trƯỜng chÍnh trỊ mỤc lỤc trẦn phÚ ths. Đinh quốc …

52
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI - THÔNG TIN Số 32 tháng 8/2016 Chịu trách nhiệm xuất bản: ĐINH QUỐC THỊ Ban biên tập: ThS. ĐINH QUỐC THỊ TS. NGUYỄN TRỌNG TỨ PHẠM XUÂN CẢNH ThS. TRẦN ÁNH DƯƠNG Thư ký biên tập: ThS. LÊ ĐÌNH HÙNG Sửa bản in: TRẦN THỊ TÚ ANH Địa chỉ: TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ HÀ TĨNH Số 14, Đường Hoàng Xuân Hãn, Phường Đại Nài, Thành phố Hà Tĩnh Điện thoại: 039.3885545 Fax: 039.3885073 Email:[email protected] Website:http://www.truongchinhtrihatinh.gov.vn Ảnh: Bìa 1: Bìa 2, bìa 3 và phụ trương: Tư liệu trường In 300 cuốn, khổ 19 x 26,5cm, tại Công ty CP in Hà Tĩnh. Số 153 - Hà Huy Tập - TP. Hà Tĩnh. Giấy phép xuất bản số 32/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Hà Tĩnh cấp ngày 23 tháng 8 năm 2016. In xong và nộp lưu chiểu tháng 9 năm 2016. MỤC LỤC Ths. Đinh Quốc Thị: Môi trường nông thôn Hà Tĩnh - Thực trạng và giải pháp Phạm Xuân Cảnh: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, tăng cường công tác quản lý, nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước ThS. Trần Ánh Dương: Một số giải pháp thực hiện cải cách hành chính Nhà nước ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay Nguyễn Thái Dũng: Nêu cao trách nhiệm “vì dân” xứng đáng niềm tin của cử tri đối với đại biểu hội đồng nhân dân ThS. Phan Bá Linh: Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về sử dụng người hiền tài - Giá trị lý luận và thực tiễn ThS. Giao Thị Châu: Chi bộ Phòng Đào tạo Trường Chính trị Trần Phú thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ThS. Nguyễn Thắng Mỹ: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “phương pháp nêu gương” ở Trường Chính trị Trần Phú trong giai đoạn hiện nay ThS. Trần Thị Quỳnh Nga: Đa dạng hóa huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng - Nội dung quan trọng trong nhệm vụ đột phá thứ nhất của Đảng bộ Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2015 - 2020 ThS. Nguyễn Trọng Vinh: Người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay với việc học tập phong cách làm việc quần chúng của Chủ tịch Hồ Chi Minh ThS. Nguyễn Mỹ Hạnh: Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở là động lực thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII đã đề ra ThS. Lê Đình Hùng: Phát triển du lịch nông nghiệp Hà Tĩnh ThS. Chu Thị Thu Huyền: Lao động nông thôn ở Hà Tĩnh - Những vấn đề đặt ra ThS. Hồ Thanh: Nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ ThS. Nguyễn Thị Thảo Linh: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Hà Tĩnh ThS. Nguyễn Trọng Phượng: Vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ThS. Nguyễn Hà Giang: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong luật hôn nhân gia đình năm 2014 2 5 9 13 15 21 23 26 29 31 34 37 40 43 47 50

Upload: others

Post on 27-Nov-2021

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ

TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI -

THÔNG TIN

Số 32 tháng 8/2016

Chịu trách nhiệm xuất bản:ĐINH QUỐC THỊ

Ban biên tập:ThS. ĐINH QUỐC THỊ

TS. NGUYỄN TRỌNG TỨPHẠM XUÂN CẢNH

ThS. TRẦN ÁNH DƯƠNG

Thư ký biên tập:ThS. LÊ ĐÌNH HÙNG

Sửa bản in:TRẦN THỊ TÚ ANH

Địa chỉ: TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ HÀ TĨNH

Số 14, Đường Hoàng Xuân Hãn, Phường Đại Nài, Thành phố Hà Tĩnh

Điện thoại: 039.3885545Fax: 039.3885073Email:[email protected]

Website:http://www.truongchinhtrihatinh.gov.vn

Ảnh: Bìa 1: Bìa 2, bìa 3 và phụ trương: Tư liệu trường

In 300 cuốn, khổ 19 x 26,5cm, tại Công ty CP in Hà Tĩnh. Số 153 - Hà Huy Tập - TP. Hà Tĩnh. Giấy phép xuất bản số 32/GP-STTTT do Sở Thông tin và Truyền thông Hà Tĩnh cấp ngày 23 tháng 8 năm 2016. In xong và nộp lưu chiểu tháng 9 năm 2016.

MỤC LỤC

Ths. Đinh Quốc Thị: Môi trường nông thôn Hà Tĩnh - Thực trạng và giải pháp

Phạm Xuân Cảnh: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, tăng cường công tác quản lý, nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước

ThS. Trần Ánh Dương: Một số giải pháp thực hiện cải cách hành chính Nhà nước ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay

Nguyễn Thái Dũng: Nêu cao trách nhiệm “vì dân” xứng đáng niềm tin của cử tri đối với đại biểu hội đồng nhân dân

ThS. Phan Bá Linh: Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về sử dụng người hiền tài - Giá trị lý luận và thực tiễn

ThS. Giao Thị Châu: Chi bộ Phòng Đào tạo Trường Chính trị Trần Phú thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

ThS. Nguyễn Thắng Mỹ: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “phương pháp nêu gương” ở Trường Chính trị Trần Phú trong giai đoạn hiện nay

ThS. Trần Thị Quỳnh Nga: Đa dạng hóa huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng - Nội dung quan trọng trong nhệm vụ đột phá thứ nhất của Đảng bộ Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2015 - 2020

ThS. Nguyễn Trọng Vinh: Người cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay với việc học tập phong cách làm việc quần chúng của Chủ tịch Hồ Chi Minh

ThS. Nguyễn Mỹ Hạnh: Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở là động lực thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII đã đề ra

ThS. Lê Đình Hùng: Phát triển du lịch nông nghiệp Hà TĩnhThS. Chu Thị Thu Huyền: Lao động nông thôn ở Hà Tĩnh -

Những vấn đề đặt raThS. Hồ Thanh: Nâng cao trách nhiệm của cán bộ,

công chức trong thực thi công vụThS. Nguyễn Thị Thảo Linh: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ

trong lĩnh vực chính trị ở Hà TĩnhThS. Nguyễn Trọng Phượng: Vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc và xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ThS. Nguyễn Hà Giang: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong luật hôn nhân gia đình năm 2014

2

5

9

13

15

21

23

26

29

3134

37

40

43

47

50

2

T ThS. ĐINH QUỐC THỊ TUV, Hiệu trưởng

Hà Tĩnh có nhiều lợi thế để phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản. Đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Hà Tĩnh giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo; là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Năm 2015 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 18,2% cơ cấu GRDP. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã góp phần nâng cao thu nhập, đời sống cho nông dân và giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp hiện nay cũng đang tạo ra những nhân tố tác động tiêu cực đối với môi trường sinh thái , đe dọa đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Trong trồng trọt việc thâm canh tăng vụ để gia tăng sản lượng đã gây khó khăn cho công tác phòng trừ sâu bệnh và làm gia tăng sự suy giảm độ màu mỡ của đất; Sự lạm dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật sẽ để lại một lượng dư thừa gây tác động tiêu cực đến hệ sinh thái nông nghiệp, làm ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí và có thể gây đột biến gen đối với một số loại cây trồng, làm mất vệ sinh an toàn thực phẩm.

Trong chăn nuôi, thú y sự gia tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm với tổng đàn lợn vào cuối năm 2015 ước đạt 455.875 con, đàn trâu bò 261.738 con(1), đàn hươu 40.856 con sẽ thải ra khoảng trên 1 triệu tấn chất thải/năm, trong đó có một phần khá lớn xả trực tiếp ra môi trường, làm ô nhiễm môi trường không khí, nguồn nước, tài nguyên đất và ảnh hưởng đến chính kết quả sản xuất chăn nuôi. Mặt khác, do không có quy hoạch

ban đầu, nhiều lò mổ, xí nghiệp chế biến thực phẩm còn nằm trong khu dân cư; sản xuất chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún, phân bố rải rác và chưa đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải đảm bảo quy định. Hiện tại có hơn 32 cơ sở giết mổ tập trung đi vào hoạt động và số gia súc, gia cầm được đưa vào giết mổ tại các cơ sở giết mổ tập trung mới đạt khoảng 65%(2). Tình trạng giết mổ gia súc, gia cầm không theo quy định, nhất là giết mổ gia súc, gia cầm bị bệnh đã làm gia tăng ô nhiễm môi trường, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn nuôi. Thực tế cho thấy, những đợt dịch lở mồm, long móng; dịch lợn tai xanh; dịch cúm gia cầm H5N1trong những năm qua trên địa bàn Hà Tĩnh đã gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng và làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản: Hà Tĩnh có 137 km bờ biển, mạng lưới ao hồ, sông, suối khá dày đặc, đây là điểm thuận lợi cho ngành thủy sản phát triển mạnh. Năm 2015, sản xuất ước đạt 45.409 tấn, (trong đó khai thác đạt 32.480 tấn, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 12.929 tấn, đem lại giá trị sản xuất đạt tới 1.913.082 triệu đồng (giá hiện hành), trong đó: khai thác đạt 1.035.555 triệu đồng, nuôi trồng đạt 833.605 triệu đồng, các hoạt động dịch vụ thủy sản 43.922 triệu đồng(3). Tuy nhiên, việc nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản nếu không được kiểm soát chặt chẽ cũng sẽ làm phát sinh các tác nhân gây ô nhiễm môi trường như: Nạn chặt phá rừng phòng hộ ven biển lấy diện tích nuôi trồng thủy sản; việc xả nước các hồ nuôi trồng không qua xử lý ra môi trường; tình trạng nhiễm dịch bệnh

MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN HÀ TĨNH THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

3

trong nuôi trồng thuỷ sản sẽ gây ô nhiễm môi trường; Việc sử dụng công cụ và vật liệu mang tính hủy diệt trong khai thác, đánh bắt thủy sản như chất nổ, chất độc, xung điện, lưới có kích thước mắt nhỏ, ánh sáng cực mạnh; nghề te, giã cào đã gây cạn kiệt nguồn lợi, làm giảm tính đa dạng sinh học và phá hủy môi trường sống của các loài thủy sinh. Hoạt động chế biến thuỷ sản không đảm bảo quy trình công nghệ, không tuân thủ nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường rất lớn. Hiện tại, Hà Tĩnh có nhiều cơ sở kinh doanh, chế biến thuỷ sản, như Công ty XNK thuỷ sản Nam Hà Tĩnh, Xí nghiệp Chế biến XNK thuỷ sản Đò Điệm, HTX chế biến thủy sản Thiên Phú xã Thạch Kim và hàng trăm cơ sở chế biến nhỏ lẻ. Tuy nhiên, vẫn còn một số cơ sở chưa đảm bảo quy định về vệ sinh môi trường, trong đó có một số cơ sở đã bị xếp vào danh sách gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Trong sản xuất lâm nghiệp và công tác bảo vệ, phát triển rừng: Hà Tĩnh có 362.740,9 ha rừng và đất lâm nghiệp, chiếm 60,2% diện tích tự nhiên của tỉnh, trong đó có 173.281,0 ha quy hoạch sản xuất, đây là tiềm năng, lợi thế to lớn cần được phát huy. Tuy vậy, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vẫn bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế, chất lượng rừng tự nhiên bị suy giảm do một số nguyên nhân như: Tình trạng khai thác, chặt phá rừng trái phép chưa được khắc phục triệt để; công tác giao đất, giao rừng đang còn nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng chưa cao. Nạn săn bắn động vật hoang dã là mối đe dọa lớn đối với một số loài động vật, nhất là các loài động vật đặc hữu, các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Hiện tượng khai thác gỗ trái phép, khai thác thông để lấn đất trồng keo xẩy ra ở một số đia phương dẫn đến diện tích và chất lượng rừng bị giảm. Từ 2010 đến 2015 các cơ quan chức năng của Tỉnh và các huyện có rừng đã phát hiện xử lý 2.986 vụ vi phạm pháp luật về rừng, tịch thu 4675,76 m3 gỗ các loại; 7699 kg động

vật hoang dã; 18.278 kg lâm sản khác; 226 phương tiện vận tải; xử phạt nộp ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng, khởi tố hình sự 28 vụ (theo số liệu thống kê của ngành nông nghiệp, nông thôn Hà Tĩnh). Mặt khác sự thiếu ý thức của con người trong khi tiếp xúc với rừng đã gây ra nhiều vụ cháy rừng. Chỉ tính trong 2 năm 2014 và 2015, trên địa bàn tỉnh đã xẩy ra 34 vụ cháy rừng với tổng diện tích trên 65ha làm thiệt hại về mặt kinh tế và giảm diện tích rừng.

Sự ô nhiễm môi trường ở nông thôn còn được bộc lộ rõ trong hoạt động của các làng nghề. Hiện tại tỉnh Hà Tĩnh có 25 làng nghề nhưng môi trường đang ngày càng bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là: hệ thống hạ tầng xử lý chất thải chưa được đầu tư đúng quy định; việc ứng dụng KHCN còn hạn chế; nhận thức của người dân về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề bảo vệ môi trường còn thấp, ý thức trách nhiệm trong sản xuất và sinh hoạt còn yếu; quản lý của nhà nước về bảo vệ môi trường ở các làng nghề chưa tốt.

Rác thải và nước thải sinh hoạt nông thôn cũng là một trong những vấn đề bức xúc đang đặt ra hiện nay. Theo thống kê, bình quân mỗi ngày lượng rác thải sinh hoạt phát sinh từ các hộ gia đình, khu dân cư trên địa bàn toàn tỉnh là khoảng 1.141 tấn/ngày. Tuy nhiên lượng rác thải được xử lý đúng quy định đang rất ít. Nhiều xã hệ thông thoát nước thải và nghĩa trang chưa được quan tâm đầu tư. Ý thức trách nhiệm của người dân trong việc thu gom, phân loại, xử lý rác chưa cao, còn vứt rác bừa bãi làm mất vệ sinh nơi công cộng, làm ô nhiễm môi trường. Công tác trồng cây phân tán ở một số địa phương cấp huyện, cấp xã chưa tốt. Có nhiều tuyến đường được đầu tư rất nhiều tiền đã hàng chục năm nhưng chưa được trồng cây và chưa được tổ chức cắt dọn cỏ rác thường xuyên.

4

Từ thực trạng đó, để thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường sinh thái nói chung và nâng cao hiệu quả thực hiện tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới, trên cơ sở phát huy những thành quả của công tác bảo vệ môi trường và thực hiện tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới những năm qua, chúng ta cần quan tâm thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho người dân. Kinh nghiệm của các nước tiên tiến và các xã đã đạt tiêu chí môi trường cho thấy việc làm thay đổi nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường là hết sức quan trọng. Đó là yếu tố hàng đầu để phát huy nội lực trong công tác bảo vệ môi trường. Muốn thực hiện điều đó đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền, các Đoàn thể từ cấp tỉnh đến xã phải đưa công tác tuyên truyền vào kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thường xuyên; đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền; đẩy mạnh giáo dục môi trường trong các trường học, từng gia đình, dòng họ, đoàn thể, thôn xóm, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế đóng trên địa bàn.

Trong quá trình tuyên tuyền phải biết cách tạo dư luận xã hội lên án nghiêm khắc đối với các hành vi gây mất vệ sinh và ô nhiễm môi trường, tạo sự đồng tình với việc áp dụng các chế tài, xử phạt nghiêm, đúng mức mọi vi phạm. Cùng với việc tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật về môi trường, Chính quyền cấp xã cần xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về môi trường sát với tình hình thực tế của địa phương để tổ chức cho nhân dân thảo luận quyết nghị thống nhất đưa vào hương ước và ký cam kết thi đua thực hiện, đồng thời phải hết sức coi trọng việc xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản về bảo vệ môi trường như: Mô hình HTX vệ sinh môi trường; mô hình đội tự quản vệ sinh môi trường; mô hình 3 sạch: «Sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ»;

mô hình con đường, thôn xóm xanh - sạch - đẹp; mô hình cấp nước sinh hoạt tập trung khu vực nông thôn; mô hình sản xuất, kinh doanh đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm…

Trong chỉ đạo sản xuất phải luôn tuyên truyền, vận động người dân đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ; sử dụng các phương pháp, quy trình sản xuất tiên tiến; sử dụng các chế phẩm sinh học trong phòng trừ sâu bệnh, hạn chế sử dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp; Khuyến khích các hộ chăn nuôi xây dựng công trình xử lý chất thải và thường xuyên vệ sinh chuồng trại, không xây dựng các cơ sở chăn nuôi, chế biến thực phẩm đầu nguồn nước...

Thứ hai, cấp ủy, chính quyền xã phải lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt các nội dung về môi trường trong quy hoạch xây dựng nông thôn mới.

Trước hết phải thực hiện tốt việc công khai quy hoạch NTM, cung cấp cho nhân dân đầy đủ các nội dung về môi trường trong quy hoạch. Theo định kỳ tổ chức rà soát để trình cấp có thẩm quyền quyết định điều chỉnh bổ sung cho phù hợp yêu cầu thực tế và các quy định mới của nhà nước về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường; trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt cần tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng nhà máy nước, nhà máy xử lý rác, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, cơ sở chế biến thủy sản, tổ chức sản xuất nông nghiệp công nghệ cao… Hàng năm chính quyền xã phải tích cực tranh thủ các nguồn vốn và vận động nhân dân đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, trang bị thêm cơ sở vật chất phục vụ công tác bảo vệ môi trường như: hệ thống mương thoát nước thải, nghĩa trang, bãi xử lý rác, trạm thu gom rác tạm thời tại các thôn; xây dựng công trình vệ sinh các trường học, trạm xá, trụ sở làm việc; xây dựng hệ thống xử lý chất thải

Xem tiếp trang 12

5

T PHẠM XUÂN CẢNH Phó Hiệu trưởng

Đội ngũ cán bộ, công chức, nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước, được

hiểu không chỉ đơn thuần là con người với vai trò là đầu vào của một quy trình, mà nó bao hàm nghĩa rộng: con người với trí lực, thể lực, tư cách đạo đức và thái độ với công việc. Họ là chủ thể của nền hành chính mang tính chất phục vụ của chúng ta. Hiệu quả hoạt động của họ biểu hiện rõ nhất ở mức độ hài lòng của người dân. Quản lý nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính Nhà nước không chỉ là quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trong công việc của họ, mà là một chuỗi các hoạt động, bao gồm từ khâu thu hút, phát hiện, tuyển chọn, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm, bãi miễn, kỷ luật công chức... Chính vì vậy, cách thức chúng ta quản lý nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính Nhà nước sẽ là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ công chức, cũng là hiệu quả của nền công vụ.

Trong những năm qua, hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính Nhà nước đã có những tiến bộ vượt bực. Các khâu trong quy trình quản lý cán bộ, công chức đã dược thể chế hóa bằng văn bản pháp luật. Pháp lệnh cán bộ công chức ban hành năm 1998 đã quy định cụ thể các chức danh; đối tượng cán bộ, công chức được thu hẹp hơn so với trước. Đến năm 2008, Luật cán bộ công chức ra đời không chỉ xác định rõ các chức danh mà

còn cụ thể hóa các khâu trong quy trình quản lý cán bộ, công chức từ vấn đề thu hút, tuyển chọn đến sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, kỷ luật cán bộ, công chức… Đến nay, dù chưa được như mong muốn, nhưng công tác quản lý, nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của bộ máy hành chính Nhà nước các cấp đã từng bước đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính phục vụ, của dân, do dân, vì dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nguồn nhân lực trong cơ quan hành chính nhà nước cũng còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, yếu kém trong tất cả các khâu. Điều đó không chỉ làm cho hoạt động của nền hành chính của chúng ta có thể bị lệch hướng, quan trọng hơn, đang kìm hãm, kéo lùi sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Từ thực tế này, để tăng cường công tác quản lý, nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan hành chính, chúng ta hãy soi vào quan điểm, cách làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các nội dung quản lý cán bộ công chức, nhằm phát huy tư tưởng của Người về vấn đề này trong bối cảnh đất nước hiện nay.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ chí Minh là người đặc biệt quan tâm và thực hiện rất thành công công tác quản lý, sử dụng cán bộ. Những ngày đầu, khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mới được thành lập, từ nhận thức sâu sắc về vai trò của người

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ, TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC THI CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

6

thực thi công vụ: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1), “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(2), Người đã luôn đặc biệt quan tâm đến các hoạt động trong quy trình quản lý cán bộ, công chức.

Trước hết, ngay từ khâu phát hiện, thu hút, tuyển chọn người làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang tư tưởng “Tôn tài đại thịnh”(3) của tiền nhân, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”(4). Những tên tuổi lớn trong giới trí thức – quan chức của chế độ cũ như Phó bảng Huỳnh Thúc Kháng, Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Thượng thư bộ hình Bùi Bằng Đoàn…hay là những trí thức lớn ở hải ngoại như Kỹ sư Trần Đại Nghĩa, Bác sĩ Trần Hữu Tước…đã được Người mời tham gia Chính phủ đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập. Điều này không chỉ là khả năng thuyết phục, cách đối nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cũng chính là tài năng của Người trong công tác quản lý cán bộ. Khâu tuyển chọn cán bộ, công chức hiện nay của chúng ta nói riêng và cách thức quản lý cán bộ công chức nói chung đang thực hiện theo “mô hình chức nghiệp”, lấy bằng cấp, học vị làm tiêu chí tuyển dụng mà không có đủ căn cứ để xác định thực tài. Đây là điểm yếu nhất của mô hình này. Việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào các chức vụ chỉ lựa chọn trong số cán bộ công chức đã thuộc biên chế, hưởng lương từ ngân sách, vì thế, không thu hút, sử dụng được người tài từ bên ngoài hệ thống. Xu thế chuyển dịch dần sang quản lý theo “mô hình việc làm” với nhiều ưu thế, đặc biệt là tạo cơ hội cho người có năng lực vào làm việc đúng vị trí, cần được khuyến khích. Chỉ có như thế mới tuyển chọn được người có thực tài vào bộ máy hành chính để làm việc, mới thực sự phát huy quan điểm “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Từ khi bộ máy Nhà nước được hình thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra tiêu chí để tuyển chọn cán bộ, công chức: vừa có tài vừa

có đức, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Năm năm sau khi Nhà nước VNDCCH ra đời, ngày 20/5/1950, Người đã ký sắc lệnh số 76-SL, ban hành Quy chế công chức, quy định việc tuyển dụng công chức. Ngày nay, chúng ta đã có Luật cán bộ công chức và các văn bản pháp quy quy định rất rõ quy trình, cách thức, tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, công chức…, nhưng tình trạng tiêu cực trong bổ nhiệm, tuyển dụng cán bộ, công chức là còn khá phổ biến. Để chọn được người có đức, có tài vào làm việc, cần thực hiện nghiêm Luật cán bộ công chức, quy chế tuyển dụng, đấu tranh kiên quyết với tình trạng chạy chức, chạy quyền, hối lộ, thói quen nhận người thân vào làm việc; cần công khai, minh bạch hóa trong tuyển dụng, đấu tranh đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, sử dụng bằng giả, hồ sơ giả… trong tuyển dụng cán bộ. Chỉ có như vậy thì mới xây dựng được đội ngũ cán bộ công chức “vừa hồng, vừa chuyên” trong bộ máy hành chính Nhà nước, nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ của nền công vụ trong giai đoạn hiện nay.

Hai là, khi sử dụng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện theo phương châm: “dụng nhân như dụng mộc”. Người nói: “…tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”(5). Khi bố trí cán bộ, quan diểm của Người là “phải biết rõ cán bộ”(6), “phải cân nhắc cán bộ cho đúng”(7). Đặc biệt, những giáo huấn của Người về loại bỏ óc bè phái, thiên vị trong việc sử dụng cán bộ vẫn mang tính thời sự nóng hổi đến hôm nay. Người nói: “Ai thân với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng, ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe, đó là một căn bệnh nguy hiểm”(8). Công tác đánh giá, nhận xét cán bộ công chức để làm căn cứ sắp xếp, bố trí là rất quan trọng, đồng thời, đây cũng là việc khó, nhạy cảm,

7

cũng là khâu yếu nhất trong quy trình công tác quản lý cán bộ hiện nay của chúng ta hiện nay. Vì vậy, dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức “ngồi nhầm ghế”. Phải đấu tranh, khắc phục cho được tình trạng đánh giá cán bộ công chức một cách cảm tính, không định lượng được qua kết quả công việc được giao; xem xét, đánh giá một cách hình thức, chiếu lệ, nể nang, thiếu khách quan, xây dựng. Cần phải sớm ban hành một hệ thống tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức một cách tỉ mỉ, cụ thể về tiêu chuẩn, trình độ, năng lực; về khối lượng công việc, khả năng xử lý, tổng hợp, báo cáo; trách nhiệm giải trình…của từng vị trí mà cán bộ, công chức đang đảm nhiệm. Chỉ có biết rõ cán bộ, công chức; công tâm trong đánh giá; không vị thân khi sắp xếp, bố trí; thắt chặt công tác quản lý trong khâu sử dụng thì mới đảm bảo được chất lượng, nâng cao được hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy chính Nhà nước của chúng ta hiện nay.

Ba là, về công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là “công việc gốc của Đảng”. Người nhấn mạnh: học để hành, nghĩa là để làm việc chứ không phải để có bằng cấp, để cho oai và để có chức này chức nọ. Người cho rằng, cán bộ đảng viên phải học tập lý luận Mack - Lênin, học tập đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời phải học văn hóa, kỹ thuật nghiệp vụ, “làm việc gì học việc đấy”, tức là cán bộ làm ở lĩnh vực gì, phụ trách ngành nghề gì đều phải học cho thành thạo công việc ở lĩnh vực đó. Người cho rằng, cán bộ là tiền vốn của Đảng, “có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”(9). Trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng, đặc biệt là trong phát triển kinh tế, một cách cấp bách, phải hình thành cho được một đội ngũ cán bộ, công

chức với tính chuyên nghiệp cao. Điều này đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng phải bám sát hơi thở của cuộc sống; nhu cầu, đòi hỏi thật sự sát sườn của công việc. Cần gì thì đào tạo, bồi dưỡng cái đó. Tránh tình trạng học là để “dán nhãn”, để đủ bằng cấp khi cất nhắc, đề bạt; trái ngành, trái nghề vẫn học để lấy bằng mà không liên quan gì đến công việc đang được giao. Để khắc phục tình trạng này, và cũng là để cán bộ công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước thật sự trở thành “cái vốn” của nền công vụ hiện đại, thì rất cần thiết phải có một chiến lược với tầm nhìn dài hạn đối với công tác đào tạo đội ngũ cán bộ công chức. Phương châm đào tạo, bồi dưỡng phải là: giỏi về chuyên môn; vững vàng về bản lĩnh chính trị; có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, tránh được những tác động tiêu cực từ kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; luôn có thái độ tích cực đối với công việc…

Bốn là, trong quản lý cán bộ, việc bãi nhiệm, kỹ luật cán bộ công chức được Chủ tịch Hồ chí Minh đặc biệt quan tâm. Người cho rằng: “Chọn người và thay người”(10) là một trong những nhiệm vụ của lãnh đạo khi sử dụng cán bộ công chức; ngoài phê bình và tự phê bình, cán bộ, công chức tự khắc phục, sửa chữa khuyết điểm thì việc xử phạt cũng là hết sức cần thiết. Nếu vi phạm kỷ luật mà không xử phạt “thì sẽ mất cả kỷ luật, mở đường cho bọn cố ý phá hoại”(11). Đặc biệt, “những người mắc bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, không dùng dược thì phải thải đi”(12). Mặc dù vậy, không phải cán bộ, công chức nào vi phạm cũng kỷ luật mà quan trọng là làm cho họ nhận thấy khuyết điểm và có hướng khắc phục, sửa chữa. Và chính vì vậy, trước khi kỷ luật một cán bộ, công chức, Người rất trăn trở, suy xét kỹ càng, thấu đáo. Chế độ công chức suốt đời hiện nay của chúng ta đã tạo ra một tâm thế ổn định cho những người làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước. Đây là đặc

8

tính ưu việt. Tuy nhiên, những bất cập của nó, cùng với một cơ chế, quy trình sa thải, thay thế cán bộ công chức rất phức tạp, tính khả thi không cao, đang là lực cản lớn đối với những người làm công tác quản lý khi thực hiện nhiệm vụ “chọn người và thay người” theo quan điểm của Hồ Chí Minh. Rất cần thiết phải có những cải cách trong chế độ thời gian làm việc của công chức, phải linh động hơn, với những hợp đồng làm việc của công chức là có thời hạn, đặc biệt là các vị trí quan trọng trong hệ thống mà công chức được đảm nhiệm. Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức của cán bộ công chức trong phê bình và tự phê bình; vai trò cá nhân, trách nhiệm giải trình khi thực thi công vụ; rèn luyện phong cách làm việc và thái độ ứng xử khi tiếp xúc với công dân; xử lý nghiêm khắc với những cán bộ công chức quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ nghiêm kỹ luật, phép nước.

Năm là, một trong những khâu quan trọng trong quản lý cán bộ, công chức được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng, đưa ra các chủ trương kịp thời, đó là chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức. Theo Người, làm tốt chế độ chính sách sẽ tạo động lực quan trọng kể cả vật chất và tinh thần, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Người nói: “Đảng và Chính phủ rất mong mốn đời sống của công nhân, công chức và cán bộ ngày càng khá hơn”(13), “…phải tăng lương bổng cho công nhân và công chức, tiếp tục giảm giá hàng, luôn luôn nêu cao mức sinh hoạt của mọi người”(14). Từ khi cách mạng tháng 8 thành công đến tháng 12/1952, dù kinh tế đất nước còn rất khó khăn, nhưng Người đã liên tiếp ban hành 12 sắc lệnh quy định cụ thể, chi tiết về chính sách đối với cán bộ công chức, trong đó rất chú trọng đế chế độ lương, phụ cấp. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế đất nước ngày càng phát triển, cùng với các chế độ chính sách ưu đãi, đời sống cán bộ công chức đang từng bước

được cải thiện, mức sống đội ngũ cán bộ công chức ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung thì một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ công chức, đời sống vẫn còn rất nhiều khó khăn. Cùng với lộ trình nâng lương, Nhà nước rất cần thiết phải hoàn thiện cơ chế chính sách đối với cán bộ công chức. Đãi ngộ tốt vừa tạo động lực cho người lao động, đồng thời cũng là yếu tố hấp dẫn, thu hút được người có trình độ chuyên môn giỏi vào làm việc và, rất quan trọng, chế độ đãi ngộ tốt cũng sẽ tích cực góp phần gìn giữ được đạo đức, phẩm chất của cán bộ công chức trong khi thi hành công vụ. Chế độ đãi ngộ hợp lý cũng sẽ giảm thiểu tình trạng cán bộ công chức “chân trong, chân ngoài”, khá phổ biến hiện nay. Chế độ đãi ngộ dựa trên hiệu quả của công việc sẽ khuyến khích sự sáng tạo, đề cao trách nhiệm cá nhân. Đãi ngộ hợp lý đối với người lao động nói chung, đội ngũ cán bộ công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước nói riêng, không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu để thúc đẩy xã hội phát triển và cũng là nguyện vọng mang tính nhân văn sâu sắc thuở sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

____________________(1) , (2), (6), (7), (8) Hồ Chí Minh, Toàn tập,

tập 5, Nxb CTQG, 202;(3) Nguyễn Khắc Niêm;(4) Thân Nhân Trung;(5) “Thiếu óc tổ chức – một khuyết điểm

lớn trong các Ủy ban nhân dân” (Cứu quốc, 04/10/1945);

(9) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, 1995;

(10), (11), (12) “Sửa đổi lề lối làm việc”, Hồ Chí Minh, 1947;

(13), (14) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, 1995.

9

T ThS. TRẦN ÁNH DƯƠNG Phó Hiệu trưởng

Cải cách hành chính nhà nước là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản

lý nhà nước; tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động; bảo đảm sự hài lòng của người dân; đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội, phát triển kinh tế trong xu thế hội nhập quốc tế; xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Trong những năm qua, thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng, sự điều hành của chính quyền và sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tỉnh Hà Tĩnh đã đạt được những kết quả cải cách hành chính như: Tiến hành mạnh mẽ cải cách các thủ tục hành chính (TTHC); cắt giảm 1/3 thành phần hồ sơ (TPHS) và 1/2 thời gian giải quyết các vấn đề cho người dân và doanh nghiệp (Kết quả đơn giản hóa thủ tục hành chính trong toàn tỉnh tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2015: Số TTHC có TPHS được giảm trên tổng số TTHC hiện có: 761/1341 thủ tục, đạt tỷ lệ 56,7%. Tổng số TPHS được giảm trên tổng số TPHS hiện có: 1377/5633 thành phần hồ sơ, đạt tỷ lệ 24,4%. Tổng thời gian giải quyết được giảm trên tổng thời gian giải quyết hiện có: 12081/21971 ngày, đạt tỷ lệ 55%); tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý nhà nước; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp và các cơ quan tham mưu theo hướng tinh gọn. Xây dựng và triển khai có hiệu quả đề án sáp nhập trường học, thôn xóm, khối phố (giảm

693 thôn, tổ dân phố). Triển khai thực hiện đề án đổi mới phương thức hoạt động của sở, ban, ngành, uỷ ban nhân dân các huyện nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh (đề án 3713). Kỷ luật, kỷ cương hành chính được siết chặt; từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xử lý kịp thời nghiêm minh các trường hợp vi phạm.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cải cách hành chính nhà nước ở Hà Tĩnh còn những hạn chế: Chất lượng tham mưu, thẩm định, góp ý ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật chưa cao. Việc cập nhật, niêm yết, công khai TTHC được công bố sau đơn giản hóa của một số đơn vị, địa phương chưa đầy đủ, chưa đúng quy định. Công tác tuyên truyền về cải cách TTHC, nhất là các TTHC mới được công bố sau đơn giản hóa ở một số đơn vị chưa tốt. Các TTHC được đơn giản hóa, nhưng hồ sơ, thành phần trong từng thủ tục vẫn còn rườm rà, một số nơi bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn yêu cầu người dân phải cung cấp những hồ sơ ngoài thủ tục quy định, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Việc tham mưu ban hành quy định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 và Nghị định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 05/5/2014 của Chính phủ còn chậm. Thực hiện Đề án tinh giản biên chế tại các cơ quan, đơn vị gặp nhiều khó khăn. Công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức chưa toàn diện. Việc xây dựng xác định vị trí việc làm còn chậm. Chất lượng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là cấp

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

10

xã. Công tác đánh giá, phân loại công chức, viên chức còn mang tính hình thức, chưa phát huy trách nhiệm người đứng đầu. Còn có tình trạng cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác vẫn chưa đạt yêu cầu. Một số đơn vị chưa giao tự chủ kinh phí hoặc chỉ tự chủ một phần. Tiến độ thực hiện một số dự án về Chính phủ điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính còn chậm. Việc áp dụng hệ thống ISO tại một số cơ quan còn mang tính hình thức. Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại một số cơ quan, đơn vị chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc chưa cao. Cơ sở vật chất chưa đảm bảo yêu cầu, nhất là ở cấp xã. Phần lớn đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả chưa đáp ứng yêu cầu cả về năng lực, thái độ, trách nhiệm nên việc giải quyết các TTHC cho người dân, doanh nghiệp còn hạn chế.

Nguyên nhân của những hạn chế: Nhận thức và sự quan tâm của một số cấp uỷ, chính quyền các cấp và một bộ phận cán bộ, công chức về CCHC chưa thật sự đầy đủ, chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Người đứng đầu của một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm, đầu tư đúng mức cho công tác CCHC. Công tác chỉ đạo, điều hành CCHC ở một số cơ quan, đơn vị, đặc biệt là đối với các đơn vị trực thuộc, cấp xã còn nhiều hạn chế. Việc ban hành các kế hoạch về CCHC chưa thực sự gắn với hoạt động, thực tiễn của ngành, đơn vị. Kinh phí thực hiện cải cách hành chính còn thiếu.

Nhận thức được tầm quan trọng của cải cách hành chính nhà nước, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định thực hiện cải cách hành chính nhà nước là một trong ba nhiệm vụ đột phá của Hà Tĩnh trong thời gian tới: “Thực hiện đồng bộ cải cách hành chính; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;

ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện”(1).

Trong thời gian tới, để thực hiện thành công cải cách hành chính nhà nước ở Hà Tĩnh cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức cho cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp về vai trò, tầm quan trọng, nội dung cải cách hành chính nhà nước; phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.

Cần phổ biến, quán triệt các đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước về cải cách hành chính nhà nước cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tổ chức ký cam kết, xây dựng kế hoạch thực hiện cải cách hành chính trong các cơ quan, đơn vị.

Các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương cần xác định cải cách hành chính nhà nước là một nhiệm vụ trọng tâm; cần phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt thực hiện cải cách hành chính nhà nước; ưu tiên nguồn lực thích đáng cho việc thực hiện cải cách hành chính nhà nước.

Gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước với việc thực hiện cải cách hành chính nhà nước. Lấy kết quả thực hiện cải cách hành chính nhà nước ở cơ quan, đơn vị làm thước đo để đánh giá năng lực điều hành, quản lý của người đứng đầu; là cơ sở để đề bạt, bố trí cán bộ, không đề bạt, bổ nhiệm lên chức vụ cao hơn đối với người đứng đầu mà kết quả cải cách hành chính nhà nước của cơ quan, đơn vị đó không tốt.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Hà Tĩnh có trình độ, năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là gốc của công việc”,“Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các nội dung

11

cải cách hành chính nhà nước. Cho nên, cần quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Trước hết, các cơ quan, đơn vị cần hoàn thành đề án vị trí việc làm; từ đó bố trí, sử dụng, điều động, tuyển dụng cán bộ, công chức cho phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm. Công khai, minh bạch khi tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức; lấy kết quả thực thi công việc và uy tín đối với nhân dân làm thước đo để đánh giá, xếp loại, đề bạt, bổ nhiểm cán bộ, công chức, viên chức.

Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Rà soát trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với công việc đảm nhiệm và yêu cầu phát triển của giai đoạn mới. Chú trọng bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước, kiến thức kinh tế, kiến thức tin học, kỹ năng quản lý, điều hành, đạo đức công vụ…cho cán bộ, công chức, viên chức.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tinh thần trách nhiệm tận tâm với công việc, tận tụy với nhân dân, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, nói không với tiêu cực và tham nhũng trong thực thi công vụ.

Làm tốt công tác chuyển đổi vị trí việc làm theo Nghị định số 158/2007/NĐ-CP, ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 150/2013/NĐ-CP, ngày 01/11/2013 của Chính Phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2007/NĐ-CP. Các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào đề án vị trí việc làm, phải khách quan khi chuyển đổi góp phần nâng cao hiệu quả công việc.

Thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị định 108/2014/NĐ-CP, ngày 20/11/2014

của Chính Phủ về chính sách tinh giản biên chế: Kiên quyết đưa ra khỏi biên chế những người dôi dư, không đáp ứng yêu cầu công việc, không thể tiếp tục bố trí sắp xếp công tác khác, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tinh gọn, có tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo quy định tại Chỉ thị số 35-CT/TU, ngày 04/11/2008; Kết luận số 05-KL/TU, ngày 25/5/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND, ngày 03/11/2011 của UBND tỉnh; thực hiện hiệu quả Đề án 3713 của UBND tỉnh.

Làm tốt công tác thanh tra công vụ để kịp thời phát hiện những cán bộ, công chức, viên chức vi phạm kỷ cương hành chính, vi phạm pháp luật để có biện pháp uốn nắn, chấn chỉnh, kỷ luật và biểu dương, khen thưởng những cán bộ, công chức, viên chức có thành tích trong thi hành công vụ.

Ba là, tiếp tục cải cách thể chế hành chính nhà nước. Tổ chức rà soát hệ thống thể chế hiện hành để có kiến nghị loại bỏ những thể chế không còn phù hợp, chú trọng việc lấy ý kiến nhân dân trong xây dựng thể chế. Xây dựng thể chế hành chính phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, tạo môi trường thông thoáng cho người dân và doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh (vì đây là động lực của sự phát triển), tránh lợi ích cục bộ của ngành, đơn vị khi xây dựng thể chế.

Bốn là, các cơ quan tiến hành đơn giản hoá thủ tục hành chính. Tiếp tục thực hiện cắt giảm 1/3 thành phần hồ sơ và ½ thời gian xử lý thủ tục hành chính; công khai kịp thời, đầy đủ, đúng quy định những thủ tục hành chính sau cắt giảm; nâng cao hiệu quả hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông.

12

Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong giám sát thực hiện thủ tục hành chính, sự phục vụ của công chức hành chính nhà nước, bảo đảm sự hài lòng của người dân khi thực hiện TTHC.

Năm là, kiện toàn, sắp xếp các cơ quan hành chính nhà nước. Tiếp tục thực hiện các nội dung của Đề án kiện toàn, sắp xếp cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức hội gắn với thực hiện Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính Phủ về quy định tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Nghị định 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính Phủ về quy định tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Tăng cường việc chỉ đạo sáp nhập thôn, tổ dân phố giai đoạn 2016-2020 theo Chỉ thị số 09/CT-UBND, ngày 22/3/2012 của UBND tỉnh Hà Tĩnh.

Sáu là, thực hiện tốt chế độ tài chính và đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho cải cách hành chính nhà nước. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế khoán kinh phí và biên chế quản lý hành chính; thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính tại các cơ quan đơn vị hành chính, sự nghiệp. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết để đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá nền hành chính nhà nước. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO vào hoạt động quản lý hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất của cơ quan hành chính các cấp, tiến tới xây dựng Trung tâm hành chính công cấp tỉnh.

Thực hiện tốt cải cách hành chính nhà nước là góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh khoá XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra, sẽ “đưa Hà Tĩnh phát triển nhanh hơn, bền vững hơn theo hướng công nghiệp hiện đại”./.

____________(1) Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, Văn kiện Đại hội đại biểu

Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020, trang 103.

tại các làng nghề, cơ sở chăn nuôi, cơ sở chế biến nông sản, công trình vệ sinh gia đình, với phương châm đảm bảo vệ sinh môi trường từ gia đình ra ngoài xã hội. Phát động nhân dân thi đua bảo vệ môi trường, tích cực trồng cây, hưởng ứng tết trồng cây. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích ứng dụng KHCN vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo vệ môi trường. Trong nông nghiệp cần đẩy mạnh thực hiện quy trình sản xuất tiên tiến, sử dụng các chế phẩm sinh học trong việc phòng trừ sâu bệnh, xử lý chất thải, hạn chế sử dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp.

Thứ ba, tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Tổ chức thực hiện nghiêm các quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong các khu dân cư, trường học, bệnh viện, các khu vực công cộng, các làng nghề,…. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của nhà nước về bảo vệ môi trường, kịp thời biểu dương khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích và xử lý nghiêm minh các sai phạm theo quy định của pháp luật./.

_______________(1) (3) Cục thống kê Hà Tĩnh - Tình hình

kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh mười năm 2006 - 2015, NXB Thống kê năm 2015

(2) Kế hoạch sản xuất nông nghiệp 2016 của UBND tỉnh Hà Tĩnh, ngày 16/11/2015;

MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN... Xem tiếp trang 4

13

T NGUYỄN THÁI DŨNG Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã thành công tốt đẹp,

với số cử tri tham gia bầu cử đạt 99,35%, bầu được 496/500 đại biểu Quốc hội và 320.360/327.114 đại biểu HĐND các cấp đảm bảo cơ cấu, chất lượng. Vấn đề cơ bản và quan trọng nhất hiện nay là cần phải làm gì để phát huy vai trò, trách nhiệm của người đại biểu dân cử, xứng đáng với niềm tin, hy vọng của cử tri và thực hiện tốt nhất lời hứa khi “tranh cử” của đại biểu. Để làm được điều đó cần có trách nhiệm của nhiều cơ quan Đảng, nhà nước, tổ chức quần chúng, đại biểu Quốc hội, HĐND và nhân dân, trong đó trách nhiệm của người đại biểu có ý nghĩa quyết định.

Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp đã được quy định trong các văn bản pháp luật, rồi đây các đại biểu, nhất là đại biểu HĐND các cấp cần phải được học tập, quán triệt và thấm nhuần sâu sắc để thực hiện trong suốt nhiệm kỳ HĐND. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một trong những trách nhiệm của đại biểu HĐND các cấp, đó là trách nhiệm “vì dân” của người đại biểu.

Theo quy định của pháp luật: “Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước Hội đồng nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình”… “Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm”. (1) Như vậy đại biểu HĐND là người của cử tri, do cử tri lựa chọn, đại biểu HĐND trước hết phải là người “tự nguyện” để cử tri lựa chọn, chứ không phải

là người “bị” cử tri lựa chọn, đây là điều mà các đại biểu HĐND phải nhận thức sâu sắc để thực hiện tốt nhất trách nhiệm nói chung của người đại biểu, trách nhiệm “vì dân” nói riêng. Là người “tự nguyện” để cử tri lựa chọn, họ phải “hy sinh” khá nhiều thứ cho cử tri, họ phải dám nói tiếng nói của cử tri, dám bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cử tri, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri…trên thực tế vẫn có khá nhiều vị đại biểu chưa dám “hy sinh” vì cử tri bầu ra mình, chưa thực sự “tự nguyện” trong vai trò người đại diện mà chủ yếu là “hoạt động trên cơ sở trách nhiệm do luật định”, thậm chí một số đại biểu tham gia HĐND chỉ để được làm “chức này, chức nọ” chứ không phải là “vì dân”. Đã là đại biểu dân cử, thì phải hoạt động trên tinh thần “tự nguyện”, vì chỉ có “tự nguyện” mới “vì dân” được, nhất là trong cơ chế đại biểu kiêm nhiệm như ở nước ta hiện nay. Chỉ có “tự nguyện” đại biểu mới giành được thời gian nhiều nhất cho nhân dân, mới gần được nhân dân, mới hiểu được tâm tư nguyện vọng của cử tri, mới tìm mọi cách để nâng cao trình độ mọi mặt của bản thân và có nhiều cách để bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của cử tri.

Để đại biểu HĐND thực sự “tự nguyện” để cử tri lựa chọn thay mình thực thi quyền lực nhà nước, thực sự “vì dân”, chúng tôi đề nghị:

Một, tại phiên họp thứ nhất, kỳ họp đầu tiên của khóa HĐND mới, HĐND cần tổ chức cho đại biểu HĐND “tuyên thệ” trước cử tri trước khi tiến hành các nội dung theo quy định. Việc “tuyên thệ” của đại biểu trước cử tri nhằm để đại biểu ý thức đầy đủ hơn, tự khẳng định vai trò, trách nhiệm, tự cam kết thực hiện vai trò, trách nhiệm của

NÊU CAO TRÁCH NHIỆM “VÌ DÂN” XỨNG ĐÁNG NIỀM TIN CỦA CỬ TRI ĐỐI VỚI ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

14

mình trước cử tri, đồng thời cử tri có “căn cứ” để yêu cầu đại biểu phải “vì dân”, phải thực hiện lời tuyên thệ của mình.

Hai, phải để cử tri xếp loại cho đại biểu HĐND vào cuối năm hoạt động. Theo quy định thì: “Mỗi năm một lần vào cuối năm, kết hợp với việc tiếp xúc cử tri, đại biểu Hội đồng nhân dân báo cáo với cử tri ở đơn vị bầu ra mình về hoạt động trong năm, nhiệm vụ năm tới của mình và của Hội đồng nhân dân”. Theo chúng tôi, tại cuộc tiếp xúc cử tri cuối năm này, cần có thêm một nội dung là cử tri thực hiện bỏ phiếu xếp loại cho đại biểu và công bố công khai kết quả xếp loại cho cử tri biết, đây là “chỉ số hài lòng” của cử tri đối với đại biểu, đại biểu căn cứ vào kết quả này để điều chỉnh bản thân trong quá trình hoạt động, nếu hai năm liên tục mà đại biểu bị xếp loại thấp thì cần xem xét tư cách đại biểu.

Ba, đối với đại biểu HĐND cần tự giác, tự nguyện rèn luyện bản thân về mọi mặt, nhất là bản lĩnh và trách nhiệm của người đại biểu dân cử. Bởi vì đã “tự nguyện” dấn thân vào con đường “người của cử tri” thì mọi suy nghĩ, hành động đều phải “vì dân”, đều phải ‘hy sinh” vì cử tri, nếu không, đại biểu nên rút lui ngay từ quá trình hiệp thương bầu cử. Theo chúng tôi, để trở thành người thực sự “vì dân”, mỗi đại biểu HĐND cần học tập, làm theo một cách thiết thực, cụ thể tấm gương đạo đức, tư tưởng, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng “vì dân” của Người. Đại biểu HĐND phải nhận thức sâu sắc và hành động như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân….Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.(2) Đại biểu HĐND là “người của dân” thì phải thành tâm học hỏi quần chúng, kiên trì trong việc giáo dục, giác ngộ, lãnh đạo quần chúng như Bác

Hồ dạy: “Muốn cho dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói. Do ý kiến và đề nghị lẻ tẻ của dân chúng, ta phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại cho có ngăn nắp, thứ tự rồi cùng dân chúng ra sức thi hành. Như vậy, vừa nâng cao trình độ dân chúng, mà cũng vừa nâng cao kinh nghiệm của mình. Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh cụ thể của địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành”.(3) Đại biểu HĐND phải là người “định hướng” cho cử tri trong việc tham gia quản lý nhà nước, xã hội, góp ý cho các chính sách, pháp luật của nhà nước, bởi vì cử tri không có đủ thời gian, kiến thức, thông tin để tham gia, bàn bạc và quyết định chính xác về một vấn đề nào đó khi được hỏi ý kiến, cho nên cần sự “định hướng” của đại biểu, vì vậy đại biểu phải tự nâng cao trình độ về mọi mặt, phải là người “hiểu biết” hơn cử tri mới “định hướng” đúng đắn và phù hợp ý chí, nguyện vọng của cử tri và quy định của pháp luật.

Bốn, đối với các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể phải tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích, vận động nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về quyền và nghĩa vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Phải kiên trì thông qua nhiều hình thức thiết thực làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thấy được việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nói chung, bầu cử Quốc hội, HĐND, giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử sau bầu cử nói riêng, không chỉ là “QUYỀN” mà quan trọng hơn đó là “NGHĨA VỤ” của họ. Trong thực tế cử tri luôn đòi hỏi phải có một nhà nước “tốt” từ phía bản thân nhà nước, chứ chưa thấy để có một nhà nước “tốt” là do cử tri “tạo nên”, vì vậy họ chưa tích cực, chưa

Xem tiếp trang 22

15

T ThS. PHAN BÁ LINH Phó Trưởng Khoa Xây dựng Đảng

Với sự thông tuệ vốn có và nhãn quan chính trị nhạy bén, sắc sảo của mình, từ rất sớm, Hồ Chí

Minh đã đặc biệt coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người hiền tài, Người thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Sử dụng người hiền tài trở thành tư tưởng lớn của Người, có ý nghĩa chiến lược trong toàn bộ hệ thống tư tưởng chỉ đạo cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, Người hiên tài theo Hồ Chí Minh là “người có tài năng, có đức hạnh, giúp đỡ cho dân, cho nước”1; là “người làm những việc ích nước, lợi dân”, là người “hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất”2. Người hiền tài là lực lượng tinh túy trong nhân dân, giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, từ sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong kháng chiến kiến quốc đến tiến trình đưa đất nước Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Thứ hai,với người hiền tài, theo Hồ Chí Minh cần phải”khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng”3, có như thế thì nhân tài mới “ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”.

Khéo lựa chọn, tức là tuyển chọn đúng người, đúng việc, đặc biệt là đúng và trúng người có đủ tài, đủ đức; Khéo phân phối, tức là phải dựa vào năng lực, sở trường về bố trí công việc, giúp hiền tài phát huy được sở trường, năng lực đó và đem lại kết quả cao trong công việc. Không thể “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành

thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người, thì hai người đều thành công”4. Để dùng được người hiền tài, người lãnh đạo không những phải khéo lựa chọn, khéo phân phối mà còn phải khéo dùng. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe… Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”5.Trong quá trình điều hành công việc, người lãnh đạo phải khéo dùng hiền tài vào những công việc, những vị trí phù hợp với tài đức của họ để họ phát huy hết tài năng của mình, đóng góp nhiều nhất cho dân tộc, cho đất nước.

Thứ ba, để tuyển chọn, sử dụng được người hiền tài, theo Hồ Chí Minh cần phải kiên quyết chống bệnh hẹp hòi, chia rẽ bè phái trong Đảng và trong công tác cán bộ. Đây là những căn bệnh nguy hiểm nhất, gây lãng phí hiền tài.

Hồ Chí Minh khẳng định một trong những nguyên nhân không sử dụng được người tài là do “bệnh hẹp hòi”. Nó là một kẻ địch đáng sợ, phá hoại Đảng từ trong ra. “Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm không nổi”6. Còn bệnh kéo bè, kéo cánh cũng “rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”7…điều đó rất có hại cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Do đó, phải kiên quyết chống bệnh hẹp hòi, kéo bè,

TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỬ DỤNG NGƯỜI HIỀN TÀI - GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

16

kéo cánh trong Đảng và trong công tác cán bộ của Đảng.

Thứ tư, muốn sử dụng được hiền tài theo Hồ Chí Minh cần phải “sửa chữa cách lãnh đạo”, cụ thể:

- Trong lãnh đạo phải khắc phục tình trạng quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong các ngành hoạt động của chúng ta, nào chính trị, kinh tế, nào quân sự, văn hoá, chắc không thiếu người có năng lực, có sáng kiến…Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo”8.

- Trong lãnh đạo, người cán bộ lãnh đạo phải có cái tâm, cái tầm, cái tài trong việc dùng người. Chỉ có với cái tâm, cái tầm và cái tài người lãnh đạo mới sáng suốt hiểu đúng người, đúng việc; mới độ lượng, chí công, vô tư, không thành kiến, không thiên vị, không lệch lạc; thực sự trong sáng, tất cả vì công việc… Có như vậy mới giúp cho người hiền tài phát huy được trí tuệ, năng lực của mình phụng sự cho đất nước, phục vụ cho nhân dân. Trong dùng người, người lãnh đạo phải trách được ba cái “ham”: “Ham dùng người bà con”, “ham dùng những kẻ khéo nịnh hót”, “ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình”9. Đồng thời phải thực hiện được năm điều “phải”: “phải có độ lượng, vĩ đại”, “phải có tinh thần rộng rãi”, “phải có tính chịu khó dạy bảo” để nâng đỡ những người còn kém, giúp họ tiến bộ, “phải sáng suốt” và “phải có thái độ vui vẻ, thân mật”10. Có thế, đồng chí mình mới «vui lòng gần gũi mình», mới coi mình là đồng chí, là thầy, là bạn của họ

Việc sắp xếp bổ nhiệm, cân nhắc cán bộ theo Hồ Chí Minh dứt khoát phải vì công việc, vì tài năng của cán bộ: “Bất kỳ ai, có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu

của cách mạng là phải dùng”11. Khi bố trí, sử dụng hiền tài phải tránh sự thiên vị cá nhân, nhất là “chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình»12, phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Người cũng thường xuyên nhắc nhở những người lãnh đạo nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang đưa những người hèn kém lên, nhất định không ai phục mà còn gây nên lôi thôi trong Đảng, như thế là có tội với Đảng, với đồng bào.

Lãnh đạo được những người hiền tài là một việc khó, nhưng khó dễ là bởi tại lòng mình, lòng người lãnh đạo mà trong sáng, nhân hậu, chí công, vô tư thì đó là sức mạnh, là bí quyết để dùng người. Muốn quy tụ được nhiều hiền tài xung quanh mình, người lãnh đạo phải có tấm lòng yêu mến, tin tưởng và quý trọng hiền tài. Đồng thời phải tạo ra môi trường sinh hoạt, làm việc tốt, không phân biệt đối xử để hiền tài yên tâm công tác, phấn đấu hết tài năng của mình cho công việc. Cùng với việc tạo ra môi trường làm việc tốt, người lãnh đạo cần phải có những chính sách đãi ngộ hợp lý về vật chất và tinh thần, giúp cho người hiền tài thêm hăng hái, cống hiến nhiều hơn nữa cho cách mạng. Người lãnh đạo phải “quan tâm giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi đau ốm được chăm nom, gia đình họ khỏi khốn quẫn…”13.

- Trong “cách lãnh đạo” phải thường xuyên xem xét, đánh giá cán bộ. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc trong sử dụng cán bộ. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, viết năm 1947, Hồ Chí Minh đã nhận thấy khuyết điểm to của Đảng ta từ trước đến nay là chưa thực hành nề nếp nhận xét, đánh giá cán bộ thường xuyên. Chưa thực hiện tốt nề nếp, chế độ nhận xét cán bộ để hạn chế việc phát hiện những nhân tài mới, để bồi dưỡng phát triển và cũng không kịp thời phát hiện những kẻ hủ hoá biến chất để có biện pháp giải quyết. Trong xem xét, đánh giá cán bộ, Người nhắc nhở phải có cái nhìn biện chứng,

17

phải thấy sự vận động phát triển: “Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”14. Hồ Chí Minh kết luận: “lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hoá ra tài to, lãnh đạo không khéo, tài to cũng hoá ra tài nhỏ”15. Đây chính là quan điểm mang tính khách quan, khoa học, thể hiện một cách toàn diện, cụ thể, chân thực về cách sử dụng người hiền tài trong sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta.

- Thứ năm, muốn sử dụng người hiền tài, theo Hồ Chí Minh cần phải tin tưởng và trọng dụng hiền tài ngoài Đảng.Người cho rằng: “Phong trào giải phóng sôi nổi, nẩy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước”16. Đã sử dụng người hiền tài thì không nên phân biệt nguồn gốc, thành phần xuất thân, đảng phái mà phải hết sức tin tưởng và trọng dụng; phải thực hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, tin ở con người, tin ở nhân dân, tin ở lòng yêu nước, khả năng tiềm ẩn ở mỗi con người.

Xuất phát từ quan điểm đó, trong bối cảnh Chính phủ lâm thời gặp muôn vàn khó khăn, vận mệnh đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”, Hồ Chí Minh đã tin tưởng, đón mời, trọng dụng, trao những cương vị lãnh đạo quan trọng cho những trí thức tài đức ngoài Đảng, trong đó có người giữ chức vụ Bộ trưởng, Thứ trưởng ở tuổi đời rất trẻ…Đó là cách dùng người của Hồ Chí Minh. Cách dùng người đó vừa mang tính hiện đại, vừa mang tính nhân văn. Đó là trí tuệ, bản lĩnh của một vị lãnh tụ chiến lược, tinh thần khoan dung nhân ái của một nhà văn hoá lớn. Người đã đến với họ bằng tất cả sự chân tình, cảm thông, tin tưởng, không một chút thành kiến, tất cả đều hướng tới phục vụ lợi ích tối cao của nhân dân và dân

tộc. Người đã thực sự quan tâm và thực sự tin tưởng hiền tài không chỉ bằng lời nói, mà bằng việc làm. Qua đó, tạo niềm tin cho họ vào sự nghiệp cách mạng của đất nước cũng như tin vào sự nghiệp và tương lai của chính họ. Trong thư gửi Tổng bộ Việt Minh, Hồ Chí Minh đã viết: “Đến khi Cách mạng tháng Tám thành công, cướp được chính quyền, Việt Minh định tổ chức một Chính phủ rộng rãi, gồm tất cả các nhân tài trong nước để gánh vác việc quốc gia. Lúc đó có người nghĩ rằng các nhân sĩ có danh vọng chưa chắc vui lòng hợp tác với Việt Minh. Song vì Việt Minh đặt quyền lợi Tổ quốc và dân tộc lên trên hết, và lấy lòng chí công vô tư mà làm việc, cho nên các bậc có tài đức danh vọng đều vui lòng hợp tác trong Chính phủ”17. Hồ Chí Minh đã thể hiện một sự trân trọng, tin dùng thật sự đối với người tài đức. Người đã giao việc là giao quyền. Đã giao quyền là hoàn toàn tin tưởng.

Thực tiễn cho thấy, chính tầm tư duy chiến lược, nhạy bén, đánh giá con người chính xác, thấu tình đạt lý giữa đức và tài, cũng như cách sử dụng người hiền tài không dựa vào nguồn gốc hay thành phần xuất thân, không phân biệt đảng phái, quan điểm chính trị mà dựa vào khả năng cống hiến và lòng nhiệt tình cách mạng, lấy hiệu quả công việc, khả năng đóng góp với đất nước làm tiêu chí trọng dụng hiền tài, cùng với nghệ thuật dùng người của mình, Hồ Chí Minh đã tập hợp và trực tiếp xây dựng được đội ngũ trí thức tài đức, tâm huyết, cống hiến hết mình cho đất nước, họ trở thành những nhà khoa học đầu đàn trên mọi lĩnh vực, góp phần đào tạo nên các thế hệ trí thức đời sau cho đất nước, họ thực sự góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên không ngừng.

Với người hiền tài, Người đã quan tâm, tin tưởng, trọng dụng và đãi ngộ họ không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm hết sức cụ thể, công khai, dân chủ và thiết thực. Chính vì vậy, Người đã tạo niềm tin và khơi dậy ý thức làm chủ của họ đối với dân tộc. Với niềm tin đó, Người đã tập hợp được

18

nhiều trí thức lớn tham gia đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, từ những nhân sĩ, trí thức từng làm quan to dưới triều Bảo Đại, như các cụ Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hoè, Phan Kế Toại cũng vui lòng theo cách mạng, cụ Huỳnh Thúc Kháng, sau năm 1945 đã ở tuổi “cổ lai hy”, vẫn biết thay đổi để nhận làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến… và đến những trí thức Việt kiều ở Pháp, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống thuận lợi, cùng với Hồ Chí Minh về nước tham gia vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Tên tuổi và những cống hiến hết mình của họ đã cổ vũ cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi đến thắng lợi trọn vẹn, đó là Anh hùng Trần Đại Nghĩa, Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, Bác sĩ Tôn Thất Tùng, nhà toán học Lê Văn Thêm, giáo sư Hồ Đắc Di, bác sĩ Trần Hữu Tước, Đặng Văn Ngữ, Trần Đức Thảo…và rất nhiều nhân sĩ, trí thức khác cũng sẵn sàng từ bỏ danh lợi, cuộc sống nhung lụa để góp công sức, trí tuệ cho cách mạng, bảo vệ nền độc lập. Họ tìm thấy ở Hồ Chí Minh, ở cuộc Cách mạng vĩ đại của dân tộc những giá trị tốt đẹp và những khát vọng mà những người yêu nước, giàu tinh thần dân tộc như họ đều mong muốn. Đó là dân tộc thoát khỏi ách nô lệ lầm than, đất nước độc lập, mọi người Việt Nam đều được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Với người hiền tài, Hồ Chí Minh thật sự mạnh dạn dùng người, đúng việc, đúng lúc, lấy đại nghĩa mà thu hút hiền tài. Người trọng dụng hiền tài, trước hết bằng cách hiểu khả năng và nguyện vọng của họ. Người gợi ý cho họ tự ý thức, tự nhận thức, tự hiểu về mình, tự hiểu về khả năng và nguyện vọng thầm kín. Người có một niềm tin sâu xa, vững chắc ở khả năng của mỗi con người tự vươn lên, tự hoàn thiện nhân cách qua tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, nhào nặn mình trong trường đời đấu tranh cách mạng sôi nổi của nhân dân. Niềm tin ấy trở thành điểm cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, cải tạo và nâng con người lên

thì trước hết phải tin ở sức tự vươn lên của mỗi con người. Đây là điểm mấu chốt thành công trong cách “chiêu hiền, đãi sĩ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Với người hiền tài, Hồ Chí Minh không những thu phục họ về với cách mạng, mà Người còn biết sắp xếp cán bộ để những người hiền tài có thể cống hiến lâu dài và có hiệu quả nhất cho Tổ quốc, Người luôn trân trọng, có cách đối xử rất chân tình, thân mật với họ. Vì vậy, Người đã gây được ấn tượng đặc biệt, lòng kính yêu sâu đậm với những người cộng sự. Đổi lại, những người cộng sự gần gũi với Người dù có gặp khó khăn mấy trong công tác, cũng hết lòng cố gắng hoàn thành thật tốt nhiệm vụ được giao. Phạm Khắc Hoè, trong hồi ký: Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc đã ghi: «Tôi vô cùng tự hào đã chọn con đường Bác đã vạch ra cho toàn thể đồng bào. Tôi tự thề với mình sẽ suốt đời phấn đấu noi gương Bác, cố gắng vươn lên không ngừng hiến dâng tất cả tâm hồn và thể lực của mình cho Tổ quốc, cho dân tộc”18.

Nếu nhân cách của Hồ Chí Minh thu hút các hiền tài trí thức bấy giờ về đóng góp cho quê hương một cách tự nguyện thì cách hành xử và tri thức của Người khiến họ một dạ dốc tâm, dốc sức cho Tổ quốc. Giáo sư Hồ Đắc Di, trong hồi ký “Để tâm hồn được thanh thản”, đã tâm sự: “Nếu như có một cuộc đời mà mỗi phút giây trôi qua đều có ý nghĩa nhân lên hàng nghìn lần, mỗi chúng ta đều yêu thương đến say đắm và thèm sống đến mấy lần cuộc sống ấy vẫn chưa đủ… Phải, nếu quả có một cuộc đời như thế thì điều đó chỉ dành cho đời con cháu chúng ta mai sau, ta cũng sẵn sàng hiến dâng cả đời mình. Không riêng những người sống kiếp đoạ đầy, tủi nhục mấy thấm thía điều đó, mà tất cả những ai đã trải qua những ngày nhọc nhằn, day dứt về lương tâm dưới chế độ cũ, ắt sẽ lao theo cơn lốc của Cách mạng, một khi ánh lửa của nó đã rọi sáng tâm hồn. Đối với những người trí thức cũ, thì sự đổi đời đã bắt đầu từ sự lựa chọn nơi mà lương

19

tâm mình được yên ổn nhất. Nhìn lại chặng đường khá dài mà tôi đã trải qua, thật chưa bao giờ tôi thấy mình được sống thoải mái nhất và trọn vẹn nhất, ý nghĩa một đời người như những tháng năm đi theo cách mạng”19.

Trong suốt 85 năm qua, dưới ánh sáng tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về sử dụng người hiền tài, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng được nhiều cán bộ thực sự có đức, có tài, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Bước sang thế kỷ XXI - thế kỷ của nền văn minh trí tuệ với kinh tế tri thức và xã hội thông tin - đội ngũ trí thức đặc biệt là người hiền tài, càng được coi là vấn đề cốt yếu đối với sự phát triển. Tuy vậy, công tác đào tạo và sử dụng người có đức, có tài, đến nay, chúng ta vẫn còn không ít hạn chế, khuyết điểm, chúng ta “chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người có đức, có tài”20. Tình trạng “chảy máu chất xám”, thiếu hụt người có đức, có tài lãnh đạo, quản lý trên mọi lĩnh vực; trong công tác cán bộ “ít quan tâm chú ý sử dụng và phát huy khả năng đóng góp của người ngoài Đảng”21… Tình trạng đó trở thành thách thức làm giảm khả năng cạnh tranh và kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là tệ tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện cơ hội, luồn lách để chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp…đang làm cho xã hội bất an, tổ chức Đảng lo lắng, lòng dân không yên.

Đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức to lớn của quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế. Để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước tiến nhanh, bền vững, chúng ta cần khắc phục những hạn chế, yếu kém nói trên và khẩn trương phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao, nhất là phát triển giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng những người có đức, có tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phải “thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân… Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”22. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Học tâp và làm theo tư tưởng, tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng người hiền tài, đặc biệt chúng ta cần chú trọng hơn đến một số vẫn đề sau đây:

- Tăng cường sự quan tâm và lãnh đạo về mọi mặt của Đảng và Nhà nước về đào tạo, sử dụng, phát triển mọi nguồn tài năng của đất nước. Khuyến khích mọi người lao động sáng tạo hết mình, có chế độ sử dụng hợp lý, thật sự quý trọng hiền tài và thực hiện đúng như lời dạy của các bậc hiền nhân “hiền tài là nguyên khí quốc gia”.

- Đổi mới công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ là trí thức, là người có đức, có tài; khắc phục tình trạng hành chính hoá, thiếu công khai, minh bạch trong các khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; kiên quyết đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ; làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, loại bỏ các phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất, đặc biệt là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang bị cả xã hội lên án.

- Xây dựng và thực hiện cơ chế “phát hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài”. Xác định rõ quan điểm, mục tiêu, tiêu chuẩn, nhiệm vụ và giải pháp lớn để tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng người có đức, có tài. Phải

20

có chính sách sử dụng hợp lý để thu hút tài năng trẻ đang học tập, công tác, sinh sống cũng như ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước.

- Có chính sách đãi ngộ cân xứng với tài năng của đội ngũ trí thức, nhất là phải đảm bảo cho họ đủ sống, đủ tái sản xuất lao động bằng tiền lương của mình phù hợp điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Nhà nước cần thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt theo hướng lương phản ánh được tài năng, trình độ chuyên môn và thời gian cống hiến. Xây dựng chế độ chính sách ưu đãi những cán bộ làm công tác tham mưu ở cấp chiến lược để tạo động lực thu hút những người giỏi nhất về các cơ quan trọng yếu, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đội ngũ này yên tâm công tác, không phải lo cuộc sống thường nhật, để họ phát huy cao nhất tư duy sáng tạo. Cần tăng giá trị vật chất và tinh thần của những phần thưởng tặng những người có cống hiến đặc biệt xuất sắc, nhằm tạo cho người tài có cuộc sống khá giả và được xã hội tôn vinh...

Cùng với đó, cần tạo môi trường thuận lợi cho người có đức, có tài phát huy tính thông minh sáng tạo, hình thành tâm lý xã hội có nếp nghĩ tốt đẹp, tôn trọng trí thức, tôn trọng hiền tài. Thực hiện cơ chế cạnh tranh giữa các nhà khoa học về tiền lương, tiền thưởng, chức vụ, có cạnh tranh mới nảy sinh ra sản phẩm mới, có kết quả khoa học có giá trị, hiệu suất công tác cao.

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, khơi dậy tiềm lực của kiều bào, nhất là những người thực sự có tài đức trong đội ngũ trí thức, các nhà doanh nghiệp đóng góp nhiều hơn nữa cho quê hương đất nước. Có chính sách thông thoáng và hấp dẫn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của kiều bào, nhằm khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những người có nguyện vọng, có điều

kiện được về thăm quê hương, kinh doanh, sản xuất, nghiên cứu khoa học, tham quan, du lịch hoặc làm tất cả các công việc mà pháp luật Việt Nam cho phép, nhằm đem lại lợi ích cho Tổ quốc, cho nhân dân và cho chính bản thân những người có đóng góp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xoá bỏ những mặc cảm định kiến, vận động Việt kiều hướng về quê hương đất nước, hoan nghênh người có đức, có tài ở các nước về cống hiến cho Tổ quốc, không kể thái độ chính trị, thành phần xuất thân trước đây miễn là hiện nay họ thật lòng yêu nước mong muốn đóng góp sức người, sức của và trí tuệ cho nước nhà.

Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về sử dụng người hiền tài vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, luôn là bài học nóng bỏng trong mọi giai đoạn của cách mạng. Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tư tưởng và tấm gương của Người vẫn mãi là nền tảng vững chắc, là kim chỉ nam soi sáng cho Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người có đức, có tài./.

__________________1, 3, 5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị

quốc gia, H.2011, t.4, tr.47, 114, 43.2, 4, 6, 7, 8, 9,10, 12, 13, 14, 15, 16, 17 Hồ Chí

Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.302, 314, 278, 279, 281, 318, 319, 213, 322, 88, 320, 315-316, 504.

11, Hồ Chí Minh: Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.13, tr.275

18, 19, Trần Đương: Bác Hồ với nhân sĩ, trí thức, Nxb Thanh niên, H. 2008, tr. 58, 79.

20, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2007, tr.110.

21, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2009, tr. 211.

22, Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 219.

21

Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Để triển khai thực hiện tốt Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chi bộ đã tiến hành rà soát việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác trong 5 năm qua, đánh giá khách quan thành tích, hạn chế của tập thể và cá nhân, tìm nguyên nhân và giải pháp phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế một cách khả thi, cụ thể, thiết thực.

Chi bộ tiến hành bình bầu, xếp loại, giới thiệu các tấm gương tập thể và cá nhân tiêu biểu đề nghị cấp trên xem xét biểu dương. Việc lựa chọn biểu dương điển hình tiên tiến được thực hiện nghiêm túc, công khai, công bằng, đảm bảo các cá nhân và tập thể được chọn biểu dương thật sự là tấm gương tiêu biểu được các cá nhân và tập thể trong nhà trường ghi nhận và có sức lan tỏa.

Từ những kết quả và bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình tổ chức thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Chi bộ xác định, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần phải được tiếp tục thực hiện mạnh mẽ. Không lý thuyết chung chung, không nói suông, không hình thức. Phải gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Phòng và với mỗi cán bộ, đảng viên.

Là đơn vị tham mưu cho Ban Giám hiệu và trực tiếp triển khai thực hiện công tác

đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường, cán bộ chuyên viên của Phòng phải thường xuyên thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình một cách chuyên nghiệp. Việc không hoàn thành nhiệm vụ hoặc hoàn thành với kết quả không cao cũng được xem là chưa nghiêm túc thực hiện tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác.

Để đạt được yêu cầu đó, Chi bộ đã tổ chức họp để học tập, quán triệt nghiên cứu nghiêm túc những nội dung của Chỉ thị. Cùng với việc tổ chức học tập quán triệt, làm rõ từng nội dung, nhất là những điểm mới trong Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị để mọi cán bộ đảng viên thấm nhuần và tự giác thực hiện. Chi bộ đã đưa ra một số nội dung để đảng viên, cán bộ của Phòng thảo luận và thống nhất thực hiện như:

+ Mỗi cán bộ đảng viên phải nêu cao ý thức chấp hành nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước;

+ Thực hiện tốt nội quy quy chế của nhà trường, quy chế đào tạo của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;

+ Chấp hành nghiêm túc kỷ luật lao động, đi làm phải đúng giờ, vắng mặt phải xin phép, luôn luôn suy nghĩ để cải tiến lề lối làm việc nhằm đạt năng suất hiệu quả cao nhất;

+ Phải xây dựng kế hoạch để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được phân công theo vị trí việc làm, công việc phải sát đúng với điều kiện cụ thể của bản thân và yêu cầu nhiệm vụ được giao;

CHI BỘ PHÒNG ĐÀO TẠO TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ THỰC HIỆN CHỈ THỊ 05 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ ĐẨY MẠNH

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

T ThS. GIAO THỊ CHÂU Trưởng phòng Đào tạo

22

+ Phải thường xuyên nêu cao tinh thần tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ chính trị, trình độ chuyên môn

+ Luôn nêu cao tinh thần đoàn kết thống nhất và hợp tác trong công việc

+ Nêu cao ý thức tiết kiệm, trách nhiệm giữ gìn vệ sinh môi trường vv…

Mỗi cán bộ, đảng viên phải thể hiện việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, gương mẫu. Đó là nghĩa vụ và trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, để từng việc làm tốt, có ích trong mỗi vị trí công tác của mỗi người đều góp phần xây dựng Trường Chính trị Trần Phú ngày càng vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Từ những nội dung đã thảo luận, thống nhất và trở thành quy định, mỗi đảng viên xây dựng cho mình bản kế hoạch hành động sát với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bản kế hoạch này được Chi bộ góp ý, chỉnh sửa và xác nhận. Bản kế hoạch cá nhân được coi như bản cam kết của mỗi cán bộ đảng viên với bản thân, với chi bộ, với nhà trường, là căn cứ để Chi bộ và Phòng tiến hành rà soát thành tích, bình xét các danh hiệu thi đua hàng năm.

Trên cơ sở các nội dung Chỉ thị đã được học tập, quán triệt và kế hoạch thực hiện của mỗi cá nhân, Chi bộ đã đưa vào nội dung sinh hoạt hàng tháng việc đánh giá kết quả thực hiện, biểu dương những đồng chí thực hiện tốt, góp ý cho những đồng chí chưa thực hiện tốt.

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ chí Minh không chỉ là việc chấp hành chủ trương của cấp trên mà nó là một yêu cầu tự thân của mỗi cán bộ đảng viên và người dân để không ngừng tiến bộ. Vì vậy, toàn thể cán bộ đảng viên chuyên viên phòng Đào tạo xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, hàng ngày và mãi mãi./.

thực sự “dấn thân” để tạo ra nhà nước như họ mong muốn. Điều đó được thể hiện khá rõ trong tinh thần, ý thức, trách nhiệm của người dân tham gia bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp những nhiệm kỳ vừa qua, trong việc tham gia góp ý vào các quyết sách của nhà nước, vào việc giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.

Điều 6 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Hai hình thức thực hiện quyền lực nhà nước này của nhân dân có quan hệ mật thiết, tác động thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau. Thực tế trong thời gian qua cho thấy việc thực hiện, phát huy dân chủ trực tiếp là cực kỳ khó khăn, nếu không có cải cách mạnh mẽ trong các thể chế dân chủ đại diện, nhất là ở cấp thấp nhất, để xây dựng lòng tin của người dân đối với các cơ quan nhà nước, các đại biểu HĐND và đội ngũ cán bộ, công chức.

Là những cử tri, chúng tôi mong muốn các đại biểu dân cử nói chung, đại biểu HĐND nói riêng trong nhiệm kỳ mới này hãy thực hiện đầy đủ lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người trúng cử sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn nhớ và thực hành câu: vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng”(4) ./.

__________________(1) Luật tổ chức chính quyền địa phương số

77/2015/QH13 ngày 19/6/2015;(2) Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện

và làng, Báo Cứu quốc số ra ngày 17/10/1945; (3) Hồ Chí Minh toàn tập“Sửa đổi lối làm việc”,

Nxb CTQG, H, 1995, tr267;(4) Lời kêu gọi quốc dân đi bầu cử 5-1-1946, Hồ

Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia.

NÊU CAO TRÁCH NHIỆM... Xem tiếp trang 14

23

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đối với người Việt Nam, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn

một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, chính vì vậy, trong giáo dục đạo đức, Người rất coi trọng phương pháp “nêu gương”. Người đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương thức của người xưa: “Dĩ nhân nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” (nghĩa là trước hết phải giáo dục bằng tấm gương sống của chính mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói).

Nêu gương đạo đức thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nói phải đi đôi với làm. Trong đó chủ yếu trên ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày; đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng; đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng” (để việc công lên trên, lên trước việc tư), đã phụ trách việc gì thì phải tận tâm, tận lực làm cho kỳ được, không sợ khó khăn, gian khổ, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Người thường xuyên nhắc nhở và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính”(1). Ngược

lại, sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi đạo đức, lối sống, ý thức kỷ luật, pháp luật của quần chúng. Người chỉ rõ, người Việt Nam cũng như các dân tộc phương Đông khác vốn rất “giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(2).

Để phát huy sự nêu gương trong giáo dục đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào thi đua sôi nổi, sâu rộng trong toàn xã hội - phong trào “Người tốt, việc tốt”. Việc nêu gương “Người tốt, việc tốt” đã có tác dụng rất lớn trong giáo dục đạo đức. Qua đó, mỗi người đều tự nhận thấy mình có thể noi theo gương tốt và làm việc tốt để trở thành người có ích cho xã hội. Ai cũng có thể nêu gương về đạo đức cho người khác học tập, ai cũng cần học tập những gương “Người tốt, việc tốt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(3)

Thực hiện Chỉ thị số 03 - CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; các văn bản hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh và của Đảng ủy khối, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ “PHƯƠNG PHÁP NÊU GƯƠNG” Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

TRẦN PHÚ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

T ThS. NGUYỄN THẮNG MỸ Trưởng Phòng TC-HC-QT

24

Chính trị Trần Phú đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch nhằm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục việc học tập và làm theo Bác về “Nêu gương” để mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự là những tấm gương về đạo đức và có “hiệu ứng lan tỏa, lôi kéo quần chúng noi theo “đảng viên đi trước, làng nước đi sau”.

Để tổ chức thực hiện chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27/12/2012, Hiệu trưởng Trường Chính trị Trần Phú đã ban hành quyết định số 242/QĐ-TCTTP về việc ban hành tiêu chuẩn đạo đức cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và một trong những tiêu chuẩn là: “không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống; nêu tấm gương sáng cho mọi người noi theo” nhằm không ngừng nâng cao nhận thức và “làm theo” phương pháp “nêu gương” về đạo đức, lối sống mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường sử dụng, là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của công tác giáo dục, rèn luyện về đạo đức cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động ở Trường Chính trị Trần Phú trong giai đoạn hiện nay.

Vận dụng tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về phương pháp nêu gương vào quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu Đảng ủy, cơ quan đã nêu cao ý thức gương mẫu trước cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chấp hành nghiêm và sử dụng có hiệu quả thời gian làm việc theo quy định; sử dụng tài sản công đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích; nghiêm túc tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; nêu cao

ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nội bộ, trách nhiệm với công việc được giao; lối sống trong sáng, lành mạnh, giản dị; khiêm tốn, gần gũi, chan hoà với quần chúng nhân dân. Qua đó, đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong việc làm theo Bác.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên, quần chúng chưa thực hành tốt phương pháp “Nêu gương”, ý thức phấn đấu chưa cao; việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình kết hợp với kiểm điểm việc phấn đấu rèn luyện làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của mỗi cá nhân còn chung chung, chưa chỉ ra nội dung mục đích cụ thể về việc rèn luyện của mỗi cá nhân.

Trong giai đoạn hiện nay, để nâng cao chất lượng, hiệu quả “làm theo” phương pháp nêu gương về đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, mỗi cán bộ, đảng viên cần:

Thứ nhất, thực hiện tốt “nói đi đôi với làm”.

“Nói đi đôi với làm” là một phương châm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động, được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là một trong những tiêu chí quan trọng khi thực hành phương pháp “nêu gương” giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn đứng vững và vượt qua trước mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần học tập và “làm theo” Chủ tịch Hồ Chí Minh ở phong cách làm việc thận trọng, tỉ mỉ, giờ nào việc ấy, tinh thần trách nhiệm cao, biết lắng nghe góp ý của đồng chí, đồng nghiệp. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện bình quân chủ nghĩa, thiếu thực tế, không chịu khó vươn lên trong công việc; kiên quyết phê phán những cán bộ, đảng viên không dám nói, không dám hành động, hoặc “nói nhiều làm ít”, “nói mà không

25

làm”, “nói một đường làm một nẻo”, thậm chí chỉ thụ động, ngồi chờ, ỷ lại, sợ trách nhiệm. Những biểu hiện đó hoàn toàn trái với tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho phương pháp “nêu gương” mất ý nghĩa, tác dụng trong giáo dục đạo đức, lối sống.

Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện tự phê bình và phê bình.

Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là động lực bên trong giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, không ngừng vươn lên hoàn thiện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Thực tế hiện nay, khi lợi ích cá nhân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm, thì công tác tự phê bình và phê bình càng phải được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Bởi vì, do lợi ích và uy tín cá nhân mà không ít cán bộ, đảng viên rất có thể dấu giếm khuyết điểm của mình. Đồng thời, khi phê bình, góp ý về những khuyết điểm của đồng chí, đồng nghiệp mình thì lại có thể xuề xòa, “hòa cả làng”, vì sợ họ cũng sẽ động chạm đến lợi ích và uy tín chính trị của mình. Điều đó dẫn đến nguy cơ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa “bè phái” trong cơ quan, đơn vị và do vậy, làm giảm sút sức chiến đấu của Đảng.

Việc “làm theo” tư tưởng và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phương pháp “nêu gương” đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê bình. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải giữ đúng thái độ trung thực, mực thước, luôn đặt lợi ích của cơ quan, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Muốn làm cho người ta bắt chước thì tự mình phải “chính” trước đã; phải khắc phục triệt để các căn bệnh hình thức, thành tích….Phải hết sức tránh khi tiến hành tự phê bình và phê bình thì “không nói trước mặt”, nhanh chóng “nhất trí theo chủ tọa”, nhưng lại luôn “hục hặc sau lưng”, dẫn đến

nội bộ xảy ra tình trạng “bằng mặt không bằng lòng”, hiềm khích, nghi kỵ nhau, ngày càng trở nên mất đoàn kết. Do đó, việc Tự phê bình và phê bình phải từ trên xuống; Đảng ủy, Ban Giám hiệu phải thường xuyên nêu gương tự phê bình và phê bình cho cấp dưới và quần chúng noi theo; phải trân trọng lắng nghe và tiếp thu những ý kiến đóng góp của cấp dưới, kể cả những ý kiến trái ngược nhau.

Thứ ba, nâng cao ý thức tự giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Đạo đức cách mạng không phải ở trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng nh ư “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Như vậy, việc nêu gương tự giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên thực chất là một quá trình tự luyện vàng, để không ngừng hoàn thiện nhân cách, nâng cao ý thức và phẩm chất cách mạng.

Quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phải luôn gắn với việc tự sửa chữa khuyết điểm của mình, giống như thói quen “rửa mặt hằng ngày”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng cho mình kế hoạch phấn đấu cụ thể, tỉ mỉ, thiết thực; phương pháp thực hiện tự giáo dục, rèn luyện cũng phải linh hoạt, năng động, tránh bệnh hình thức, phô trư ơng, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả việc “làm theo” tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn đơn vị./.

__________________(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2002, t 5, tr 644(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t1, tr 263(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t12, tr 558

26

Kết cấu hạ tầng là một bộ phận đặc thù của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân

có chức năng, nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo những điều kiện chung cần thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng được diễn ra bình thường, liên tục. Kết cấu hạ tầng cũng được định nghĩa là tổng thể các cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động kinh tế - xã hội được diễn ra một cách bình thường.

Kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau. Cụ thể như:

Nếu căn cứ theo lĩnh vực kinh tế- xã hội, thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế, kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động xã hội, và kết cấu hạ tầng phục vụ an ninh - quốc phòng. Tuy nhiên, trên thực tế, ít có loại kết cấu hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và ngược lại.

Nếu căn cứ theo sự phân ngành của nền kinh tế quốc dân, thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng trong công nghiệp, trong nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính- viễn thông, xây dựng, hoạt động tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, văn hoá- xã hội…

Nếu căn cứ theo khu vực dân cư, vùng lãnh thổ, thì kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng đô thị, kết cấu hạ tầng nông thôn; Kết cấu hạ tầng kinh tế biển

(ở những nước có kinh tế biển), kết cấu hạ tầng đồng bằng, trung du, miền núi, vùng trọng điểm phát triển, các thành phố lớn…

Kết cấu hạ tầng trong mỗi lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi khu vực bao gồm những công trình đặc trưng cho hoạt động của lĩnh vực, ngành, khu vực và những công trình liên ngành cảm bảo cho hoạt động đồng bộ của toàn hệ thống. Thông thường kết cấu hạ tầng được phân chia thành hai loại cơ bản: kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội.

Kết cấu hạ tầng kinh tế bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật như: năng lượng (điện, than, dầu khí) phục vụ sản xuất và đời sống, các công trình giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường ống), bưu chính - viễn thông, các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp… Kết cấu hạ tầng kinh tế là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định, bền vững là động lực thúc đẩy phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện cải thiện cuộc sống dân cư.

Kết cấu hạ tầng xã hội: gồm nhà ở, các cơ sở khoa học, trường học, bệnh viện, các công trình văn hoá, thể thao… và các trang, thiết bị đồng bộ với chúng.

Đây là điều kiện thiết yếu để phục vụ, nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy, kết cấu hạ tầng xã hội là tập hợp một số ngành có tính chất dịch

ĐA DẠNG HÓA HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG - NỘI DUNG QUAN

TRỌNG TRONG NHỆM VỤ ĐỘT PHÁ THỨ NHẤT CỦA ĐẢNG BỘ HÀ TĨNH NHIỆM KỲ 2015 - 2020

T ThS. TRẦN THỊ QUỲNH NGA P.Trưởng Khoa lý luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh

27

vụ xã hội; sản phẩm do chúng tạo ra thể hiện dưới hình thức dịch vụ và thường mang tính chất công cộng, liên hệ với sự phát triển con người cả về thể chất và tinh thần.

Kết cấu hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển, với tính chất đa dạng và thiết thực; là nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng như mỗi địa phương. Có kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững. Phát triển kết cấu hạ tầng có tác động tích cực đến phát triển kinh tế- xã hội. Trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến trình độ phát triển của đất nước, địa phương, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

Vai trò quan trọng của kết cấu hạ tầng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội bởi các lý do cơ bản:

(1) Kết cấu hạ tầng phát triển mở ra khả năng thu hút các luồng vốn đầu tư đa dạng cho phát triển kinh tế- xã hội;

(2) Kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại là điều kiện để phát triển các vùng kinh tế động lực, các vùng trọng điểm và từ đó tạo ra các tác động lan toả lôi kéo các vùng liền kề phát triển;

(3) Kết cấu hạ tầng phát triển sẽ góp phần nâng cao điều kiện sống cho dân cư, góp phần giảm nghèo bền vững.

(4) Phát triển kết cấu hạ góp phần giữ gìn môi trường;

(5) Phát triển kết cấu hạ tầng tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và cải thiện tình trạng sức khoẻ cho người dân, góp phần giảm thiểu bất bình đẳng về mặt xã hội cho người nghèo.

Nhận thức tầm quan trọng của kết cấu hạ tầng, trong những năm qua, Hà Tĩnh xác định phát triển kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước:

Trước hết, đã tập trung phát triển kết cấu

hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế, đặc biệt là tạo lập hệ thống hạ tầng cho khu kinh tế Vũng Áng, khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo và nhiều cụm công nghiệp thuộc các huyện, thị, thành phố.

Thứ hai, phát triển hệ thống giao thông đường bộ theo hướng hiện đại và phủ kín các khu vực, vùng miền. Từ năm 2011-2015, Hà Tĩnh đã phối hợp với Bộ Giao thông vận tải triển khai nhiều công trình giao thông đường bộ quốc gia đi qua Hà Tĩnh như: nâng cấp 110,27 km quốc lộ 1A, 37 Km quốc lộ 8A, Làm mới 32,8 km 15A, đường quốc lộ ven biển chạy dọc từ Nghi Xuân - Mỏ sắt Thạch Khê - Vũng Áng và hàng chục km tỉnh lộ. Với cơ chế hỗ trợ xi măng, “trong 5 năm đã xây dựng được trên 8.000 km đường bê tông và đường nhựa, kiên cố hóa gần 1.000 km kênh mương nội đồng, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”1. Đến thời điểm này, những yếu tố kết cấu hạ tậng cơ bản, kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp đã được hình thành khá đồng bộ. Trong đó, đáng chú ý là đã tạo được mạng lưới giao thông, điện, viễn thông khép kín trên địa bàn tỉnh tạo điều kiện để khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương, mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư.

Là một tỉnh đông dân cư, có nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào nông nghiệp, trong nhiệm kỳ qua, Hà Tĩnh đã tập trung phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, một trong những nhiệm vụ quan trọng được triển khai là phát triển hệ thống thủy lợi đảm bảo chủ động trong việc tưới tiêu và ứng phó với biến đổi khí hậu. Hàng trăm km đê sông, đê biển, hàng chục hồ chứa nước với tổng trữ lượng hàng triệu m3 nước, hàng trăm km kênh mương đã được xây dựng.

Với quan điểm phát triển kinh tế gắn liền với văn hóa xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, trong những năm qua đã huy động hàng ngàn tỷ đồng “cải tạo nâng cấp và làm mới 330 trường học theo

28

hướng hiện đại, hàng chục bệnh viện và 91 trạm y tế xã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cấp, xây mới hàng chục nhà văn hóa cấp huyện, 101 nhà văn hóa xã, 968 nhà văn hóa thôn, 880 khu thể thao thôn”2. Tập trung tôn tạo bảo tồn và phát huy giá trị hàng trăm di tích văn hóa đặc biệt là những di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt., di tích quốc gia và cấp tỉnh.. Những tiến bộ về đầu tư kết cấu hạ tầng trên lĩnh vực xã hội đã góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.

Những nỗ lực của tỉnh Hà Tĩnh trong việc đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ ngày càng hiện đại đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế xã hội của địa phương, tạo tiền đề để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Từ những kết quả đạt được và những bài học kinh nghiệm đã được đúc kết, để “đưa Hà Tĩnh phát triển nhanh hơn, bền vững hơn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, trong thời gian tới Đại Hội đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã xác định một trong các nội dung nhiệm vụ đột phá đầu tiên đó là: “đa dạng hóa huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng”. Để triển khai nhiệm vụ đột phá này cần phải tập trung thực hiện các nội dung sau:

1. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi người về vai trò quan trọng của việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng để phát huy sức mạnh toàn dân, của các thành phần kinh tế vào việc đầu tư xây dựng và bảo quản sử dụng hệ thống kết cấu hạ tầng . Đó là yếu tố quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất nhằm đảm bảo mục tiêu định hướng xã hội, năng suất lao động, đảm bảo thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Hà Tĩnh.

2. Tranh thủ tối đa mọi nguồn lực như: vốn ODA, ngân sách trung ương, hỗ trợ của các cấp, sự đóng góp của xã hội; chủ động đẩy

mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực nhất là trong một số lĩnh vực như điện, cấp nước, nhà ở, tăng cường thu hút các dự án đầu tư theo hình thức BOT, BT, PPP... để đầu tư xây dựng hoàn thiện đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, tuyến giao thông ven biển, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, làng nghề, xây dựng các đô thị phát triển theo hướng văn minh, hiện đại gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển nhanh các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp và công nghiệp hỗ trợ.

3. Nâng cao hiệu quả quản lý, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng lãng phí, thực hiện nghiêm túc quy định của nhà nước trong lĩnh vực quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tránh giàn trải, phô trương, hình thức gây thất thoát tài sản và làm gia tăng nợ công. Đặc biệt phải quản lý sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm tạo ra cú hích nhằm thu hút các nguồn lực khác đầu tư phát triển sản xuất đảm bảo an sinh xã hội.

Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, thúc đẩy hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại với phương châm xây dựng kết cấu hạ tầng đi trước một bước, là bài học thành công của tỉnh Hà Tĩnh trong các nhiệm kỳ qua và là nhiệm vụ đột phá, là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế và mỗi người dân Hà Tĩnh trong giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo./.

________________1. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ Hà Tĩnh

lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015- 2020, trang 2 Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện Chương

trình MTQG xây dựng nông thôn mới, Phong trào thi đua “Toàn tinh chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2011-2015, nhiệm vụ giải pháp giai đoạn 2016-2020

29

T ThS. NGUYỄN TRỌNG VINH Phó Trưởng Khoa Nhà nước & Pháp luật

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Đối với cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý,

cán bộ là “người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân”. Theo đó, đạo đức lớn nhất của người cán bộ cách mạng là hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Cho nên mọi biểu hiện xa dân, gây phiền hà khó dễ cho nhân dân là sự vi phạm nghiêm trọng đạo đức của người cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ, đảng viên nói chung và các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong mọi công tác của Đảng, của Chính phủ, Đoàn thể, phong cách làm việc tốt nhất là phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Theo Bác một số cán bộ lãnh đạo, quản lý do không biết gom góp ý kiến của quần chúng, kinh nghiệm của quần chúng, hoặc vì bảo vệ lợi ích của bản thân cho nên ý kiến của họ trở thành mệnh lệnh cứng nhắc, thiếu tính thuyết phục không hợp với thực tế. Vì vậy, đòi hỏi cấp ủy Đảng, chính quyền phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức; cần phải tích cực “sửa đổi lối làm việc” cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đặc biệt đối là đối với cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng để cho người cán bộ lãnh đạo quản lý biết cách “Từ trong quần chúng ra, trở lại với quần chúng” biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.

Xã hội càng phát triển, trình độ dân trí càng cao vai trò của người cán bộ lãnh đạo quản lý càng được coi trọng thì việc xây dựng hình ảnh đẹp của người cán bộ lãnh đạo quản lý trong lòng quần chúng cần phải được chú ý hơn bao giờ hết. Người cán bộ lãnh đạo có thể được xem là linh hồn, là người nhạc trưởng người có trách nhiệm chỉ đạo dẫn dắt hấp dẫn mọi người tin theo mình truyền cảm hứng cho quần chúng, thực sự thông cảm và sẵn sàng chia sẻ với quần chúng nhân dân, muốn vậy người lãnh đạo phải biết đặt vị trí của mính vào quần chúng, phải thực sự gần gũi và thấu hiểu quần chúng nhân dân.

Là người đã từng nắm các cương vị cao nhất trong Đảng, Nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh không bao giờ xa dân, Người có phong cách sống và làm việc sâu sát với thực tiễn, gần gũi với nhân dân, thấu hiểu và chia sẻ mọi niềm vui và nỗi vất vả của người dân. Với quần chúng, Hồ Chí Minh vừa là người đồng hành vừa là người dẫn dắt, người hoạch định được tầm nhìn và quan trọng là truyền được cảm hứng về tầm nhìn, về phong cách cho quần chúng nhân dân vì vậy nhân dân tin và yêu Người hơn tất thảy. Trong sự nghiệp của mình Hồ Chí Minh dành nhiều công sức giáo dục cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý phong cách làm việc đi sâu, đi sát quần chúng, mong muốn họ trở thành những người lãnh đạo,

NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ HIỆN NAY VỚI VIỆC HỌC TẬP PHONG CÁCH LÀM VIỆC QUẦN CHÚNG

CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHI MINH

30

quản lý thành công do được dân tin, dân yêu, dân phục, dân theo, dân ủng hộ và khi không còn quản lý nữa dân vẫn một mực kính thờ.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý không được quan liêu, hách dịch, coi thường quần chúng nhân dân. Họ phải biết đời sống thực, khả năng thực của nhân dân ra sao? Cần biết được tâm tư, băn khoăn, thắc mắc của quần chúng, để cùng họ kịp thời tháo gỡ, nói cách khác cán bộ lãnh đạo quản lý phải đồng điệu cùng với đời sống, tâm tư tình cảm của nhân dân, biết đau trước nỗi đau và sự thống khổ của nhân dân, luôn dằn vặt, trăn trở trước đời sống cơ cực bần hàn của nhân dân. Theo Người đó là phong cách làm việc không bó mình trong văn phòng, bàn giấy; không tự cho mình có địa vị cao hơn, không tự cho mình được hưởng những đặc quyền và đặc lợi so với quần chúng nhân dân. Người cán bộ lãnh đạo phải là người biết “hy sinh trước, hưởng thụ sau”, “phải chấp nhận hy sinh nhiều hưởng thụ ít” luôn tự đặt mình vào điều kiện hoàn cảnh của quần chúng, thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, hoà mình vào cuộc sống của quần chúng, nắm bắt được nguyện vọng, ý chí của quần chúng để dẫn dắt họ, giúp họ thực hiện khát vọng ý chí của mình vì khát vọng của quần chúng là niềm tin đồi với Đảng với chính quyền.

Dân có tin vào Đảng hay không, có tin vào chính quyền hay không có phát huy được sức mạnh của dân hay không phụ thuộc rất nhiều vào phong cách làm việc và năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ Chí Minh từng răn dạy người cán bộ lãnh đạo quản lý nếu xa dân thì hậu quả sẽ khôn lường. Đó là chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước

rất đúng nhưng khi tổ chức thực hiện sai vì không áp dụng đúng với thực tiễn đa dạng, phong phú, ít nhiều mắc bệnh giáo điều hoặc rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, không đến được với người dân, không làm cho dân tin, dân hiểu, dân theo, gây bức xúc làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Mặt khác, bệnh xa dân còn gây nguy hại ở việc không thấy được vai trò, sứ mệnh, sức mạnh quần chúng đối với lịch sử, không phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, làm nguy hại thêm tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin giữa quần chúng nhân dân với Đảng, nhà nước và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Xa dân, lối làm việc quan liêu, bệnh tham quyền lực... trở thành mắt xích yếu nhất để kẻ thù lợi dụng lôi kéo, mua chuộc làm cán bộ, đảng viên sa ngã, làm suy yếu chính quyền. Xa rời quần chúng, anh em người cán bộ lãnh đạo, quản lý sẽ giống như cá bị tách ra khỏi nước, tự tách mình ra khỏi môi trường sống, môi trường giáo dục sớm muộn sẽ mất hết sức hấp dẫn khả năng tập hợp, năng lực truyền cảm hứng và kết cục là mất hết khả năng và sức sống.

Để hạn chế tiến tới đẩy lùi căn bệnh xa dân trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý thiết nghĩ chúng ta cần có nhiều giải pháp mạnh và đồng bộ cùng với sự vào cuộc kịp thời của cả hệ thống chính trị, những giải pháp căn cơ và quan trọng nhất là phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có phong cách làm việc quần chúng muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo phải luôn là Dân và phải thực sự là Dân, gần dân, hiểu dân, dám hy sinh lợi ích bản

Xem tiếp trang 52

31

THỰC HIỆN TỐT QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ LÀ ĐỘNG LỰC THỰC HIỆN THẮNG LỢI MỤC TIÊU KINH TẾ XÃ

HỘI MÀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TĨNH LẦN THỨ XVIII ĐÃ ĐỀ RA

T ThS. NGUYỄN MỸ HẠNH Phó Trưởng khoa Dân Vận

Dân chủ là khái niệm ra đời cùng với nhà nước, phản ánh khát vọng, nhu cầu khách quan của

nhân dân trong xã hội có giai cấp. Từ thời Hi Lạp cổ đại, những nhà tư tưởng lớn về dân chủ cho rằng dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, với 2 thành tố là nhân dân và quyền lực công cộng(demo - kratia). Sau này, các nhà chính trị học đã diễn đạt: Dân chủ là nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem dân chủ là một thiết chế chính trị, là phương thức tồn tại của nhân dân và là sản phẩm của tiến bộ xã hội. Dân chủ có vai trò rất to lớn, vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã hội, là mục tiêu phấn đấu không ngừng của cách mạng nước ta.

Quán triệt tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng phát huy dân chủ trong mọi tổ chức, hoạt động; đặc biệt là quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật; nhiều chủ trương, quy định về thực hiện dân chủ đã được ban hành, được thể hiện sinh

động trên các lĩnh vực, trong các hoạt động của đời sống xã hội. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định những vấn đề về bản chất, phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu, nguyên tắc, những nội dung, biện pháp, cơ chế, quy chế cụ thể để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Với việc đưa quyền làm chủ của nhân dân vào mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta không những chỉ rõ bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ, mà còn khẳng định tầm quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt ra yêu cầu phải phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo động lực thúc đẩy tiến trình phát triển của cả nước nói chung, từng địa phương nói riêng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Trung ương và yêu cầu thực tiễn, trong quá trình xây dựng tỉnh Hà Tĩnh, BCH Đảng bộ, HĐND, UBND đã hết sức coi trọng phát huy, thực hành dân chủ cơ sở. Nhiều văn bản nhằm phát huy quyền làm chủ của người dân tại Hà Tĩnh đã được ban hành như Chỉ thị số 45-CT/TU ngày 18/12/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ

32

thị số 16/CT-UBND của UBND tỉnh ngày 17/7/2015 chỉ đạo quán triệt, triển khai Nghị định số 04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đối với sự nghiệp công lập. Gần đây nhất, Ban chấp hành Đảng bộ khóa XVIII đã đưa vào chương trình công tác toàn khóa việc xây dựng đề án và ban hành nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.

Với sự lãnh đạo chỉ đạo đó,việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội nói chung và thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới nói riêng tại Hà Tĩnh được tổ chức thành các phong trào nhân dân rộng rãi. Đảng bộ Hà Tĩnh đã phát huy tối đa nội lực, thành công trong quá trình vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đặt ra, đưa nhân dân trở thành chủ thể tự giác tham gia vào các hoạt động của tỉnh; động viên được lực lượng nhân dân tại tất cả các địa phương hăng hái tham gia công cuộc CNH - HĐH quê hương với những kết quả quan trọng: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 2011 -2015 trên 18%, riêng 2015 gần 26%; GRDP bình quân đầu người đạt trên 44 triệu đồng. Quy hoạch các ngành, lĩnh vực địa phương và quy hoạch sản phẩm hàng hóa chủ lực cơ bản được xây dựng, quản lý và triển khai có hiệu quả. Huy động đa dạng các nguồn lực ưu tiên cho đầu tư phát triển (2011 - 2015 đạt 287 000 tỷ, trong đó vốn tư nhân và gia đình 14,39%, nước ngoài 71,51%). Kết cấu hạ tầng được đầu tư nâng cấp, trong 5 năm đã xây dựng được trên 8000 km đường bê tông và đường nhựa, kiên cố hóa gần 1000 kênh mương nội đồng, đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Một số hàng hóa chủ lực có bước phát triển đột phá theo hướng hiện đại, xây dựng, phát triển trên 8000 mô hình sản xuất, kinh doanh; có 2 khu kinh tế, 19 khu, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,

thu hút 426 dự án trong, ngoài nước, tổng số vốn trên 40 000 tỷ đồng và 20 tỷ USD….( 1)

Có được những thành tựu trên là do “sự đoàn kết, thống nhất trong đảng bộ và đồng thuận trong nhân dân, tạo quyết tâm và động lực trong toàn xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư”(2); do “ mở rộng dân chủ, tạo điều kiện thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong nhân dân…tất cả vì cuộc sống nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân, tạo phong trào thi đua rộng khắp trên địa bàn tỉnh”(3).

Giai đoạn 2016 - 2020, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đặt mục tiêu: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 22% /năm; đến 2020 GRDP 120 triệu/người; bình quân GDP 80 triệu/người; thu ngân sách địa bàn đạt 46.000 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD; trên 50% số xã, 3 - 4 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Môi trường cơ bản được bảo vệ; 100% xã phường, thị trấn ổn định chính trị.

Để đạt các mục tiêu đã đặt ra cần một hệ thống các nhóm giải pháp, trong đó các giải pháp liên quan đến phát huy nội lực, phát huy yếu tố con người hết sức quan trọng. Để phát huy nhân tố con người, ngoài các động lực vật chất, động lực tinh thầncó một vị trí không thể thay thế. Chính vì vậy, Đại hội Đảng bộ tỉnh chủ trương “tiếp tục nâng cao chất lượng công tác dân vận của hệ thống chính trị, tập hợp động viên, tổ chức cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ…Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi nguồn lực thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đề ra… Không ngừng củng cố khối Đại đoàn kết toàn dân và mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với Nhân dân”.

Đồng thời, phải “thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân… tạo điều

33

kiện để Nhân dân tham gia giám sát việc xây dựng và thực hiện các chủ trương chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Phát huy dân chủ ở đi đôi với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ nghiêm kỷ luật kỉ cương… Tăng cường vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, thực sự là cơ quan quyền lực của dân, do dân, vì dân”…(4).

Các giải pháp để thực hiện mục tiêu mà đại hội Đảng bộ Hà Tĩnh khóa XVIII đưa ra cho thấy, Đảng bộ Hà Tĩnh đã coi thực hành dân chủ là chìa khóa của sự phát triển, là cách thức huy động và phát huy tối đa quyền hạn, lực lượng của Nhân dân. Nghị quyết đã chỉ ra phương hướng, giải pháp để phát huy sức mạnh toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên, thực hành dân chủ đòi hỏi phải được thực hiện qua những hoạt động cụ thể, thông qua thực tiễn. Để đưa nghị quyết vào cuộc sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của người dân, thiết nghĩ, hệ thống chính trị phải làm tốt các hoạt động cụ thể sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh việc lãnh đạo thực hiện Pháp lệnh 34/2007/ PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho Nhân dân về những việc dân được biết, được bàn, được quyết định, được tham gia. Các cấp chính quyền phải có kế hoạch công khai minh bạch các thông tin trong quản lý kinh tế -xã hội theo quy định của pháp luật cho người dân để “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Hệ thống chính trị cần đặt ra nhiệm vụ định kỳ (6 tháng, 1 năm) để tiến hành điều tra và phân tích tình hình Nhân dân. Phải thường xuyên nắm chắc tình hình Nhân dân, kịp thời có chủ trương giải quyết thoả đáng những yêu cầu, nguyện vọng, quyền lợi Nhân dân đặt ra, từ đó có biện pháp tuyên truyền, giáo dục và phát huy vai trò làm chủ của Nhân

dân. Chú trọng lãnh đạo xây dựng các chủ trương, chính sách sát đúng, hợp lòng dân, được Nhân dân đồng tình và ủng hộ. Bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh thực tế, động viên và tổ chức toàn dân thưc hiện. Trong lúc thực hiện phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thực hiện xong phải tiến hành kiểm tra lại công việc rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.

Cần duy trì, thực hiện tốt việc tiếp dân, tăng cường đối thoại với nhân dân và giải quyết kịp thời các đơn thư, khiếu nại, tố cáo, những ý kiến, kiến nghị, thắc mắc của Nhân dân. Hàng tháng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp phải trực tiếp tiếp dân và chỉ đạo giải quyết các kiến nghị, khiếu nại của công dân.

Để Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, bộ máy nhà nước phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân và ý thức trách nhiệm trước dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Thực hiện đẩy mạnh cải cách hành chính, quan tâm chỉ đạo và cải tiến quan hệ công tác, lề lối làm việc, hạn chế các hiện tượng gây phiền hà, sách nhiễu Nhân dân; chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của bộ máy chính quyền các cấp. Tiếp tục rà soát, xóa bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho Nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khi giao dịch với chính quyền và các cơ quan nhà nước. Mọi cán bộ, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác dân vận theo chức trách của mình; khắc phục tệ hách dịch, mệnh lệnh, cửa quyền. Chính quyền còn phải phối hợp và tạo điều kiện để phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đại diện cho quyền làm chủ của người dân.

Xem tiếp trang 36

34

Du lịch nông nghiệp là một hình thức du lịch nhằm giới thiệu, quảng bá, kinh doanh, xuất

khẩu các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, đồng thời nhằm tìm hiểu nét đẹp trong lao động sản xuất, đời sống sinh hoạt, văn hóa của người dân vùng nông thôn, tạo nên mối quan hệ giao hòa giữa con người với thiên nhiên, văn hóa và giữa các vùng đô thị và nông thôn...là điều kiện mở ra những cơ hội giao lưu, nhằm tạo thêm thu nhập cho nông dân tại các vùng nông thôn. Trên thế giới, du lịch nông nghiệp (agritourism) được hình thành và phát triển ở nhiều nước từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước và đem lại thành công tại nhiều quốc gia.

Ở Việt Nam, mặc dù du lịch nông nghiệp, nông thôn đang là ngành mới, nhưng có lợi thế lớn về tiềm năng để phát triển do nước ta hiện là một nước nông nghiệp, với khoảng hơn 70% dân cư đang sinh sống ở nông thôn. Nông thôn chúng ta đa dạng về điều kiện sinh thái, sinh học. Phong cảnh thiên nhiên đẹp, địa hình đa dạng gồm núi đồi, sông suối, biển đảo, đồng bằng bát ngát, phì nhiêu... hệ động, thực vật phong phú; vùng nông thôn với những làng quê cổ kính, những nét văn hóa truyền thống đặc sắc, có lịch sử hình thành lâu đời, nơi lưu giữ nhiều truyền thống văn hóa tập tục của người xưa; nội dung sản phẩm của ngành nông nghiệp rất phong phú, đa dạng. Con người vùng nông thôn với những tích cách hồn hậu, mến khách… đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành du lịch nông nghiệp.

Xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống hiện nay, khi những nhu cầu về vật chất cơ bản được áp ứng, con người thường quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần, nhu cầu đi du lịch, tìm hiểu đời sống văn hóa, khám phá, hiểu biết về tri thức mới ngày một tăng lên. Một trong những nhu cầu đó là hướng tới một cuộc sống hài hòa, gần gũi, hòa nhập với thiên nhiên, thân thiện với môi trường. Du lịch nông nghiệp, nông thôn với những tiềm năng lợi thế của nó, cơ bản đáp ứng được các tiêu chí này.

Trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, các nước đều chú trọng đến phát triển ngành nông nghiệp và vùng nông thôn để điều chỉnh, cân bằng, giảm thiểu khoảng cách về giàu nghèo, thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Mọi hoạt động phát triển sản xuất, kinh doanh quảng bá, giới thiệu và dịch vụ nông nghiệp đều được sự hỗ trợ tích cực từ chính phủ về chính sách vĩ mô và vi mô.

Nội dung của sản phẩm du lịch nông nghiệp rất phong phú, làm cơ sở để phát triển ra các sản phẩm khác như du lịch ẩm thực đồng quê, du lịch nâng cao sức khỏe, du lịch văn hóa, du lịch về nguồn cội, truyền thống lịch sử, du lịch trải nghiệm... Nói cách khác, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của các địa phương đã được các cộng đồng dân cư nông nghiệp của các làng quê sản sinh theo dòng lịch sử - chính là nguồn tài nguyên vô tận để tạo ra các sản phẩm du lịch rất hấp dẫn cho du khách nếu biết tổ chức và khai thác.

PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP HÀ TĨNH

T ThS. LÊ ĐÌNH HÙNG Phó Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu

35

Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Bắc trung bộ, một vùng quê giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Trong đó, nông nghiệp, nông thôn phát triển khá toàn diện; tái cơ cấu ngành nông nghiệp và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả nổi bật.

Sau 5 năm xây dựng nông thôn mới, đến nay toàn tỉnh đã có 52 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Về khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu, đến nay đã có hơn 1000 thôn triển khai xây dựng, trong đó có 486 thôn cơ bản đã đạt tiêu chuẩn khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu. Trong đó, nổi lên các khu dân cư mẫu điển hình, như: Thôn Nam Trà (xã Hương Trà), Thôn Châu Trinh (xã Tùng Ảnh), Thôn Tân An (Xã Cẩm Bình), Thôn 7 (xã Xuân Phổ), Thôn Hương Mỹ ( xã Xuân Mỹ), Thôn Mỹ Lộc (xã Xuân Viên), Thôn Yên Mỹ (xã Cẩm Yên), Thôn Tân Văn (xã Thạch văn)…. đã đón hàng trăm lượt khách đến tham quan. Cùng với quá trình xây dựng nông thôn mới, đã thực sự tạo ra diện mạo mới cho nhiều miền quê. Từ đây đã bắt đầu xuất hiện những vùng quê làng quê trù phú, an lành, nơi đáng sống, mở ra triển vọng mới về phát triển du lịch nông nghiệp ở Hà Tĩnh.

Trong thời gian qua, một số địa phương, đơn vị đã đi đầu trong phong trào, điển hình như Nghi Xuân với mô hình “Du lịch trải nghiệm làng xã nông thôn mới”. Ở đây, du khách được trực tiếp tham gia vào những công việc rất giản dị như lội ruộng, nơm cá, trồng rau, chẻ nan, đan cót, dùng cối chày giã gạo, tạo dáng cho sản phẩm gốm...; được trải nghiệm để trở thành nông dân, thợ thủ công thực thụ. Với nền văn minh lúa nước, hệ thống làng xã và các thiết chế văn hóa độc đáo, không gian sinh hoạt của các gia đình nông thôn gắn kết, tính cộng đồng làng xã ấm cúng, tối lửa tắt đèn có nhau. Một không gian sống rất thực và thoáng đạt mang tính đồng quê luôn có

sức lôi cuốn đặc biệt với du khách với mọi lứa tuổi khác nhau. Cách làm này đang là hướng mở cho các đơn vị kinh doanh du lịch hiện nay. Mục đích khi xây dựng mô hình du lịch làng xã là để xây dựng điểm đến tham quan học tập, chia sẻ kinh nghiệm giữa các địa phương xây dựng nông thôn mới với nhau. Đồng thời nâng tầm xã nông thôn mới để làm sơ sở phát triển các giá trị văn hóa, du lịch, kinh tế theo hướng bền vững.

Cùng với du lịch làng xã nông thôn mới, ở Hà Tĩnh cũng xuất hiện một số cách làm mới về phát triển du lịch nông nghiệp, như: Khu bảo tồn truyền thống ở Xã Sơn Bình – Hương Sơn độc đáo bởi không gian xưa, nơi lưu giữ một kho tàng quý báu của nền văn minh nông nghiệp lúa nước với các kiểu kiến trúc nhà cổ có niên đại hơn 200 năm và hơn 500 nông cụ độc đáo từ thời xa xưa, điển hình như guồng nước, lưỡi hái, đơm, đó, thúng, nia, cối giã gạo, áo tơi, võng tre, đèn dầu, kiểng, nồi đất, bát đũa, mâm gỗ…) phục vụ đời sống sinh hoạt, sản xuất của người nông dân Nghệ Tĩnh trước đây.

Tiếp nối thành công của dự án rau, củ, quả công nghệ cao trên cát ở các xã vùng biển ngang ở Thạch Văn, Cẩm Hòa, đầu năm 2016, Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh đã đầu tư xây dựng Khu Du lịch Đồng Nôi (Thị Trấn Thiên Cầm, Huyện Cẩm Xuyên). Đây là Khu du lịch nông nghiệp đầu tiên của vùng Bắc Trung bộ với diện tích 46 ha với các cánh đồng sản xuất, thu hoạch hoa, rau củ quả đa dạng cùng nhiều loại hình du lịch trải nghiệm nông nghiệp mới mẻ, hấp dẫn. Khách có thể tham quan, trực tiếp trải nghiệm trồng các loại rau củ quả theo quy trình chuẩn VietGap; thưởng thức rau củ quả ngay tại vườn; trải nghiệm làm nông dân với công việc các công việc đồng áng hằng ngày như: cày, bừa, gieo cấy, thu hoạch …trưng

36

Thứ hai, công khai, minh bạch hóa các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Chính quyền cần thường xuyên tổ chức công khai cho Nhân dân biết và tham gia thảo luận các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, dài hạn của địa phương; các quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai, điều chỉnh địa giới hành chính, dự án triển khai, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, phương án đền bù, giải phóng mặt bằng…Việc xây dựng kế hoạch nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ngắn hạn, trung và dài hạn của xã, huyện, tỉnh phải báo cáo tại hội nghị của các xóm, khối phố để Nhân dân thảo luận đóng góp ý kiến.

Thứ ba, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở ở các cơ quan hành chính – sự nghiệp. Minh bạch, công khai trong quản lý điều hành nhằm phát huy tinh thần làm chủ, sáng tạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công chức, viên chức. Nâng cao thái độ phục vụ nhân dân của các cơ quan và công chức nhà nước trong thi hành công vụ.

Thực tiễn đã chứng minh thực hành dân chủ giải phóng tiềm năng sáng tạo của Nhân dân, trở thành động lực của sự tiến bộ và phát triển của đất nước, các địa phương, mỗi con người. Thực hành dân chủ khẳng định hơn nữa quyền làm chủ của Nhân dân; mặt khác tạo điều kiện khắc phục những hạn chế của vi phạm dân chủ. Với những chủ trương phát huy dân chủ mà Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh lần thứ XVIII đưa ra, có thể khẳng định rằng đó là cơ sở tạo niềm tin, xây dựng khối đoàn kết, thúc đẩy phong trào thi đua. Phong trào thi đua sẽ tạo nên một nền tảng cho sự phát triển mới của xã hội nói chung, Hà Tĩnh nói riêng trong thời gian tới.

__________________(1) (Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Hà Tĩnh lần thứ VIII , trg

16 – 28; 51 - 53).(2) ( Đ d trang 45)(3) (Đ d, trg 48)(4) (Đ d trang 74, 75, 76)

bày cung cấp, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm địa phương trong và ngoài tỉnh với sự tham gia của bà con nông dân, ngư dân trong vùng. Đây là những tín hiệu vui đầu tiên của ngành du lịch nông nghiệp Hà Tĩnh và bước đầu đã cho thấy hiệu quả rõ rệt.

Phát triển du lịch gắn kết với nông nghiệp là vấn đề mang tính khoa học, thực tiễn cao, phù hợp với chủ trương chiến lược phát triển lâu dài có tính bền vững của tỉnh. Mặc dù là một ngành còn mới sẽ gặp rất nhiều khó khăn nhưng có thể tin tưởng, du lịch nông nghiệp sẽ có chiều hướng phát triển tốt hiệu quả về lâu dài. Vì vậy, tỉnh cần sớm có cơ chế chính sách phù hợp với các loại hình du lịch này. Trước mắt, cần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành có chính sách khuyến khích, động viên nhân rộng các mô hình mới, những cách làm hay trong nông nghiệp, hình thành ý thức làm du lịch từ trong nông nghiệp. Gắn kết hiệu quả và bền vững giữa phát triển du lịch với các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh, cần có gắn kết chuỗi liên kết, giới thiệu quảng bá các sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm hàng hóa nông nghiệp chủ lực, sản phẩm nông sản tiềm năng cho du khách, thương hiệu “mỗi làng một sản phẩm”. Từ đó, góp phần hỗ trợ, thức đẩy nền nông nghiệp Hà Tĩnh phát triển một cách bền vững./.

THỰC HIỆN TỐT QUY CHẾ... Tiếp theo trang 33

37

Hà Tĩnh là một tỉnh có truyền thống nông nghiệp, đại bộ phận dân số sinh sống ở nông thôn.

Vì vậy, nguồn lao động nông thôn tham gia vào quá trình sản xuất rất đông đảo, chiếm hơn 3/4 lao động của cả tỉnh với gần 74% tổng số lực lượng lao động. Chỉ tính riêng năm 2015 dân số trong độ tuổi lao động tham gia hoạt động kinh tế ở khu vực nông thôn là 478.267 trên tổng số 593.464 của cả tỉnh. Đây là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy vậy, nguồn nhân lực khu vực nông thôn ở Hà Tĩnh hiện nay vẫn còn nhiều bất cập như trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn thấp, lao động chủ yếu bằng kinh nghiệm, chưa qua đào tạo, tổ chức lao động giản đơn, công cụ lao động thô sơ mang tính tự chế cao, phân bố lao động không đồng đều… đã hạn chế tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh cũng như khả năng ứng dụng công nghệ và tiếp cận thị trường của người lao động. Bên cạnh đó, trình độ nhận thức và thói quan sản xuất nhỏ cũng ảnh hưởng không kém đến chất lượng và cơ cấu lao động. Theo báo cáo của Mornirtor có tới 68% lực lượng lao động của Hà Tĩnh không qua đào tạo; riêng ngành nông, lâm, ngư nghiệp tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm 80,9%; lĩnh vực xây dựng, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn 56,2% ngoài ra chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh là một thách thức đã tồn tại từ lâu. Bên cạnh đó, trình độ và mức thụ hưởng văn hóa của lao động nông thôn cũng thấp hơn rất nhiều so với mức chung. Vì vậy, hiệu quả lao động, sản

xuất thấp, khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại dẫn đến thị trường hẹp, sức cạnh tranh hàng hóa thấp. Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII đánh giá: “Tổng sản phẩm xã hội đạt cao nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế”, “quy mô sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp còn nhỏ, chất lượng và sức cạnh tranh chưa cao”(1). Trong đó Đại hội cũng xác định rõ nguyên nhân tác động trực tiếp đến quy mô sản xuất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm chính là: “chất lượng nguồn nhân lực nhất là nhân lực có trình độ, tay nghề chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh… chuyển đổi nghề cho lao động nông thôn còn khó khăn”. Vì vậy, làm thế nào để giảm thiểu những tác động tiêu cực, những rào cản và sức ỳ của một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm góp phần đưa nền kinh tế Hà Tĩnh hội nhập và phát triển nhanh, bền vững thì vấn đề nguồn nhân lực nông thôn đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra cần phải giải quyết.

Để phát huy hết tiềm năng, lợi thế của địa phương, tận dụng những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Trước đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường cũng như nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng đối với một nền nông nghiệp sạch, an toàn và chất lượng. Đặc biệt hiện nay, khi Việt Nam đã ngày càng gia nhập sâu vào WTO và tham gia TPP ngày càng hoàn chỉnh thì những sản phẩm nông nghiệp đều phải đảm bảo

LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HÀ TĨNH - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

T ThS. CHU THỊ THU HUYỀN Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng

38

các tiêu chuẩn quốc tế nhằm đưa hàng hóa, nông sản Hà Tĩnh tiếp cận và mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà cả khu vực và trên thế giới. Để đạt được điều đó, đòi hỏi những sản phẩm nông nghiệp phải được sản xuất theo một quy trình công nghệ chặt chẽ và tối ưu. Yêu cầu đó chỉ có thể được đáp ứng khi có một lực lượng lao động có trình độ cao, làm việc theo một quy trình chặt chẽ và làm chủ khoa học công nghệ mới có thể thực hiện được. Lực lượng lao động ở đây bao gồm cả số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động trong một nghành sản xuất vì vậy chủ trương của tỉnh là tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh cơ giới hóa, nâng cao giá trị gia tăng và hội nhập nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa tạo khả năng cạnh tranh của hàng hóa Hà Tĩnh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế….

Trong phương hướng, mục tiêu tổng quát của Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII: “đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; mở rộng hội nhập; phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực”... “phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, gắn với nền nông nghiệp công nghệ cao, quy mô lớn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(2) Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội cũng xác định phải “nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 70% vào cuối năm 2020”(3)

Để hiện thực hóa mục tiêu Đại hội và giải quyết tốt những tồn tại hạn chế về nguồn nhân lực của Hà Tĩnh đặc biệt là khu vực nông thôn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong những năm trước mắt, Hà Tĩnh cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:

1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường và những tiêu chuẩn khắt khe của một nền nông nghiệp hiện đại cũng như những cơ hội và thách thức đối với người lao động ở khu vực nông thôn.

Đây là nhu cầu tất yếu, khách quan thể hiện xu thế phát triển của xã hội, đồng thời khẳng định vai trò của nguồn lực lao động đối với sự phát triển năng động, bền vững của nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế đại đa số người dân chỉ quan tâm đến việc đào tạo đại học, cao đẳng chuyên nghiệp mà chưa quan tâm nhiều đến hướng nghiệp, dạy nghề. Vì vậy, hàng năm số lượng lao động ở nông thôn chưa qua đào tạo tham gia vào hoạt động kinh tế ngày càng tăng ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng của sản phẩm. Mặt khác, người dân Hà Tĩnh, đặc biệt là khu vực nông thôn còn nặng tư tưởng tiểu nông, bảo thủ, ngại tiếp cận, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Một bộ phận vì lợi nhuận trước mắt đã làm mất uy tín và niềm tin của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thị trường của nông nghiệp Hà Tĩnh chủ yếu là thị trường truyền thống trong tỉnh, sản phẩm có thương hiệu trên thị trường không nhiều, số lượng và chất lượng chưa ổn định… vì vậy việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân là giải pháp đầu tiên, cơ bản nhất để hướng người dân đến một nền sản xuất lớn, một nền nông nghiệp sạch, an toàn và chất lượng; hướng người lao động chủ động tiếp cận và làm chủ khoa học công nghệ.

2. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn

Chất lượng lao động được đánh giá trên tất cả các khía cạnh từ trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật và thể lực người lao động. Vì vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trước hết phải nói đến vai trò của giáo dục nhằm trang bị cho người lao động một phông kiến thức phổ thông cũng như kiến thức xã hội nhất định để họ chủ động tiếp cận tri thức; nâng cao kiến thức văn hóa và kỹ năng chuyên môn cho người lao động, trước hết là lực lượng lao động trẻ ở nông thôn. Ngoài ra, cần chú trọng mạng lưới y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động ở nông

39

thôn nhằm nâng cao thể lực và sức khỏe đáp ứng yêu cầu của một nền nông nghiệp hiện đại. Bên cạnh đó, tỉnh phải chú trọng giải quyết tốt những tồn tại hạn chế, hoàn thiện và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Các địa phương cần phối hợp với các cơ sở dạy nghề của tỉnh, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề cấp huyện để khảo sát, lựa chọn, tư vấn, đào tạo nghề cho lao động dưới nhiều hình thức, đặc biệt là chú trọng đến những đối tượng chưa có việc làm, thiếu việc làm và học sinh tốt nghiệp phổ thông nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng và ý thức lao động hướng đến một nền nông nghiệp hiện đại, mở rộng cơ hội lựa chọn nghề nghiệp cho lao động nông thôn.

3. Khắc phục trình trạng thiếu hụt nguồn lao động

Mặc dầu tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở nông thôn còn cao nhưng đặc trưng lao động nông nghiệp là mùa vụ vì vậy nguồn lao động không ổn định. Một số địa phương tình trạng li hương để làm ăn xa rất đông dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn lao động trầm trọng, đặc biệt vào chính vụ. Bên cạnh đó, do năng suất thấp, thị trường hẹp, tiêu thụ sản phẩm không ổn định dẫn đến lợi nhuận thấp nên một số địa phương người nông dân bỏ ruộng, vườn để đi làm thuê thời vụ hoặc gia nhập vào đội quân lao động thủ công trong các khu công nghiệp làm mất cân bằng cung cầu lao động. Thực trạng này có thể giải quyết tức thời việc làm và thu nhập cho người lao động nhưng thiếu bền vững. Mặt khác, sự thiếu hụt nguồn lao động nông thôn gây nhiều hệ lụy khác vì vậy một trong những giải pháp cơ bản là phải đa dạng hóa các ngành nghề ở nông thôn

Phát triển ngành nghề nông thôn là công cụ để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, trong những năm trước mắt Hà Tĩnh phải tiếp tục thực hiện quy

hoạch phát triển ngành nghề nông thôn với nguyên tắc cơ bản là gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, phát huy thế mạnh từng địa phương và bảo vệ môi trường. Bên canh đó tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về vốn, tín dụng cho các cơ sở ngành nghề nông thôn, đồng thời đơn giản hóa thủ tục vay vốn để tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của hộ gia đình về các cơ sở sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, cần đẩy mạnh ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, ưu tiên cho các lĩnh vực bảo quản, chế biến nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về ngành nghề nông thôn, thu hút các nghệ nhân tham gia các hoạt động đào tạo, truyền nghề cho thế hệ kế cận gắn với bảo tồn làng nghề truyền thống nhằm thu hút và tạo việc làm ổn định góp phần vào sự phát triển bền vững của tỉnh nhà.

4. Phân bố, sử dụng nguồn lao động một cách hợp lí

Để có nền kinh tế phát triển trước hết Hà Tĩnh cần có những chủ trương và chính sách thật sự hiệu quả và phù hợp với điều kiện của tỉnh. Nguồn lao động dồi dào và có chất lượng cao nhưng không được phân bố vào các ngành nghề một cách hợp lý thì hiệu quả sử dụng cũng không cao vì thế cần có những biện pháp, chính sách để hướng và phân bố số lượng lao động trong các thành phần, ngành nghề kinh tế một cách hợp lý để đạt được kết quả cao trong việc sử dụng lao động. Cần phân bố lao động cho phù hợp vào các ngành nghề kinh tế tránh tình trạng thiếu việc làm ở nơi này, dư thừa lao động ở ngành nghề kinh tế khác. Cần có những biện pháp di chuyển lao động và hướng cho người lao động theo chính sách và tốc độ phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Có những chính sách ưu đãi cho những lao động di chuyển đến nơi làm việc mới, thu hút lao động tham gia vào

Xem tiếp trang 46

40

Một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả đều dựa trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm với tinh

thần tận tụy, mẫn cán và làm tròn bổn phận của cán bộ, công chức. Trách nhiệm trong hoạt động công vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hiện nhiệm vụ. Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích của công dân và xã hội. Tuy nhiên trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị nên công vụ còn bao gồm cả hoạt động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội.

Trách nhiệm công vụ là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Trách nhiệm trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả công vụ. Kết quả công vụ và trách nhiệm công vụ tạo nên hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức. Trong cách hiểu rộng hơn về khái niệm trách nhiệm công vụ, đặc biệt là ở nước ta, khi mà mối quan hệ giữa các nhánh của hệ thống chính trị và các cơ quan Nhà nước có mối đan xen và nhân sự có sự luân chuyển thường xuyên giữa các bộ phận, thì trách nhiệm công vụ là một khái niệm mang tính chính trị, tạo nên hình ảnh của chế độ, của nhà nước trong mắt người dân.

Trong những năm qua cùng với sự phát triển của xã hội, sự vào cuộc cả hệ thống chính trị, những cải cách tích cực của hệ thống pháp luật cũng như áp lực từ nhu cầu hội nhập quốc tế, sự tham gia tích cực trong việc phòng, chống tham nhũng của nhân dân và phương tiện thông tin đại chúng, áp lực đổi mới từ các bộ phận tư nhân, đặc biệt là những thành công cơ bản của chương trình cải cách hành chính nhà nước ý thức của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ được nâng lên rõ rệt. Cán bộ, công chức ngày càng có ý thức trong tự nâng cao lý luận chính trị, khoa học quản lý, trình độ chuyên môn, các khả năng sử dụng các phương tiện, công cụ để nâng cao năng suất làm việc như: tin học, ngoại ngữ, các kỹ năng “mềm” phục vụ cho vị trí việc làm như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phân tích…

Song những thay đổi đó chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng của sự phát triển đất nước: “Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn hạn chế”(1); “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”(2).

Trong thực tế tình trạng thiếu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ hiện nay đang làm ảnh

NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG THỰC THI CÔNG VỤ

T ThS. HỒ THANH Giảng viên Khoa Nhà nước & Pháp luật

41

hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan nhà nước. Điều này được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Hiện nay, khi thực hiện việc điều hành và phân công công việc ở một số cơ quan, người lãnh đạo, quản lý có xu hướng càng ngày càng dồn nhiều việc cho cán bộ, công chức khá, giỏi. Các công chức có hạn chế về năng lực ít được giao việc. Xu hướng này, thoạt nghe thì thấy hợp lý, nhưng hậu quả là cán bộ, công chức hạn chế về năng lực sẽ không phải chịu nhiều thách thức, không có cơ hội để vươn lên và càng thiếu trách nhiệm. Những người khá, giỏi sẽ bị quá tải và do đó chất lượng công việc của họ cũng có xu hướng giảm sút do phải chạy theo số lượng công việc. Đây là yếu tố khách quan làm ảnh hưởng đến trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức. Một xu hướng khác là, một số cán bộ, công chức quản lý luôn thích ôm đồm công việc; không tin tưởng vào cấp dưới, không dám và không muốn giao việc cho cấp dưới. Điều này phản ánh tính trách nhiệm chưa cao trong xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Nguyên nhân trước hết, do bản thân mỗi cán bộ, công chức thiếu rèn luyện thường xuyên, thiếu ý thức và trách nhiệm trong thực thi công vụ. Thứ hai, do thiếu tin tưởng vào đội ngũ, công chức khi phân công, điều hành công việc. Thứ ba, hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nước ta hiện nay chưa đáp ứng được các yêu cầu của nền hành chính nhà nước yêu cầu. Đồng thời, chế độ tiền lương và môi trường làm việc cũng là những nhân tố ảnh hưởng đến việc duy trì và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ.

Từ thực trạng nêu trên, để nâng cao trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thống nhất nhận thức về tính cấp thiết của việc nâng cao trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Các cấp, các ngành phải xem việc nâng cao ý thức thực hiện công vụ là nhiệm vụ sống còn của cơ quan, ngành mình, cấp ủy đảng, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm về biểu hiện tiêu cực về ý thức thực thi công vụ. Xây dựng và thường xuyên bổ sung quy chế hoạt động của cơ quan đơn vị nhằm thúc đẩy việc nâng cao ý thức thực thi công vụ theo yêu cầu của nền công vụ, tăng cường là tính hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đồng thời đảm bảo tính nhân văn và đặc trưng của nền hành chính xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục rà soát chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị từ trung ương tới địa phương, hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức theo hướng quy định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền của từng vị trí việc làm và chức danh cán bộ, công chức. Theo đó, hạn chế tối đa việc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ trong quản lý, đồng thời tránh tình trạng để trống các vùng, các mảng không có cơ quan có trách nhiệm quản lý, hoặc có nhưng không đủ phương tiện và thẩm quyền để thực hiện quản lý hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện hiệu quả và triệt để Nghị định 36/2013/NĐ-CP, ngày 22/4/2013 của Chính phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, để mỗi cán bộ, công chức phải luôn có ý thức thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền, chịu trách nhiệm tuyệt đối với phạm vi quản lý đã được giao.

Đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan nhà nước và công tác quản lý cán bộ, công chức.Đảm bảo các điều kiện phù hợp với nền kinh tế thị trường, đảm bảo tiêu chí lấy người dân, doanh nghiệp là khách hàng, là đối tượng phục vụ. Do đó, nhà nước, cán bộ, công chức thay vì đợi người dân đến để phục vụ, ngược lại phải điều tra, tìm hiểu nhu cầu người dân để có phương thức phục vụ phù hợp. Đặc biệt đối

42

với các hoạt động dịch vụ công như: y tế, giáo dục, giao thông, vận tải, công chứng, chứng thực, kê khai thuế, nộp lệ phí, các thủ tục hành chính… trong một số lĩnh vực phải hướng đến phục vụ tại nhà, tại cơ quan, xí nghiệp, tại các địa điểm và thời gian phù hợp nhất với các phương tiện phù hợp nhất.

Tăng cường công tác thi đua, khen thưởng, kỷ cương, kỷ luật hành chính gắn với nâng cao đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức. Các chính sách về khen thưởng, kỷ luật phải đảm bảo việc đội ngũ cán bộ, công chức luôn nỗ lực, toàn tâm, toàn ý cho việc thực thi công vụ, ngược lại sẽ hạn chế, loại bỏ những cán bộ, công chức nhũng nhiễu, có hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Tập trung vào các hoạt động thanh tra công vụ, kiểm soát thủ tục hành chính để phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp.

Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm công vụ; hoàn thiện cơ chế giám sát của người dân, tổ chức đối với hoạt động của cán bộ, công chức.Thực hiện các cơ chế công khai, minh bạch, trong đó người dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội… có nhiều cơ hội, biện pháp giám sát, phản biện đối với cơ quan nhà nước nói chung và cán bộ, công chức nói riêng. Cụ thể hóa các nội dung về hoạt động công vụ, trong đó quy chế hóa các hành vi, ý thức là chuẩn mực trong hoạt động công vụ và những hoạt động vi phạm đạo đức nghề nghiệp và thiếu ý thức trong thực thi công vụ.

Cải cách hệ thống chính sách tiền lương, tiền thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Cơ

cấu lại tổ chức bộ máy, sáp nhập các cơ quan, tổ chức, có chức năng, nhiệm vụ có thể phối hợp thực hiện, sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã, thôn nhằm giảm biên chế, tạo cơ hội tăng lương, tăng phụ cấp và các đãi ngộ. Chế độ tiền lương phải đồng bộ, khoa học, gắn với điều kiện thực tế, tiền lương phải là nguồn thu nhập chính, trở thành động lực, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức tận tâm trong thực thi công vụ. Chú trọng thực hiện xã hội hóa dịch vụ công như: giáo dục, y tế, giao thông vận tải, vệ sinh môi trường, nước sạch, điện, các thủ tục hành chính… trên cơ sở hạch toán kinh tế (không hạch toán kinh doanh); tính đúng, tính đủ mọi chi phí. Trong đó, Nhà nước bảo đảm phần cơ bản, phần còn lại là sự đóng góp của người thụ hưởng và cộng đồng xã hội. Quy định các điều kiện cần và đủ để thực hiện cải cách tiền lương trong từng cơ quan, đơn vị...

Nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng ý thức thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Xây dựng các nội dung, phương pháp huấn luyện tích cực, trong đó đảm bảo các nội dung rèn luyện kỹ năng, phương pháp suy nghĩ tích cực trong hoạt động công vụ. Đảm bảo thông qua các lớp huấn luyện cán bộ, công chức có được những phản ứng tích cực, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả đối với các hành vi hành chính của mình, tạo ra môi trường thân thiện trong mối quan hệ hành chính./.

__________________(1) Văn kiện Đại hội lần thứ XI;(2) Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số

vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

43

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi lại những tấm gương sáng ngời về tài ba, nghị lực phi

thường của nhiều phụ nữ trong lĩnh vực tham chính như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Dương Vân Nga, Y Lan, Bùi Thị Xuân... Thời kỳ chống Pháp, có nữ chiến sĩ cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Thị Ngân... Thời kỳ chống Mỹ, có nữ tướng Nguyễn Thị Định…Trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, phụ nữ Việt Nam càng có nhiều đóng góp to lớn vào công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp Trung ương đến cơ sở trên các lĩnh vực. Họ đã tham gia tích cực, đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, hiện nay vị thế của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại ở Việt Nam nói chung, Hà Tĩnh nói riêng vẫn còn hạn chế nhất định, ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, của đất nước, ảnh hưởng tới cam kết của Chính phủ Việt Nam với các tổ chức quốc tế về thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.

Nhận thức được tiềm năng to lớn và vai trò của nguồn lực cán bộ nữ, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ, chăm lo tới lực lượng phụ nữ và phát triển đội ngũ cán bộ nữ thông qua việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, luật pháp, chính sách liên quan tới công tác phụ nữ và công tác cán bộ nữ. Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương ngày 16 tháng 5 năm 1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới yêu cầu

các cấp, các ngành phải nâng cao nhận thức về vấn đề cán bộ nữ và quyền tham chính của phụ nữ; Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 27 tháng 4 năm 2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quan điểm “xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng” và nhiệm vụ “xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới 2011 - 2020 đề ra mục tiêu: “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% và đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động”.

TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở HÀ TĨNH

T ThS. NGUYỄN THỊ THẢO LINH Giảng viên Khoa lý luận Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh

44

Trong đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh: Kết quả Bầu cử Đại biểu Quốc hội Khóa XI nhiệm kỳ 2002-2007, nữ đại biểu Quốc hội tại Hà Tĩnh đạt tỷ lệ 33,3% (2/6); Khoá XII, nhiệm kỳ 2007-2011, nữ đại biểu Quốc hội tại Hà Tĩnh đạt tỷ lệ 28,5% (2/7). Khóa XIII đạt tỷ lệ 14,2% (1/7), khóa XIV đạt tỷ lệ 14,2% (1/7).

Trong Hội đồng nhân dân tỉnh: tỷ lệ nữ đại biểu tham gia HĐND các cấp kỳ sau cao hơn kỳ trước. Nhiệm kỳ 2004 - 2011, nữ đại biểu tham gia HĐND cấp tỉnh đạt 25%, tăng 5,7% so với nhiệm kỳ

1999-2004; cấp huyện đạt 26,35%, tăng 6,7%; cấp xã đạt 21,03%, tăng 5,86 %.

Tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016 đạt 20% giảm 5% so với nhiệm kỳ 2004-2011; cấp huyện: 28,91%, tăng 2,56% so với nhiệm kỳ 2004-2011; cấp xã chiếm 23,22% (tăng 2,19%)

Nhiệm kỳ 2016 – 2021, tỷ lệ nữ đại biểu cấp tỉnh là 25,45%, tăng 5,45% so với nhiệm kỳ 2011-2016; cấp huyện 27,80%, giảm 1,11% so với nhiệm kỳ 2011-2016; cấp xã 27,80%, tăng 4,58%. (Bảng 2)

Đơn vị tính % Nhiệm kỳ 2005-2010 Nhiệm kỳ 2010-2015 Nhiệm kỳ 2015-2020Cấp tỉnh 15,58 16,35 9,1Cấp Huyện 15,7 16,26 15,65Cấp xã 15,63 17,8 20,35

Bảng 1 (Nguồn: Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh)

Những chính sách, quy định trên đã tạo điều kiện và cơ hội để đội ngũ cán bộ nữ nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt, đáp ứng tiêu chuẩn của từng vị trí công tác, nhạy bén, năng động, sáng tạo, từng bước vươn lên, phát huy trí tuệ và sức lao động của bản thân. Đồng thời, đó cũng là công cụ để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý các cơ quan dân cử. Từ đó vai trò, vị thế của cán bộ nữ được nâng lên và có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của ngành, cơ quan, đơn vị và của cả nước.

Ở Hà Tĩnh, trong những năm qua, các cấp, các ngành và các địa phương đã kịp thời quán triệt và thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về việc ưu tiên xem xét, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào

các vị trí lãnh đạo, nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của phụ nữ và từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Công tác rà soát bổ sung trong quá trình quy hoạch, bố trí, bổ nhiệm cán bộ nữ các cấp, các ngành, nhất là trước khi chuẩn bị nhân sự HĐND, UBND và đại hội Đảng các cấp được Ban Thường vụ Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo. Trong đó, bố trí cán bộ nữ tham gia bộ máy lãnh đạo các cấp, các ngành bảo đảm số lượng và chất lượng là mục tiêu ưu tiên. Trong những năm gần đây, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp đã có chuyển biến tích cực. Riêng nhiệm kỳ 2010-2015 tỷ lệ nữ tham gia Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh: 16,35%, (toàn quốc 11,30%), cấp huyện: 16,26% (toàn quốc 15,15%), cấp xã: 17,8% (toàn quốc 17,98%). (Bảng 1)

45

Nhiều chị em nữ đã không ngừng cố gắng vươn lên là lãnh đạo chủ chốt ở các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và UBND cấp huyện nhưng mới đạt tỷ lệ rất khiêm tốn so với mục tiêu đặt ra. Cụ thể: Cấp tỉnh có 16/28 đơn vị (57,14%), cấp huyện có 1/13 đơn vị (7,69%) và hầu hết đang nắm giữ cấp phó.

Sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cả 3 khối (Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội) và các cấp nhìn chung có chiều hướng tiến bộ và cũng chứng tỏ năng lực của cán bộ nữ ngày càng được nâng cao. Nhiều phụ nữ đã thể hiện bản lĩnh phi thường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong hoàn cảnh khó khăn để khẳng định khả năng, năng lực lãnh đạo, quản lý trước đồng nghiệp nam giới, trước cộng đồng dân cư, dần làm thay đổi những định kiến về vai trò của phụ nữ trong xã hội. Song, so với yêu cầu phát triển của tỉnh nhà, của đất nước, phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý vẫn còn ở mức thấp, chưa đạt yêu cầu. Khả năng tham chính của nữ giới trên địa bàn tỉnh còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục, đặc biệt là sự vươn lên, thể hiện năng lực sắc bén, linh hoạt trong lãnh đạo, điều hành công tác, bản lĩnh chính trị, tầm ảnh hưởng của nữ giới vẫn chưa cao. Có đơn vị, nữ giới có rất nhiều đóng góp quan trọng và nổi bật trong công việc nhưng bản thân họ vẫn âm thầm, lặng lẽ, chưa thể hiện đúng mức. Nguyên nhân phần lớn là do định kiến giới vẫn còn tồn tại dai dẳng ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, trong gia đình và xã hội; vẫn còn biểu hiện hẹp

hòi, còn quá cầu toàn, khắt khe khi đánh giá cán bộ nữ, chưa thật sự tin tưởng vào khả năng của phụ nữ, chưa mạnh dạn sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ nữ… Cùng với đó là rào cản tâm lý, văn hóa truyền thống và những yếu tố gia đình, xã hội khiến không ít phụ nữ vẫn còn tư tưởng an phận, níu kéo lẫn nhau, chưa nỗ lực phấn đấu tham gia các cương vị lãnh đạo, quản lý… Một số cấp ủy chưa tập trung quan tâm, chỉ đạo kịp thời công tác cán bộ nữ; sự khác biệt trong độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ theo quy định trong Bộ Luật Lao động của Việt Nam cũng tác động một cách trực tiếp đến sự tham gia của phụ nữ ở các vị trí lãnh đạo đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt.

Để nâng cao hơn nữa tỉ lệ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo, đảm bảo mục tiêu đặt ra, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức về giới, cũng như quyền của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Để có một đội ngũ cán bộ nữ ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ, trước hết các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể cần nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của phụ nữ, cán bộ nữ và công tác cán bộ nữ trong điều kiện bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phải xác định rõ công tác cán bộ nữ là trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

Hai là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nắm chắc tình hình thực hiện các quy định của pháp luật của Đảng về bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định

Đơn vị tính % Nhiệm kỳ 2004-2011 Nhiệm kỳ 2011-2016 Nhiệm kỳ 2016-2021Cấp tỉnh 25 20 20,45Cấp Huyện 26,35 28,91 27,80Cấp xã 21,03 23,22 27,80

Bảng 2 (Nguồn: Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh)

46

của Trung ương, của tỉnh về quy hoạch, sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ quản lý, lãnh đạo là nữ. Quy định rõ cơ chế báo cáo để giám sát việc địa phương có hoàn thành chỉ tiêu hay không? Bên cạnh đó rà soát, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chính sách đối với phụ nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng nhằm tạo điều kiện phát huy tiềm năng của phụ nữ. Quan tâm đặc biệt việc xây dựng chính sách cho các đối tượng cán bộ nữ. Đề xuất sửa đổi Bộ luật Lao động và các luật liên quan về vấn đề nghỉ hưu của nữ cán bộ, công chức.

Ba là, xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ, trong đó chú trọng đến công tác quy hoạch nguồn lãnh đạo nữ các cấp, các ngành. Về quy hoạch cán bộ nữ cần quán triệt sâu sắc quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng về quy hoạch cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Bên cạnh đó, cần xem xét và điều chỉnh các quy định về tiêu chuẩn phù hợp hơn với điều kiện đặc thù của cán bộ nữ. Trong từng cơ quan, đơn vị quy hoạch, đào tạo cán bộ phải nhất thiết

bảo đảm tỷ lệ nữ phù hợp. Công tác luân chuyển cán bộ nữ phải phù hợp với điều kiện, sở trường công tác đối với cán bộ nữ. Đồng thời, mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ trẻ có triển vọng phát triển; có chính sách đãi ngộ cho phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý, nhất là đối với cán bộ nữ cấp cơ sở. Về chương trình đào tạo cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo phù hợp với đặc điểm đối tượng; chú trọng những nội dung liên quan đến các kỹ năng lãnh đạo như xây dựng và trình bày báo cáo, lập kế hoạch, giải quyết vấn đề và kỹ năng lồng ghép giới vào kế hoạch chương trình hoạt động.

Bốn là, mỗi cán bộ nữ phải không ngừng nỗ lực vươn lên làm chủ kiến thức, có bản lĩnh chính trị, năng động trong điều hành, lãnh đạo và có ý chí quyết tâm phấn đấu trưởng thành. Đặc biệt, để có thể tham chính, trở thành những cán bộ lãnh đạo uy tín, mỗi cán bộ nữ cần sự sẻ chia và phấn đấu vượt lên những khó khăn trong quá trình thực hiện thiên chức của mình trong gia đình để đảm đương tốt vai trò trong xã hội./.

nhiều thành phần kinh tế khác nhau mang lại hiệu quả lao động cao, tạo sự năng động trong thị trường lao động nông thôn.

5. Hà Tĩnh cần chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và mở rộng quan hệ kinh tế, đối ngoại nhằm tận dụng tối đa lợi thế so sánh và nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, trong đó đặc biệt chú ý đến các sản phẩm chủ lực của tỉnh, ưu tiên các sản phẩm sản xuất theo chuỗi giá trị. Tập trung sắp xếp lại lao động và sản xuất nông nghiệp, nông thôn theo hướng chuyên môn hoá, chuyên canh theo vùng kinh tế để khai thác tiềm năng, nâng cao năng suất lao động và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động.

Khu vực nông thôn Hà Tĩnh là khu vực có nhiều tiềm năng, lợi thế, đặc biệt là lực lượng lao động dồi dào và ngày càng trẻ hóa vì vậy, khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn lao động nông thôn sẽ thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà một cách nhanh chóng và bền vững./.

_________________(1) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà

Tĩnh lần thứ XVIII tr40, 41, 42(2) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà

Tĩnh lần thứ XVIII, tr 50(3) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà

Tĩnh lần thứ XVIII, tr 63

LAO ĐỘNG NÔNG THÔN... Tiếp theo trang 39

47

Toàn cầu hóa đang tạo cho đất nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn,

thách thức. Cơ hội đó là được hội nhập vào xu hướng phát triển chung của thế giới, tiếp thu những thành tựu mới của khoa học công nghệ để đi tắt, đón đầu, học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, chia sẻ các giá trị, tăng tính chủ động trong hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức mà chúng ta phải tìm cách giải quyết. Đó là, làm thế nào để đạt được sự phát triển bền vững; làm thế nào để toàn cầu hoá công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông có thể tạo ra cuộc sống tốt đẹp cho tất cả mọi người; làm thế nào để giải quyết sự đụng độ giữa kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức truyền thống; thúc đẩy phát triển kinh tế để giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, một xã hội thực sự bình đẳng, tiến bộ và văn minh.

Trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay, sự lo ngại về khả năng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mối lo chung của toàn nhân loại, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, những luồng văn hoá ngày nay đang bị mất cân bằng, nó đang chuyển theo hướng từ nước giàu tới và gây áp lực đối với những nước nghèo. Những cuộc tấn công dữ dội của văn hoá nước ngoài có thể đe dọa tính đa dạng và nguy cơ các dân tộc có thể đánh mất bản sắc của mình.

Hiện nay, ở nước ta đang xuất hiện những hiện tượng đáng lo ngại trước những tác động của văn hóa ngoại lai. Một bộ phận giới trẻ

có biểu hiện sa sút về tinh thần dân tộc, thiếu những kiến thức về lịch sử và văn hóa dân tộc. Họ đang bị lôi cuốn, hấp dẫn và học đòi theo lối sống buông thả, sống gấp của phương Tây, của Mỹ... Hay tình trạng suy thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội. Những hiện tượng đó gây nên những tác động xấu tới các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và các giá trị truyền thống. Các trào lưu văn hóa mới của thế giới du nhập vào bao giờ cũng có “vàng thau lẫn lộn”. Cho nên, nếu không có sự định hướng giá trị tốt tất sẽ khiến cho các giá trị truyền thống dân tộc bị lấn át, làm cho bản sắc văn hóa dân tộc bị phai nhạt.

Trong đời sống văn học, nghệ thuật những năm gần đây đã nảy sinh những khuynh hướng sáng tác tiêu cực, phủ nhận những giá trị của văn học cách mạng, đối lập văn nghệ với chính trị, cổ vũ cho một lối sống buông thả và vô trách nhiệm. Đồng thời, trong sáng tạo nghệ thuật cũng xuất hiện những hiện tượng mượn danh “cách tân”, “hiện đại hóa”, “tiên tiến hóa” để thực hiện ý đồ làm mờ nhạt bản sắc dân tộc. Những sản phẩm độc hại đó đang thẩm lậu vào trong đời sống văn hóa tinh thần xã hội, làm cho thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ của một bộ phận công chúng có những biểu hiện xa lạ với bản sắc văn hóa dân tộc.

Lĩnh vực quản lý xã hội về văn hoá còn quá nhiều bất cập, nó được biểu hiện trên các lĩnh vực từ bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hoá đến sáng tác và hưởng thụ các giá trị văn hoá.

VẤN ĐỀ BẢO TỒN , PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG THỜI KỲ

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓAT ThS. NGUYỄN TRỌNG PHƯỢNG Giảng viên Khoa xây dựng Đảng

48

Thiết chế quản lý văn hoá nhiều khi rất hình thức, hời hợt, không thực chất, chưa chặt chẽ, thiếu tính khoa học. Hiện nay chúng ta đang chứng kiến những cái gọi là “cú sốc” văn hoá đó là những thước đo văn hoá ngược, cho thấy đạo đức xã hội đang đứng ở đâu. Những thang bậc giá trị văn hoá bị đảo lộn. Những giá trị đạo đức nền tảng bị bỏ bê, bị giẫm đạp không thương tiếc. Văn hoá và giáo dục, những lĩnh vực vừa là động lực xã hội phát triển, vừa tạo nên cốt cách văn hoá của một dân tộc, của một xã hội dường như chưa đảm đương nổi bổn phận của chính mình.

Chúng ta thường đưa khẩu hiệu “Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, thế nhưng, nếu những thiết chế văn hoá không đủ mạnh và pháp luật không thực sự nghiêm minh, công bằng với tất cả mọi giới, thì rút cục luật pháp cũng bị con người ngang nhiên bịt mắt. Giữa cái “đức” và cái “được”, nếu để giữ cái “đức” mà không đạt cái “được” (tham vọng quyền lực, danh vọng, tên tuổi, tiền bạc…) và để “được” (tham vọng), nhưng sẽ không có “đức” thì ở thời buổi kim tiền này, có bao nhiêu người hành động vì cái “đức”, và có bao nhiêu người sẵn sàng chà đạp lên cái “đức”.

Thêm vào đó, hiện nay, nguy cơ gây “ô nhiễm” môi trường văn hóa từ mạng thông tin toàn cầu (Internet) là điều đáng báo động. Chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích mà Internet đã, đang và sẽ đưa lại, nhưng cũng không thể không nhận ra rằng Internet cũng chính là con đường ngắn nhất và nhanh nhất góp phần làm cho đạo đức, lối sống trở nên chệch choạc, suy đồi. Sự gia tăng các đường truyền nối trực tiếp, các hình thức thẻ Internet, Internet không dây (Wifi), điện thoại di động kết nối Internet..., đặc biệt là lạm phát điểm dịch vụ Internet, đang gây không ít phiền toái cho hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Rất nhiều những hình ảnh, tin tức, ấn phẩm không phù hợp với văn

hóa dân tộc, thậm chí đi ngược lại lợi ích dân tộc, đã được phát tán từ đây. Do đó, một khi vấn đề kiểm soát Internet chưa được thực hiện một cách hiệu quả thì Internet vẫn là một thách thức lớn đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Thực tế đó đặt ra vấn đề là, làm thế nào để vừa hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế một cách bền vững, vừa tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại, lại ngăn chặn được những nguy cơ làm mai một đi bản sắc văn hóa dân tộc. Chúng ta phải nhận thức được rằng vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong toàn cầu hóa là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Theo đó, điều quan trọng trước tiên là phải làm tăng “sức đề kháng” của nền văn hóa. Những giá trị mang tính bản sắc cần phải được kế thừa và đổi mới một cách hợp lý. Đồng thời phải mạnh dạn xóa bỏ những hủ tục, những tập quán đã trở nên lạc hậu đang cản trở sự phát triển của đất nước. Song song với việc kế thừa và đổi mới những giá trị tích cực, xoá bỏ những truyền thống lạc hậu, chúng ta cần chủ động hội nhập và mạnh dạn tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực từ bên ngoài, làm giàu thêm cho hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ của dân tộc.

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thiết nghĩ, chúng ta cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Phát hiện và biểu dương kịp thời các gương điển hình, các cá nhân, tập thể có những đóng góp tiêu biểu cho việc xây dựng đời sống văn hóa. Tập trung xây dựng các huyện điểm, thị xã, thị tứ

49

văn hóa ở các địa phương. Chú trọng đầu tư xây dựng và phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa, phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng, ấp, khu phố văn hóa.

Hai là, tăng cường giáo dục lý tưởng, truyền thống trong hệ thống trường học, nhất là ở trường phổ thông và trường đại hoc... Định hướng tiếp nhận văn hóa cho nhân dân, nhất là cho thanh niên.

Ba là, chú trọng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc và truyền thống dân tộc. Coi trọng sưu tầm, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Tiếp tục tổ chức ngày hội văn hóa của một số dân tộc thiểu số có bản sắc văn hóa tiêu biểu nhằm nâng cao ý thức giữ gìn và tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có giá trị đặc sắc. Nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình văn hóa; tổ chức các cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật để có những tác phẩm đỉnh cao, các chương trình nghệ thuật hấp dẫn, có tính giáo dục tư tưởng thẩm mỹ phục vụ nhân dân, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực trong hoạt động văn hóa.

Bốn là, tích cực xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Huy động các nguồn lực và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công trình và thiết chế văn hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, đoàn thể tham gia hoạt động văn hóa, nghệ thuật, quản lý và bảo vệ di tích, di sản văn hóa. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân; làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam.

Năm là, mở rộng hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Tích cực giới thiệu rộng rãi những tinh hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam, những thành tựu to lớn của ba mươi năm đổi mới đất nước và chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và tranh thủ nguồn tài trợ của các nước cho phát triển sự nghiệp văn hóa.

Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có biện pháp quản lý Nhà nước hiệu quả đối với các hoạt động văn hóa, xuất bản, báo chí, bảo tồn các giá trị văn hóa, biểu diễn nghệ thuật, bản quyền tác giả, quảng cáo, các hoạt động dịch vụ văn hóa, karaoke, vũ trường, Internet công cộng, kinh doanh văn hóa phẩm, in, ấn... Chúng ta phải kiên quyết chống lại những hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa.

Bảy là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho ngành văn hóa, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ văn hóa là người dân tộc thiểu số. Đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở cần phải được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng mạnh hơn nữa mới đủ khả năng đáp ứng yêu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước.

Hiện nay, Việt Nam muốn hội nhập sâu và bền vững cần dựa trên nền tảng sức mạnh văn hóa của chính mình. Đó là sức mạnh rất tinh tế, biết được cái lỗi thời của bản thân cần vứt bỏ, biết cái gì hay, cần thiết của nước ngoài để tiếp nhận. Có như vậy, văn hóa dân tộc trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, thực hiện thành công sự nghiêp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

50

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát

triển năm 2011) chỉ rõ “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”. Bảo đảm phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng bộ với các luật hiện hành khác có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (gọi là Luật 2014) được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2014 tại kỳ họp thứ 7, trên cơ sở kế thừa các nguyên tắc cơ bản, các quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Ngày 01/01/2015 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực pháp luật so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có nhiều điểm mới quan trọng thể hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chế độ hôn nhân và gia đình. Trong những điểm mới quan trọng đó có nội dung nổi bật mà xã hội rất quan tâm kể từ khi dự thảo đưa ra lấy ý kiến nhân dân, đó là “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” mà trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định.

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai

cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.

Kể từ ngày 15/3/2015, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có hiệu lực pháp luật quy định tại Khoản 1 Điều 3 “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Đã mở cánh cửa chân trời mới cho những cặp vợ chồng lấy nhau bao nhiêu năm mà không thể có con dù đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và được xác định là vô sinh. Con cái là niềm vui, hạnh phúc nhất của mỗi cặp vợ chồng và gia đình; Trong đó, có những cặp vợ chồng kết hôn nhưng vì họ không có con chung với nhau nên dẫn đến tình trạng ly hôn, ngoại tình ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong Luật hôn nhân và gia đình 2014 được cả xã hội quan tâm và đồng tình ủng hộ.

MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014

T ThS. NGUYỄN HÀ GIANG Giảng viên khoa Nhà nước – Pháp luật

51

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mở ra nhiều cơ hội cho những cặp vợ chồng hiếm muộn, nhiều gia đình đứng trên bờ vực ly tán vì người phụ nữ không thể mang thai. Những người này đã có thể hy vọng tìm đến giải pháp nhờ người mang thai hộ để có được con, có được hạnh phúc trọn vẹn.

Vấn đề đặt ra là Nhà nước quản lý như thế nào, các điều kiện cần thiết để đáp ứng đúng quy định pháp luật, hồ sơ, thủ tục mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con như thế nào để đảm bảo quyền lợi cho bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ, quyền lợi cho những đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ mang thai hộ.

Trước hết, căn cứ các quy định pháp luật hiện hành Bộ Y tế quy định những cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được cấp phép đủ điều kiện thực hiện ngay kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là Bệnh viện Phụ sản trung ương, Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế, Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh; và sau một năm thực hiện thì Bộ Y tế quyết định bổ sung thêm cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có đủ điều kiện được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ngoài ba cở sơ trên.

Thứ hai là, quy định về độ tuổi của người mang thai hộ đã được tháo gỡ không quy định cứng nhắc như các quy định trước đây là điều kiện bắt buộc người nhận mang thai hộ phải từ đủ 20 đến 45 tuổi và hiện nay theo Luật năm 2014 thì người mang thai hộ ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ là đáp ứng đủ điều kiện.

Thứ ba là, một số vướng mắc chưa phù hợp với thực tế đang tồn tại sau các quy định của pháp luật như quy định tại Điểm b, khoản 2, Điều 95 Luật 2014: Vợ chồng đang không có con chung mới đủ điều kiện áp dụng quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, nhưng thực tế nhiều cặp vợ chồng có con chung nhưng đứa trẻ đó mất năng lực hành vi dân sự và trong khi đó người mẹ vì không may trong quá trình sinh nở tai biến sản khoa không thể sinh con nữa. Nhưng ở đây cần loại trừ yếu tố di truyền từ gia đình thì việc sinh thêm đứa trẻ nữa có thể sẽ là gánh nặng cho họ; còn trong trường hợp xác định không di truyền thì cần quy định về điều kiện con chung để tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng.

Thứ tư là, người nhận mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần. Hơn nữa phải được sự đồng ý của chính người đó và nếu người đó có chồng thì phải được sự đồng ý của người chồng. Với quy định về người thân thích, họ hàng liệu rằng khi đứa trẻ được sinh ra thì chính người mang thai hộ sẽ có tình cảm mẹ con vì dù sao cùng họ hàng thân thích. Mặc dù pháp luật đảm bảo đứa trẻ sinh ra được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Cuộc sống lâu dài giữa mối quan hệ này sẽ ra sao, mối quan hệ này không giống như mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Thứ năm là, hồ sơ pháp lý hiện tại theo quy định mỗi cặp vợ chồng cần đến 12 loại giấy tờ quy định tại Nghị định 10/2015/NĐ-CP để đủ điều kiện áp dụng quy định theo luật. Mặc dù với một thủ

52

tục hành chính thì cần nhiều thủ tục giấy tờ và xác nhận của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên trong quy định này đó là những loại giấy tờ cần thiết cho một đứa trẻ được sinh ra và được pháp luật bảo vệ về quyền và nghĩa vụ.

Thứ sáu là, quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ được áp dụng như những trường hợp mang thai khác theo quy định, được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội và được chăm sóc sức khỏe sinh sản. Ngoài ra trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên

khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ thì quyền và nghĩa vụ như nhau theo quy định pháp luật.

Quy định của Luật 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã mở ra cánh cửa hạnh phúc cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn, không thể sinh con mặc dù đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản bằng quy trình kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm mà không có kết quả. Mặc dù Luật hiện hành còn những quy định chưa phù hợp với thực tế nhưng hiện tại vẫn áp dụng và thực hiện nghiêm quy định của pháp luật hiện hành và cần có những giải pháp sửa đổi một số nội dung cho phù hợp đảm bảo đây là quy định mang tính nhân văn, tính nhân đạo cao cả của pháp luật Việt Nam./.

thân vì hạnh phúc của nhân dân có như vậy mới truyền được cảm hứng về tầm nhìn của mình để quần chúng hiểu, tin và theo. Bên cạnh đó chúng ta cần thực hiện có hiệu quả những giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh và thực hành có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh muồn vậy bên cạnh việc vận động chúng ta cần duy trì thường xuyên hơn việc rà soát, đánh gia sát, đúng những cá nhân tổ chúc còn hạn chế, yếu kém để kịp thời có hình thức xử lý thỏa đáng.

Thứ hai, chúng ta cần thực hành có hiệu quả công tác đấu tự phê bình và phê bình, trong Đảng, trong mỗi cơ quan và ở các cấp chính quyền. Đây phải là việc làm thường xuyên của mỗi cán bộ, công

chức nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng, nó giúp cho mỗi người cán bộ, công chức có đủ cơ hội để tự xem xét lại bản thân mình, tự sửa chữa, uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực thi công vụ.

Thứ ba, chúng ta cần xây dụng cơ chế để nhân dân tham gia xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ cũng như phong cánh làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và những cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng.

Cuối cùng chúng ta cần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, cắt bỏ, đưa ra khỏi bộ máy nước những cán bộ thoái hóa, biến chất, những “công bộc” không còn trung thành hoặc không đủ tín nhiệm trước nhân dân nữa./.

NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO... Tiếp theo trang 30