thẩm quyền của tòa án việt nam khi trọng tài nước ngoài ......

14
Thm quyn ca Tòa án Vit Nam khi trng tài nước ngoài gii quyết tranh chp ti Vit Nam PGS.TS. Đỗ Văn Đại | 22/01/2013 | Trong thi gian gn đây, bên cnh nhng tranh chp được gii quyết bng Trng tài Vit Nam (như ca Trung tâm Trng tài Quc tế Vit Nam gi tt tiếng Anh là VIAC) ti Vit Nam, đã xut hin nhng tranh chp được gii quyết bng Trng tài nước ngoài (tc thành lp theo pháp lut nước ngoài (1) ti Vit Nam. Ví d, Hp đồng mua bán s84-346.2 được ký kết gia Conares Metal Supply L.t.d và Công ty cơ khí kết cu thép xây dng có tha thun tranh chp “sđược gii quyết chung thm theo quy tc Trng tài ca Phòng Thương mi quc tế (sau đây gi tt là ICC), nơi gii quyết Trng tài là Hà Ni”. Thc tế các bên có tranh chp vhp đồng và phía nước ngoài đã khi kin ra Trng tài ca ICC vi nơi gii quyết tranh chp là ti Hà Ni (Vit Nam). Tương ttrong vvic sau đây (mà chúng ta ssdng để minh ha cho bài viết): theo tha thun ca Hp đồng ký ngày 11/1/2005 và Điu khon tham chiếu do Hi đồng trng tài ca ICC lp đã được các bên ký ngày 02/9/2011 thì các bên đã chn Lut áp dng là Lut Vit Nam, ttng trng tài được tiến hành phù hp vi Lut Trng tài Vit Nam và địa đim gii quyết tranh chp là TP. HChí Minh. Cũng như trong vvic trước, đây Trng tài gii quyết tranh chp là Trng tài ca ICC và địa đim gii quyết tranh chp là ti Vit Nam. Khi vvic được gii quyết bng Trng tài Vit Nam ti Vit Nam thì hin nhiên Tòa án Vit Nam có thm quyn đối vi nhiu vn đề tkhi vvic được thký (như áp dng bin pháp khn cp tm thi, xác định thm quyn ca Trng tài, triu tp nhân chng) đến sau khi có phán quyết trng tài (như xem xét hy phán quyết trng). Khi tranh chp được gii quyết bng Trng tài nước ngoài ti Vit Nam, Tòa án Vit Nam có thm quyn như đối vi Trng tài Vit Nam đã nêu trên không? Thông qua vvic thhai nêu trên, chúng ta thy Tòa án Vit Nam có thm quyn và qua đây, chúng ta slàm rõ phm vi thm quyn ca Tòa án Vit Nam đối vi hot động ttng ca Trng tài nước ngoài ti Vit Nam. Ghi nhn thm quyn ca Tòa án Vit Nam 1.1. Tòa án chp nhn thm quyn

Upload: hoangngoc

Post on 03-Mar-2018

214 views

Category:

Documents


1 download

TRANSCRIPT

Page 1: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài giải quyết tranh chấp tại Việt Nam

PGS.TS. Đỗ Văn Đại | 22/01/2013 |

Trong thời gian gần đây, bên cạnh những tranh chấp được giải quyết bằng Trọng

tài Việt Nam (như của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam gọi tắt tiếng Anh là

VIAC) tại Việt Nam, đã xuất hiện những tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài

nước ngoài (tức thành lập theo pháp luật nước ngoài (1) tại Việt Nam.

Ví dụ, Hợp đồng mua bán số 84-346.2 được ký kết giữa Conares Metal Supply

L.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ được

giải quyết chung thẩm theo quy tắc Trọng tài của Phòng Thương mại quốc tế (sau

đây gọi tắt là ICC), nơi giải quyết Trọng tài là Hà Nội”. Thực tế các bên có tranh

chấp về hợp đồng và phía nước ngoài đã khởi kiện ra Trọng tài của ICC với nơi

giải quyết tranh chấp là tại Hà Nội (Việt Nam). Tương tự trong vụ việc sau đây

(mà chúng ta sẽ sử dụng để minh họa cho bài viết): theo thỏa thuận của Hợp

đồng ký ngày 11/1/2005 và Điều khoản tham chiếu do Hội đồng trọng tài của ICC

lập đã được các bên ký ngày 02/9/2011 thì các bên đã chọn Luật áp dụng là Luật

Việt Nam, tố tụng trọng tài được tiến hành phù hợp với Luật Trọng tài Việt Nam và

địa điểm giải quyết tranh chấp là TP. Hồ Chí Minh. Cũng như trong vụ việc trước,

ở đây Trọng tài giải quyết tranh chấp là Trọng tài của ICC và địa điểm giải quyết

tranh chấp là tại Việt Nam.

Khi vụ việc được giải quyết bằng Trọng tài Việt Nam tại Việt Nam thì hiển nhiên

Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với nhiều vấn đề từ khi vụ việc được thụ ký

(như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, xác định thẩm quyền của Trọng tài,

triệu tập nhân chứng…) đến sau khi có phán quyết trọng tài (như xem xét hủy

phán quyết trọng). Khi tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nước ngoài tại

Việt Nam, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền như đối với Trọng tài Việt Nam đã nêu

trên không? Thông qua vụ việc thứ hai nêu trên, chúng ta thấy Tòa án Việt Nam

có thẩm quyền và qua đây, chúng ta sẽ làm rõ phạm vi thẩm quyền của Tòa án

Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

Ghi nhận thẩm quyền của Tòa án Việt Nam

1.1. Tòa án chấp nhận thẩm quyền

Page 2: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

Đối với Trọng tài nước ngoài, hiện có hai quan điểm về thẩm quyền của Tòa án

Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án Việt Nam chỉ có thẩm quyền đối

với Trọng tài Việt Nam, không có thẩm quyền đối với Trọng tài nước ngoài (vì

được thành lập theo pháp luật nước ngoài). Quan điểm ngược lại cho rằng, Tòa

án Việt Nam không chỉ có thẩm quyền đối với Trọng tài Việt Nam mà cả với Trọng

tài nước ngoài khi địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.

Trong vụ việc nêu trên, Trọng tài giải quyết tranh chấp được thành lập là Trọng tài

ICC nhưng địa điểm giải quyết tranh chấp là tại Việt Nam. Ở đây, Hội đồng trọng

tài của ICC đã cho rằng, Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp

giữa Công ty OB và UBND Thành phố H. Tuy nhiên, quyết định theo đó Hội đồng

trọng tài ICC chấp nhận thẩm quyền được ban hành tại TP. Hồ Chí Minh đã bị

khiếu nại tại Tòa án Việt Nam, cụ thể là tại Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở một số quy định của Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam (đang có

hiệu lực), Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã khẳng định “Tòa án nhân dân TP.

Hồ Chí Minh có thẩm quyền xem xét quyết định về thẩm quyền của Hội đồng

trọng tài” (2).

Như vậy, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã khẳng định Tòa án có thẩm quyền

để xem xét lại Quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nước ngoài. Điều

đó cũng có nghĩa là, theo Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, Tòa án Việt Nam có

thẩm quyền xem xét quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cho dù đây

là Trọng tài nước ngoài khi địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là tại Việt

Nam.

1.2. Cơ sở pháp lý ghi nhận thẩm quyền

Trên cơ sở nào Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của

Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam?

Về thẩm quyền của Tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, khoản

1 và 3 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “yêu cầu liên quan đến việc Trọng

tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật

về Trọng tài thương mại; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết

định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài” là “những yêu cầu về kinh

doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Nếu chỉ căn cứ vào

quy định vừa nêu, chúng ta không có cơ sở để lý giải thẩm quyền của Tòa án Việt

Nam đối với hoạt động tố tụng Trọng tài nước ngoài vì hai điều khoản này chỉ nói

đến việc “giải quyết các vụ tranh chấp” của “Trọng tài thương mại Việt Nam”, đối

Page 3: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

với quyết định “của Trọng tài nước ngoài”, điều khoản trên chỉ đề cập đến “yêu

cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam”, tức là khi hoạt động tố tụng trọng tài

đã kết thúc.

Thực ra, Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự về yêu cầu về kinh doanh, thương mại

thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án còn một điều khoản nữa ghi nhận thẩm

quyền của Tòa án Việt Nam đối với các vấn đề không được nêu trong hai điều

khoản trên. Đó là khoản 4, theo đó “các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại

mà pháp luật có quy định” cũng “thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Quy

định này cho phép ghi nhận thẩm quyền của Tòa án không trên cơ sở các quy

định cụ thể của Bộ luật Tố tụng dân sự mà trên cơ sở quy định trong văn bản

khác (3). Vậy Luật Trọng tài thương mại hiện hành của chúng ta có quy định ghi

nhận thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài

nước ngoài tại Việt Nam không?

Trong Quyết định số 625/2012/QĐST-KDTM ngày 14/5/2012 nêu trên, Tòa án đã

viện dẫn “điểm c khoản 2 Điều 7 (4)” và “khoản 3 Điều 7 (5) Luật Trọng tài thương

mại” nhưng hai điều khoản này không rõ về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối

với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

Thực ra, hai điều khoản vừa nêu chỉ cho biết Tòa án cụ thể nào trong hệ thống

Tòa án của Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng trọng tài mà không

cho biết Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài

nước ngoài tại Việt Nam hay không. Nói cách khác, khi Tòa án Việt Nam có thẩm

quyền, hai điều khoản trên cho biết Tòa án cấp và nơi cụ thể nào (Tòa án nhân

dân TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng…?) có thẩm quyền trong khi đó chúng ta

đang xem xét là Tòa án Việt Nam có thẩm quyền hay không đối với hoạt động tố

tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Chính vì lẽ đó, mà ngày 11/07/2012,

Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã có văn bản số 899/TATP-TKT với nội dung

giải thích quyết định nêu trên. Ở văn bản này, để khẳng định thẩm quyền của Tòa

án đối với việc xem xét lại Quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền của

Hội đồng trọng tài, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã viện dẫn thêm Điều 1

Luật Trọng tài thương mại, theo đó “Luật này quy định về…; thẩm quyền của Tòa

án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại

Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài” để khẳng định “như vậy, có thể thấy rõ

rằng, Luật Trọng tài thương mại quy định thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt

Page 4: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

động trọng tài là thẩm quyền đối với toàn bộ hoạt động trọng tài mà không có sự

phân biệt Trọng tài trong nước hay nước ngoài”.

Với trình bày trên, chúng ta thấy, Tòa án đã căn cứ vào Điều 1 Luật Trọng tài

thương mại hiện hành để cho rằng, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối “hoạt

động trọng tài nước ngoài tại Việt Nam”.

1.3. Đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài

Nghiên cứu so sánh cho thấy, hướng thừa nhận thẩm quyền như trên không xa

lạ. Không hiếm hệ thống pháp luật ghi nhận thẩm quyền của Tòa án nước mình

đối với hoạt động trọng tài trên lãnh thổ nước mình cho dù đó là hoạt động của

Trọng tài nước ngoài (6).

Tây Ban Nha có Luật Trọng tài năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2011.

Trong Luật này có nhiều quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động

của Trọng tài (như chỉ định hay thay đổi Trọng tài viên, trợ giúp trọng tài trong việc

thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời) và Điều 1 Luật Trọng tài

Tây Ban Nha quy định: “Luật này áp dụng cho trọng tài có địa điểm trên lãnh thổ

Tây Ban Nha dù là trọng tài quốc nội hay quốc tế” (7). Quy định này cho phép Tòa

án Tây Ban Nha can thiệp đối với hoạt động trọng tài diễn ra tại Tây Ban Nha.

Tương tự như vậy theo pháp luật của Áo: Áo sửa đổi pháp luật trọng tài vào năm

2006 và theo Luật năm 2006, Tòa án Áo có thẩm quyền chỉ định hay thay đổi

trọng tài viên, trợ giúp trọng tài, giải quyết hủy phán quyết trọng tài… và phạm vi

áp dụng Luật này là đối với Trọng tài (quốc nội hay quốc tế) có địa điểm tại Áo (7).

Ở Tunisi, “sự can thiệp của Tòa án không thể giới hạn ở trợ giúp Trọng tài; đương

nhiên một sự kiểm soát trước Tòa án Tunisi tồn tại khi trọng tài diễn ra ở Tunisi”.

Ở đây, Tòa án Tunisi có cả thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng

tài “khi trọng tài diễn ra trên lãnh thổ Tunisi hay khi quy định về trọng tài của Tunisi

được các bên hoặc Hội đồng trọng tài lựa chọn” (địa điểm trọng tài tại Tunisi chỉ là

một tiêu chí ghi nhận thẩm quyền của Tòa án Tunisi đối với hoạt động tố tụng của

Trọng tài) (9).

Pháp mới sửa đổi pháp luật trọng tài vào năm 2011 và đã mở rộng trường hợp

Tòa án (thẩm phán) Pháp có thẩm quyền can thiệp đối với hoạt động tố tụng trọng

tài theo hướng địa điểm trọng tài tại Pháp chỉ là một trong các tiêu chí ghi nhận

thẩm quyền của Tòa án Pháp. Theo Điều 1505 Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, Tòa

án Pháp có thẩm quyền trong 4 trường hợp sau: Thứ nhất, khi nơi giải quyết tranh

chấp bằng trọng tài là Pháp; thứ hai, khi các bên thỏa thuận áp dụng pháp luật tố

Page 5: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

tụng trọng tài của Pháp; thứ ba, khi các bên thỏa thuận Tòa án Pháp có thẩm

quyền đối với bất đồng trong quá trình tố tụng; thứ tư, khi có khả năng không có

Tòa án nước nào thừa nhận thẩm quyền (điều đó có nghĩa là Tòa án Pháp có

thẩm quyền ngay cả đối với hoạt động trọng tài không diễn ra tại Pháp, tức được

ấn định ở nước ngoài (10). Ngoài ra, theo Điều 1518 Bộ luật Tố tụng dân sự

Pháp, Tòa án Pháp có thẩm quyền xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

được tuyên tại Pháp (11).

1.4. Nhận xét bổ sung

Như vậy, đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nước

ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở Điều 1 Luật Trọng tài thương mại hiện hành, Tòa

án đã cho rằng, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của

Trọng tài nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.

Hướng ghi nhận thẩm quyền như trên chưa được thể hiển rõ trong văn bản hiện

hành của chúng ta (12) nhưng theo chúng tôi, cần được ghi nhận và phát triển đối

với vụ việc tương tự (có thể coi là viên gạch đầu tiên trong việc hình thành một án

lệ trong lĩnh vực trọng tài (13)): hoạt động tố tụng của Trọng tài trên lãnh thổ Việt

Nam cần chịu sự chi phối, tác động (trợ giúp, giám sát) của Tòa án Việt Nam theo

quy định của pháp luật Việt Nam. Hướng ghi nhận như trên không xa lạ trên thế

giới; nhiều nước đã theo hướng Tòa án của họ có thẩm quyền trợ giúp cũng như

giám sát hoạt động tố tụng trọng tài trên lãnh thổ nước họ và không phân biệt

trọng tài liên quan là trọng tài trong nước hay trọng tài nước ngoài.

Vấn đề tiếp theo mà chúng ta cần quan tâm là Tòa án có thẩm quyền đối với

những hoạt động cụ thể nào của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.

Phạm vi thẩm quyền của Tòa án Việt Nam

2.1. Xem xét thẩm quyền của Hội đồng trọng tài

Trong quá trình tố tụng trọng tài, chúng ta thường gặp trường hợp một bên phủ

nhận thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Đối với hoàn cảnh này, pháp luật hiện

nay theo hướng Hội đồng trọng tài tự giải quyết bất đồng giữa các bên về thẩm

quyền của Hội đồng trọng tài (14).

Khi Hội đồng trọng tài ra quyết định về thẩm quyền của mình (có thẩm quyền hay

không có thẩm quyền), một bên có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp để xem xét lại

vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài không? Ở Pháp, Tòa án không can

thiệp vào chủ đề này và chỉ tập trung giám sát kết quả của hoạt động trọng tài (tức

Page 6: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

tập trung vào xem xét sau khi có phán quyết trọng tài) (15). Pháp luật của chúng

ta theo hướng rất khác. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 44 Luật Trọng tài thương mại,

“trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài quy định tại

Điều 43 của Luật này (Xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài

không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài), trong thời hạn 05

ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội đồng trọng tài, các bên

có quyền gửi đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội

đồng trọng tài”.

Điều đó có nghĩa là, trong hoạt động tố tụng trọng tài, Tòa án Việt Nam có thẩm

quyền xem xét lại Quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền của Hội đồng

trọng tài. Quy định trên hiển nhiên được áp dụng cho Trọng tài Việt Nam và, theo

quyết định nêu trên của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, cũng được áp dụng

cho Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Ở đây, trên cơ sở “Điều 43 và Điều 44

Luật Trọng tài thương mại”, Tòa án quyết định “Hội đồng trọng tài Quốc tế ICC

không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Công ty OB và UBND Thành phố

H” (việc Tòa án xác định Hội đồng trọng tài của ICC không có thẩm quyền cho

thấy Tòa án có thẩm quyền xem xét thẩm quyền của Trọng tài nước ngoài tại Việt

Nam).

2.2. Đối với các vấn đề khác của tố tụng trọng tài

Với hướng giải quyết trên, quyết định cho thấy Tòa án Việt Nam có thẩm quyền

giải các bất đồng trong quá trình tố tụng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu,

thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài

cho dù đó là Trọng tài nước ngoài khi địa điểm trọng tài ở Việt Nam.

Trong quá trình tố tụng trọng tài, pháp luật hiện hành còn có quy định ghi nhận

thẩm quyền của Tòa án đối với nhiều vấn đề khác như triệu tập người làm chứng

(16), áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (17). Đối với trọng tài vụ việc, Tòa án

còn có thẩm quyền chỉ định hay thay đổi Trọng tài viên (18).

Quy định trên đương nhiên được áp dụng đối với Trọng tài Việt Nam. Trong quyết

định của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh nêu trên, các vấn đề trên không được

đề cập đến và, theo chúng tôi, các quy định trên cũng được áp dụng đối với Trọng

tài nước ngoài khi địa điểm giải quyết tranh chấp là tại Việt Nam. Về nguyên tắc,

Tòa án Việt Nam có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài Việt Nam

tại Việt Nam trong những trường hợp nào thì cũng có thẩm quyền trong những

Page 7: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

trường hợp tương ứng đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài tại Việt

Nam.

2.3. Đối với phán quyết trọng tài

Trọng tài nước ngoài có thể ra phán quyết đối với vụ việc được giải quyết tại Việt

Nam (phán quyết trọng tài là một quyết định trọng tài nhưng không phải quyết định

trọng tài nào cũng là phán quyết trọng tài. Quyết định cuối cùng của Hội đồng

trọng tài về nội dung tranh chấp là phán quyết trọng tài (19) còn quyết định trong

quá trình tố tụng chỉ là một quyết định trọng tài thông thường trong quá trình giải

quyết tranh chấp (20) với cơ chế điều chỉnh rất khác so với phán quyết trọng tài

(21)). Đối với vụ việc mà chúng ta đang nghiên cứu, chúng tôi chưa thấy có phán

quyết trọng tài về nội dung tranh chấp nhưng, đối với vụ việc liên quan đến

Conares Metal Supply Ltd. nêu trên, Trọng tài của ICC đã ra phán quyết và câu

hỏi được đặt ra là Tòa án Việt Nam có thẩm quyền gì đối với phán quyết loại này?

Đối với phán quyết trọng tài (tức quyết định cuối cùng về nội dung tranh chấp),

pháp luật hiện hành của chúng ta có hai cơ chế điều chỉnh rất khác nhau. Đối với

quyết định (phán quyết) của Trọng tài nước ngoài, chúng ta có quy định trong Bộ

luật Tố tụng dân sự và Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi

hành tại Việt Nam (22) (lúc này Tòa án có thẩm quyền công nhận hay không công

nhận phán quyết trọng tài) còn, đối với phán quyết trọng tài trong Luật Trọng tài

thương mại, chúng ta có quy định về thi hành phán quyết trọng tài (23) mà không

có thủ tục công nhận và cho thi hành nhưng phán quyết trọng tài có thể bị yêu cầu

hủy tại Tòa án (lúc này Tòa án có thẩm quyền để quyết định hủy hay không hủy

phán quyết trọng tài) (24). Đối với phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt

Nam mà chúng ta đang nghiên cứu, chúng ta áp dụng cơ chế nào trong hai cơ

chế trên?

Theo khoản 12 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại: “Phán quyết của trọng tài nước

ngoài là phán quyết do Trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam

hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận

lựa chọn”. Quy định này tương thích với khoản 2 Điều 342 Bộ luật Tố tụng dân sự

về quyết định trọng tài nước ngoài (25). Với quy định như vừa nêu, có nhiều khả

năng quyết định (phán quyết) của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam phải theo thủ

tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam như trường hợp liên quan đến

Conares Metal Supply Ltd. nêu trên (ở vụ việc này, phán quyết của Trọng tài ICC

Page 8: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

đã theo thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt

Nam) (26).

2.4. Giá trị của phán quyết Trọng tài nước ngoài

Trong vụ việc mà chúng ta đang nghiên cứu, Tòa án đã ra quyết định theo hướng

Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Trong thực tiễn những năm

gần đây, loại quyết định theo hướng Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải

quyết tranh chấp không hiếm đối với Trọng tài được thành lập theo pháp luật Việt

Nam (tức Trọng tài Việt Nam).

Khi Tòa án ra quyết định theo hướng Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền,

chúng tôi chưa gặp trường hợp nào Hội đồng trọng tài (Việt Nam) tiếp tục giải

quyết (27). Điều này cho thấy, quyết định của Tòa án đã được Trọng tài Việt Nam

tôn trọng trong thực tế. Tuy nhiên, sự tôn trọng đối với quyết định của Tòa án về

thẩm quyền của Hội đồng trọng tài không luôn tồn tại đối với Trọng tài nước

ngoài. Thực tế có thể xảy ra trường hợp Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam không

chấp nhận quyết định của Tòa án Việt Nam về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài

và tiếp tục giải quyết tranh chấp, ban hành phán quyết về nội dung của tranh

chấp. Trong vụ việc đang được nghiên cứu, Tòa án đã theo hướng Hội đồng trọng

tài của ICC không có thẩm quyền nhưng có nhiều khả năng Hội đồng trọng tài vẫn

tiếp tục giải quyết và ra phán quyết của mình. Trong trường hợp này, phán quyết

của Trọng tài không có giá trị pháp lý ở Việt Nam, không được thi hành tại Việt

Nam.

Tuy nhiên, phán quyết của Trọng tài nước ngoài không được chấp nhận ở Việt

Nam không có nghĩa là không thể được công nhận và cho thi hành ở nước ngoài.

Ở một số nước như Pháp, phán quyết của Trọng tài nước ngoài vẫn có thể được

công nhận và cho thi hành mặc dù bị hủy theo pháp luật của nước nơi phán quyết

được tuyên (28). Do đó, phía nước ngoài vẫn có thể đưa phán quyết của Trọng tài

ra nước ngoài thi hành nếu phía Việt Nam có tài sản ở nước ngoài; phán quyết

Trọng tài không có giá trị đối với phía Việt Nam ở Việt Nam nhưng vẫn có thể ràng

buộc họ ở nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài cho phép công nhận và cho thi

hành phán quyết trọng tài bị hủy ở nước mà tranh chấp được giải quyết. Đây là

điều mà phía Việt Nam cần lưu ý, nhất là khi họ có tài sản (cố định hay lưu động

như xe, tầu, máy bay) ở nước ngoài và không nên ngộ nhận rằng phán quyết

trọng tài bị hủy ở Việt Nam sẽ không được công nhận và cho thi hành ở nước

ngoài (29).

Page 9: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

Kết luận

Vấn đề Tòa án Việt Nam có thẩm quyền can thiệp vào hoạt động tố tụng của

Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam đã được đặt ra trong quá trình xây dựng Luật

Trọng tài thương mại và hiện nay vẫn có quan điểm trái chiều nhau.

Trong vụ việc được nghiên cứu, Tòa án đã ra Quyết định về thẩm quyền của Hội

đồng trọng tài nước ngoài và là quyết định đầu tiên mà chúng tôi biết liên quan

đến thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài

nước ngoài tại Việt Nam. Trước sự chưa rõ ràng của văn bản và trước những

quan điểm trái chiều nhau về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với Trọng tài

nước ngoài tại Việt Nam, Quyết định này đáng được lưu tâm và không thiếu yếu

tố thuyết phục. Về phạm vi thẩm quyền, Tòa án có thẩm quyền trong những

trường hợp nào đối với Trọng tài Việt Nam tại Việt Nam thì cũng có thẩm quyền

trong trường hợp tương ứng đối với Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Đối với

phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta theo cơ chế công nhận và

cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt Nam (không theo cơ chế hủy

phán quyết trọng tài như đối với Trọng tài Việt Nam).

Kinh nghiệm cho thấy, Tòa án nơi Trọng tài giải quyết tranh chấp có thẩm quyền

trợ giúp và giám sát Trọng tài là điều bình thường. Tuy nhiên, nội dung can thiệp

của Tòa án vào hoạt động tố tụng của Trọng tài có thể ảnh hưởng đến uy tín của

hệ thống pháp luật của Tòa án và uy tín của hệ thống pháp luật của chúng ta

không phụ thuộc nhiều vào vấn đề Tòa án của chúng ta có thẩm quyền hay không

đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài, mà vào vấn đề thẩm quyền đó được sử

dụng như thế nào trong thực tế. Chúng tôi ủng hộ việc ghi nhận thẩm quyền của

Tòa án đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài nước ngoài ở Việt Nam và hy

vọng, khi có thẩm quyền, Tòa án của chúng ta đưa ra được những phán quyết

thấu tình, đạt lý (30). Lưu ý rằng, nếu chúng ta ứng xử quá bất lợi cho Trọng tài

nước ngoại tại Việt Nam, thì sẽ dẫn đến tình trạng các vụ việc liên quan đến phía

Việt Nam sẽ không được giải quyết tại Việt Nam, mà sẽ được giải quyết ở nước

ngoài (như ở Paris, Hồng Kông, Singapore) và lúc đó phía Việt Nam gánh chịu

nhiều bất lợi.

(1). Theo khoản 11 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại, “Trọng tài nước ngoài là

Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các

bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt

Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”.

Page 10: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

(2). Trong Quyết định số 625/2012/QĐST-KDTM ngày 14/5/2012 của Tòa án nhân

dân TP. Hồ Chí Minh.

(3). Trong thực tế việc khai thác quy định trong văn bản khác Bộ luật Tố tụng dân

sự để xác định thẩm quyền của Tòa án là khá phổ biến. Ví dụ, liên quan đến một

mảnh đất bà Hương chuyển nhượng quyền sử dụng cho chị Tho và chị Tho yêu

cầu bà Hương cùng chồng (ông Thiện) thực hiện thủ tục sang tên, trong Quyết

định số 168/2012/DS-GĐT ngày 28/3/2012 Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

đã xét rằng, “do vợ chồng bà Hương, ông Thiện phải thi hành một bản án khác có

liên quan đến diện tích đất nêu trên của chị Tho nên Thi hành án dân sự huyện

Nhơn Trạch có thông báo bằng văn bản cho chị Tho có quyền khởi kiện tại Tòa

án. Như đã phân tích, thực tế không có tranh chấp về quyền sử dụng đất mà chị

Tho chỉ yêu cầu được xác định 166m2 đất thuộc quyền sử dụng của chị. Lẽ ra,

trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm hướng dẫn chị Tho viết lại đơn khởi

kiện và Tòa án căn cứ vào khoản 6, Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2004 “các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định” để thụ lý việc dân sự

và xác định quan hệ là “yêu cầu xác định quyền sử dụng tài sản”. Các yêu cầu

khác về dân sự mà pháp luật quy định trong trường hợp cụ thể này được quy định

tại Điều 41 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 (nay là Điều 74 Luật Thi

hành án dân sự năm 2008). Do đó, việc giải quyết yêu cầu của chị Tho thuộc

thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Nhơn trạch”.

(4). “Đối với yêu cầu giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa

thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm

quyền của Hội đồng trọng tài thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng

trọng tài ra quyết định;”.

(5). “Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài quy định tại khoản 1 và

khoản 2 Điều này là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.

(6). Theo một số chuyên gia về trọng tài, “rất nhiều hệ thống pháp luật, trực tiếp

hay gián tiếp, theo hướng những quy định tố tụng của họ đương nhiên áp dụng

cho trọng tài có địa điểm trên lãnh thổ nước mình, không cần phải phân biệt đó là

trọng tài quốc nội hay quốc tế”: Ph. Fouchard, E. Gaillard và B. Goldman, Traité

de l’arbitrage commercial international, Nxb. Litec 1996, phần số 92.

(7). Về pháp luật trọng tài Tây Ban Nha, xem La nouvelle loi espagnole sur

l’arbitrage: Gazette du Palais, 04/12/2004 n° 339, tr. 5; Carmen NÚÑEZ-LAGOS,

Page 11: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

Réflexions autour de la réforme de la Loi Espagnole d’Arbitrage: Cahiers de

l’arbitrage, 01/01/2012, n° 1, tr. 235.

(8). Xem Christoph LIEBSCHER và Florian HAUGENEDER, Autriche: le nouveau

droit de l’arbitrage: Gazette du Palais, 22 avril 2006 n° 112, tr. 14.

(9). Lotfi CHEDLY, L’arbitrage international en droit tunisien.- Quatorze ans après

le Code: Journal du droit international (Clunet) n° 2, Avril 2008, doctr. 4, phần số

64.

(10). Thomas CLAY, Le siège de l’arbitrage international entre «ordem» et «

progresso»: Gazette du Palais, 02/7/2008 n° 184, tr. 20, phần số 18.

(11). Về pháp luật trọng tài Pháp sau khi sửa đổi năm 2011, xem Thomas CLAY,

L’appui du juge à l’arbitrage: Cahiers de l’arbitrage, 01/4/2011 n° 2, tr. 331; Sylvain

BOLLÉE, Le droit français de l’arbitrage international après le décret n° 2011-48

du 13 janvier 2011: Revue critique de droit international privé 2011, tr. 553.

(12). Theo Điều 1 Luật Trọng tài thương mại, Luật này quy định về “tổ chức và

hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam” và, trong phần sau, Luật Trọng

tài chỉ có quy định về “điều kiện và hình thức” hoạt động của Tổ chức trọng tài

nước ngoài tại Việt Nam” (Điều 73 và tiếp theo). Ở đây, Luật có quy định rõ về

hoạt động của Tổ chức trọng tài nước ngoài như văn phòng đại diện, chi nhánh

cũng như quyền và nghĩa vụ của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

nhưng không nói rõ về “hoạt động giải quyết vụ việc” của Trọng tài nước ngoài tại

Việt Nam. Nói cách khác, Luật Trọng tài thương mại hiện hành chưa thực sự minh

thị về thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động tố tụng của Trọng tài

nước ngoài tại Việt Nam và Tòa án thừa nhận thẩm quyền can thiệp của mình là

do hiểu “thông thoáng” các quy định tại Điều 1.

(13). Nghị quyết 48-NQ/TW ban hành ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống phát luật Việt Nam đến năm 2010, định

hướng đến năm 2020, nêu rõ: “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ,

tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp

hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”. Thực hiện Nghị

quyết 48-NQ/TW, UBTVQH Khóa XI đã ban hành Kế hoạch số 900/UBTVUQH11

ngày 21/3/2007, trong đó đề ra nhiệm vụ “nghiên cứu và phát triển việc tổng hợp

án lệ” trong giai đoạn từ 2007 đến 2012.

Page 12: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

(14). Theo khoản 1 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại Việt Nam, “trước khi xem

xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa

thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét

thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của

mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật

này. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng

tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội

đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên

biết”.

(15). Emmanuel GAILLARD và Pierre DE LAPASSE, Commentaire analytique du

décret du 13  janvier 2011 portant réforme du droit français de l’arbitrage: Cahiers

de l’arbitrage, 01/4/2011 n° 2, tr. 263, phần số 99.

(16). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam về

Trọng tài thương mại, Nxb. CTQG 2011, phần số 181 và 182.

(17). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, sđd, phần số 227 và

tiếp theo.

(18). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, sđd, phần số 107 và

tiếp theo.

(19). Theo khoản 10 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại, “Phán quyết trọng tài là

quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và

chấm dứt tố tụng trọng tài”.

(20). Theo khoản 9 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại, “Quyết định trọng tài là

quyết định của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp”.

(21). Đối với quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu,

thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài,

Tòa án có thẩm quyền xem xét lại như trong vụ việc đang được bình luận và chỉ

có một thẩm phán duy nhất xem xét (khoản 4 Điều 44 Luật Trọng tài thương mại).

Ngược lại, nếu là phán quyết trọng tài, Tòa án có thẩm quyền để hủy nhưng với

một Hội đồng gồm 03 thẩm phán (khoản 2 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại) và

”phiên họp được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, luật sư của các

bên, nếu có, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp” (khoản 3 Điều 71 Luật Trọng

tài thương mại). Trong văn bản Giải thích Quyết định mà chúng ta đang bình luận

(xem phần số 4), Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự khác nhau

Page 13: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

giữa quyết định trọng tài và phán quyết trọng tài khi xét rằng, trong trường hợp

các bên cho rằng, Tòa án cần phải tiến hành lập Hội đồng xét đơn và mở phiên

họp để xét xử, các bên cần cung cấp bằng chứng cho Tòa chứng minh rằng,

Quyết định sơ bộ của Hội đồng trọng tài ICC là một phán quyết trọng tài mà không

phải là quyết định trọng tài. Nếu có đủ cơ sở để chứng minh như vậy, Tòa án sẽ

tiến hành thành lập Hội đồng xét đơn và mở phiên họp để OB được tham gia quá

trình xét đơn để bảo vệ quyền lợi của mình.

(22). Theo khoản 4 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự, “quyết định của Trọng tài

nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi được Toà án Việt Nam công

nhận và cho thi hành”.

(23). Theo khoản 1 Điều 66 Luật Trọng tài thương mại, “hết thời hạn thi hành

phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành

và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của

Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ

quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài”. Với quy

định này, nếu không có yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, phán quyết trọng tài

được thi hành ở Việt Nam như bản án của Tòa án mà không cần phải qua thủ tục

công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.

(24). Về những điểm khác nhau đối với hai loại phán quyết (quyết định) này, xem

Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, sđd, phần số 329 và tiếp theo.

(25). “Quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh

thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên

thoả thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật

kinh doanh, thương mại, lao động”

(26). Về vụ việc này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, Tuyển tập bản án,

quyết định của Tòa án Việt Nam về trọng tài thương mại, Nxb. Lao động 2010,

quyết định số 44 và 45.

(27). Theo khoản 6 Điều 44 Luật Trọng tài thương mại, “trong trường hợp Toà án

quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, không

có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài

không thể thực hiện được, Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết

tranh chấp”.

Page 14: Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam khi trọng tài nước ngoài ... · PDF fileL.t.d và Công ty cơ khí kết cấu thép xây dựng có thỏa thuận tranh chấp “sẽ

 

 

(28). Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải, Pháp luật Việt Nam

về…, sđd, phần số 397; Rodrigo BORDACHAR URRUTIA, Conférence de l’ICC

YAF sur la reconnaissance et exécution des sentences arbitrales annulées au

siège de l’arbitrage, Santiago du Chili, 28  mars 2012: Cahiers de l’arbitrage,

01/4/2012 n° 2, tr. 468.

(29). Hiện nay còn khá nhiều luật gia Việt Nam cho rằng phán quyết trọng tài đã bị

hủy ở Việt Nam sẽ không có giá trị ở nước ngoài (tại Hội thảo tổ chức ở Thành

phố Hồ Chí Minh vào cuối năm 2009 về hủy quyết định trọng tài, rất nhiều luật gia

đã phản đối việc chúng tôi cho rằng phán quyết trọng tài bị hủy ở Việt Nam vẫn có

thể được công nhận và cho thi hành ở nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài cho

phép điều này).

(30). Trong thực tế, đối với cùng một vụ việc, đã xảy ra trường hợp Tòa án nước

này cho rằng Trọng tài có thẩm quyền nhưng Tòa án nước khác theo hướng

Trọng tài không có thẩm quyền do không có thỏa thuận trọng tài (xem Gilles

CUNIBERTI, Divergence d’appréciation entre juges français et anglais du contrôle

sur l’existence d’une convention d’arbitrage: Cahiers de l’arbitrage, 01/4/2011 n° 2,

tr. 433). Điều này phần nào cho thấy có nhiều vấn đề mà hướng giải quyết không

phụ thuộc vào việc người được yêu cầu giải quyết có quyền hay không có quyền

quyết định mà phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người quyết định.

http://moj.gov.vn/tcdcpl/tintuc/Lists/PhapLuatKinhTe/View_detail.aspx?ItemID=365