tiểu luận shtt nhóm 26 (nhật bản)

31
TRƯỜNG ĐẠI HC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TVÀ KINH DOANH QUC T----- TIU LUN BO HVCHDẪN ĐỊA LÝ THEO PHÁP LUT NHT BN Giảng viên hướng dn TS. Lê ThThu Hà Hvà tên sinh viên Mã sinh viên Nguyn Tú Linh 0951010483 Phm Hồng Dƣơng 0951010391 Nguyễn Phƣơng Anh 0951010338 Lê Tho Trang 0951010597 Lp: TMA408.2_LT Hà Nội, tháng 5 năm 2012

Upload: zazazulynk

Post on 29-Jun-2015

1.461 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ -----

TIỂU LUẬN

BẢO HỘ VỀ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ THEO PHÁP LUẬT

NHẬT BẢN

Giảng viên hướng dẫn TS. Lê Thị Thu Hà

Họ và tên sinh viên Mã sinh viên

Nguyễn Tú Linh 0951010483

Phạm Hồng Dƣơng 0951010391

Nguyễn Phƣơng Anh 0951010338

Lê Thảo Trang 0951010597

Lớp: TMA408.2_LT

Hà Nội, tháng 5 năm 2012

Page 2: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

2

MỤC LỤC

MỤC LỤC ......................................................................................................... 2

LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 3

CHƢƠNG 1 ....................................................................................................... 4

Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản ..................... 4

1) Đặc điểm chung về hệ thống pháp luật Nhật Bản ................................... 4

2) Tổng quan về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản ..................... 8

3) Quy định về chỉ dẫn địa lí bởi các biện pháp điều khiển hành chính .... 13

CHƢƠNG 2 ..................................................................................................... 16

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Nhật Bản ............................................... 16

1) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Chống cạnh tranh không lành

mạnh ............................................................................................................. 16

2) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Bảo hiểm ..................................... 21

3) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật của Hiệp hội kinh doanh rƣợu .... 23

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 30

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 31

Page 3: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

3

LỜI NÓI ĐẦU

Cùng với tiến trình toàn cầu hoá về kinh tế và tự do hóa về thƣơng mại,

các quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm hơn tới việc bảo vệ sản phẩm

của mình khi thâm nhập vào thị trƣờng các nƣớc khác thông qua việc sử dụng

chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, thực tế đã minh chứng, bên cạnh những lợi ích đáng

kể mà chỉ dẫn địa lý mang lại cho đối tƣợng mà nó phục vụ , mục đích lợi

nhuận có thể khiến cho các chủ thể khác sẵn sàng tìm mọi cách để gây thiệt

hại đáng kể cho các quốc gia sở hữu chỉ dẫn địa lý. Bởi vì thế mà nhu cầu về

tăng cƣờng bảo hộ các chỉ dẫn địa lý trong thƣơng mại thông qua các điều

ƣớc quốc tế đƣợc các quốc gia đặc biệt chú ý. Mặc dù từ những nƣớc thuộc

Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Australia cho tới những quốc gia Châu Á nhƣ

Trung Quốc, Hàn Quốc đều nhận thức đƣợc tầm quan trọng của chỉ dẫn địa lý

và có những hệ thống luật bảo hộ rất chặt chẽ, nhƣng tại Nhật Bản – đất nƣớc

có nền kinh tế phát triển vô cùng vững mạnh, lại rất xem nhẹ vấn đề bảo hộ

chỉ dẫn địa lý, cũng chính vì vậy đã có không ít những tranh chấp xảy ra trong

quá trình tổ chức và hoạt động kinh doanh, ảnh hƣởng đến lợi ích kinh tế quốc

gia và lợi ích thƣơng mại của doanh nghiệp. Với đề tài “Bảo hộ về chỉ dẫn

địa lý theo pháp luật Nhật Bản”, nhóm nghiên cứu muốn đƣa đến một cái

nhìn tổng quan về hệ thống luật pháp Nhật Bản cùng với những vấn đề liên

quan tới bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản. Trong quá trình hoàn thiện bài

tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong đƣợc nhận

sự góp ý và hƣớng dẫn để nhóm có thể chỉnh sửa và rút kinh nghiệm cho

những bài tiểu luận về sau. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô.

Page 4: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

4

CHƯƠNG 1

Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản

***

1) Đặc điểm chung về hệ thống pháp luật Nhật Bản

Nhật Bản là một quần đảo đông dân cƣ ở Đông Bắc Á, và là nền kinh tế

lớn thứ hai trên thế giới. Mặc dù đã tiến hành mở cửa từ giữa 19 thế kỷ để

hiện đại hóa nền kinh tế, xã hội và hệ thống pháp luật, tại Nhật Bản khái niệm

hiện đại, “phƣơng Tây ", và pháp luật của chính quốc gia vẫn còn chƣa rõ

ràng.

Luật pháp Nhật Bản vay mƣợn từ Trung Quốc, lục địa Châu Âu từ cuối

thế kỷ 19 và từ hệ thống pháp luật Anh – Mỹ. Trƣớc sự trỗi dậy của nền kinh

tế trì trệ và sự thúc đẩy việc bãi bỏ quy định trong những năm 1990, một số

nhà bình luận đã công bố "Mỹ hóa của luật pháp Nhật Bản" 1. Tuy nhiên, nó

vẫn đƣợc đóng khung bởi luật pháp quốc tế, cải cách pháp luật vẫn còn thu

hút “tiêu chuẩn toàn cầu” rộng lớn đồng thời nó có một truyền thống luật

pháp bản địa lâu đời và mạnh mẽ. Theo đó, luật pháp Nhật Bản đƣợc dự kiến

sẽ vẫn còn một hệ thống pháp luật nguyên mẫu "lai”, không dễ dàng mô tả

nhƣ là thuộc về bất kỳ "gia đình hợp pháp" cụ thể nào.

Nghiên cứu pháp luật của Nhật Bản cũng dẫn đến sự ra đời các mô hình

mới hoặc sự phát triển các lý thuyết, đặc biệt những nhà bình luận nƣớc ngoài

với ngôn ngữ phƣơng Tây, đã giải thích hiện tƣợng rằng dƣờng nhƣ quy định

của pháp luật vẫn còn chƣa thực sự quan trọng trong trật tự kinh tế – xã hội.

Hệ thống luật pháp Nhật Bản cung cấp một nền tảng thử nghiệm phong phú

cho các phƣơng pháp tiếp cận pháp luật so sánh ở cấp độ khái quát hơn.

1 Theo “The Americanization of Japanese law” – Kelemen & Sibbitt, 2002

Page 5: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

5

Hiến pháp ở Nhật Bản hiện nay đưa ra ba nguyên tắc cơ bản

Thứ nhất, quyền lực nằm trong tay nhân dân thay vì trong tay Nhật

Hoàng. Mặc dù Nhật Hoàng vẫn đóng vai trò không thể thay thế trong một số

công việc quốc gia, chẳng hạn nhƣ việc triệu tập Quốc hội, nhƣng vai trò đó

chỉ mang tính nghi lễ và chỉ đƣợc thực hiện với sự tƣ vấn và chấp thuận của

nội các.

Nguyên tắc thứ hai nói về sự tôn trọng dành cho quyền cơ bản của con

ngƣời. Hiến pháp bao gồm một dự luật quyền dài 30 điều, quy định rằng "các

quyền con ngƣời cơ bản ghi trong Hiến pháp đƣợc ban cho con ngƣời và các

thế hệ tƣơng lai là quyền vĩnh cử ". Chúng không chỉ

bao gồm các quyền tự do dân sự nhƣ quyền tự do ngôn luận, tự do thực hiện

tôn giáo và các quyền tố tụng nhau của bị cáo; những quyền phúc lợi nhƣ: "tất

cả mọi ngƣời có quyền đƣợc duy trì những tiêu chuẩn tối thiểu của cuộc sống

lành mạnh và văn hóa". Tuy nhiên, nội dung cụ thể của quyền này đƣợc cho

là phụ thuộc vào các chính sách phúc lợi của chính phủ, vì vậy ngƣời nhận

phúc lợi xã hội không có quyền tuyên bố rằng một chính sách phúc lợi cụ thể

là vi hiến.

Nguyên tắc cơ bản thứ ba là hòa bình. "Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ chiến

tranh nhƣ một quyền của quốc gia và đe dọa sử dụng vũ lực nhƣ là phƣơng

tiện giải quyết tranh chấp quốc tế" và "lục quân, hải quân, không quân và các

tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ đƣợc duy trì". Chính phủ đã liên

tục khẳng định rằng Hiến pháp không bao giờ cấm việc duy trì một lực lƣợng

cần thiết tối thiểu để tự vệ. Theo điều tra đƣợc thực hiện những năm 1990,

một phần lớn ngƣời dân nghĩ rằng Nhật Bản nên đóng góp một phần do việc

duy trì hòa bình thế giới, và Lực lƣợng Tự vệ Nhật Bản (Self-Defense Force –

SDF) nên đƣợc coi nhƣ hiến pháp nếu cần thiết cho mục đích này. Tƣ tƣởng

đó cùng với áp lực từ phía Hoa Kỳ, chính phủ Nhật Bản đã ban hành luật cho

phép SDF tác chiến ở nƣớc ngoài trong một số trƣờng hợp nhất định.

Page 6: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

6

Hiến pháp thông qua việc phân chia các quyền hạn như một nguyên tắc

cho hệ thống Chính phủ

Quyền lập pháp nằm trong tay Quốc hội. Quốc hội bao gồm Hạ viện và

Thƣợng Viện, với Hạ Viện nắm quyền quan trọng hơn trong hầu hết các khía

cạnh. Các thành viên của cả hai Viện đƣợc bầu, và tất cả các công dân trên 20

tuổi có quyền bỏ phiếu. Quyền hành đƣợc trao cho Nội các, bao gồm Thủ

tƣớng Chính phủ và các Bộ trƣởng khác. Thủ tƣớng Chính phủ là ngƣời đứng

đầu nội các và đƣợc lựa chọn từ các thành viên của Quốc hội. Sau đó, Thủ

tƣớng Chính phủ bổ nhiệm các Bộ trƣởng trong số các thành viên của Quốc

hội. Quyền lực tƣ pháp đƣợc trao cho Tòa án Tối cao và các tòa án thấp hơn

đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật. Tuy Hiến pháp quy định "Quốc

hội sẽ là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nƣớc", Quốc hội cũng tuân thủ

các ý tƣởng của nguyên tắc phân chia quyền lực, bằng cách trao cho Nội Các

quyền giải tán Quốc hội và Tòa án quyền xác định tính hợp hiến của đạo luật

đƣợc ban hành bởi Quốc hội. Các thành viên của Quốc hội và Nội các có thể

đệ trình một dự luật lên Quốc hội. Trong thực tế, trong số những dự luật đƣợc

thông qua, số lƣợng đệ trình bởi Nội Các đã vƣợt xa số dự luật đệ trình bởi

Quốc hội, mặc dù có nhiều dự luật đƣợc đệ trình bởi các cá nhân hơn kể từ

những năm 1990. Dự luật do nội các vẫn đƣợc soạn thảo chủ yếu bởi các quan

chức trong Bộ hoặc các cơ quan thuộc ngành hành pháp. Vì vậy, quyền lập

pháp lực thực sự nằm trong tay của các Bộ. Điều này khác với Hoa Kỳ nhƣng

là phù hợp với truyền thống "Westminister" dân chủ nghị viện vẫn đƣợc áp

dụng trong một phần của khối Anglo – Khối thịnh vƣợng chung. Quá trình

làm luật của Nhật Bản cũng đã trở nên đa dạng và phức tạp, đặc biệt là kể từ

cuối những năm 1990.

Ngoài Quốc hội, các bộ luật có thể đƣợc soạn thảo bởi các cơ quan khác.

Nguồn luật thứ nhất đến từ Chính phủ, các Bộ, cơ quan thuộc ngành hành

Page 7: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

7

pháp. Những luật này chỉ có hiệu lực trong phạm vi các cơ quan cụ thể quy

định bởi các đạo luật. Nguồn luật thứ hai đến từ Tòa án tối cao, liên quan đến

thủ tục tƣ pháp, các vấn đề liên quan đến luật sƣ, kỷ luật nội bộ của các tòa

án, và việc quản lý của ngành tƣ pháp. Tuy nhiên, Quốc hội cũng đƣợc trao

quyền để ban hành luật liên quan đến những vấn đề này, và một đạo luật đƣợc

ban hành bởi Quốc hội có hiệu lực cao hơn một luật đƣợc ban hành bởi Tòa

án Tối cao. Nguồn thứ ba là điều ƣớc quốc tế. Nội các đƣợc trao quyền ký các

điều ƣớc quốc tế. sau, hoặc trƣớc khi đã có đƣợc sự đồng thuận của Quốc hội,

tùy vào hoàn cảnh. Mặc dù nhiều ngƣời nghĩ rằng điều ƣớc quốc tế có hiệu

lực cao hơn pháp luật nhà nƣớc, tồn tại nhiều luồng ý kiến khác nhau về mối

quan hệ giữa Hiến pháp và các điều ƣớc quốc tế. Tuy nhiên, từ trƣớc tới nay

không có tiền lệ tƣ pháp nào liên quan mối quan hệ giữa các điều ƣớc quốc tế

và pháp luật trong nƣớc. Một nguồn tin thứ tƣ của pháp luật là pháp lệnh đƣợc

ban hành bởi chính quyền địa phƣơng. Hiến pháp cho phép chính quyền địa

phƣơng ban hành pháp lệnh của mình trong phạm vi tƣơng thích với pháp luật

của Quốc hội. Trong một số lĩnh vực, chẳng hạn nhƣ bảo vệ ngƣời tiêu dùng

và môi trƣờng, quyền này mở đƣờng cho nhiều tiến bộ hơn ở cấp địa phƣơng.

Nhƣng trong hệ thống tài chính công của Nhật Bản, sau một quá trình xem xét

kỹ càng, quyền lập pháp này thƣờng bị hạn chế. Một cách chính thức, tiền lệ

tƣ pháp không phải là nguồn của pháp luật. Ngay cả quyết định của Tòa án

Tối cao cũng không dựng lên bất kỳ ràng buộc nào về pháp luật cho các

trƣờng hợp tƣơng tự trong tƣơng lai. Tòa án cấp thấp hơn có thể xét xử mà

không bị phụ thuộc vào bất kỳ quyết định trong quá khứ nào của Tòa án tối

cao. Tuy nhiên, tòa án cấp địa phƣơng thƣờng tuân theo những tiền lệ của Tòa

án tối cao và bản thân Tòa án Tối cao cũng rất thận trọng trong việc đi ngƣợc

lại những tiền lệ xét xử của mình. Vì vậy, các tiền lệ là đầu mối quan trọng

nhất để dự đoán kết quả của những vụ án hiện tại, và do đó trở thành một

nguồn thực tế của pháp luật.

Page 8: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

8

Nhật Bản từ lâu đã là một đất nước mà luật pháp đóng vai trò rất hạn chế

Hầu hết các tranh chấp đƣợc giải quyết bằng cách đàm phán giữa các

bên hoặc thông qua các dịch vụ hòa giải đƣợc cung cấp bởi tòa án hoặc các

thủ tục ADR khác, trƣớc khi phát triển thành các vụ kiện. Tuy nhiên, nhƣ đã

đề cập ngay từ đầu, các lý thuyết khác nhau về cách giải thích hành vi với

những tác động khác nhau.

Cũng nhƣ tòa án đƣợc thƣờng xuyên sử dụng để giải quyết các tranh

chấp cá nhân, luật pháp đóng một vai trò rất hạn chế theo một nghĩa khác: tƣ

pháp rất miễn cƣỡng thực hiện quyền lực đã đƣợc trao để thu hồi quyết định

của các ngành khác của chính phủ. Điều lệ đƣợc ban hành bởi The Diet hầu

nhƣ không bao giờ trái với hiến pháp, và trƣờng hợp mà quyết định của các

cơ quan thuộc ngành hành pháp bị đình chỉ cũng rất hiếm. Hầu nhƣ tất cả các

quyết định chính trị quan trọng đều miễn dịch từ sự giám sát tƣ pháp. Một lý

thuyết "duy lý" đã cho rằng nó là kết quả từ triều đại lâu dài của LDP, dẫn đến

không chỉ các quan chức trong ngành hành pháp mà còn là cơ quan tƣ pháp đã

thực hiện đúng với chính sách rõ ràng của Đảng trong các tình huống chính trị

quan trọng, ngay cả khi không có sự can thiệp trực tiếp nào.

2) Tổng quan về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản

Nhật Bản đã kí kết hầu hết các Hiệp ƣớc Quốc tế có liên quan đến quyền

Sở hữu trí tuệ. Do đó, trong phạm vi điều chỉnh của các Hiệp ƣớc Quốc tế

này, những nguyên tắc chung để bảo hộ và khởi tố thuộc quyền Sở hữu trí tuệ

nằm trong hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản hoàn toàn tƣơng tự với

các quốc gia đã kí kết khác. Các Hiệp ƣớc Quốc tế liên quan đến quyền sở

hữu trí tuệ mà Nhật Bản đã kí bao gồm không giới hạn những Hiệp ƣớc sau

đây:

Page 9: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

9

o Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ

1994

o Công ước Paris về bảo vệ tài sản công nghiệp 1883

o Hiệp ước hợp tác về sáng chế (PTC) 1970

o Hiệp ước Budapest về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng

vi sinh nhằm tiến tới các thủ tục về Patent 1997

o Hiệp định quốc tế về bảo vệ giống cây trồng mới 1961

o Sự thỏa thuận tốt đẹp liên quan tới việc phân loại hàng hóa và dịch vụ

Quốc tế để đăng kí nhãn hiệu hàng hóa 1991

o Điều ước Luật nhãn hiệu 1994

o Nghị định thư Marid liên quan tới đăng kí nhãn hiệu quốc tế 1989

o Công ước Burn về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ( Đạo

luật Paris) 1971

o Công ước Bản quyền quốc tế 1971

o Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất, bản ghi âm,

tổ chức phát sóng 1961

o Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao

chép không được phép bản ghi âm của họ 1971

o Hiệp ước bản quyền WIPO 1996

o Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm 1996

o Hiệp ước thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới 1967

Quyền sở hữu trí tuệ Nhật Bản đề cập đến các khía cạnh liên quan đến

các vấn đề cơ bản bao gồm: (1) sáng chế, (2) quyền thiết kế tiện dụng, (3)

quyền thiết kế, (4) quyền về nhãn hiệu, (5) bản quyền, (6) bảo vệ bí mật

thƣơng mại và (7) bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh. Cần phải lƣu ý

thêm là ở Nhật Bản không có văn bản Luật sở hữu trí tuệ nhƣ ở Việt Nam mà

chỉ có Quyền sở hữu trí tuệ. “ Nếu sở hữu trí tuệ đƣợc pháp luật thừa nhận thì

Page 10: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

10

sẽ hình thành quyền sở hữu trí tuệ. Tập hợp các quyền SHTT và các chính

sách bảo hộ quyền SHTT tạo thành một hệ thống SHTT”.2 Nếu nhƣ Nhật Bản

muốn bƣớc vào kỉ nguyên của sự sáng tạo trí tuệ, điều cấp thiết lúc này là cần

phải hình thành ngay một Luật đại cƣơng hay Luật cơ bản (Basic Law) về Sở

hữu trí tuệ.

Lịch sử luật Sáng chế Nhật Bản

Luật đầu tiên đề cập đến vấn đề sở hữu trí tuệ tại Nhật Bản là đạo luật về

sáng chế (Patent Act). Đạo luật này bắt đầu đƣợc thực hiện vào năm 1885, có

nghĩa nó xuất hiện trƣớc cả Hiến pháp Minh Trị (1889)

Cố vấn viên đầu tiên của Cục sáng chế Nhật Bản (JPO) là Korekiyo

Takahashi – ngƣời từng là phiên dịch viên của Tiến sĩ Morley trong chuyến đi

của ông từ Mĩ tới Nhật để giúp Nhật xây dựng hệ thống giáo dục. 120 năm về

trƣớc, Takahashi có nhắc tới việc Morley từng than phiền rằng Nhật Bản là

một quốc gia của sao chép các phát minh, nhãn hiệu và bản quyền – những

thứ tài sản đƣợc xem nhƣ vô cùng quý giá đối với ngƣời Mĩ lúc bấy giờ. Cho

rằng mình chƣa có đủ hiểu biết trong lĩnh vực này, Takahashi nỗ lực học hỏi

hết khả năng có thể. Sau khi hoàn thành công việc dƣới vai trò là cố vấn viên

ở JPO, Takahashi trở thành Thống đốc Ngân hàng Nhật Bản, Bộ trƣởng Bộ

nông nghiệp và công nghiệp, Bộ trƣởng Bộ Tài chính và cuối cùng là Thủ

tƣớng Nhật Bản.

Ngay khi hệ thống sáng chế đi vào hoạt động, Nhật Bản đã phát triển nền

công nghiệp của mình, trải qua cuộc cách mạng về công nghiệp và dần dần

trở nên vững mạnh theo thời gian, sánh ngang mình với các cƣờng quốc trên

Thế giới. Cùng với trình độ công nghệ cao, Nhật Bản sau đó đã sửa đổi bổ

sung Luật sáng chế vào năm 1921 cho phù hợp hơn với thực tế tình hình lúc

2

Theo http://thanhtra.most.gov.vn/vi/cac-bai-nghien-cuu-shtt/so-huu-tri-tue-trong-boi-canh-hoi-nhap-kinh-

te-quoc-te

Page 11: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

11

bấy giờ. Môi trƣờng pháp lí đã hoàn toàn trở nên đổi khác sau chiến tranh Thế

giới II với sự ra đời của Hiến pháp, luật Chống độc quyền và sự cải tổ tích

cực Bộ luật dân sự; và vì thế, luật Sáng chế lại một lần nữa đƣợc xem xét lại

vào năm 1959.

Khi nhìn lại có thể thấy Luật Sáng chế đã đƣợc chỉnh sửa cứ 40 năm một

lần. Đó là lí do vì sao Luật này đã lại sửa đổi cập nhật một lần nữa vào năm

1999. Trong những thập kỉ sau chiến tranh, Nhật Bản đã dần bắt kịp với nền

công nghệ châu Âu tiên tiến và hiện nay đang là một trong số những nƣớc đi

đầu về lĩnh vực này ở châu Á. Cùng thời kì sau chiến tranh, phạm vi sáng chế

chuyển dần từ dạng hữu hình sang những dạng dịch vụ và ý tƣởng vô hình.

Kết quả là, Nhật Bản cần một Luật Sáng chế mới phù hợp với sự thay đổi này.

Thế kỉ 21 là Thế kỉ của công nghệ thông tin, và điều cấp thiết là Nhật Bản cần

một Luật sáng chế đề cập đến luật về thiết kế, nhãn hiệu và các lĩnh vực khác

có liên quan.

Page 12: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

12

: Lịch sử Luật Sáng chế Nhật Bản 3

Luật Sáng chế mới

Hiện nay quyền Sở hữu trí tuệ Nhật Bản đƣợc chia ra thành 2 lĩnh vực là

sự sáng tạo trí tuệ (intellectual) và sự xác lập kinh doanh (business

designations). Những luật cần thiết để bảo hộ những tài sản trí tuệ có thể chia

ra thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm Luật Sáng chế, Luật Giải pháp

hữu ích (Utility Model Law), Luật Thiết kế, Luật chống cạnh tranh không

lành mạnh và Luật Bản quyền nhằm bảo vệ sự sáng tạo trí tuệ. Luật Nhãn

hiệu và Luật chống cạnh tranh không lành mạnh nhằm giải quyết vấn đề liên

quan tới sự xác lập kinh doanh.

Tuy nhiên những Luật này thƣờng đƣợc sử dụng một cách kết hợp với

nhau. Ví dụ những phát minh sẽ đƣợc bảo hộ dựa trên Luật Bản quyền, thiết

kế dựa trên Luật Thiết kế, bí mật thƣơng mại dựa vào Luật chống cạnh tranh

không lành mạnh, bản quyền dựa vào Luật Bản quyền và nhãn hiệu dựa vào

Luật Nhãn hiệu. Luật Sáng chế đƣợc mở rộng sang cả lĩnh vực phần mềm và

các sản phẩm vô hình khác, tuy nhiên, việc nó liên quan nhƣ thế nào đến Luật

Bản quyền và ứng dụng vào thực tế bắt đầu từ đâu thì cũng không thực sự rõ

ràng.

Cùng với sự sửa đổi gần đây của Luật chống cạnh tranh không lành

mạnh, việc những sáng chế chƣa đƣợc bảo hộ, hoặc những thiết kế và nhãn

hiệu chƣa đăng kí có đƣợc sự bảo hộ là điều có thể xảy ra. Đây đƣợc xem nhƣ

một sự cải tổ hữu ích. Bởi lẽ Luật chống cạnh tranh không lành mạnh đƣa ra

quan điểm cơ bản rằng việc sao chép tác phẩm của ngƣời khác là hành động

sai trái.

Sự thay đổi đang dần đƣợc thực hiện. Những phát minh đƣợc bảo hộ 20

năm kể từ ngày đƣợc công nhận nhƣng bản quyền kéo dài tận 50 năm sau

3 Intellectual Property Law in the 21st century - Hisamitsu Arai

Page 13: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

13

ngày tác giả qua đời. Nhƣng câu hỏi liên tục đƣợc đặt ra về sự chênh lệch thời

gian khá dài này. Ngoài ra còn không ít những câu hỏi về vấn đề có sự tƣơng

quan nào không giữa bảo hộ bản quyền cho một công ty phát triển phần mềm

với mục đích sử dụng thƣơng mại và một tác giả của một cuốn tiểu thuyết,

một bức vẽ hay một bức ảnh.

Bởi sự không rõ ràng trong luật gây ra những vấn đề trong thực tế, toàn

bộ hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản cần thiết phải đƣợc cơ cấu lại

để đƣợc áp dụng trong thời đại mới.

3) Quy định về chỉ dẫn địa lí bởi các biện pháp điều khiển hành chính

Đƣợc biết đến là những văn bản luật pháp quốc tế về bảo hộ quyền sở

hữu trí tuệ, trong Công ƣớc Paris, Hiệp định TRIPS đều thiết lập những khung

tiêu chuẩn quy định về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp về chỉ dẫn

địa lý. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của chỉ dẫn địa lý, các nƣớc thuộc

Liên minh châu Âu cũng có hẳn một hệ thống bảo hộ đặc biệt đối với chỉ dẫn

địa lý, Hoa Kỳ và Australia cũng tiến hành đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý dƣới

hình thức chứng nhận nhãn hiệu trên cơ sở luật Nhãn hiệu. Trung Quốc và

Hàn Quốc cũng đặt ra hệ thống luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý rất độc đáo và còn

có một hệ thống chứng nhận nhãn hiệu, nhờ đó để có thể bảo hộ chỉ dẫn địa lý

dƣới cả hai hệ thống luật. Ngay ở Việt Nam, vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý

cũng đƣợc quy định rất rõ ràng trong luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005

(sửa đổi bổ sung năm 2009) là một trong những đối tƣợng bảo hộ thuộc quyền

sở hữu công nghiệp. Tuy vậy, khái niệm về quyền sở hữu công nghiệp đối với

ngƣời Nhật Bản còn rất hạn hẹp. Họ quan niệm rằng quyền sở hữu công

nghiệp chỉ bao gồm sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng. Và hệ quả tất yếu là

vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho đến nay vẫn chỉ là một phạm trù phát triển

dƣới mức cho phép trong hệ thống pháp luật Nhật Bản.

Page 14: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

14

Tầm quan trọng của các biện pháp điều khiển hành chính tại Nhật Bản

Tại Nhật Bản, các quy định hành chính thƣờng dùng để giải quyết các

tranh chấp cá nhân, đặc biệt là những điều khoản có liên quan quan đến kinh

doanh. Trong vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lí, có một số luật đƣợc điều chính bởi

các ban ngành của chính phủ. Ví dụ nhƣ Luật Thƣơng mại Xuất nhập khẩu (

1952) đƣợc ban hành trong phạm vi quyền hạn của Bộ Thƣơng mại và Công

nghiệp Thế giới. Luật này ngăn cấm việc xuất khẩu trái phép và đặc biệt liệt

kê danh sách những hàng hóa xuất khẩu sai về mặt hình thức trong đó bao

gồm sai về chỉ dẫn địa lí.

Bảo hộ chỉ dẫn địa lí thông qua Luật chống độc quyền lũng đoạn

Luật tiếp theo có liên quan đến biện pháp điều khiển hành chính về vấn

đề cạnh tranh không lành mạnh là Luật chống độc quyền Nhật Bản ( 1947),

đặc biệt là những khía cạnh có liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lí. Vấn đề này

còn đƣợc nhắc tới trong Luật chống Bảo hiểm bất hợp lí, sự thể hiện và các

vấn đề khác ( sau này chính là Luật Bảo hiểm) ban hành vào năm 1962 và là

một luật cụ thể hóa cho mục số 19 của Luật chống độc quyền.

Tính hiệu quả của Công bằng Thương mại viện

Dƣới hệ thống pháp luật Nhật Bản, sự ảnh hƣởng của Công bằng

Thƣơng mại viện trong các vấn đề có liên quan đến chỉ dẫn địa lí không lành

mạnh trong kinh doanh đang ngày càng gia tăng. Đóng vai trò nhƣ một cơ

quan hành chính đầu ngành, Công bằng Thƣơng mại viện tích cực đƣa ra

những lời khuyến nghị, cảnh báo; song thực tế Viện này chƣa đi sâu vào gốc

rễ vấn đề từ thực tế đạo đức kinh doanh của các công ty Nhật Bản. Hiển nhiên

Công bằng Thƣơng mại viện đóng một vai trò quan trọng, song Nhật Bản cần

phải tìm ra một con đƣờng nhằm thúc đẩy môi trƣờng kinh doanh “ có đạo

Page 15: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

15

đức”, tức là phải tìm một giải pháp thay thế những điều mà bản thân doanh

nghiệp kinh doanh còn hiểu chƣa đúng và chƣa đủ thế nào là công bằng và

không công bằng trong hệ thống chủ đạo hiện giờ.

Bảo hộ chỉ dẫn địa lí với vấn đề đăng kí nhãn hiệu thương mại

Tại Nhật, quy định về đăng kí đƣợc áp dụng đối với vấn đề bảo hộ nhãn

hiệu thƣơng mại trong đó chỉ dẫn địa lí là một trong số những yếu tố đƣợc

đƣa ra xem xét bởi Cục Sáng chế để quyết định liệu doanh nghiệp có đƣợc

phép đăng kí nhãn hiệu thƣơng mại hay không.

Bảo hộ chỉ dẫn địa lí trong Điều lệ hải quan về nhập khẩu hàng hóa

Dƣới quy định của Luật Hải quan Nhật Bản, hàng hóa nhập khẩu trực

tiếp hoặc gián tiếp chứa các dấu hiệu chỉ dẫn sai lệch hoặc gây hiểu lầm về

nguồn gốc xuất xứ sẽ không đƣợc phép nhập khẩu vào lãnh thổ nƣớc này.

Page 16: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

16

CHƯƠNG 2

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Nhật Bản

***

Bởi luật pháp Nhật Bản không có hệ thống quy định rõ ràng về bảo hộ

chỉ dẫn địa lý mà chỉ đề cập đến thông qua một số văn bản pháp luật khác, do

đó dàn ý của phần này sẽ không đƣợc phân tích theo quy chuẩn thông thƣờng

nhƣ: đối tƣợng bảo hộ, điều kiện bảo hộ, nội dung quyền ... Tổng hợp từ một

số bài nghiên cứu, phân tích cấp Nhà nƣớc của các giáo sƣ, tiến sĩ đầu ngành

về luật sở hữu trí tuệ cũng nhƣ của Cục Sở hữu trí tuệ Nhật Bản, nhóm đề tài

sẽ phân tích các khía cạnh trong bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Nhật Bản thông qua

luật Chống cạnh tranh không lành mạnh, luật Bảo hiểm, và luật của Hiệp hội

kinh doanh rƣợu, trên cơ sở phân tích nhóm sẽ đƣa thêm các quy định của luật

Việt Nam cũng nhƣ luật quốc tế để so sánh và làm rõ các vấn đề phát sinh

trong các case-study.

1) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Chống cạnh tranh không lành

mạnh

Điều 2 của luật Chống cạnh tranh không lành mạnh ban hành năm 1993

đã đƣa ra một số quy định liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý. “Cạnh tranh

không lành mạnh” đƣợc đề cập trong luật này hƣớng đến những hành vi sau:

hành vi gây nhầm lẫn với hàng hóa hay việc kinh doanh của ngƣời

khác bằng cách sử dụng một dấu hiệu chỉ hàng hóa hay hoạt động kinh doanh

(có nghĩa là tên, tên thƣơng mại, nhãn hiệu, dấu hiệu, hoặc container hoặc bao

bì hàng hóa đƣợc sử dụng gợi liên tƣởng đến hoạt động kinh doanh của ngƣời

khác, hay bất cứ một dấu hiệu nào của hàng hóa hay hoạt động kinh doanh

của đối tƣợng khác) mà tƣơng đƣơng hoặc có thể giống với dấu hiệu hàng hóa

Page 17: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

17

hay hoạt động kinh doanh của một đối tƣợng đã quá quen thuộc với ngƣời

tiêu dùng; hoặc hành vi bàn giao, vận chuyển, trƣng bày nhằm mục đích giao

hàng, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc cung cấp qua các phƣơng tiện những hàng

hóa sử dụng những dấu hiệu đã đề cập ở trên; 4

Điển hình cho sai phạm này có thể kể tới vụ bánh nhân thịt Kobe. Từ

tháng 4/1989, nguyên đơn là công ty Rockfield đã sản xuất và bán một loại

bánh nhân thịt có tên là “Bánh nhân thịt Kobe”. Loại bánh này đƣợc sản xuất

ở Kobe, một thành phố vốn nổi tiếng với hình ảnh thời thƣợng và văn minh.

Những chiếc bánh này đặc biệt thu hút các phụ nữ trẻ thời đó. Sản phẩm đƣợc

bán tại chính cửa hàng của Rockfield và cũng đƣợc tiêu thụ trực tiếp tại 26

cửa hàng đại lý trên toàn Nhật Bản. Năm 1988, doanh thu bánh nhân thịt của

Rockfield ƣớc tính đạt 200 triệu yên. Tuy nhiên, một thời gian sau đó, một

công ty thực phẩm đông lạnh khác là Katokichi đã đăng trong cuốn catalogue

về sản phẩm mới cho mùa thu một quảng cáo về sản phẩm bánh nhân thịt

đông lạnh cũng với tên gọi “Bánh nhân thịt Kobe”. Tuy nhiên những chiếc

bánh nhân thịt đông lạnh này không đƣợc sản xuất tại Kobe.

Rockfield cho rằng đơn đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm của họ vẫn

đang đƣợc xem xét, vì vậy sản phẩm của Katokichi sẽ gây nhầm lẫn tới khách

hàng, và Katokichi cũng sẽ diễn giải sai về nơi xuất xứ của sản phẩm nếu họ

thực sự bán bánh nhân thịt. Mặt khác, Katokichi thì lại cho rằng dù là bánh

nhân thịt đúng là có thể đƣợc sản xuất ở nơi khác, nhƣng họ chỉ sử dụng hình

ảnh thƣợng lƣu của Kobe để đặt tên cho sản phẩm mà thôi.

4 acts of creating confusion with another person's goods or business by using an indication of goods or

business (which means a name, trade name,trademark, mark, or container or package of goods used in

relation to a person's business, or any other indication of a person's goods or business; the same shall apply

hereinafter) that is identical or similar to said person's indication of goods or business that is well-known

among consumers or other purchasers, or by assigning, delivering, displaying for the purpose of assignment

or delivery, exporting, importing or providing through an electric telecommunication line the goods using

such an indication;

Page 18: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

18

Dù Katokichi biện hộ nhƣ thế nào thì rõ ràng việc sử dụng nhãn hiệu

“Bánh nhân thịt Kobe” trong khi sản phẩm lại không hề đƣợc sản xuất ở Kobe

hoàn toàn có thể gây nhầm lẫn về xuất xứ thật của sản phẩm bởi Kobe là dấu

hiệu chỉ nguồn gốc địa lý để cho thấy sản phẩm có nguồn gốc từ Kobe.

hành vi sử dụng mang tính sở hữu cá nhân dấu hiệu hàng hóa hay

kinh doanh giống với dấu hiệu hàng hóa, kinh doanh đã rất nổi tiếng của

ngƣời khác, hoặc hành vi chuyển nhƣợng, vận chuyển, trƣng bày nhằm mục

đích giao hàng, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc cung cấp qua các phƣơng tiện

những hàng hóa sử dụng những dấu hiệu đã đề cập ở trên; 5

Có thể lấy ví dụ trƣờng hợp vụ giả mạo nhãn hiệu quýt. Vụ án này, xảy

ra từ năm 1988, đã dính dáng đến rất nhiều nhà buôn giả mạo thƣơng hiệu

quýt nổi tiếng bằng cách đóng gói vào các thùng giấy giống hệt với những

thùng giấy vốn đƣợc sử dụng bởi các nông hộ - đối tƣợng chịu trách nhiệm

phân phối quýt thật. Thiết kế của chiếc thùng đã đƣợc đăng ký bảo hộ theo

luật Kiểu dáng thiết kế.

Các bị cáo trong vụ án này cũng đã đánh cắp hai nhãn hiệu đã đƣợc đăng

ký của một nông hộ khác phân phối một nhãn hiệu quýt cũng rất nổi tiếng.

Các nhãn hiệu sao chép đã đƣợc in trên các thùng giấy giả. Thực chất, sản

phẩm quýt thật có nguồn gốc từ hai khu vực rất đặc biệt của Nhật Bản, và nổi

tiếng bởi vị ngọt tự nhiên. Quýt giả là những sản phẩm kém chất lƣợng có

xuất xứ từ những khu vực khác ở Nhật Bản. Trong suốt hơn ba năm, hơn

200.000 thùng cam giả đã đƣợc tiêu thụ ở nhiều quận tại Nhật Bản thông qua

một đƣờng dây phân phối độc lập, không hề liên quan tới bất cứ hợp tác xã

nào, cũng bởi vậy nên việc tiêu thụ quýt giả mới đƣợc che đậy trong suốt ba

năm.

5 acts of using as one‟s own an indication of goods or business that is identical or similar to another person's

famous indication of goods or business, or the act of assigning, delivering, displaying for the purpose of

assignment or delivery, exporting, importing or providing through an electric telecommunication line the

goods using such an indication;

Page 19: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

19

Phía cảnh sát điều tra vụ việc cho biết những ngƣời bán khác trên thị

trƣờng hẳn biết rất rõ việc lƣu thông của quýt giả. Những bị cáo đã bị khởi tố

vì xâm phạm luật Kiểu dáng thiết kế, luật Nhãn hiệu và luật Chống cạnh tranh

không lành mạnh.

Hành vi trên chính là việc sử dụng dấu hiệu hàng hóa hay kinh doanh

giống với dấu hiệu hàng hóa, kinh doanh đã rất nổi tiếng của ngƣời khác (kiểu

dáng thiết kế trên chiếc thùng đựng quýt) gây nhầm lẫn về xuất xứ thật của

hàng hóa.

hành vi giao hàng, cho thuê, trƣng bày nhằm mục đích giao hàng, cho

thuê, xuất khẩu hoặc nhập khẩu những hàng hóa bắt chƣớc tính năng (ngoại

trừ tính năng thực sự cần thiết để đảm bảo sự vận hành của hàng hóa đã nêu)

của hàng hóa của đối tƣợng khác; 6

hành vi chiếm đoạt quyền sử dụng tên miền tƣơng đƣơng hoặc có thể

giống với chỉ dẫn cụ thể của hàng hóa hoặc dịch vụ (ở đây là tên, tên thƣơng

mại, nhãn hiệu, dấu hiệu hay bất cứ dấu hiệu nào khác của hàng hóa, dịch vụ),

hoặc hành vi sử dụng những tên miền nhƣ đã đề cập nhằm mục đích buôn bán

trái phép hay cố tình gây tổn hại tới ngƣời khác; 7

hành vi diễn giải sai thông tin xuất hiện trên hàng hóa, dịch vụ, hoặc

trong một quảng cáo, văn bản đƣợc sử dụng nhằm mục đích giao dịch, theo

cách mà có thể gây nhầm lẫn về nguồn gốc xuất xứ, chất lƣợng, nội dung, quy

trình sản xuất, mục đích sử dụng hay số lƣợng của những hàng hóa, dịch vụ

đó; hoặc hành vi chuyển nhƣợng, giao hàng, trƣng bày nhằm mục đích giao

6 acts of assigning, leasing, displaying (iii) for the purpose of assignment or leasing, exporting or importing

goods which imitate the configuration (excluding configuration that is indispensable for ensuring the function

of said goods) of another person‟s goods;

7 acts of acquiring or holding a right to use a domain name(s) that is identical or similar to another person‟s

specific indication of goods or services (which means a name, trade name, trademark, mark, or any other

indication of a person‟s goods or services), or the acts of using any such domain name(s), for the purpose of

acquiring an illicit gain or causing injury to another person;

Page 20: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

20

hàng, xuất khẩu, nhập khẩu hay cung cấp thông qua đƣờng dây thông tin liên

lạc những hàng hóa, dịch vụ với chỉ dẫn nhƣ trên; 8

Việc diễn giải sai thông tin về xuất xứ hàng hóa để nhằm mục đích kiếm

lợi nhuận khi giao dịch có thể gây những thiệt hại rất lớn. Xin đƣợc trích dẫn

vụ việc của doanh nghiệp Toto Industries. Các nhà sản xuất phụ tùng ở Tokyo

nhập khẩu các bộ phận máy từ công ty liên doanh tại Hàn Quốc, sau đó đóng

gói lại và đóng dấu “Made in Japan” trƣớc khi xuất khẩu tới thị trƣờng châu Á

và Trung Đông. Trong suốt hơn hai năm rƣỡi, Toto Industries – các bị cáo –

đã xuất khẩu trung bình từ 35.000 đến 40.000 bộ phận mỗi tháng, những bộ

phận này khi mua lại từ Hàn Quốc chỉ có mức giá 2000 yên/bộ phận nhƣng

khi xuất khẩu thì lại lên tới 3000 yên/bộ phận. Tổng giá trị hàng xuất khẩu

ƣớc tính cũng phải ít nhất đạt 1 tỷ yên.

Hành vi phạm pháp của các bị cáo đã bị Tổng cục Hải quan vạch trần, và

theo luật Hải quan Nhật Bản, bên xuất khẩu phải cam kết ghi chú lại nguồn

gốc xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu. Hành vi lừa đảo của Toto Industries đã

hoàn toàn che mắt đƣợc mọi ngƣời khi có đƣợc giấy chứng nhận của Phòng

Thƣơng mại Tokyo rằng hàng hóa đƣợc sản xuất ở Nhật Bản. Rất nhiều nƣớc

nhập khẩu vốn cho rằng hàng hóa có xuất xứ từ Nhật Bản đã bày tỏ sự phẫn

nộ vì họ đã đặt 100% niềm tin vào sự trung thực của các doanh nghiệp Nhật

Bản. Tuy vậy, ban điều hành của công ty, dù có thừa nhận hành vi phạm pháp

vẫn cho rằng “ai làm kinh doanh cũng sẽ làm điều tƣơng tự”. Không chỉ có

vậy, giám đốc công ty cho biết ngay khi hàng hóa có mặt tại Nhật Bản, nhãn

hiệu “Made in Japan” sẽ lập tức đƣợc gắn lên hàng hóa.

8 acts of misrepresenting information on goods or services, or in an advertisement thereof or in a document or

correspondence used for a transaction related thereto, in a manner that is likely to mislead the public as to the

place of origin, quality, contents, manufacturing process, use or quantity of such goods, or the quality,

contents, purpose or quantity of such services, or the act of assigning, delivering, displaying for the purpose

of assignment or delivery, exporting, importing or providing through an electric telecommunication line,

goods with such an indication or providing services with such an indication;

Page 21: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

21

Có thể thấy hành vi của Toto Industries đã xâm phạm nghiêm trọng tới

vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Không chỉ phía doanh nghiệp đối tác bên Hàn

Quốc bị thiệt hại khi hàng hóa do mình sản xuất lại đƣợc tiêu thụ công khai

với nguồn gốc không chính xác, mà ngay chính các khách hàng mua sản

phẩm trên cũng đã bị lừa gạt về xuất xứ thật của sản phẩm.

Vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý chỉ đƣợc đề cập ở một số khía cạnh trong

luật Chống cạnh tranh không lành mạnh. Tuy đƣợc ban hành từ năm 1934

nhƣng thực sự luật Chống cạnh tranh không lành mạnh vẫn chƣa phát huy hết

tính hiệu quả, và trong luật vẫn tồn tại những kẽ hở để doanh nghiệp có thể lợi

dụng để lách luật.

2) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Bảo hiểm

Là một bộ luật đặc biệt đƣợc ban hành vào năm 1962 theo phần 19 của

luật Chống độc quyền lũng đoạn (1947), luật Bảo hiểm hàm chứa khá nhiều

điều khoản liên quan đến vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản. Thực

hiện theo Điều 4 khoản 3 đƣợc quy định tại luật này, năm 1973, Công bằng

Thƣơng mại viện – nơi trực tiếp điều chỉnh các thông tƣ – đã ban hành hiệu

lực chỉ thị đề cập đến hành vi diễn giải sai nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa.

Theo đó bất cứ doanh nghiệp nào vi phạm vào một trong những điều khoản

của chỉ thị này sẽ buộc phải ngừng hoạt động và có nguy cơ phải đóng cửa.

Chỉ thị nêu rõ:

sự diễn giải, chú thích đƣợc liệt kê ở từng mục dƣới đây, nếu áp dụng

cho hàng hóa sản xuất nội địa, đƣợc xem là gây khó khăn cho ngƣời tiêu dùng

trong việc nhận biết hàng hóa là sản xuất nội địa

_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên của một quốc gia nƣớc ngoài, tên

của một địa danh quốc gia nƣớc ngoài, quốc kỳ hoặc quốc huy của một

quốc gia nƣớc ngoài, hoặc bất cứ sự diễn giải, chú thích nào tƣơng

đƣơng hoặc có thể giống

Page 22: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

22

_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên hoặc nhãn hiệu của bất kỳ doanh

nhân hay nhà thiết kế nƣớc ngoài nào

_ sự diễn giải, chú thích mà ở tất cả hoặc một phần chủ đạo của phần

mô tả bằng lời văn đƣợc viết bằng kí tự nƣớc ngoài

sự diễn giải, chú thích đƣợc liệt kê ở từng mục dƣới đây, nếu áp dụng

cho hàng hóa sản xuất ở nƣớc ngoài, đƣợc xem là gây khó khăn cho ngƣời

tiêu dùng trong việc nhận biết hàng hóa đƣợc sản xuất tại nƣớc ngoài

_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên quốc gia, tên của một địa danh

thuộc quốc gia, quốc kỳ hoặc quốc huy của quốc gia mà không phải là

quốc gia xuất xứ của hàng hóa, hay bất cứ sự diễn giải nào tƣơng

đƣơng hoặc có thể giống

_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên hoặc nhãn hiệu của bất cứ doanh

nhân hoặc nhà thiết kế ở quốc gia mà không phải là nƣớc xuất xứ của

hàng hóa

_ sự diễn giải, chú thích mà tất cả hoặc một phần chủ đạo ở phần mô tả

bằng lời văn đƣợc viết bằng kí tự Nhật Bản

Chỉ thị trên cũng đƣa ra một số chú thích nhỏ nhƣ sau:

thuật ngữ “nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa” hàm ý chỉ quốc gia mà

tại đó diễn ra quá trình ảnh hƣởng đến sự thay đổi thiết yếu của bản chất hàng

hóa

trong những trƣờng hợp mà việc chỉ dẫn địa điểm xuất xứ của hàng

hóa bằng tên quốc gia là không phù hợp, lí do thƣờng là tên địa danh của quốc

gia đó đƣợc biết đến nhiều hơn tên của quốc gia đó, nơi xuất xứ sẽ coi là quốc

gia xuất xứ của hàng hóa

Page 23: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

23

3) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật của Hiệp hội kinh doanh rượu

Theo khổ 1 điều 86.6 của luật Thuế rƣợu, “Tiêu chuẩn chỉ dẫn về chỉ

dẫn địa lý” đã đƣợc thiết lập nhằm giải quyết một số sai phạm về bảo hộ chỉ

dẫn địa lý.

Đối tƣợng bảo hộ

Chỉ dẫn địa lý là chỉ dẫn về rƣợu vang và rƣợu mạnh (sẽ đƣợc định nghĩa

cụ thể dƣới đây), bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên thuộc Tổ chức

Thƣơng mại Thế giới WTO, hoặc từ một khu vực hay địa phƣơng thuộc lãnh

thổ đó, có chất lƣợng, uy tín hoặc những đặc tính nhất định chủ yếu do xuất

xứ địa lý quyết định 9.

Khái niệm “Rƣợu vang” đƣợc định nghĩa trong khổ 8 điều 3 của luật

Thuế rƣợu 10

. “Rƣợu mạnh” gồm có rƣợu Shochu, rƣợu Whiskey, rƣợu

Brandy, và những loại rƣợu mạnh trong số những loại đồ uống có nồng độ

cồn mạnh cũng đƣợc đề cập rõ ở khổ 5, 9, 10 điều 3 luật Thuế rƣợu (Liquor

Tax Law) 11

.

9 “Geographical indications” mean indications which identify a liquor as originating in the territory of a

member of the World Trade Organization, or a region or locality in that territory, where a given quality,

reputation or other characteristic of the liquor is essentially attributable to its geographical origin.

10 (a) Liquors produced in whole or in part from malted cereals or fruit (including dried fruit or boiled-down

or concentrated must, but excluding dates or other fruit as stipulated in government ordinances. The same

shall apply hereafter).

(b) Liquors produced by filtering it through white birch charcoal or other substances specified in government

ordinances.

(c) Liquors produced in whole or in part from saccharized substances (e.g: molasses, sugar, syrup and honey;

excluding sugar as defined by government ordinances) and by the distillation at less than 95% vol.

(d) Liquors produced by flavouring alcohol by way of steeping ingredients of other substances during

distillation.

11 „Shochu‟ shall mean liquors produced by the distillation of alcohol containing substances. Included in this

definition are those produced by adding water, sugar or other substances stipulated in government ordinances

to the abovementioned

Page 24: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

24

Nhƣ vậy đối tƣợng đƣợc bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở đây là rƣợu vang và

rƣợu mạnh đã đƣợc quy định rất cụ thể trong điều 3 luật Thuế rƣợu. Đối với

luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, đối tƣợng bảo hộ không đƣợc quy

định cụ thể là những loại hàng hóa nào, nhƣng Điều 80 đã chỉ rõ những đối

tƣợng không đƣợc bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý. Theo đó các đối

tƣợng sau đây không đƣợc bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý:

tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá ở Việt Nam

chỉ dẫn địa lý của nƣớc ngoài mà tại nƣớc đó chỉ dẫn địa lý không

đƣợc bảo hộ, đã bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn đƣợc sử dụng

chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tƣơng tự với một nhãn hiệu đang đƣợc bảo

hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó đƣợc thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về

nguồn gốc của sản phẩm

chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho ngƣời tiêu dùng về nguồn gốc địa

lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó

Điều kiện bảo hộ

Nếu chỉ dẫn địa lý của các loại rƣợu vang hoặc rƣợu mạnh sản xuất tại

Nhật Bản hoặc các nƣớc thành viên WTO đã đƣợc chứng nhận bởi Tổng cục

Thuế, đƣợc sử dụng cho những loại rƣợu vang hoặc rƣợu mạnh không bắt

nguồn từ lãnh thổ tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý đó, thì chỉ dẫn địa lý trên sẽ bị

ngăn cấm sử dụng ở chính các quốc gia đó. Khẳng định trên sẽ đƣợc áp dụng

kể cả khi chỉ dẫn về xuất xứ thật của rƣợu vang hoặc rƣợu mạnh đƣợc nêu,

hoặc chỉ dẫn địa lý đƣợc sử dụng dƣới dạng dịch hoặc đƣợc sử dụng kèm theo

liquors. They must have an alcoholic strength of 45% vol or less. The liquor must be less than 36% vol in

case distilled by a „continuous still‟, the definition of which is as follows: a machine that removes fusel oil,

aldehyde and other impurities during the process of continuous distillation. The definition of the type of

sugar which can be added is given by government

ordinances. In case produced by adding substances other than water, the extract of the product ought to be

less than 2g/100 ml.

Page 25: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

25

các từ nhƣ “loại”, “kiểu”, “dạng”, “phỏng theo” hoặc những từ tƣơng tự nhƣ

vậy.

Có thể thấy quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với rƣợu vang và rƣợu

mạnh của Nhật Bản ảnh hƣởng khá nhiều từ Điều 23 của Hiệp định TRIPS:

“Mỗi Thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan

ngăn ngừa việc sử dụng một chỉ dẫn địa lý của các rượu vang cho những loại

rượu vang không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó hoặc

sử dụng chỉ dẫn địa lý của rượu mạnh cho những loại rượu mạnh không bắt

nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu

chỉ dẫn về xuất xứ thật của hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới

dạng dịch hoặc được sử dụng kèm theo các từ như "loại", "kiểu", "dạng",

"phỏng theo" hoặc những từ tương tự như vậy.”

Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng quy định chỉ dẫn địa lý chỉ đƣợc bảo

hộ nếu đáp ứng hai điều kiện:

sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa

phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý

sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lƣợng hoặc nƣớc

tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định

Ở cả hai điều luật đều đề cập đến sản phẩm “có nguồn gốc từ khu vực,

địa phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý”. Vậy nên

hiểu cụm từ này nhƣ thế nào? Một sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn

gốc địa lý từ khu vực, địa phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc tƣơng ứng nếu

sản phẩm đó đƣợc sản xuất từ khu vực, địa phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc

đó. Tức là tất cả các khâu tạo nên sản phẩm đều đƣợc thực hiện tại nơi mà sản

phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Bởi đối tƣợng bảo hộ trong luật Việt Nam có phạm

vi rộng hơn nên còn có thể xác định nguồn gốc của hàng hóa theo hai trƣờng

hợp:

Page 26: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

26

đối với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tạo ra từ ngành nghề truyền

thống mà không phải là lƣơng thực sản phẩm ví dụ nhƣ gốm Bát Tràng….

Chất lƣợng đặc tính riêng biệt của sản phẩm gốm Bát Tràng không những

đƣợc tạo nên bởi nguyên liệu của địa phƣơng, mà còn cả kĩ thuật quy trình

chế tạo của ngƣời dân địa phƣơng đó. Nên dù có mang nguyên liệu từ làng

Bát Tràng đi nơi khác sản xuất thì sản phẩm cũng không đƣợc chất lƣợng nhƣ

sản xuất tại Bát Tràng. Vì thế sản phẩm đƣợc coi là gốm Bát Tràng khi tất cả

các công đoạn làm ra từ sản phẩm diễn ra ở Bát Tràng.

đối với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tạo ra từ ngành nghề truyền

thống là lƣơng thực thực phẩm ví dụ nhƣ nƣớc mắm Phú Quốc: Nếu nguyên

liệu là cá cơm đƣợc ngƣời dân đảo Phú Quốc đánh bắt bằng phƣơng pháp

truyền thống, quy trình chế biến đƣợc ngƣời dân đảo Phú Quốc đánh bắt bằng

phƣơng pháp truyền thống, quy trình chế biến ra nƣớc mắm đều đƣợc thực

hiện bởi ngƣời dân trên đảo theo đúng quy trình truyền thống thì cho dù việc

đóng chai, dán nhãn đƣợc thực hiện ở đâu thì sản phẩm đó vẫn đƣợc coi là

nƣớc mắm Phú Quốc. Nhƣ vậy dù một số công đoạn đƣợc thực hiện ở nơi

khác nhƣng những công đoạn tạo nên đặc tính riêng biệt của sản phẩm đƣợc

thực hiện ở nơi sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý thì sản phẩm vẫn đƣợc xem là

có nguồn gốc từ nơi đó.

Một vấn đề nữa là “khu vực, địa phƣơng, vùng lãnh thổ đƣợc chỉ dẫn”

đƣợc xác định nhƣ thế nào? Theo Điều 83 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 của Việt

Nam thì khu vực mang chỉ dẫn địa lý có ranh giới đƣợc xác định một cách

chính xác bằng từ ngữ và bản đồ. Vấn đề này có thể hiểu theo nhiều cách, tuy

nhiên “chỉ được coi là có mối liên hệ giữa sản phẩm và điều kiện địa lý nếu

sản phẩm có đủ ba yếu tố danh tiếng, chất lượng và đặc tính chủ yếu” là cách

xác định khu vực địa lý mà các tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Nhật Bản

cũng áp dụng.

Trong một số trƣờng hợp chỉ dẫn địa lý sẽ không có hiệu lực:

Page 27: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

27

trong trƣờng hợp tại nơi mà một chỉ dẫn địa lý đặc biệt của một thành

viên thuộc WTO xác định rƣợu vang hoặc rƣợu mạnh đã đƣợc sử dụng ở lãnh

thổ của thành viên đó ít nhất là 10 năm kể từ trƣớc ngày 15/04/1994 hoặc là

ngày đƣợc tin là trƣớc thời điểm đó;

trong trƣờng hợp một chỉ dẫn địa lý không đƣợc hoặc bị ngừng bảo hộ

ở quốc gia xuất xứ hoặc dần không đƣợc sử dụng tại quốc gia đó;

Nhìn chung, các quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam do đã

có điều luật cụ thể nên chi tiết và quy định rõ ràng hơn nhiều so với Nhật Bản.

Xâm phạm quyền

Mọi hành vi “sử dụng” chỉ dẫn địa lý một cách trái phép đều bị ngăn

cấm. “Sử dụng” đƣợc định nghĩa bởi các hành vi thực hiện bởi ngƣời sản xuất

hoặc ngƣời bán dƣới đây:

hành vi gắn chỉ dẫn địa lý lên container hoặc các kiện rƣợu

hành vi chuyển nhƣợng, giao hàng, trƣng bày nhằm mục đích chuyển

nhƣợng hoặc giao hàng hoặc nhập khẩu các container hay kiện hàng mà trên

đó đã có chỉ dẫn địa lý

hành vi trƣng bày hoặc phân phối các tờ quảng cáo, danh sách dự kê

giá hoặc giấy tờ giao dịch cho những loại rƣợu mạnh mà trên đó có gắn chỉ

dẫn địa lý

Từ những vụ việc đã đƣợc dẫn ở trên có thể rút ra đƣợc một số nhận xét

nhƣ sau:

thứ nhất, các vụ việc trên đều xâm phạm các nguyên tắc bảo hộ chỉ dẫn địa

lý và đặc biệt đều là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh

thứ hai, ngƣời Nhật Bản khá xem nhẹ vấn đề chỉ dẫn địa lý, các vụ việc

thƣờng đƣợc che giấu trong một thời gian dài, đem lại lợi nhuận đáng kể rồi

mới bị phát giác, không chỉ thế phạm vi hoạt động lại khá rộng rãi chứ không

chỉ bó hẹp ở một khu vực nhất định. Qua đây để thấy nhận thức về vấn đề bảo

Page 28: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

28

hộ chỉ dẫn địa lý của ngƣời Nhật Bản còn rất mơ hồ, họ thƣờng cho rằng

những vụ lừa đảo nhƣ trên mang tính chất dân sự cần đƣợc truy tố với cảnh

sát hơn là đánh giá dƣới góc độ về sở hữu trí tuệ và bản thân ngƣời tiêu dùng

là đối tƣợng chịu thiệt.

thứ ba, sự phối hợp giữa các cục, ban ngành chƣa phát huy hiệu quả để

nhanh chóng giải quyết sai phạm

Với luật Việt Nam, tất cả các hành vi gây nhầm lẫn về nguồn gốc địa lý,

xâm phạm quyền bảo hộ chỉ dẫn địa lý của các sản phẩm đã đƣợc đăng kí bảo

hộ đều bị coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ví dụ nhƣ hành vi nhiều cơ sở

sản xuất hàng nhái, hàng giả vẫn in trên bao bì sản phẩm tên và kí hiệu gây

nhầm lẫn nguồn gốc sản phẩm với sản phẩm nổi tiếng nhƣ bƣởi Đoan Hùng,

nƣớc mắm Phan Thiết, vải thiều Lục Ngạn … Dƣới đây xin liệt kê những

hành vi bị coi là xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý:

sử dụng chỉ dẫn địa lý đƣợc bảo hộ cho sản phẩm không đáp ứng tiêu

chuẩn về tính chất, chất lƣợng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó

cho dù có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn đó

sử dụng chỉ dẫn địa lý đƣợc bảo hộ cho sản phẩm tƣơng tự nhằm mục

đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý

sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tƣơng tự với chỉ dẫn địa lý

cho hàng hoá không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, làm

hiểu sai là hàng hoá đó có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó

sử dụng chỉ dẫn địa lý đƣợc bảo hộ đối với rƣợu vang, rƣợu mạnh

không có xuất xứ từ khu vực địa lý tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả

trƣờng hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hoá hoặc chỉ

dẫn địa lý đƣợc sử dụng dƣới dạng định nghĩa, phiên âm hoặc đƣợc sử dụng

kèm theo cho từng loại, kiểu, dáng, phỏng theo hoặc những từ tƣơng tự nhƣ

vậy

Page 29: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

29

Ba vụ việc quýt giả mạo, Toto Industries và bánh nhân thịt Kobe đã nêu

nếu xử lí theo luật Việt Nam thì chắc chắn đã xâm phạm không chỉ quyền đối

với chỉ dẫn địa lý (điều 129.3b, 129.3c) mà còn là hành vi cạnh tranh không

lành mạnh (điều 130.1a, 130.1b).

Page 30: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

30

KẾT LUẬN

Từ việc tìm hiểu và phân tích một số case-study về hành vi xâm phạm

quyền đối với chỉ dẫn địa lý, có thể thấy rằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý vẫn còn là

một vấn đề rất mơ hồ với ngƣời Nhật. Vì chƣa có tầm nhận thức đúng đắn,

đánh giá đúng mức tầm quan trọng của vấn đề nên chỉ dẫn địa lý chƣa đƣợc

xem trọng và từ đó dẫn đƣờng cho các hành vi sai phạm liên tiếp diễn ra.

Thiết nghĩ với một cƣờng quốc kinh tế nhƣ Nhật Bản với tiềm năng và vị thế

vững mạnh về mọi mặt kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng thì việc củng cố

hệ thống luật pháp chặt chẽ là một điều rất cần thiết. Bởi hàng hóa có xuất xứ

từ Nhật Bản thƣờng rất đƣợc tin tƣởng và ƣa chuộng, do đó để giữ vững niềm

tin của ngƣời tiêu dùng với hàng hóa Nhật Bản thì những hành vi lừa đảo,

phạm pháp nhằm làm giảm uy tín nên đƣợc hạn chế càng sớm càng tốt. Vì

vậy Nhật Bản nên có một sự nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của chỉ dẫn

địa lý và sớm ban hành luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Trƣớc hết đây là một vấn

đề đã rất đƣợc coi trọng ở các nƣớc trên thế giới nhƣng hơn thế nữa một

khung luật pháp cố định sẽ giúp định hình lại thƣơng hiệu của các sản phẩm

và doanh nghiệp trong nƣớc và giảm bớt thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng.

Page 31: Tiểu luận shtt   nhóm 26 (nhật bản)

31

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

o Luật Sở hữu trí tuệ Việt nam 2005

o Hiệp định TRIPS

Tài liệu nƣớc ngoài

o Japanese Law: An overview – Masaki Abe & Luke Nottage

o Protection of Trademarks for Geographical Indications and Geographic

Terms – Japan Patent Office

o Intellectual Property Policies for the Twenty-First Century: The

Japanese Experience in Wealth Creation (2000) – Hisamitsu Arai

o Intellectual Property Rights in Japan (2003) – Asahi Koma Law Offices

o Standard for Indication in relation to Geographical Indications

(Notification No. 4 of National Tax Agency of December 28, 1994)

o Japanese Antitrust Law and the competitive mix – Andrew R. Dick

o Unfair Competition Prevention Act, Act No.47 of 1993

o The Protection of Geographical Indications in Japan – Professor

Jun‟ichi Eguchi, Kyoto University

Một số trang web tham khảo

http://thanhtra.most.gov.vn/vi/cac-bai-nghien-cuu-shtt/so-huu-tri-tue-trong-

boi-canh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te/