(the buddhist catechism)caodaigiaoly.free.fr/phatgiaovandap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm...

83
PHẬT GIÁO VẤN ĐÁP (The Buddhist Catechism) Tác giả HENRY STEEL OLCOT Lời Giới Thiệu Vài Lời Của Người Dịch Sơ lược tiểu sử của tác giả H.S. Olcott Lời đề tặng Phần I: Đời sống của đức Phật Phần II: Giáo Pháp hay Dharma Phần III: Tăng già (Sangha) Phần IV: Sự phát triển và bành trướng của Phật giáo Phần V: Phật giáo và khoa học Phụ Lục (Appendix) Những điều tin tưởng căn bản của Phật giáo Thư mục LỜI GIỚI THIỆU Phật Pháp đƣợc trƣờng tồn và phát triển không ngừng, phần lớn đều do sự hy sinh hoằng pháp của các bậc chân tu thạc học từ thế hệ này tiếp nối thế hệ khác. Mạng mạch của đạo pháp hƣng thạnh hay suy vi đều tùy thuộc vào sự nghiệp hoằng pháp. Chúng ta hãy nhìn sâu vào đời sống của Đức Phật, Ngài đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, đó là bằng chứng hùng hồn và chắc thật nhất. Đặc biệt, trong bối cảnh của ngƣời Việt tỵ nạn ly hƣơng, theo đó, hƣớng đi của đạo pháp cho một tƣơng lai sáng sủa, thì việc hoằng pháp phải đƣợc đặt lên hàng đầu, trên một căn bản vững chắc và rộng rãi về lâu về dài. Nhƣng sự hoằng pháp ở hải ngoại này không phải đơn thuần nhƣ khi còn ở quê nhà “một dân tộc Việt, một ngôn ngữ Việt” là đủ. Sức sống của đạo pháp ở hải ngoại không thể

Upload: others

Post on 28-Jun-2020

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

PHẬT GIÁO VẤN ĐÁP

(The Buddhist Catechism)

Tác giả HENRY STEEL OLCOT

Lời Giới Thiệu

Vài Lời Của Người Dịch

Sơ lược tiểu sử của tác giả H.S. Olcott

Lời đề tặng

Phần I: Đời sống của đức Phật

Phần II: Giáo Pháp hay Dharma

Phần III: Tăng già (Sangha)

Phần IV: Sự phát triển và bành trướng của Phật giáo

Phần V: Phật giáo và khoa học

Phụ Lục (Appendix)

Những điều tin tưởng căn bản của Phật giáo

Thư mục

LỜI GIỚI THIỆU

Phật Pháp đƣợc trƣờng tồn và phát triển không ngừng, phần lớn đều do sự hy sinh hoằng pháp của các bậc chân tu thạc học từ thế hệ này tiếp nối thế hệ khác.

Mạng mạch của đạo pháp hƣng thạnh hay suy vi đều tùy thuộc vào sự nghiệp hoằng pháp. Chúng ta hãy nhìn sâu vào đời sống của Đức Phật, Ngài đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, đó là bằng chứng hùng

hồn và chắc thật nhất.

Đặc biệt, trong bối cảnh của ngƣời Việt tỵ nạn ly hƣơng, theo đó, hƣớng đi của đạo pháp cho một tƣơng lai sáng sủa, thì việc hoằng pháp phải đƣợc đặt lên

hàng đầu, trên một căn bản vững chắc và rộng rãi về lâu về dài. Nhƣng sự hoằng pháp ở hải ngoại này không phải đơn thuần nhƣ khi còn ở quê nhà “một dân tộc

Việt, một ngôn ngữ Việt” là đủ. Sức sống của đạo pháp ở hải ngoại không thể

Page 2: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

nào chỉ bằng vào những ngôi chùa tạm bợ, những ngƣời thờ ơ đối với trách

nhiệm hoằng pháp. Để khỏi mất gốc, mất nguồn về niềm tin truyền thống dân tộc, điều quan trọng trong sự nghiệp hoằng pháp hiện nay là phải làm sao đáp

ứng nhu cầu thông hiểu Phật pháp của tuổi trẻ Việt Nam không thành thạo tiếng Việt nói riêng; nói chung là cho cả những ngƣời muốn nghiên cứu giáo lý đức Phật bằng Anh ngữ. Từ nhận định đó, kinh sách Phật giáo song ngữ Việt-Anh là

điều cấp thiết trƣớc mắt cho việc duy trì và phát triển Phật giáo cùng văn hóa đạo đức dân tộc ở hải ngoại hiện tại và tƣơng lai.

Phật Học Viện Quốc Tế ngay từ buổi đầu mới thành lập đã đặt vấn đề hoằng pháp

và đào tạo Tăng tài lên hàng đầu. Viện đã kiên nhẫn khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm tái bản những kinh sách Phật giáo giá trị và đồng thời cũng đã trù liệu

cụ thể kế hoạch thực hiện những kinh sách Phật giáo song ngữ Việt-Anh để đáp ứng nhu cầu thanh thiếu niên học Phật. Tuy chƣa mãn nguyện, nhƣng điều này quý vị cũng đã thấy rải rác trong các thƣ mục sách báo của Phật Học Viện. Sự trở

ngại khó khăn trong công cuộc hoằng pháp của Phật Học Viện, ngoài vấn đề tài chánh và nhân sự ra, kinh sách song ngữ là một trong những vấn đề khó thực

hiện nhất. Điều này có lúc tƣởng chừng nhƣ bế tắc. Thì hôm nay, Viện chúng tôi hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott là dịch phẩm song ngữ giá trị đầu tiên này đến quý vị.

Tác phẩm “The Buddist Catechism” là một tác phẩm giá trị đã đƣợc dịch ra nhiều

thứ tiếng các nƣớc trên thế giới, nhƣng đƣợc dịch ra tiếng Việt thì đây chỉ mới là lần đầu tiên do Thƣợng Tọa Tiến Sĩ Thích Trí Chơn thực hiện.

Giá trị của tác phẩm không những chỉ về nhân cách của tác giả, mà bởi nội dung

của nó rất là quảng bác và hàm súc; có khả năng kết thúc đƣợc những thắc mắc căn bản về Phật giáo, và dẫn đạo cho những ai muốn tiến bƣớc trên đƣờng

quang lộ tìm chân lý. Tôi tin tƣởng rằng, sau khi đọc chính bản Anh ngữ hoặc dịch bản Việt ngữ, độc giả sẽ vơi nhẹ đi những băn khoăn thắc mắc đã chất chứa từ lâu trong óc não trên đƣờng tìm đến đạo Phật.

Dịch giả, Thƣợng Tọa Thích Trí Chơn vốn ấu niên xuất gia, đã du học ở Ấn Độ

mƣời hai năm, đỗ bằng tiến sĩ Triết học Phật giáo, với kiến thức thông bác Phật điển; với sự kiên tâm âm thầm nghiên cứu, dịch thuật công phu, với lời văn trong

sáng gọn đủ, hy vọng độc giả sẽ cảm thấy tinh thần phấn khởi, tâm thức khai thông khi đọc dịch phẩm giá trị này.

Nơi đây, tôi xin chân thành tán thán công đức của dịch giả và thành tâm khấn

nguyện cùng mọi ngƣời chân chánh phát Bồ đề tâm noi theo gƣơng đức Phật, hƣớng khả năng mình cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, ngõ hầu mình và ngƣời đƣợc an lành lợi lạc trên bƣớc đƣờng tiến đến giác ngộ giải thoát.

Hoa Kỳ, Vu Lan Đinh Mão 1987

THÍCH ĐỨC NIỆM

LỜI NGƢỜI DỊCH

Page 3: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Nhằm đáp ứng nhu cầu của số đông độc giả Phật tử Việt Nam tại hải ngoại đang

cần có tài liệu trau giồi Phật Pháp bằng tiếng Anh để dùng nói chuyện, hay có thể trình bày tóm lƣợc về giáo lý đạo Phật với ngƣời ngoại quốc cũng nhƣ giúp các

học sinh, sinh viên Phật tử đang theo học ở các trƣờng trung, đại học tại Hoa Kỳ thông hiểu một số danh từ Phật học Anh ngữ chuyên môn để có thể soạn viết những bài luận văn, thuyết trình ngắn (papers) hoặc diễn đạt, trao đổi ý tƣởng

về Phật giáo với các bạn bè ngoại quốc và giáo sƣ Mỹ trong lớp, chúng tôi đã không ngại tài trí thô thiển cố gắng soạn dịch cuốn “Phật Giáo Vấn Đáp” (The

Buddhist Catechism) sau đây để cống hiến chƣ Phật tử gần xa.

Tác phẩm do Phật tử ngƣời Hoa Kỳ, đại tá kiêm học giả H.S.Olcott (1832-1907) biên soạn, tham cứu từ 15,000 trang kinh điển Phật giáo, gồm có tất cả 383 câu

hỏi và trả lời tóm lƣợc về mọi yếu điểm của Phật giáo từ cuộc đời Đức Phật, giáo lý, sinh hoạt chƣ Tăng, đến lịch sử truyền bá cùng sự tƣơng quan giữa Phật giáo và khoa học v.v… Mặc dù nơi bản chính Anh văn ghi 383 câu hỏi nhƣng thật sự

chỉ có 381 câu, vì thiếu hai (2) câu số 104 và 105. Và, để quý độc giả tiện đối chiếu với nguyên tác, nơi bản dịch, chúng tôi vẫn ghi đủ số 383 câu hỏi nhƣ

nguyên bản tiếng Anh. Cuốn “The Buddhist Catechism” xuất bản lần đầu tiên năm 1881 tại Adyar (Ấn độ) và bản tiếng Anh đƣợc tái bản lần thứ 33 (năm 1897); thứ 36 (1903); thứ 40 (1905); thứ 42 (1908); và lần thứ 44 (1915).

Từ đó (1915) đến nay, tác phẩm này đã đƣợc các nhà xuất bản, hội đoàn Phật

giáo tại Hoa Kỳ và những quốc gia khác cho in lại nhiều lần nhằm mục đích truyền bá giáo lý của đức Phật đến ngƣời Tây Phƣơng khắp nơi trên thế giới.

Cuốn sách cũng đã đƣợc dịch ra ít nhất 20 ngôn ngữ của các nƣớc Á và Âu Châu nhƣ Ấn Độ, Tích Lan, Pháp, Đức, Nga, Ý Đại Lợi và Tây Ban Nha v.v… Hơn nữa, tác phẩm trên không những khoảng 90 năm trƣớc đây (1897) mà ngay cả hiện

nay, nó vẫn còn đƣợc dùng làm tài liệu căn bản để dạy Phật Pháp bằng Anh văn cho đa số học sinh, sinh viên và chƣ Tăng tại hàng trăm trƣờng trung, đại học

Phật giáo cũng nhƣ các chùa, Phật học viện ở Tích Lan, Ấn Độ, Mã Lai, Tân Gia Ba, và nhiều quốc gia Á Châu khác.

Vì nhận thấy lợi ích thiết thực nhƣ thế, nên lần đầu tiên, chúng tôi cố gắng dịch

tập sách này ra tiếng Việt, mong đóng góp phần nhỏ vào kho tàng văn hóa Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại; cũng nhƣ để giúp cho các Phật tử, nhất là giới trẻ thanh, thiếu niên Việt Nam tại Hoa Kỳ, cùng các quốc gia Úc và Âu Châu có thêm

tài liệu Phật Giáo bằng song ngữ Anh-Việt để tiện bề nghiên cứu. Chúng tôi dịch xong cuốn sách từ mùa hè năm 1986, nhƣng vì thiếu nhân duyên nên đến nay,

nó mới đƣợc in ra để gởi đến quý vị.

Chúng tôi cũng xin thƣa, ngạn ngữ Pháp có câu: ”Dịch là phản bội” (Traduire c’est trahir), nhất là dịch sách Phật giáo, chứa đựng triết lý thâm sâu lại đầy dẫy những thuật ngữ tiếng Pali và Sanskrit (Phạn) khó hiểu; cho nên, mặc dù đã hết

sức tra cứu trong hoàn cảnh thiếu thốn tự điển về danh từ Phật học bằng tiếng Việt-Pali-Sanskrit nhƣ hiện nay tại hải ngoại, chúng tôi chắc chắn sẽ không tránh

khỏi có những lỗi lầm, sơ sót.

Chúng tôi mong dịch làm sao vừa sát nghĩa câu văn của nguyên bản, vừa lột hết ý của tác giả đƣợc chừng nào hay chừng ấy, để quý độc giả khi đọc không thấy

đó là bản dịch. Có những trƣờng hợp, vì muốn đƣợc rõ nghĩa, nên chúng tôi đã phải thêm vào sau câu văn dịch vài chữ đặt trong hai dấu ngoặc. Hầu hết các danh từ Phật giáo về triết lý, nhân hoặc địa danh tiếng Pali và Sanskrit (Phạn),

Page 4: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

chúng tôi đều dịch ra Việt ngữ, và có ghi kèm sau cả những tiếng Pali, Sanskrit

đó để giúp quý độc giả tiện bề tra cứu.

Riêng bản Phụ Lục (Appendix) phần sau cuốn sách này, chúng tôi chỉ dịch “Mƣời bốn (14) điều Tin Tƣởng Căn Bản của Phật Giáo” ở trên mà thôi; còn đoạn dƣới

liệt kê danh tánh của quý Chƣ Tăng, Phật tử đại diện những phái đoàn các nƣớc đến tham dự đại hội Phật giáo tổ chức tại Adyar, Madras (Ấn độ) vào tháng 01

năm 1891, (trang 92, 93, và 94), chúng tôi đã không dịch vì nhận thấy không mấy cần thiết.

Tiện đây, chúng tôi xin chân thành cám ơn Thƣợng Tọa Thích Đức Niệm, Giám Đốc Phật Học Viện Quốc Tế đã hết lòng khích lệ, góp nhiều ý kiến bổ ích, và nhất

là giúp đỡ chúng tôi phƣơng tiện để ấn hành dịch phẩm này.

Sau cùng, chúng tôi kính mong quý chƣ tôn, thiền đức; pháp hữu ân nhân cùng các bậc cao minh thức giả sẽ vui lòng bổ chính cho những sai lầm, thiếu sót, nếu

có; để nhờ đó, sau này cuốn sách sẽ đƣợc hoàn chỉnh, đầy đủ hơn trong kỳ tái bản.

Hoa Kỳ, mùa Vu Lan 2531 (1987)

THÍCH TRÍ CHƠN

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA TÁC GIẢ HENRY STEEL OLCOTT

H.S. Olcott sinh ngày 02-08-1832 tại quận Orange, tiểu bang New Jersey ( Hoa

Kỳ). Là một học giả Phật giáo uyên thâm và ký giả tài ba, ông từng phục vụ với chức Đại tá trong quân lực Hoa Kỳ. Năm 1875, ông gặp bà H.P. Blavatsky (1831-1891) một Phật tử ngƣời Nga tại nông trại anh em ông Eddy ở Chittenden (New

York).Đây là cuộc hội ngộ lịch sử vì từ đó, dƣới sự hƣớng dẫn của bà Blavatsky, đại tá Olcott đã hiểu biết Phật giáo. Cũng trong năm 1875, cả hai ngƣời hợp tác

thành lập Hội Thông Thiên Học (Theosophical Society) tại New York.

Nhằm mục đích chấn hƣng chánh pháp đang suy đồi tại Tích Lan gây nên bởi chính sách ngƣợc đãi Phật giáo của các chính quyền thực dân Thiên Chúa Giáo Bồ

Đào Nha (1505-1658), Hòa Lan (1658-1796) và Anh Quốc (1796-1947) trong suốt gần 4 thế kỷ; ngày 17-05-1880 bà Blavatsky cùng đại tá Olcott đến Galle, một hải cảng miền Tây nam Tích Lan, với sự tiếp đón nồng nhiệt của hàng ngàn

dân chúng địa phƣơng. Tuần sau, sáng ngày 25-05-1880, cả hai đã phát nguyện đi theo con đƣờng giác ngộ của Đức Phật, và xin thọ trì tam quy ngũ giới với

Thƣợng Tọa Bulatgama tại chùa Wijayananda. Buổi lễ đã gây xúc động cho hàng ngàn chƣ Tăng và Phật tử hiện diện, vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, lễ quy y cho ngƣời Phật tử Âu Mỹ (da trắng) đƣợc tổ chức tại Tích Lan.

Vào lúc ấy, Olcott trình bày ý kiến cho cấp lãnh đạo Phật giáo Tích Lan biết rằng

muốn chấn hƣng, phát huy chánh pháp tại xứ này để chống lại những hoạt động đàn áp, kỳ thị của chính quyền và các tổ chức Thiên Chúa giáo, việc trƣớc tiên

cần làm là nên mở các trƣờng Phật giáo dùng Anh Văn làm chuyển ngữ, để dạy

Page 5: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

dỗ cho các trẻ em Tích Lan. Với sự ủng hộ đắc lực của giáo hội Tăng già và nhiều

cƣ sĩ Phật tử lãnh đạo, ngày 17-06-1880, ông đứng ra thành lập đầu tiên hội Phật giáo Thông Thiên Học (The Buddhist Theosophical Society) và sau này hội

đã phát triển xây dựng đƣợc 7 chi nhánh khắp nơi trong nƣớc. Mục đích chính của hội nhằm kết hợp các công nhân Phật tử không phân biệt giai cấp hay chức vị, thành một khối thống nhất để góp phần tích cực trong việc thiết lập các

trƣờng học Phật giáo và giúp đỡ hàng dân chúng Phật tử nghèo địa phƣơng.

Khi Olcott mới đến Tích Lan, khắp toàn quốc không có một trƣờng học Phật giáo nào dạy tiếng Anh nhận đƣợc sự tài trợ của chính phủ. Trong khi đó, các đoàn

truyền giáo Thiên Chúa gồm cả Giáo hội La Mã, với sự giúp đỡ của chính quyền, họ xây dựng đƣợc tất cả 800 trƣờng học. Để ngăn chận không cho Phật giáo thiết

lập cơ sở giáo dục, giới hữu trách bấy giờ đã ban hành nhiều luật lệ khắt khe nhƣ muốn mở trƣờng phải có giấy phép của vị thống đốc (Governor) chính quyền Anh cấp và “không trƣờng nào hội đủ điều kiện nhận sự giúp đỡ của chính phủ, trừ

phi trƣờng đó mỗi ngày vào giờ đầu có giảng dạy Kinh Thánh” (No school was eligible for grants of aid from the government unless it devoted the first hour of

the day to the teaching of the Bible).

Vào những năm 1880 và 1882, Olcott cùng với thanh niên David Hewanitarne (sau này là cố Đại Đức Angarika Dharmapala: 1864-1933) làm thông dịch, đã dùng xe bò hoặc đi bộ từ làng này qua làng kia khắp thôn quê để thuyết giảng

kêu gọi mọi ngƣời quay về theo giáo lý của đức Phật; và cổ động quần chúng đóng góp gây quỹ kiến thiết các trƣờng học Phật giáo. Do nỗ lực này của ông, hội

Phật giáo Thông Thiên Học nói trên, năm 1897 đã thành lập đƣợc 25 trƣờng nam, 11 trƣờng nữ và 10 trƣờng nam lẫn nữ. Đến năm 1903, Hội xây dựng đƣợc 174 trƣờng với khoảng 30,000 học sinh, và năm 1940 khắp toàn quốc số các trƣờng

tăng lên tới 429 trong đó có 12 trƣờng Trung Học. Hiện nay các trƣờng này đều do chính phủ kiểm soát và tài trợ.

Không những chỉ có ở Tích Lan mà đại tá Olcott còn vận động hô hào thành lập

các trƣờng học Phật giáo tại nhiều quốc gia khác nhƣ Nhật Bản, Thái Lan, Miến Điện và Ấn Độ. Ngoài ra, để giúp Giáo hội Phật giáo Tích Lan có nơi diễn đàn nói

lên tiếng nói của mình trong cộng đồng Phật tử, nhất là đối với dƣ luận quần chúng khi bị chính quyền Thiên Chúa đàn áp, Olcott đã khuyến khích hội Phật giáo Thông Thiên Học vào tháng 12 năm 1880 cho ra tờ “Sarasavi Sandarasa”

mà về sau nó biến thành tạp chí tiếng Anh “The Buddhists” (Phật tử) do Hội “Thanh niên Phật giáo” (Young Men’s Buddhist Association) xuất bản hàng tháng

và hiện nay vẫn còn tiếp tục.

Giữa lúc mọi ngƣời Châu Âu sống hoàn toàn cách biệt với dân bản xứ, đạo hữu Olcott đứng trong hàng ngũ của đại đa số chƣ Tăng và quần chúng Phật tử Tích Lan bị đàn áp, ông sang Anh quốc đại diện cho họ, nhiều lần tranh đấu để giành

lại quyền lợi cho Phật giáo tại xứ này. Kết quả là năm 1885, lần đầu tiên ngày lễ Phật Đản Rằm tháng 04 – Vesak ( khoảng tháng 05 dƣơng lịch) đƣợc chính

quyền thực dân Anh công nhận nhƣ ngày lễ công cộng (public day) mà trƣớc kia điều này chỉ đặc ân dành cho các ngày lễ của Thiên Chúa Giáo.

Năm 1889, cùng với Thƣợng Tọa H. Sumangala (Tích Lan), đại tá Olcott phỏng

theo 6 màu hào quang của đức Phật (xanh, vàng, đỏ, trắng, da cam và màu tổng hợp của 5 màu vừa kể) đã phát họa mẫu cờ Phật giáo mà ý nghĩa theo lời ông phát biểu “Nó có thể đƣợc tất cả các nƣớc Phật giáo chấp nhận nhƣ một biểu

tƣợng quốc tế cho tín ngƣỡng của họ, giống nhƣ cây thánh giá đối với những tín

Page 6: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

đồ đạo Thiên Chúa” (The flag which could be adopted by all Buddhist nations as

the Universal symbol of their faith, thus serving the same purpose as the cross does for all Christians). Lá cờ này đã đƣợc treo lần đầu tiên ở các chùa Tích Lan,

vào dịp lễ Phật đản năm đó (1889) và 61 năm sau, nó đƣợc chính thức công nhận làm cờ Phật giáo thế giới tại đại hội Phật giáo Quốc Tế tổ chức họp ở Colombo (thủ đô Tích Lan) năm 1950. Hiện nay lá cờ đƣợc gần 80 quốc gia sử

dụng trong các ngày lễ Phật giáo trên toàn thế giới.

Đại tá Olcott cũng góp phần vào công cuộc phát triển chấn hƣng Phật giáo tại nhiều nƣớc Âu và Á châu khác. Năm 1885, đại tá đầu tiên sang thăm, thuyết

giảng nhiều nơi công cộng tại Miến Điện (Burma); và trƣớc khi rời xứ này, ông đã thành lập ở Ngƣỡng Quang (Rangoon) 3 chi nhánh của Hội Thông Thiên Học cho

3 đoàn thể Phật giáo, Ấn Độ giáo và ngƣời Châu Âu. Ông cũng đã 2 lần sang viếng thăm Nhật Bản. Lần đầu năm 1888, ông đi khắp nơi thuyết trình ít nhất 70 bài giảng tại các chùa, trung tâm, hội đoàn Phật giáo Nhật trong vòng 3 tháng

với tổng số khoảng 187,000 ngƣời đến dự thính. Lần thứ 2, ông thực hiện đƣợc một công tác quan trọng là đã mang lại sự hòa hợp, đoàn kết giữa các tông phái

Phật giáo của Đại Thừa (Bắc tông) Nhật Bản, Đại Hàn (Korea), Trung Hoa, Tây tạng v.v…với Tiểu Thừa (Nam tông) Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan và Lào quốc (Laos) v.v... bằng cách dẫn chứng, nêu lên những giáo lý căn bản tƣơng

đồng giữa các tông phái Phật giáo nói trên.

Năm 1886, ông thành lập tại thị trấn Adyar, tiểu bang Tamil Nadu (miền Nam Ấn) một thƣ viện lớn, nơi hiện lƣu giữ nhiều kinh sách giá trị về Phật giáo và các tôn

giáo khác trong đó có khoảng 17,584 tác phẩm chép bằng tay trên lá bối. Ngày nay, đa số học giả Ấn Độ và Tây Phƣơng thƣờng đến đây để sƣu tập những tài liệu rất hiếm về các tôn giáo lớn trên thế giới. Đại tá Olcott mất tại Adyar (Ấn độ)

ngày 17-02-1907, để lại các tác phẩm:

1.The Buddhist Catechism (Phật Giáo Vấn Đáp), xuất bản đầu tiên năm 1881;

2. Old Diary Leaves (Những trang nhật ký cũ) gồm 6 tập (1928-1935).

THÍCH TRÍ CHƠN

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. “Buddhism in Ceylon”, Its Past and Present by H. R. Perera, Kandy, Sri Lanka, 1960.

2. ”The Buddhist Revival in the 19th Century” by Olcott Gunasekera in DIAMOND

JUBILEE 2462-2522 (All Ceylon Buddhist Congress), Colombo, Sri Lanka.

3. “The Betrayal Of Buddhism”: An abridged Version of the Report of the Buddhist Committee of Inquiry 2499/1956, Colombo, Sri Lanka.

Page 7: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

4. “Anagara Dharmapala – His Life and Personality” by Andrew Scott in THE

MAHA BODHI, Vol.75, Nos.10-11 (1967), Calcutta, India.

5. “Colonel H. Steel Olcott – An American loved by Asians” by Dr. Buddhadassa P. Kirthisinghe in THE MAHA BODHI, Vaisakha Number, Vol. 83, Nos. 4-5 (1975),

Calcutta, India.

6. “The Medieval History of Buddhism in Sri Lanka” by N.A. Jayawickrama in BUDDHA MARGA, Vesak Annual, Colombo, Sri Lanka, 1980.

LỜI ĐỀ TẶNG

Để tỏ lòng kính mến, tôi xin tặng cuốn “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist

Catechism), đã đƣợc tu chỉnh này, đến bậc đạo sƣ và là bạn của tôi trong nhiều năm qua, Trƣởng Lão Hikkaduwe Sumangala, trụ trì ngôi chùa trên đồi Adam

(Sripada), cùng lãnh đạo Phật giáo khu vực miền Tây (Tích Lan).

H. S. Olcott Adyar, 1903

GIẤY CHỨNG NHẬN

LẦN XUẤT BẢN ĐẦU TIÊN

Đại Học Vidyodaya, Colombo, ngày 07-07-1881

Tôi chứng nhận rằng, tôi đã duyệt xét kỹ lƣỡng bản dịch tiếng Tích Lan

(Sinhalese) cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp do Đại tá H.S Olcott biên soạn, và nó phù hợp với kinh điển của giáo lý Phật giáo Nam Tông. Tôi xin giới thiệu tác phẩm đến những giáo sƣ tại các trƣờng Phật giáo, và với tất cả độc giả nào muốn

phổ biến giáo lý đến hạng ngƣời mới bắt đầu, những đặc điểm căn bản về tôn giáo của chúng ta.

H.SUMANGALA

Viện Trƣởng Đại Học Vidyodaya, Pirivena.

Đại Học Vidyodaya,

Ngày 07-04-1897

Tôi đã duyệt xét ấn bản tiếng Anh lần thứ 33 của cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp, với sự giúp đỡ của các nhà phiên dịch, và xác nhận sự giới thiệu cho việc dùng nó

tại các trƣờng Phật giáo.

H. SUMANGALA

Page 8: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

ĐỀ TỰA

LẦN XUẤT BẢN THỨ BA MƯƠI BA

Trong việc sửa soạn lại bản chính, tôi đã thêm nhiều câu hỏi và trả lời vào nguyên bản của cuốn Phật Giáo Vấn Đáp trong mỗi lần tái bản bằng Anh Văn, để

tùy ý các dịch giả dịch cuốn sách ra bất cứ tiếng bản xứ khác nào mà nó có thể dịch đƣợc. Mục đích khiêm tốn này là nhằm trình bày sự tóm tắt ngắn gọn,

nhƣng bao quát về lịch sử, đạo đức và triết học Phật giáo để những ngƣời mới bắt đầu có thể thấu hiểu và lãnh hội đƣợc giáo pháp cao siêu mà Đức Phật đã dạy, cũng nhƣ giúp họ dễ dàng hơn trong sự học hỏi chi tiết giáo lý đó. Trong

bản in lần này, một số lớn câu hỏi và trả lời mới đƣợc thêm vào, trong khi đó nội dung đƣợc phân chia thành nhóm theo 5 tiết mục: 1) Cuộc đời của đức Phật; 2)

Giáo lý; 3) Tăng già; 4) Tóm lƣợc lịch sử Phật giáo, các đại hội kiết tập, và sự truyền bá của nó; 5) Sự hòa hợp giữa Phật giáo và khoa học.

Điều này, tôi tin tƣởng rằng sẽ làm tăng thêm lớn lao giá trị của tập sách nhỏ, và

khiến nó thích hợp hơn để dùng tại các trƣờng Phật giáo, trong đó ở Tích Lan, hơn 100 trƣờng đã đƣợc dân chúng Tích Lan mở ra, dƣới sự giám sát tổng quát của Hội Thông Thiên Học. Sửa soạn lần tái bản này, tôi đã nhận sự giúp đỡ quý

báu của vài ngƣời bạn đồng nghiệp Tích Lan thâm niên và đủ tƣ cách nhất.

Bản chính đã đƣợc duyệt xét lại cùng với tôi từng chữ bởi vị Tỳ kheo (bhikkhu) kiêm học giả H, Sumangala và vị Phó Viện Trƣởng trƣờng Đại Học Pali ở Tích Lan,

ông Heyantuduve Anunayaka Terunanse; và Thƣợng Tọa (Sumangala) cũng đã hoan hỷ xem lại kỹ luỡng sự hiệu chính này và cho tôi nhiều ý kiến vô giá. Cho nên, nó có giá trị của sự trình bày đứng đắn về Phật giáo thuộc “Nam Tông” thu

nhận cốt yếu từ những tài liệu trực tiếp. Cuốn Phật Giáo Vấn Đáp này đã đƣợc xuất bản đến 20 thứ tiếng, chính bởi những ngƣời Phật tử và cho các Phật tử.

H. S. Olcott

Adyar, ngày 17-05-1897

ĐỀ TỰA LẦN XUẤT BẢN THỨ BA MƯƠI SÁU

Sự phổ biến của tập sách nhỏ này dƣờng nhƣ không sút giảm, lần xuất bản này

tiếp theo lần tái bản khác đã đƣợc đòi hỏi. Trong lúc ấn bản hiện nay đang in, thì bản in tiếng Đức lần thứ hai, dịch lại bởi nhà học giả Dr. Erich Bischoff đƣợc phát

hành tại Leipzig do nhà xuất bản Griebens Co., và bản dịch Pháp ngữ lần thứ ba bởi ngƣời bạn và đồng nghiệp của tôi, thiếu tá D.A. Courmes, đã có sẵn sàng tại Ba Lê (Paris). Bản dịch mới tiếng Tích Lan cũng đang sửa soạn tại Colombo. Thật

là điều rất hài lòng đối với một Phật tử công khai nhƣ tôi để đọc, thấy điều quá chân thành của một học giả nhƣ ông G. R. S. Mead, tác giả cuốn “Fragments of a

Faith Forgotten”, “Pistis Sophia”, và nhiều tác phẩm khác về nguồn gốc Thiên Chúa, chú ý đến giá trị của sự biên soạn (cuốn Phật Giáo Vấn Đáp). Ông ta đã viết trong tạp chí Thông Thiên Học: “Tác phẩm đã đƣợc dịch ra hơn 20 thứ tiếng

khác nhau, và có thể nói mà không có gì quá đáng mâu thuẫn, là công cụ tích

Page 9: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

cực nhất trong việc truyền bá Phật giáo cho thời gian nhiều ngày trong biên niên

sử của nền giáo pháp mơ màng dài lâu đó. Ít nhất, các Phật tử Tích Lan có thể đền trả món nợ của lòng tri ân mà họ đã mang ơn Đại Tá Olcott cùng những

thành viên khác của Hội Thông Thiên Học đã phục vụ cho ngƣời Tích Lan, và vƣơn lên để làm rạng rỡ cho chính nguồn gốc và đạo giáo của họ”.

Nhƣ thế, công tác tiếp tục, và nhờ ở cơ quan khiêm tốn này, những lời dạy của

Phật Pháp đang đƣợc truyền bá trên khắp thế giới.

H.S. Olcott

Adyar, ngày 07-02-1903

ĐỀ TỰA LẦN XUẤT BẢN THỨ BỐN MƯƠI

Tính cách đại chúng của tập sách nhỏ này đƣợc chứng tỏ qua sự không ngừng đòi

hỏi những lần tái bản bằng Anh văn và các ngôn ngữ khác. Nhìn vào nội dung của lần xuất bản hiện nay, tôi thấy rất ít có sự thay đổi hoặc bổ túc thêm vào, vì

tác phẩm chứng tỏ sự trình bày một ý kiến rất chính xác về nội dung của nền Phật giáo Nam Tông; và nhƣ mục đích của tôi là không bao giờ viết một bài tiểu luận dài cho vấn đề, tôi kiềm chế sự cám dỗ đi ra ngoài đề trong việc bàn rộng

đến những chi tiết, mặc dù thích thú đối với sinh viên của môn học tôn giáo tỷ giảo, nhƣng vô ích trong việc sắp đặt hợp lý cho sự hƣớng dẫn sơ đẳng.

Bản dịch mới tiếng Tích Lan (lần xuất bản thứ 38) đang sửa soạn do ngƣời bạn

đáng kính của tôi, ông D. B. Jayatilaka. Viện trƣởng trƣờng Đại học Phật giáo Ananda tại Colombo, đã in đƣợc một phần, nhƣng không thể hoàn tất cho đến khi ông ta đƣợc giảm bớt một vài sự thúc bách về thời giờ của ông. Bản dịch

tiếng Tamil (ấn bản lần thứ 41) đã đƣợc thực hiện bởi các nhà lãnh đạo của cộng đồng Panchama tại Madras (Ấn Độ) và sẽ đƣợc phát hành một ngày gần đây.

Bản dịch tiếng Tây Ban Nha (lần xuất bản thứ 39), đang nằm trong tay bạn của tôi, ông Senor Xifre, và bản dịch tiếng Pháp (in đến lần thứ 37) hiện có nơi Thiếu

Tá Courmes.

Tôi sợ chúng tôi sẽ phải chờ đợi lâu về sự giúp đỡ của các nhà sƣ Phật giáo, phần lớn từ những vị trí thức của Tích Lan, ít nhất tôi đã không có thể, trong thời gian 20 năm mật thiết trao đổi để kích động sự nhiệt tâm của họ. Tôi thấy dƣờng nhƣ

luôn luôn không thích hợp cho một ngƣời Hoa kỳ, không uyên bác bao nhiêu, đáng đƣợc cho dân chúng Tích Lan mong chờ, trong việc giúp những ngƣời nầy

dạy Phật Pháp cho các con em của họ; và tôi nghĩ rằng tôi đã nói trong lần xuất bản trƣớc đây, tôi chỉ bằng lòng viết cuốn Phật Giáo Vấn Đáp, sau khi tôi nhận thấy rằng không có một Tỳ kheo nào chịu làm điều đó. Mặc dù chƣa hoàn hảo, ít

ra tôi có thể bảo rằng cuốn sách chứa đựng đƣợc tinh hoa của khoảng 15,000 trang kinh điển Phật giáo mà tôi đã đọc liên hệ đến tác phẩm của tôi.

H.S. Olcott

Adyar, ngày 07-01-1905

Page 10: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

ĐỀ TỰA

LẦN XUẤT BẢN THỨ BỐN MƢƠI HAI

Tác giả tập sách Phật Giáo Vấn Đáp này đã từ giã cõi đời, nhƣng trƣớc khi từ trần, ông ta đã sắp xếp với Thƣợng tọa Sumangala, thực hiện một vài sự sửa chữa nhỏ trong cuốn sách. Những điều nầy đƣợc bổ túc vào ấn bản hiện nay do ý muốn

của Thƣợng Tọa (Sumangala) đã bày tỏ với tôi tại Colombo, tháng 11 năm 1907.

Tôi đã không sửa đổi sự đánh số thứ tự của những câu hỏi, vì nó có thể gây nên sự nhầm lẫn trong lớp học về sự thay đổi các con số, nếu vài học sinh này có

những ấn bản cũ hơn, và vài ngƣời khác lại dùng bản in mới.

ANNIE BESANT Adyar, ngày 17-02-1908

PHẦN I

ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT

1. Hỏi: Bạn theo tôn giáo [1] nào?

Đáp: Phật giáo.

2. Hỏi: Phật giáo là gì?

Đáp: Đó là giáo lý thuyết giảng bởi nhân vật vĩ đại, gọi là Đức Phật.

3. Hỏi: Phải chăng “Phật giáo” là danh xƣng đúng nhất để chỉ cho giáo lý này?

Đáp: Không. Đó là từ ngữ của Tây Phƣong, danh từ thích hợp nhất là Phật

pháp (Buddha Dharma).

4. Hỏi: Một ngƣòi bạn gọi là Phật tử, phải chăng chỉ vì cha mẹ sinh họ ra là Phật tử?

Đáp: Không phải vậy. Phật tử là ngƣòi không những chỉ tin tƣỏng vào Đức

Phật nhƣ bậc Thầy cao cả nhất, tin vào giáo lý do Ngài thuyết giảng và giáo đoàn của các Thánh Tăng (Arhats), mà còn phải hành trì giới luật của Đức Phật trong

đời sống hằng ngày nữa.

Page 11: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

5. Hỏi: Nam Phật tử tại gia gọi là gì?

Đáp: Ƣu Bà Tắc (Upàsaka).

6. Hỏi: Còn nữ Phật tử?

Đáp: Ƣu Bà Di (Upàsikà).

7. Hỏi: Giáo pháp này đƣợc thuyết giảng lần đầu tiên vào lúc nào?

Đáp: Có sự bất đồng ý kiến về niên đại chính xác, nhƣng theo kinh điển Tích Lan vào năm 2513 của năm Kali Yuga hiện nay.

8. Hỏi: Hãy cho biết các niên đại trọng yếu trong sự giáng sinh của vị Giáo chủ?

Đáp: Đức Phật giáng trần dƣới chòm sao Visa, vào ngày thứ ba, tháng 5 năm 2478 (Kali Yuga); Ngài vào rừng tu năm 2506; thành Phật năm 2513; và thoát vòng luân hồi nhập Niết Bàn (Paranirvana) năm 2558 vào lúc 80 tuổi. Mỗi biến cố

này xảy ra vào ngày trăng tròn, cho nên tất cả đều kết hợp cử hành đại lễ vào ngày trăng tròn của tháng Wesak (Vaisakha) vào khoảng tháng 05 dƣơng lịch.

9. Hỏi: Đức Phật có phải là Thƣợng Đế không?

Đáp: Không. Phật giáo dạy rằng không có sự hóa thân của “thần linh”?

10. Hỏi: Phải chăng Đức Phật là một con ngƣời?

Đáp: Vâng! Nhƣng là một ngƣòi giác ngộ, cao siêu và thánh thiện nhất, đã tự mình tu tập trong vô lƣợng kiếp vƣợt hơn các chúng sanh khác, ngoại trừ chƣ Phật trong quá khứ.

11. Hỏi: Trƣớc Đức Phật (Thích Ca) có nhiều vị Phật khác không?

Đáp: Có, điều đó sẽ đƣợc giải thích sau.

12. Hỏi: Tiếng Phật có phải là tên của Ngài không?

Page 12: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Không. Đó là danh từ để chỉ cho một trình độ hoặc trạng thái của tâm

thức, cái tâm sau khi nó đạt tới sự phát triển cùng tột.

13. Hỏi: Trạng thái đó gọi là gì?

Đáp: Giác ngộ (thành Phật) hay ngƣời có trí tuệ hoàn toàn. Tiếng Pali gọi là Sabbannu, đấng có trí tuệ vô cùng tận. Phạn ngữ gọi là Sarvajna.

14. Hỏi: Tên thật của Đức Phật là gì?

Đáp: SIDDHARTHA (Tất Đạt Đa) là tên hoàng tộc của Ngài, và họ của Ngài là GAUTAMA hoặc GOTAMA (Cồ Đàm). Đức Phật là hoàng tử của vƣơng quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) thuộc gia đình danh tiếng Okkaka của thị tộc Thái Dƣơng

(Solar).

15. Hỏi: Thân phụ và thân mẫu của Ngài là ai?

Đáp: Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Maya) gọi là Đại Ma Gia (Maha Maya).

16. Hỏi: Nhà vua trị vì chủng tộc nào?

Đáp: Bộ tộc Thích Ca (Sakya) và giống dân A-ry-a (Aryan) thuộc giai cấp Sát Đế Lợi (Kshattriyas).

17. Hỏi: Vƣơng quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) ở đâu?

Đáp: Tại Ấn Độ, cách xa thành phố Ba La Nại (Benares) 100 dặm về hƣớng

đông bắc, và núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) khoảng 40 dặm. Nó nằm trong vùng Nepal Terai. Vƣơng Quốc này ngày nay không còn nữa.

18. Hỏi: Cạnh con sông nào?

Đáp: Sông Rô-hi-ni (Rohini), nay gọi là Rô-ha-na (Rohana).

19. Hỏi: Xin cho tôi biết Thái Tử Tất Đạt Đa giáng sinh năm nào?

Đáp: Năm 623 trƣớc Tây Lịch.

Page 13: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

20. Hỏi: Địa điểm chính xác ở đâu?

Đáp: Nơi này ngày nay đã đƣợc rõ ràng tìm thấy. Nhân viên khảo cổ của chính phủ Ấn Độ đã khám phá trong khu rừng ở vùng Nepal Terai, một trụ đá do nhà vua Phật tử vĩ đại A Dục (Asoka) cho dựng nên ngay chính tại địa điểm đó.

Ngày xƣa, chỗ nầy đựợc biết là vƣờn Lâm Tỳ Ni (Lumbini).

21. Hỏi: Thái tử có cuộc sống đầy thú vui và huy hoàng nhƣ các hoàng tử khác hay không?

Đáp: Thái tử có đầy đủ; phụ hoàng, vua (Tịnh Phạn) đã xây cất cho thái tử

ba lâu đài gồm có chín, năm, và ba tầng trang hoàng đẹp đẽ, thích hợp với ba mùa ở Ấn Độ, lạnh, nóng và mƣa.

22. Hỏi: Cảnh trí các lâu đài nầy nhƣ thế nào?

Đáp: Xung quanh mỗi lâu đài có vƣờn đầy bông hoa thơm ngát, đẹp đẽ, với

suối nƣớc phun, cây đầy chim hót, và những con công đi chậm rãi trên mặt đất.

23. Hỏi: Thái tử sống có một mình?

Đáp: Không. Năm 16 tuổi, thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara), con gái vua Thiện Giác (Suprabuddha). Nhiều cung nữ đẹp đẽ, giỏi

múa hát, cũng thƣờng xuyên ở bên cạnh để giúp vui cho thái tử.

24. Hỏi: Thái tử đã cƣới vợ bằng cách nào?

Đáp: Theo truyền thống của dòng Sát Đế Lợi (Kshattriya) hay tƣớng quân ngày xƣa, bằng cách chiến thắng các đối thủ trong những trò chơi, cùng tập

luyện sự tinh xảo và anh dũng; cuối cùng nàng Da Du Đà La đƣợc chọn lựa trong số những công chúa trẻ đẹp, đã cùng đi với các thân phụ của họ đến tham dự

cuộc đấu (mela).

25. Hỏi: Sống giữa những lạc thú này làm sao thái tử có thể trở nên ngƣời toàn trí?

Đáp: Bẩm sinh thái tử vốn có nhiều trí tuệ, ngay khi còn nhỏ thái tử tỏ ra đã

hiểu biết tất cả các môn nghệ thuật và khoa học, mà hầu hết không cần phải học. Thái tử có những giáo sƣ tài giỏi nhất, hễ bất cứ điều gì họ dạy, thái tử đều tỏ ra

nhanh chóng hiểu biết.

Page 14: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

26. Hỏi: Phải chăng thái tử đã thành Phật ở trong các lâu đài tráng lệ đó?

Đáp: Không. Thái tử đã từ bỏ tất cả và một mình vào tu trong rừng.

27. Hỏi: Tại sao thái tử đã làm nhƣ vậy?

Đáp: Để Ngài tìm ra nguồn gốc của mọi khổ đau và con đƣờng giải thoát khỏi những khổ đau ấy.

28. Hỏi: Thái tử đã hành động nhƣ thế, phải chăng vì lòng ích kỷ?

Đáp: Không; vì lòng từ bi bao la đối với tất cả chúng sanh khiến Ngài đã hiến

thân cho phúc lợi của họ.

29. Hỏi: Nhƣng làm sao Ngài đã có đƣợc lòng từ bi rộng lớn này?

Đáp: Với sự quyết tâm muốn thành Phật, trải qua nhiều đời nhiều kiếp, thái tử đã tu tập hạnh từ bi đó.

30. Hỏi: Vào lúc ấy thái tử đã từ bỏ những gì?

Đáp: Những lâu đài tráng lệ, sự phú quý xa hoa, thú vui, chỗ nằm êm ấm, y phục đẹp đẽ, thức ăn ngon và sơn hà xã tắc; Ngài từ bỏ ngay cả ngƣời vợ hiền và đứa con độc nhất, La Hầu La (Rahula).

31. Hỏi: Có ai đã hy sinh nhiều nhƣ thế vì lợi ích cho chúng ta không?

Đáp: Không có một ai trong thời đại này của thế giới hiện nay: Chính vì thế mà các Phật tử đã kính yêu Đức Phật, và những Phật tử thuần thành cố gắng mong đƣợc nhƣ Ngài.

32. Hỏi: Nhƣng phải chăng là ít có ngƣời chịu từ bỏ tất cả hạnh phúc thế gian, ngay cả chính sự sống, vì phúc lợi cho đồng bào của họ?

Đáp: Chắc chắn vậy. Nhƣng chúng ta tin rằng đức tánh vị tha và lòng yêu

thƣơng nhân loại này đã đƣợc chứng tỏ qua sự từ bỏ hạnh phúc Niết Bàn của thái tử trong vô lƣợng kiếp trƣớc, khi Ngài sanh làm vị sa môn Xu-Mê-Đa (Sumedha) vào thời đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara): Lúc ấy (nếu) thái tử nhập Niết Bàn,

Page 15: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

thái tử đã không yêu thƣơng nhân loại hơn chính mình. Sự từ bỏ này bao gồm cả

sự tự nguyện của thái tử chịu đựng mọi điều khổ hạnh trong cuộc sống thế gian cho đến khi Ngài thành Phật, vì lợi ích khai thị cho tất cả chúng sanh con đƣờng

giải thoát, và mang lại sự an lạc cho thế giới (nhân loại).

33. Hỏi: Thời gian nào thái tử đã vào tu trong rừng?

Đáp: Vào năm Ngài 29 tuổi.

34. Hỏi: Cuối cùng điều gì đã khiến thái tử quyết định từ bỏ tất cả mọi thứ mà ngƣời đời thƣờng hết sức đắm say để đi vào rừng tu hành?

Đáp: Khi Ngài ngồi trên xe ngựa dạo ra ngoài thành, một vị thiên thần

Deva [2] tạo ra trƣớc mắt thái tử bốn cảnh tƣợng xúc động trong bốn trƣờng hợp khác nhau.

35. Hỏi: Bốn cảnh tƣợng đó gồm những gì?

Đáp: Một ngƣời rất già suy nhƣợc vì tuổi tác, một ngƣời bệnh, một xác ngƣời

chết và một vị Sa Môn tu hành.

36. Hỏi: Chỉ một mình thái tử trông thấy những cảnh này?

Đáp: Không, Xa Nặc (Channa), ngƣòi hầu cận của Ngài cũng trông thấy các

cảnh đó.

37. Hỏi: Tại sao những cảnh này, rất quen thuộc với mọi ngƣời, đã khiến thái tử đi vào rừng tu hành?

Đáp: Chúng ta thƣờng thấy các cảnh đó: Thái tử chƣa từng gặp, nên chúng

đã gây xúc động sâu xa đến tâm hồn Ngài.

38. Hỏi: Tại sao Thái tử đã không nhìn thấy chúng?

Đáp: Khi Thái tử mới sinh các nhà chiêm tinh Bà La Môn đã đoán trƣớc rằng, một ngày nào đó thái tử sẽ từ bỏ sơn hà xã tắc, và (đi tu) thành Phật. Vua cha

(Tịnh Phạn) không muốn vƣơng quốc của mình không có ai thừa kế, đã cẩn thận ngăn ngừa không để cho thái tử thấy bất cứ cảnh tƣợng nào có thể gợi ra trƣớc mắt các cảnh khổ đau, chết chóc của kiếp ngƣời. Ngay cả không một ai đƣợc

phép nói nhắc đến những điều đó với thái tử. Ngài hoàn toàn giống nhƣ một tù

Page 16: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

nhân bị giam giữa những lâu đài và các vƣờn hoa xinh đẹp. Chúng đƣợc bao bọc

bởi các bức tƣờng cao, và bên trong mọi vật đƣợc thiết bày vô cùng mỹ lệ, ngõ hầu thái tử không còn muốn đi ra ngoài để nhìn thấy những cảnh phiền lụy khổ

đau trong cuộc đời.

39. Hỏi: Phải chăng thái tử có từ tâm đến nỗi vua cha sợ rằng Ngài có thể muốn từ bỏ tất cả vì hạnh phúc của thế gian?

Đáp: Vâng; Hình nhƣ thái tử cảm thấy quá từ bi thƣơng xót tất cả chúng

sanh.

40. Hỏi: Ở trong rừng, làm sao thái tử hy vọng tìm hiểu đƣợc nguyên nhân của khổ đau?

Đáp: Bằng cách tránh xa tất cả những điều có thể ngăn cản Ngài suy nghiệm

sâu xa về mọi nguồn gốc của khổ đau và bản thể của con ngƣời.

41. Hỏi: Bằng cách nào thái tử đã vƣợt thoát hoàng cung?

Đáp: Vào một đêm, khi mọi ngƣời say ngủ, thái tử thức giấc, nhìn lần cuối ngƣời vợ hiền và đứa con thơ đang ngủ; Ngài cùng Xa Nặc, cởi ngựa trắng Kiền

Trắc thân yêu, và đi ra cửa cung điện. Chƣ Thiên (Deva) đã làm cho những tên lính gác cổng thành của vua cha ngủ say, để họ không thể nghe tiếng động của

vó ngựa.

42. Hỏi: Nhƣng các cổng thành đều đóng chặt hết phải không?

Đáp: Vâng; nhƣng các Thiên Thần đã mở cửa không một tiếng động nhẹ, và thái tử đã phóng ngựa lao vào đêm tối.

43. Hỏi: Thái tử đi đâu?

Đáp: Đến bờ sông A-nô-ma (Anoma), rất xa thành Ca Tỳ La Vệ.

44. Hỏi: Rồi thái tử đã làm gì?

Đáp: Ngài xuống ngựa, dùng lƣỡi kiếm cắt mớ tóc đẹp, khoác lên mình chiếc y vàng của nhà tu khổ hạnh, trao đồ trang sức và ngựa Kiền Trắc cho Xa Nặc, bảo ông ta mang về cho phụ hoàng.

Page 17: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

45. Hỏi: Rồi thái tử đi đâu?

Đáp: Ngài đi bộ đến thành Vƣơng Xá (Rajagraha), kinh đô của vua Tần Bà Sa La (Bimbisara), xứ Ma Kiệt Đà (Magadha).

46. Hỏi: Tại đây, ai đã đến thăm thái tử?

Đáp: Vua cha và cả triều đình. [3]

46a. Hỏi: Sau đó, thái tử đi đâu?

Đáp: Đến Ƣu Lâu Tần Loa (Uruvela), gần chùa Đại Giác (Maha Bodhi) hiện

nay, ở Bồ Đề Đạo Tràng (Buddha Gaya).

47. Hỏi: Tại sao Thái tử đến đó?

Đáp: Vì trong rừng này có nhiều nhà tu khổ hạnh, rất đạo đức mà thái tử về sau đã trở thành đệ tử của họ, với hy vọng tìm ra chân lý mà Ngài đang tầm cầu.

48. Hỏi: Các đạo sĩ này theo tôn giáo nào?

Đáp: Theo Ấn Độ giáo (Hindu): họ là các vị Bà La Môn – Brahmanas.[4]

49. Hỏi: Họ dạy những gì?

Đáp: Tự hành hạ, dày vò mãnh liệt thân xác để con ngƣời có thể đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn.

50. Hỏi: Phải chăng thái tử đã tìm thấy đúng nhƣ thế?

Đáp: Không; thái tử đã tìm học phƣơng pháp và thực hành theo những cách

tu ép xác của họ, nhƣng Ngài vẫn không tìm ra đƣợc nguồn gốc khổ đau của kiếp ngƣời và con đƣờng dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn.

51. Hỏi: Rồi thái tử đã làm gì?

Page 18: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Ngài đi vào rừng gần Ƣu Lâu Tần Loa (Uruvela), tu thiền định trong 6

năm, thực hành pháp môn ép xác khổ hạnh nhứt.

52. Hỏi: Chỉ có một mình thái tử?

Đáp: Không; có năm ngƣời bạn Bà La Môn cùng tu với Ngài.

53. Hỏi: Các vị đó tên gì?

Đáp: Kiều Trần Nhƣ (Kondanna), Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực Ca Diếp

(Vappa), Ma Ha Nam (Mahànàma), và Ác Bệ (Assaji).

54. Hỏi: Thái tử đã áp dụng phƣơng pháp tu hành nào nhằm khai mở tâm mình để thấu triệt toàn bộ chân lý?

Đáp: Ngài đã tọa thiền, định tâm suy tƣởng đến những vấn đề cao siêu của

cuộc sống, và khép kín nhãn căn và nhỉ căn, những điều có thể làm gián đoạn sự quán sát nội tâm mình.

55. Hỏi: Thái tử đã nhịn ăn?

Đáp: Vâng, suốt trong thời kỳ tu tập. Thái tử ngày càng dùng ít đồ ăn và

thức uống, cho đến khi Ngài mỗi ngày chỉ còn dùng một hột gạo hay hột mè.

56. Hỏi: Phƣơng pháp tu hành này có mang lại cho thái tử sự giác ngộ mà Ngài mong cầu không?

Đáp: Không. Thân hình thái tử ngày càng trở nên gầy yếu và sức khỏe kém

sút dần cho đến một ngày kia, trong lúc thái tử đang chậm rãi đi hành thiền, thình lình Ngài bị kiệt sức, và té xỉu xuống đất bất tỉnh.

57. Hỏi: Các bạn đồng tu với thái tử nghĩ thế nào?

Đáp: Họ tƣởng rằng thái tử đã chết, nhƣng một lát sau, Ngài tỉnh lại.

58. Hỏi: Rồi thái tử làm sao?

Page 19: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Ngài nghĩ rằng sự giác ngộ không bao giờ có thể đạt tới bằng cách

hành hạ xác thân hay nhịn đói, mà chỉ thành tựu đƣợc bằng sự giác ngộ nội tâm. Thái tử vừa thoát chết do sự tuyệt thực mà vẫn không đạt đƣợc trí tuệ hoàn toàn.

Cho nên Ngài quyết định ăn uống trở lại hầu có thể sống lâu ít nhất đến ngày thái tử thành bậc chánh giác.

59. Hỏi: Ai cúng dƣờng thức ăn cho thái tử?

Đáp: Ngài nhận thức ăn ở nàng Tu Xà Đề (Sujata), con gái của nhà quý tộc,

cô ta nhìn thấy thái tử đang ngồi nơi gốc cây đa. Ngài đứng dậy nhận bát sữa cúng dƣờng, xuống tắm ở sông Ni Liên Thuyền (Neranjara), dùng thức ăn xong và đi vào rừng.

60. Hỏi: Thái tử đã làm gì ở đó?

Đáp: Thái tử suy nghĩ để quyết định vào lúc chiều tối, thái tử đi đến cây Bồ đề (Bodhi), nơi hiện nay có chùa Đại Giác (Mahabodhi).

61. Hỏi: Rồi thái tử đã hành động thế nào?

Đáp: Thái tử quyết tâm sẽ không rời khỏi địa điểm này, cho đến khi Ngài

chứng thành đạo quả.

62. Hỏi: Chỗ nào nơi cây Bồ đề thái tử đã ngồi thiền định?

Đáp: Phía xoay về hƣớng đông. [5]

63. Hỏi: Trong đêm đó thái tử đã chứng ngộ những gì?

Đáp: Ngài thấy rõ mọi kiếp trƣớc của mình, nguồn gốc của luân hồi sinh tử,

và con đƣờng diệt trừ hết những dục vọng. Vào lúc bình minh hôm sau, tâm của Ngài đã hoàn toàn chứng Đạo, nhƣ chiếc hoa sen nở trọn đều khắp, và từ nơi Ngài tỏa ra ánh sáng của đạo vô thƣợng, hay Bốn Thánh Đế. Thái tử đã thành

Phật - bậc Giác Ngộ, đấng Toàn Giác (the Sarvajna).

64. Hỏi: Phải chăng sau cùng, thái tử đã khám phá ra nguồn gốc khổ đau của nhân loại?

Đáp: Cuối cùng, Ngài đã tìm thấy. Nhƣ ánh sáng mặt trời ban mai xóa tan

bóng tối của đêm đen, và phát hiện cây cối, ruộng đồng, núi đá, biển cả, sông

Page 20: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

ngòi, thú vật, ngƣời cùng vạn vật; từ nội tâm đức Phật tỏa ra toàn ánh sáng của

Giác Ngộ, và Ngài đã thấy rõ nguyên nhân sự khổ của kiếp ngƣời, cùng con đƣờng giải thoát những khổ đau ấy.

65. Hỏi: Phải chăng Đức Phật đã chiến đấu dữ dội trƣớc khi Ngài đạt tới sự toàn

giác này?

Đáp: Vâng, những cuộc tranh đấu thật mãnh liệt và khủng khiếp. Đức Phật đã chinh phục nơi thân tâm Ngài những ác tính tự nhiên, cùng các ham muốn và

dục vọng của con ngƣời đã gây chƣớng ngại cho sự tìm thấy chân lý của chúng ta. Ngài đã phải chế ngự những ảnh hƣởng xấu của thế giới tội lỗi xung quanh Ngài. Nhƣ một chiến sĩ chiến đấu anh dũng nơi chiến trƣờng chống lại nhiều kẻ thù,

Đức Phật đã chiến thắng nhƣ một anh hùng chinh phục, đạt đƣợc mục đích của Ngài; và sự huyền bí của nỗi khổ đau nhân loại đã đƣợc tìm thấy.

66. Hỏi: Đức Phật áp dụng đạo giác ngộ Ngài đã chứng đƣợc nhƣ thế nào?

Đáp: Nói chung, đầu tiên Đức Phật do dự thuyết giảng giáo lý đó cho mọi

ngƣời.

67. Hỏi: Tại sao?

Đáp: Bởi vì nó quá nhiệm mầu cao siêu. Đức Phật sợ rằng rất ít ngƣời có thể

thấu hiểu đƣợc.

68. Hỏi: Điều gì khiến đức Phật đã thay đổi ý tƣởng này? [6]

Đáp: Đức Phật nghĩ rằng Ngài có trách nhiệm thuyết giảng càng rõ ràng và dễ hiểu càng tốt, điều Ngài đã chứng ngộ, và tin tƣởng chân lý có thể thâm nhập

tâm trí đại chúng tùy theo nghiệp lực của mỗi cá nhân. Đó là con đƣờng giải thoát duy nhất, và Đức Phật thấy rằng mọi ngƣời đều có khả năng đạt tới. Vì vậy, Ngài quyết định bắt đầu giáo hóa cho năm ngƣời bạn cũ mà trƣớc kia họ đã từ

giã Đức Phật khi thấy Ngài chấm dứt lối tu khổ hạnh.

69. Hỏi: Đức Phật gặp những ngƣời này ở đâu?

Đáp: Tại vƣờn Lộc Uyển ở Chƣ Thiên Đọa Xứ (Isipatana), gần thành phố Ba La Nại (Benares).

70. Hỏi: Ngày nay địa điểm này có thể tìm thấy không?

Page 21: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Vâng, một phần di tích của ngôi tháp (stupa) hiện còn tồn tại ngay ở

chỗ đó.

71. Hỏi: Năm ngƣời bạn cũ có sẵn sàng thọ giáo với Đức Phật không?

Đáp: Đầu tiên, họ không chịu nghe, nhƣng khi thấy Đức Phật xuất hiện với tƣớng hảo trang nghiêm, và lời dạy của Ngài hiền hòa và có sức thu hút đến nỗi

sau đó họ quay lại và hết sức chú ý đến Ngài.

72. Hỏi: Bài pháp này gây ảnh hƣởng thế nào đến họ?

Đáp: Vị niên trƣởng, đức Kiều Trần Nhƣ (Kondanna), ngƣời “hiểu biết” (Anna) là vị đầu tiên không còn thành kiến, chịu thọ lãnh giáo pháp của Đức Phật trở

thành đệ tử của Ngài, và chứng đắc quả A La Hán (Arhatship). Bốn vị kia, ít lâu sau cũng theo gƣơng Ngài Kiều Trần Nhƣ.

73. Hỏi: Kế tiếp, Đức Phật đã hóa độ cho ai?

Đáp: Một thanh niên trẻ giàu có, tên Da Xá (Yasa), con của một thƣơng gia

phú quý. Trong vòng 3 tháng, có 60 ngƣời trở thành đệ tử ( xuất gia) của Đức Phật.

74. Hỏi: Ai là nữ đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật?

Đáp: Mẹ và vợ của Da Xá (Yasa).

75. Hỏi: Đức Phật đã làm gì vào lúc đó? [7]

Đáp: Đức Phật gọi các đệ tử của Ngài lại, chỉ giáo đầy đủ, và phái họ đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp của Ngài.

76. Hỏi: Căn bản của giáo lý ấy là gì?

Đáp: Đó là con đƣờng giải thoát dẫn đến đời sống thánh thiện và hành trì

theo những giới luật (Phật chế) mà chúng sẽ đƣợc giải thích sau.

77. Hỏi: Xin cho tôi biết thực hành theo cuộc sống đó, Đức Phật gọi là gì?

Page 22: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Bát Chánh Đạo.

78. Hỏi: Từ ngữ Pali gọi nhƣ thế nào?

Đáp: Ariyo Atthangiko Maggo.

79. Hỏi: Sau đó, Đức Phật đi đâu?

Đáp: Ngài đến Ƣu Lâu Tần Loa (Uruvela).

80.Hỏi: Đức Phật làm gì ở đây?

Đáp: Ngài hóa độ cho ông Ca Diếp (Kashyapa), nhà thông bác trứ danh và là thầy của những tu sĩ (Jatilas), một giáo phái lớn của các tín đồ thờ lửa, tất cả

những ngƣời này đều trở thành môn đệ của Đức Phật.

81. Hỏi: Kế tiếp, vị đại đệ tử của Đức Phật là ai?

Đáp: Vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) của vƣơng quốc Ma Kiệt Đà (Magadha).

82. Hỏi: Vào thời đó, hai vị nào là đệ tử trí tuệ và thân tín bậc nhất của Đức

Phật?

Đáp: Ngài Xá Lợi Phất (Sàriputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna), trƣớc kia họ là môn đồ chính của nhà tu khổ hạnh Sanjaya.

83. Hỏi: Họ nổi tiếng về những điều gì?

Đáp: Ngài Xá Lợi Phất với trí tuệ (Prajna) bậc nhất, và đức Mục Kiền Liên, có

thần thông (Iddhi) đệ nhất.

84. Hỏi: Những thần thông này có gì huyền bí không?

Đáp: Không, đó là điều tự nhiên đối với mọi ngƣời, và ngƣời nào chuyên tu tập, đều có thể đạt tới.

Page 23: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

85. Hỏi: Sau ngày xuất gia, Đức Phật có nhận đƣợc tin tức gì của gia đình hoàng

tộc không?

Đáp: Có, khoảng 7 năm sau, trong lúc Đức Phật trú tại thành Vƣơng Xá, vua cha Tịnh Phạn (Suddhodana), đã gửi sứ thần đến triệu thỉnh Ngài trở về thăm

phụ hoàng, trƣớc khi nhà vua băng hà.

86. Hỏi: Đức Phật có trở về không?

Đáp: Có. Vua cha cùng với thân tộc và các triều thần rất vui mừng ra gặp và nghênh đón Ngài.

87. Hỏi: Đức Phật có bằng lòng nhận lại chức vị cũ của Ngài không?

Đáp: Không, Đức Phật đã hiền từ giải thích cho phụ hoàng biết rằng thái tử Tất Đạt Đa đã giải thoát khỏi cuộc sống (thế tục) và nhƣ thế, hiện nay đã trở thành địa vị của một Đức Phật; mà mọi ngƣời đều có thể gần gũi, thân thích với

Ngài. Thay vì cai trị một bộ tộc hay quốc gia, nhƣ một nhà vua thế gian, đức Phật dùng giáo pháp (Dharma) đã cảm hóa tâm hồn tất cả mọi ngƣời trở thành

đệ tử của Ngài.

88. Hỏi: Đức Phật có gặp nàng Da Du Đà La (Yasodhara) và con của Ngài là La Hầu La không?

Đáp: Có. Vợ của Ngài đã hết sức nhớ thƣơng, khóc lóc thảm thiết. Nàng

cũng bảo La Hầu La thỉnh cầu Ngài ban cho mình quyền thừa kế Ngài, nhƣ con của một vị quốc vƣơng.

89. Hỏi: Rồi sự việc xảy ra nhƣ thế nào?

Đáp: Đức Phật đã thuyết giảng giáo pháp cho từng ngƣời và tất cả, nhằm

chữa lành mọi thứ phiền não. Vua cha, con, vợ, ngài A Nan (em con chú), Đề Bà Đạt Đa (em con chú, và anh rể của Ngài), tất cả đều quy y, trở thành môn đồ của Đức Phật. Hai vị đệ tử bác học khác là ngài A Na Luật (Anuruddha), sau này

trở thành bậc đại thiên nhãn; và ngài Ƣu Bà Ly (Upali), thợ cạo tóc, sau thành vị trì luật (Vinaya) đệ nhất. Cả hai ngài đều rất nổi danh.

90. Hỏi: Vị Tỳ Kheo Ni (Bhikkhuni) đầu tiên là ai?

Đáp: Bà Ba Xà Ba Đề (Prajàpati) là dì và di mẫu của thái tử Tất Đạt Đa. Nhờ

bà, nàng Da Du Đà La và nhiều phu nhân khác đƣợc Đức Phật thu nhận làm nữ đệ tử xuất gia tức là Tỳ Kheo Ni.

Page 24: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

91. Hỏi: Việc xuất gia của thái tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn; Đề Bà Đạt Đa,

cháu của vua; Da Du Đà La, dâu của vua; và La Hầu La, cháu nội của vua; đã gây nên hậu quả nhƣ thế nào đối với nhà vua?

Đáp: Việc đó làm cho vua Tịnh Phạn rất buồn, và nhà vua đã phiền trách Đức

Phật, khiến Ngài phải chế ra điều luật là giáo hội không nên nhận ngƣời xuất gia, mà không có sự bằng lòng của cha mẹ họ đang còn sống.

92. Hỏi: Xin cho tôi biết về số phận của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) nhƣ thế nào?

Đáp: Đề Bà Đạt Đa là ngƣời rất thông minh, và nhanh chóng liễu Đạo, nhƣng

cũng có nhiều tham vọng, nên ông ta đã sanh tâm đố kỵ và oán thù Đức Phật; cuối cùng Đề Bà đã âm mƣu sát hại Ngài. Cũng do sự xúi giục của ông ta, vua A

Xà Thế (Ajàtashatru), con vua Tần Bà Sa La, đã giết hại ngƣời cha cao quý của mình, và trở thành đệ tử của Đề Bà Đạt Đa.

93. Hỏi: Đề Bà có gây tổn hại gì cho Đức Phật không?

Đáp: Không đƣợc, nhƣng ác tâm của Đề Bà Đạt Đa âm mƣu chống Đức Phật

trở lại hại chính ông ta; và Đề Bà đã phải (chịu quả báo) chết một cách thảm khốc.

94. Hỏi: Đức Phật đã đi giáo hóa trong bao nhiêu năm?

Đáp: Bốn mƣơi lăm năm, trong thời gian này, Ngài đã thuyết rất nhiều bài

pháp. Thói thƣờng Đức Phật và đệ tử của Ngài đi du hóa và thuyết giảng trong 8 tháng nắng, nhƣng vào mùa an cƣ (Was)- mùa mƣa - đức Phật và các đệ tử dừng nghỉ, nhập hạ ở các tịnh xá (pansulas) hay chùa (vihàras), đƣợc xây cất

dâng cúng (cho Ngài và Chƣ Tăng) bởi những vị vua chúa và thí chủ giàu có.

95. Hỏi: Những tịnh xá nào danh tiếng nhất?

Đáp: Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetàvanàràma), Trúc Lâm Tịnh Xá (Veluvanàràma),

Bổ La Phạ Tịnh Xá (Pubbàràma), Ni Câu Đà Tịnh Xá (Nigrodhàràma), và Lộc Dã Uyển Tịnh Xá (Isipatanàràma).

96. Hỏi: Hạng ngƣời nào đã quy y Đức Phật và đệ tử của Ngài?

Page 25: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Dân chúng đủ mọi tầng lớp, quốc gia, giai cấp, vua chúa (ràjas), và

công nhân giàu nghèo, quyền thế cũng nhƣ bình dân, ngu dốt và thông minh nhất. Giáo pháp của Đức Phật phù hợp với tất cả mọi ngƣời.

97. Hỏi: Đức Phật đã nhập diệt vào lúc nào?

Đáp: Vào năm thứ 45, sau khi Ngài chứng đạo Giác ngộ vào ngày trăng tròn

tháng 5. Nhận biết rằng ngày viên tịch gần kề, vào buổi tối, Đức Phật đến thành Câu Thi Na (Kusinàgàra), một nơi cách thành phố Ba La Nại (Benares) khoảng

120 dặm. Trong rừng cây Sa La của vƣơng quốc Mạt La (Mallas), tại rừng U-ba-vạc-ta-na (Upavartana) ở Câu Thi Na; giữa hai cây Sa La (sala), Đức Phật cho kê chỗ nằm của Ngài, theo phong tục cổ truyền, quay đầu về hƣớng bắc. Ngài nằm

trên đó, với tâm hoàn toàn thanh tịnh, thuyết pháp cho các đệ tử nghe lời di giáo cuối cùng, rồi vĩnh biệt đồ chúng.

98. Hỏi: Những lần du hóa sau cùng đó, Đức Phật có quy y cho đệ tử mới nào

nữa không?

Đáp: Có, một nhân vật trọng yếu, vị đại Bà La Môn bác học tên Tu Bạt Đà La (Subhadra). Đức Phật cũng thuyết pháp cho các vƣơng tôn xứ Mạt La và những

ngƣời hầu cận của họ.

99. Hỏi: Vào lúc tảng sáng việc gì đã xảy ra?

Đáp: Đức Phật nhập đại định (Samàdhi), và rồi Ngài nhập Niết Bàn (Nirvàna).

100. Hỏi: Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài những gì trong lời di huấn cuối cùng?

Đáp: Ngài dạy: “Này các Tỳ Kheo, Nhƣ Lai giờ đây khuyên các con nên ghi nhớ rằng thân thể và năng lực của con ngƣời đều phải hủy diệt. Hãy tinh tấn tu tập để giải thoát”.

101. Hỏi: Những chứng cứ xác thực gì cho chúng ta thấy rằng Đức Phật, thái tử Tất Đạt Đa xƣa kia, là một nhân vật lịch sử?

Đáp: Sự hiện hữu của Ngài đã chứng tỏ quá rõ ràng nhƣ cuộc đời của bất cứ nhân vật nào khác trong cổ sử.

102. Hỏi: Hãy kể ra một vài chứng cớ đó.

Page 26: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: 1) Bằng chứng của những nhân vật đã trực tiếp biết Đức Phật.

2) Sự khám phá ra nhiều nơi và di tích của những kiến trúc (tịnh xá)

đƣợc ghi chép trong các mẩu chuyện vào thời Phật còn tại thế.

3) Những bia ký, trụ đá và bảo tháp (dagobas) do các vua chúa sống gần thời đại Đức Phật xây dựng nên để tƣởng niệm Ngài, đã có thể chứng thực

lịch sử về cuộc đời của đấng Giác Ngộ.

4) Sự liên tục tồn tại của đoàn thể tăng già (Sangha) do Đức Phật thành lập, và sự duy trì của họ về sự thực đời sống của Ngài ngay từ đầu, đã

đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

5) Sự kiện ngay trong năm Đức Phật nhập diệt, và nhiều lần sau đó, các cuộc họp và đại hội Tăng Già đã đƣợc tổ chức để kết tập kinh tạng đƣơng

thời của Đức Phật; và sự truyền thừa những giáo lý đã đƣợc duyệt xét đó, từ các bậc tôn sƣ đến chƣ đệ tử, cho đến ngày nay.

6) Sau khi làm lễ hỏa táng, xá lợi (xƣơng tro) của Đức Phật đƣợc phân chia cho 8 vị vua chúa, và mỗi ngọn tháp (stùpa) đƣợc xây lên để thờ một phần.

Phần xá lợi do vua A Xà Thế thỉnh về tôn trí thờ tại ngôi tháp ở thành Vƣơng Xá (Rajagaha); và không đầy 2 thế kỷ sau, đã đƣợc vua A Dục (Asoka) đem phân

phát để thờ trong toàn khắp vƣơng quốc của ông. Nhà vua, dĩ nhiên, có nhiều điều kiện để biết rõ những xá lợi này đúng là xá lợi của Đức Phật hay không; ngay từ lúc ban đầu, chúng đƣợc bảo trì tại bảo tàng viện hoàng gia ở Pát-Na

(Patna).

7) Nhiều đệ tử của Đức Phật là các bậc A La Hán (Arhats). Và do đó, có thể kiểm soát tuổi thọ của họ, nên đã sống đƣợc nhiều năm; và không tránh khỏi

có hai hoặc ba vị trong số đó, đã sống kế tiếp nhau, vào thời kỳ khoảng giữa Đức Phật nhập diệt và triều đại của vua A Dục. Vì thế, nhà vua có thể nhận đƣợc từ

ngƣời cùng thời, mọi điều chứng thực về sự kiện của đời sống Đức Phật [8]

8) Chúng ta biết, tài liệu cổ sử đáng tin cậy nhất, tập “Đại sử” có ghi chép các biến cố lịch sử Tích-Lan (Sinhalese) về triều đại vua Vijaya, năm 543 trƣớc tây lịch - phần lớn thời kỳ của Đức Phật – và cho chúng ta rõ những điều đặc biệt

nhất về đời sống của Ngài, cũng nhƣ đời sống của vua A Dục và các nhà vua khác liên quan đến lịch sử Phật giáo.

103. Hỏi: Đức Phật đƣợc gọi bằng những danh xƣng tôn kính nào?

Đáp: Thích Ca Mâu Ni (Sàkyamuni), Thích Ca Sƣ Tử (Sàkya-Simha), Thiện

Thệ (Sugata), Đạo Sƣ (Satthạ), Đấu Chiến Thắng (Jina), Bạc Già Phạm (Bhagavat), Thế Tôn (Lokanàtha), Nhất Thiết Trí (Sarvajna), Pháp Vƣơng

(Dharmaràja), Nhƣ Lai (Tathàgata) v.v…

PHẦN II

Page 27: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

GIÁO PHÁP HAY DHARMA

106. Hỏi: Danh từ “Phật” (Buddha) có nghĩa là gì?

Đáp: Bậc Giác Ngộ hay đấng có trí tuệ hoàn toàn.

107. Hỏi: Phải chăng bạn cho rằng có nhiều vị Phật đã ra đời trƣớc Đức Phật (Thích Ca) này?

Đáp: Vâng, chúng tôi tin rằng dƣới sự vận hành của luật nhân quả vĩnh cửu,

cứ khoảng cách một thời gian, một Đức Phật sẽ xuất hiện, khi nhân loại đắm chìm trong khổ đau vì vô minh và cần đến sự giác ngộ, thì hạnh nguyện của Đức Phật là phải ra đời để giáo hóa chúng sanh (xem lại câu hỏi số 11)

108. Hỏi: Bằng cách nào để (một chúng sanh) trở thành một đức Phật.

Đáp: Một ngƣời, khi nghe và gặp một trong các Đức Phật ra đời ở thế gian, liền phát nguyện sống theo Ngài nhƣ vậy, đến một kiếp trong tƣơng lai, khi hành giả thấy nhân duyên thích hợp, họ cũng sẽ thành Phật để hƣớng dẫn nhân loại

thoát vòng sanh tử luân hồi.

109. Hỏi: Hành giả đã hành động nhƣ thế nào?

Đáp: Trải qua nhiều kiếp sống, hành giả nỗ lực diệt trừ lòng tham dục, tu

tập để đạt đến trí tuệ, và phát triển những năng lực cao hơn. Nhờ vậy, hành giả dần dần trở nên thánh thiện, siêu việt hơn trong cá tính, và sâu dầy hơn trong đạo đức cho đến khi, trải qua vô lƣợng kiếp luân hồi, cuối cùng hành giả đạt đến

quả vị Toàn Thiện, Giác Ngộ, Toàn Giác, đấng Tôn Sƣ lý tƣởng của nhân loại.

110. Hỏi: Trong khi trải qua những kiếp tái sinh, sự phát triển dần dần này đang diễn tiến, chúng ta gọi tên hành giả là gì?

Đáp: Bodhisat hay Bodhisattva (Bồ Tát). Nhƣ vậy, thái tử Tất Đạt Đa Cồ

Đàm (Siddhartha Gautama) là một vị Bồ Tát cho đến khi Ngài thành Phật dƣới cây Bồ Đề (Bodhi) thiêng liêng ở Gaya.

111. Hỏi: Chúng ta có tài liệu nào nói về những kiếp tái sinh của Ngài làm Bồ

Tát hay không?

Page 28: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Trong tập Bổn Sanh Kinh (Jàtakat-thakathà), cuốn sách ghi chép

những truyện tiền thân của Bồ Tát, có khoảng vài trăm mẫu chuyện về loại đó.

112. Hỏi: Những mẫu chuyện này dạy bài học gì?

Đáp: Một con ngƣời, trải qua vô lƣợng kiếp luân hồi, có thể mang hạnh nguyện rộng lớn và từ bi, giúp hành giả diệt trừ những ý tƣởng xấu và phát triển

các việc lành.

113. Hỏi: Chúng ta có thể ấn định số lƣợng những kiếp tái sinh mà một vị Bồ Tát cần phải trải qua trƣớc khi Bồ Tát trở thành Phật đƣợc không?

Đáp: Dĩ nhiên là không. Điều đó tùy thuộc đức hạnh của vị Bồ Tát, trình độ

tu chứng mà Ngài đạt tới khi Bồ Tát phát nguyện trở thành Phật, và những điều khác.

114. Hỏi: Chúng ta có cách để phân loại các vị Bồ Tát đƣợc không? Nếu đƣợc

hãy giải thích.

Đáp: Bồ Tát - vị Phật tƣơng lai - đƣợc phân làm 3 hạng.

115. Hỏi: Hãy kể tiếp ba hạng Bồ Tát này là gì?

Đáp: Pannàdhika hay Udghatitajna – “Bậc chứng quả chậm nhất”,

Sadhàdhika hay Vipachitajna – “Bậc chứng quả chậm” và Viryàdhika hay Gneyya - “Bậc chứng quả nhanh chóng”. Bậc Bồ Tát Pannàdhika tu hạnh trí tuệ, bậc Bồ Tát Saddhàdhika tu hạnh Tín, và Bồ Tát Viryàdhika tu hạnh Tinh tấn. Hạng Bồ

Tát thứ nhất đƣợc hƣớng dẫn bởi Trí tuệ,và không vội vàng; hạng thứ hai hoàn toàn đặt ở Đức Tin, nên không chú tâm đến sự hƣớng dẫn của Trí Tuệ; và hạng

thứ ba không bao giờ trì hoãn trong việc làm điều thiện. bất chấp mọi hậu quả xảy đến cho chính mình. Bồ Tát thực hành khi nhận thấy đó là việc lành nhất và cần phải làm.

116. Hỏi: Khi vị Bồ Tát của chúng ta đã thành Phật, Ngài thấy điều gì là nguyên nhân khổ đau của nhân loại? Hãy nói cho tôi biết trong một danh từ.

Đáp: Vô Minh (Avidyà).

117. Hỏi: Bạn có thể cho tôi biết phƣơng thuốc chữa trị không?

Page 29: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Đoạn diệt Vô minh để có Trí tuệ (Pràjna).

118. Hỏi: Tại sao Vô Minh gây nên đau khổ?

Đáp: Bởi vì nó khiến chúng ta tham đắm những điều không đáng đắm say, đau buồn khi chúng ta không nên sầu khổ; nhận cho là chân thực cái điều không phải thực mà chỉ là giả dối; và hƣớng cuộc sống của chúng ta chạy đuổi theo

những đối tƣợng vô giá trị, xao lãng đến điều thực ra là quý giá nhất.

119. Hỏi: Và điều quý giá nhất là gì?

Đáp: Thấu triệt tất cả sự mầu nhiệm của sự sống và định mạng của con ngƣời, để chúng ta ý thức đƣợc rằng cuộc sống này và những tƣơng quan với nó

không hơn giá trị chân thực của chúng; và do đó, chúng ta có thể sống theo con đƣờng đạo để bảo đảm hạnh phúc lớn lao nhất, và sự ít khổ đau nhất cho đồng

loại và chính chúng ta.

120. Hỏi: Ánh sáng gì có thể phá tan Vô Minh và diệt trừ đƣợc mọi phiền não của chúng ta?

Đáp: Sự hiểu biết về “Tứ Diệu Đế” nhƣ Đức Phật đã dạy.

121. Hỏi: Tứ Diệu Đế là gì?

Đáp: 1) Những khổ đau của sự sống tiếp diễn tạo nên vòng sanh tử luân hồi, từ đời này qua đời khác.

2) Nguyên nhân sanh ra sự khổ là do lòng dục vọng ích kỷ, luôn luôn muốn tái diễn nhằm thỏa mãn bản thân mà không bao giờ có thể chấm dứt.

3) Sự diệt trừ lòng ái dục đó, hay tự mình lánh xa nó.

4) Con đƣờng dẫn đến sự chấm dứt dục vọng.

122. Hỏi: Hãy kể cho tôi biết những điều gì gây nên sự khổ.

Đáp: Sanh, lão, bệnh, tử; phải sống xa những vật chúng ta yêu thích; gần gủi những ngƣời ta oán ghét; mong cầu điều mình muốn mà không đƣợc.

123. Hỏi: Những sự khổ này khác biệt nhau nơi từng mỗi cá nhân phải không?

Page 30: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Vâng, nhƣng mọi ngƣời sẽ chịu sự khổ tùy theo mức độ (dục vọng).

124. Hỏi: Làm thế nào chúng ta giải thoát đƣợc những khổ đau tạo nên do lòng ái dục không biết thỏa mãn, và lòng tham mù quáng?

Đáp: Bằng cách chế ngự và đoạn diệt hoàn toàn sự đắm say cuồng nhiệt cuộc sống và những lạc thú của nó, đã gây nên khổ đau.

125. Hỏi: Làm sao chúng ta có thể đạt tới sự chinh phục nhƣ thế?

Đáp: Bằng cách thực hành theo Bát Chánh Đạo mà Đức Phật đã chứng ngộ và chỉ bày (cho chúng ta).

126. Hỏi: Ý bạn muốn nói gì về danh từ đó? Bát Chánh Đạo có nghĩa thế nào?

(từ ngữ Pali xin xem câu hỏi 78).

Đáp: Tám phần của con đƣờng này gọi là angas. Chúng gồm có: 1. Chánh kiến (nhƣ là luật Nhân Quả hay Karma); 2. Chánh tƣ duy; 3. Chánh ngữ; 4. Chánh nghiệp; 5. Chánh mạng; 6. Chánh tinh tấn; 7. Chánh niệm; 8. Chánh định.

Ngƣời nào ghi nhớ và thực hành theo Bát Chánh Đạo này sẽ không còn khổ đau và cuối cùng đạt tới sự giải thoát.

127. Hỏi: Bạn có thể cho một từ ngữ chính xác hơn chữ “salvation” (sự cứu rỗi)

hay không?

Đáp: Vâng, “emancipation” (sự giải thoát).

128. Hỏi: Vậy giải thoát khỏi điều gì?

Đáp: Giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc sống thế gian và vòng sanh tử

luân hồi, mà tất cả đều do vô minh, lòng tham và dục vọng bất chính.

129. Hỏi: Và khi sự cứu rỗi hay giải thoát này đƣợc thành tựu thì chúng ta sẽ đạt tới cảnh giới gì?

Đáp: Niết Bàn (Nirvana).

130. Hỏi: Niết Bàn là gì?

Page 31: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Trạng thái của sự chấm dứt hoàn toàn mọi sự đổi thay (vô thƣờng),

trạng thái của sự an tịnh tuyệt đối, của sự không còn dục vọng lừa dối, và khổ đau; cũng nhƣ sự diệt trừ hoàn toàn mọi thứ tạo thành cơ thể con ngƣời. Trƣớc

khi chứng đắc Niết Bàn, con ngƣời triền miên bị tái sanh; nhƣng khi đạt tới Niết Bàn, con ngƣời không còn luân hồi sanh tử nữa.

131. Hỏi: Ở đâu chúng ta có thể tìm thấy sự thảo luận uyên bác về danh từ Niết

Bàn và một bản kê nhiều từ ngữ khác mà các nhà cựu học giả Pali đã cố gắng giải thích nó?

Đáp: Trong cuốn Tự Điển ngôn ngữ Pali danh tiếng của học giả quá cố, ông R.C.Childers, có một bản giải thích đầy đủ [9]

132. Hỏi: Nhƣng một vài ngƣòi tƣởng tƣợng Niết Bàn nhƣ một cảnh giới ở cõi Trời hay Thiên đƣòng. Phật giáo có dạy nhƣ thế không?

Đáp: Không. Khi đệ tử Ku-ta-đan-ta (Kuta-danta) thỉnh vấn Đức Phật “Niết Bàn ở đâu”, Ngài trả lời rằng “ở nơi nào giới luật đƣợc hành trì”.

133. Hỏi: Nguyên nhân gì đã khiến chúng ta bị luân hồi?

Đáp: Do lòng tham dục ích kỷ không bao giờ thỏa mãn (tiếng Phạn: Trshnà; Pali: Tanhà) những sự vật thuộc hoàn cảnh của đời sống cá nhân trong thế giới

vật chất. Lòng ái dục không biết nhàm chán về cái thân này (bhàva: hữu) là động cơ, và tự nó có năng lực sáng tạo mạnh đến nỗi có thể lôi kéo con ngƣời sanh trở lại vào cuộc sống thế gian.

134.Hỏi: Phải chăng sự luân hồi của chúng ta là do kết quả của lòng ái dục

không biết thỏa mãn của chúng ta?

Đáp: Vâng; và do bởi việc làm thiện hoặc ác của cá nhân chúng ta.

135. Hỏi: Hành động thiện hoặc ác của chúng ta quyết định trạng thái, hoàn

cảnh hay hình thức mà trong đó chúng ta sẽ đầu thai vào phải không?

Đáp: Đúng vậy. Luật (nhân quả) dạy rằng nếu chúng ta làm điều thiện, chúng ta sẽ hƣởng quả lành và hạnh phúc ở kiếp sau; nếu làm việc ác, đời sau chúng ta sẽ chịu (quả báo) khốn cùng và khổ đau.

Page 32: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

136. Hỏi: Yếu điểm của Phật giáo là lý thuyết cho rằng mọi quả báo đều là kết

quả của nguyên nhân hiện tại, phải vậy không?

Đáp: Phải, do nguyên nhân gần hoặc xa.

137. Hỏi: Luật nhân quả này chúng ta gọi là gì?

Đáp: Áp dụng cho mọi cá nhân, gọi là nghiệp (Karma) hay hành động. Nó

có nghĩa là chính mọi hành động hay việc làm của chúng ta sẽ mang lại cho chúng ta bất cứ điều hạnh phúc hay đau khổ mà chúng ta phải chịu.

138. Hỏi: Một ngƣời làm ác có thể thoát khỏi nghiệp báo của họ đƣợc không?

Đáp: Kinh Pháp Cú (Dhammapada) dạy: “Không chỗ nào ở thế gian này,

hoặc trên trời, dƣới biển, hay trốn vào động núi, tránh đƣợc quả ác nghiệp”.

139. Hỏi: Một ngƣời làm việc thiện có thể thoát đƣợc quả báo không?

Đáp: Do kết quả của những hành động lành, một ngƣời có thể đƣợc hƣởng những phƣớc đức (y, chánh báo) về đất nƣớc, thân thể, hoàn cảnh xung quanh

và sự giáo dục trong đời sau của hành giả nhằm tránh khỏi những kết quả của Nghiệp (Karma) xấu và giúp cho sự phát triển (tu hành) cao hơn của họ.

140. Hỏi: Những điều đó đƣợc gọi là gì?

Đáp: Sự tái sanh thuận lợi (Gati Sampatti), hình tƣớng đẹp đẽ (Upàdhi

Sampatti), thời cơ tiện lợi (Kali Sampatti) và phƣơng pháp thành công (Payoga Sampatti).

141. Hỏi: Điều đó có thích hay không thích hợp với ý nghĩa thông thƣờng và

những diễn giải của khoa học hiện đại?

Đáp: Hoàn toàn thích hợp: Không có gì phải nghi ngờ về điều ấy.

142. Hỏi: Phải chăng mọi ngƣời đều có thể trở thành Phật?

Đáp: Theo lệ thƣờng, không phải mọi ngƣời đều trở thành Phật; vì cứ khoảng cách một thời gian lâu dài mới có một vị Phật ra đời, và hình nhƣ khi

hoàn cảnh của nhân loại khẩn thiết mong cầu có một bậc thầy nhƣ thế thị hiện

Page 33: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

để chỉ bày cho chúng sanh con đƣờng Đạo dẫn đến Niết Bàn. Nhƣng mọi ngƣời

đều có khả năng chứng đắc Niết Bàn bằng cách diệt trừ Vô Minh và đạt tới trí tuệ.

143. Hỏi: Phật giáo dạy rằng con ngƣời có thể tái sanh vào thế giới của chúng ta, phải vậy không?

Đáp: Theo luật chung, đúng là nhƣ vậy, cho đến khi hành giả gây nhân đƣợc

sanh vào cảnh giới cao hơn; song những thế giới con ngƣời có thể sanh vào là vô số. Thế giới mà một ngƣời sẽ luân hồi ở kiếp sau, cũng nhƣ bản chất của sự đầu

thai đƣợc quyết định bởi sự ƣu thế của hành động thiện ác của cá nhân đó. Nói cách khác, nó sẽ đƣợc điều khiển bởi dẫn lực của hành giả nhƣ khoa học đã diễn tả; hoặc do bởi Nghiệp lực (Karma) của ngƣời đó theo lối nói của ngƣời Phật tử

chúng ta.

144. Hỏi: Phải chăng có những thế giới hạnh phúc và những thế gìới khác khổ đau hơn thế giới của chúng ta?

Đáp: Phật giáo dạy rằng có nhiều thế giới hệ (Sakwalas) gồm đủ loại, cao

hoặc thấp hơn, và chúng sanh ở mỗi thế giới đều thích ứng với sự phát triển (tu tập) trong thế giới đó.

145. Hỏi: Đức Phật có tóm lƣợc toàn bộ giáo lý của Ngài trong một bài kệ (gatha)

nào không?

Đáp: Có.

146. Hỏi: Hãy đọc bài kệ (tiếng Pali) đó.

Đáp:

Sabba pàpassa Akaranam,

Kusalassaupasampada

Sachitta pariyodapanam:

Etam Buddhànusasanam.

“Chớ làm những điều ác,

Gắng làm các việc lành,

Giữ tâm ý trong sạch:

Ấy, lời chƣ Phật dạy”.

Page 34: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

147. Hỏi: Trong ba câu đầu của bài kệ trên có những đặc điểm gì không?

Đáp: Có: Câu thứ nhứt bao hàm toàn bộ tinh thần của Luật Tạng (Vinaya Pitaka); câu hai, Kinh (Sutta) và câu ba, Luận Tạng (Abhidhamma). Bài kệ chỉ gồm 8 từ ngữ Pali, tuy nhiên nhƣ giọt sƣơng phản chiếu (ánh sáng) của những vì

sao, chúng rạng ngời với tinh thần của toàn bộ giáo pháp của Đức Phật.

148. Hỏi: Những giáo lý trên chứng tỏ Phật giáo là một tôn giáo tích cực hay tiêu cực?

Đáp: “Tránh điều ác” có thể xem nhƣ tiêu cực, nhƣng “nên làm việc lành”,

và “giữ tâm ý trong sạch” là những đức tánh tích cực. Đức Phật dạy rằng chúng ta không những chỉ tránh điều ác mà còn nên làm việc lành.

149. Hỏi: Những ai và điều gì –“Ba Phép Quy Y”- The Three Guides [10] mà

ngƣời Phật tử đƣợc khuyên nên theo.

Đáp: Chúng đƣợc trình bày trong “Ba phép Quy y” (Tisarana): “Tôi quy y Phật; Tôi quy y Pháp; Tôi quy y Tăng”. Ba câu này, thực sự là Phật Pháp (Buddha

Dharma).

150. Hỏi: Ngƣời Phật tử đọc phép Tam Quy này có ý nghĩa gì?

Đáp: Hành giả muốn nói rằng họ tôn kính, xem đức Phật nhƣ một bậc thầy, một Thiện Hữu và một vị Gƣong Mẫu toàn giác; Pháp hay Giáo Lý chứa đựng

những nguyên tắc căn bản, bất biến của sự Công Bằng và Chân Lý, cũng nhƣ con đƣờng dẫn đến sự thể hiện cái tâm an lạc hoàn toàn trên thế gian; và Tăng Già nhƣ những bậc Thầy và ngƣời gƣơng mẫu cho Giáo Pháp cao siêu mà Đức Phật

đã dạy.

151. Hỏi: Phải chăng trong đoàn thể “Tăng Già” có các vị ít tu học và thiếu đạo đức?

Đáp: Vâng, nhƣng Đức Phật dạy rằng chỉ những đệ tử tinh tấn thọ trì giới luật, chế ngự đƣợc tâm của họ, cố gắng đạt tới hay đã thành tựu một trong tám quả thánh và toàn thiện, mới lập thành “Tăng Già” của Ngài. Tƣởng nên ghi nhận

Tăng Già đƣợc nhắc đến trong “phép Tam Quy” (Tisarana) là chỉ cho bậc cao cả đã chứng đắc một trong 8 quả vị toàn giác. Chỉ khoác chiếc y vàng, ngay cả sự

thọ giới, cũng không làm một vị tăng trở nên thanh tịnh hay đạo đức, hoặc họ đáng đƣợc tôn kính.

Page 35: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

152. Hỏi: Vậy thì, ngƣời Phật tử chân chính có nên nhận các tỳ kheo (Bhikkhu)

không có giới đức làm thầy hƣớng dẫn cho mình không?

Đáp: Chắc chắn là không.

153. Hỏi: Năm điều tuân theo hoặc răn cấm, gọi là ngũ giới (Pancha Sila) mà ngƣời Phật tử tại gia nói chung bắt buộc phải thọ trì là những gì?

Đáp: Chúng gồm những giới điều sau đây mà Phật tử thƣờng đọc thuộc lòng tại các chùa (Vihàras):

Tôi nguyện giữ giới không sát sanh.

Tôi nguyện giữ giới không trộm cắp.

Tôi nguyện giữ giới không tà hạnh [11].

Tôi nguyện giữ giới không nói dối.

Tôi nguyện giữ giới không uống rƣợu.

154. Hỏi: Ngƣời sáng suốt khi đọc những giới luật này có ý tƣởng gì?

Đáp: Họ thấy rằng ngƣời nào cẩn trọng giữ gìn chúng sẽ thoát mọi nguyên

nhân khổ đau của kiếp ngƣời. Nếu nghiên cứu lịch sử, chúng ta thấy rằng mọi sự đau khổ tất cả đều phát xuất từ hành động phạm giới này hay giới kia của những

giới cấm trên.

155. Hỏi: Những giới nào mà trí tuệ thấy xa (hậu quả) của Đức Phật, đƣợc chỉ dạy rõ ràng nhất?

Đáp: Giới thứ nhất, thứ ba và năm: Vì hành động sát sanh, tà hạnh và

uống rƣợu; đã gây nên ít nhất 95 phần trăm nỗi khổ đau cho con ngƣời.

156. Hỏi: Ngƣời thọ trì các giới này đƣợc những lợi ích gì?

Đáp: Họ thu nhận phƣớc đức đƣợc nhiều hoặc ít tùy theo phƣơng cách và thời gian của sự giữ giới, và số giới điều họ giữ đƣợc; nghĩa là, nếu chỉ giữ một

giới, còn phạm 4 giới khác họ chỉ nhận đƣợc phƣớc đức của sự thọ trì giới đó; và giới ấy giữ đƣợc càng lâu thì phƣớc đức thu nhận sẽ càng lớn. Nếu ai thọ trì đƣợc

tất cả 5 giới thì đời sau họ sẽ hƣởng một đời sống cao sang và hạnh phúc hơn.

Page 36: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

157. Hỏi: Những giới khác đƣợc xem nhƣ cần thiết cho ngƣời cƣ sĩ phát tâm thọ

trì là gì?

Đáp: Bát giới (Atthanga Sila) gồm 5 giới đã kể trên (dâm dục thay cho tà hạnh ở giới thứ ba) và cộng thêm 3 giới sau:

Tôi nguyện giữ giới không ăn phi thời (quá ngọ).

Tôi nguyện giữ giới không múa hát, dự nghe âm nhạc, xem các thú vui, cũng nhƣ

không đeo tràng hoa, thoa phấn, xức dầu thơm, dùng thẩm mỹ phẩm, xoa kem, và đồ trang sức.

Tôi nguyện giữ giới không nằm, ngồi giƣờng cao và rộng.

Ghế và giƣờng (đi văng) nói ở đây là chỉ cho các thứ mà ngƣời thế tục dùng để

tìm thú vui và thụ hƣởng khoái lạc. Ngƣời sống độc thân (xuất gia ) nên tránh những điều này.

158. Hỏi: Ngƣời Phật tử có quan niệm nhƣ thế nào về phƣớc đức chân chính?

Đáp: Không có phƣớc đức nhiều, nếu chỉ hành động bề ngoài; mọi phƣớc

đức đều do việc làm thiện phát xuất từ nội tâm.

159. Hỏi: Hãy cho một ví dụ.

Đáp: Một ngƣời giàu có thể dùng nhiều lakh (1 lakh bằng 100.000 Rupees, tiền Ấn Độ) để xây tháp hoặc chùa (vihàras), tô đúc tƣợng Phật, tổ chức các

ngày lễ và đám rƣớc, cúng dƣờng trai những quán trọ dọc đƣờng cho khách bộ hành; nhƣng tƣơng đối ít có phƣớc đức nếu họ hành động cốt phô trƣơng để

đƣợc mọi ngƣời tán dƣơng hoặc vì bất cứ mục tiêu ích kỷ nào khác. Nhƣng nếu họ làm rất ít các việc lành mà với hảo tâm nhƣ là lòng thƣơng đồng bào của họ, ngƣời đó thu đƣợc nhiều phƣớc đức. Một hành động dù làm với ý nghĩ không tốt,

nhƣng có lợi ích cho ngƣời khác, không phải cho chính mình, đều đƣợc xem là thiện. Một ngƣời tỏ ra có hành động lành khi làm dù mong đƣợc phần công đức,

nhƣng với tình thƣơng chân thực của họ, chớ không giả dối. Cùng nguyên tắc ấy cũng áp dụng đối với các hành động xấu.

160. Hỏi: Song việc làm nào đƣợc xem là nhiều phƣớc đức nhất trong tất cả mọi

hành động?

Đáp: Kinh Pháp cú (Dhammapada) dạy rằng, công đức truyền bá chánh pháp (Dharma) là tối thắng hơn bất cứ thiện nghiệp nào khác.

Page 37: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

161. Hỏi: Những kinh điển nào chứa đựng trí tuệ thù thắng nhất của giáo lý Đức

Phật?

Đáp: Ba bộ kinh gọi là Tri-pi-ta-ca (Tripitakas) hay “Tam Tạng Kinh” (Three Baskets).

162. Hỏi: Ba Tạng Kinh Điển (Pitakas) có tên gọi là gì?

Đáp: Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka), và Luận Tạng (Abhidhamma Pitaka)

.

163. Hỏi: Chúng gồm có những gì?

Đáp: Luật Tạng bao gồm những lời dạy đạo đức và giới luật của đoàn thể

Tăng Già (Sangha); Kinh Tạng chứa đựng những bài kinh thuyết giảng đạo đức học cho mọi ngƣời; và Luận Tạng giải thích về giáo pháp Tâm Lý Học của Đức Phật bao gồm 24 pháp vi diệu trình bày về mọi sự hoạt động của Vạn Vật.

164. Hỏi: Ngƣời Phật tử có tin rằng những kinh tạng này do đấng Thƣợng Đế

truyền đạt và khám phá ra không?

Đáp: Không; nhƣng họ tôn kính kinh tạng bao hàm những phần giáo pháp cao siêu nhất mà ngƣời nào thấu triệt các kinh điển này sẽ thoát khỏi vòng sanh

tử luân hồi (Samsara).

165. Hỏi: Trong toàn bộ Tam Tạng Kinh có tất cả bao nhiêu chữ?

Đáp: Tiến sĩ Rhys Davids ƣớc tính chúng có vào khoảng 1.752.800 chữ.

166. Hỏi: Ba Tạng Kinh đƣợc ghi chép lần đầu tiên vào năm nào?

Đáp: Khoảng năm 88-76 trƣớc Tây Lịch dƣới triều vua Tích Lan Vattagamani

hoặc 330 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn (Paranirvana).

167. Hỏi: Chúng ta có lý để tin rằng tất cả những bài thuyết pháp của Đức Phật đều đã đƣợc truyền lại cho chúng ta (đến ngày nay) hay không?

Đáp: Chắc chắn là không, và sẽ là điều kỳ lạ nếu chúng còn giữ đƣợc đầy

đủ nhƣ vậy. Trải qua 45 năm sống với quần chúng, Đức Phật đã thuyết giảng hàng trăm bài kinh. Trong số những bài pháp này, vào giai đoạn chiến tranh và

Page 38: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

ngƣợc đãi, nhiều bản kinh đã bị mất, lƣu lạc đến những quốc gia xa xôi, và nhiều

bản đã bị cắt xén. Sử liệu ghi chép rằng những kẻ thù của Phật Giáo (Buddha Dharma) đã thiêu hủy vô số kinh điển chất cao đến ngọn dừa.

168. Hỏi: Phải chăng ngƣời Phật tử xem Đức Phật mà với đạo đức của Ngài có

thể cứu rỗi cho chúng ta thoát khỏi kết quả của những tội lỗi cá nhân?

Đáp: Hoàn toàn không. Con ngƣời phải tự giải thoát cho chính mình. Trừ khi họ làm vậy, còn không họ sẽ tiếp tục luân hồi tử sinh - nạn nhân của sự vô

minh và kẻ nô lệ cho những ái dục không bao giờ thỏa mãn đƣợc.

169. Hỏi: Đức Phật đối với chúng ta và các chúng sanh khác, là nhân vật nhƣ thế nào?

Đáp: Là vị Toàn Giác, bậc Cố Vấn toàn trí, đấng đã chứng ngộ và chỉ bày

con đƣờng giải thoát; cũng nhƣ đã dạy rõ nguyên nhân và phƣơng pháp chữa trị duy nhất nỗi khổ đau của con ngƣời. Vạch ra con đƣờng, chỉ dạy chúng ta làm cách nào để thoát khỏi những hiểm nguy, Đức Phật đã trở thành bậc thầy hƣớng

dẫn cho chúng ta. Đối với chúng ta, Ngài nhƣ ngƣời hƣớng dẫn một kẻ mù vƣợt qua chiếc cầu hẹp trên dòng sông nƣớc sâu, chảy xiết, và cứu giúp cho cuộc đời

của y.

170. Hỏi: Nếu chúng ta cố gắng trình bày toàn bộ tinh thần của giáo lý Đức Phật bằng một danh từ, vậy chúng ta nên chọn từ ngữ nào?

Đáp: Công bình.

171. Hỏi: Tại sao?

Đáp: Vì Phật giáo dạy rằng mọi ngƣời phải nhận chịu dƣới sự điều động chính xác của Nghiệp lực (Karma), phần thƣởng hay hình phạt mà họ xứng đáng đƣợc hƣởng, không thêm không bớt. Không có một hành động thiện hoặc ác, dù

cho tầm thƣờng và phạm tội kín đáo đi chăng nữa, mà có thể thoát khỏi cán cân quả báo tƣơng xứng công bình của Nghiệp lực.

172. Hỏi: Nghiệp lực là gì (Karma)? [12]

Đáp: Luật nhân quả chi phối các khía cạnh tinh thần, vật chất và những

lãnh vực khác. Phật giáo dạy rằng không có gì huyền nhiệm trong sinh hoạt của kiếp ngƣời: Con ngƣời phải chịu và gặt hái kết quả mà họ đã gieo.

Page 39: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

173. Hỏi: Những từ ngữ nào dùng thích hợp nhất để diễn tả tinh hoa của Phật

giáo?

Đáp: Sự tự mình tu tập và lòng thƣơng bao la.

174. Hỏi: Học thuyết nào đã giúp Phật giáo trở thành cao siêu và chiếm địa vị ƣu thế đối với các tôn giáo trên thế giới?

Đáp: Giáo lý Từ Bi (Metta hay Maitreya). Sự trọng yếu của giáo lý nầy, hơn nữa, đƣợc đề cao qua việc dùng danh hiệu “Từ Thị” (Maitri) để chỉ cho Đức Phật Tƣơng Lai (Di Lặc).

175. Hỏi: Tất cả những giáo lý mà bạn giải thích này, phải chăng Đức Phật đã

suy tƣởng đến lúc Ngài (tọa thiền) ở cội Bồ Đề?

Đáp: Vâng, những điều này và nhiều nữa có thể đọc thấy trong các kinh điển Phật giáo. Toàn bộ hệ thống Phật giáo đã hiện ra trong tâm thức của Đức

Phật vào lúc Ngài chứng Đạo Giác Ngộ.

176. Hỏi: Đức Phật đã ngồi thiền định gần cội Bồ Đề trong thời gian bao lâu?

Đáp: Bốn mƣơi chín ngày.

177. Hỏi: Chúng ta gọi tên bài pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng cho năm

ngƣời bạn cũ của Ngài trƣớc kia là gì?

Đáp: Kinh Chuyển Pháp Luân (Dham-macakkappavattana Sutta) – bài kinh giảng giải về những Nguyên tắc của Chân Lý (Doctrine) [13]

178. Hỏi: Trong bài pháp này Đức Phật đã thuyết dạy những giáo lý gì?

Đáp: “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo”. Đức Phật một mặt lên án lối tu ép

xác của các đạo sĩ khổ hạnh; và mặt khác sự thụ hƣởng những thú vui khoái lạc; Ngài chỉ dạy và khuyên nên theo Bát Chánh Đạo tức là Trung Đạo.

179. Hỏi: Đức Phật có chủ trƣơng thờ thần linh không?

Đáp: Ngài không chủ trƣơng mà còn chống đối điều đó. Đức Phật đã lên án

việc thờ cúng thần linh, ma quỹ, cây cối v.v… Hành động thờ cúng ngoại giới là một sự ràng buộc mà con ngƣời cần phải hủy bỏ nếu họ muốn tiến bộ cao hơn.

Page 40: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

180. Hỏi: Vậy Phật tử có kính lạy trƣớc tƣợng Phật, xá lợi của Ngài và những

chùa tháp thờ Đức Phật hay không?

Đáp: Có, nhƣng không phải với ý niệm của ngƣời sùng bái thần tƣợng.

181. Hỏi: Sự khác nhau ở chỗ nào?

Đáp: Tín đồ Phật giáo của chúng tôi nhận thấy ngƣời sùng bái thần tƣợng

không những chỉ xem các hình tƣợng của họ nhƣ biểu hiện rõ ràng của đấng Thƣợng Đế hay các thần linh vô hình mà khi lễ bái, họ còn tin rằng trong bản chất của thần tƣợng đó hàm chứa phần nào có thần tính khắp nơi.

182. Hỏi: Ngƣời Phật tử nghĩ nhƣ thế nào?

Đáp: Ngƣời Phật tử kính thờ tƣợng Phật và các pháp bảo khác nhƣ những hình ảnh tƣởng niệm của một đấng cao siêu, trí tuệ và từ bi nhất trong thế giới của kiếp (Kalpa) này. Các dân tộc cũng nhƣ mọi ngƣời bảo trì, tàng trữ, và quý

trọng các xá lợi, kỷ niệm vật của những nhân vật nam nữ đƣợc xem nhƣ là vĩ đại. Đức Phật, đối với chúng ta, tỏ ra đáng tôn sùng và kính mến hơn bất cứ vĩ nhân

nào khác bởi tất cả những ai đã từng nhận thức đƣợc sự khổ đau.

183. Hỏi: Đức Phật có giải thích cho chúng ta về vấn đề sùng bái thần tƣợng này hay không?

Đáp: Có. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana Sutta), Đức Phật

dạy rằng sự giải thoát chỉ có thể đạt tới nhờ thực hành đời sống Thánh thiện theo Bát Chánh Đạo, chứ không phải do sự sùng bái ngoại giới (amisa-puja), hay thờ kính Ngài và ngƣời khác, hoặc bất cứ hình tƣợng nào.

184. Hỏi: Đức Phật đánh giá thế nào về hình thức ham chuộng nghi lễ?

Đáp: Ngay từ lúc đầu, Đức Phật đã chỉ trích sự ham chuộng nghi lễ và các hành động hƣớng ngoại khác mà chúng chỉ làm tăng trƣởng đức tin mù quáng và sự bám chặt vào những hình thức mê tín của chúng ta.

185. Hỏi: Còn đối với sự hay tranh biện?

Đáp: Trong nhiều bài pháp, Đức Phật đã lên án thói quen tai hại nhất này. Ngài khuyên nên sám hối đối với các Tỳ kheo (Bhikkhus) nào đã lãng phí thì giờ cùng làm suy yếu khả năng giác ngộ của mình bằng sự hay tranh cãi về các lý

thuyết và những vấn đề siêu hình.

Page 41: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

186. Hỏi: Sự tin vào bùa chú, những giờ tốt và ma quỹ, đồng bóng có phải là

một khía cạnh của Phật giáo không?

Đáp: Các điều đó hoàn toàn phản lại với giáo lý căn bản của Phật giáo. Chúng là di tích còn sót lại của bái vật, đa thần giáo và các tôn giáo ngoại lai

khác. Trong kinh Phạm Võng (Brahmajalasutta) Đức Phật đã tuyệt đối diễn tả các điều trên và mê tín dị đoan khác nhƣ đa thần giáo tầm thƣờng và lừa dối

(spurious) [14].

187. Hỏi: Giữa Phật giáo và “tôn giáo” khác có những mâu thuẫn gì đáng chú ý?

Đáp: Đối với các tôn giáo khác, đây là những điều tƣơng phản: Phật giáo dạy điều thiện cao quý nhất mà không cần đến đấng Thƣợng Đế sáng tạo; một

phƣơng thức sống dựa vào giáo điều ích kỷ, mê tín ở thực thể linh hồn vĩnh cửu, siêu hình vƣợt ra ngoài thân xác; một hạnh phúc không có thiên đàng khách quan; một pháp môn giải thoát mà không cần đức Chúa Trời cứu rỗi; hay sự

chuộc tội bởi chính mình nhƣ Chúa Giê-Su (the Redeemer); cũng không cần có những lễ bái cầu nguyện; sám hối, tu sĩ, cùng sự can thiệp của thánh nhân; và

một cứu cánh Niết Bàn (Nirvana) có thể đạt tới ngay trong đời hiện tại và ở thế giới này bằng cách hƣớng đến một đời sống thanh tịnh, vị tha của trí tuệ, và từ bi đối với mọi chúng sanh.

188. Hỏi: Hãy định rõ về hai loại chính của “thiền định” phƣơng pháp nhờ đó con ngƣời diệt trừ dục vọng và đạt tới giác ngộ.

Đáp: Chỉ (Samatha), và quán (Vidarsana): 1) Sự đoạn diệt ái dục bằng cách hƣớng đến đời sống thánh thiện và tinh tấn không ngừng để chế ngự các giác

quan; 2) Sự đạt đƣợc trí tuệ phi thƣờng nhờ quán tƣởng: mọi pháp môn bao gồm 20 phƣơng diện mà tôi không cần kể rõ chúng hết ra đây.

189. Hỏi: Tứ đạo quả hay trình độ tu chứng mà một hành giả có thể đạt tới là

những gì?

Đáp: 1) Sơ quả Tu Đà Hoàn (Sotàpatti) - sự bắt đầu hay nhập vào quả vị của ngƣời đã giác ngộ về “Tứ Diệu Đế”; 2) Nhị quả Tƣ Đà Hàm (Sakardàgàmi)-

quả vị của ngƣời đã diệt hết tham sân si và chỉ còn một lần (Nhứt Lai) sanh lại cõi này (thì đắc quả Thánh); 3) Tam quả A Na Hàm (Anàgami) - quả vị dành cho

những hành giả đã chế ngự đƣợc bản ngã mình, và họ không còn sanh trở lại (Bất Lai) thế giới này; và 4) Tứ quả A La Hán (Arhat) - quả vị Thánh của bậc A La Hán, là vị không những chỉ thoát khỏi sự luân hồi mà còn đạt tới trí tuệ hoàn

toàn, với tình thƣơng bao la những kẻ còn mê lầm và khổ đau, cũng nhƣ có lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh.

Page 42: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

190. Hỏi: Phải chăng Phật giáo bao hàm không có điều gì khác hơn là chân lý và

nó phù hợp với khoa học?

Đáp: Nhƣ mọi tôn giáo khác đã tồn tại qua nhiều thế kỷ, Phật giáo ngày nay chắc chắn bao gồm những điều pha trộn sự thật và không thật; cũng nhƣ vàng

tìm thấy lẫn lộn với chất bẩn dơ. Óc tƣởng tƣợng đầy thi vị, lòng nhiệt thành, sự mê tín còn sót lại của các tín đồ Phật giáo qua nhiều thời đại và tại những quốc

gia khác nhau, khiến cho các lời dạy cao siêu về giáo thuyết đạo đức của Đức Phật đã bị pha lẫn ít nhiều những điều ngày nay có thể không còn lợi ích nữa.

191. Hỏi: Khi biết những suy đồi đó, khát vọng thành tâm nhất của ngƣời Phật tử chân chính nhƣ thế nào?

Đáp: Ngƣời Phật tử thuần thành sẵn sàng và nóng lòng muốn thấy sự sai lầm đó cần đƣợc thanh lọc khỏi giáo lý chân chính và nếu có thể, họ sẽ giúp (để làm việc ấy). Ba kỳ đại Hội Nghị của Tăng Già (Sangha) đã đƣợc tổ chức nhằm

mục đích để thanh lọc khẩn cấp những điều thêm vào sai lầm khỏi Giáo Lý chân chính (của Đức Phật).

192. Hỏi: Khi nào?

Đáp: Lần đầu tiên tại hang Thất Diệp (Sattapanni) ngay sau khi Đức Phật

nhập Niết Bàn; lần thứ hai tại Va-lu-ca-ra-ma (Valukarama) ở Tỳ Xá Li (Vaisali); và lần thứ ba tại Chùa A-xô-ca-ra-ma (Asokarama Vihara) ở Hoa Thị Thành

(Pataliputra), 235 năm sau khi Đức Phật diệt độ.

193. Hỏi: Trong bài kinh nào Đức Phật đã cảnh cáo chúng ta về sự suy đồi sẽ xảy ra cho giáo pháp chân chính của Ngài?

Đáp: Kinh Tạp A Hàm (Samyutta Nikãya).

194. Hỏi: Trong Phật giáo có bất cứ giáo điều nào bắt buộc chúng ta tin theo

không?

Đáp: Kkông; chúng ta không bị ép buộc phải tin vào bất cứ giáo lý nào dù nó đƣợc ghi chép trong kinh điển, do tổ tiên chúng ta truyền lại hoặc đƣợc giảng

dạy bởi các bậc thánh hiền.

195. Hỏi: Đức Phật có thuyết giảng giáo lý cao siêu đó không?

Đáp: Có. Đức Phật dạy rằng chúng ta chớ vội tin một điều gì dù đó là điều đƣợc thiên hạ nói đến; chớ vội tin vào những tập quán vì chúng đƣợc truyền lại

Page 43: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

từ ngàn xƣa; chớ vội tin lời đồn đãi, đừng tin vào kinh sách do các Thánh Hiền

viết ra; không nên chấp nhận điều gì vì nghĩ rằng đó là điều do Thần Linh (Deva) đã truyền cho chúng ta (tỷ nhƣ xem sự linh cảm tinh thần đó là đúng); đừng nên

tin một luận đề nào mà chúng ta suy ra từ sự phỏng định tình cờ; cũng đừng vội tin vào điều gì lấy sự giống nhau làm tiêu chuẩn (Analogical); và chớ vội tin vào oai quyền nơi các giáo sƣ hay giáo sĩ của chúng ta.

196. Hỏi: Vậy lúc nào chúng ta mới nên tin?

Đáp: Chúng ta chỉ tin tƣởng khi giáo lý hay những lời dạy đó đƣợc kiểm chứng bằng lý trí và sự hiểu biết của mình. Vì thế, Đức Phật khuyên tiếp rằng ”Nhƣ Lai dạy các con không nên tin chỉ vì các con đã nghe, nhƣng khi các

con đã tin tƣởng qua sự nhận thức của mình, thì nên tinh tấn thực hành theo” (Xem kinh Kalama trong Tăng Nhất A Hàm và kinh Bát Đại Niết Bàn).

197. Hỏi: Đức Phật bảo nên xem Ngài nhƣ thế nào?

Đáp: Đức Phật dạy rằng Ngài và các Đức Phật khác chỉ là những “vị thuyết

giảng” chân lý, chỉ bày ra con đƣờng: còn tự chúng ta phải nỗ lực tu tập.

198. Hỏi: Đức Phật dạy điều này ở đâu?

Đáp: Trong kinh Pháp Cú (Dhamma-pada), chƣơng 20.

199. Hỏi: Phật giáo có khuyến khích hành động đạo đức giả hay không?

Đáp: Kinh Pháp Cú dạy: “Nhƣ chiếc hoa tƣơi đẹp chỉ phô trƣơng màu sắc

mà chẳng có hƣơng thơm; những ngƣời chỉ biết nói điều lành mà không làm điều lành chẳng đem lại lợi ích gì”.

200. Hỏi: Đức Phật có dạy chúng ta nên lấy oán báo oán không?

Đáp: Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: “Kẻ ác làm hại ta, ta sẽ đáp trả y

bằng lòng từ bi không oán hận; ngƣời đó càng thù hận ta, ta càng có tâm từ với họ”. Đây là con đƣờng mà bậc A La Hán (Arhat) [15] đã theo. Dùng oán để trả

oán là điều Phật giáo hoàn toàn ngăn cấm.

201. Hỏi: Phật giáo có khuyến khích những hành động tàn ác không?

Page 44: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Đúng là không. Trong năm giới cấm và nhiều bài kinh khác, Đức Phật

dạy chúng ta nên có lòng thƣơng đối với mọi ngƣời, cố gắng mang lại hạnh phúc cho họ, nên có tâm từ bi với tất cả, đừng bao giờ sát hại, sanh tâm tùy hỷ, hay

khuyến khích sự sát hại.

202. Hỏi: Điều ấy đƣợc ghi chép trong bài kinh nào?

Đáp: Kinh Đam-mi-ca (Dhammika) dạy: “Hãy khuyên vị gia chủ chớ có sát hại, hoặc gây nên sự sát hại bất cứ mạng sống nào, hay khuyến khích ngƣời

khác làm nhƣ thế. Hãy bảo y giữ gìn không giết hại bất cứ chúng sanh nào” [16].

203. Hỏi: Phật giáo có tán đồng việc uống rƣợu không?

Đáp: Trong kinh Dhammika, Đức Phật dạy chúng ta không nên uống, gây ra sự uống rƣợu cho kẻ khác, hoặc khuyến khích hành động của ngƣời uống rƣợu

[17]

204. Hỏi: Đức Phật cho chúng ta biết sự uống rƣợu sẽ dẫn đến kết quả gì?

Đáp: Những điều xấu ác tội lỗi, điên loạn và vô minh – là nguyên nhân chính của luân hồi sanh tử.

205. Hỏi: Phật giáo dạy thế nào về hôn nhân?

Đáp: Tuyệt đối không dâm dục là điều kiện cho sự phát triển tâm linh (tu tập) toàn diện, đƣợc Đức Phật tán dƣơng nhiều nhất; nhƣng lập gia đình với một vợ và chung thủy với cô ta, là thực hành đức tánh không tà hạnh. Đức Phật chỉ

trích chế độ đa thê nhƣ hành động vô minh và tăng trƣởng lòng tham dục.

206. Hỏi: Trong bài kinh nào?

Đáp: Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikãya), Chƣơng IV, 55.

207. Hỏi: Phật giáo dạy thế nào về bổn phận của cha mẹ đối với con cái?

Đáp: Cha mẹ nên khuyên con cái chớ làm điều ác; nên làm các việc lành; dạy dỗ

cho chúng về các môn nghệ thuật và khoa học; giúp chúng dựng vợ gả chồng và chia cho chúng tài sản của mình.

Page 45: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

208. Hỏi: Bổn phận của con cái nhƣ thế nào?

Đáp: Con cái cần giúp đỡ khi cha mẹ già yếu và túng thiếu; làm tròn bổn

phận gia đình đối với cha mẹ; bảo vệ tài sản của cha mẹ; hãy tỏ ra xứng đáng là những kẻ thừa kế của cha mẹ, và khi cha mẹ qua đời, con cái nên kính thờ tƣởng

nhớ.

209. Hỏi: Đệ tử đối với Thầy nhƣ thế nào?

Đáp: Nên kính trọng, chăm sóc, vâng lời thầy; cung cấp nhu cầu cho thầy và nhận nghe lời chỉ giáo của thầy.

210. Hỏi: Chồng đối với vợ nhƣ thế nào?

Đáp: Nên thƣơng yêu đối xử tử tế, kính trọng và chung thủy với vợ; giúp vợ đƣợc tôn vinh bởi ngƣời khác, biếu tặng vợ đồ trang sức và y phục.

211. Hỏi: Bổn phận vợ đối với chồng nhƣ thế nào?

Đáp: Bày tỏ lòng thƣơng chồng, sắp đặt nhà cửa ngăn nắp, niềm nở với

khách khứa (bạn chồng), không tà hạnh, nên cần kiệm, khéo léo và siêng năng trong mọi việc.

212. Hỏi: Những điều răn này (Đức Phật) dạy ở đâu?

Đáp: Trong Kinh Thi Ca La Việt (Sigalovada).

213. Hỏi: Sự phú quý có giúp con ngƣời đạt đến hạnh phúc tƣơng lai hay không?

Đáp: Kinh Pháp cú dạy: “Đƣờng này dẫn tới sự giàu sang, bố thí; đƣờng kia

đƣa đến cảnh giới Niết Bàn” (thiền quán).

214. Hỏi: Phải chăng điều đó ngụ ý không ngƣời giàu nào có thể (tu tập) đạt tới Niết Bàn?

Đáp: Vấn đề ấy tùy thuộc vào điều mà hành giả ƣa thích nhất. Nếu họ biết

dùng của cải dƣ thừa cho việc phúc lợi của nhân loại – giúp đỡ ngƣời khốn cùng, kẻ bị áp chế và ngu dốt – thì sự phú quý giúp y thành tựu vô lƣợng công đức.

Page 46: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

215. Hỏi: Nếu ngƣợc lại thì sao?

Đáp: Nhƣng nếu một kẻ giàu tham đắm và tích trữ vô số tiền bạc để tạo tài

sản riêng cho mình, điều ấy làm ngƣời đó mất đạo đức, xúi giục anh ta tạo tội lỗi; rồi họ sẽ gặp tai họa trong đời này, và ác quả cũng đến với y ở kiếp sau.

216. Hỏi: Kinh Pháp Cú dạy thế nào về vô minh?

Đáp: Vô minh là vết nhơ cấu bẩn nhất trong các vết nhơ mà con ngƣời đã tự bôi vào mình.

217. Hỏi: Kinh Pháp Cú dạy thế nào về hành động bất thiện đối với kẻ khác?

Đáp: Đó là thấy tội lỗi ngƣời thì dễ, thấy lỗi mình mới khó; lỗi ngƣời, ta cố

phanh phui tìm nhƣ tìm thóc lẫn trong gạo; còn lỗi mình, ta cố che giấu nhƣ kẻ cờ gian bạc lận thu dấu con bài.

218. Hỏi: Đức Phật khuyên chúng ta thế nào về bổn phận của con ngƣời đối với kẻ nghèo?

Đáp: Ngài dạy rằng tiền lợi tức của một ngƣời nên chia làm bốn phần, trong đó nên dành một phần cho các mục tiêu từ thiện.

219. Hỏi: Năm nghề nghiệp gì Đức Phật cho là thấp kém và hèn hạ?

Đáp: Những nghề nhƣ bán rƣợu, thịt thú vật, bán thuốc độc, khí giới giết

ngƣời, và buôn bán kẻ nô lệ.

220. Hỏi: Hạng ngƣời nào (Đức Phật dạy) không thể tiến bộ trong sự tu tập.

Đáp: Những kẻ giết cha, giết mẹ, giết A La Hán và các Tỳ Kheo phá hòa hiệp Tăng già (Sangha); những kẻ làm thân Phật chảy máu; tuyệt đối chấp

thuyết Hƣ Vô, không tin có đời sau, và những ngƣời quá tham đắm dục lạc

221. Hỏi: Phật giáo có chỉ bày rõ những cảnh giới hay tình trạng thống khổ mà trong đó một ngƣời tạo ác nghiệp sẽ bị đọa vào, sau khi họ từ giã cõi đời này hay

không?

Đáp: Có. Những cảnh giới đó là: Đẳng hoạt địa ngục (Sanjiva); Hắc Thằng địa ngục (Kàlasutra); Chúng Hiệp Địa Ngục (Sanghàta); Khiếu Hoán Địa Ngục

Page 47: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

(Rauvara); Đại Khiếu Điạ Ngục (Maha Raurava); Viêm Nhiệt Địa Ngục (Tàpa);

Đại Nhiệt Địa Ngục (Pratãpa); và Vô Gián Địa Ngục (Avichi).

222. Hỏi: Phải chăng nỗi thống khổ sẽ vĩnh viễn tồn tại?

Đáp: Chắc không phải vậy. Thời gian tùy thuộc nghiệp báo của mỗi ngƣời.

223. Hỏi: Phật giáo có thuyết giảng rằng những ngƣời không tin Đức Phật sẽ bị

đọa đày vì sự bất tín đó của họ hay không?

Đáp: Không; nhờ thiện nghiệp họ có thể thọ hƣởng phƣớc báo trong một thời gian hạn định trƣớc khi bị tái sinh do lòng ái dục (tanhà) vô tận của họ. Muốn thoát khỏi luân hồi, hành giả phải thực hành theo Bát Chánh Đạo.

224. Hỏi: Địa vị tinh thần của nữ giới trong Phật giáo nhƣ thế nào?

Đáp: Theo Phật giáo, họ chiếm một địa vị hoàn toàn bình đẳng với nam giới. Trong kinh Chun-la-vê-đan-la (Chullavedalla), Đức Phật dạy rằng: “Phụ nữ có thể chứng đắc quả vị Thánh cao nhất đƣợc dành cho nam giới - A La Hán”.

225. Hỏi: Nhà phê bình hiện đại đã bày tỏ thế nào về ảnh hƣởng của Phật giáo đối với phụ nữ?

Đáp: Ông Lepel Griffin bảo rằng: “Phật giáo đã mang lại hạnh phúc và sự

giải phóng cho nữ giới hơn bất cứ tôn giáo nào khác”.

226. Hỏi: Đức Phật đã dạy nhƣ thế nào về giai cấp?

Đáp: Đức Phật dạy rằng không phải do sự sanh trƣởng, con ngƣời trở thành hạng cùng đinh thấp nhất Pariah (Harijan) hay giai cấp cao quý nhất Bà la môn

(Brahmana), mà là bởi hành động. Ngài dạy “Do hành động, ngƣời này là cùng đinh; do hành động, ngƣời kia là Bà la môn” (xem Kinh Vasala).

227. Hỏi: Hãy kể cho tôi một câu chuyện để chứng minh điều này.

Đáp: Ngài A Nan (Ananda) đi ngang gần giếng, khát nƣớc và yêu cầu Bát-

Cát-Đế (Prakritti), một cô gái thuộc giai cấp hạ tiện Ma Đăng Già (Matanga) hay cùng đinh Pa-ri-a (Pariah), cho Ngài xin nƣớc uống. Nàng thƣa rằng cô ta thuộc giai cấp thấp hèn và Ngài sẽ bị ô uế nếu nhận nƣớc uống nơi tay của cô. Nhƣng

Ngài A Nan đáp rằng’: “Tôi không xin giai cấp mà chỉ xin nƣớc uống”; và cô gái

Page 48: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

cùng đinh Matanga tâm cảm thấy vui mừng cúng dƣờng nƣớc uống cho Ngài A

Nan. Đức Phật đã tán thán hành động này của cô.

228. Hỏi: Đức Phật đã dạy nhƣ thế nào trong “Kinh Vasala” về đệ tử Xô-ba-ca (Sopaka) thuộc giai cấp hạ tiện Pa-ri-a (Pariah)?

Đáp: Ngài dạy rằng do công đức của y, Sopaka đã đạt tới danh vọng cao

quý nhất; nhiều vị thuộc giai cấp (quý tộc) Sát-đế-lợi (Kshattryas) và Bà La Môn đã đến phục vụ cho ông ta; và sau khi qua đời, Sopàka đã đƣợc sinh lên cõi trời

Phạm Thiên (Brahma), trong khi những vị Bà la môn đã bị đọa vào địa ngục do hành động xấu ác của họ.

229. Hỏi: Phải chăng Phật giáo dạy rằng có một linh hồn bất tử?

Đáp: “Linh hồn” (Soul) đƣợc Phật giáo xem nhƣ danh từ dùng để diễn tả

một ý niệm sai lầm của hạng ngƣời thiếu hiểu biết. Nếu mọi vật thay đổi, trong đó có cả con ngƣời; và nhƣ thế, cơ thể vật chất của nó cũng phải thay đổi. Mà vật gì đã thay đổi thì không thể thƣờng còn: cho nên không thể có một sự sống

bất tử trong một cơ thể (con ngƣời) đổi thay đƣợc [18]

230. Hỏi: Vậy điều có thể bị phản đối trong từ ngữ “Linh hồn” này là gì?

Đáp: Ý kiến cho rằng linh hồn của con ngƣời có thể là một thực thể biệt lập

ngoài các thực thể khác, và sự hiện hữu của toàn thể vũ trụ. Ý niệm về sự tách biệt này là điều vô lý, không đƣợc chấp nhận bởi luận lý học cũng nhƣ khoa học tán thành.

231. Hỏi: Vậy thì không có cái “Ngã” (ta) biệt lập cũng nhƣ chúng ta không thể

bảo rằng vật này hay vật kia là “của tôi”, phải thế không?

Đáp: Đúng nhƣ vậy.

232. Hỏi: Nếu quan niệm có một “linh hồn” biệt lập nơi con ngƣời bị phủ nhận,

vậy cái gì trong con ngƣời khiến y nghĩ rằng có một bản ngã (personality) thƣờng còn?

Đáp: Lòng ái dục (tanhã) không dƣợc thoả mãn về cuộc sống. Con ngƣời đã tạo nghiệp, do đó y đƣợc trả ân hay báo oán trong tƣơng lai; và vì ái dục, y sẽ

chịu luân hồi do ảnh hƣởng của nghiệp báo.

Page 49: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

233. Hỏi: Vậy cái gì sẽ đi đầu thai?

Đáp: Những uẩn (Skandhas) mới hay bản ngã (personality) [19] đƣợc tạo

nên do tiến trình tƣ tƣởng cuối cùng của một ngƣời sắp lâm chung.

234. Hỏi: Có bao nhiêu Uẩn?

Đáp: Năm.

235. Hỏi: Hãy kể năm uẩn đó.

Đáp: Sắc (Rùpa), Thọ (Vedana), Tƣởng (Sannà), Hành (Samkhàrà) và Thức

(Vinnàna).

236. Hỏi: Hãy giải thích sơ lƣợc về năm uẩn..

Đáp: Sắc: những vật hữu hình; Thọ: cảm giác vui buồn; Tƣởng: kiến thức về khái niệm; Hành: những trạng thái tâm lý; và Thức: năng lực trí tuệ hay ý

thức. Năm uẩn đã tạo thành chúng ta, giúp chúng ta ý thức về cuộc sống; và qua năm uẩn, chúng ta tiếp xúc với thế giới xung quanh chúng ta.

237. Hỏi: Vì nguyên nhân nào chúng ta thấy có sự sai khác trong việc kết hợp

của năm uẩn, khiến cho ngƣời này khác biệt với ngƣời kia?

Đáp: Do nghiệp quả thuần thục của mỗi cá nhân trong nhiều kiếp trƣớc của họ.

238. Hỏi: Sức mạnh và năng lực nào đã hoạt động dƣới sự hƣớng dẫn của

Nghiệp để tạo thành một con ngƣời mới.

Đáp: Ái dục (tanhà) – lòng ham muốn sự sống [20].

239. Hỏi: Giáo lý luân hồi đã đƣợc xây dựng trên điều gì?

Đáp: Trên nhận thức của sự hoàn toàn công bằng, thế quân bình và điều chuẩn vốn nằm trong hệ thống phổ biến của Thiên Nhiên. Phật tử không tin rằng

một đời sống - dù có thọ đến 100 hay 500 năm - là đủ dài lâu cho sự trả ân hay báo oán, gây nên bởi những hành động của con ngƣời. Vòng đại luân hồi sanh tử

sẽ ít nhiều vận chuyển nhanh chóng theo sự ƣu thế của nghiệp thiện hay bất thiện đƣợc tạo ra trong nhiều kiếp sống của mỗi cá nhân.

Page 50: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

240. Hỏi: Phải chăng Ái Dục (Tanha) đã dẫn đến sự cấu tạo nên những uẩn

(skandhas) mới – cá nhân mới này cùng một ngƣời giống nhƣ ngƣời trong kiếp trƣớc?

Đáp: Hiểu theo một nghĩa, đó là con ngƣời mới, nhƣng nghĩa khác, nó lại là

không phải. Cổ ngữ Pali viết: “Nacha so nacha anno”, nghĩa là không phải giống vậy, nhƣng cũng không phải khác. Trong đời này, năm uẩn (chúng ta) luôn thay

đổi (changing) [21], và trong khi ông A hoặc ông B 40 tuổi đƣợc xem nhƣ ngƣời không khác thiếu niên A hay B lúc 18 tuổi, nhƣng vì, do việc thƣờng xuyên làm tiêu hao và bổ dƣỡng cơ thể của y, cũng nhƣ sự thay đổi về tâm lý và tánh tình,

ông ta trở thành một nhân vật khác.Tuy nhiên một ngƣời đến lúc tuổi già, sẽ gặt hái thích đáng phần thƣởng khổ đau do kết quả của những ý tƣởng và hành động

(xấu) của y, đã gây ra vào lúc thiếu thời trong cuộc đời của họ. Cùng thế ấy, một ngƣời mới tái sinh cũng giống nhƣ con ngƣời trƣớc kia, nhƣng với sự thay đổi, hình dáng hoặc sự kết hợp mới của những uẩn, cũng sẽ nhận chịu chính xác quả

báo tạo nên bởi thân nghiệp và ý nghiệp của y trong kiếp trƣớc.

241. Hỏi: Ngƣời già có thể nhớ lại những việc xảy ra vào thời niên thiếu mặc dầu cơ thể và tinh thần của ông ta đã thay đổi. Nhƣng tại sao chúng ta không thể

nhớ đƣợc những việc trong kiếp quá khứ do chúng ta mang từ đời trƣớc đến đời này?

Đáp: Bởi vì trí nhớ bao gồm trong các uẩn; và những uẩn đã thay đổi với sự

tái sinh mới, một trí nhớ mới, cùng sự ghi lại cuộc sống đặc biệt đó đều phát triển (đổi mới). Tuy nhiên, sự giữ lại hay phản ảnh tất cả hành động trong những kiếp sống quá khứ ở thế gian này, vẫn còn tồn tại; vì thế nên khi thái tử Tất Đạt

Đa (Siddhartha) thành Phật, Ngài đã thấy nhớ lại đầy đủ những kiếp trƣớc của Ngài. Nếu mọi việc xảy ra (trong đời trƣớc) không để lại một dấu tích gì, thì việc

nhớ lại đã không thể có, nghĩa là Đức Phật đã không có gì để thấy. Và bất cứ ai đạt tới tầng thiền (Dhyana) thứ tƣ đều có thể thấy lại dấu vết những việc trong

các đời trƣớc của mình.

242. Hỏi: Mục đích cuối cùng nhằm đến (trong sự tu tập) của con ngƣời qua những lần đổi thay (thân xác) này là gì?

Đáp: Niết Bàn (Nirvana).

243. Hỏi: Phật giáo có dạy chúng ta nên làm điều lành với ý tƣởng mong đạt tới

cảnh giới Niết Bàn không?

Đáp: Không; vì đó là điều hoàn toàn ích kỷ giống nhƣ (chúng ta) hy vọng đƣợc phần thƣởng về tiền bạc, ngôi vua, hay bất cứ thú vui dục lạc nào khác.

Niết Bàn không thể đạt tới bằng cách đó, và kẻ đầu cơ thiếu sáng suốt sẽ thấy trƣớc đƣa đến sự thất vọng.

Page 51: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

244. Hỏi: Xin giải thích rõ hơn nữa.

Đáp: Niết Bàn đồng nghĩa với đức tính lợi tha, sự diệt trừ hoàn toàn tánh vị kỷ để đạt tới chân lý. Ngƣời mê mờ mong tìm hạnh phúc Niết Bàn mà không hiểu biết gì hết về bản chất của nó. Tận diệt đƣợc lòng ích kỷ là Niết Bàn. Làm việc

lành với ý niệm mong đƣợc kết quả, hay thực hành nếp sống thánh thiện với chủ đích đạt tới hạnh phúc nơi thiên đàng không phải là Đời sống Cao quý mà Đức

Phật khuyến khích. Không mong chờ phần thƣởng đƣợc sống một Cuộc Đời Cao Thƣợng, đó chính là cuộc sống siêu việt nhất. Cảnh giới Niết Bàn có thể đạt tới trong khi con ngƣời đang sống ở thế gian này.

245. Hỏi: Hãy kể 10 đại phiền não (chƣớng ngại) cho sự tu hành, gọi là Thập Sử (Sanyojanas).

Đáp: Thân kiến (Sakkàya-ditthi); Nghi (Vicikicchà); Giới Cấm Thủ Kiến (Silabbata-paràmãsa); Tham Dục (Kàma); Sân Nhuế (Patigha); Tham Sắc Giới

(Rũparàga); Tham Vô Sắc Giới (Arùparàga); Mạn (Màma); Kiến Thủ Kiến (Uddhacca) và Vô Minh (Avijjà).

246. Hỏi: Để thành bậc A La Hán (Arhat), bao nhiêu điều trong Thập Sử này cần

phải diệt trừ?

Đáp: Tất cả.

247. Hỏi: Ngũ cái hay Nivàranas (năm thứ phiền não che lấp tâm tính) gồm những gì?

Đáp: Tham Dục, Sân Nhuế (giận hờn), Thụy Miên (biếng nhác, mê ngủ),

Trạo Hối (xao động nơi tâm) và Nghi Ngờ (chánh pháp).

248. Hỏi: Tại sao chúng ta thấy có sự phân loại chi tiết về những cảm giác, sự thúc đẩy, hoạt động của tâm, những phiền não và trợ duyên cho sự tiến tu đƣợc

nói đến quá nhiều trong giáo lý Đức Phật? Điều ấy có làm rối rắm cho ngƣời mới bắt đầu (học Phật) hay không?

Đáp: Nó giúp chúng ta thành tựu sự hiểu biết chính mình, bằng cách luyện

tập tâm của chúng ta quan sát tỉ mỉ mọi vấn đề. Nhờ tu theo phƣơng pháp tự phản (xét mình) này, cuối cùng chúng ta đạt tới sự giác ngộ và thấy rõ chân lý

đúng nhƣ thật. Đây là đƣờng lối mà các bậc minh sƣ giúp đỡ để phát triển tâm linh cho đệ tử của mình.

Page 52: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

249. Hỏi: Đức Phật có bao nhiêu đệ tử nổi danh về các đức tính siêu việt của họ?

Đáp: Ngài có 80 đệ tử xuất chúng nhƣ vậy, gọi là 80 vị Đại Thanh Văn

(Asiti-Maha-Savakas).

250. Hỏi: Trí tuệ của Đức Phật bao gồm những khả năng gì?

Đáp: Đức Phật giác ngộ bản chất của những điều Khả Tri (có thể biết) và

Bất Khả Tri (không thể biết), Có thể có và Không thể có; nguồn gốc của (nghiệp) Thiện và Bất thiện. Ngài có thể thấy rõ những ý tƣởng của tất cả mọi ngƣời; thấu triệt các định luật Thiên Nhiên, sự giả dối của những giác quan và phƣơng pháp

chế ngự các dục vọng; Ngài cũng có thể nhận biết sự sanh ra và luân hồi của mỗi cá nhân và những sinh vật khác.

251. Hỏi: Nguyên lý căn bản mà trên đó toàn bộ giáo pháp của Đức Phật đƣợc

xây dựng, chúng ta gọi là gì?

Đáp: Đó là Lý Thập Nhị Nhân duyên (Patica Samuppàdà) [22].

252. Hỏi: Giáo pháp này có dễ dàng hiểu biết không?

Đáp: Đó là giáo lý khó hiểu nhất; thật vậy, ý nghĩa rốt ráo và thâm huyền của nó vƣợt ngoài trí năng (con ngƣời) đến nỗi khó có thể thấu triệt hoàn toàn.

253. Hỏi: Nhà đại luận sƣ Phật Minh (Buddha Ghosha) bày tỏ thế nào về giáo pháp của Đức Phật?

Đáp: Ngài cảm thấy bơ vơ giữa đại dƣơng của nền tƣ tƣởng (cao siêu) này nhƣ ngƣời đang trôi giạt trên biển cả.

254. Hỏi: Nhƣng tại sao Đức Phật lại dạy trong kinh Bát Niết Bàn (Parinibbana Sutta) rằng Ngài “không làm điều ấy, nhƣ vị thầy nắm chặt bàn tay giấu một vật gì”. Nếu toàn bộ giáo lý của Đức Phật đƣợc khai mở cho tri kiến của mọi ngƣời,

tại sao nhà luận sƣ tài đức và thông bác nhƣ Ngài Phật Minh lại bảo rằng rất khó thấu hiểu Phật giáo?

Đáp: Đức Phật rõ ràng muốn nói rằng Ngài đã chỉ dạy hết mọi điều, nhƣng

nền tảng thật sự của Phật Pháp chắc chắn là chỉ Đức Phật là đấng có đầy đủ khả năng trí tuệ mới có thể thấu triệt. Cho nên Phật Giáo với những ngƣời thƣờng chƣa giác ngộ, họ không thể hiểu biết đƣợc.

Page 53: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

255. Hỏi: Giáo lý Đức Phật tán đồng ý kiến này nhƣ thế nào?

Đáp: Đức Phật đã quan sát tâm niệm mỗi ngƣời để thuyết pháp cho thích

hợp với căn cơ của từng cá nhân và sự phát triển tinh thần của ngƣời nghe pháp.

PHẦN III

TĂNG GIÀ (SANGHA)

256. Hỏi: Tỳ kheo (Bhikkhus) Phật giáo khác với tu sĩ các tôn giáo khác ở điểm nào?

Đáp: Tu sĩ của những tôn giáo khác đƣợc xem nhƣ nhân vật trung gian

giữa tín đồ và Thƣợng Đế, hầu giúp chuộc tội cho con ngƣời; còn các tu sĩ Phật giáo không thừa nhận hoặc mong đợi bất cứ điều gì nơi Thần quyền.

257. Hỏi: Nhƣ vậy tại sao lại cần phải thành lập Tăng đoàn, Giáo hội hay Hội đoàn tách rời khỏi quần chúng, nếu chƣ Tăng không thực hiện điều mà giáo hội

các tôn giáo khác làm?

Đáp: Mục đích thấy rõ nhằm đào tạo những bậc thầy đức độ, trí tuệ, vị tha và có đạo tâm nhất, xa lìa cuộc sống thế gian, nơi mà tâm dục vọng và ích kỷ

của chƣ Tăng đƣợc phát sanh mạnh mẽ; hầu để dành hết cuộc đời của họ cho việc tu học, nhằm đạt tới trí tuệ cao siêu nhất; cũng nhƣ dấn thân vào công tác

dạy dỗ, hƣớng dẫn mọi ngƣời khác thoát khỏi cuộc sống dục lạc mang lại khổ đau; hầu đi theo con đƣờng khắc khổ tu hành dẫn đến hạnh phúc chân thật và giải thoát cuối cùng.

258. Hỏi: Ngoài tám giới, thầy Tỳ Kheo phải giữ thêm hai giới nữa là những giới gì?

Đáp:

Tôi nguyện giữ gìới không múa hát và đi xem múa hát.

Tôi nguyện giữ giới không nhận cất vàng bạc.

Tất cả Thập Giới (Dasa Sila) hay mƣời giới này, các Tỳ Kheo và Sa Di

(Samaneras) bắt buộc phải giữ, nhƣng không áp dụng đối với hàng cƣ sĩ tại gia.

Bát Quan Trai giới (Atthanga Sila) dành cho những Phật tử mong đƣợc sanh lên các cảnh giới cao hơn cõi chƣ Thiên (Trời) [23] và những ngƣời ƣớc mong chứng

đắc Niết Bàn (Nirvana).

Page 54: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

259. Hỏi: Phải chăng có những phép tắc và giới đìều riêng biệt dành cho sự

hƣớng dẫn và kỷ luật của đoàn thể Tăng già (Order)?

Đáp: Đúng vậy; có 250 giới, nhƣng tất cả đều bao gồm trong 4 phần chính dƣới đây:

Những giới luật trọng yếu.

Những giới luật nhằm chế ngự các căn (Indriyas).

Các giới luật nói về sự thọ lãnh và dùng thức ăn, sự kiêng cử ăn uống, y phục v.v…

Các giới luật nhằm hƣớng dẫn đến cuộc sống thanh tịnh.

260. Hỏi: Hãy kể một vài trọng tội và giới điều mà các Tỳ Kheo đặc biệt bị ngăn

cấm không đƣợc vi phạm.

Đáp: Chƣ Tỳ Kheo chân chính không đƣợc phạm các giới:

Sát sanh,

Trộm cắp,

Dối trá phô trƣơng quyền phép “huyền bí” để phỉnh gạt mọi ngƣời,

Dâm dục,

Vọng ngữ (nói dối),

Uống rƣợu và ăn phi thời (quá ngọ),

Múa hát và đi xem múa hát,

Đeo tràng hoa, thoa phấn, xức dầu thơm v.v…

Nằm, ngồi giƣờng, đi văng hoặc ghế cao và rộng. Nhận tặng phẩm bằng vàng,

bạc, thóc lúa và thịt sống; quà biếu của đàn bà, thiếu nữ và ngƣời nô lệ; nhận trâu bò, voi v.v…

Nói xấu (phỉ báng),

Dùng lời nói thô bỉ, chƣởi mắng;

Ngồi lê đôi mách,

Đọc, nghe những chuyện thần thoại, hoang đƣờng;

Page 55: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Liên lạc (mai mối) giữa những ngƣời thế tục;

Mua bán,

Lƣờng gạt, hối lộ, lừa bịp và gian lận;

Giam cầm, cƣớp bóc và đe dọa ngƣời khác;

Thực hành những nghề nghiệp và yêu thuật nhƣ bói toán, chiêm tinh (coi sao hạn); xem tƣớng tay, và các ma thuật khác. Bất cứ nghề nào trong những

ma thuật này đều làm trì hoãn sự tiến tu của hành giả nhằm đạt tới cảnh giới Niết bàn.

261. Hỏi: Tỳ kheo có những bổn phận gì đối với hàng Phật tử tại gia?

Đáp: Nói chung, chƣ Tăng làm gƣơng mẫu đạo đức cao cả cho ngƣời cƣ sĩ,

giáo dục và hƣớng dẫn cho họ; thuyết giảng và truyền bá chánh pháp, tụng kinh Cầu an (Paritta) cho ngƣời đau ốm và quần chúng trong lúc gặp thiên tai công cộng, khi các Thầy đƣợc thỉnh cầu làm nhƣ thế; cũng nhƣ không ngừng khuyến

khích mọi ngƣời làm những việc phƣớc đức. Các Tỳ kheo cần khuyên răn Phật tử tránh làm điều ác, nên thể hiện lòng từ bi, có tâm hiền lành và tìm cách khích lệ

họ làm việc phúc lợi cho mọi ngƣời.

262. Hỏi: Những giới luật về việc thu nhận đệ tử xuất gia nhƣ thế nào?

Đáp: Họ không đƣợc nhận vào chùa từ dƣới 10 tuổi, phải có sự đồng ý của cha mẹ; ngƣời ấy không bị mắc bệnh hủi, mụt nhọt, lao phổi và điên loạn; phải

là ngƣời không thiếu thuế, không mắc nợ; không phạm tội hay bị tật nguyền, hoặc đang phục vụ cho chính quyền.

263. Hỏi: Ngƣời mới đi tu gọi là gì?

Đáp: Chú tiểu Sa Di (Samanera)[24].

264. Hỏi: Đến năm nào, chú Sa di có thể thọ giới làm Sa môn (Sramana)?

Đáp: Hai mƣơi tuổi.

265. Hỏi: Khi đến tuổi thọ đại giới (vị Sa Di) phải làm thế nào?

Đáp: Tại Đại Giới Đàn của chƣ Tăng, chú Sa Di đƣợc một thầy Tỳ Kheo đƣa ra giới thiệu, thông báo (với Đại Tăng) rằng chú hội đủ điều kiện để thọ giới và

Page 56: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

giới tử bạch rằng: “Tôi ngƣỡng bạch chƣ Đại Tăng xin đƣợc làm lễ thọ giới Cụ Túc

(Upasampada) v.v…”. Sau đó, vị Tỳ Kheo giới thiệu đề nghị rằng chú đáng đƣợc thọ giới. Và chú Sa Di liền đƣợc chấp thuận (bởi Đại Tăng).

266. Hỏi: Rồi chú làm gì nữa?

Đáp: Sau khi đắp y, chú đọc lại phép Tam Quy Y (Tisarana) và Thập giới

(Dasa Sila).

267. Hỏi: Hai giới hạnh căn bản thầy Tỳ Kheo cần phải giữ là những gì?

Đáp: Bất túc (thiếu thốn) và thanh tịnh (không dâm dục). Trƣớc khi thọ giới, vị Tỳ Kheo cần có 8 thứ đồ dùng sau đây: y áo, vòng đai thắt lƣng, bình bát,

lọc nƣớc, dao cạo, cây kim, cái quạt, đôi dép. Với sự hạn chế nghiêm nhặt theo Luật giới (Vinaya), vị Tỳ Kheo có thể giữ một vài vật dụng khác.

268. Hỏi: Về việc (chƣ Tăng) sám hối công cộng nhƣ thế nào?

Đáp: Nửa tháng một lần, lễ Bố Tát (Patimokha) đƣợc tổ chức khi các Tỳ

Kheo phát lộ trƣớc hội đồng (Đại Đức Tăng) những giới điều mà họ đã phạm để xin sám hối.

269. Hỏi: Thời biểu hằng ngày, thầy Tỳ Kheo phải thực hành nhƣ thế nào?

Đáp: Thầy Tỳ Kheo thức dậy trƣớc rạng đông, lau chùi, quét dọn tự viên (vihara), xung quanh cây Bồ Đề trồng bên cạnh chùa, đi lấy nƣớc uống và lọc để dùng trong ngày; đi ngồi thiền, dâng hoa trƣớc tháp (dagoba), nơi thờ xá lợi,

hoặc trƣớc cây Bồ-Đề; rồi đi khất thực từ nhà nọ qua nhà kia để thọ lãnh thức ăn - mà vị Tăng không cần phải yêu cầu, nhƣng do sự phát tâm cúng dƣờng để bát

của các thí chủ. Rồi vị Tỳ Kheo trở về, rữa chân và dùng sáng, sau đó họ lại đi ngồi thiền.

270. Hỏi: Phải chăng chúng ta tin rằng dâng hoa (mala pùjà) nhƣ một hành

động cúng lễ là không có phƣớc đức gì?

Đáp: Hành động ấy tự nó không có công đức, chỉ là một hình thức; nhƣng nếu ngƣời ta dâng cúng hoa nhằm biểu lộ sự thanh tịnh, thuần thành nhất của lòng tôn kính đầy nhiệt tâm đối với Đức Phật thì việc dâng hoa đích thực là một

hành động lễ bái cao cả.

Page 57: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

271. Hỏi: Tiếp sau đó, Thầy Tỳ Kheo làm gì?

Đáp: Thầy theo đuổi việc học của mình. Lúc chiều tối, thầy lại đi lau chùi

những nơi thờ cúng, thắp đèn, nghe lời chỉ giáo của bậc sƣ trƣởng; và thú nhận bất cứ lỗi lầm nào mà thầy có thể phạm.

272. Hỏi: Bốn phép quán tƣởng hay Tứ Niệm Xứ (Sati-pàtthàna) của thầy Tỳ

Kheo gồm những gì?

Đáp: 1. Thân Niệm Xứ (Kayànapas-sana)

2. Thọ Niệm Xứ (Vedanànupassànà)

3. Tâm Niệm Xứ (Cittànupassànà)

4. Pháp Niệm Xứ (Dhammanupassànà.

273. Hỏi: Mục đích của sự hành pháp Tứ Chánh Cần (Sammappadhànà) để làm

gì?

Đáp: Chế ngự lòng ái dục và phát triển thiện nghiệp nơi con ngƣời.

274. Hỏi: Theo nhận thức của thầy Tỳ Kheo về chân lý vô thƣợng, lý trí hay trực giác là điều toàn hảo nhất?

Đáp: Trực giác - trạng thái ý thức trong đó bất cứ chân lý mong muốn nào

đều có thể nhanh chóng thấu triệt.

275. Hỏi: Lúc nào có thể đạt tới trình độ ấy?

Đáp: Khi hành giả nhập thiền định, đã đắc đệ tứ thiền.

276. Hỏi: Phải chăng chúng ta tin rằng vào giai đoạn cuối cùng của Trí tuệ

(Jnàna), và trong trạng thái gọi là Định (Samadhi), tâm (chúng ta) trống rỗng và ý tƣởng bị giữ lại.

Đáp: Trong tình trạng tỉnh thức thông thƣờng, huệ nhãn của hành giả bị giới hạn nhƣ sự thấy biết của một ngƣời đang đi trên con đƣờng giữa những ngọn

đồi cao; nhƣng khi tâm thức đạt tới trình độ cao hơn của Trí Tuệ (Jnàna) và Thiền Định (Samadhi); huệ lực, nhƣ sự thấy của chim đại bàng bay lơ lửng trên

bầu trời xanh, và nhìn xuống thấy khắp toàn vùng.

Page 58: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

278. Hỏi: Kinh điển của chúng ta nói thế nào về việc dùng huệ lực này của Đức

Phật?

Đáp: Trong kinh chép rằng thƣờng lệ, vào mỗi buổi sáng, Đức Phật dùng thiên nhãn, quán sát thế gian xem đâu có ngƣời sẵn sàng giác ngộ chân lý; Đức

Phật liền sắp đặt, nếu có thể, Ngài đến thăm họ. Với những ngƣời tới yết kiến Đức Phật, Ngài quán sát tâm niệm, thấu rõ căn cơ, và hóa độ cho các thiện tín

này, tùy theo phƣớc duyên của họ.

PHẦN IV

SỰ PHÁT TRIỂN VÀ BÀNH TRƢỚNG CỦA PHẬT GIÁO

279. Hỏi: Xét về tổng số tín đồ, so sánh với các tôn giáo lớn khác, Phật giáo

ngày nay nhƣ thế nào?

Đáp: Số ngƣời theo Phật giáo đông hơn tín đồ của các tôn giáo khác.

280. Hỏi: Phỏng chừng đƣợc bao nhiêu?

Đáp: Khoảng 500 triệu (5.000 lakhs hoặc 500 crores của Ấn Độ): 5 phần 13 hay chƣa bằng nửa tổng dân số toàn thế giới.

281. Hỏi: Có những cuộc đại chiến đánh nhau, các quốc gia bị xâm lăng, và nhiều máu đào đã chảy vì sự truyền bá Phật giáo hay không?

Đáp: Không thấy lịch sử ghi chép một hành động tàn bạo và tội ác nào xảy ra vì sự truyền bá Phật giáo. Đến nay, nhƣ tôi đƣợc biết, Phật giáo chƣa làm đổ

một giọt máu nào (xem chú thích ở trƣớc - bằng chứng của giáo sƣ Kolb).

282. Hỏi: Vậy thì, bí quyết về sự phát triển mầu nhiệm của Phật giáo là ở đâu?

Đáp: Có thể không gì khác hơn là do bản chất vô thƣợng của giáo pháp Đức Phật: nền tảng chân lý hiển nhiên của nó, lời dạy đạo đức cao siêu và sự

phong phú của Phật giáo đối với mọi nhu cầu của nhân loại.

283. Hỏi: Phật giáo đã đƣợc truyền bá nhƣ thế nào?

Page 59: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Đức Phật, trong suốt 45 năm của đời Ngài đã đi du hóa rộng khắp

toàn xứ Ấn Độ, và thuyết giảng Phật pháp. Ngài đã gởi các đệ tử trí tuệ và tài đức bậc nhất của Ngài đi thuyết pháp khắp nơi trên đất Ấn.

284. Hỏi: Đức Phật đã phái các nhà truyền giáo đầu tiên của Ngài đi hoằng pháp

lúc nào?

Đáp: Vào ngày trăng tròn tháng mƣời (Wap).

285. Hỏi: Đức Phật đã dạy các đệ tử nhƣ thế nào?

Đáp: Ngài gọi tất cả lại và bảo: “Này hởi các Tỳ Kheo, hãy lên đƣờng, ra đi và thuyết giảng giáo pháp cho toàn thế giới. Hãy đi hoằng pháp vì lợi ích cho

nhiều ngƣời khác cũng nhƣ cho chính các con… Hãy mang lại nguồn vui cho nhân loại. Và mỗi ngƣời hãy đi một ngả”.

286. Hỏi: Việc này xảy ra bao lâu trƣớc Công nguyên?

Đáp: Khoảng sáu thế kỷ.

287. Hỏi: Các vua chúa có giúp đỡ gì trong việc hoằng pháp không?

Đáp: Ngoài những giai cấp thấp hèn, nhiều vị vua (Rajas) và đại vƣơng (Maharajas) đã quy y theo Phật, và góp phần giúp đỡ của họ cho việc truyền bá

Phật giáo.

288. Hỏi: Những nhà hành hƣơng đã góp phần nhƣ thế nào?

Đáp: Các nhà hành hƣơng thông thái, trải qua nhiều thế kỷ, đến tu học tại Ấn Độ và đã mang theo họ về bản quốc, nhiều kinh điển Phật giáo. Do đó, mọi

quốc gia dần dần đã từ bỏ đạo gốc của họ để theo Phật giáo.

289. Hỏi: Trong sự nghiệp kiến lập lâu dài cho Phật Pháp, đối với ai, hơn bất cứ nhân vật nào khác mà thế giới đã mang ơn?

Đáp: Đối với vua A Dục (Ashoka), hiệu Đại Vƣơng, cũng gọi là Thiện Kiền

Vƣơng (Piyadàsi) hay Pháp A Dục (Dharmàshoka). A Dục là con của Tân Đầu Sa La (Bindusàra), vua xứ Ma Kiệt Đà (Magadha), và cháu nội của Chiên Đà La Cấp Đa (Chandragupta), vị vua đã đánh đuổi quân Hy Lạp ra khỏi Ấn Độ.

Page 60: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

290. Hỏi: A Dục Vƣơng lên ngôi năm nào?

Đáp: Vào thế kỷ thứ ba trƣớc Tây Lịch, khoảng hai thế kỷ sau thời đại của Đức Phật. Các sử gia bất đồng ý kiến, nhƣng không quá nhiều, xem đó nhƣ là ngày chính xác tức vị của đức vua.

291. Hỏi: Điều gì đã làm vua A Dục trở nên vĩ đại?

Đáp: Nhà vua là một quốc vƣơng hùng mạnh nhất trong lịch sử Ấn Độ, nhƣ một chiến sĩ và chính khách; song những đức tính cao thƣợng nhất của đức vua là lòng yêu sự thật và công bình, khoan dung với mọi khác biệt tôn giáo, không

thiên vị đối với nhân viên chính quyền; chăm sóc các bịnh nhân, những ngƣời nghèo khổ và thú vật. Danh tiếng của nhà vua đƣợc tôn vinh từ Xi-bê-ri-a

(Siberia) đến Tích Lan (Ceylon).

292. Hỏi: Phải chăng vua A Dục bẩm sinh là một Phật tử?

Đáp: Không. Đức vua đã quy y theo Phật giáo với Đại Đức Ni Câu Luật (Nigrodha), một vị A La Hán (Arhat) vào năm thứ mƣời, sau khi nhà vua làm lễ

đăng quang.

293. Hỏi: Vua A Dục đã đóng góp gì cho Phật giáo?

Đáp: Nhà vua đã loại trừ các Tỳ Kheo (Bhikkhus) phá giới, khuyến khích các vị tu hành chân chính, kiến tạo nhiều chùa tháp khắp nơi; thiết lập những

công viên, mở nhà thƣơng cho mọi ngƣời và thú vật, tổ chức đại hội ở Hoa Thị Thành (Patna) để duyệt xét và kết tập lại kinh điển Phật giáo; phát triển sự giáo dục tín ngƣỡng cho hàng nữ giới, và gởi sứ thần đến năm vị vua Hy Lạp cùng chƣ

hầu của họ, và đến các quốc vƣơng của Ấn Độ để giảng truyền giáo lý Đức Phật. Chính vua A Dục đã cho xây dựng các bảo tháp kỷ niệm tại Ca Tỳ La Vệ

(Kapilavastu), Bồ đề Đạo Tràng (Buddha Gaya), vƣờn Lộc Uyển (Isipatana), và Câu Thi Na (Kusinara); bốn nơi Phật tích quan trọng của du khách hành hƣơng, ngoài hàng nghìn thánh tích Phật giáo khác.

294. Hỏi: Những chứng tích danh tiếng nào hiện còn tồn tại, nói đến đức tính cao thƣợng của nhà vua?

Đáp: Trong những năm gần đây, ngƣời ta đã khám phá tìm thấy tại nhiều nơi ở Ấn Độ, 14 Sắc lệnh (Edicts) của đức vua khắc trên đá, và 8 chỉ dụ khác

khắc trên các thạch trụ do nhà vua truyền cho thiết lập. Những bi ký này hoàn toàn chứng minh cho thấy vua A Dục là một trong những quốc vƣơng tài đức và

có tâm hồn cao thƣợng nhất từ trƣớc đến nay.

Page 61: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

295. Hỏi: Các bi ký này bày tỏ thế nào về Phật giáo?

Đáp: Trên đó ghi chép rằng Phật giáo là một tôn giáo của lòng từ bi quảng

đại, tình huynh đệ thế giới, của đạo đức và công bằng. Phật giáo không có sự xấu xa của lòng ích kỷ, chủ trƣơng bè phái hay thiếu lòng khoan dung. Những bi

ký ghi chép điều hơn thế nữa là Phật giáo đã chinh phục đƣợc lòng tôn kính mà các đại học giả (Pandits) Tây Phƣơng ngày nay đang còn duy trì.

296. Hỏi: Món quà quí báu nhất mà A Dục Vƣơng đã cống hiến cho Phật giáo là

những gì?

Đáp: Đức Vua đã cho phép hoàng tử của Ngài là Mahinda và công chúa Sanghamitta đi xuất gia và phái họ qua Tích Lan để truyền bá Phật Pháp.

297. Hỏi: Sự kiện này có thấy ghi chép trong lịch sử Phật giáo của Tích Lan hay

không?

Đáp: Có, tất cả đều đƣợc ghi chép trong tập Đại Sử (Mahavamsa) bởi các nhân viên bảo tồn sử liệu của hoàng gia mà bấy giờ họ đang sống và gặp thấy

các nhà hoằng pháp đó.

298. Hỏi: Hiện nay còn tìm thấy chứng tích nào về phái đoàn truyền giáo của Sƣ cô Sanghamitta hay không?

Đáp: Có. Sƣ cô đã mang (từ Ấn Độ) qua Tích Lan một nhánh chiết từ cây

Bồ Đề gốc mà chính ở đó Đức Phật đã ngồi thiền định khi Ngài thành đạo, và hiện nay nó đang còn xanh tốt.

299. Hỏi: Trồng ở đâu?

Đáp: Tại thị trấn Anuradhapura. Sử liệu về nhánh cây này đã đƣợc chính

thức bảo trì đến ngày nay. Trồng vào năm 306 trƣớc Tây lịch, đó là cây Bồ Đề lịch sử cổ nhất trên thế giới.

300. Hỏi: Ai đang trị vì vƣơng quốc (Tích Lan) vào lúc ấy?

Đáp: Vua Devanampiyatissa. Vợ của nhà vua, hoàng hậu Anula đã mời Sƣ

Cô Sanghamitta qua để thành lập một phân bộ của giáo hội Tỳ Kheo Ni (Bhikkhunis).

Page 62: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

301. Hỏi: Sƣ Cô Sanghamitta đi với ai?

Đáp: Với các Tỳ Kheo Ni khác. Sƣ Cô lúc bấy giờ, đã thu nhận hoàng hậu

Anula, và nhiều phu nhân cùng với 500 thiếu nữ vào Giáo Hội (Ni Bộ).

302. Hỏi: Chúng ta có thể trình bày những kết quả hoằng pháp do các phái đoàn truyền giáo của A Dục Vƣơng thực hiện đƣợc ở ngoại quốc hay không?

Đáp: Hoàng tử và công chúa của A Dục đã truyền bá Phật giáo qua Tích Lan, chƣ Tăng của Ngài đã phổ biến đạo Phật đến toàn miền bắc xứ Ấn, vào 14 tiểu quốc Ấn Độ bên ngoài lãnh thổ của đức vua; đến năm vị hoàng đế Hy Lạp và

chƣ hầu của họ, mà vua A Dục đã ký hiệp ƣớc để những quốc vƣơng này đón tiếp Tăng đoàn truyền giáo của mình.

303. Hỏi: Bạn có thể kể tên các vị vua đó ra đƣợc không?

Đáp: Vua Antiochus của nƣớc Syria, Ptolemy của Ai cập (Egypt), vua

Antigonus của xứ Macedon, vua Merga của vƣơng quốc Cyrene, và hoàng đế Alexander của nƣớc Epidos.

304. Hỏi: Do đâu chúng ta biết những điều này?

Đáp: Từ các sắc lệnh của A Dục đại vƣơng, do đức vua truyền khắc ghi trên

đá và thạch trụ mà hiện đang còn tồn tại, và có thể nhìn thấy bởi những ai đến viếng thăm các nơi đó.

305. Hỏi: Qua giáo hội tôn giáo Tây Phƣơng nào, Phật Pháp (Buddha Dharma)

đã hòa hợp với tƣ tƣởng Âu Châu?

Đáp: Qua các giáo phái của Therapeuts ở Ai Cập và phái Essenes ở Palestine.

306. Hỏi: Những kinh điển Phật giáo đầu tiên đƣợc truyền sang Trung Quốc vào

thời kỳ nào?

Đáp: Ngay từ thế kỷ thứ 2 hay thứ 3 trƣớc Tây Lịch. Trong hai tập sách tiếng Pali Samanta Pasàdika và Sàrattha Dipani ghi chép có năm vị Tăng đã đƣợc

vua A Dục phái sang năm vùng đất của Trung Hoa.

307. Hỏi: Phật giáo du nhập Đại Hàn (Korea) từ đâu và khi nào?

Page 63: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Từ Trung Hoa, vào năm 372 Tây Lịch.

308. Hỏi: Từ đâu và lúc nào Phật giáo đã du nhập Nhật Bản?

Đáp: Từ Đại Hàn, vào năm 552 sau Tây Lịch.

309. Hỏi: Đạo Phật đƣợc truyền vào Cochin China, Formosa (Đài Loan), Java (Nam Dƣơng), Mongolia (Mông cổ), Yorkand, Balk, Bokhara, Afghanistan (A Phú

Hãn) và các quốc gia miền Trung Á Châu, từ đâu và lúc nào?

Đáp: Vào khoảng thế kỷ thứ 4 và thứ 5 sau Tây Lịch.

310. Hỏi: Từ Tích Lan Phật giáo đƣợc truyền tới đâu và vào lúc nào?

Đáp: Đến Miến Điện (Burma) vào năm 450 Tây Lịch và sau đó, tới Arakan (cao nguyên Miến), Kamboja (A Phú Hãn) và Pegu (Miến Điện). Vào thế kỷ thứ 7

(năm 638 Tây lịch), Phật giáo truyền vào Thái Lan (Siam), nơi mà từ đó đến nay, Phật giáo luôn luôn là quốc giáo.

311. Hỏi: Từ Kashmir (Ấn Độ), ngoài Trung Hoa ra, Phật giáo đã truyền đến đâu?

Đáp: Vào Nepal và Tây Tạng (Tibet).

312. Hỏi: Tại sao Phật giáo đã một thời là tôn giáo thạnh hành khắp Ấn Độ,

ngày nay gần nhƣ suy đồi tại đó?

Đáp: Phật Pháp, giáo lý của Đức Nhƣ Lai (Tathagata), khởi nguyên vốn thanh tịnh, cao siêu; chƣ Tăng (Sangha) có đạo đức và giữ gìn gìới luật, Phật

giáo nhờ vậy cảm hóa mọi tâm hồn và mang sự an lạc đến cho nhiều quốc gia, nhƣ ánh sáng ban mai chiếu nguồn sống đến những cành hoa. Nhƣng, sau vài

thế kỷ các thầy Tỳ Kheo bất hảo đã thọ giới cụ túc (Upasampasa); đoàn thể chƣ Tăng trở nên giàu có, biếng nhác, thích hƣởng thụ, cho nên Phật Pháp suy đồi và Phật giáo đã rời bỏ Ấn Độ.

313. Hỏi: Vào thế kỷ thứ 9 hay thứ 10 Tây Lịch có biến cố nào xảy ra khiến Phật

giáo càng nhanh chóng bị suy yếu hay không?

Đáp: Có.

Page 64: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

314. Hỏi: Ngoài tình trạng thối nát về tinh thần, sự đồi bại của chƣ Tăng, và

phản ứng của quần chúng từ lý tƣởng cao siêu của con ngƣời đến sự mê lầm sung bái thần tƣợng, đã có nguyên do khác nữa phải không?

Đáp: Đúng vậy. Chúng ta đƣợc biết rằng quân Hồi giáo đã xâm lăng tàn

phá và chiếm đóng nhiều vùng rộng lớn của Ấn Độ; và khắp mọi nơi, chúng đã cố gắng hết sức để tiêu diệt Phật giáo của chúng ta.

315. Hỏi: Chúng bị lên án đã hành động những tội ác nhƣ thế nào?

Đáp: Bọn chúng đã đốt cháy, phá đổ hủy diệt nhiều chùa tháp, tàn sát chƣ

Tăng và phóng lửa thiêu đốt những kinh điển Phật Giáo của chúng ta.

316. Hỏi: Kinh sách của chúng ta có hoàn toàn bị thiêu hủy ở Ấn Độ hay không?

Đáp: Không. Nhiều vị Tỳ Kheo đã mang theo những kinh sách của họ trốn thoát vƣợt qua biên giới (Ấn Độ) vào đất Tây Tạng và nhiều nơi ẩn trú an toàn

khác.

317. Hỏi: Có chứng cớ gì cho biết những kinh sách này gần đây đã đƣợc tìm thấy lại hay không?

Đáp: Có. Ông Rai Bhanur Sarat Chandra Das, nhà học giả (pandit) ngƣời

Bengali (Ấn Độ), đã tìm thấy hàng trăm cuốn kinh trong các thƣ viện tại những ngôi chùa (Vihara) ở Tây Tạng, và ông đã mang theo về nƣớc nhiều bản kinh

sách Phật quí giá nhất mà hiện nay chúng đang đƣợc chính phủ Ấn Độ dùng, để sƣu tập, chú giải và cho ấn hành.

318. Hỏi: Tại quốc gia nào chúng ta có lý để tin rằng các kinh điển Phật Giáo

nguyên thỉ đƣợc bảo trì toàn hảo nhất và ít bị hƣ hoại?

Đáp: Ở Tích Lan. Cuốn Bách Khoa Tự Điển Britannaica ghi chép rằng tại hải đảo này Phật giáo có những lý do đặc biệt “vẫn duy trì đƣợc phần lớn tinh hoa nguyên thỉ của nó cho đến ngày nay”

319. Hỏi: Có sự duyệt xét kinh điển nào đƣợc thực hiện trong thời hiện đại hay không?

Đáp: Có. Tại Tích Lan vào năm 1875, một đại hội gồm các Tỳ Kheo thông bác đã đƣợc tổ chức để duyệt chính lại cẩn thận về Luật Tạng (Vinaya Pitaka),

dƣới sự chủ tọa của hai vị Trƣởng lão H. Sumangala và Pradhana Sthavira.

Page 65: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

320. Hỏi: Có sự trao đổi thân thiện nào, vì lợi ích của Phật giáo giữa dân tộc các

quốc gia theo Nam và Bắc Tông hay không?

Đáp: Năm 1891, một đại hội đã tổ chức thành công nhằm liên kết hai tông phái lớn chịu đồng ý chấp thuận 14 đề nghị, xem nhƣ biểu hiện những giáo lý

căn bản của Phật giáo mà đƣợc cả hai hệ phái đều thừa nhận và giảng truyền. Những đề nghị này do đại tá Olcott (ngƣời Hoa Kỳ) soạn thảo, đƣợc phiên dịch kỹ

lƣỡng sang các thứ tiếng Miến Điện, Tích Lan, Nhật Bản; thảo luận từng điểm một, đã đƣợc nhất trí chấp thuận, ký tên bởi các vị Tăng đại diện (trƣởng phái đoàn) và ấn hành vào tháng giêng năm 1892.

321. Hỏi: Với kết quả tốt đẹp nhƣ thế nào?

Đáp: Kết quả đã mang lại sự hiểu biết thân thiện còn duy trì đến ngày nay, nhiều vị Tỳ Kheo và Sa Di (Samaneras) Nhật Bản đƣợc gửi qua Tích Lan, Ấn Độ để theo học cổ ngữ Pali và tiếng Phạn (Sanskrit).

322. Hỏi: Có dấu hiệu gì cho thấy Phật Pháp đang đƣợc phát triển đầy thiện cảm tại các quốc gia Tây Phƣơng hay không? [25]

Đáp: Có. Những dịch phẩm của các kinh sách (Phật giáo) giá trị đang xuất hiện, nhiều tài liệu viết đăng ở tập san, tạp chí, và báo chí đƣợc phát hành cũng

nhƣ những bài luận thuyết xuất sắc của các tác giả nổi tiếng đã đƣợc in ra. Hơn nữa, nhiều thuyết trình viên Phật tử và không Phật tử đang thuyết giảng Phật

giáo cùng khắp cho đông đảo thính giả tại các nƣớc Tây Phƣơng. Phái Chân Tông (Shin Shu) của Phật Giáo Nhật Bản đã thực sự thiết lập các hội truyền giáo ở Honolulu, San Francisco, Sacramento, và nhiều nơi khác tại Hoa Kỳ.

323. Hỏi: Hai lý thuyết căn bản gì của Phật giáo đã đƣợc ngƣời Tây Phƣơng đặc biệt chấp nhận?

Đáp: Đó là thuyết Nghiệp Báo (Karma) và Luân Hồi. Sự nhanh chóng tin

vào thuyết này của họ là điều rất đáng ngạc nhiên.

324. Hỏi: Họ tin tƣởng điều gì khi giáo lý Nghiệp Báo và Luân Hồi đƣợc giải thích?

Đáp: Họ tin vào nguyên tắc tự nhiên của sự công bằng và chân lý rõ ràng của các giáo thuyết đó.

PHẦN V

Page 66: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC

325. Hỏi: Phải chăng nên xem đạo Phật là tôn giáo của khoa học hay có thể xếp nó vào loại tôn giáo “Thiên Khải”?

Đáp: Phật giáo đƣợc nhấn mạnh không phải là tôn giáo mặc khải. Đức Phật đã không thuyết giảng điều nhƣ vậy, và cũng không ai hiểu Ngài nhƣ thế. Trái lại

Đức Phật đã trình bày giáo pháp của chân lý vĩnh cửu mà chƣ Phật (quá khứ) trƣớc Ngài đã dạy giống y nhƣ Ngài.

326. Hỏi: Hãy cho biết tên bài Kinh (Sutta) trong đó Đức Phật dạy chúng ta

đừng nên tin tƣởng vào điều Thiên Khải mà không đƣợc kiểm chứng bởi lý trí và kinh nghiệm của mình.

Đáp: Kinh Kalama trong Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikaya).

327. Hỏi: Phật tử có chấp nhận lý thuyết cho rằng mọi vật đƣợc tạo thành từ cái

không có bởi Thƣợng Đế hay không?

Đáp: Đức Phật dạy có hai điều mà không có nguồn gốc phát sinh, đó là Hƣ Không (Akasha) và Niết Bàn (Nirvana). Mọi vật đến từ Hƣ Không, tuân theo định

luật vận hành (nhân quả) nằm trong đó và sau khi sinh ra, chúng sẽ hủy diệt. Chƣa bao giờ có một vật gì lại sinh ra từ cái không có. Chúng ta không tin vào

phép mầu, cho nên chúng ta phủ nhận sự tạo dựng và không thể tin đƣợc một sự lập thành từ cái không có. Không một vật thể hữu cơ nào tồn tại vĩnh cửu. Vạn vật ở trong tình trạng biến dịch thƣờng xuyên, cùng trải qua mọi sự đổi thay, cải

tạo; và duy trì tiếp tục mãi nhƣ thế theo luật tiến hóa (vô thƣờng).

328. Hỏi: Phải chăng Phật giáo phản đối sự giáo dục và nghiên cứu khoa học?

Đáp: Hoàn toàn trái hẳn, trong một bài pháp ở kinh Thi Ca La Việt (Sigalovada), do Đức Phật thuyết giảng, Ngài nhấn mạnh một trong những bổn

phận của bổn sƣ là nên dạy cho đệ tử của mình “kiến thức khoa học và mọi sự hiểu biết khác”. Giáo lý cao siêu của Đức Phật dành cho ngƣời gíác ngộ, tài đức

và có tƣ tƣởng.

329. Hỏi: Bạn có thể trình bày bất cứ sự xác nhận nào khác của khoa học đối với Phật giáo hay không?

Đáp: Giáo pháp Đức Phật dạy rằng nhân loại có nhiều đời tổ tiên, và có một

nguyên lý sai biệt giữa con ngƣời; một vài cá nhân này có nhiều khả năng chóng đạt tới giác ngộ và chứng đắc Niết Bàn hơn những kẻ khác.

Page 67: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

330. Hỏi: Có điều gì khác nữa không?

Đáp: Phật giáo tán đồng lý thuyết không thể nào hủy diệt đƣợc năng lực (force).

331. Hỏi: Nên gọi Phật giáo là một đồ biểu khoa học hay quy tắc đạo lý?

Đáp: Nói đúng ra, Phật giáo là một triết học luân lý thuần túy, một hệ

thống đạo đức và là một siêu hình học tiên nghiệm. Đức Phật tỏ ra hết sức sáng suốt trong thái độ giữ im lặng, khi đồ đệ Malunkya thỉnh vấn Ngài về nguồn gốc của vạn hữu.

332. Hỏi: Tại sao Đức Phật đã hành động nhƣ thế?

Đáp: Bởi vì Ngài nghĩ rằng mục đích chính của chúng ta là nên nhận thức rõ cảnh sống (khổ đau) đang hiện hữu xung quanh chúng ta và cố gắng (tu tập) cải thiện cho cuộc đời đƣợc toàn hảo hơn, chứ không nên để mất thì giờ vào những

lý luận siêu hình.

333. Hỏi: Phật tử giải đáp thế nào về trƣờng hợp cha mẹ ác đức, sinh ra con cái hiền lành, thông minh; và thuần lƣơng lại gặp phải cảnh con cái xấu xa?

Đáp: Chính vì do Nghiệp Báo (Karmas) của riêng con cái và cha mẹ, mỗi

ngƣời có thể xứng đáng nhận chịu sự liên hệ đặc biệt nhƣ thế, nên đã phải gặp nhau trong đời này.

334. Hỏi: Phải chăng Phật tử tin rằng thân thể của Đức Phật phóng hào quang?

Đáp: Đúng vậy, từ bên trong kim thân Đức Phật có ánh sáng huyền diệu

đƣợc phóng ra bởi thần lực thánh thiện của Ngài.

335. Hỏi: Danh từ Pali gọi đó là gì?

Đáp: Hào quang của Đức Phật (Buddha-ransi).

336. Hỏi: Trong hào quang, ngƣời ta có thể thấy bao nhiêu màu?

Đáp: Sáu màu, từng cặp nối liền nhau.

Page 68: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

337. Hỏi: Hãy kể tên các màu đó.

Đáp: Xanh (Nila), vàng (Pita), đỏ (Lohita), trắng (Avadata), da cam, và màu tổng hợp của năm màu vừa kể.

338. Hỏi: Những ngƣời khác có thể phóng ra ánh hào quang nhƣ thế đƣợc không?

Đáp: Đƣợc, tất cả các vị A La Hán đều có hào quang và thực vậy, ngƣời có

định lực càng cao thì ánh hào quang của họ phát ra càng mạnh, càng sáng.

339. Hỏi: Các màu tƣợng trƣng này chúng ta thấy ở đâu?

Đáp: Những tƣợng Phật tô sơn màu tôn trí thờ ở các chùa. Những màu hào quang này, chúng cũng đƣợc thấy nơi các sọc cờ Phật giáo dùng lần đầu tiên tại

Tích Lan, và hiện nay đã đƣợc rộng rãi chấp nhận ở khắp những quốc gia Phật giáo.

340. Hỏi: Trong bài kinh nào Đức Phật đã nói đến ánh hào quang này của Ngài?

Đáp: Trong kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna Suttà), Ngài A Nan, đệ

tử thân tín của Đức Phật, nhận thấy ánh sáng rực rỡ phát sinh từ kim thân của đức Bổn Sƣ; và Đức Phật dạy rằng có hai trƣờng hợp mà ánh hào quang này xuất hiện, đó là: a) ngay khi Đức Nhƣ Lai (Tathagata) vừa chứng đạo vô thƣợng;

và b) trong đêm cuối cùng Ngài nhập Niết Bàn.

341. Hỏi: Chúng ta đọc thấy ở đâu ánh hào quang này đƣợc chiếu ra từ kim thân của một vị Phật khác?

Đáp: Trong câu chuyện về Đức Bồ Tát Sumedha, và Phật Nhiên Đăng

(Dipankara), ghi chép ở tập Nhân Duyên Truyện (Nidànakatha) trong kinh Bổn Sanh (Jataka), hay chuyện tiền thân của đức Bồ Tát Tất Đạt Đa Cồ Đàm

(Bodhisattva Siddhartha Gautama).

342. Hỏi: Hào quang này đƣợc diễn tả nhƣ thế nào?

Đáp: Nhƣ vầng ánh sáng có chiều sâu của một fathom (đơn vị đo bề sâu của nƣớc khoảng 6 feet).

Page 69: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

343. Hỏi: Tín đồ Ấn Độ giáo (Hindus) gọi ánh sáng đó là gì?

Đáp: Tejas, và ánh sáng rộng dài của nó gọi là Prakàsha.

344. Hỏi: Hiện nay ngƣời Châu Âu gọi ánh sáng đó là gi?

Đáp: Tinh hoa của con ngƣời.

345. Hỏi: Nhà đại khoa học nào đã chứng minh sự hiện hữu của tinh hoa này bằng cách hƣớng dẫn chu đáo các cuộc thí nghiệm?

Đáp: Ông Baron Von Reichenbach. Công trình khảo nghiệm của ông đã

trình bày đầy đủ trong tập Khảo Cứu (researches), xuất bản năm 1844-1845; và bác sĩ Braduc ở Ba Lê (Paris) gần đây cũng đã chụp đƣợc hình ánh sáng đó.

346. Hỏi: Ánh sáng tinh hoa này là một hiện tƣợng huyền bí hay tự nhiên?

Đáp: Tự nhiên. Nó không những chỉ tìm thấy nơi con ngƣời, mà ngay cả ở

loài vật, cây cối và khoáng chất cũng có.

347. Hỏi: Trƣờng hợp nơi Đức Phật hay một vị A La Hán (Arhat) thì đặc biệt ánh sáng đó nhƣ thế nào?

Đáp: Nó hoàn toàn sáng chói hơn và chiếu xa hơn trƣờng hợp ở con ngƣời

và các vật thể khác. Đó là chứng cứ về sự phát triển cao độ của oai lực thần thông (iddhi). Ánh sáng này đƣợc thấy phát chiếu ra từ một ngôi bảo tháp ở Tích

Lan, nơi ngƣời ta bảo rằng có xá lợi (tro cốt) của Đức Phật tôn thờ tại đó.

348. Hỏi: Tín đồ của các tôn giáo khác, ngoài Phật và Ấn Độ giáo ra, cũng tin có ánh sáng này phải không?

Đáp: Đúng vậy, nơi những hình tƣợng vẽ của các họa sĩ Thiên chúa, ánh

sáng này tƣợng trƣng cho hào quang chiếu ra từ thánh thể của các vị Thánh Nhân của họ. Nhiều tôn giáo khác cũng tin nhƣ vậy.

349. Hỏi: Sự kiện lịch sử nào đã tán đồng lý thuyết hiện đại về ý kiến thôi miên?

Đáp: Câu chuyện về Tỳ Kheo Chullapanthaka ghi chép trong tập chú giải

tiếng Pali về kinh Pháp Cú (Dhammapada) v.v…

Page 70: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

350. Hỏi: Hãy cho tôi bằng chứng cụ thể.

Đáp: Đó là một Tỳ Kheo đã chứng quả A La Hán. Ngày nọ, Đức Phật phái một sứ giả đến thăm Tỳ Kheo trên. Khi vị này vừa đến chùa (Vihàra), ông ta thấy một nhóm gồm 300 Tỳ Kheo, tất cả đều giống y hệt nhau về mọi phƣơng diện. Vị

sứ giả liền hỏi ai là Tỳ Kheo Chullapanthaka; mọi ngƣời trong số 300 khuôn mặt giống nhau đều trả lời: “Tôi là Chullapanthaka”.

351. Hỏi: Rồi vị sứ giả làm sao?

Đáp: Trong tình trạng mơ hồ nhầm lẫn đó, ông ta đành trở về để bạch lại

với Đức Phật.

352. Hỏi: Đức Phật đã dạy vị sứ giả nhƣ thế nào?

Đáp: Đức Phật bảo vị này trở lại chùa đó, và dặn nếu sự việc xảy ra giống nhƣ trƣớc thì nắm tay ngƣời nào đầu tiên nói ông ta là Chullapanthaka, và huớng

dẫn ngƣời đó về cho Ngài. Đức Phật biết rằng vị tân A La Hán muốn phô trƣơng thần lực chứng đắc của mình bằng cách gây ấn tƣợng những hình ảnh ảo giác về

ông ta trƣớc vị sứ giả.

353. Hỏi: Năng lực tạo ảo giác này danh từ Pali gọi là gì?

Đáp: Manomaya Iddhi (Tâm tạo thần thông).

354. Hỏi: Phải chăng những khuôn mặt ảo giác là hình dáng con ngƣời đích thực của vị A La Hán? Chúng bao gồm thực chất và có thể xúc phạm hoặc điều khiển

đƣợc bởi vị sứ giả hay không?

Đáp: Không; chúng là những hình ảnh tạo ra trong tâm thức vị sứ giả bởi ý tƣởng và ý lực đƣợc tu luyện của đức A La Hán.

355. Hỏi: Bạn có thể so sánh chúng với điều gì?

Đáp: Sự phản chiếu của một ngƣời trong tấm gƣơng giống hệt nhƣ ngƣời đó, nhƣng không phải thực.

Page 71: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

356. Hỏi: Muốn tạo sự ảo giác nhƣ thế trong tâm thức của vị sứ giả, điều cần

thiết là phải làm sao?

Đáp: Tỳ Kheo Chullapanthaka phải hình thành rõ ràng trong tâm thức ông ta đúng diện mạo của chính mình; và rồi tạo ra nhiều hình ảnh giống hệt hay

trùng hợp, tùy ý thích vị Tỳ Kheo mong muốn trong tâm trí của ngƣời sứ giả.

357. Hỏi: Sự tiến triển này ngày nay gọi là gi?

Đáp: Ý kiến về thôi miên.

358. Hỏi: Phải chăng những hình ảnh ảo giác đó, bất cứ nhóm thứ ba nào cũng có thể thấy đƣợc?

Đáp: Điều ấy tùy thuộc ý muốn của vị A La Hán hoặc nhà thôi miên.

359. Hỏi: Bạn muốn nói thế nào?

Đáp: Chẳng hạn, có 50 hay 500 ngƣời ở đó, nhƣng thay vì một, vị A La Hán có thể muốn tất cả mọi ngƣời đều chứng kiến thuật ảo giác đó, hoặc nếu thích

ông ta có thể làm cho riêng mình vị sứ giả thấy chúng mà thôi.

360. Hỏi: Ngày nay, ngành khoa học này ai cũng biết phải không?

Đáp: Nó rất phổ thông và quen thuộc đối với các sinh viên của môn học thôi miên và ảo thuật.

361. Hỏi: Niềm tin tƣởng nền khoa học hiện đại của chúng ta đã tán đồng lý

thuyết Nghiệp Báo của Phật giáo nhƣ thế nào?

Đáp: Các nhà khoa học hiện đại thuyết minh rằng mỗi thế hệ con ngƣời là kẻ thừa hƣởng những kết quả của các việc làm thiện và ác của thế hệ trƣớc đó,

không phải ở tập thể, mà trong mọi trƣờng hợp cá nhân. Mỗi ngƣời chúng ta, theo Phật giáo, nhận chịu sự ra đời mà nó tiêu biểu cho những hành động do ngƣời ấy đã tạo ra trong kiếp trƣớc. Đây là ý niệm về thuyết Nghiệp Báo (Karma).

362. Hỏi: Kinh Vasettha dạy thế nào về lý nhân duyên trong Thiên Nhiên (vũ trụ)?

Page 72: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Đáp: Kinh dạy rằng: “Thế giới tồn tại do nhân duyên, mọi vật tồn tại do

nhân duyên, và tất cả chúng sanh liên hệ với nhau đều do nhân duyên”.

363. Hỏi: Phật giáo có dạy rằng vũ trụ hữu hình: quả đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, khoáng vật, thảo mộc, loài vật, và thế giới con ngƣời của chúng ta là

thƣờng còn hay không?

Đáp: Không. Phật giáo dạy rằng tất cả đều luôn luôn thay đổi (vô thƣờng), và tất cả phải hủy diệt theo thời gian.

364. Hỏi: Phải chăng chúng không bao giờ tái hiện trở lại.

Đáp: Không phải vậy: định luật biến đổi, hƣớng dẫn bởi Nghiệp Lực, cá

nhân và tập thể, sẽ tạo ra vũ trụ khác với dung tích của nó, nhƣ vũ trụ của chúng ta đã đƣợc tạo thành từ hƣ không (Akàsha).

365. Hỏi: Phật giáo thừa nhận rằng bản chất con ngƣời có tiềm năng tạo ra việc

phi thƣờng, gọi chung là “phép lạ”, phải vậy không?

Đáp: Đúng thế. Song những phép mầu đó là tự nhiên, chứ không phải siêu tự nhiên. Chẳng hạn chúng có thể phát triển bởi phƣơng pháp đƣợc trình bày

trong cuốn sách Phật giáo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Màrga).

366. Hỏi: Môn khoa học này gọi là gì?

Đáp: Danh từ Pali gọi là Thần Túc Thông (Iddhi Vidhanànà).

367. Hỏi: Có bao nhiêu loại?

Đáp: Hai: Bàhira, là phép thần thông tạo nên cảnh vật, có thể nhất thời

chứng đắc do công phu tu hành khổ hạnh; hay nhờ đến sức của những vị thuốc, sự tụng niệm thần chú hoặc các ngoại lực giúp đỡ khác; và Sasanikas, là phép thần thông thành tựu bằng cách tu luyện nội tâm; nó bao gồm tất cả và hơn cả

phép lạ của thần thông trong cõi Dục Giới (Laukika Iddhi).

368. Hỏi: Hạng ngƣời nào có đƣợc những thần thông này?

Đáp: Ai thực hành theo pháp môn tu khổ hạnh gọi là Thiền định (Dhyana), dần dần họ sẽ phát triển đƣợc các phép thần thông đó.

Page 73: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

369. Hỏi: Thần thông này có thể bị mất hay không? [26]

Đáp: Phép thần thông Bàhira có thể mất, nhƣng thần thông Sasanika một khi đã đƣợc thì còn mãi. Xuất thế (Lokottara) trí, khi đã đƣợc, cũng không bao giờ mất, và chỉ cần có trí tuệ ấy, vị A La Hán có thể đạt tới cảnh giới tuyệt đối

của Niết Bàn (Nirvana); và trí tuệ này có thể thành tựu nhờ thực hành theo cuộc sống cao siêu của Bát Chánh Đạo.

370. Hỏi: Đức Phật có xuất thế thần thông (Lo-kottara Iddhi) hay không?

Đáp: Có, một cách toàn hảo.

371. Hỏi: Các đệ tử của Ngài cũng có thần thông này?

Đáp: Có ở một vài vị, chứ không phải tất cả đều có; trình độ đạt tới những thần thông này khác biệt tùy theo mỗi cá nhân.

372. Hỏi: Hãy cho ví dụ.

Đáp: Trong tất cả đệ tử của Đức Phật, Ngài Mục Kiền Liên (Moggallana) là vị

chứng đắc thần thông bậc nhất, có thể tạo nên nhiều phép lạ, còn đức A Nan (Ananda) lại không có đƣợc thần thông gì cả, mặc dù trong suốt 25 năm liền, Ngài là đệ tử thân cận và tâm phúc của Đức Phật. Sau này, y nhƣ lời Đức Phật

dạy, ngài A Nan cũng đã có đƣợc thần thông.

373. Hỏi: Thình lình hay từ từ ngƣời ta đạt đƣợc những thần thông này?

Đáp: Thông thƣờng, các thần thông đƣợc phát triển dần dần, do hành giả không ngừng tiến đến sự chế ngự bản tánh xấu ác của mình trong nhiều kiếp

sống [27]

374. Hỏi: Phật giáo có tin rằng thần thông có thể cứu con ngƣời thoát khỏi sự chết hay không?

Đáp: Không. Đức Phật dạy ngƣợc lại, trong câu chuyện lý thú nàng Kisa Gotami với hạt cải. Chỉ trƣờng hợp khi con ngƣời tƣởng đã chết nhƣng không phải thật vậy, thì mới có thể làm sống lại.

Page 74: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

375. Hỏi: Hãy cho tôi biết về những giai đoạn phát triển của xuất thế thần thông

(Lokottara Iddhi).

Đáp: Có sáu trình độ mà một vị A La Hán có thể đạt tới, và chỉ Đức Phật mới có thể chứng đắc cao hơn các trình độ trên.

376. Hỏi: Hãy giải thích sáu trình độ ấy.

Đáp: Chúng ta có thể phân chia chúng thành hai nhóm, mỗi nhóm có ba trình độ. Nhóm thứ nhất bao gồm: 1) Khả năng từ từ nhớ lại đời trƣớc, chẳng hạn, khả năng dần dần nhớ lại nguồn gốc của vạn vật trong kiếp quá khứ; 2) Sự

tiến triển biết trƣớc hay khả năng tiên tri; và 3) Sự lần hồi chấm dứt mọi dục vọng và tham đắm những vật chất.

377. Hỏi: Nhóm thứ hai gồm có những gì?

Đáp: Cùng khả năng nhƣ nhóm trên, nhƣng đƣợc phát triển rộng lớn hơn.

Nhƣ vậy, vị A La Hán có khả năng hoàn toàn nhớ lại kiếp quá khứ; hoàn toàn biết trƣớc mọi việc, và chấm dứt hoàn toàn dấu vết cuối cùng của dục vọng và

thú vui ích kỷ.

378. Hỏi: Bốn phƣơng tiện để chứng đắc thần thông (Iddhi) là những gì?

Đáp: Ý chí, hạnh tinh tấn, sự phát triển tâm linh, cùng phân biệt giữa điều thiện và ác.

379. Hỏi: Kinh điển của chúng ta ghi chép hàng trăm chứng minh về phép thần

thông do các vị A La Hán thực hiện: bạn gọi khả năng hay thần lực ấy là gì?

Đáp: Thần Túc thông (Iddhi Vidha). Ngƣời chứng đắc thần thông này có thể điều khiển sức mạnh của Thiên Nhiên, tạo nên bất cứ phép lạ nào; có nghĩa là

thực hiện các thí nghiệm khoa học tùy ý họ muốn.

380. Hỏi: Đức Phật có khuyến khích phô trƣơng thần thông hay không?

Đáp: Không. Ngài tuyệt đối ngăn cấm ngƣời biểu diễn thần thông nhằm gây xáo trộn tâm ý của những kẻ không biết gì về nguyên lý của các phép lạ.

Thần thông cũng xúi giục những ngƣời chứng đắc phô trƣơng nó nhằm làm thỏa mãn sự hiếu kỳ vẩn vơ và tánh kiêu ngạo của chính họ. Hơn nữa, những nhà ảo thuật và phù thủy ở thế gian (Laukika) cũng có thể trình diễn các phép lạ tƣơng

tự hoặc những hình thức hạ đẳng hơn của môn thần thông. Tánh khoe khoang

Page 75: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

dối trá về sự chứng đắc thần thông của chƣ Tăng là những tội lỗi không thể tha

thứ (xem Kinh Tevijja).

381. Hỏi: Bạn nói chƣ Thiên (Devas) đã hiện ra trƣớc thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) dƣới nhiều hình thức; vậy Phật tử tin thế nào về các giống ngƣời

thuộc cảnh giới chúng sanh siêu phàm không trông thấy, có những liên hệ với loài ngƣời?

Đáp: Phật tử tin tƣởng có hàng chƣ Thiên sống ở các thế giới hay khu vực

riêng của họ. Phật giáo dạy rằng do sự phát triển tu hành ở nội tâm và chế ngự đƣợc ác tính nơi hành giả, vị A La Hán trở thành siêu việt hơn cả những thần linh có quyền phép nhất; cũng nhƣ có thể chinh phục và chế ngự đƣợc các vị thần

thấp hơn.

382. Hỏi: Có bao nhiêu loại thần linh?

Đáp: Ba hạng: đó là thần linh ở cõi Dục Giới hay Kàmàvàcarà (chƣ Thần đang còn dƣới sự chế ngự của dục vọng); Sắc giới hay Rùpàvacarà (loại Thần linh

cao hơn đang còn duy trì hình thể vật chất); và Vô Sắc Giới hay Arùpàcavarà (chƣ Thiên đạt tới sự thanh tịnh cao nhất không còn mang hình tƣớng vật chất).

383. Hỏi: Chúng ta có nên sợ bất cứ Thiên Thần nào trong ba loại đó hay không?

Đáp: Ngƣời có tâm thanh tịnh, từ bi và hùng lực thì không có ai, thần linh, ma quỷ hay Thiên Thần nào có thể làm hại kẻ ấy; nhƣng có vài loại thần linh có khả năng trừng phạt hạng ngƣời xấu ác cũng nhƣ những kẻ gần gũi thân cận với

các thần linh đó.

PHỤ LỤC

Bản văn gồm 14 điều tin tƣởng sau đây đƣợc chấp thuận xem nhƣ là những nguyên tắc căn bản của cả hai hệ phái Nam và Bắc Tông Phật giáo, bởi các ủy

ban có thẩm quyền mà qua đó, nó đã do tôi đích thân đệ trình; và bản văn này mang nhiều tánh cách lịch sử trọng đại đến nỗi, lần xuất bản Cuốn “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) kỳ này, nó đã đƣợc tôi cho in thêm vào phần

Phụ Lục (Appendix).

Rất gần đây, hoàng thân Ouchtomsky, nhà học giả Đông Phƣơng ngƣòi Nga, đã thông báo cho tôi biết rằng bản văn trên đã đƣợc dịch ra tiếng Nga; và những vị

Lạt Ma trụ trì các ngôi chùa lớn Phật Giáo Mông Cổ đã bày tỏ cho hoàng thân rõ là họ chấp nhận mọi điều đề nghị đã soạn thảo, ngoại trừ một điểm về ngày đản

sinh của Đức Phật, thì vị Lạt Ma tin rằng có thể là một vài ngàn năm sớm hơn cái

Page 76: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

ngày tôi đã cho. Sự kiện ngạc nhiên này, cho đến nay, tôi cũng chƣa từng biết

đến. Có thể chƣ Tăng Mông Cổ đã nhầm lẫn về thời kỳ đích thực của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) đản sinh với thời đại của vị Phật trƣớc Ngài chăng?

Dù thế nào, thật là điều khích lệ nhất để có thể nói rằng Phật giáo toàn thế giới hiện nay đã thống nhất trên một phạm vi, ít ra là của 14 điều đề nghị này.

NHỮNG ĐIỀU TIN TƯỞNG CĂN BẢN CỦA PHẬT GIÁO

I.- Ngƣời Phật tử đƣợc giáo huấn nên bày tỏ đức tính khoan dung, nhẫn nhục và tình thƣơng huynh đệ không có sự phân biệt đối với tất cả mọi ngƣời, và lòng từ

tâm quảng đại đối với các phần tử của thế giới loài vật.

II.- Vũ trụ tiến hóa không phải đƣợc sáng tạo, và nó hoạt động theo luật (thiên nhiên), không do sự quyết định của bất cứ đấng Thƣợng Đế (God) nào.

III.- Chân lý mà trên đó Phật Giáo đƣợc xây dựng, là tự nhiên. Chúng ta tin rằng

giáo pháp ấy đƣợc thuyết giảng trong nhiều kiếp (Kalpas) liên tục, bởi các bậc đã giác ngộ gọi là chƣ Phật; danh từ Phật có nghĩa là “giác ngộ”.

IV.- Vị giáo chủ thứ tƣ trong đời Hiền Kiếp là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) hay Đức Phật Cồ Đàm (Gautama Buddha), ngƣời đã sanh ra trong một gia đình

hoàng tộc tại Ấn Độ vào khoảng (hơn) 2500 năm trƣớc. Ngài là một nhân vật lịch sử, và tên của Ngài là Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhartha Gautama).

V.- (Đức Phật) Thích Ca Mâu Ni dạy rằng vô minh phát sanh ái dục, lòng dục

vọng không biết nhàm chán là nguồn gốc của sự luân hồi; và luân hồi, nguyên nhân gây ra phiền não. Cho nên, muốn không còn phiền não, cần phải giải thoát

luân hồi, cần phải chấm dứt ái dục; và muốn chấm dứt ái dục, cần phải diệt trừ vô minh.

VI.- Vô minh nuôi dƣỡng đức tin rằng luân hồi là điều cần thiết. Khi vô minh đã diệt trừ, sự vô dụng của luân hồi xem nhƣ tự nó chấm dứt, đƣợc nhận thấy; cũng

nhƣ nhu cầu cùng tột trong việc thừa nhận một dòng sống mà qua đó, điều cần thiết cho sự tiếp diễn luân hồi nhƣ thế, có thể chấm dứt. Vô minh cũng khiến con

ngƣời có ý niệm sai quấy, phi lý cho rằng đời ngƣời chỉ có một kiếp sống; và nhận thức lầm lạc khác tin rằng, cuộc sống này sẽ đƣợc tiếp nối theo sau bởi những trạng thái bất biến của hạnh phúc hoặc khổ đau.

VII.- Việc dứt trừ tất cả vô minh có thể đạt tới bằng sự kiên trì thực hiện đức tính vị tha rộng khắp trong hành động; phát triển tánh sáng suốt, trí huệ trong ý tƣởng; và đoạn diệt các dục vọng nhằm đến những thú vui cá nhân thấp hèn.

VIII.- Lòng tham dục muốn sống là nguyên nhân của luân hồi, khi dục vọng

không còn thì luân hồi chấm dứt ; và nhờ thiền định, con ngƣời toàn thiện đạt tới trạng thái cao siêu nhất của sự an tịnh gọi là Niết bàn (Nirvana).

Page 77: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

IX.- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng con ngƣời có thể xé tan vô minh và đoạn

diệt phiền não, nhờ ở sự giác ngộ về Tứ Diệu Đế nhƣ sau:

1) Hiện hữu của những sự khổ;

2) Nguồn gốc phát sinh sự khổ, đó là lòng dục vọng, mong đƣợc luôn luôn đổi mới, nhằm thỏa mãn chính bản thân mà không bao giờ có thể đạt tới sự chấm

dứt;

3) Sự diệt trừ lòng ái dục hay tự mình tránh xa nó.

4) Phƣơng pháp thành tựu sự đoạn diệt lòng ái dục. Những pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy gọi là Bát Chánh Đạo; đó là: Chánh kiến, Chánh tƣ duy, Chánh

ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

X.- Chánh định dẫn đến sự giác ngộ tâm linh, hay phát triển Phật tánh (khả năng thành Phật) mà nó tiềm ẩn ở mọi ngƣời.

XI.- Tinh hoa của Phật giáo; mà chính Đức Nhƣ Lai (Phật) đã tóm lƣợc trong bài

kệ là:

Chớ làm điều ác,

Nên làm việc lành,

Giữ tâm ý trong sạch.

XII.- Vũ trụ tùy thuộc vào luật nhân quả tự nhiên gọi là Nghiệp (Karma). Hành động thiện hay ác của con ngƣời trong những kiếp trƣớc quyết định cuộc sống

của y trong đời hiện tại. Vì vậy mỗi ngƣời đã tạo nên những nguyên nhân của mọi kết quả mà hiện nay họ phải lãnh thọ.

XIII.- Những trở ngại cho sự đạt tới thiện nghiệp có thể diệt trừ bằng cách thọ trì

các điều răn sau đây mà chúng bao gồm trong giới luật đạo đức của Phật giáo, đó là: 1/ Không đƣợc sát sanh, 2/ Không đƣợc trộm cắp, 3/ Không đƣợc tà hạnh, 4/ Không đƣợc nói dối, và 5/ Không đƣợc dùng chất làm say, và loại thuốc hay

rƣợu làm ngây dại, đê mê. Năm giới cấm khác mà chúng không cần kể ra đây, nên đƣợc thọ trì bởi những ai muốn đạt tới, nhanh chóng hơn ngƣời thƣờng cƣ sĩ

tại gia, sự giải thoát khổ đau và luân hồi.

XIV.- Phật giáo không khuyến khích tính cả tin (dị đoan mê tín). Đức Phật Cồ Đàm dạy rằng bổn phận của cha mẹ là giáo dục cho con cái hiểu biết khoa học

và văn chƣơng. Ngài cũng dạy rằng mọi ngƣời đừng nên tin vào điều gì do bất cứ thánh nhân nào thuyết giảng, ghi chép ở kinh sách, hay đƣợc thừa nhận bởi tập quán, trừ khi điều đó phù hợp với lý trí.

Bản dự thảo đƣợc xem nhƣ nền tảng chung mà tất cả mọi Tông Phái Phật Giáo

đều có thể đồng ý.

H.S. Olcott

THƢ MỤC

Page 78: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

Cuốn sách Phật Giáo Vấn Đáp (The Buddhist Catechism) đã soạn ra do sự nghiên

cứu riêng (của tác giả) tại Tích Lan (Ceylon), và đƣợc tham khảo các sách dƣới đây.

Vinaya Texs... Davids and Oldenberg.

Buddhist Literature in China... Beal.

Catena of Buddhist Scriptures... Beal.

Buddhaghosa’s Parables... Rogers.

Buddhist Birth Stories... Fausboll and Davids.

Legend of Gautama... Bigandet.

Chinese Buddhism... Edkins.

Kalpa Sutra and Nava Patva... Stevenson.

Buddha and Early Buddhism... Lillie.

Sutta Nipàta... Sir Coomaraswami.

Nàgananka... Broyd.

Kusa Jataka... Steele.

Buddhism... Rhys-Davids

Dhammapada... Fausboll and Max Muller.

Romantic History of Buddha... Beal.

Udanavarga... Rockhill.

Twelve Japanese Buddhist Sects... B, Nanjio.

The Gospel of Buddha... Paul Carus.

The Dharma... Paul Carus.

Ancient India... R. C. Dutt.

The “Sacred Books of the East” Max Muller’s Edition.

Encyclopadia Britannica.

CHÚ GIẢI

Page 79: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

[1]“Tôn giáo” là một danh từ không thích hợp nhất để áp dụng chỉ cho Phật giáo, vì Phật

giáo không phải là tôn giáo, mà là một triết học luân lý, như tôi sẽ trình bày sau.

Nhưng theo cách dùng thông thường, danh từ này (tôn giáo) nhằm áp dụng cho tất cả

những nhóm người tự nhận cho nó là một học thuyết luân lý đặc biệt và đã được dùng như thế bởi các chuyên viên thống kê.

Người Phật tử Tích Lan chưa bao giờ có quan niệm về điều như ngưòi Châu Âu ngụ ý

dùng trong cách cấu tạo từ nguyên theo nguồn gốc La Tinh của danh từ này. Theo tín

ngưõng của họ (Tích Lan), không có điều đó như một sự “ghép lại” trong cái ý nghĩa của

Cơ Đốc Giáo - Sự phục tùng hay hòa hợp tự ngã vào với đấng Thượng Đế. Àgama là tiếng

bản xứ của người Tích Lan dùng để diễn tả sự tương quan giữa Phật Giáo và Đức Phật. Nó

là một danh từ tiếng Phạn (Sanskirt) thuần túy, có nghĩa là “lại gần hay sự đến” còn

“Buddha” (Phật) là Giác ngộ, nên danh từ ghép này nhằm chỉ cho Phật Giáo –

Buddhàgama - được dùng thật sự để diễn tả cái ý tưỏng “Sự lại gần hay đạt tới sự Giác ngộ” hoặc có nghĩa là đi theo Giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni).

Các nhà truyền giáo tìm thấy có sẵn chữ Àgama đã chấp nhận dùng nó như đồng nghĩa

với “tôn giáo”; và đạo Cơ Đốc đã được người Tích Lan viết là Christianàgama, trong khi

nó đúng ra viết là Christianibandhana, vì bandhana, theo từ nguyên đồng nghĩa với “tôn

giáo”. Từ ngữ Vibhajja Vada, hay ngưòi nghiên cứu – là một danh từ khác dùng để chỉ

cho Phật tử, và Adhayuradi là một danh từ thứ ba. Với sự giải thích này, tôi tiếp tục miễn

cưõng dùng danh từ quen thuộc khi nói về triết lý Phật giáo cho sự tiện dụng của hàng độc giả bình dân.

[2] Xin xem định nghĩa Thiên thần (deva) sau.

[3] Tường thuật về cuộc thăm viếng này, xin xem sách “Gospel of Buddha” (Chân lý của Đức Phật) của Dr. Paul Carus, trang 20.

[4] Danh từ “Hindu” một từ ngữ tỏ vẻ sự khinh miệt, ngưòi Hồi giáo (Musalmans) dùng

để chỉ dân tộc Sindh mà họ đã chinh phục; ngày nay nó được dùng trong cái nghĩa chỉ

cho thầy tu(Ấn Độ giáo).

[5] Trong các kinh điển không thấy nói lý do tại sao (Đức Phật) đã chọn hướng này của

cây Bồ Đề. tuy nhiên người ta tìm thấy có sự giải thích theo truyền thuyết bình dân, mà

nó đã làm nền tảng cho các sách viết của Giám mục Bigander và nhiều nhà bình luận Âu

Châu khác. Các phương hướng khác nhau trong bầu trời, chắc luôn luôn có ảnh hưởng

đến chúng ta. Đôi khi từ hướng này có ảnh hưỏng tốt nhất, nhiều lúc lại từ hướng khác.

Nhưng Đức Phật dạy rằng ngưòi toàn thiện vượt hẳn lên trên tất cả mọi ảnh hưỏng bên ngoài.

[6] Kinh sách Phật ghi chép rằng đấng Phạm Thiên đã thỉnh cầu đức Thế Tôn nên thuyết

giảng giáo pháp vi diệu cứu độ chúng sanh.

[7] Đạo Bà La Môn (Bràhmanism) không đựoc thuyết giảng cho những người không theo

Ấn Độ Giáo, bởi thế cho nên Phật Giáo là một tôn giáo có đoàn truyền giáo xưa nhất thế

giới. Các sứ giả hoằng pháp đầu tiên (của Đức Phật) đã phải chịu đựng nhiều gian khổ, sự tàn bạo và ngược đải với lòng can đảm quả quyết.

[8] Tại Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ hai, vì thế cho nên đã có hai vị đệ tử của Ngài A

Nan, sống đến 100 tuổi, và trong kỳ Đại Hội của vua A Dục (Asoka), lại có nhiều vị đệ tử của hai ngài đệ tử của Đức A Nan.

Page 80: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

[9] Ông Childers có ý kiến hết sức bi quan về cảnh giới Niết Bàn, xem đó như là sự hủy

diệt. Về sau, các sinh viên đều bất đồng ý kiến với ông.

[10] SARANAM – Wijesinha Mudaliar viết cho tôi: “Danh từ này, cho đến nay, đã được

dịch một cách rất sai lầm và không thích hợp là Refuge (nơi trú ẩn) bởi các học giả cổ

ngữ Pali ngưòi Châu Âu; và các học giả Pali địa phương (Tích Lan) đã không suy nghĩ

chấp nhận như vậy. Cả về mặt ngữ nguyên học Pali lẫn triết học Phật giáo đều không

biện minh được cho lối dịch thuật này. Refuge, trong ý nghĩa của sự ẩn trốn phía sau hay

chỗ ẩn náu là hoàn toàn xa lạ đối với Phật giáo chân chính mà nó đòi hỏi mọi người cần

thực hiện sự giải thoát cho chính mình. Ngữ căn Sr. trong tiếng Sanskrit (Sara: tiếngPali)

có nghĩa là di chuyển, đi tới, như thế Saranam diễn tả sự chuyển động, hoặc hành giả

hay người ấy đi đến trước hay cùng với kẻ khác – Hướng dẫn viên hoặc người giúp đỡ. Tôi

phân tích câu này như sau: Gachchàmi: Tôi đi đến; Buddham: với Đức Phật: Saranam:

như bậc hưóng dẫn cho tôi. Cách dịch chữ Tisarana là “Ba nơi ẩn náu” (Three Refuges)

gây ra nhiều sự hiểu lầm và tạo nên lý do tốt cho ngưòi chống đối Phật giáo, nhạo báng

các Phật tử rằng họ đã phi lý đi tìm nơi ẩn trốn trong sự bất tồn tại (non-entities) và tin

tưỏng vào những điều không thực tế. Thuật ngữ refuges (nơi ẩn náu) dùng thích hợp hơn

cho ý tưỏng Nirvàna (Niết Bàn) mà Saranam là một tiếng đồng nghĩa. Thượng Tọa

Sumangala cũng đã bảo tôi chú ý đến sự kiện rằng nguồn gốc Pali của chữ Sara có một

nghĩa thứ hai là sự tiêu diệt (killing) hay điều làm phá hủy. Vậy thì, câu Buddham

saranam gachchàmi có thể diễn đạt như sau: “Tôi quy y Phật, Pháp và Tăng như những

ngưòi diệt trừ các điều sợ hãi của tôi - trước hết bằng lời dạy của Đức Phật, thứ hai bằng chân lý rõ ràng của giáo pháp, và thứ ba bằng gương mẫu và giới đức của chư Tăng”.

[11] Hình thức này, dĩ nhiên, dành cho cư sĩ tại gia, những ngưòi chỉ phát nguyện giữ 5

giới: Một Tỳ Kheo (Bhikkhu) nên tuyệt đối giữ cuộc sống độc thân (không dâm dục). Do

đó, người cư sĩ cũng phải tự buộc mình thọ trì 8 trong toàn thể 10 giới vào những thời

gian ấn định; và trong thời kỳ này, hành giả phải giữ giới không dâm dục (độc thân). Ngũ

giới Đức Phật chế ra cho tất cả mọi ngưòi. Vì vậy, một ngưòi dù không phải là Phật tử,

nhưng sự thọ trì 5 và 8 giới này đều có thể lợi ích cho tất cả. Chính do hành động thọ

“Tam Quy” (Three Refuges) đã khiến một người trở thành một Phật tử.

[12] Nghiệp (Karma) được định nghĩa như tổng số các hành động của con ngưòi. Luật

nhân Quả đựoc gọi là Giáo Pháp Mười Hai Nhân Duyên (Paticca Samuppada Dhamma).

Trong bộ Kinh Tăng Nhứt A Hàm (Auguttara Nikaya), Đức Phật dạy rằng Nghiệp của Như

Lai là vật sở hữu và di sản của Như Lai. Nghiệp của Như Lai là phước huệ thai đã cưu

mang Như Lai, là thân quyến và nơi ẩn trú của Như Lai.

[13] Sau lần xuất bản đầu tiên tôi nhận được từ một trong các học giả Pali có uy tín nhất

tại Tích Lan, cố học giả L. Corneille Wijesinha Exq., Mudaliar ở Matale, ý kiến về cách dịch

thuật ngữ Dhammacakkap-parattana, hình như được hoàn chỉnh hơn danh từ đã dịch

trước kia. Ông ta dịch là: “Sự thành lập triều đại của Chánh Pháp”. Giáo sư Rhys Davids

thích dịch “Nền tảng Vương Quốc của sự chánh đáng” hơn. Học giả Wijesinha viết cho tôi:

Đạo hữu cũng có thể dùng “Vưong Quốc của sự Chánh Đáng” nhưng nó có vẻ thoáng giáo

điều thần học hơn đạo đức triết học. Dhammacakkaappa Vattama Suttam là bài kinh có

tên “Sự Thành Lập Triều Đại của Chánh Pháp”. Khi trình bày điều này với Thưọng Tọa

Sumangala tôi hân hạnh có thể nói rằng Thượng Tọa đồng ý với cách dịch của ông Wijesinha.

[14] Sự pha trộn giữa những pháp thuật và thực hành này với Phật giáo là một dấu hiệu

của sự suy đồi. Các sự kiện và hiện tượng của chúng là có thực, và có thể dùng khoa học

để giải thích. Chúng bao hàm trong ý nghĩa “pháp thuật”, nhưng khi được xử dụng nhằm

mục đích ích kỷ sẽ mang lại ảnh hưỏng xấu cho con người; và làm trở ngại đến sự tiến bộ

tinh thần. Khi chúng đựơc dùng vào các mục tiêu vô hại và lợi ích như chữa trị bịnh nhân, cứu mạng sống v.v... Đức Phật cho phép dùng đến.

Page 81: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

[15] Nhà tu khổ hạnh Phật giáo, qua một thời gian ấn định tu tập, sẽ đạt tới một trình độ

siêu đẳng trong sự phát triển tinh thần và trí tuệ. Chư vị A La Hán (Arhats) có thể chia

làm hai nhóm đại cương là chuyên tu về Chỉ và Quán. Hạng trước đã diệt trừ hết dục

vọng, và hoàn toàn phát triển được năng lực tinh thần hay trí tuệ huyền bí; hạng sau tuy

đã chế ngự được lòng tham dục, nhưng chưa có thể chứng đắc thần thông.

Các vị thứ nhất có thể thực hiện phép lạ (thần thông), nhưng vị thứ hai không làm được.

Đức A La Hán của hạng trước, khi trí tuệ phát triển đầy đủ (toàn giác), không còn là nạn

nhân cho sự lừa dối của các giác quan, hay nô lệ cho lòng ái dục, và phạm trọng tội nữa.

Vị nầy thấu triệt nguồn gốc của bất cứ vấn đề nào tâm họ nghĩ tới mà không theo tiến

triển chậm chạp của sự suy luận. Ngài hoàn toàn chế ngự được tâm mình, và thay vì tình

cảm cũng như dục vọng làm khuấy động và mê hoặc ở một người thường. Ngài vượt

thoát tiến lên tình trạng mà diễn đạt theo thuật ngữ thích hợp nhất gọi là “Niết Bàn” (Nirvanic).

Tại Tích Lan có quan niệm phổ biến sai lầm cho rằng ngày nay không ai có thể tu chứng

A La Hán (Arhatship), và chính Đức Phật đã tiên đoán là khả năng chứng quả đó sẽ tiêu

diệt khoảng 1.000 năm, sau khi Ngài nhập diệt. Tin đồn trên và sự việc tưong tự cũng

được nghe ngưòi ta nói tới khắp nơi tại Ấn Độ, là vào thời kỳ mạt pháp này, sự tu theo

pháp môn Du Già (Yoga Vidya), hay môn học tinh thần cao siêu cũng không thể thực

hiện được. Tôi cho là vì tài trí của những người đáng lý phải giữ thanh tịnh và nội tâm

sáng suốt (nói theo từ ngữ thông dụng không Phật giáo) như các bậc tiền bối của họ;

nhưng vì không đạt được quả vị siêu phàm đó, nên họ đã tìm cách tự bào chữa. Đức Phật

dạy ý kiến hoàn toàn trái lại. Trong Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) Ngài bảo: “Hãy lắng

nghe, này Tu Bạt Đà La (Subbhadra), thế gian sẽ không bao giờ hết các vị A La Hán nếu

trong giáo hội (đoàn thể Tăng Già) của Như Lai còn những nhà tu khổ hạnh (Tỳ kheo) chân thành lãnh thọ và nghiêm trì giới luật”.

[16] Trong cuốn “Lịch sử văn hóa”: (History of Culture), ông Kolb viết: “Chính Phật giáo

chúng ta nên cảm ơn về hành động ân xá các tù binh chiến tranh mà trước kia thường bị giết; cũng như sự đình chỉ bắt đi cầm tù các thường dân ở những nơi bị xâm chiếm”.

[17] Giới thứ năm liên quan đến sự dùng các chất say và loại thuốc làm (trí óc) đần độn, cuối cùng đưa tới nghiện rượu.

[18] “Linh hồn” (Soul) nói tới ở đây đồng nghĩa với tiếng psyche của Hy Lạp (Greek). Chữ “material” bao hàm ý nghĩa chỉ các trạng thái vật chất hơn là tình trạng của cơ thể.

[19] Về ý tưỏng tôi thay thế danh từ “bản ngã” (personality) cho chữ cá nhân

(individuality), như tôi đã soạn trong lần xuất bản đầu tiên. Sự liên tục tái sinh tại một

hoặc nhiều thế giới, hay “sự lưu truyền qua thế hệ”của những phần tử ái dục kết hợp

(skandhas: Uẩn) của một chúng sanh là sự tiếp nối của những bản ngã. Trong mỗi lần

sinh ra, bản ngã hiện nay khác biệt với bản ngã đời trước hoặc ở kiếp sau. Nghiệp

(Karma) tự ẩn giấu (hay chúng ta sẽ bảo là phản ảnh?) đời này trong bản ngã của một hiền triết, kiếp nọ như một người thợ và vân vân, suốt qua chuỗi dài sinh tử (luân hồi).

Mặc dù các bản ngã luôn biến đổi, nhưng một dòng sống tựa như một xâu chuỗi hột liên

tục tuôn chảy không gián đoạn; và luôn luôn là dòng sống đặc biệt đó, chứ không bao giờ

là cái gì khác. Cho nên, chính cá nhân - một gợn sóng cá nhân - chảy nhanh qua bề mặt

khách quan của Thiên Nhiên, dưói sự thúc đẩy của Nghiệp và chiều hưóng tạo tác của Ái

Dục (Tanhà), được duy trì qua nhiều biến đổi luân hồi. Giáo sư Rhys Davids bảo rằng

dòng sống đó hiện hữu từ trong bản ngã này chuyền qua bản ngã khác cùng với chuỗi cá

nhân gồm “cá tính” hay “nghiệp” (hành động). Vì “cá tính” không những chỉ là sự trừu

tượng siêu hình, mà còn là tổng số các năng tánh (qualities) tinh thần và khuynh hướng

đạo đức của con người; phải chăng cá tính đó không giúp ích để làm tiêu tan cái mà giáo

sư Rhys Davids gọi là “mưu chước ghê gớm của một sự huyền bí” (Buddhism, trang 101)

Page 82: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

nếu chúng ta xem gợn sóng của dòng sông chẳng khác gì một cá nhân; và mỗi chuỗi

những hiện tưọng phát sinh của làn sóng nước như một bản ngã riêng biệt?

Chúng ta cần có hai danh từ để phân biệt giữa hai ý niệm, và tôi nhận thấy không có chữ

nào rõ ràng và ý nghĩa như hai từ ngữ (bản ngã và cá nhân) mà tôi đã chọn. Tôi có thể

bảo Đức Phật, nói theo nghĩa Phật giáo, là một cá nhân toàn thiện; vì Đức Phật không có

gì khác hơn là đóa hoa hiếm có của nhân loại, mà không pha trộn một chút siêu nhiên

nào. Và, phải trải qua vô lượng kiếp – “bốn A Tăng Kỳ và trăm ngàn lần sinh tử luân hồi”

(Xem Buddhist Birth Stories của Fausboll và Rhys Davids, No. 13) để từ một con ngưòi tu

tập tiến lên quả vị Phật; và ý chí sắt đá muốn trở thành Đức Phật trải qua liên tục nhiều

kiếp tái sinh, như vậy chúng ta gọi cái gì đã quyết chí và kiên trì? Cá tính hay cá nhân?

Một cá nhân, nhưng lại đựoc phần nào thể hiện trong bất cứ mỗi lần sinh ra, đã tạo nên những giai đoạn (sống) từ nhiều kiếp luân hồi.

Sự phủ nhận có một “Linh hồn” (Soul) của Đức Phật (Xem Bộ Tập A Hàm trong Kinh Tạng)

nhằm vạch ra cho chúng ta thấy sự tin tưỏng sai lầm vào một bản ngã độc lập; một thực

thể mà sau đời sống này, sẽ đựoc sanh vào một quốc độ hay cảnh giới nhất định, nơi mà

như một thực thể toàn hảo, nó có thể vĩnh viễn hạnh phúc hay đau khổ. Và Đức Phật dạy

cái quan niệm cho rằng “tôi là cái Ngã” ý thức, được xem như thưòng còn, là điều không

hợp lý, vì những yếu tố cấu tạo căn bản của nó luôn luôn biến đổi và cái “Tôi” của đời này

không giống với cái “Tôi” của những kiếp sống khác. Song những điều tôi tìm thấy trong

Phật giáo đều phù hợp với lý thuyết về sự tuần tự tiến hóa của một con ngưòi toàn giác -

gọi là Đức Phật – qua vô luợng kiếp tái sinh. Và trong tâm thức của cá nhân đó, người mà

khi chấm dứt được vòng luân hồi, trở thành Đức Phật (Buddhahood), hoặc sự thành tựu

đạt tới tầng Thiền (Dhỳana) thứ tư; hay sự giác ngộ mầu nhiệm trong bất cứ đời sống

quá khứ nào của họ cho đến kiếp cuối cùng, cảnh tượng của tất cả những tiền kiếp này đều được thấy hiện ra.

Trong tập Jàtakatthavannana - dịch giả là giáo sư Rhys Davids - lối diễn đạt liên tục sự

hồi tưởng, mà tôi nghĩ đúng là đã chứng minh cho ý kiến này, nghĩa là: “Đức Thế Tôn rõ

ràng đã tạo nên một việc xảy ra, được che giấu trong nhiều kiếp luân hồi” hay “điều đó

đã đựoc giữ kín bởi” v.v... Ngoài ra, Phật giáo Nguyên Thỉ cũng đã minh bạch duy trì đối

với sự lâu dài ghi trong tập Akasha và tiềm năng của con người để thấu hiểu điều trên,

khi hành giả đạt tới trình độ của sự giác ngộ cá nhân đích thực. Vào lúc lâm chung (cơ

thể con người) rung chuyển và thần trí hôn mê, tốc hành tâm (Javana citta) được chuyển

đến đối tượng do các dục vọng cuối cùng tạo nên. Ý chí muốn sống đem tất cả những tư

tưởng để tạo thành một khách thể (chúng sanh) mới.

[20] Sinh viên có thể tham khảo một cách hữu ích với Schopenhauer trong vấn để này.

Arthur Schopenhauer, một triết gia Đức tài danh nhất đã bảo rằng: “Nguyên lý hay

Nguồn gốc của vạn vật và các đối tượng của nó bao gồm thân thể con người, thực chất

chỉ là điều chúng ta nhận thức rõ nhất ngay từ trong cơ thể của chúng ta, gọi là Ý Chí

(Will). Trí tuệ là năng lực thứ hai của ý tưởng chính yếu; sự hoạt động của óc não trong

đó ý chí này tự phản ảnh vạn vật, đối tượng và thể xác như trong một tấm gương... Trí

tuệ dù là (năng lực) thứ yếu, nhưng có thể hướng dẫn đến sự từ bỏ hoàn toàn ý chí, cho

tới khi trí tuệ thúc đẩy “sự sống” và rồi nó được tận diệt trong Niết Bàn (Nirvana)” (L.A.

Sanders trong tập Theosophist, số tháng 5 năm 1882, trang 213)

[21] Nói theo sinh lý học, cơ thể con người hoàn toàn thay đổi trong mỗi 7 năm.

[22] Nguyên lý căn bản và chủ yếu này, danh từ Pali gọi là “Nidàna” - chuỗi nhân quả

hay “Nhân Duyên Sanh”. Mười hai nhân duyên (Nidànas) là: Vô Minh (Avijjà): mê lầm,

không biết chân lý của tôn giáo tự nhiên; Hành (Samkhàra): hành động hay Nghiệp

(Karma); Thức (Vinnàna): vọng thức về bản ngã. “Ta là Ngã”; Danh sắc (Nàma-Rùpa):

tinh thần, thể chất; Lục Nhập (Salayatana): sáu căn; Xúc (Phassa): tiếp xúc: Thọ

(Vedanà): Sự lãnh thọ; Ái (Tanhà): lòng ham muốn hưởng thụ: Thủ (Upàdàna): sự giữ

Page 83: (The Buddhist Catechism)caodaigiaoly.free.fr/PhatGiaoVanDap.pdf · hân hạnh trao tác phẩm “Phật Giáo Vấn Đáp” (The Buddhist Catechism) của học giả H.S. Olcott

lấy; Hữu (Bhava): sự hiện hữu: Sanh (Jàti): sự sanh ra; và Lão Tử (Jaramarana): suy

yếu, chết chóc, sầu khổ, khóc than, tuyệt vọng.

[23] Ưu Bà Tắc (Upàsaka) và Ưu Bà Di (Upàsika) thọ trì các giới này vào những ngày trai

kỳ (ăn chay) của Phật giáo (Uposatha). Đó là các ngày mùng 8, 14, và Rằm (15) của mỗi nửa tháng âm lịch.

[24] Sự liên hệ giữa đệ tử với Bổn Sư (Guru) giống như mối tương quan giữa vị Chúa con

và đức Chúa Cha trong Cơ Đốc Giáo hay nói đúng hơn, vị bổn sư trở thành như cha mẹ,

gia quyến và tất cả đối với ngưòi đệ tử.

[25] Xem bản Phụ Lục (Appendix) ở sau.

[26] Thượng Tọa Sumangala Sthavira giải thích với tôi rằng thần thông ấy chỉ tồn tại lâu

dài nơi người đã diệt trừ hết lòng ái dục (Klesa), nói cách khác là vị A La Hán (Arhat).

Ngưòi xấu cũng có thể luyện đắc thần thông, và dùng để làm các việc bất chính, nhưng

chúng chỉ hoạt động được trong thời gian ngắn ngủi; lòng dục vọng bất trị lại khống chế

vị thầy pháp, và sau cùng, ông ta trở thành nạn nhân của các phép thần thông đó.

[27] Khi thần thông được biểu diễn thình lình, điều ấy có nghĩa là hành giả đã tự mình tu

luyện trong đời trước. Chúng tôi không tin vào những cơ may khác thường trong luật

________________________________________

Tài liệu sưu tầm từ Hội Thông Thiên Học Việt Nam, 482 Võ Di Nguy Phú Nhuận, Gia Định +

Hội Thông Thiên Học Hoa Kỳ + Hội Thông Thien Học Thế giới ở Adya, Madras, India, sách

lưu giũ tại Chi Bộ Dưới Chơn Thầy, số 17 Hùng Vương, Thị Xã Vĩnh Long. cố Chi Bộ

Trưởng : Vương Kim Liêng, Phó CHT: Hà Phước Thảo, Thơ ký: Nguyễn Thành Hổ, Thuyết

Trình viên: cố Học giả Nguyễn Minh Tâm, nhà nghiên cứu viết nhiều sách và dịch sách của

Krisnamurti.

Thư Viện Viện Đại Học Cao Đài Học Hàm Thụ miễn phí, in kinh, sách, tài liệu

miễn phí, khỏi đăng ký, khỏi Password.

http://caodaigiaoly.free.fr/