tích hợp tương tác người-máy bằng tiếng nói trong tự động hóa
DESCRIPTION
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011Tích hợp tương tác người-máy bằng tiếng nói trong tự động hóa Integration of human-machine interaction in automation controlNguyễn Việt Tùng, Phạm Thị Ngọc Yến Trung tâm MICA, HUST - CNRS/UMI 2954 - Grenoble INP, Trường ĐHBK Hà Nội email: {viet-tung.nguyen; ngoc-yen.pham}@mica.edu.vn Tóm tắtCùng sự phát triển của khoa học và công nghệ, việc điều khiển các thiết bị, dây chuyền công nghệ ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng, độTRANSCRIPT
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Tích hợp tương tác người-máy bằng tiếng nói trong tự động hóa
Integration of human-machine interaction in automation control
Nguyễn Việt Tùng, Phạm Thị Ngọc Yến
Trung tâm MICA, HUST - CNRS/UMI 2954 - Grenoble INP, Trường ĐHBK Hà Nội
email: {viet-tung.nguyen; ngoc-yen.pham}@mica.edu.vn
Tóm tắt Cùng sự phát triển của khoa học và công nghệ, việc
điều khiển các thiết bị, dây chuyền công nghệ ngày
càng đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng, độ tin cậy
điều khiển cũng như sự thân thiện trong tương tác.
Trong các phương thức giao tiếp, tiếng nói là một
kênh tương tác truyền thống và quen thuộc với con
người. Việc nâng cao chất lượng tương tác giữa con
người với hệ thống thông qua các kênh tương tác mới
trong đó có tiếng nói là một hướng nghiên cứu đáng
chú ý. Bài báo này trình bày một giải pháp xây dựng
hệ tương tác người - máy có sử dụng tiếng nói
song song với các hệ thống tương tác truyền thống
hiện có.
Abstract
Beside the development of science and technology,
the device and process control are more and more
strictly required towards quality, control reliablity as
well as usability in interaction. Among
communication methods, voice interaction is a
traditional one and familiar with human. The quality
enhancement in interaction between user and system
via novel channels, including voice, has been
becoming an attractive research topic. In this paper, a
solution is introduced for establishing a human-
machine interaction system by voice together with
other existing interaction systems.
Chữ viết tắt MVC Model-View-Controller
1. Giới thiệu Ngày nay, các hệ thống giám sát điều khiển đã thâm
nhập mọi nơi, từ đời sống sinh hoạt hàng ngày đến
công nghiệp, quốc phòng. Bên cạnh các đòi hỏi ngày
càng cao về chất lượng điều khiển, tính tiện dụng khi
sử dụng các thiết bị, dây chuyền công nghệ đang trở
thành yếu tố ảnh hưởng quyết định đến chất lượng hệ
thống.
Có nhiều cách nâng cao tính tiện dụng cho một hệ
thống giám sát điều khiển như: tìm hiểu thói quen, sở
thích người dùng hay nghiên cứu các phương thức
tương tác mới cũng như các cách thức kết hợp các
phương thức tương tác với nhau. Tuy nhiên, quá trình
xây dựng, thử nghiệm và triển khai các phương thức
tương tác mới trong thực tế gặp nhiều khó khăn.
Thông thường hệ thống đã được thiết kế sẵn và đã vận
hành trong thực tế, người dùng không muốn thay đổi
hay can thiệp vào hệ thống đang vận hành, đặc biệt là
các hệ thống trong công nghiệp. Điều này đặt ra bài
toán làm cách nào để xây dựng và triển khai các giải
pháp tương tác mới vào các hệ thống hiện có. Lời giải
cho bài toán này cần đảm bảo các yêu cầu như:
Tính mở, tính dễ sửa đổi, dễ phát triển
Tính khả chuyển
Tính tin cậy
Giữ nguyên khả năng can thiệp của chế độ điều
khiển bằng tay
Tính nhất quán và thống nhất giữa điều khiển
bằng tay và điều khiển bằng tiếng nói.
Bài báo này trình bày một giải pháp cho bài toán trên.
2. Giải pháp xây dựng hệ tương tác
người - máy Với các yêu cầu trên và các yêu cầu chức năng cụ thể
của bài toán tương tác người-máy trong công nghiệp,
chúng tôi đã xây dựng giải pháp kết hợp các kĩ thuật
sau để thiết kế và triển khai hệ tương tác người - máy
có bổ sung kênh tương tác bằng tiếng nói:
1. Sử dụng mô hình MVC (Model-View-Controller)
trong thiết kế hệ tương tác bằng tiếng nói.
2. Sử dụng cơ chế tín hiệu-khe cắm (signal-slot) để
kết nối giữa các mô đun. Mô đun nguồn phát tín
hiệu, mô đun đích nhận tín hiệu và thực hiện các
xử lí tương ứng. Việc kết nối do hệ thống quản lí,
mô đun nguồn và mô đun đích không cần quan
tâm cụ thể mô đun nào đã phát tín hiệu và mô đun
nào sẽ xử lí tín hiệu.
3. Sử dụng lập trình hướng sự kiện khi lập trình
giao diện.
2.1. Mô hình MVC
MVC [1,2,3,4] là một mẫu kiến trúc phần mềm trong
công nghệ phần mềm. Nó giúp người phát triển phần
mềm cô lập các nguyên tắc nghiệp vụ và giao diện
người dùng một cách rõ ràng. Ở đây các nguyên tắc
nghiệp vụ gồm (i) các mối quan hệ liên động và (ii)
các nguyên tắc vận hành cụ thể của quá trình cần
giám sát và điều khiển. Phần mềm phát triển theo
MVC tạo nhiều thuận lợi cho việc bảo trì, phát triển
chương trình vì các nguyên tắc nghiệp vụ và giao diện
được cách ly và phát triển tương đối độc lập với nhau.
Trong MVC (hình 1), mô hình (model) tượng trưng
cho dữ liệu của chương trình phần mềm. Khung nhìn
(view) gồm các thành phần giao diện với người dùng.
Bộ điều khiển (controller) chịu tác động điều khiển
của con người (dưới dạng nút bấm, hoặc tiếng nói
500
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
thông qua bộ nhận dạng tiếng nói) quản lí sự trao đổi
giữa dữ liệu và các nguyên tắc nghề nghiệp trong các
thao tác liên quan đến mô hình. Bộ điều khiển phản
ứng với các sự kiện và tác động đến mô hình hoặc
khung nhìn. Ngay khi bộ điều khiển thay đổi mô hình
dữ liệu và/hoặc các thuộc tính của mô hình, tất cả các
khung nhìn liên quan đến mô hình đó sẽ được cập
nhật.
Mô hình
Khung nhìnKhung nhìn
Bộ điều khiển
Sự
kiện
Sự kiện chuyển đến
Bộ điều khiển
Bộ điều khiển thay
đổi Mô hình hoặc
Khung nhìn
Khung nhìn lấy dữ
liệu từ Mô hình
Mô hình cập nhật các
khung nhìn khi dữ liệu
thay đổi H. 1 Mô hình MVC tổng quát.
Nhờ có sự phân tách giữa khung nhìn, mô hình và
điều khiển mà nhiều khung nhìn và nhiều điều khiển
có thể giao tiếp đồng thời với cùng một mô hình. Từ
đó chúng ta dễ dàng thêm, bớt, thay đổi khung nhìn
và bộ điều chỉnh mà không cần thay đổi thiết kế của
mô hình. Do vậy mà việc thêm bộ nhận dạng và phản
hồi tiếng nói sẽ dễ dàng và chúng có thể vận hành
song song và độc lập với hệ thống hiện tại đang dùng
của người dùng. Trong trường hợp bổ sung hệ tương
tác bằng tiếng nói, bên cạnh việc đáp ứng các sự kiện
đến từ môi trường, bàn phím-chuột, bộ điều khiển sẽ
nhận thêm các sự kiện đến từ bộ nhận dạng tiếng nói.
Sự kiện là nguyên nhân gây ra các thay đổi mô hình,
khung nhìn hoặc cả hai.
Hình 2 minh họa về cài đặt MVC của một đối tượng
tương tác điển hình. Ở đây khi thay đổi giá trị dữ liệu
bằng mũi tên lên và xuống sẽ tạo các sự kiện gửi đến
bộ nghe sự kiện (bộ điều khiển). Tương ứng với các
sự kiện nhận được bộ điều khiển sẽ tăng hoặc giảm
một cách tương ứng giá trị trong mô hình. Ngược lại,
nếu vì một lí do nào đó, giá trị trong mô hình thay đổi,
hàm update view sẽ tự động được gọi để đảm bảo
trạng thái của khung nhìn được cập nhật đồng nhất
với mô hình dữ liệu mà nó phản ánh.
Mô hình
văn bản
Nghe sự
kiện
thay đổi mô hình
cập nhật khung nhìn
tăng/giảm
lấy dữ liệu
H. 2 Cài đặt MVC cho đối tượng tương tác điển hình.
Trong trường hợp sử dụng tiếng nói để điều khiển đối
tượng một bộ nghe sự kiện khác sẽ được cài đặt song
song với bộ nghe sự kiện hiện có. Hình 3 trình bày
một trường hợp mở rộng bài toán hiện tại với bộ nhận
dạng tiếng nói (bộ điều khiển mới). Mô đun nghe sự
kiện này nhận sự kiện từ bộ nhận dạng tiếng nói và
điều khiển mô hình thay đổi theo sự kiện nhận được
(như tăng giảm nhiệt độ điều hòa).
thay đổi mô hình
cập nhật khung nhìn
Nghe sự
kiện
tăng/giảm
lấy dữ liệu
thay đổi mô hình
Nghe sự
kiện
Mô hình
văn bản
micrô
Nhận dạng
tiếng nói
tăng/giảm
H. 3 MVC của một đối tượng tương tác được mở rộng
với bộ điều khiển nhận tín hiệu từ bộ nhận dạng
tiếng nói.
Mỗi khi dữ liệu được thay đổi, khung nhìn sẽ được
cập nhật. Để có thể phản hồi thông tin này đến người
dùng dưới dạng tiếng nói, một bộ tổng hợp tiếng nói
gắn với loa được bổ sung vào hệ thống. Bộ tổng hợp
tiếng nói này đóng vai trò như một khung nhìn mới
của dữ liệu (hình 4).
cập nhật khung nhìn
Mô hình
văn bản
Nghe sự
kiện
thay đổi mô hình
cập nhật khung nhìn
tăng/giảm
lấy dữ liệu
Tổng hợp
tiếng nóiloa
H. 4 MVC của một đối tượng tương tác được mở rộng
với phản hồi bằng tiếng nói tổng hợp.
2.2. Tín hiệu-khe cắm
Tín hiệu - khe cắm là cơ chế được sử dụng trong Qt
[5], một framework lập trình giao diện đa nền. Tín
hiệu-khe cắm được dùng để triển khai khuôn mẫu
quan sát (observer pattern) [6]. Hình 5 minh họa việc
dùng tín hiệu-khe cắm để truyền thông tin giữa các
đối tượng trong chương trình. Nó cho phép nhiều tín
hiệu kết nối đến cùng một khe cắm, một tín hiệu đến
nhiều khe cắm và nối tiếp nhiều tín hiệu với nhau. Khi
tín hiệu A nối tiếp với tín hiệu B, tín hiệu B sẽ tự
động được gửi khi A được gửi.
501
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
H. 5 Truyền thông điệp sử dụng tín hiệu-khe cắm.
Với tín hiệu-khe cắm, các điều khiển có thể gửi các
tín hiệu chứa thông tin đến các điều khiển khác thông
qua khe cắm (slot). Do vậy ta có thể thiết kế nhiều
phím bấm vật lí và logic để điều khiển cùng một đối
tượng, sử dụng nhiều công nghệ như tiếp xúc, tiếng
nói, cử chỉ, …) để điều khiển cùng một thiết bị. Hình
6 trình bày bảng cấu hình tín hiệu khe cắm trong Qt
cho bài toán điều khiển đèn. Trong ví dụ này tín hiệu
điều khiển bật tắt (on/off) của các công tắc điều khiển
đèn trong từng phòng được nối tới slot bật tắt (on/off)
của công tắc điều khiển nằm tại bảng điều khiển
chung (hình 6). Nhờ vậy khi lập trình ta chỉ cần tập
trung cài đặt phương thức bật tắt cho công tắc nằm tại
bảng điều khiển chung.
H. 6 Truyền thông điệp sử dụng tín hiệu-khe cắm.
Các kết nối tín hiệu-khe cắm có thể được cài đặt khi
lặp trình hoặc khi thực hiện chương trình. Việc cài đặt
khi thực hiện chương trình cho phép việc kết nối giữa
các mô đun tương tác có khả năng thích nghi theo
điều kiện thực tế khi thực hiện chương trình. Ví dụ
khi có nhiều hơn một bộ điều khiển điều khiển điều
hòa, hoặc khi một bộ điều khiển nào đó bị hỏng cần
thay thế bởi một bộ điều khiển khác có chức năng
tương đương. Tóm lại, cơ chế tín hiệu-khe cắm giúp
việc triển khai chương trình giao diện người dùng trở
nên dễ dàng đồng thời tăng khả năng thích nghi theo
bối cảnh của giao diện.
2.3. Lập trình hướng sự kiện
Lập trình hướng sự kiện là chiến lược lập trình trong
đó dòng chương trình được xác định bởi sự kiện. Các
sự kiện có thể là đầu ra của cảm biến, lệnh điều khiển
của người dùng (bằng thao tác nhấn chuột, ấn phím,
bật công tắc, bằng tiếng nói) hay các thông điệp gửi
đến từ các chương trình khác.
Lập trình hướng sự kiện thích hợp để lập trình giao
diện người dùng đồ họa cũng như lập trình giao diện
người dùng sử dụng tiếng nói. Khi đó kết quả của bộ
nhận dạng tiếng nói được xem như là các sự kiện.
2.4. Quá trình xây dựng giao diện người dùng
Về cơ bản, giao diện người dùng trong quá trình
tương tác người-máy bằng tiếng nói được thiết kế
theo các nguyên tắc đã trình bày ở phần trên. Trình tự
việc xây dựng giao diện người dùng được tiến hành
như sau:
1. Xác định các tín hiệu tương tác có trong hệ thống
và hướng đi của các tín hiệu này. Xem xét tính
đồng bộ, xác định nơi xuất phát và đích đến của
chúng.
2. Xác định các khe cắm trên các mô đun. Các khe
cắm này sẽ tương ứng với các yêu cầu chức năng
của từng mô đun. Việc xác định các khe cắm bao
gồm tên khe cắm, các tham số cần truyền, và khe
cắm đó thuộc mô đun nào, đối tượng nào.
3. Kết nối tín hiệu với khe cắm: trên cơ sở bối cảnh
tương tác, tiến hành kết nối tín hiệu với khe cắm
trong chương trình.
4. Xây dựng các mô đun theo thiết kế có được.
3. Ứng dụng vào việc xây dựng hệ tương
tác người - máy bằng tiếng nói
Giải pháp xây dựng hệ tương tác người - máy bằng
tiếng nói được trình bày ở trên đã được áp dụng cho
việc xây dựng hệ tương tác người - máy bằng tiếng
nói trong phòng thông minh (hình 7) với năm thiết bị
điện dân dụng gồm cửa ra vào, đèn, tivi, điều hòa và
camera an ninh.
H. 7 Ảnh chụp sản phẩm phòng thông minh với 5 thiết bị
điện dân dụng (cửa ra vào, camera an ninh, đèn, vô
tuyến, điều hòa) có khả năng tương tác hai chiều
với người điều khiển bằng tiếng nói tiếng Việt
[KC.03.15/06-10, 2009].
502
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Các mô đun phụ trách tương tác bằng tiếng nói và
giao diện được kết nối với nguồn thông tin cần hiển
thị thông qua cơ chế tín hiệu - khe cắm giúp dễ dàng
xây dựng tương tác đa phương thức với người dùng.
Trong phạm vi bài báo này, phòng thông minh được
sử dụng như một ứng dụng để triển khai tương tác
người - máy bằng tiếng nói làm cơ sở đánh giá chất
lượng tương tác cũng như hiệu quả giải pháp của
chúng tôi.
3.1. Triển khai hệ giám sát điều khiển
Xuất phát điểm hệ thống được thiết kế để điều khiển
tập trung các thiết bị trong phòng bằng bàn phím
/chuột tại máy tính trung tâm. Các mô đun cảm biến
cùng các thiết bị dân dụng được kết nối với máy tính
trung tâm bằng các công nghệ truyền thông khác nhau
như PLC (truyền tín hiệu trên đường dây tải điện),
mạng nội bộ LAN, RS232, Wifi, USB. Để làm được
điều đó, các thiết bị dân dụng có sẵn trên thị trường
được bổ sung các bộ chuyển đổi (adapter) phần cứng
và phần mềm để kết nối được với hệ thống (hình 8).
Ví dụ điều hòa được nối với một bộ chuyển đổi có
nhiệm vụ kết nối với máy tính bằng cáp USB. bộ
chuyển đổi này chuyển lệnh điều khiển nhận được từ
máy tính sang dạng lệnh điều khiển được mã hóa dưới
dạng tín hiệu hồng ngoại để điều khiển trực tiếp điều
hòa.
H. 8 Sơ đồ kết nối của khối tương tác người- máy bằng
tiếng nói trong hệ thống giám sát điều khiển áp
dụng cho phòng thông minh trường hợp điều khiển
điều hòa.
3.2. Triển khai hệ tương tác bằng tay và bằng tiếng
nói
Hệ thống tương tác người - máy bằng tiếng nói được
bổ sung bằng mô đun tổng hợp tiếng nói và nhận dạng
tiếng nói. Hệ thống tương tác người - máy cổ điển và
hệ thống tương tác người - máy bằng tiếng nói được
cài đặt độc lập và được vận hành song song với nhau.
Việc truyền dữ liệu giữa mô đun giao diện người dùng
với mô đun tương tác vào/ra và với hệ thống trung
tâm được thực hiện theo cơ chế tín hiệu-khe cắm
(signal-slot).
Để có thể nhận dạng tiếng nói, hệ thống dùng micrô
không dây. Micrô được nối vào hệ thống qua một bộ
thu nhận không dây, số hóa (bộ chuyển đổi phần
cứng) sau đó dữ liệu được đưa đến bộ thu thập, phân
tích và nhận dạng trong thời gian thực (bộ chuyển đôi
phần mềm). Đầu ra của mô đun tổng hợp tiếng nói là
dữ liệu âm thanh. Dữ liệu này được phát trực tiếp ra
loa nối trực tiếp với máy tính trung tâm.
H. 9 Giao diện chính của chương trình điều khiển.
Mọi thiết bị trong chương trình đều hỗ trợ điều khiển
bằng tay và bằng tiếng nói. Khi muốn điều khiển bằng
bàn phím - chuột, người dùng cần chọn thiết bị tại
giao diện chính (hình 9). Một hộp thoại sẽ mở ra giúp
người dùng truy cập được vào các chức năng điều
khiển tương ứng với thiết bị đó. Hình 10 trình bày cửa
sổ điều khiển điều hòa. Sau đó clíc trực tiếp vào các
nút điều khiển thiết bị trên cửa sổ điều khiển riêng
cho thiết bị đã được chọn. Riêng chức năng điều
khiển cửa, sẽ chỉ được kích hoạt khi người dùng yêu
cầu “mở cửa” bằng tiếng nói và trình thẻ ra vào hợp
lệ.
H. 10 Giao diện điều khiển điều hòa.
Việc điều khiển thiết bị bằng tiếng nói diễn ra khi
người dùng ra lệnh bằng câu lệnh điều khiển. Hiện
nay, câu lệnh điều khiển được qui ước gồm tên thiết
bị theo sau bởi lệnh điều khiển. Ví dụ: điều hòa bật,
điều hòa tắt, điều hòa tăng nhiệt độ, điều hòa 25 độ.
503
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Hệ thống nhận dạng thực hiện nhận dạng câu lệnh và
gửi tín hiệu tương ứng với câu lệnh cho hệ thống. Các
mô đun đã đăng kí nhận tín hiệu này (mô đun xử lí
trung tâm) sẽ nhận tín hiệu và có xử lí tương ứng.
Đồng thời hệ thống cũng sẽ trả về thông tin bằng
tiếng nói báo hiệu hệ thống đã nhận và thực hiện lệnh
như: điều hòa đã bật, điều hòa đã tắt, điều hòa đã đặt
ở x độ (với x là giá trị đặt hiện tại của điều hòa).
Việc ứng dụng giải pháp được đề xuất vào triển khai
xây dựng hệ thống tương tác người - máy bằng tiếng
nói cho phòng thông minh cho thấy giải pháp có các
ưu điểm như:
Tăng hiệu quả của việc tương tác. Kết quả của
một hành động được trả về trên một hoặc nhiều
hình thức tương tác, ví dụ trả về thông qua tiếng
nói kết hợp với màn hình và trạng thái của đối
tượng được điều khiển (ví dụ trạng thái sáng/tối
của đèn). Trong trường hợp trả về trên nhiều hình
thức tương tác khác nhau, các hình thức này sẽ
đóng vai trò dự trữ, bổ sung hoặc thay thế lẫn
nhau.
Một mô đun con chỉ phụ trách một hình thức
tương tác. Ví dụ mô đun tổng hợp tiếng nói sẽ
phụ trách tổng hợp và biểu diễn thông tin dưới
dạng âm thanh người dùng có thể nhận thức được.
Điều này cho phép chia nhỏ bài toán, thuận lợi
trong quá trình kiểm tra, đánh giá từng mô đun và
kiểm tra ghép nối giữa các mô đun với nhau.
4. Kết luận Bài báo đã giới thiệu một cách tiếp cận trong việc xây
dựng và triển khai hệ thống tương tác người - máy
cho các ứng dụng công nghiệp nói chung và ứng dụng
trong phòng thông minh nói riêng. Việc thử nghiệm
triển khai xây dựng hệ tương tác người - máy bằng
tiếng nói cho thấy cách tiếp cận chúng tôi đề xuất đáp
ứng được tất cả các yêu cầu đặt ra ban đầu.
Cách tiếp cận này có thể sử dụng để triển khai các bài
toán điều khiển tập trung và phân tán với các điểm
điều khiển phân tán tại nhiều nơi khác nhau, trên
nhiều thiết bị khác nhau (máy tính, thiết bị di động,
điện thoại di động, …) và dùng nhiều hình thức tương
tác khác nhau (bằng phím bấm vật lí và logic, bằng cử
chỉ, bằng giọng nói, …)
Trong tương lai xa hơn, cách tiếp cận này có thể được
áp dụng để triển khai xây dựng các ứng dụng thử
nghiệm các hình thức tương tác người - máy hiện đại
khác (như tương tác bằng cử chỉ, tương tác bằng cảm
xúc, bằng tiếng nói) trong công nghiệp cũng như dân
dụng vì nó cho phép dễ dàng triển khai song song với
các hệ thống điều khiển sẵn có.
Sản phẩm phòng thông minh của đề tài có thể được
ứng dụng cho các phòng bệnh, phòng ở cho người
khiếm thị, người tàn tật không thể di chuyển hoặc gặp
khó khăn trong việc di chuyển. Sản phẩm này cũng có
thể được triển khai trong các tòa nhà, căn hộ thông
minh nhằm nâng cao tính tiện lợi trong việc giao tiếp
với người dùng. Sản phẩm này cũng là bước đệm để
triển khai các ứng dụng giám sát trong công nghiệp
điều khiển bằng tiếng nói, hoặc giám sát, điều khiển
thiết bị quân sự.
Lời cảm ơn Công trình trình bày trong bài báo nằm trong khuôn
khổ của Đề tài NCKH trọng điểm cấp nhà nước mã số
KC.03.15/06-10 mang tên “Nghiên cứu thiết kế chế
tạo các thiết bị và hệ thống tự động hoá thông minh sử
dụng tương tác người-máy bằng tiếng nói trong điều
khiển”. Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ
về tài chính của Bộ Khoa học và Công nghệ, và các
thành viên trong đề tài đã giúp đỡ trong quá trình thực
hiện công trình.
Tài liệu tham khảo [1] Burbeck, S. Applications Programming in
Smalltalk-80(TM): How to use Model-View-
Controller (MVC), 1992
[2] Trygve Reenskaug: Thing-Model-View-editor –
an Example from a planning system. Technical
note, Xerox PARC, May 1979.
[3] Trygve Reenskaug: The Model-View-Controller
(MVC) Its Past and Present. JavaZONE, Oslo,
2003.
[4] Trygve Reenskaug: Models-View-Controllers.
Technical note, Xerox PARC, December 1979.
[5] Jasmin Blanchette, Mark Summerfield, C++
GUI Programming with Qt 4, Second Edition,
2008.
[6] Erich Gamma, Richard Helm, Ralph Johnson
and John Vlissides Design Patterns Elements of
Reusable Object-Oriented Software Addison-
Wesley, 1995
Thông tin tác giả
TS. Nguyễn Việt Tùng tốt nghiệp
khoa Điện-Điện tử trường Đại học
Kỹ thuật Tp.HCM năm 2000, sau
đó theo học thạc sỹ ngành Các hệ
thống đo lường và điều khiển tại
Đại học Bách Khoa Hà Nội, tốt
nghiệp năm 2002. Nhận bằng Tiến
sĩ ngành Tín hiệu, Hình ảnh, Tiếng
nói và Truyền thông (SIPT) tại Viện Đại học Bách
khoa Quốc gia Grenoble (INPG) Cộng hòa Pháp năm
2008. Hiện tại, TS. Nguyễn Việt Tùng là nghiên cứu
viên / giảng viên tại Viện nghiên cứu quốc tế MICA,
trường Đại học Bách Khoa Hà Nội trong lĩnh vực môi
trường cảm thụ và tương tác người - máy.
GS. TS. Phạm Thị Ngọc Yến tốt nghiệp ngành Kỹ thuật đo
lường tại trường Đại học Bách
Khoa Hà Nội năm 1982, sau đó
theo học thạc sĩ ngành xử lý tín
hiệu - ảnh – tiếng nói năm 1990,
nhận bằng tiến sĩ chuyên ngành
xử lý tiếng nói năm 1995 tại
Viện Bách Khoa quốc gia
504
Hội nghị toàn quốc về Điều khiển và Tự động hoá - VCCA-2011
VCCA-2011
Grenoble (INPG), Cộng hòa Pháp, được phong Giáo
sư năm 2010. GS.TS. Phạm Thị Ngọc Yến hiện là
trưởng Bộ môn kỹ thuật đo và tin học công nghiệp và
giám đốc Viện nghiên cứu quốc tế MICA, trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội.
505