trường phái duy vật kinh nghiệm

12
1. Trường phái duy vật kinh nghiệm – duy giác Trường phái triết học Anh được Ph.Bêcơn đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển theo khuynh hướng kinh nghiệm và Gi.Lốccơ đẩy mạnh theo khuynh hướng duy giác. a) Phơrăngxít Bêcơn: Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm. Lịch sử triết học và khoa học phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của ông. Những định hướng xây dựng triết học và khoa học mới: Là một nhà tư tưởng có đầu óc thực tiễn của tầng lớp quý tộc cấp tiến Anh, Ph.Bêcơn đòi hỏi phải chấn hưng đất nước. Muốn làm được điều đó trước hết phải thống trị giới tự nhiên, nghĩa là biết sử dụng sức mạnh của nó và bắt nó phục vụ lợi ích cho con người. Để làm được điều đó cần phải phát triển khoa học và triết học mới có quan điểm thực tiễn, khắc phục tính tư biện giáo điều, lề thói lý luận xuông xa rời cuộc sống của triết học và khoa học cũ. Chỉ khi dựa trên quan điểm thực tiễn thì mới có thể xác định đúng vai trò, vị trí, nhiệm vụ của triết học và khoa học mới; và sử dụng chúng một cách hiệu quả trong đời sống con người. - Triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của mọi khoa học. Mục đích của triết học và khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu ( Thượng đế, giới tự nhiên, con người) chứ không phải là củng cố các đức tin mù quáng. - Nhiệm vụ của triết học mới là đại phục hồi cho khoa học bằng cách cải tạo toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử dụng hiệu quả tư duy

Upload: tien-tung-hoang

Post on 10-Aug-2015

44 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Trường phái duy vật kinh nghiệm

1. Trường phái duy vật kinh nghiệm – duy giácTrường phái triết học Anh được Ph.Bêcơn đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển theo

khuynh hướng kinh nghiệm và Gi.Lốccơ đẩy mạnh theo khuynh hướng duy giác.a) Phơrăngxít Bêcơn:

Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm. Lịch sử triết học và khoa học phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của ông.

Những định hướng xây dựng triết học và khoa học mới:Là một nhà tư tưởng có đầu óc thực tiễn của tầng lớp quý tộc cấp tiến Anh,

Ph.Bêcơn đòi hỏi phải chấn hưng đất nước. Muốn làm được điều đó trước hết phải thống trị giới tự nhiên, nghĩa là biết sử dụng sức mạnh của nó và bắt nó phục vụ lợi ích cho con người. Để làm được điều đó cần phải phát triển khoa học và triết học mới có quan điểm thực tiễn, khắc phục tính tư biện giáo điều, lề thói lý luận xuông xa rời cuộc sống của triết học và khoa học cũ. Chỉ khi dựa trên quan điểm thực tiễn thì mới có thể xác định đúng vai trò, vị trí, nhiệm vụ của triết học và khoa học mới; và sử dụng chúng một cách hiệu quả trong đời sống con người.

- Triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của mọi khoa học. Mục đích của triết học và khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu ( Thượng đế, giới tự nhiên, con người) chứ không phải là củng cố các đức tin mù quáng.

- Nhiệm vụ của triết học mới là đại phục hồi cho khoa học bằng cách cải tạo toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử dụng hiệu quả tư duy khoa học để khám phá trật tự của thế giới khách quan, xây dựng hình ảnh về thế giới trong tư duy giống như nó tồn tại trong hiện thực.

- Nhiệm vụ của khoa học mới là khám phá ra các quy luật của thế giới. Triết học và khoa học mới phải xuất phát từ tinh thần “ tri thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”. Nhiệm vụ tối thượng của chúng là giúp tăng cường quyền lực tinh thần cho con người để con người thống trị - làm chủ và cải tạo giới tự nhiên, phục vụ lợi ích cho con người.

Quan niệm về thế giới và con người:

Do chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của các nhà triết học duy vật cổ Hy Lạp, Ph.Bêcơn cho rằng, thế giới (giới tự nhiên) tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất; con người là một sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và linh hồn mang tính vật chất.

Page 2: Trường phái duy vật kinh nghiệm

- Thế giới (giới tự nhiên) tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhất: Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào tình cảm, uy tín, nhận thức ( cái chủ quan của con người). Tính đa dạng của thế giới chỉ có thể được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm về vật chất, về hình dạng, về vận động …Do vật chất, hình dạng và vận động thống nhất với nhau nên nhận thức bản chất của sự vật là khám phá ra hình dạng, nghĩa là các quy luật vận động chi phối chúng.

- Con người là một sản phẩm của thế giới: Coi con người bao gồm cả thể xác và linh hồn, ông khẳng định rằng, không chỉ thể xác mà cả linh hồn của con người cũng đều là vật chất. Ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn con người trong thể xác, ông còn thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn thực vật và linh hồn động vật. Khoa học nghiên cứu con người và linh hồn của nó phải là khoa học tự nhiên.

Quan niệm về nhận thức, phương pháp nhận thức:- Cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức: Mặc dù vẫn

còn chịu ảnh hưởng bởi quan niệm chân lý lưỡng tính- chân lý long tin của thần học cùng tồn tại với chân lý lý trí của khoa học – và chưa khắc phục được tính thần học trong quan niệm của mình, nhưng Ph.Bêcơn luôn cho rằng cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Khoa học thật sự phải biết sử dụng phương pháp quy nạp và tư duy tổng hợp để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan, đa dạng và thống nhất. Khoa học như thế chỉ có thể là khoa học thực nghiệm; và tri thức do khoa học này mang lại phải mang bản tính khách quan, tức là chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người.

- Lý luận về ảo tưởng: Quá trình nhận thức thế giới quan là quá trình xây dựng các tri thức khách quan về thế giới. Quá trình này phải xuất phát từ bản than thế giới khách quan, thông qua kinh nghiệm cảm tính, tiến đến tư duy lý tính để xây dựng các tri thức khách quan về thế giới. Tuy nhiên quá trình nhận thức của con người còn bị chi phối bởi những yếu tố chủ quan như mắc phải các ảo tưởng. Để tránh các sai lầm cần phải xem xét nguồn gốc, tính chất của các ảo tưởng và tìm cách khắc phục chúng. Theo Ph.Bêcơn, để khắc phục các ảo tưởng này, chúng ta cần phải khách quan hóa hoạt động nhận thức. Điều này thực hiện bằng cách tiếp cận trực tiếp thế giới tự nhiên mà không thông qua uy tín, sách vở, lòng tin, … đặc biệt phải biết làm thí nghiệm, biết sử dụng phép quy nạp khoa học, biết tổng

Page 3: Trường phái duy vật kinh nghiệm

hợp và khái quát hóa một cách đúng đắn các tài liệu kinh nghiệm cảm tính riêng lẻ để xây dựng chuẩn xác các khái niệm, nguyên lý chung.

- Phương pháp nhận thức khoa học: Ph.Bêcơn cho rằng, từ trước tới nay, tư duy giáo điều và đầu óc nông cạn chủ yếu sử dụng hai phương pháp nhận thức sai lầm là phương pháp “con kiến” và phương pháp “con nhện”. Muốn khác phục hai phương pháp này nhà khoa học thật sự là nhà khoa học thực nghiệm biết sử dụng phương pháp “con ong”. Phương pháp này có ý nghĩa rất lớn đến sự hình thành và phát triển khoa học thực nghiệm và triết học duy vật kinh nghiệm. Nó mang lại nhiều phát minh nổi tiếng. Theo Ph.Bêcơn, quá trình nghiên cứu – nhận thức đúng đắn phải trải qua ba bước:

o Bước 1: dựa vào giác quan, thông qua quan sát, thí nghiệm chúng ta

trực tiếp tiếp cận thế giới tự nhiên đa dạng và sinh động để thu được những tài liệu kinh nghiệm cảm tính.

o Bước 2: So sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, tổng hợp những tài liệu

kinh nghiệm cảm tính này để xây dựng những sự kiện khoa học và phát hiện ra mối liên hệ nhân quả giữa chúng.

o Bước 3: Từ bước 2, xây dựng giả thuyết khoa học để lý giải các

hiện tượng đang nghiên cứu. Rồi rút ra những hệ quả tất yếu của chúng, kế đến, chúng ta tiến hành những quan sát, thí nghiệm mới để kiểm tra những hệ quả đó. Nếu đúng thì ta có nguyên lý, định luật tổng quát; còn nếu sai thì chúng ta lập lại giả thuyết mới.

- Ph.Bêcơn đòi hỏi quá trình nhận thức phải xuất phát từ kinh nghiệm cảm tính; còn kinh nghiệm cảm tính lại xuất phát từ thế giới khách quan. Ông coi nguyên tắc khách quan là nguyên tắc hang đầu của khoa học và triết học mới để nhận thức đúng đắn thế giới. Ông cũng coi tư duy tổng hợp và phép quy nạp khoa học là những công cụ hiệu quả đủ để xây dựng khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm.

Quan niệm về chính trị- xã hội: là nhà tư tưởng kiệt xuất của tầng lớp quý tộc cấp tiến, Ph.Bêcơn chủ trương một đường lối chính trị phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản và chuẩn bị điều kiện để phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời cũng chống lại mọi cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân.

Từ những tìm hiểu trên, chúng ta thấy Ph.Bêcơn không chỉ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm, ông còn là một nhà tư tưởng của giai cấp tư sản phương Tây. Lịch sử triết học, khoa học và văn minh – kỹ thuật

Page 4: Trường phái duy vật kinh nghiệm

phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của Ph.Bêcơn. Triết học của Ph.Bêcơn về sau được Hốpxơ và Lốccơ kế tục và phát triển. Lốccơ đã đẩy chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm do Ph.Bêcơn khởi xướng thành chủ nghĩa duy giác. Rồi từ chủ nghĩa duy giác của Lốccơ, giám mục Béccơly đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm chủ quan nổi tiếng lúc bấy giờ.

b) Tôma Hốpxơ:Thomas Hobbs (1588-1679) sinh ra trong một gia đình linh mục ở nông thôn

của nước Anh. Ông chịu ảnh hưởng sâu bởi triết học Arixtốt và chủ nghĩa duy danh. Sau khi tốt nghiệp đại học Ocpho, phần lớn quãng đời còn lại ông sống ở nước ngoài như Y, Pháp. Tại Paris, ông trở thành thư ký của Ph.Bêcơn. Ông nghiên cứu toán học và khoa học tự nhiên trong các tác phẩm của Côpécníc, Képlê, Galilê. Ông rất quan tâm đến vấn đề con người và đời sống chính trị – xã hội. Về con người, Về công dân, Léviafan… là các tác phẩm triết học chủ yếu của ông. Tuy nhiên, xét trong toàn bộ nền triết học bấy giờ thì tư tưởng của ông là kế tục sự nghiệp triết học của Ph.Bêcơn. Ông đã hệ thống hóa và phát triển chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm,khắc phục tính chất thần học trong hệ thống triết học này .Xuất phát từ quan điểm thực tiễn và coi tri thức là sức mạnh của Ph.Bêcơn, Hốpxơ tiếp tục chủ trương phát triển triết học và khoa học, lấy tri thức phục vụ thực tiễn cải tạo thế giới vì lợi ích con người. Để phát triển triết học và khoa học, cần phải tách thần học ra khỏi triết học, đồng thời coi các ngành khoa học còn lại chỉ là các lĩnh vực khác nhau của triết học. Vấn đề trung tâm của triết học phải là vấn đề về con người. Nhưng do con người vừa là một tạo thể tự nhiên vừa là một tạo thể đạo đức – tinh thần (xã hội), nên theo Hốpxơ, triết học phải bao gồm hai bộ phận chủyếu là triết học tự nhiên và triết học xã hội.

* Triết học tự nhiên

- Quan điểm về tự nhiên:  

+ Hốpxơ cho rằng, giới tự nhiên có trước con người, nó không do thần thánh hay Thượng đế tạo ra, nó đã tồn tại và sẽ tiếp tục tồn tại (duy vật). Giới tự nhiên là toàn thể các vật thể riêng lẻ, và chỉ có các vật thể riêng lẻ mới tồn tại thật sự khách quan (duy danh). Mọi khái niệm như thực thể , vật chất hay cái phi vật thể đều không tồn tại, chúng chỉ là tên gọi. Mọi vật thể cũng như những tính chất và sự thay đổi diễn ra trong chúng đều là kết quả vận động của những yếu tố vật thể gây ra. Vận động của vật thể là vận động cơ học - thay đổivị trí do sự tác động của sức đẩy bên ngoài gây ra. Chúng ta cảm nhận được hậu quả của sức đẩy (chuyển động), chứ không phải bản thân sức đẩy.

Page 5: Trường phái duy vật kinh nghiệm

+ Ông coi động vật và cả con người nữa đều chỉ là những “cổ máy phức tạp”, mà hành vi hoạt động của chúng hoàn toàn do sự tác động từ bên ngoài gây nên. Lý luận về sức đẩy và chuyển động mà ông xây dựng trong quan niệm về thế giới tự nhiên được sử dụng để lý giải cảm giác của linh hồn động vật và đời sống tinh thần con người. Cảm giác của linh hồn không ảnh hưởng gì đến các chuyển động và sức đẩy trong bộ óc hay trái tim mà nó chỉ là sự thể hiện chủ quan của sự tác động khách quan từ bên ngoài.

+ Tuy nhiên, theo Hốpxơ, có sự khác biệt nhất định giữa các vật thể phi linh hồn và các “cổ máy tự động” có linh hồn. Các “cổ máy tự động” có linh hồn bao giờ cũng cónhững cơ quan giúp lưu giữ các ấn tượng cũ và cho phép so sánh chúng với các ấn tượng mới. Đây là tiền đề dẫn tới đời sống ý thức ở con người. Như vậy, Hốpxơ đã phủ nhận sự tồn tại linh hồn như một thực thể tinh thần bất tử; ông chỉ thừa nhận thể xác (vật thể) và những hoạt động mang tính tự nhiên cơ học của nó. Điều này cho phép ông đi đến kết luận cho rằng, Thượng đế và lòng tin tôn giáo chỉ là những sản phẩm của trí tưởng tượng dồi dào của con người. Chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc và quan niệm vô thần này đã chi phối quan niệm của Hốpxơ vềnhận thức.

• Quan điểm về nhận thức:

+ Hốpxơ phê phán chủ nghĩa duy lý, phủ nhận quan niệm về tư tưởng bẩm sinh, về tính ro ràng hiển nhiên của tri thức mà Đềcáctơ xây dựng. Ông cho rằng, mọi quá trình nhận thức đều dựa vào ý tưởng (quan niệm và biểu tượng). Cảm giác về thế giới bên ngoài không chỉ là cội nguồn duy nhất của ý tưởng mà còn là nền tảng của mọi hoạt động nhận thức của chúngta. Sự dao động của môi trường ête đã sinh ra ý tưởng về ánh sáng vàmàu sắc; sự dao động của không khí đã sinh ra ý tưởng về âm thanh. Hốpxơ cho rằng, sự tác động của thế giới bên ngoài sinh ra những ý tưởng đầu tiên với nội dung của nó hoàn toàn khách quan; sau đó, nhờ vào các thao tác tích cực của trí tuệ như đối chiếu, kết hợp và phân chia mà từ các ýtưởng này sản sinh ra các ý tưởng khác.

+ Xuất phát từ chủ nghĩa duy danh, Hốpxơ cho rằng mọi thao tác của quá trình nhận thức đều chỉ là thao tác trên những cảm giác và biểu tượng về những sự vật riêng lẻ trong thế giới. Sản phẩm do hoạt động nhận thức mang lại chỉ là kinh nghiệm - tri thức về những sự kiện mang tính riêng lẻ, đơn nhất đã hay đang xảy ra. Quá trình nhận thức kinh nghiệm chỉ thiết lập những mối liên hệ giữa các kinh nghiệm riêng lẻ. Vì vậy, nó chỉ mang lại những tri thức xác suất về cái riêng mà không thể mang lại tri thức chính xác hiển nhiên về cái chung. Loại tri thức

Page 6: Trường phái duy vật kinh nghiệm

chính xác này chỉ có thể xây dựng nhờ vào ngôn ngữ. Nếu ý niệm là cái riêng chỉ phản ánh các sự vật riêng rẽ, thì từ ngữ lại là tên gọi chung để chỉ một lớp các sự vật cùng loại. Với tính cách là cái chung, ngôn ngữ cho phép nắm bắt cái chung, mối liên hệ tất yếu.

+ Từ đây, ông khẳng định chân lý không phải là tính chất gắn liền với các sự vật riêng lẻ mà là tính chất của các suy diễn về sự vật do tư duy chúng ta tiến hành. Theo Hốpxơ, khoa học tự nhiên là khoa học thực nghiệm; nó chủ yếu sử dụng phương pháp quan sát, thí nghiệm và quy nạp để khảo sát mối liên hệ giữa các sự vật riêng lẻ và tính chất ngẫu nhiên, cá biệt của chúng; vì vậy, nó chỉ mang lại tri thức xác suất, không chắc chắn, mà không thể mang lại tri thức hiển nhiên chắcchắn, nghĩa là không phát hiện ra mối liên hệ tất yếu. Là các khoa học lý thuyết, toán học và triết học sử dụng ngôn ngữ hay tên gọi chung và phép suy diễn tổng quát để thực hiện các thao tác chứng minh; do đó,chúng cho phép nhận thức được mối liên hệ tất yếu, khám phá ra các tri thức chắc chắn, chính xác. Như vậy, Hốpxơ đã đứng trên quan niệm siêu hinh mà tách cảm giác - kinhnghiệm - quy nạp ra khoi tư duy - lý luận - suy diễn, và chia cắt hoạt động nhận thức thống nhất của con người ra làm hai loại tách biệt nhau. Chủ nghĩa duy danh đã đưa Hốpxơ tiến gần thuyết bất khả tri.

* Triêt hoc xa hôi

Hốpxơ xuất phát từ quan niệm, con người là một thể thống nhất giữa cái tự nhiên và cái xã hội mà cho rằng có hai trạng thái tồn tại của xã hội loài người là trạng thái tự nhiên và trạng thái công dân. 

Trong trạng thái tự nhiên, bản tính tự nhiên là ích ky và hiếu chiến của con người thống trị. Khi bị thúc đẩy bởi bản tính tự nhiên, con người chỉ biết thỏa mản mọi khát vọng cho riêng mình mà chà đạp tất cả. Đây là cội nguồn của mọi điều ác, và chúng đẩy xã hội vào các cuộc chiến tranh triền miên của tất cả (mọi người) chống lại tất cả . Để tồn tại, môi con người phải tự bảo vệ mình dựa theo các định luật tự nhiên, và tranh giành tất cả những gì mình muốn. Môi người đều có quyền làm tất cả. Tuy nhiên, về mặt tự nhiên, nói chung con người ai cũng như ai. Sự bình đẳng về mặt tự nhiên đã làm cho con người bất hạnh chứ không mang lại hạnh phúc cho họ(Các cuộc chiến tranh sinh tồn chi làm cho con ngườingày càng rơi vào tinh trạng kho khăn phức tạp thêm. Ai cung lo sợ cho tính mạngvà cuộc sống của riêng minh). Để thoát ra khỏi tình trạng này, con người buộc phảitừ bỏ quyền được làm tất cả. Điều này chỉ có thể thực hiện thông qua việc ký kết các khế ước xã hội. Khi khế ước xã hội được thực hiện, thì trạng thái tự nhiên sẽ

Page 7: Trường phái duy vật kinh nghiệm

nhường chô cho trạng thái công dân; khi đó, xã hội công dân sẽ ra đời và nhà nước sẽ xuất hiện.

+ Trong trạng thái công dân, bản tính tự nhiên của con người bị ức chế bởi bản tính xã hội. Dựa trên sự thống trị của bản tính xã hội, con người lập ra nhà nước. Nhà nước cùng bộ máy chính phủ - linh hồn của nó, thông qua các đạo luật của mình kìm hãm khát vọng tự nhiên và thu hep tự do - muốn làm gì thì làm của con người. Với nhiệm vụ là điều hành sự phát triển xã hội vì lợi ích chung, nhà nước trừng phạt một cách công minh và chính xác những ai vi phạm khế ước xã hội. Bản thân môi con người – công dân của nhà nước, phải có nghĩa vụ tuân thủ các chuẩn mực của nhà nước. Nhà thờ cũng phải phục tùng nhà nước chứ không phải ngược lại. Theo ông, các nhà vô thần không có tội, mà họ chỉ là những người suy nghĩ nông cạn. Hoạt động tôn giáo phải hướng vào việc khuyên con người làm theo các chuẩn mực của nhà nước…Mặc dù các quan niệm về xã hội và nhà nước của Hốpxơ còn mang nặng tính tự nhiên, nhưng chúng đã thể hiện xu hướng tiến bộ của giai cấp tư sản trong quá trình đấu tranh chống lại thế quyền phong kiến của Nhà nước và thần quyền của Nhà thờ.

c) Giôn Lốccơ John Locke, (1632-1704) sinh ra trong một gia đình công chức nước Anh,là đại

biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh. Sau khi tốt nghiệp đạ ihọc, ông say mê nghiên cứu kinh tế - chính trị học, y học và triết học. Sau cách mạng tư sản Anh, ông sống lưu vong ở Pháp, Hà Lan. Kinh nghiệm về lý tính con người là tác phẩm triết học cơ bản, trong đó, ông chủ yếu bàn về nhận thức theo tinh thần của chủ nghĩa duy giác. Đây là cơ sở phương pháp luận của các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển.

Lốccơ phê phán các lý luận duy tâm về nhận thức như lý luận về tư tưởng bẩm sinh của Đềcáctơ, lý luận về khả năng bẩm sinh của Lépnít, đồng thời bảo vệ lý luận “linh hồn - tấm bảng trắng” do Arixtốt đưa ra. Dựa trên lý luận này, ông khẳng định mọi nhận thức của con người đều bắt đầu từ các cơ quan cảm tính, đều phải thông qua quá trình hoạt động năng động của linh hồn mà sản sinh ra tri thức; nghĩa là không có tri thức hay năng lực bẩm sinh, mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ cảm giác, từ kinh nghiệm.

Lôccơ chia cam giac của con người thành cam giac bên ngoài và cam giac bên trong. Kinh nghiệm không chỉ làkhảnăng nhận thức cảm tính mà còn là bản thân lý tính. Vì vậy, kinh nghiệm cũng có hai loại là Kinh nghiệm bên ngoài và Kinh nghiệm bên trong. Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả tập hợp các cảm giác phát sinh do sự tác động của các sự vật khách quan lên cơ quan cảm tính (ngoại cảm) của con người.Kinh nghiệm bên trong là kết quả tập hợp các nội cảm phát sinh từ các phản xạ bên trong hay các xúc cảm tâm lý chủ quan của con người.

Việc coi lý tính cũng là kinh nghiệm đã đưa Lốccơ đi đến khẳng định duy giác: Không co cái gi trong lý tính mà trước đo không co trong cảm tính. Còn tập hợp các kinh

Page 8: Trường phái duy vật kinh nghiệm

nghiệm sẽ đưa đến đời sống tâm lý – tư tưởng của con người. Và tư tưởng của con người, theo ông, cũng có hai loại là tư tưởng đơn giản và tư tưởng phức tạp. Tư tưởng đơn giảnlà tổng đơn thuần các cảm giác của con người. Tư tưởng phức tạp xuất hiện khi có sự hoạt động tích cực của lý trí như phân tích, so sánh, đối chiếu, kết hợp các cảm giác với nhau giúp hiểu sự vật sâu sắc hơn.

Lôccơ cung phân chia đăc tính của sự vât ra thành đăc tính co trước và đăc tính co sau. Đăc tính co trước mang tính khách quan, nghĩa là không phụ thuộc vào cảm giác con người; đó là quãng tính, khối lượng…; chúng không mất đi cho dù ta biến đổi sự vật thế nào đi nữa; nhiệm vụ của các khoa học là phải phát hiện ra chúng.Đăc tính co saucó thể mang tính khách quan, nghĩa là không phụ thuộc vào cảm giác con người; nhưng, cũng có thể mang tính chủ quan, nghĩa là phụ thuộc vào cảm giác con người; đó là âm thanh, mùi vị, màu sắc… rất dễ biến đổi và có thể không giống nhau ở những người khác nhau.

Quan điêm không nhât quan về ban tính khach quan hay chủ quan của đăc tính co sau thê hiện sự dao đông giữa chủnghia duy vât và chủ nghia duy tâm trong lâp trường triết học duy giac mà Lôccơ chịu anh hương. Chính tư chô không triệt đê này mà chủ nghia duy giac của Lôcơ trơ thành côi nguôn ly luân đưa đến sự xuât hiện của chủnghia duy tâm chủ quan Beccơly lân chủ nghia duy vât Phap.