tta061@uottawa - tathanhtan.files.wordpress.com · trí, hoặc bị kéo nhích về phía sau so...
TRANSCRIPT
1
Tan Ta
Tóm tắt: Trong bài viết này, chúng tôi lập luận rằng chữ “quốc” của tiếng Việt hiện hành là
một trường hợp lệch chính tả, hệ quả của một quá trình biến đổi ngữ âm xảy ra không chỉ
riêng trong tiếng Việt mà còn ở các ngôn ngữ khác trong nhóm Vietic: quá trình lơi hoá các
nguyên âm ngắn, hay nói cách khác là sự mất mát thế đối lập dài – ngắn trong hệ thống
nguyên âm của các ngôn ngữ này. Cụ thể trong trường hợp chữ “quốc”, lai nguyên của nó là
một âm tiết Hán – Việt có nguyên âm ngắn /ɤ/ “quấc” lơi hoá thành /ə/.
Trong tiếng Việt, “quốc” là một yếu tố Hán – Việt năng hoạt, tức có khả năng kết hợp cao và được
sử dụng thường xuyên. Nếu nhìn nhận từ phương diện hệ thống quy tắc chính tả hiện hành, dạng
chữ viết “quốc” đi ra ngoài nguyên tắc kết âm [phonotactics] của ngôn ngữ này, là một trường hợp
ngoại lệ gần như duy nhất được hợp thức hoá. Từ quy tắc chính tả, dạng chữ đúng của “quốc” phải
là “cuốc”, hoặc từ phương diện phương ngữ học và ngôn ngữ học lịch sử, dạng thức đúng của nó
phải là “quấc.” Tuy nhiên trong bài viết này, cũng như định hướng chung, chúng tôi không có ý
định phê phán hay bàn tới các yếu tố liên quan đến việc cải tiến chữ quốc ngữ mà chỉ tập trung tìm
hiểu nguyên nhân, quá trình lịch sử dẫn tới việc hình thành dẫn xuất “quốc” từ “quấc”. Theo sau
đây chúng tôi sẽ trình bày theo thứ tự các phần nội dung: giới thiệu ngắn về quy tắc kết âm tiếng
Việt và tính bất hợp pháp của kết âm trong “quấc” (2.1); các biến thể phương ngữ và lịch sử của
“quốc” (2.2); giả thuyết về quá trình lơi hoá của các nguyên âm ngắn trong tiếng Việt các ngôn
ngữ Vietic (2.3); các dẫn chứng biện luận cho giả thuyết (3), bàn luận mở rộng vấn đề (4), và kết
luận (5).
Kết âm học [phonotactics] là “một thuật ngữ được sử dụng trong âm vị học để chỉ các sắp xếp theo
thứ tự (còn được gọi là hoạt động phân bố) của các đơn vị âm vị học trong một ngôn ngữ - những
cái được tính như là các từ đúng âm vị học” (Crystal, 2008, p. 366). Diễn đạt một cách khác, kết âm
học nghiên cứu các quy tắc kết hợp các chuỗi âm vị trong một ngôn ngữ cụ thể, những kết hợp nào
hợp pháp (được phép) và những kết hợp nào bất hợp pháp (không được phép). Ví dụ trong tiếng
Anh, kết hợp tuần tự giữa /s/, /n/ và /t/ tạo thành /sn/ và /st/ đứng ở đầu từ - âm tiết là được phép
(ví dụ các từ snake, snack, steam, stuck…) nhưng các kết hợp ngược như /ns/, /ts/ thì lại không
(không có các từ giả định như nsake, nsick, tseaming, tsung…). So với tiếng Việt, kết âm tiếng
Việt hiện đại không cho phép hình thành các tổ hợp phụ âm (kết hợp liên tiếp gồm hai phụ âm trở
lên) như trong tiếng Anh, nhưng từ góc độ lịch sử thì khoảng 3 thế kỉ trước trở lên, các tổ hợp phụ
2
âm vẫn còn tồn tại, mặc dù phạm vi kết hợp là rất hạn chế theo dạng phụ âm + l (hoặc r): bl, tl, pl,
ml… (Rhodes, 1651). Kết âm học, do vậy, trong số nhiều đặc trưng, có hai đặc trưng quan trọng:
(i) mang tính cụ thể ngôn ngữ, và (ii) mang tính lịch đại.
Một trong các nguyên tắc của kết âm tiếng Việt là không cho phép các kết hợp đồng cấu âm
(có chung đặc trưng về vị trí cấu âm) – nguyên tắc dị hoá. Do đó, ví dụ, các phụ âm có nét đặc
trưng [+ môi] sẽ không kết hợp với âm đệm bán âm có tính [+môi] /w/ (thể hiện chữ viết với hai
biến thể u và o) dẫn đến thực tế là các phụ âm môi như /v/, /f/, /b/ không kết hợp với âm đệm /w/,
hoặc nếu có thì rất hãn hữu và đa số các trường hợp là các từ phiên âm tiếng nước ngoài: khăn
voan, thùng phuy, xe buýt… Dưới áp lực của kết âm tiếng Việt, các từ này trong cách nói thông
thường bị lược bỏ âm đệm, do đó phuy > phi, buýt > bít…
Phụ âm tắc vô thanh gốc lưỡi /k/ trong tiếng Việt có khả năng kết hợp rộng: nó kết hợp với hầu
hết các nguyên âm dòng trước /i e ɛ/, dòng giữa /ɯ ɑ ɑ/, dòng sau /ᴐ u o ɤ ɤ/, và với bán âm /i w/,
(với /w/ là do không có tính chất môi). Do ảnh hưởng của các nguyên âm và bán âm, nên trong
từng trường hợp mà cấu âm của /k/ bị thay đổi: gốc lưỡi bị kéo nhích về phía trước, giữ nguyên vị
trí, hoặc bị kéo nhích về phía sau so với vị trí tiêu điểm chuẩn, lần lượt với các nguyên âm dòng
trước, nguyên âm dòng giữa, nguyên âm dòng sau và bán âm /w/. Các biến thể vị trí (biến thể ngữ
cảnh) này của /k/ được lựa chọn thể hiện bằng ba con chữ khác nhau lần lượt là k, c, và q.
Quay trở lại trường hợp của “quốc”, âm (chữ) này phải được thể hiện phiên âm quốc tế IPA
như thế nào (tức xác định giá trị âm vị học của các yếu tố trong âm tiết – hình vị quốc)?
Nhìn trên mặt chữ, cũng là phương án đầu tiên, sự xuất hiện của con chữ “q” đưa đến quyết
đoán rằng “u” là đại diện của âm vị âm đệm /w/. Nhưng kết hợp chuỗi tiếp theo với “ô” dẫn đến
bất hợp pháp kết âm bởi /o/ là nguyên âm [+sau], [+môi] nên không thể kết hợp với âm đệm /w/
cũng mang nét [+môi], tương tự như việc hai nguyên âm [+môi] còn lại là /ᴐ/ và /u/ không kết hợp
với âm đệm này (chúng ta có, ví dụ, quy, que, quê, qua, quăn, quơ, quân mà không có kết hợp với
u, ô, o).
Phương án thứ hai, với mục đích vẫn giữ sự hiện diện của “q”, là cho rằng chuỗi “uô” là biểu
hiện của một trong ba nguyên âm đôi tiếng Việt, còn âm đệm /w/ trong kết hợp với /k/ để thành
“qu” bị lược bỏ. Do đó hình thức không rút gọn của “quốc” là “quuốc”. Lập luận này giống như
biện luận cho các trường hợp của gì, giếng, nơi mà con chữ “i” trong kết hợp với con chữ “g” để
thể hiện âm vị /z/ bị lược bỏ. Tuy nhiên giải pháp này cũng bất hợp pháp theo kết âm bởi vì trong
ba nguyên âm đôi, chỉ duy nhất có một trường hợp có khả năng kết hợp với bán âm /w/ như trong
các từ quyên, tuyết, khuya. (Về thực chất âm vị học của ba nguyên âm đôi tiếng Việt chúng tôi sẽ
bàn trong các mục sau đây.)
Như vậy dù lập luận theo cách nào thì “quốc” cũng là một trường hợp đi lệch khỏi các quy tắc
chính tả của tiếng Việt. Hai khả năng khác để hoá giải vấn đề này là: hoặc (1) thay đổi sự hiện diện
của “ô” thành “â” (do đó quốc > quấc) để giữ lại kết hợp /k/ + /w/; hoặc (2) thay đổi sự hiện diện
của “k” thành “c” (do đó quốc > cuốc) theo hướng công nhận kết hợp “uô” là biểu hiện của một
trong ba nguyên âm đôi tiếng Việt. Nhưng ngay ở khả năng sau cùng này cũng có một vấn đề mà
3
trước nay ít được nhắc đến: với giả định “uô” là một biểu hiện ngữ cảnh của nguyên âm đôi âm vị
học /uo/ thì ngay bản thân sự tồn tại /uo/ cũng nằm dưới tra vấn bởi đây là kết hợp của hai yếu tố
tròn môi. Một giải pháp thoả đáng cho vấn đề nguyên âm đôi của tiếng Việt là cần thiết và cũng là
nền tảng để chúng tôi truy ngược nguồn gốc của cách viết “quốc”.
Hoàng Dũng (2006-2007, 2018) đưa ra giải pháp cho yếu tố thứ hai trong ba nguyên âm đôi
tiếng Việt là /ɤ/. Giải pháp này hoá giải được mâu thuẫn kết âm trong trường hợp nguyên âm đôi
“uô”, và là một giải pháp tiết kiệm về mặt âm vị học vì /ɤ/ vốn sẵn là một nguyên âm trong tiếng
Việt. Một lợi thế trực tiếp nữa của giải pháp Hoàng Dũng trong việc giải quyết vấn đề đang được
đặt dưới xem xét của bài viết này là nó sẽ đem lại một dẫn xuất trực tiếp từ dạng thức quấc > quốc.
Dù vậy chúng tôi vẫn bảo lưu giải pháp của riêng mình khi đề xuất từ góc độ ngữ âm – âm vị học
coi yếu tố thứ hai trong nguyên âm đôi tiếng Việt là nguyên âm trung hoà /ə/ - giống như âm schwa
trong tiếng Anh ở các âm tiết không nhấn trọng âm (xem (Tấn, 2015) cũng như (Kirby, James P. ,
2011)).
Như vậy hai khả năng dẫn xuất chữ “quốc” đang được bàn tới ở đây là “cuốc” và “quấc” với
kí hiệu phiên âm chuẩn lần lượt là /kuək5/ và /kwɤk5/.
Chữ được viết là “quốc” trong các kết hợp như tổ quốc, quốc gia, quốc tế… có cách phát âm khác
nhau giữa ba vùng phương ngữ lớn của tiếng Việt. Phương ngữ Bắc phát âm hoàn toàn giống với
cuốc /kuək5/, là đồng âm tên một loại chim, tên một loại dụng cụ lao động; phương ngữ Trung có
cách phát âm /kwᵻk5/ (quức) (Dũng, 2018); phương ngữ Nam là /kwɤk5/ (quấc, hoặc có người phiên
là quắc) [phiên âm hẹp nên là /wɤk5/ vì quá trình nhược hoá các kết hợp phụ âm mạc, hầu + âm
đệm trong phương ngữ Nam (Andrea, 2009)].
Về lịch sử cách viết “quốc”, Hoàng Dũng (2018) là trình bày đầy đủ nhất tới thời điểm hiện
nay. Tuy nhiên có một vấn đề ngay tại xuất phát điểm cần lưu ý là yếu tố “quốc” là yếu tố Hán –
Việt nằm trong đối lập với các đồng âm phương ngữ Bắc (cái cuốc, chim cuốc, cuốc chèo, cuốc
xe) là các yếu tố thuần Việt. Các yếu tố thuần Việt có phát âm, và do đó cách viết, tương đối nhất
quán trong suốt tiến trình lịch sử với nguyên âm chính là nguyên âm dài /o/, trong khi yếu tố Hán
– Việt “quốc” có hai biến thể khác nhau ở chất lượng nguyên âm chính: biến thể nguyên âm lơi
/ə/ và biến thể nguyên âm ngắn /ɤ/. Bảng 1 sau đây trình bày một số minh hoạ từ các từ điển về
dạng thức của yếu tố Hán – Việt “quốc” và các yếu tố thuần Việt “cuốc”.
Bảng 1: Quốc và Cuốc trong một số từ điển tiếng Việt
Từ/Tự điển Hán - Việt Thuần Việt
Từ điển An Nam – Lusitan – La Tinh (Rhodes, 1651) cuốc, coấc cuốc
Đại Nam quấc âm tự vị (Của, 1895) quốc, quấc cuốc, quốc
Dictionnaire annamite-francais (langue officielle et langue vulgaire) (Bonet, 1899-1900)
quốc, quấc cuốc
Tự điển chữ Nôm dẫn giải (Hồng, 2015) x cuốc
Các từ/tự điển chữ Hán hiện nay quốc x
Các từ điển tiếng Việt hiện nay quốc cuốc
4
Đối với âm Hán – Việt, cách đọc có “uô” /uə/ là không phổ biến, xuất hiện chỉ khoảng trên
dưới 10 từ và là những “lệ ngoại, diễm biến không theo quy luật chung của đa số” như “huống,
uông, uổng, thuộc, muộn, muội” (Cẩn, 1995, p. 140). Trong khi đó một vận gần gũi và xuất hiện
nhiều trong cách đọc Hán – Việt là “uâ” /wɤ/: huấn, tuân, quân, quận, luân…
Dựa trên tính hệ thống của cách đọc Hán – Việt, dựa trên dấu vết chữ viết của “quốc” trong các từ
điển, và dựa trên các biến thể phương ngữ, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng dạng thức ban đầu của
yếu tố đang được xét đến trong bài viết này là “quấc”; và “quốc” là cách ghi biến thể phát âm của
phương ngữ Bắc, là kết quả của quá trình lơi hoá nguyên âm ngắn /ɤ/ thành yếu tố thứ hai của
nguyên âm đôi /uə/ nhưng lại không thay đổi một cách hệ thống con chữ “q” thành “c” dẫn đến
nghịch lí kết âm làm cho “quốc” trở thành một ngoại lệ lệch chính tả. Trong phần tiếp theo, chúng
tôi sẽ cung cấp các dẫn chứng để biện hộ cho giả thuyết được đề xuất này từ cứ liệu phương ngữ
tiếng Việt (3.2), lịch sử ngữ âm tiếng Việt (3.3), và lịch sử diễn biến hệ thống nguyên âm các ngôn
ngữ nhóm Vietic (3.4).
ɤ
Lơi hoá (lenition), trong cặp bổ sung với căng hoá (fortition), là một trong các quá trình biến
chuyển ngữ âm – âm vị học phổ biến trong các ngôn ngữ trên thế giới. Thuật ngữ lơi và căng có
nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng chúng tôi sử dụng trong bài viết này theo hướng coi lơi hoá,
cũng như căng hoá, là các quá trình liên quan đến việc thay đổi cấu trúc tính vang (sonority) của
các thành tố trong cấu trúc âm tiết (Cser, 2003).
Quá trình lơi hoá được biết đến nhiều trong tiếng Việt, cũng như các ngôn ngữ trong nhóm
Vietic, hay rộng hơn là các ngôn ngữ Mon-Khmer, là vô thanh hoá các phụ âm đầu hữu thanh làm
tăng đối lập tính vang giữa âm đầu và vần của âm tiết (Haudricourt, 1954, 1965; Huffman, 1976;
Ferlus, 1979; Theraphan, 1987). Cũng có thể kể đến quá trình xát hoá các phụ âm tắc giữa trong
tiếng Việt như một dạng thức lơi hoá phụ âm (Ferlus, 1982a).
Trong bài biết này chúng tôi mở rộng khái niệm lơi hoá để chỉ hiện tượng nguyên âm trong
vần của âm tiết bị trung hoà hoá đối lập ngắn – dài, làm cho các nguyên âm ngắn bị biến chuyển
thành nguyên âm dài có sự thay đổi về chất lượng nguyên âm (vowel quality), hoặc thành yếu tố
lướt trung hoà /ə/ của các nguyên âm đôi (Ferlus, 1982b). Theo cách tiếp cận của Nguyễn Văn Lợi
(2013) thì đây là quá trình chuyển từ “tiếp hợp chặt” sang “tiếp hợp lỏng” giữa nguyên âm chính
và âm cuối trong vần tiếng Việt.
Hiện nay ở các vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam, ví dụ các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hưng
Yên, Hải Dương, Vĩnh Phúc... vẫn còn tồn tại song song nhiều cặp từ với sự luân phiên âm chính
5
là kết hợp “uâ” /uɤ/ và kết hợp “uô” /uə/. Dạng thức đầu có nguyên âm ngắn /ɤ/ và là cách phát âm
cũ, trong khi dạng thức sau nguyên âm đã được lơi hoá trở thành nguyên âm trung hoà là yếu tố
thứ hai của nguyên âm đôi /uə/ và là cách phát âm mới hơn, mang tính toàn dân. Bảng 2 trình bày
một số ví dụ về song thức này.
Bảng 2: Song thức “uâ” – “uô” trong phương ngữ Bắc
Dạng thức cũ “uâ” Dạng thức mới “uô”
luân > luôn
thuấc > thuốc
(bánh) quấn > cuốn
ruầy > ruồi
buần > buồn
…
Tuy nhiên, do tác động nhanh và mạnh của các quá trình đô thị hoá nông thôn, phân bố lao
động – dân cư, mở rộng và phổ cập thông tiên liên lạc – internet,…, nét đặc trưng này, cùng các
biến thể ngữ âm khác (như song thức /u/ - /o/ thủi – thổi, chủi – chổi…; song thức /z/ - /c/ giai –
trai, giời – trời…, ngạc hoá e mẹ em [mjɛ6 jɛm1] , môi hoá o con bò [kwᴐn1 ɓwᴐ2]…) trong phương
ngữ Bắc đang mất đi rất nhanh, tiến tới thay thế hoàn toàn bằng cách phát âm lơi được coi là
“chuẩn toàn dân”.
ɤ
Một số ví dụ ít ỏi phía trên về sự tồn tại song song của hai biến thể /uɤ/ và /uə/ được củng cố khi
chúng tôi tìm thêm được các cặp tương tự trong từ điển Việt – Bồ - La của de Rhodes (1651), một
ngữ liệu quan trọng trong nghiên cứu tìm hiểu lịch sử tiếng Việt. Trong từ điển này chúng tôi tìm
được thêm rất nhiều các từ chứng minh cho tính hệ thống của một biến đổi ngữ âm từ /uɤ/ sang
/uə/. Bảng 3 trình bày kết quả thu được qua khảo sát bước đầu.
Bảng 3: Quá trình biến đối /uɤ/ > /uə/ trong tiếng Việt
Thế kỉ XVII
(Rhodes, 1651) Hiện nay
B
buân buôn
buần buồn
buẩn buổn – bản tính
buâng xuấng buông xuống
buầng buồng
buầng (chuối) buồng
buầm buồm
ϐ ϐuông ϐức vuông vức
ϐuông vuông
ϐuất vuốt
ϐuất áo vuốt áo
ϐuất bút vuốt bút
C
cấi cối
coấc cuốc
cưấi cưới
cuấn cuốn
Đ
đuây đuôi
đuấy đuối
đuẩy đuổi
L luân luân
6
luận luộn
M
muấi muối
muẩi muổi
muân muôn
muận muộn
muâi muôi
muâng muông
N nuâi nuôi
nuất nuốt
R ruầi ruồi
ruật ruột
S suây suôi
suấy suối
T tuẩi tuổi
tuất tuốt
U uấng uống
uẩng uổng
X xuâi xuôi
xuất xuốt
Ngoài các trường hợp /uɤ/ > /uə/ kể trên, chúng tôi còn tìm thấy một số từ thể hiện quá trình biến
đổi /ɤ/ > /ɯ/, được trình bày trong Bảng 4 sau đây.
Bảng 4: Quá trình biến đối /ɤ/ > /ɯ/ trong tiếng Việt
Thế kỉ XVII
(Rhodes, 1651) Hiện nay
B bưâm bưấm bươm bướm
C cưấi cưới
cưầng cường
H hấng hứng
L
lưấi lưới
lưẫi lưỡi
lưâng lương
M mưấn mướn
mưận mượn
mưẩng mưởng
N nhuâng nhương
Ph phưâng phương
R rưẫi rưỡi
S sưâng sương
sưấng sướng
T tlấng / trấng trứng
tưâi tươi
Trong phương ngữ Bắc hiện nay còn có một số cặp từ bổ sung như vầng > vừng (cơm), cẩng
> cửng , bấng > bứng,…
Vietic (hay còn được biết đến với các tên gọi Việt – Mường, Việt – Chứt) là nhánh ngôn ngữ bao
gồm các ngôn ngữ Việt, Mường, Nguồn, Chứt (Rục, Mày, Sách), Arem, Thà Vựng, Mã Lèng,
Hung, Thổ, Kri phân bố chủ yếu ở phía Tây Nam miền Bắc Việt Nam (Hà Tây, Hoà Bình, Ninh
Bình), các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình và Tây Bắc Lào (Thomas, 1987-1988; Ferlus,
1989-1990; Hayes, 1992; Ferlus, 1996). Các ngôn ngữ Vietic về mặt đồng đại đang nằm ở những giai
đoạn khác nhau của tiến trình biến đổi nội bộ nhóm với các đặc trưng vô thanh hoá phụ âm đầu,
rụng các phụ âm cuối có tính chất thanh quản dẫn tới sự hình thành âm vực hoặc hệ thống thanh
điệu. Bên cạnh đó, các ngôn ngữ Vietic trải qua quá trình mất dần thế đối lập về trường độ ở hệ
thống nguyên âm: các nguyên âm ngắn dần bị trung hoà hoá, thay thế bởi các nguyên âm dài có
sự biến đổi nhất định về chất lượng nguyên âm – các cấu trúc formant (vowel quality). Bảng 5 sau
đây trình bày thống kê sơ bộ về số lượng nguyên âm ngắn trong các ngôn ngữ Vietic.
7
Bảng 5: Nguyên âm ngắn và đặc trưng ngôn điệu của các ngôn ngữ Vietic
Ngôn ngữ Số lượng nguyên
âm ngắn Đặc trưng ngôn điệu Tham khảo
Kri1 6 Âm vực (Enfield & Diffloth, 2009)
Maleng (Mã Lèng, Pakatan) 6 2 thanh điệu + âm vực (Ferlus, 1997; Ferlus, 1998)
Arem 11 4 thanh điệu + âm vực (Ferlus, 2013)
Chứt (Rục, Mày, Sách) 6 4 thanh điệu + âm vực (Lợi, 1993; Ferlus, 1998)
Aheu (Thà Vựng) 4 4 thanh điệu + âm vực (Suwilai, 1996; Ferlus, 1998)
Hung (Pong, Tum) N.A 4 thanh điệu (Ferlus, 1998)
Thổ (Cuối Chăm, Mọn) 2 6 thanh điệu (Ferlus, 1994; Ferlus, 1998; Ferlus, 2001)
Mường 2 6 thanh điệu (Tài, 2005)
Nguồn 2 6 thanh điệu (Tài, 1993; Phong, 1996)
Việt2 2 6 thanh điệu (Thuật, 1977)
Một nhận xét rút ra là ở các ngôn ngữ có âm vực, tức các ngôn ngữ bảo thủ hơn trong nhóm,
nằm ở các giai đoạn đầu trong quá trình hình thành âm vực và thanh điệu (Huffman, 1976;
Theraphan, 1987; Thurgood, 2002), số lượng nguyên âm ngắn ít hơn hẳn so với các ngôn ngữ cách
tân hơn trong nhóm, nằm ở giai đoạn cuối của hình thành đối lập thanh điệu, không còn hoặc còn
rất ít dấu tích của âm vực. Tiếng Thổ, Mường, Nguồn, Việt là các ngôn ngữ cách tân trong nhóm
Vietic, nơi đối lập dài – ngắn trong hệ thống nguyên âm đã bị trung hoà hoá rất mạnh.
Việc ghi nhận được một số lượng tương đối lớn các từ được ghi bằng dạng thức “uâ” tương ứng
với “uô” ngày nay, và cả các trường hợp “ưâ” > “ươ”, “â” > “ư”, buộc chúng tôi phải đi đến một
kết luận rằng đây là một hiện tượng mang tính hệ thống chứ không phải do sai sót, nhầm lẫn trong
việc biên soạn, ấn loát từ điển trong de Rhodes (1651). Chính từ điển thế kỉ 17 này, cũng như các
từ điển khác dẫn ra trong 2.2., khẳng định sự tồn tại song song của hai biến thể ngắn – dài của
nguyên âm chính trong các vần đang xét, cụ thể là trường hợp của “quấc” và “quốc – cuốc”, bằng
việc quy chiếu lẫn nhau của chúng. Do đó, hiện tượng lơi hoá nguyên âm ngắn có thể nói rằng
đang diễn ra trong giai đoạn thế kỉ 17, và trong thực tế đến tận ngày nay nó vẫn chưa hoàn tất triệt
để, bằng chứng là vẫn còn các thổ ngữ của phương ngữ Bắc bảo lưu song song cách phát âm
nguyên âm ngắn, như dẫn trong 2.2..
Quá trình biến chuyển ngữ âm, kéo theo sau đó là âm vị học, “uâ” /wɤ/ > “uô” /uə/ cũng khiến
chúng ta phải cập nhật lai nguyên của nguyên âm đôi /uə/ trong tiếng Việt bằng việc bổ sung quá
trình đang xét vào sơ đồ của Nguyễn Tài Cẩn (1995). (Sơ đồ 1)
1 Một số người có thể cho rằng số lượng nguyên âm ngắn trong các ngôn ngữ còn sở hữu đối lập âm vực sẽ là gấp đôi số lượng liệt kê trong bảng 5 vì nguyên âm được tính riêng biệt ở hai âm vực khác nhau.
2 Thực ra tồn tại các quan điểm khác nhau về số lượng nguyên âm ngắn trong tiếng Việt, nhưng một điểm rõ ràng là các cặp đối lập khác được đề xuất (ɛ - ɛ, e – e, ᴐ - ᴐ, o - o ) có số lượng quá ít ỏi, chỉ một hay vài cặp đối lập (xem thêm (Thuật, 1977)). Hơn nữa hiện nay trong phương ngữ Nam, cặp đối lập ɑ - ɑ cũng trải qua quá trình trung hoà hoá, khi phát âm của phương ngữ này không phân biệt các cặp như au / ao, ay / ai.
8
Sơ đồ 1: Lai nguyên của uə trong tiếng Việt
*ᴐ
*uə uə
*wɤ
Các trường hợp biến đối “uâ” > “uô” như dẫn ra trong các mục trên đa phần là các từ phi Hán
– Việt, cộng thêm với thực tế như Nguyễn Tài Cẩn (1995) chỉ ra rằng kho từ Hán – Việt có rất ít
các trường hợp, mà nếu có thì là các ngoại biệt, có cách đọc âm chính “uô” , khiến chúng ta rút ra
kết luận ban đầu tiếp theo là hiện tượng lơi hoá nguyên âm ngắn, cụ thể *ɤ, chủ yếu diễn ra trong
kho từ bản địa tiếng Việt, và điều kiện bối cảnh của biến chuyển này khá thống nhất: *ɤ nằm trong
các kết hợp với âm đệm /w/, hoặc theo sau nguyên âm hàng trước /ɯ/, và một số trường hợp biến
thành /ɯ/ nếu nó là âm chính (như trong hấng, trấng, cẩng…). Do đó, hiển nhiên, một câu hỏi đặt
ra là tại sao “quấc” là một yếu tố Hán – Việt lại bị kéo theo trong hiện tượng biến đổi ngữ âm của
các từ bản địa?
Thiết nghĩ câu hỏi trên có hai khả năng giải thích bổ sung cho nhau. Thứ nhất, các hiện tượng
biến đổi ngữ âm đối với bộ phận từ Hán – Việt nhiều khi ảnh hưởng kéo theo cả bộ phận từ bản
địa, và ngược lại, các biến đổi trong kho từ bản địa cũng dội ngược, lây lan sang các từ Hán – Việt,
cho dù các quá trình ảnh hưởng không bao giờ là nhất loạt và hoàn toàn giữa hai bộ phận (về nhận
định này, xem thêm (Cẩn, 1995; Phan, 2013)). Thứ hai, cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, “quấc” là
yếu tố Hán -Việt được sử dụng phổ biến, thường xuyên do sự nổi lên của các phong trào, các cuộc
cách mạng giành quyền độc lập quốc gia, dân tộc. Tần số xuất hiện, sử dụng cao của các từ có yếu
tố Hán – Việt “quấc” đem lại cho yếu tố này tính chất vận động gần với các từ bản địa hơn, do đó
dễ dàng bị biến đổi ngữ âm hơn so với các yếu tố Hán – Việt có “uâ” khác.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, như chúng tôi đã chỉ ra từ đầu, cách phát âm yếu tố Hán – Việt đang
xét như là /kuək5/ (chữ viết cuốc) chỉ giới hạn trong phạm vi phương ngữ Bắc. Phương ngữ Nam
hiện nay vẫn bảo lưu cách phát âm nguyên âm ngắn, do đó quấc. Như vậy, khởi điểm, cách viết
“quấc” là đúng theo cả cách phát âm và quy tắc chính tả, nhưng sau đó biến thể ngữ âm lơi hoá
nguyên âm ngắn /ɤ/ của một vùng (Bắc) được lấy làm tiêu điểm dẫn đến sự điều chỉnh chữ viết.
Dạng chữ viết “quốc”, tuy nhiên, lại là một trường hợp lệch chính tả bởi nó cố gắng dung hoà hai
điểm không thể dung hoà: (1) cố gắng thể hiện biến đổi ngữ âm trong vần chính *wɤ > uə, song
song với ý định (2) giữ hình thức chữ viết của âm đầu cũ được ấn định cho một vần chính khác
biệt – biến thể chữ viết “q” cho kw + ɤ.
Cuối cùng, chúng tôi muốn bàn thêm về giải pháp âm vị học cho yếu tố thứ hai của nguyên âm
đôi tiếng Việt, cụ thể trong trường hợp nguyên âm đôi “ua/uô”. Nếu lựa chọn giải pháp của Hoàng
Dũng (2006-2007, 2018), việc lí giải cho hiện tượng lơi hoá nguyên âm ngắn đang xét vô cùng đơn
giản: /ɤ/ trong “quấc” /kwɤk5/ lơi hoá, trung hoà nét [- dài] của mình để trở thành yếu tố thứ hai
trong nguyên âm đôi /uɤ/ mà không cần phải thay đổi vị trí cấu âm3. Giải pháp nguyên âm trung
3 Trong thực tế, cấu âm của yếu tố thứ hai trong các nguyên âm đôi tiếng Việt không thể là /ɤ/ bởi vì /ɤ/ có cấu âm sâu hơn so với âm lướt schwa /ə/ chúng tôi đề xuất (Kirby, James P., 2011; Tấn, 2015)
9
hoà /ə/ của chúng tôi (Kirby, James P. , 2011; Tấn, 2015), không có được lợi thế trực tiếp này nhưng
được bù lại bằng khả năng giải thích cho phạm vi biến đổi ngữ âm – âm vị học rộng hơn. Cụ thể,
/ɤ/ lơi hoá, đánh mất nét [- dài] và biến đổi theo hai hướng: hoặc (1) trở thành yếu tố lướt trong
nguyên âm đôi /uə/, hoặc (2) trở thành nguyên âm bậc cao hơn /ɯ/. (Sơ đồ 2)
Sơ đồ 2: Hệ thống nguyên âm tiếng Việt và hiện tượng lơi hoá nguyên âm ngắn /ɤ/
Cả hai biến đổi này đều đòi hỏi /ɤ/ thay đổi phẩm chất nguyên âm (vowel quality) của mình,
và đòi hỏi này không khó giải thích bởi nó đảm bảo ngăn ngừa nguy cơ đồng âm khi thế đối lập bị
trung hoà hoá. Điều này cũng tương tự như khi hệ thống phụ âm đầu các ngôn ngữ Vietic trải qua
các quá trình vô thanh hoá phụ âm đầu, rụng các âm cuối, những mất mát này phải được bù đắp
bởi sự thay đổi ngữ âm mà sau đó được âm vị hoá các khác biệt trong hệ thống vần, dẫn đến hình
thành các hệ thống âm vực (register) hoặc thanh điệu.
“Quấc” là cách viết khởi đầu thể hiện cách phát âm của toàn bộ tiếng Việt đối với yếu tố Hán –
Việt 國 (nhiều dị thể) cho đến tận những thập niên đầu của thế kỉ XX, sau đó được thay thế bởi
“quốc” theo phát âm của phương ngữ Bắc. Từ góc độ kết âm và chính tả, “quốc” là một chữ viết
lệch chính tả, thể hiện một nỗ lực bất thành nhằm dung hợp mong muốn thể hiện đồng thời (i) biến
đổi ngữ âm của vần trong âm tiết, và (ii) giữ cách viết cũ nhằm thể hiện trên mặt chữ sự phân biệt
nguồn gốc Hán – Việt của từ.
ə
10
Thư mục tham khảo
Andrea, H. P. (2009). The identity of non-identified sounds: glottal stop, prevocalic /w/ and tripthongs in Vietnamese. Paper presented at the The 3rd Toronto Workshop on East Asian Languages, Toronto.
Bonet, J. (1899-1900). Dictionnaire annamite-français : langue officielle et langue vulgaire Paris: Ernst Broux. Cẩn, N. T. (1995). Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo). Hà Nội: Giáo dục. Crystal, D. (2008). A dictionary of linguistics and phonetics (6th ed.. ed.). Malden, MA ; Oxford: Malden, MA ; Oxford
: Blackwell Pub., 2008. Cser, A. s. (2003). The typology and modelling of obstruent lenition and fortition processes. Budapest: Budapest :
Akademiai Kiado, c2003. Của, H.-T. P. (1895). Đại Nam quấc âm tự vị. Saigon. Dũng, H. (2006-2007). Về yếu tố thứ hai của các nguyên âm đôi tiếng Việt. Annalen der Hamburger Vietnamistik, 2&3,
13-18. Dũng, H. (2018). Chữ Quốc – thực tiễn phát âm và lịch sử chữ viết. Paper presented at the Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ
học Việt Nam - Những chặng đường phát triển và hội nhập quốc tế, Đà Nẵng Enfield, N. J., & Diffloth, G. (2009). Phonology and sketch grammar of Kri, a Vietic language of Laos. Cahiers de
Linguistique - Asie Orientale (CLAO), 38, 3-69. Ferlus, M. (1979). Formation des registres et mutations consonantiques dans les langues Mon-Khmer. Mon-Khmer
Studies, VIII, 1-76. Ferlus, M. (1982a). Spirantisation des obstruantes mediales et formation du systeme consonantique du vietnamien.
Cahiers de Linguistique Asie Orientale, 11(1), 83-106. Ferlus, M. (1982b). Spirantisation des obstruantes mediales et formation du systeme consonantique du vietnamien.
Cahiers de Linguistique Asie Orientale, 11(1), 83-106. Ferlus, M. (1989-1990). Sur L’origine Des Langues Việt-Mường. The Mon-Khmer Studies Journal, 18-19, 52-59. Ferlus, M. (1994). Quelques particularités du cuôi cham, une langue viet -muong du Nghê-an (Vietnam). Neuvièmes
Journées de Linguistique de l’Asie Orientale. Ferlus, M. (1996). Langues et peuples viet-muong. The Mon-Khmer Studies Journal(26), 7-28. Ferlus, M. (1997). Le maleng brô et le vietnamien. The Mon-Khmer Studies Journal, 27, 55-66. Ferlus, M. (1998). Les Systèmes De Tons Dans Les Langues Viet-Muong. 15(1), 1-27. Ferlus, M. (2001). Les hypercorrections dans le thổ de Làng Lỡ (Nghệ An, Vietnam), ou les pièges du comparatisme.
[Hypercorrections in the Thổ dialect of Làng Lỡ (Nghệ An, Vietnam): an example of pitfalls for comparative linguistics]. Quinzièmes Journées de Linguistique d'Asie Orientale.
Ferlus, M. (2013). Arem, a Vietic Language. The Mon-Khmer Studies Journal, 43, 1-15. Haudricourt, A.-G. (1954). De l’origine des tons en vietnamien. Journal Asiatique, 242, 69-82. Haudricourt, A.-G. (1965). Les mutations consonantiques des occlusives initiales en môn-khmer. [Consonant shifts in
Mon-Khmer initial stops]. Bulletin de la Société de Linguistique de Paris, 60, 160–172. Hayes, L. V. H. (1992). Vietic and Viet-Muong: a new subgrouping in Mon-Khmer. The Mon-Khmer Studies Journal, 21,
211-228. Hồng, N. Q. (2015). Tự điển chữ Nôm dẫn giải. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Huffman, F. E. (1976). The Register Problem in Fifteen Mon-Khmer Languages. Oceanic Linguistics Special
Publications(13), 575-589. Kirby, J. P. (2011). Vietnamese (Hanoi Vietnamese). Journal of International Phonetic Association, 41(3), 381-392. Kirby, J. P. (2011). Vietnamese (Hanoi Vietnamese). Journal of the International Phonetic Association, 41(3), 381-392. Lợi, N. V. (1993). Tiếng Rục. Hà Nội: Khoa học Xã hội. Lợi, N. V. (2013). Giải thuyết âm vị học của Giáo sư Cao Xuân Hạo về cách tiếp hợp: nhìn từ các đặc trưng âm học của
vần tiếng Việt (Trên cơ sở phân tích thực nghiệm bằng computer). Retrieved from https://ngonnguhoc.org/index.php?option=com_content&view=article&id=861:gii-thuyt-am-v-hc-ca-giao-s-cao-xuan-ho-v-cach-tip-hp-nhin-t-cac-c-trng-am-hc-ca-vn-ting-vit-tren-c-s-phan-tich-thc-nghim-bng-computer&catid=29:bai-nghien-cuu&Itemid=39
Phan, J. (2013). Lacquered words: The evolution of Vietnamese under Sinitic influences from the 1st century B.C.E. through the 17th century C.E. In K. Taylor, J. Lhitman, B. Rusk, & D. Warner (Eds.): ProQuest Dissertations Publishing.
Phong, N. P. (1996). The Nguồn language of Quảng Bình, Vietnam. The Mon-Khmer Studies Journal, 26, 179-190.
11
Rhodes, A. d. (1651). Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum. Rome: Propaganda Fide. Suwilai, P. (1996). Phonological characteristics of So (Thavung), a Vietic language of Thailand. The Mon-Khmer Studies
Journal, 26, 161-178. Tài, N. V. (1993). Nguồn: A dialect of Vietnamese or a dialect of Mường? The Mon-Khmer Studies Journal, 22, 231-
244. Tài, N. V. (2005). Ngữ âm tiếng Mường qua các phương ngôn. Hà Nôi: Từ điển bách khoa. Tấn, T. T. (2015). Kiểm định các đặc trưng ngữ âm của nguyên âm đôi tiếng Việt. Paper presented at the Hội thảo
Quốc tế Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội. Theraphan, T. (1987). The interaction between pitch and phonation type in Mon - phonetic implications for a theory
of tonogenesis. Mon-Khmer Studies, xv1-xvii, 11-24. Thomas, D. (1987-1988). On early Monic, Vietic and Bahnaric relations. The Mon-Khmer Studies Journal, 16-17, 177-
179. Thuật, Đ. T. (1977). Ngữ âm tiếng Việt. Hà Nội: Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Thurgood, G. (2002). Vietnamese and tonogenesis: Revising the model and the analysis. Diachronica, 19(2), 333-363.
2018-12-21 3:16:44 PM