (gần
như đồng thời với Friedman, người được Nobel năm 1976, về cùng một đề tài) gây
chấn động trong giới kinh tế với những nghi vần căn bản về sự đánh đổi giữa thất
nghiệp và lạm phát qua đường cong Phillips. Trước hết, Phelps nhấn mạnh rằng
Phillips (vốn dĩ là một kĩ sư điện) chỉ đúc kết những con số thống kê mà không đưa
ra một giải thích lý thuyết nào. Kinh tế học không thể dừng ở đó. Cụ thể, đường
cong Phillips (lúc ấy) thiếu một căn bản lý thuyết về hành vi của cá nhân hoặc
doanh nghiệp và cũng không nói gì đến tính ổn định của thị trường lao động.
Đóng góp của Phelps, nói theo người trong nghề là xây dựng một “nền tảng
vi mô” cho sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Theo Phelps, lạm phát không
chỉ tùy thuộc vào mức thất nghiệp mà còn vào kỳ vọng lạm phát của lao động lẫn
doanh nghiệp. Nghĩa là, lạm phát sẽ gây kì vọng là lạm phát sẽ tiếp tục, thậm chí sẽ
cao hơn và chính kì vọng ấy thúc đẩy lao động đòi tăng lương, doanh nghiệp tăng
giá và làm lạm phát trầm trọng hơn. Lương đuổi giá và giá đuổi lương, vòng trôn ốc
này ngày càng gia tốc.
Rất may, vòng trôn ốc này sẽ không tiến đến vô cực vì như Phelps phân tích
trong mô hình của ông, có một tỉ lệ thất nghiệp mà lạm phát sẽ ngừng gia tốc. Ban
đầu, ông gọi tỷ lệ ấy là “tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên” nhưng sau khi chữ “tự nhiên” có
thể gây ngộ nhận là tỷ lệ ấy do thượng đế quyết định, con người không tác động
được thì ông đổi tên lại là “ tỷ lệ thất nghiệp mà lạm phát không gia tốc”. Đó là tỷ lệ
thất nghiệp khi kỳ vọng lạm phát trùng với lạm phát thực tế và không cần thay đổi
gì nữa. Kinh tế trở lại trạng thái cân bằng dù có thất nghiệp. Mô hình này của
Phelps cũng biểu hiện bằng một đường Phillips nhưng đây là ‘đường Phillips có bổ
sung kỳ vọng”.
Từ mô hình của ông, Phelps kết luận: vì mỗi nền kinh tế có một tỷ lệ thất
nghiệp “tự nhiên” (tỷ lệ thất nghiệp mà lạm phát không gia tốc), Nhà nước chỉ có
132
thể giảm thất nghiệp dưới mức ấy một cách tạm thời bởi lẽ sớm muộn gì nền kinh tế
cũng trở về mức thất nghiệp đó và gia tăng lạm phát. Nói cách khác, theo Phelps và
nhiều nhà kinh tế khác, như Friedman cho rằng đồ đệ của Keynes là sai lầm khi dựa
vào đường Phillips nguyên thủy có thể dùng công cụ tiền tệ và thuế khóa để hạ suất
thất nghiệp đến bất kỳ con số nào và giữ mãi ở mức đó, miễn là chấp nhận tốc độ
lạm phát tương ứng. Phelps phản đối điều đó và khẳng định, thất nghiệp mà dưới
mức “tự nhiên” thì lạm phát sẽ gia tốc và tiếp tục gia tốc. Do đó, Phelps khuyến
nghị các nhà làm chính sách không nên nhìn vào các đánh đổi ngắn hạn giữa thất
nghiệp và lạm phát mà nên lèo lái nền kinh tế đến mức thu dụng lao động tối hảo và
bền vững dài lâu.
Có người sẽ hỏi: Phelps là nhà kinh tế “bảo thủ”, tin tưởng ở sự màu nhiệm
của thị trường (như Friedman) hay “tiến bộ”, cho là Nhà nước phải tích cực can
thiệp (như Keynes)? Nhìn chung thì Phelps có vẻ bảo thủ, tên ông thường được
ghép chung với Friedman (giả thuyết Phelps – Friedman) và với một nhà kinh tế
bảo thủ trẻ là John Taylor (giả thuyết Phelps – Taylor). Tuy nhiên, mô hình của
Phelps chi tiết hơn, khoa học hơn của Friedman về cách kỳ vọng được hình thành và
vai trò của sự không đầy đủ thông tin. Ông cho rằng lao động lẫn doanh nhân đều
không đủ thông tin, do đó thường sai lầm khi ước đoán tương lai. Về điểm này, ông
chống trường phái ‘kỳ vọng hợp lý” (một trong những sáng lập viên là Lucas, Nobel
1995). Chính Lucas mới là hậu duệ trí thức của bảo thủ kiểu Friedman.
Mặt khác, Phelps có nhiều nhận xét gần gũi với phe “tiến bộ”. Ngay từ năm
1961, ông đặc biệt lưu tâm đến những vấn đề công bằng và phân phối thu nhập và
khi khai triển những mô hình tăng trưởng tân cổ điển, ông đặt câu hỏi là thế hệ này
phải để lại cho thế hệ tương lai bao nhiêu vốn? Ông hay than phiền rằng kinh tế đã
không quan tâm đúng mức đến nền tảng đạo đức của xã hội nói chung.
Thuyết “suất thất nghiệp tự nhiên” có một lỗ hổng to lớn: dù đồng ý trên
nguyên tắc rằng có một suất như vậy cũng khó xác định nó là bao nhiêu (vào thời
Clinton, các nhà kinh tế cứ phải tính đi tính lại suất thất nghiệp tự nhiên của nước
này). Và nếu nó cao hơn mức tự nhiên thì Nhà nước có thể giúp hạ nó xuống. Hơn
nữa, chính Phelps cũng thừa nhận rằng suất thất nghiệp này có thể thay đổi theo thời
gian và nếu như vậy thì ý niệm này gần như rỗng tuếch. Song đáng chú ý nhất là
133
Phelps nhận ra rằng kỳ vọng của các tác nhân kinh tế tùy thuộc vào “thể chế” (cụ
thể là thị trường lao động và vai trò công đoàn) và vào mức tín nhiệm của người dân
đối với Nhà nước. Nói cách khác, nếu thể chế thay đổi thì kỳ vọng về lạm phát của
lao động và doanh nghiệp cũng thay đổi theo và suất thất nghiệp “tự nhiên” có thể
giảm đi. Vậy là, thuyết của Phelps cũng có thể được dùng để biện hộ cho cải tổ thể
chế.
Gần gũi với quan điểm “tiến bộ”, Phelps cũng cho rằng tăng trưởng kinh tế tùy
thuộc rất lớn vào giáo dục. Có thể xem ông là tiên phong trường phái “tăng trưởng
nội sinh” thịnh hành hiện nay (thủ lãnh là Paul Romer, được nhiều người tiên đoán
sẽ có Nobel trong tương lai không xa). Nổi bật nhất là Phelps cho rằng mức lương
không đủ sống của các công việc loại thấp (không cần tay nghề) là nguyên nhân
chính của nhiều tệ nạn xã hội như nghiện ngập, tội ác… cũng như lạm phát gây hậu
quả cho kỳ vọng lâu dài của doanh nghiệp, Phelps nhấn mạnh, thất nghiệp tẩm độc
ước vọng lâu dài của lao động và đề nghị Nhà nước trợ cấp xí nghiệp để tăng lương
cho lao động ít tay nghề. Như những kinh tế gia tiến bộ (đặc biệt là Stiglitz, Nobel
2001, đồng nghiệp của ông ở Colombia), Phelps nhìn nhận tầm quan trọng của thể
chế. Thiếu cơ sở hạ tầng thích hợp thì “vô số tiến sĩ” cũng không làm kinh tế phát
triển được, có lần ông đã nói. Phelps cũng phản đối chính sách thuế của Bush. Các
nhà bình luận bảo thủ ít khi nhắc đến những ý kiến này của Phelps.
Vào các thập niên 60 – 70, phân tích của Phelps quả là cách mạng. Tuy nhiên,
sau những tiến bộ trong kinh tế học gần bốn mươi năm qua và nhất là dưới ảnh
hưởng của Friedman, các ý kiến của Phelps đã trở thành chính thống. Nhìn lại hành
trình tri thức của Phelps, khó xếp ông là bảo thủ hay tiến bộ, có lẽ chỉ nên nói rằng
ông là một lý thuyết gia phức tạp, không thành kiến, giáo điều.
134